Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: BÀI ĐÃ ĐỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
Trang  of 5 phần sau >>
Người gởi Nội dung
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Chủ đề: BÀI ĐÃ ĐỌC
    Gởi ngày: 21/Oct/2008 lúc 5:26pm
Ngồi trong nhà nhìn những giọt mưa thu rơi trên sông Saint Laurent tôi không hiểu tại sao "mùa thu năm nay tôi thấy lòng lâng lâng". Vừa đọc xong bài "Mùa thu nhớ tằm" của Binh-Nguyên Lộc, một trong Tam Kiệt (với Hồ Biểu Chánh và Lê văn Trương).
Thấy hay hay, xin chép ra đây để các thân hửu cùng thưởng thức:
 

Mưa thu nhớ tằm

Bình-nguyên Lộc

 

Lời tác giả - Bài văn nầy nằm trong tập hồi ký nhan đề là “Nếu tôi nhớ kỹ”, tác giả trích ra đăng ở đây để ghi nhớ rằng tất cả các truyện trong tập  Mưa thu nhớ tằm”, trừ hai truyện “Kẻ đào ngũ” và “Xác không chôn” đều viết cùng một mùa với hồi ký “Mưa thu nhớ tằm”, tức vào mùa thu 1956.

 

Thương tằm cổi áo bọc dâu,

Ngỡ tằm có nghĩa hay đâu bạc tình

(Ca dao địa phương Nam Ngãi)

 

Những năm tôi đi tìm “tài liệu sống” để viết tiểu thuyết Phù-Sa, tôi được dịp tiếp xúc với nhiều người khác thường họ đã mở cửa sổ lòng cho tôi nhìn những chơn trời kỳ lạ hết sức.

Dưới đây xin kể một mẩu truyện nhỏ để minh họa nhận xét trên.

Đi đường Trương Minh Giảng để ra ngoài đô thành, khi qua khỏi Cầu Mới, bên tay mặt khách, đâm ra một con đường phố mới, chưa có tên, tạm gọi là Lộ 18 [1][1].

Bên phía tay mặt phố là một xóm nhà lá khá sầm uất, có cả một cái chợ chồm hổm nơi đó, tục gọi là chợ Bà Y.

Đó là xóm nhà của đồng bào Quảng Nam - Quảng Ngãi tới đây lập nghiệp từ lâu, kẻ trước người sau, từ hơn hai mươi năm nay.

Người ta giới thiệu tôi với gia đình ông Y, mà tên của người vợ được lấy đặt tên chợ.

Ông Y, là một bác thợ dệt, gốc ở phủ Điện-Bàn, tỉnh Quảng-Nam, vào đây sanh sống từ những năm đói kém tiền chiến.

Bác ta làm công cho một xưởng dệt Khách ở Chợ-Lớn.

Hôm tôi vào xóm Quảng-Nam năm ấy, trời giữa thu như độ nầy.

Mưa dầm không nặng hột cứ rơi mãi không thôi. Thế mà khi tôi bước vào nhà với một người bạn thì chúng tôi bắt chợt bác Y đang làm công việc gì đó ngoài sân. Chúng tôi phản đối lấy lệ khi bác bỏ làm để tiếp khách. Nhưng quả thật chúng tôi không buồn xem cho biết công việc của bác thuộc vào loại gi.

Cũng như ở các ngoại ô xa khác, xóm nhà lá nầy khá nên thơ: Sân cát, quanh nhà trồng tre sống mà những mụt măng gợi nhớ nhà quê.

Tôi hỏi thăm bác Y về đời sống hằng ngày ở Quảng-Nam, hỏi tên những cây mọc dựa đường, tên địa phương của dụng cụ nông nghiệp v..v..và xin bác đọc cho chép một mớ ca dao địa phương mà bác nhớ.

Bác Y, lơ đãng trả lời, tỏ ra, không phải không trọng khách, nhưng bực bội về những đề tài bác không thích.

Được dịp tiếp xúc với thợ kỹ nghệ, tôi khá sành tâm lý họ. Phần đông thích nói chuyện nghiệp đoàn, chuyện giải trí ở châu thành, hoặc khoe nhà máy. Nếu lúc đó tôi hỏi bác ta xưởng bác sản xuất mấy vạn khăn lông mỗi tháng chắc bác ta nồng nhiệt trả lời, kể ra hằng tá chi tiết rất khô khan. Nên chi tôi không ngạc nhiên và thất vọng lắm về vẽ lạnh lạt của bác.

Cuộc “phỏng vấn” đã chấm dứt, nhưng trời cứ mưa hoài, nên chúng tôi ngại ra về.

Ngồi nhìn giọt tranh mãi cũng chán, nên tôi lén quan sát người chủ nhà hà tiện lời kia. Bỗng tôi sực nhớ một cử chỉ của bác ta mà tôi bỏ qua từ lúc khởi đầu nói chuyện với bác: là mắt ông Y luôn luôn nhìn ra góc trái sân nhà và không bao giờ rời chỗ đó cả.

Chà, bậy quá, tôi nghĩ thầm. Té ra bác ta có một công việc quan trọng nơi đó mà phải bỏ dở vì mình. Tôi nhìn theo chỗ ngó của ông Y. Qua những làn mưa tro trắng đục, tôi thấy lơ thơ vài bụi sả đang ngã nghiêng trước gió. Phía sau mấy bụi sả là một cây dâu già, to bằng cây ổi bốn năm tuổi.

Nước mưa thoát ra đường mòn trước nhà do góc rào đó và mài khuyết đất quanh gốc dâu. Một cái mương nhỏ đang đào dở chừng để xuyên tạc đường nước, bấy giờ đã bể bờ và nước lại trở về đường cũ.

