Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Quê Hương Gò Công
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Quê Hương Gò Công
Message Icon Chủ đề: Đọc cho vui Tết Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
thonglo2003
Admin Group
Admin Group
Avatar

Tham gia ngày: 31/May/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 406
Quote thonglo2003 Replybullet Chủ đề: Đọc cho vui Tết
    Gởi ngày: 28/Jan/2014 lúc 4:04pm
Má ơi cứ gả con xa.
Để con còn có đô la gửi về.
 
Anh đi, anh nhớ quê nhà.
Nhớ em mảnh đất giá ba tỉ đồng.

Hôm qua tát nước đầu đình.
Bỏ quên di động chỗ mình...mất ngay .

Ba đồng một mớ trầu cay.
Không bằng tình nghĩa một cây vàng mười.

Yêu nhau cởi áo cho nhau.
Hôm sau: Em đã có bầu, anh ơi!

Không ham nhà cửa, bạc tiền ,
Chỉ ham anh có bố quyền chức to.

Nghèo nhân, nghèo nghĩa chẳng lo,
Nghèo tiền, nghèo bạc mới cho là nghèo.

Chồng người áo gấm xông hương,
Chồng em áo rách, em thương...chồng người.

Nhớ ai như nhớ láng giềng,
Chỉ mong tắt lửa tối đèn...có nhau.

Qua cầu ngả nón trông cầu,
Cầu bao nhiêu nhịp tốn xăng dầu bấy nhiêu.

Yêu nhau mấy núi cũng leo,
Mấy sông cũng lội,
Nhưng nếu nghèo em bỏ đi!

Râu tôm nấu với ruột bầu,
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
Tội là tội nghiệp thằng con,
Ngồi ngoài dòm miệng biết ngon là gì.

Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vứt làm nùi giẻ lau nhà cho xong.

Cô kia chải tóc đuôi gà,
Dừng chân anh hỏi một và vài câu.
Tóc em là tóc trên đầu,
Hay là em mượn ở đâu gắn vào.

Cưới vợ thì cưới liền tay,
Chớ để lâu ngày thành vợ người ta.

Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho...lòi tiền ra!

Ví dầu cầu ván đóng đinh ,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi anh dắt em đi,
Em đi không được anh đi một mình.

Thuận vợ thuận chồng, con đông mệt quá

Tự hào từ hai bàn tay trắng, ta gầy dựng nên… vô số nợ

Không có người phụ nữ xấu, chỉ có những phụ nữ không biết mình xấu

Thân em như tấm lụa đào
Quỷ tha ma bắt, lại vào tay anh!

Cá không ăn muối cá ươn,
Con không ăn muối con thiếu iốt rồi con ơi.

Làm trai bốn bể là nhà.
Cái loại giai ấy chắc là...ăn xin

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường,
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ.

Ai bảo chăn trâu là khổ,
Tôi đây chăn nàng còn khổ hơn trâu...

Má ơi đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú biết đâu mà lần.
Má ơi đừng gả con gần,
Con qua xúc gạo nhiều lần má la.

Tìm em như thể tìm chim,
Chim bay biển Bắc, anh tìm biển Đông.
Tìm chi cho lắm mất công,
Đài Loan, Hàn Quốc em dông mất rồi.
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 01/Feb/2014 lúc 9:39pm

 

CON NGỰA GIÀ TRÊN ĐẤT MỸ



(01/29/2014) (Xem: 2674)
Tác giả : Phạm Ngọc


Tết năm nay là Tết năm Giáp Ngọ, năm con Ngựa. Tôi cũng cố gắng “ học đòi” bắt chước mấy nhà văn, nhà báo, cứ năm con gì thì viết một bài “tán” về con đó để đăng báo (báo Tết hay báo số đầu năm). Dĩ nhiên vì “văn người, vợ mình” nên cách viết của mỗi người, và cái nhìn của mỗi người cũng có khác nhau.

Đến Tết năm nay tôi có mặt trên cõi đời phiền muộn nầy đúng sáu con giáp. Sáu lần mười hai là bảy mươi hai. Nhưng tính tuổi ta là bảy mươi ba. Tại sao tuổi ta lại cứ phải cộng thêm một nhỉ? Tính theo tuổi Tây thì còn phải mấy tháng nữa tôi mới đúng bảy mươi hai cái xuân già cơ mà!

Nghe mà giật cả mình, vì thời gian trôi nhanh quá!

Thời tôi còn nhỏ, cứ đến dịp Tết, ghé nhà ông bà, cô bác để mừng tuổi, thấy mấy cụ áo dài khăn đóng đạo mạo ngồi salon hay ghế tràng kỷ râu tóc bạc phơ uống nước trà nhâm nhi bánh mứt là tôi thấy vừa sợ vừa kính nể vì thấy họ oai phong quá! Họ cũng ở lưá tuổi “thất thập” hay nhỉnh hơn chút xíu như tôi bây giờ đó thôi !

Còn bây giờ, các sách báo y khoa nói là tuổi thọ kéo dài hơn, con người trẻ lâu hơn vì quá trình lão hóa chậm lại. Tôi không biết là có thật vậy không, nhưng thấy bạn bè và những người cùng lứa tuổi với tôi ai nấy vẫn lái xe chạy bon bon trên đường local hay trên freeway lo công việc trông còn ngon lành chán!

Tóc thì có người bạc phơ thật đẹp lão, có người còn muối tiêu, muối nhiều hơn tiêu, nhưng cũng có nhiều người tóc đen tuyền! Thuốc nhuộm tóc, các loại thuốc làm căng da mặt và những người thợ uốn tóc, cắt tóc, những trung tâm sửa sắc đẹp bên Mỹ nầy đã kéo dài thêm sự trẻ trung của rất nhiều người!

Tôi đi lạc đề xa quá rồi, giờ hãy quay về chuyện con ngựa già đây!

Tôi và gia đình đặt chân xuống phi trường Los Angeles đúng 12 giờ rưỡi trưa một ngày của tháng 5 cách đây 23 năm. Nhìn cái gì của nước Mỹ cũng thấy to đùng và huy hoàng tráng lệ. Trên đường từ phi trường được người thân ra đón về nhà, cả đám vợ chồng con cái chúng tôi cứ nhìn ra cửa kính xe hơi mà trố mắt ra với đường xá xe cộ chạy xuôi ngược.

Những ngày tháng đầu tiên chúng tôi ở tạm nhà người chị ruột trên vùng Corona, Riverside. Qua Mỹ ở thời điểm già thì cũng chưa đủ già để xin tiền trợ cấp, trẻ thì không còn trẻ để xin đi làm những nơi có thu nhập kha khá một chút, nên con ngựa già phải đi khắp nơi để apply công việc. Cuốc bộ hay đi xe bus thôi vì chưa biết lái xe và cũng chưa có xe để lái nữa!

Sau vài tuần ăn không ngồi rồi, tôi đã “liều mạng” lấy application xin vào làm Teachers Aide ở trường John Adams gần nhà. Hay không bằng hên: bà hiệu trưởng đã nhận tôi vào làm việc. Tôi chỉ đứng lớp chung với giáo viên chính, và khi học sinh làm bài có gì không hiểu thì giáo viên kia nhờ tôi phụ giúp. Nhàn nhã lắm, nhưng mỗi tuần chỉ làm khoảng vài giờ! Vậy là lại phải “lăm le” tìm đường “xuống núi” để tìm một công ăn việc làm khác có thu nhập khá hơn.

Không thể tìm được một công ăn việc làm thích hợp trên vùng đồi núi Riverside đó, gia đình ngựa già đành phải “dời đô” xuống Quận Cam. Tại đây tôi gặp lại được người bạn cũ thời Trung Học, đang có một phòng mạch trên đường Beach, và bạn tôi đã cho tôi vào làm thư ký phòng mạch. Hầu hết các bệnh nhân là người Mỹ, nên cũng nhờ đó mà khả năng nghe và nói tiếng Anh của tôi ngày càng tiến bộ.

Về nhà chúng tôi cố gắng nghe tin tức trên các băng tần TV Mỹ để tập phát âm cho chuẩn và cũng để luyện giọng.

Sau ba năm làm việc tại phòng mạch, thấy business của người bạn có vẻ chậm lại nên tôi xin rút lui để tìm công việc khác. Kinh tế Mỹ những năm 1992, 1993 cũng xuống dốc thê thảm như bây giờ nên tìm được một công ăn việc làm thật khó khăn. Kỹ sư, chuyên viên mà vẫn thấy thất nghiệp dài dài!

Cái lận đận của tuổi Ngọ đã bắt đầu rồi đây! Chạy hoài, chạy mãi, chạy cho đến mỏi gối chồn chân mới thôi !

Rất khó tìm được một công ăn việc làm vừa ý nên tôi đã tự nhủ lòng là sẽ làm bất cứ công việc gì để bảo bọc gia đình và lo cho hai đứa con ăn học. Công việc thứ ba của tôi kéo dài hơn 5 năm và chẳng có liên quan gì đến học hành và chữ nghĩa cả!

Tôi xin vào làm Machine Operator cho một hãng chuyên sản xuất các khung và kính chống mờ để treo trong phòng tắm (fogless mirror).

Lúc vào xin việc, ông chủ hảng hỏi tôi: “Trước đây ông đã từng làm công việc tay chân nào chưa? Vì tôi thấy trong Application ông xưa nay chỉ đi dạy và làm việc văn phòng thôi! Ông nhắm có làm nổi không?” Sau đó ông đưa tôi đi xem toàn cảnh của khu sản xuất.

Tôi cũng thấy khớp trước những cỗ máy khổng lồ cùng những anh chàng, cô nàng công nhân Mễ, người nào cũng to lớn và mập mạp hơn tôi nhiều. Nhưng tôi đã sẵn sàng, nên nhận lời làm machine operator. Và tôi đã gắn liền với Zadro Products Inc. trong năm năm, bắt đầu như thế đấy. Làm những công việc chân tay tuy nặng nề và cực nhọc thật nhưng cũng có những niềm vui riêng của nó.

Ông chủ và các nhân viên văn phòng đều rất quý trọng tôi, các công nhân đồng nghiệp trong hãng cũng vậy. Họ dễ thương và hòa đồng nhanh chóng và tính cách bảo bọc thương yêu gia đình cũng rất giống người Việt Nam chúng ta. Cứ mỗi lần lãnh lương xong là họ trích ra gửi về hơn một nửa cho gia đình bên Mexico. Tôi đã tích lũy thêm được một bài học ở đất nước nầy là cứ làm bất cứ công việc lương thiện gì để sinh sống. Không có một công việc nào gọi là hèn mọn cả.

Công việc đang suông sẻ thì vợ tôi ngã bênh nặng và phải vào bệnh viện liên tục hằng tuần. Lúc đó tôi chỉ còn biết xin nghỉ dài hạn family leave để ở nhà chăm sóc cho vợ. Giữ công việc cuả tôi được sáu tháng thì Zadro cho tôi nghỉ việc. Lần nầy tôi bị thất nghiệp lâu hơn, gần ba năm! Tôi bị sốc thật sự.

Vừa bị khủng hoảng tinh thần sau cái chết của người vợ, vừa hết tiền EDD, tôi tưởng đã gục ngã vì không còn sức để chịu đựng. Nhưng vì tôi thuộc loại ngựa cứng đầu không chịu khuất phục đầu hàng trước hoàn cảnh nên đã ghi danh đi học lại Golden West College sau hơn ba mươi năm rời xa trường lớp, chữ nghĩa. Lúc đầu tôi cũng không hiểu mình học lại để làm gì nữa, nhưng tự nhủ hãy cứ học đi để khỏa lấp bớt khoảng thời gian trống trải. Và học để xin tiền Financial Aid, có thêm chút thu nhập.

Tôi hòa đồng khá nhanh vào cuộc sống sinh viên, mỗi ngày chạy từ giảng đường nầy sang giảng đường khác kiếm lớp, trưa cũng ghé cafeteria ăn vội miếng sandwich rồi chạy đi học tiếp.

Cũng nhờ các giáo sư tận tình chỉ dạy nên tôi đã học xong chương trình AA, và sau đó đã được thâu nhận vào làm việc ở Accessment Center của trường cho đến ngày về nghỉ hưu.

Đám bạn bè cùng tuổi thường hỏi tôi là về hưu rồi ở nhà làm gì ?