Thì ra hồi nãy bác Y đang bận cứu cây dâu, chừng như quí lắm nên bác ta mới dầm mưa mà làm việc và hiện đang sốt ruột trông thấy.

- Cây dâu nầy bác trồng à ?

- Dạ, trên mười năm rồi !

- Để làm gì, rơ miệng cho các cháu ?

Ta có tục tẩy lưỡi trẻ con bằng lá dâu vì thứ lá nầy nhám.

- Dạ không, tôi không có con.

- Vậy để đuổi tà ma?

Bác Y mỉm cười:

- Tôi không sợ ma quỉ cho lắm.

Mặt bác Y giãn ra, bớt vẻ băn hăn bó hó.

- Chớ bác trồng dâu làm gì ?

- Để cho nó giống làng tôi. Trong Nam nầy, ít khi tôi được thấy cây dâu lắm, nhứt là ở Sài-gòn.

- Ngoài bác, người ta trồng dâu nuôi tằm hả ?

Nghe nói tiếng „tằm”, mắt bác Y bỗng sáng lên rồi ươn ướt.

Tôi chợt hiểu bác ta, kéo ghế ngồi xít lại gần bác rồi hỏi thêm, giọng cố thân mật:

- Cây dâu khiến tôi nhớ tằm. Có phải để...

Bác Y bẽn lẽn như con gái bị người ta đoán trúng tim đen, nhưng lại sung sướng đến mọc óc trên da mặt.

Bác quên tôi là người lạ, nắm lấy tay tôi, nói một thôi không ngớt:

- Những ngày trời ủ dột như vầy, tôi nhớ nhà thì ít mà nhớ tằm sao mà như nhớ người tình nhơn đầu. Tôi nhớ “hén” lạnh, tôi nhớ “hén” đói vì dâu ướt át suốt ngày, khó tìm ra dâu ráo cho “hén ăn”.

Bác Y nói đến con tằm mà y như người ta nói đến một người bạn, dùng tiếng “hắn” để kêu nó, và cái giọng Quảng-Nam biến hắn ra hén, nó bùi ngùi làm sao buổi trưa hôm đó.

- Nên tôi trồng cây dâu nầy, bác Y tiếp, để sáng sáng, chiều chiều ra nhìn lá mà nhớ hén. Nhiều đêm, nằm vừa thiu thiu ngủ là tôi nghe văng vẳng tiếng rào rào, ngỡ hén đang ăn lên, tôi vụt ngồi dậy rờ quanh thì không có gì hết.

Buồn quá tôi thắp cây đèn dầu, chạy ra sân soi vào lá với hy vọng hão huyền tìm gặp một con tằm hoang.

Lạ thật! Ngày xưa, cách đây mấy ngàn năm, tằm vẫn ở hoang chớ phải không thầy? Nhưng sao bây giờ không có tằm hoang nữa. Tôi trồng cây dâu nầy mười năm, mỗi đêm mỗi trông đợi mà không bao giờ gặp tằm hoang cả.

Lúc ấy từ nhà ai ngoài sau, vọng đưa ra tiếng hát ru con. Tiếng ấy hát rằng:

Ù... Ơ... Em tôi buồn ngủ buồn nghê,

Con tằm đỏ chín, con đê đỏ mùi.

Nghe hát, bác Y chụp nói:

- Thầy có thấy tằm “hén”chín đỏ bao giờ chưa? Trời, nó khéo[2][2] và nó dễ thương làm sao! Hén ngủ “thức lớn” rồi hén thức chơi với mình suốt bảy ngày, rồi hén “chộ”.  Xong là hén chín. Ban đầu một vài con, rồi cả nong đều chín đỏ như người bạn trung thành đang đau khổ dồn hết bao nhiêu máu huyết lại để chuẩn bị nhả tơ cho ta dùng. Thương biết bao nhiêu!

À, thầy nên chép câu ca dao nầy mà hồi nãy tôi quên:

Thương tằm cổi áo bọc dâu,

Ngỡ tằm có nghĩa, hay đâu bạc tình.

Con tằm hén giống như đứa con èo uột. Hén hay đau ốm lắm. Mình cực khổ với hén hết sức mà lắm khi hén bạc tình, hén lăn ra chết ráo nạo từ nong nầy qua nong khác. Mà có lẽ cũng vì hén như hũ mắm treo đầu giàn như vậy nên mình thương hén càng nhiều chăng?

Mà thầy ôi, bạc tình chính là tôi, chớ không phải tằm đâu. Tôi đã bỏ tằm, vô trong nầy... người bạn tôi có lỗi gì đâu.

Bấy giờ tôi mới hiểu thấu đáo con người đó.  Đây là một anh thợ tiểu công nghệ miễn cưỡng trở thành một anh thợ kỹ nghệ nên cứ bùi ngùi nhớ xưa. Và quả anh ta lòng không khô héo như tôi đã ngỡ.

Người thợ tiểu công nghệ rất thương nghề vì chính hắn làm lấy mọi công việc. Bác Y đã khó nhọc để tằm, bền chí ươm tơ nên bác thương nhớ tằm là phải lắm.

Bác Y lại tiếp:

- Tơ mà nó vô tới Sài-gòn thì mùi tằm không còn được bao nhiêu. Tôi ưa hít tơ lắm, như là hít áo của một người yêu để nhớ hơi, mà tơ ở đây, hít đến mệt phổi cũng không nghe hơi hám gi.