Những ngày đầu tiên nghỉ hưu, tôi chẳng biết làm gì cho hết giờ. Cứ đi ra rồi lại đi vào, đi vào rồi lại đi ra giống như hoàn cảnh Lục vân Tiên trong mấy câu thơ của cụ Nguyễn đình Chiểu đã được cải biên:

“Vân Tiên cõng mẹ chạy ra
Đụng phải cột nhà cõng mẹ chạy vô…”

Tôi cũng thấy nản lắm, vì đã quen giờ giấc đi làm rồi về nhà. Nay thời gian dư nhiều quá, làm cái gì đây? Hút bụi, lau bàn ghế, đọc sách báo xong cũng vẫn thấy còn quá nhiều thì giờ dư thừa. Xem TV mãi cũng chán, và lại thêm nhức đầu, đau mắt nữa! Tôi nghĩ ra chuyện nên làm vườn, trồng cây ăn trái, chăm sóc vài bụi rau, vài khóm ớt cho vui.


Thế là ngựa già chạy ra Home Depot mua vài bao đất, vài bao compost, vài dụng cụ làm vườn về bắt đầu “cày, xới, vun, bón” khu vườn nhỏ xíu, khu vườn mà tôi thường hay hát để “ca tụng” nó “đi dăm phút đã về chốn cũ”.

Kết quả của những ngày tháng cày, xới đó là khu vườn nhỏ phía sau và cái sân (cũng nhỏ xíu) phía trước nhà xanh dờn màu lá các loại cây cảnh, cây ăn trái và hoa. Và mới năm ngoái đây thôi, bụi chuối sau hè đã ra quầy, có trái và đã được ngựa già leo lên, hái xuống đãi cả nhà, cho con cái mỗi đưa hai nải như là một kết quả công việc tay chân của ngựa già bố!

Cách đây mấy năm, lúc mới nghỉ hưu, tôi cũng đã viết vài bài gửi đăng trên Việt Báo, và cũng đã nhận được giải đặc biệt, đã đến dự lễ phát giải và đã được gặp mặt những tác giả mà tôi đã được đọc các tác phẩm của họ khi còn đi học bên quê nhà. Lúc đó vừa học xong hai lớp tiếng Việt 180 và 182 của Giáo Sư BVP tại Golden West, được GS khen là viết khá lắm, nên tiếp tục viết để giữ làm kỷ niệm cho con cháu! Không biết con cháu tôi có chịu đọc hay không, nên tôi viết gửi Việt Báo để đôc giả đọc cho vui.

Và bây giờ tôi tiếp tục viết lại sau mấy năm “treo bút” vì quá luời.

Những lúc ngồi uống café với bạn bè, tôi vẫn thường hay than thở: “Không hiểu tại sao cùng tuổi Ngọ với tau, bạn bè có đứa làm quan đến chức Tổng Trường Tài Chánh, có đứa dạy Lý Luận Văn Học ở các Đại Học bên Tây, có đứa buôn bán đất đai, nhà cửa gì đó bên Việt Nam, tiền của tụi nó đốt mình cũng chết nữa, có đứa qua bên nầy từ 75, bây giờ là Bác Sĩ, Dược Sĩ, là Giáo Sư Đại Học. Còn tau thì “tột đỉnh danh vọng” là thầy giáO, rồi đường biểu đồ cuộc đời cứ tiếp tục đi xuống đến tận cùng làm cu li trên xứ người, rồi lại ngoi lên được chút xíu làm thư ký, hết lận đận nầy đến lận đận khác, hết sự xui rủi nầy đến sự xui rủi khác đeo đuổi. Tử Vi của tau chỉ thấy tốt được có Cung Thiên Di! Vì vậy mới qua được đến xứ Mỹ nầy.

Một cô bạn khá thân thời Trung Học trả lời: “ Cũng may là anh có chữ Nhâm đỡ cho đấy, không thôi anh còn xệ hơn thế nữa!” Chị còn đưa ra thuyết nầy của Tử Vi: “Nhâm thân chi Vương” anh không biết sao? Anh nên cám ơn Ba Me anh đã sinh anh đúng vào năm Nhâm Ngọ đấy! Ở đó mà còn than với thở !”

À thì ra vì tôi tuổi con Ngựa nên phải lận đận như thế nầy đây. Và vì “Nhâm thân chi Vương”, Nhâm Ngọ trước sau gì cũng làm Vua (chắc là vua cỏ, là….. vỏ cua!) nên Ngựa quý là ngựa phải chạy đường xa, phải là loại Thiên Lý Mã mới ngon! Cứ chạy đến đích đi đã rồi mới biết hay, dỡ!

Thôi thì cứ tạm cho là như thế để sống vui, sống khoẻ, để khỏi còn lo nghĩ. Miễn sao cái Tâm của mình nhàn và vui là được.

Bây giờ tôi mới thấy câu chúc “Thân Tâm thường An Lạc” là rất đúng.

Và để thay cho lời kết, Ngựa già nầy xin kính chúc quý vị độc giả Việt Báo một Năm Giáp Ngọ Thân Tâm Thường An Lạc.


Những ngày cận Tết
Phạm Ngọc





Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 01/Feb/2014 lúc 9:40pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 01/Feb/2014 lúc 9:42pm


“Thiên tăng tuế nguyệt, niên tăng thọ
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường”
(Trời thêm tuổi mới, người thêm thọ
Xuân khắp mọi nơi, phúc khắp nhà)

“Tối ba mươi khép cánh càn khôn, ních chặt lại kẻo Ma vương đưa quỷ tới,
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ rước Xuân vào”
(Hồ Xuân Hương)

“Chiều ba mươi nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa,
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà"
(Nguyễn Công Trứ)

“Tối ba mươi, giơ cẳng đụng cây nêu
Ủa ! Tết !
Sáng mồng một, lắng tai nghe lời chúc
Ồ ! Xuân !”

“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”

Phước thâm tự hải
Lộc cao như sơn

Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết
Ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa Xuân.

Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ
Nhân bách hạnh hiếu vi tiên.
(Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa Xuân;
Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết.)

Xuân tha hương, nhấp giọt rượu sầu, nhớ vòm trời đất nước !
Tết xứ người, hớp ngụm cafe đắng, thương mảnh đất quê nhà !
(Quảng Ngôn)

Tân niên hạnh phúc bình an tiến
Xuân nhật vinh hoa phú quý lai
(Năm mới hạnh phúc bình an đến
Ngày Xuân vinh hoa phú quý về.)

Ðuột trời ngất một cây nêu, tối ba mươi ri là Tết
Vang đất đùng ba tiếng pháo, rạng ngày mồng một rứa cũng Xuân
(Nguyễn Công Trứ)

Ðấp gốc cây cao, Tết đến thắp hương thơm đèn sáng,
Khơi nguồn nước mát, Xuân về dâng trái ngọt hoa thơm.

Tối ba mươi, nợ réo tít mù, ấy mới Tết,
Sáng mồng một, rượi tràn quí tị, ái chà Xuân.

Tết có cóc gì đâu, uống một vài be củ tỏi,
Nợ đâm ương ra đó, nói ba bốn chuyện cà riềng.
(Nguyễn Công Trứ)

Ba vạn sáu ngàn ngày, góp lại chốc đà trăm bận Tết,
Một năm muời hai tháng, ước chi đủ cả bốn mùa Xuân.

Nực cười thay! Nêu không, pháo không, vôi bột cũng không, mà Tết,
Thôi cũng được! Rượu có, nem có, bánh chưng đều có, thừa Xuân.
(Tú Xương)

Ủa! Tết đến rồi đó, chẳng lẽ trơ cùi cùng tuế nguyệt,
Kìa! Xuân sang đấy ư, thôi đành mở múi với giang sơn.

Ngào ngạt mùi hương, dẫu tại đất người, không mất gốc,
Lung linh ánh lữa, dù xa quê cũ, chẳng quên nguồn.

Xuân vẫn còn dài, hướng đến tương lai vùng đất mới,
Tết dù đã ngắn, quay nhìn dĩ vãng cảnh người xưa.

Già trẻ gái trai đều khoái Tết,
Cỏ cây hoa lá cũng mừng Xuân.

Chúng nó dại vô cùng, pháo nổ đì đùng thêm mất chó,
Ông đây khôn bất trị, rượu say túy lúy lại nằm mèo
(Nguyễn Khuyến)

Đêm 30 nghe tiếng pháo nổ... Đùng !... ờ ờ... Tết
Sáng mùng 1 ra chạm niêu đánh... Cộc !... á à... Xuân

Xuân tha hương, sầu thương về quê mẹ
Tết xa nhà, buồn bã nhớ quê cha

Tết với chả xuân, sáng mì gói tối mì gói, sợ vợ buồn ngán mà không bỏ nuốt vội để mà no
Dậu rồi thì Tuất, xưa kéo cày nay kéo cày, lo chủ đuổi mệt chẳng dám ngưng làm nhanh không mất việc.

Số lông vịt xác xơ, tiền chỉ mấy xu, sắm nào được gì, nên không mong tết
Đời ve chai tan nát, tuổi đà dăm bó, cho có ai thèm, mới chẳng tiếc xuân.

Đêm ba mươi, đếm tờ lịch, ba mươi tờ buồn xa tháng cũ
Sáng mồng một, ngắm cành mai, đơn một cành vui đón năm mới.

Khoai lang sùng n
húng bột… chiên, đậm đà vị mứt mốc, thẫn thờ tưởng nhớ tết quê cha
Hột mít sượng lùi tro… nướng, thoang thoảng mùi chè thiu, đờ đẫn mơ màng xuân đất mẹ.

Tết tha hương có bánh chưng, bánh tét sao không thấy tết
Xuân viễn xứ cũng cành đào, cành mai mà chẳng gặp xuân



ST

mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 02/Feb/2014 lúc 7:01pm


Xuân Quê Ta 

***

VIDEO
Hình%20thu%20nhỏ

***
Ngày xuân mượn một bài thơ của Vương Duyđể tặng những người xa quê hương 
Hoang Phong
***
 


Ngày Tết là một dịp để trở về với gia đình, với bè bạn, với làng xóm, với quê hương, và nếu mở rộng lòng mình hơn nữa thì ngày Tết cũng là một dịp để quay về với kỷ niệm, với tuổi thơ, với một vài quãng đời xa xưa nào đó vẫn còn in đậm trong tâm thức mình.

Dù xa quê thế nhưng nơi đất khách mỗi độ xuân về, hoa vẫn nở, thời gian vẫn trôi.... Nhìn những cánh hoa "xa lạ" ấy những kẻ xa quê sao tránh được một niềm nhớ nhung nào đó thoáng hiện trong lòng mình. Vì thế cũng xin mượn một bài thơ xưa của một thi nhân thời Đường, sống cách nay đã hơn mười ba thế kỷ để tặng những người "lưu lạc" hôm nay.

            Bài thơ không có tựa, được tác giả xếp vào loại "tạp thi". Chữ tạp trong tiếng Hán có nghĩa tạp nhạphỗn tạp..., nói lên một cái gì đó không có giá trị nhiều. Thế nhưng chữtạp cũng có nghĩa là phức tạp hay rắc rối, có nghĩa là khó nói ra. Có thể là vì lý do này mà Vương Duy không sao tìm được một cái tựa thích hợp cho bài thơ của mình, hoặc cũng có thể là tác giả đã cố tình không hé lộ ý nghĩa của bài thơ qua một cái tựa nào cả, mà cứ để cho người đọc tự tìm hiểu lấy? Vương Duy là một thi nhân vô cùng kín đáo, vậy nhân ngày đầu xuân chúng ta hãy thử tìm hiểu xem ông muốn gửi gấm điều gì trong bài "tạp thi" thật ngắn của ông.

            Bài thơ như sau:
         雜詩                                Tạp Thi                  
        
君自故鄉來                     Quân tự cố hương lai,             
        
應知故鄉事                     Ưng tri cố hương sự.              
        
來日綺窗前                     Lai nhật ỷ song tiền,                   
        
寒梅著花未                     Hàn mai trước hoa vị.
            Dịch nghĩa:
Tạp thi
Này người quân tử từ quê lên,       
 Ắt rõ chuyện quê nhà.  
 Hôm đi ngang chiếc cửa sổ che tấm màn the,     
 Có thấy gốc mai của những ngày đông giá đã trổ hoa chưa?

Bài thơ khá giản dị và cũng đã được nhiều người dịch. Chỉ xin đơn cử một vài bài tiêu biểu sau đây:       
Tạp Thi
Ở quê anh mới tới đây,    
Việc quê anh biết đổi thay thế nào.         
Hôm đi, trước cửa buồng thêu,       
Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?
                      Trần Trọng Kim dịch
Tạp Thi
Nghe tin bác ở quê ra,   
Em sang hỏi chút chuyện nhà xem sao.  
Nhà em mé cổng bước vào,    
Gốc mai nay đã nụ nào hay chưa?

        Thu Tứ dịch  

Tạp Thi
Vừa hay Bác ở quê ra      
Việc Quê hẳn Bác rành mà…” sáu câu”        
Trước song ngày lại sắc màu ?...     
Hàn mai đà nở ? ;đùa nhau;…mấy cành?      
Lại Quang Nam dịch                                                 



                Tất nhiên bài thơ này của Vương Duy cũng đã được dịch sang các ngôn ngữ Tây Phương, và chỉ xin trích ra đây hai bài bằng tiếng Anh:
Random Poem
You also come from my home town,      
You must know all the home town news.       
At dawn, before the silken window,      
Is it too cold for plum blossom to show?       