Mưa đã dứt. Người bạn tôi đã nhiều lần ngáp dài giữa câu chuyện “con tằm đỏ chín”nầy nên đứng dậy kiếu về.

Tôi siết chặt tay bác Y nhưng chắc lòng tôi thương bác không bằng bác nhớ tằm.

Ra đến ngoài, bác còn hỏi tôi:

-  Chắc thầy cũng thương tằm lắm phải không? Tôi nhìn mặt thầy thì đoán biết.

- Phải, tôi nói láo bừa, tôi thương tằm lắm. Bà nội tôi ngày xưa có để tằm mà !

 

Thu 1956

 

           

© Binhnguyenloc.com

 



 



[1][1]           Lộ 18, sau đó được đặt là Trương-Tấn Bửu rồi bây giờ là Trần-Quang-Diệu

[2][2]           Đẹp, nói theo miền Trung.



Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 21/Oct/2008 lúc 5:29pm
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 31/Oct/2008 lúc 11:14pm
 
 
Vừa đọc được bài "Thơ về Gò Công" của DANGPHUONGNAM trên Gò Công-mạng giáo dục, xin đưa lên đây, mời xem.
 
 Photobucket
 
 


Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 01/Nov/2008 lúc 6:32pm
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 01/Nov/2008 lúc 9:43pm
 
Vừa đọc một bài của một thân hữu gởi, thấy hay hay gởi lên đây, mời xem
 
                             NGÀY KHAI TRƯỜNG
    Tôi sắp nói cho bạn nghe,hàng năm bầu trời chập chùng của mùa thu,những bửa cơm chiều đầu tiên ăn dưới ngọn đèn,những lá cây vàng úa trên cành cây rung động,đã gợi lại cho tôi những gi ? Tôi sắp nói cho bạn biết,ngày nay,mỗi khi đi ngang qua vườn Lục-xâm-bảo trong những ngày đầu tháng mười,dưới một bầu trời hơi buồn và đẹp hơn bao giờ hết vì là lúc mà các lá cây rơi từ từ từng lá một trên đôi vai màu trắng của các pho tượng trong vườn,tôi đã trông thấy những gì ? Điều mà tôi lại trông thấy ở vườn,đó là một chú bé con lưng đeo cặp sách,hai tay đút túi đi đến trường học,vừa đi vừa nhảy-nhót ( ..chân tung tăng..) như một con chim sẻ.
   Chú bé đó,chỉ có sự tưởng tượng của tôi mới trông thấy thôi,bởi vì chú là một cái bóng,bóng dáng của tôi cách đây hai mươi lăm năm.Ủa nầy,chú bé ấy làm tôi chú ý lắm :ngàyxưa tôi có để ý đến chú đâu,nhưng bây giờ chú không còn nữa thì tôi lại yêu chú.Chú nghịch-ngợm nhưng chú không độc-ác,và tôi phải công-bình mà nói rằng chú không để lại cho tôi một kỷ-niệm xấu-xa nào.
   Tôi đã mất đi một chú bé ngây-thơ lắm,thành ra tôi có nhớ tiếc chú cũng là một lẽ tự-nhiên ;tôi cố hình-dung lại chú trong tâm trí và tâm trí tôi có vui sướng khi gợi lại kỷ-niệmcủa chú thì cũng là một lẽ tự-nhiên.
   Cách đây hai mươi lăm năm,cũng vào mùa thu nầy,vào hồi 8 giờ,chú đi qua cái vườn đẹp-đẽ để đến trường học. Lòng chú hơi xao-xuyến.Hôm đó là ngày khai trường........
    .............
   Cứ như thế chú vượt qua vườn Lục-xâm-bảo.Điều gì ngày trước chú trông thấy,thì bạn ạ,bây giờ tôi lại thấy rõ-ràng dưới mắt.Cũng vẫn bầu trời ấy,cũng vẫn màu đất ấy,cảnh vật vẫn còn giữ lại được cái tâm-hồn thời xưa,một tâm-hồn làm cho tôi vui-vẻ,buồn bã xao-xuyến.Chỉ có một chú bé là không còn nữa,cho nên càng về già tôi càng chú ý đến những ngày khai trường..
                                                                        Dịch theo ANATOLE FRANCE
 
Và đây là bài tiếng Pháp:
 