(Trích trong: The World's Poetry Archive, Cl***ic Poetry Series, 2004, Wang Wei poems, tr. 38)
 
Lines
You who have come from my old country,      
Tell me what has happened there ! –    
Was the plum, when you p***ed my silken window,       
Opening its first cold blossom?
                      Witter Bynner dịch
(xin lưu ý là các chữ in đậm không được trung thực lắm với ý nghĩa trong bài thơ gốc)



            Trong số các bản tiếng Việt tham khảo thì có lẽ bản dịch của cụ Trần Trọng Kim là tương đối "khá gần" với ý tứ và xúc cảm trong bài thơ của Vương Duy. Dầu sao nếu dùng thể thơ lục bát để dịch thơ Đường thì thường là không được thích hợp lắm, bởi vì nhạc và vần của lục bát quá khác biệt với âm hưởng tạo ra bằng cách đối âm và đối chữ trong các thể thơ Đường, do đó rất khó để chuyển tải một cách trung thực xúc cảm trong các thể thơ này. Tuy nhiên hai câu thơ cuối cũng trên đây cũng đã được cụ Trần Trọng Kim dịch rất khéo, tuy không làm nổi bật được ý mà Vương Duy muốn nói lên.

            - Bản dịch tiếng Anh thứ nhất trên đây dịch tựa là "  Bài thơ ngẫu hứng"   thật khéo. Thế nhưng hai câu thơ cuối thì lại hoàn toàn "lạc đề":
.........................................      
Lúc hừng đông, trước cửa sổ màn the   ,
Phải chăng trời còn quá lạnh để gốc mận có thể đơm hoa?       


        - Bản tiếng Anh thứ hai dịch tựa là "Vài hàng" và hai câu cuối là:     
..........................................     
Khi đi ngang cửa sổ che tấm màn the của nhà tôi,         
Bạn có thấy gốc mận đã trổ những cánh hoa lạnh đầu mùa hay chưa?

            Trong tất cả các bản dịch đã được tham khảo, tiêu biểu là các bản trên đây, đều cho thấy ý nghĩa của hai câu cuối không "thống nhất" với nhau, thế nhưng đấy lại là hai câu quan trọng nhất của cả bài thơ. Cũng xin nêu thêm một chi tiết nhỏ là cây mai ở đây có nghĩa là cây mơ hay cây mận (prunier / plum tree), bởi vì ở các vùng ôn đới không có cây mai vàng như ở miền Nam Việt Nam. Dầu trong trường hợp nào thì đấy cũng là một loại cây có hoa nở rộ vào mùa xuân.



            Trở lại với ý của toàn bài thơ thì thật ra cũng chẳng có gì là bí hiểm lắm. Hai chữ  và song trong câu 3 (Lai nhật ỷ song tiền) giúp chúng ta có thể đoán được ý mà Vương Duy muốn nêu lên. Chữ  có nghĩa là vải the hay tấm lụa thêu, và cũng có nghĩa là đẹp. Chữ  có nghĩa tương đương với chữ sa, là một loại lụa mỏng hay vải thưa. Chữ song có nghĩa là cửa sổ, trong Kiều có câu: "Gương nga chênh chếch dòm song" (câu 173). Nếu đem ghép hai chữ song và sa với nhau thì có nghĩa là chiếc cửa sổ che lụa mỏng hay the, tức là phòng của một người con gái. Trong Kiều có câu: "Song sa vò võ phương trời, Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng" (câu 1267 và 1268) nói lên sự mong chờ của Thuý Kiều. Hai chữ hàn mai có thể hiểu là gốc mai hay cành mai giữa mùa đông chưa đơm hoa trổ lá, thế nhưng theo nghĩa bóng thì cũng có thể hiểu cành mai lạnh là một cô bé ngây thơ và vô tư chưa biết rung cảm là gì. Đây là một cách so sánh mang tính cách ẩn dụ.

            Cách phân tích ý nghĩa của từng chữ trên đây cho thấy thật hết sức rõ ràng là Vương Duy có ý hỏi người ở quê lên là "người con gái ấy nay thế nào, khi xưa lúc mình ra đi thì cô bé vẫn còn thơ dại, ngày nay đã dậy thì và trổ mã hay chưa?". Biết đâu Vương Duy cũng đã ghé vào tai hỏi nhỏ người quen ở quê lên để hỏi về chuyện này, vì thế nên bài thơ cũng chỉ thuộc vào loại "tạp thi".



            Ngoài ra bài thơ của Vương Duy còn mang một ý nghĩa phụ nữa, đấy là người ra đi đã lâu ngày và chưa lần nào trở lại quê nhà. Thật vậy ngày xưa ra đi cũng khó, mỗi lần trở về cũng không phải dễ. Đường xá hiểm trở, phải đi bộ, dùng ngựa, thuyền, hay ghe, không những gian nan mà còn sợ cả tai nạn xảy ra và cả các bọn cướp đường. Ngày nay tuy phương tiện tân tiến hơn thế nhưng đôi khi cũng vì những lý do khác mà mình chưa có dịp trở về cố hương. Ngày xuân nơi quê người chợt nhớ đến kỷ niệm của những ngày xưa năm cũ, nên cứ hễ gặp được ai quen vừa từ quê sang chơi thì hay hỏi chuyện quê nhà. Chỉ tiếc rằng trong bài thơ không thấy Vương Duy hỏi han gì đến cha mẹ hay bạn bè, mà chỉ thắc mắc về cô bé hàng xóm bên cửa sổ sau chiếc màn the.

            Sau đây cũng xin mạn phép tạm dịch bài "tạp thi" của Vương Duy như sau:
Ngẫu hứng
Này người khách đến, cố hương xa,     
Đôi lời han hỏi chuyện quê nhà.   
Có thấy màn the bên song cửa,       
Mai lạnh ngày xưa đã trổ hoa?      
            30.01.14



            Trên đây chỉ là vài lời phỏng đoán ý nghĩa của vài dòng "tạp thi" của một thi nhân thời Đường, nhằm gửi tặng những người "lưu lạc". Thế nhưng riêng đối với những người tu tập Phật Giáo thì có nên rung đùi bên tách trà thơm mà hồi tưởng lại những chuyện quá khứ đại loại như thế hay không?

            Thật vậy cũng có những người biết nhìn thẳng vào hiện thực dưới một góc cạnh khác hơn. Người con gái ngày xưa biết đâu hôm nay đang tay bồng tay dắt, đầu tắt mặt tối, Tết nhất đến nơi, lu bu mua sắm cho ba ngày Tết. Thế nhưng cũng biết đâu: đứa thì khóc, đứa thì la, ngược xuôi chạy nợ... Nếu nhìn bao quát hơn thì chúng ta tất sẽ thấy vô thường không những chỉ vận hành trong bối cảnh bên ngoài như trên đây mà còn tác động trên thân xác và cả bên trong tâm thức của mỗi con người chúng ta nữa. Người con gái e thẹn ngày xưa và cả chính mình trước đây không còn nữa. Mỗi con người đều liên tục biến đổi tùy thuộc vào nghiệp và bản năng thúc đẩy mình. Nếu ngồi mơ màng tưỏng nhớ đến bóng dáng một cô bé thấp thoáng sau tấm màn thưa thì đấy chỉ là cách cho thấy mình rơi ra bên ngoài hiện thực.

            Tuy nhiên cũng có một số người có thể quán thấy xa hơn thế nữa, họ vượt lên cả những biểu hiện của vô thường để nhìn thấy bản chất đích thật của mọi hiện tượng. Chỉ cần giới hạn trong lãnh vực văn chương cũng đủ để thấy rằng thi phú cũng chỉ là ngôn từ, và ngôn từ thì cũng chỉ là quy ước. Một bài thơ gồm một số ngôn từ sắp xếp theo một quy luật nào đó cũng chỉ nhằm gợi lên một số xúc cảm để tự đánh lừa mình và đánh lừa người khác. Chẳng phải là rung đùi để thưởng thức bài thơ trên đây cũng chỉ là một cách tự tách rời mình ra bên ngoài hiện thực hay sao?

            Tuy nhiên thi phú dưới một khía cạnh nào đó cũng có thể xem như một phương tiện hay một công cụ tận dụng sức mạnh của xúc cảm để hướng tư duy theo một chiều hướng mà mình mong muốn. Nếu là người tu tập, và dù mình là người làm thơ hay thưởng thức thơ, thì cũng nên ý thức điều này để không rơi ra bên ngoài con đường mà mình đang bước đi.



             Vương Duy làm quan dưới triều vua Đường Huyền Tông, thế nhưng sau khi An Lộc Sơn đánh chiếm Trường An thì ông không bỏ trốn theo Đường Huyền Tông. An Lộc Sơn bắt ép ông trở ra làm quan, và chỉ được một thời gian sau thì ông xin rút lui vì bất mãn. Khi Đường Huyền Tông khôi phục lại ngai vàng thì đáng lý ra ông phải tội phản, thế nhưng nhờ người em là Vương Tấn làm quan to nên xin tha cho ông và sau đó lại được làm quan trở lại. Người ta cho rằng đến lúc tuổi già thì ông bắt đầu chán ngán lợi danh nên đã tu thiền.

            Ngoài ra cũng xin kể thêm trường hợp của nhà thơ Tô Đông Pha (1037-1101). Người ta thường ca ngợi các bài "thơ thiền" thật tuyệt vời của ông. Thế nhưng ông cũng chỉ là một người thất chí, bị vua Thần Tông giáng chức và cử đi làm tri huyện Hàng Châu, một thị trấn bé xíu vào thời bấy giờ. Một hôm ông gửi một bài cho thiền sư Phật Ấn xem và cứ đinh ninh vị sư này tất sẽ phải khen mình. Thế nhưng Phật Ấn phê ngay một câu là "đồ đánh rắm" (độc giả có thể xem giai thoại này trong một bài viết ngắn mang tựa là Tám mối lo toan thế tục trên Thư Viện Hoa Sen).
 


           Sự kiện nêu lên vài nét về cuộc đời của các thi nhân lừng danh trên đây không hề có ý chê trách mà chỉ để nói lên một sự tương phản nào đó nơi mỗi con người, một sự giằng co giữa bản năng và những xúc cảm thanh cao và thoát tục trong lòng mình. Vương Duy không phải chỉ viết các bài tạp thi đại loại như trên đây mà còn trước tác nhiều vần thơ thật sâu sắc, chẳng hạn như trong bài sau đây:

酬張少府                 Thù Trương thiếu phủ                                
晚年惟好靜,         Vãn niên duy hiếu tĩnh,           
萬事不關心。         Vạn sự bất quan tâm.      
自顧無長策,         Tự cố vô trường sách,     
空知返舊林。          Không tri phản cựu lâm.                                   
松風吹解帶,          Tùng phong xuy giải đới,             
山月照彈琴。           Sơn nguyệt chiếu đàn cầm.
君問窮通理,           Quân vấn cùng thông lý,    
漁歌入浦深。            Ngư ca nhập phố thâm.

            Xin tạm dịch nghĩa như dưới đây:
Mời rượu vị quan phủ trẻ họ Trương
Về già chỉ muốn được yên thân,   
Không còn quan tâm đến bất cứ gì nữa cả.   
Xưa nay cũng chẳng giỏi giang gì,
Nay cũng không biết làm gì hơn ngoài việc quay về với khu rừng cũ.
Gió xuyên qua các cành tùng làm tung bay dải thắt lưng.   
Trăng trên núi rọi xuống chiếc đàn cầm.      
Nếu ai đấy có hỏi cái lý lẽ cuối cùng là gì?  
Thì có nghe chăng tiếng hát của người câu cá xa tít trên bến sông?

        Tất nhiên là bài thơ này cũng có nhiều bàn dịch sang tiếng Việt và cả các ngôn ngữ Tây Phương. Xin trích dẫn dưới đây một vài bản dịch tiêu biểu: một bằng tiếng Việt, một bằng tiếng Pháp và hai bằng tiếng Anh, nhằm nêu lên vài quan điểm và cách dịch khác nhau, hầu giúp chúng ta tìm hiểu cặn kẽ hơn về bài thơ gốc của Vương Duy:
  
          Bản dịch tiếng Việt của Trần nhất Lang:
Mời rượu huyện uý họ Trương
Chuỗi ngày còn lại sống âm thầm,  
Mọi việc trên đời chẳng để tâm.     
Đã biết tập bầy mưu chẳng có,       
Thà về trở lại núi xưa thăm.    
Gió thông phất phới bay tà áo,       
Trăng núi lung linh rọi phím cầm.  
Cái lẽ "Cùng Thông" người mới hỏi,      
Hãy nghe chài hát vọng bên đầm.