La rentrée

Je vais vous dire ce que me rappellent tous les ans, le ciel agité de l’automne, les premiers dîners à la lampe et les feuilles qui jaunissent dans les arbres qui frissonnent ; je vais vous dire ce que je vois quand je traverse le Luxembourg dans les premiers jours d’octobre, alors qu’il est un peu triste et plus beau que jamais ; car c’est le temps où les feuilles tombent une à une sur les blanches épaules des statues.
Ce que je vois alors dans ce jardin, c’est un petit bonhomme qui, les mains dans les poches et sa gibecière au dos, s’en va au collège en sautillant comme un moineau.
Ma pensée seule le voit ; car ce petit bonhomme est une ombre ; c’est l’ombre du moi que j’étais il y a vingt-cinq ans ; Vraiment, il m’intéresse, ce petit : quand il existait, je ne me souciais guère de lui ; mais, maintenant qu’il n’est plus, je l’aime bien.
Il valait mieux, en somme, que les autres moi que j’ai eus après avoir perdu celui-là. Il était bien étourdi; mais il n’était pas méchant, et je dois lui rendre cette justice qu’il ne m’a pas laissé un seul mauvais souvenir ; c’est un innocent que j’ai perdu : il est bien naturel que je le regrette ; il est bien naturel que je le voie en pensée et que mon esprit s’amuse à ranimer son souvenir.
Il y a vingt-cinq ans, à pareille époque, il traversait, avant huit heures, ce beau jardin pour aller en cl***e. Il avait le coeur un peu serré : c’était la rentrée.
Pourtant, il trottait, ses livres sur son dos, et sa toupie dans sa poche. L’idée de revoir ses camarades lui remettait de la joie au coeur. Il avait tant de choses à dire et à entendre! Ne lui fallait-il pas savoir si Laboriette avait ch***é pour de bon dans la forêt de l’Aigle ? Ne lui fallait-il pas répondre qu’il avait, lui, monté à cheval dans les montagnes d’Auvergne ? Quand on fait une pareille chose, ce n’est pas pour la tenir cachée. Et puis c’est si bon de retrouver des camarades! Combien il lui tardait de revoir Fontanet, son ami, qui se moquait si gentiment de lui, Fontanet qui, pas plus gros qu’un rat et plus ingénieux qu’Ulysse, prenait partout la première place avec une grâce naturelle !
Il se sentait tout léger, à la pensée de revoir Fontanet.
C’est ainsi qu’il traversait le Luxembourg dans l’air frais du matin. Tout ce qu’il voyait alors, je le vois aujourd’hui.
C’est le même ciel et la même terre; les choses ont leur âme d’autrefois, leur âme qui m’égaye et m’attriste, et me trouble ; lui seul n’est plus.
C’est pourquoi, à mesure que je vieillis, je m’intéresse de plus en plus à la rentrée des cl***es.
Anatole France
 
 


Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 23/Feb/2009 lúc 4:41pm
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 09/Nov/2008 lúc 12:10pm
 
Vừa đọc xong bài nầy trên Gò Công:Mạng giáo dục chép lên đây để các bạn đọc cho vui.
 
 
Cảm ơn... con cá rô đồng !  
Người đưa bài: bacbaphi   

Đang loay hoay không biết làm gì trong ngày cuối tuần, thì chuông điện thoại reo. Thằng bạn báo tin đã về đến Sài Gòn sau chuyến du học. Nó bảo đang chuẩn bị hành lí về Miền Tây chơi một chuyến, nhờ tôi chủ nhật sáng mai ra xe đón nó. Bạn bè lâu ngày không gặp, mừng lắm đây! Nhưng phải tiếp đãi bạn ra sao? Bạn từ trời Tây về, không lẽ lại mời vào nhà hàng, ăn những món mà giới “quý tộc” vẫn thường dùng, hay đi du lịch theo tour…  Tất cả đều có vẻ không ổn! Tôi cứ lan man trong đầu cái suy nghĩ ấy mà để xe chạy ra khỏi lòng thị xã. Thoạt trông trên cánh đồng xa xa, một nhóm trẻ con đang đùa nghịch và câu cá. A, có món đãi bạn rồi đây! Tôi lao về nhà, sửa soạn lại mấy cây cần câu cũ từng dùng hồi còn là sinh viên, thay dây, thay lưỡi và chuẩn bị mồi… cho một “tour” du lịch miệt vườn. Lòng vui hớn hở, chắc bạn mình cũng thích lắm!

 

Đi câu cá rô đồng

Chúng tôi chạy xe về miệt Phước Hậu của Vĩnh Long, nơi có rất nhiều cánh đồng đang vào mùa thu hoạch. Mùa nước nổi đã đi qua, những con nước không còn dâng lên ào ạt đến tràn bờ, mà cứ lững lờ trôi, đưa đẩy những khóm lục bình đi xa. Nước len lỏi vào từng con rạch nhỏ, trong đồng ruộng, trong ao vườn… Những đứa trẻ tập trung lại vui đùa, câu cá và bày các trò chơi. Quân - bạn tôi - đã gần hai năm sống bên trời Tây, vả lại, nhà cậu ấy ở Sài Gòn, nên khi về đây, được nhìn thấy khung cảnh và nhất là được hít thở không khí thôn quê, cậu ấy cũng vui lây cùng cái vui con trẻ.  

Chúng tôi chọn bờ ruộng kề bên con rạch nhỏ với rau cỏ mọc đầy, xa xa có một vuông nhỏ. Cá rô đồng đi ăn, đua nhau lên ngớp trông vui mắt đến lạ. Móc con tép rong vào lưỡi câu, thả xuống vuông nhỏ ấy, mắt chăm chú chờ con cá đớp mồi, cảm giác man man thú vị lắm. Cá đớp câu Quân, cậu ta luýnh quýnh như gà mắc tóc. Vật lộn một hồi lâu, Quân cũng mang được con cá lên bờ. Chiến lợi phẩm cỡ ba ngón tay… con nít. Quân cười đắc ý vì là lần đầu tiên đi câu và câu được cá. Lũ cá rô đồng háu mồi cứ thi nhau giật giành cắn câu. Chiến lợi phẩm càng lúc càng nhiều thêm. Khi mặt trời lên đến đỉnh đầu thì cá đã được nửa giỏ. Lũ trẻ về hết hồi nào chẳng hay. Tôi cũng cảm thấy đói bụng vì từ sáng đến giờ chỉ gặm được ổ bánh mì, nhưng Quân còn mê lắm, không hay là trời đã rất nắng.  

Trên đường về, Quân cứ giành cầm giỏ cá, bắt tôi chạy xe. Vừa ngắm nghía chiến lợi phẩm, Quân vừa huyên thuyên, nào là Sài Gòn cá mắc lắm, mà toàn cá nuôi, ăn chẳng ngon; nào là bên Úc làm gì mua nổi cá để ăn, vả lại nếu có thì cũng toàn cá biển, chỉ có thịt gà là rẻ… Ôi thôi, tội nghiệp bạn tôi! Hiện đại quá mà lạ lẫm cái vùng quê yên ả và đầm ấm này rồi.