            Bản dịch tiếng Pháp của Sophie Annah:                  
Sur le tard, je n’aime que la quiétude
Sur le tard, je n’aime que la quiétude.  
Loin de mon esprit la vanité des choses.       
Dénué de ressources, il me reste la joie
De hanter encore ma forêt ancienne.
La brise des pins me dénoue la ceinture;      
La lune caresse les sons de ma cithare.
Quelle est, demandez-vous, l’ultime vérité? 
Chant de pêcheur, dans les roseaux, qui s’éloigne

            Không thấy dịch giả dịch tựa của bài thơ mà chỉ mượn câu thơ thứ nhất để làm tựa. Thật vậy tựa của bài thơ của Vương Duy khá rắc rối, không thấy bản dịch nào dịch thật sát nghĩa: chữ thiếu phủ có nghĩa là vị quan phủ trẻ tuổi, không có nghĩa là vị phó phủ hay uý phủ. Tựa bài thơ cho thấy Vương Duy mượn ý trong bài thơ này để tâm sự với một vị quan còn trẻ trước khi rút lui vào nơi ẩn dật.



            - Bản dịch tiếng Anh thứ nhất:
To The Honorable Magistrate Zhang
As of late, all I like is quiet.  
Far from my mind  
the vanity of things.       
Stripped of all resources,      
what I have left is the joy      
Of hanging around again      
in my old forest.
The breeze in the pines  
undoes my sash;     
The moon caresses the sounds       
of my dulcimer.      
What is, you ask,    
the ultimate truth? 
Song of the fisherman    
in the reeds, fading into the distance….
                                                Grace Gravelle dịch

            - Bản dịch tiếng Anh thứ hai dưới đây không thấy dịch tựa bài thơ:
Life at dusk, in careless quiet.       
The tasks are done, my mind turned free:       
No more career to plan for,     
Only the hills have work for me.     
Pine-winds blow on my loosened sash,   
Moon lights upon my lute-plucking hand.       
You asked about duty. All I know: 
A fisherman’s tune drifts up from the river.
                                                David Warren dịch

            Tất nhiên là các bản dịch trên đây, nhất là các bản dịch sang các ngôn ngữ Tây Phương, cho thấy có nhiều chỗ không đúng hoặc hiểu sai. Chúng ta sẽ không phân tích toàn bộ các bản dịch trên đây, mà chỉ chú trọng đến hai câu thơ cuối cùng là câu 7 và câu 8 mà thôi, và đấy cũng là hai câu sâu sắc nhất trong toàn bài thơ.

            Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu các chữ quan trọng nhất trong hai câu này. Trong câu 7 (Quân vấn cùng thông lý): chữ thông có nghĩa là thông suốt không có gì cản trở; chữ cùng có nghĩa là tột cùng; chữ  gốc từ chữ lý học là một triết thuyết thuộc lãnh vực luận lý. Tóm lại ba chữ cùng thông lý có nghĩa là "cái lý thông suốt tột cùng" hay là "cái nguyên lý tối thượng" của hiện thực. Bản dịch tiếng Việt giữ nguyên tiếng Hán là "Cùng Thông" khiến người đọc khó hiểu ý nghĩa là gì. Bản tiếng Pháp và bản tiếng Anh thứ nhất dịch là "sự thật tột cùng" hay "tối thượng" (vérité ultime / ultimate truth) rất hay và rất đúng. Bản tiếng Anh thứ hai dịch là nghĩa vụ hay trách nhiệm (devoir / duty) là hoàn toàn sai.



            Trong câu 8 (Ngư ca nhập phổ thâm): chữ phổ có nghĩa là bến sông, bờ sông hay ven sông. Chữ này khiến liên tưởng đến hai câu tuyệt tác của Bà Huyện Thanh Quan:
Gác mái ngư ông về viễn phố,         
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.

            Viễn phố có nghĩa là bến sông xa. Hình ảnh của một buổi hoàng hôn đang buông xuống với những tia nắng thấp cuối cùng, một lão già câu cá ghé vào một bến sông xa tít và một cậu bé chăn trâu gõ sừng để thúc trâu quay về một thôn ấp hẻo lánh, biết đâu cũng đã mở ra một bầu không gian mênh mông và gợi lên sự quay về một nơi nào đó thật êm ả và sâu kín trong lòng mỗi người trong chúng ta? 
Bản tiếng Pháp dịch hai câu thơ thứ 7 và 8 là:     

     Nếu bạn hỏi tôi sự thật tối hậu là gì?        
    [Thì cứ hãy lắng nghe] tiếng hát của gã đi câu xa dần trong những bờ lau sậy. 

Bà Huyện Thanh Quan là một thi nhân và một nhà Hán học, tất bà cũng đã từng đọc hai câu thơ trên đây của Vương Duy.      

    - Bản tiếng Anh thứ nhất dịch haì câu này là:    
    Bạn muốn biết sự thật tối hậu là gì à?      
    Đấy là tiếng hát của gã đi câu xa dần trong những bờ lau sậy.        

    - Bản tiếng Anh thứ hai dịch là:  
    Bạn muốn hiểu trách nhiệm là gì à? Những gì tôi hiểu:   
    Đấy là tiếng hát của gã đi câu vang xa trên dòng sông.



            Hai câu thơ của Vương Duy không những tuyệt vời trên phương diện thi pháp mà còn nói lên cả một quan điểm vô cùng sâu sắc trong Phật Giáo: đó là tính cách vô nghĩa trong tất cả các sự thắc mắc của con người. Ngôn từ cũng chỉ là các quy ước giả tạo và hạn hẹp. Một trong các phương pháp trong giáo lý nhà Phật giúp đánh thức con người và đưa họ ra khỏi những sự vướng mắc quy ước và khái niệm, là cách đánh lạc hướng tâm thức họ và cắt đứt dòng tư duy vô minh đang khuấy động họ, bằng một sự yên lặng tuyệt đối hoặc bằng cách bất ngờ chuyển tâm thức họ và dòng tư duy của họ sang một thứ gì đó thật phi lý. 

Đấy là cách giải đáp và đồng thời cũng không giải đáp những thắc mắc đang bùng lên trong đầu họ. Hai câu thơ trên đây của Vương Duy xứng đáng là một công án Thiền Học với tất cả ý nghĩa của nó.
 