Câu được nhiều cá, tôi nghĩ phải chế biến một món gì độc đáo, cho nó ăn mà nhớ hoài. Cá rô to tôi để nó mang về Sài Gòn. Còn số cá nhỏ, tôi chuẩn bị món chiên xù. Nghĩ bụng, chắc là ngon!

Cá rô đồng chiên xù  

Thú thiệt là tôi chưa bao giờ chế biến món này, mà chỉ được mẹ làm cho ăn lúc nhỏ. Bọn con nít chúng tôi mê chạy chơi, nghe thơm là bay vào bếp ăn vụng một con. Mấy cái bẹo tai đau điếng, giờ còn nhớ! Nhớ hồi nhỏ mẹ  làm sao, giờ tôi cũng bắt chước làm theo vậy!

Cá rô chiên xù thì chỉ chọn cá nhỏ thôi. Vì cá nhỏ, mỡ sẽ ngấm tới xương, làm cho xương giòn, ăn rất ngon. Đầu tiên là mổ bụng cá, bỏ hết ruột (nếu cá được rộng qua vài ngày thì khỏi mổ bụng vì bụng cá đã sạch). Không đánh vảy vì khi đánh vảy, cá sẽ không còn giòn. Ngâm cá vào nước muối khoảng 20 phút cho sạch nhớt, sau đó vớt ra rổ để cho ráo. Cho mỡ vào chảo, để thật nóng, rồi cho từng con cá vào chiên. Trong lúc đợi cá vàng, Quân và tôi lặt rau chuẩn bị dùng bữa. Các loại rau ăn kèm cũng đơn giản, gồm cà chua, dưa leo, cải xà lách, rau thơm, hẹ...

Rau xong thì cá cũng vàng. Chúng tôi bày tất cả ra giữa nhà, dĩa cá vàng ươm, dĩa rau hai màu xanh - đỏ, cơm trắng, nước mắm chua tỏi ớt chanh… Chỉ với bấy nhiêu thôi, với chúng tôi là cả một kỳ công. Quân chặc lưỡi, phải có ly rượu thì ngon lắm đây! Tôi quên, lần đi miền Trung kỳ trước, tôi có tậu chai Bầu Đá, giờ vẫn còn nguyên trong tủ, tôi lục đục mang ra, Quân cười đắc ý. Nó rít một cái khà, cầm con cá rô giòn rịu nhai nghe ngon lành. Tôi đoán, chắc từ nhỏ đến giờ, nó mới được ăn món này. Đúng là cái gì dân quê có thì ở thành phố lớn lại thiếu, và ngược lại.  

Chúng tôi cứ từ từ nhâm nhi thưởng thức công lao của mình. Bạn tôi vừa nhai món ngon quê mùa, vừa huyên thuyên kể chuyện bên Úc, nào là kỳ thú Vịnh Cá Mập, nào là đẹp lắm Sydney… Tôi ngớ ngẩn nghe, miệng nhai món ngon quê nhà và kể cho nó nghe về đời sống của người dân Miền Tây những ngày nước nổi, nào là chuyện đi đánh côn, bắt cá, chuyện người dân mình chạy lũ, vật lộn với thiên nhiên…

Nghe bạn kể tôi ngớ người ra, nghe tôi kể bạn cũng lắm bùi ngùi. Chén rượu từ từ cạn, tiếng cười vẫn râm ran. Mặt trời đỏ ngầu bên dưới cửa sổ, dòng sông vẫn lặng lờ chảy và ngày mai, bạn tôi về lại Sài Gòn. Tiếc, sao thời gian trôi nhanh quá! Tiếc thế thôi, chứ tôi hiểu rằng, bạn tôi vui lắm vì được ăn món lạ quê nhà và đặc biệt hơn là được làm cư dân của miền sông nước châu thổ này, dù chỉ một ngày!

Phan Truong Son - SGTT



Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 09/Nov/2008 lúc 12:11pm
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 26/Apr/2009 lúc 10:42pm
 
Vừa đọc bài của Đặng Phương Nam trong Gò Công ngày củ thấy hay chép lên đây. Mời đọc.
 
LE%20LAC%201
 
LE%20LAC%202
 
 
Nguyên tác bằng tiếng Pháp

 

Le lac

LAMARTINE

 

Ainsi, toujours poussés vers de nouveaux rivages,

Dans la nuit éternelle emportés sans retour,

Ne pourrons-nous jamais sur l'océan des âges

Jeter l'ancre un seul jour ?

 

Ô lac ! l'année à peine a fini sa carrière,

Et près des flots chéris qu'elle devait revoir,

Regarde ! je viens seul m'***eoir sur cette pierre

Où tu la vis s'***eoir !

 

Tu mugissais ainsi sous ces roches profondes ;

Ainsi tu te brisais sur leurs flancs déchirés ;

Ainsi le vent jetait l'écume de tes ondes

Sur ses pieds adorés.

 

Un soir, t'en souvient-il ? nous voguions en silence ;

On n'entendait au loin, sur l'onde et sous les cieux,

Que le bruit des rameurs qui frappaient en cadence

Tes flots harmonieux.

 

Tout à coup des accents inconnus à la terre

Du rivage charmé frappèrent les échos,

Le flot fut attentif, et la voix qui m'est chère

Laissa tomber ces mots :

 

« Ô temps, suspends ton vol ! et vous, heures propices,

Suspendez votre cours !

Laissez-nous savourer les rapides délices

Des plus beaux de nos jours !

 

« ***ez de malheureux ici-bas vous implorent ;

Coulez, coulez pour eux ;

Prenez avec leurs jours les soins qui les dévorent ;

Oubliez les heureux.

 

« Mais je demande en vain quelques moments encore,

Le temps m'échappe et fuit ;

Je dis à cette nuit : « Sois plus lente » ; et l'aurore

Va dissiper la nuit.

 

« Aimons donc, aimons donc ! de l'heure fugitive,

Hâtons-nous, jouissons !

L'homme n'a point de port, le temps n'a point de rive ;

Il coule, et nous p***ons ! »

 

Temps jaloux, se peut-il que ces moments d'ivresse,

Où l'amour à longs flots nous verse le bonheur,

S'envolent loin de nous de la même vitesse

Que les jours de malheur ?

 

Hé quoi ! n'en pourrons-nous fixer au moins la trace ?

Quoi ! p***és pour jamais ? quoi ! tout entiers perdus ?

Ce temps qui les donna, ce temps qui les efface

Ne nous les rendra plus ?

 

Éternité, néant, p***é, sombres abîmes,

Que faites-vous des jours que vous engloutissez ?

Parlez : nous rendrez vous ces extases sublimes

Que vous nous ravissez ?

 

Ô lac ! rochers muets ! grottes ! forêt obscure !

Vous que le temps épargne ou qu'il peut rajeunir,

Gardez de cette nuit, gardez, belle nature,

Au moins le souvenir !

 

Qu'il soit dans ton repos, qu'il soit dans tes orages,

Beau lac, et dans l'aspect de tes riants coteaux,

Et dans ces noirs sapins, et dans ces rocs sauvages

Qui pendent sur tes eaux !

 

Qu'il soit dans le zéphyr qui frémit et qui p***e,

Dans les bruits de tes bords par tes bords répétés,

Dans l'astre au front d'argent qui blanchit ta surface

De ses molles clartés !

 

Que le vent qui gémit, le roseau qui soupire,

Que les parfums légers de ton air embaumé,

Que tout ce qu'on entend, l'on voit et l'on respire,

Tout dise : « Ils ont aimé ! »

 



Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 26/Apr/2009 lúc 10:43pm
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
trankimbau
Moderator Group
Moderator Group


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 424
Quote trankimbau Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2009 lúc 8:29am
 
    Thương "cái ông nầy", đưa mấy bài dễ thương chi lạ!
kb
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 25/Oct/2010 lúc 12:51pm
 
Đọc bài nầy của Đoái NAM-UY thấy hay.
Xin chia xẽ với các thân hữu.
 
 
 

                                                   ĐÃ ĐÀNH               

 

 

                                                                 * * *

 

                                                         Mai kia tôi có trở về,

                                             Tôi chôn tôi giữa bốn bề hoang vu.

                                                         Mai kia tôi có ra tù,

                                             Tôi leo lên đỉnh Vọng Phu níu trời.

                                                         Xin tôi chuộc lại mảnh đời

                                             Để tôi trang trải ngàn lời giải oan.

                                                                        *

                                                         Suói vàng xuống tắm khỏa thân,

                                             Tuổi tên rữa sạch rồi lên làm nguời.

                                                         Quê hương vật đổi sao dời,

                                             Tang thương mấy kiếp ai ngồi thương nhau ?

                                                         Ngàn xưa nào nhớ ngàn sau,

                                             Mơ em xõa tóc chiêm bao anh về.

                                                         Người về,đợi mãi chưa về,

                                             Cao xanh hờ hững từng bè mây trôi.

                                                                       *

                                                        "Chim bay về núi tối rồi"....

                                             Ngủ đi giấc ngủ của loài thú hoang.

                                                         Xương rồng khát giọt sương đêm,

                                             Mềm chân sỏi đá chưa mềm thời gian.

                                                         Lưng trời sao mọc ngổn ngang,

                                            "Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai."

                                                                       *

                                                         Gởi em tơ tóc còn dài,

                                             Thân anh như bụi mất ngày hồi sinh.

                                                         Thiên thu,nhất nhật,đã đành.

                                             Còn nhau ta sống để dành cho nhau.

 

                                                                     (Gia Trung 84)

 

                                                               Đoái NAM-UY

 



Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 25/Oct/2010 lúc 5:35pm
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 28/Dec/2010 lúc 5:37pm
,
Đời còn vui vì có chút "tòm tem "
 
Không biết hai tiếng tòm tem xuất hiện trong ngôn ngữ Việt từ bao giờ nhưng cái chuyện tòm tem thì quả là xưa không kém gì quả đất.
Tuy nhiên dù có xưa cách mấy thì tòm tem vẫn không bao giờ cũ vì loài người còn tồn tại tới ngày hôm nay cũng là nhờ vào tòm tem. Chính vì thế mà thiên hạ vẫn cứ mãi mãi tòm tem và nói về chuyện tòm tem.
 