Hoang Phong
Bures-Sur-Yvette, 31.01.2014 (mùng một Tết Giáp Ngọ)


 
 ***


http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-112_4-19861_5-50_6-3_17-173_14-1_15-1/ngay-xuan-muon-mot-bai-tho-cua-vuong-duy-de-tang-nhung-nguoi-xa-que-huong.html



Ngày xuân mượn một bài thơ của Vương Duy để tặng những ngư





mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 02/Feb/2014 lúc 8:25pm

Tết Nguyên Đán ....có từ đâu?

Tết Nguyên Đán là của người Việt

 

Sắp đến Tết Ta là Viễn Xứ cảm thấy buồn buồn, tủi tủi vì nghe nhiều người nói là New Year of China!!! (người ngoại quốc không biết đã đành nhưng nhiều người Việt cũng nói như vậy....thật là buồn)

 

Thật ra Tết Nguyên Đán là Tiết lễ đầu tiên của năm, bị người Trung Quốc (chôm) của dân Việt ta....

Tết:do chữ Tiết (thời tiết) mà ra.

Nguyên:bắt đầu.

Đán:buổi sáng sớm.

Vậy Tết Nguyên Đán tức là Tết bắt đầu năm, mở đầu cho một năm mới.

Một câu hỏi đôi khi được đặt ra: Tại sao tiền nhân chúng ta không chọn tháng 3 để tổ chức Tết Nguyên Đán, như các dân tộc Miên, Thái hoặc Lào hoặc một tháng nào đó trong năm mà lại chọn đúng vào ngày đầu tháng Giêng âm lịch. Người Trung Hoa sau này cũng trọn cùng ngày này làm ngày Tết của họ. Vì sự trùng hợp ngẫu nhiên (hay chôm văn hóa của ta) này thêm vào sự liên hệ giữa hai dân tộc Hoa - Việt vốn đã có hàng nghìn năm trước khi Trung Hoa đô hộ nước ta, nên nhiều người VỘI CHO RẰNG dân tộc ta bắt chước người Trung Hoa về thời gian mừng Tết Nguyên Đán.

Thật ra, đây chỉ là sự ngộ nhận.

Dựa vào lịch sử Trung Hoa, trải qua nhiều triều đại, chúng ta được biết người Trung Hoa có tục lệ mừng Tết Nguyên Đán không phải vào đầu tháng Giêng âm lịch như hiện nay mà thật ra thời gian được chọn để tổ chức mừng Xuân được thay đi đổi lại rất nhiều lần. Chẳng hạn, vào
đời Tam Vương nhà Hạ, người Trung Hoa chọn tháng Dần đầu năm để mừng Xuân. Đến đời nhà Thương người ta đổi lại tháng Sửu tức tháng Chạp. Qua đời nhà Chu, người ta lại chọn tháng Tý, tức tháng Một. Ba vị vua trên đây không phải vô cớ, tùy hứng mà chọn những tháng đó, mà là họ đã dựa vào ý nghĩa tốt xấu, căn cứ theo ngày giờ lúc mới tạo thiên lập địa. Họ tin tưởng giờ Tý là giờ thành, giờ Sửu đất nở và giờ Dần sinh ra người.

 

Đến đời nhà Đông Chu, Khổng Tử một lần nữa noi theo nhà Hạ, đổi lại ngày Tết vào tháng Dần. Qua đời nhà Tần người ta lại thay ngày Tết vào tháng Hợi tức tháng Mười. Cuối cùng, khi nhà Hán lên ngôi, bấy giờ người Trung Hoa lại noi theo gương Khổng Tử chọn ngày đầu tháng Dần, tức tháng Giêng để mừng Tết.

Mừng xuân vào dịp đầu năm âm lịch nói là của người Trung hoa là hoàn toàn không chấp nhận được.

Tiền nhân chúng ta khôn ngoan, lại xuất thân từ giới nông dân. Sở dĩ các ngài chọn ngày đầu năm âm lịch để tổ chức Tết Nguyên Đán, vì thời gian này nhằm vào đúng mùa xuân, một mùa đẹp nhất trong năm với thời tiết mát mẻ, dịu dàng, cây cối đâm chồi nẩy lộc, khoe thắm sắc hương và mang một màu sắc xinh tươi, mới mẻ rất thích hợp trong việc thăm viếng bà con, thân thuộc, bạn bè.

 

http://acp.ketquaveso.com/upload/editor/thoi_tiet_tet_nguyen_dan_giap_ngo_2014.jpg

 

Đây cũng là khoảng thời gian mà mọi công việc đồng áng đã hoàn tất, lúa gặt xong và được đem chứa vào những lẫm lúa. Người nông dân chân lấm tay bùn, sau một năm vất vả với công việc đồng áng, giờ đây được thảnh thơi hoàn toàn có thể cùng nhau hội họp, liên hoan, ăn uống vui vẻ với nhau để tỏ lòng biết ơn đối với Trời Đất và tưởng nhớ đến tổ tiên, ông bà cha mẹ, những người thân yêu ruột thịt đã qua đời!

Tết Nguyên Đán trước đây ta gọi là Tết Nhàn là Tết cổ truyền có từ thời Hùng Vương, sử cũ vốn ta có 12 tháng nhưng cách tính khác ngày này, 1 năm bắt đầu từ tháng chạp tức tháng 12, vì khi ấy dân ta bắt đầu hoạch lúa, tới tháng giêng thì xong, ngày đầu tháng giêng người Âu Lạc có tục cúng lễ tạ ơn tổ tiên trời đất sau 1 mùa lúa nước, ngày Tết diễn ra từ ngày 1/1 cho tới hết 30/3 và kết thúc là lễ hội ngày mùa để bắt đầu 1 vụ cấy mới, ngày Tết này ta sẽ thấy đến đời Hán Vũ đế bên Trung Hoa mới có, còn ta thì ai xem tích Bánh Trưng Bánh Dày thì đều thấy cả, mà tích này là từ thời Hùng Vương thứ 6 tức là trước đời Tần Thủy Hoàng rất là lâu chừng khoảng hơn 1000 năm, vậy mà ngày nay nó lại mang tên New Year of China.

Viễn Xứ hy vọng chúng ta cùng nhau chia sẽ, để cho người Ngoại Quốc cũng như con cháu chúng ta hiểu biết nhiều hơn về Lịch Sử và Văn Hóa dân tộc Việt.

P.S. vẫn còn nhiều thứ mà người Trung Hoa đã chôm văn hóa của người Việt ta rồi nhận là của họ alt

 

Viễn Xứ









mk
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.145 seconds.