 
Sở dĩ tôi dùng hai tiếng tòm tem này để nói về một chuyện mà ngôn từ dùng để diễn tả lại vô cùng phong phú và thường được thả nổi, ấy là tại vì hai tiếng này vừa có gốc có gác, vừa nôm na dễ hiểu, lại không bị coi là tục để các vị thích rao giảng đạo đức bắt bẻ mà cũng không khô khan như từ ngữ chuyên môn của nhà khoa học. Tôi học được hai chữ này trong bài ca dao sau:
 
    Ðang khi lửa đỏ cơm sôi
    Lợn kêu con khóc lại đòi tòm tem
    Bây giờ cơm chín lửa tàn
    Lợn ăn con ngủ, tòm tem thì tòm
 
Phải nói là mặc dù mấy câu ca dao này tuy thật là đơn giản nhưng càng đọc tôi càng thấy thấm ý. Con người từ thủa xa xưa cho tới ngày nay, sống trên đời lúc nào cũng cứ tối tăm mặt mũi với hàng trăm thứ chuyện lỉnh kỉnh hằng ngày nhưng xét cho cùng thì chẳng qua cũng chỉ là nhằm đáp ứng cho hai nhu cầu cơ bản là ăn để sống và tòm tem để bảo tồn chủng loại. Có khác chăng là theo đà tiến hóa, con người càng văn minh thì cái ăn và cách ăn cũng trở thành cầu kỳ và cái tòm tem cũng được bày đặt thêm nhiều quy định có tính cách hình thức rắc rối hơn mà thôi.
Tuy cả hai nhu cầu trên đều là căn bản nhưng nếu sắp theo thứ tự ưu tiên thì cái ăn vẫn là trước tiên rồi mới tới chuyện tòm tem, vì chỉ có
"no cơm ấm cật " thì lúc đó mới có thể "rậm rật khắp nơi" chứ bụng mà đói meo thì "chó cũng đành chê cứt". Cái sự ví von này tôi cũng học được trong kho tàng ca dao tục ngữ. Ai không tin cứ giở ca dao tục ngữ ra sẽ gặp khối câu như:
    Em như cục cứt trôi sông
    Anh như con chó ngồi trông trên bờ
Nếu nhu cầu ăn có từ khi lọt lòng thì trái lại nhu cầu tòm tem phải đợi đến một cái tuổi gọi là biết mắc cỡ vì khám phá ra những cái khang khác nơi mình và nơi người mới bắt đầu có. Lại nữa, cái cường độ của nhu cầu này cũng biến thiên tùy theo nguời và tùy theo thời gian: sung độ nhất vào lúc tuổi còn trẻ nhưng càng về già thì yếu lần và có thể không còn nữa. Chính vì thế mà người ta mới hối nhau:
   
Ai ơi chơi lấy kẻo già
    Măng mọc có lứa người ta có thì
    Chơi xuân kẻo hết xuân đi
    Cái già sồng sộc nó thì theo sau
Mặc dù trong văn học Việt nam cũng đã có những nhà nho xông xáo cở cụ Nguyễn Công Trứ từng vỗ ngực tự hào trong một bài hát nói "càng già càng dẻo càng dai" và trong ca dao cũng có những bài như:
   
Bà già đã tám mươi tư
    Ngồi bên cửa sổ biên thư lấy chồng
Hoặc là:
    Bà già đi chợ cầu Ðông
    Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng
    Thầy bói gieo quẻ đoán rằng
    Lợi thì có lợi nhưng răng không còn
Tuy nhiên nếu nghiệm cho kỹ thì chẳng qua các cụ cũng chỉ là tiếc nuối cho một thời oanh liệt đã qua đi mà nói vớt vát cho vui thế thôi chứ thực tế thì các cụ cũng không làm sao xoay ngược lại định luật của tạo hóa.
 Ngoài ra, nếu nhu cầu ăn không thể thiếu thì ngược lại nhu cầu tòm tem có thể hy sinh mà không làm cho cá nhân ấy chết, trừ trường hợp nếu như tất cả giống người đều hy sinh cái nhu cầu này thì lúc đó loài người mới bị tuyệt chủng thôi. Về cái khoản này thì Phật có dạy đời là bể khổ và con người phải diệt dục thì mới dứt được nghiệp chướng để tịnh độ Niết Bàn. Tuy vậy, có một số người dù đã quy y đầu Phật thành sư, nhưng lòng thì vọng động, đôi khi còn bạo hơn cả người phàm nên người đời mới gọi các vị này là "sư hổ mang". Còn nếu chỉ nhè nhẹ thôi thì ca dao cũng đã từng mô tả:
   
Ba cô đội gạo lên chùa
    Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
    Sư về sư ốm tương tư
    Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu
Khác với Phật giáo chủ trương diệt dục, người Thiên Chúa giáo lại tin rằng khi Chúa dựng nên người nam và người nữ đầu tiên rồi thì có phán: "Hãy sinh sản ra cho đầy mặt đất này". Tuy nhiên khi loài người đã sinh ra tràn đầy trên mặt đất này rồi thì Hội Thánh mỗi khi muốn tuyển chọn người thay Chúa chăn dắt bầy chiên ở trần gian thì lại đòi hỏi người đó phải hy sinh cái niềm vui tòm tem. Ðiều này gây trở ngại cho một số người vừa muốn làm kẻ chăn chiên của Chúa lại vừa không muốn sống trong cảnh "cám treo heo nhịn đói", do đó mà nảy sinh ra Giáo phái Tin Lành. Các ngài mục sư nhờ hiểu Kinh Thánh một cách cởi mở hơn nên đã giúp cho một số người an tâm vừa làm tôi tớ Chúa, vừa vui thú trần gian mà không hề mang mặc cảm phạm tội. Riêng về phía Giáo hội La Mã vì khắt khe với lề luật mà có những kẻ lúc bắt đầu những mong theo chân Chúa làm đến chức cha, chức cố, nhưng rốt cuộc chỉ mới tới được chức "ta ru", nghĩa là đã vào tu rồi nhưng thấy đời còn vui quá lại nhảy ra.
 
 Mặc dù bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền có khẳng định: "Mọi người sinh ra bình đẳng" nhưng thực tế thì Tạo hóa vốn có trước loài người nên hình như không biết có cái luật đó cho nên mới để lọt một số người bị mụ bà nắn thiếu cái "gia tài của mẹ để lại cho con" khiến cho những kẻ này không bao giờ biết được cái niềm vui tòm tem ở cõi đời này. Tuy nhiên vào cái thời đất nước còn được cai trị bởi những ông vua thì cũng có vài anh chàng lại tự nguyện cắt bỏ cái gia tài này để được hầu hạ trong cung hầu kiếm miếng cơm manh áo như mấy anh chàng muốn xin làm thái giám.
 
 Số là trong xã hội phong kiến ngày xưa, một kẻ làm vua thì tự cho mình có cái quyền tha hồ tòm tem. Do đó mà ông vua nào cũng có trong cung hàng ngàn cung tần mỹ nữ. Tuy nhiều thế và nhiều khi tòm tem không xuể nhưng vì tham lam và ích kỷ nên ông vua nào cũng sợ kẻ khác tòm tem giùm mình do đó mới phải chọn mấy anh chàng thái giám để hầu hạ trong cung cho chắc ăn. Nhiều ông vua cũng vì mê tòm tem đến độ phế bỏ cả triều chính cho nên đành phải mất nước hay mất cả cái chỗ đội vương miện. Có ông thì bệ rạc đến nỗi không còn ngồi dậy nổi để thiết triều đành nằm ườn ra cho đình thần vào chầu như ông vua Long Ðĩnh nhà Lê. Sử gia khi nhắc đến phải đặt cho triều đại này cái biệt danh là Lê ngọa triều.
 
 Cũng vì cái mục ham tòm tem này của kẻ làm vua mà nhiều khi đi đoong luôn cả một dân tộc. Xưa Chiêm thành cũng là một vương quốc lừng lẫy. Vào thời nhà Trần ở nước ta thì có vua Chiêm là Chế Mân bỗng dưng nổi hứng đem dâng luôn hai châu Ô và châu Rí để xin với vua Trần cho được rước công chúa Huyền Trân về tòm tem. Không hiểu có phải vì nàng công chúa xứ Việt tài cao hay vua Chiêm lụ khụ sao đó mà ít lâu sau thì vua Chiêm tịch. Theo phong tục Chiêm thành thì khi vua chết hoàng hậu và phi tần cũng phải tịch theo vua để tiếp tục hầu hạ cho nhà vua cũng được tòm tem nơi chín suối. Nhà Trần tiếc cho tuổi xuân phơi phới của nàng công chúa của mình mà bị đưa lên giàn hỏa với vua Chiêm thì thật là phí hương trời, bèn sai Trần Khắc Chung vào kinh thành Chiêm lén đem công chúa về. Tương truyền sau đó hai người đưa nhau đi đâu làm gì chẳng ai rõ, nhưng dù sao thì cái tên Huyền Trân cũng đi vào lịch sử, còn Chiêm thành thì theo cái đà mất hai châu mà mất lần cho đến mất luôn cả nước và bị diệt vong.
Theo các nhà nghiên cứu về sinh vật học thì trong vấn đề tòm tem, giống cái bao giờ cũng khỏe hơn giống đực. Nguyên lý này hình như cũng đúng cả với con người. Chúng ta chỉ nghe kể ông này ngài nọ đang tòm tem thì bị ngã ngựa rồi đi đoong chứ chẳng bao giờ nghe nói có bà nào lăn quay ra ngáp ngáp trong lúc tòm tem cả. Nghe khoản này có lẽ các ông không đồng ý vì tự hồi nào các ông vẫn tự cho mình là phái khỏe còn đàn bà mới là "liễu yếu đào tơ" phải "núp bóng tùng quân". Tuy nhiên tục ngữ cũng có câu: "con gái mười bảy, bẻ gãy sừng trâu", cho nên nam nhi cỡ mấy anh chàng "trói gà không chặt" mà gặp phải mấy cô này thì cũng coi như là đi đoong, bằng không thì cũng bị cô nàng cắm cho năm bảy cái sừng to tổ bố.
 
 Trở lại với cái chuyện tòm tem ngã ngựa này ở nước ta mà có liên quan đến lịch sử thì phải kể câu chuyện đời Lê. Nguyễn Trãi là một khai quốc công thần từng giúp Lê Lợi đánh thắng quân Minh giành lại nền độc lập cho Tổ quốc và lập nên nhà Hậu Lê. Lúc vua Lê Thái tổ quy tiên, vua con lên nối ngôi thì cụ cũng đã già về nghỉ hưu. Tuy thế, có một hôm nghe tiếng cô nàng Thị Lộ rao bán chiếu trước dinh, cụ bỗng hứng chí cho gọi vào ra mắt, và khi thấy cô hàng chiếu trông cũng tươi mát, cụ bèn ứng khẩu mấy vần thơ trêu ghẹo:
   
Ả ở đâu mà bán chiếu gon
    Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn
    Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi
    Ðã có chồng chưa được mấy con?
Cô hàng chiếu cũng chẳng vừa, họa lại ngay:
   
Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon
    Cớ chi ông hỏi hết hay còn
    Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ
    Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
Nghe cô hàng chiếu ứng đối lanh lẹ, cụ đâm ra mến tài mến sắc nên quyết chí rước nàng về làm nàng hầu. Nếu chuyện chỉ có thế thì cũng chẳng có gì đáng nói. Ðằng này vì cụ đã già nên có lẽ sinh ra lẩm cẩm. Nhân một hôm nhà vua trẻ đi tuần thú qua vùng này bèn ghé lại nhà cụ nghỉ đêm, cụ thương cho cô nàng hầu tuổi xuân phơi phới lâu nay bị bỏ phế mới sai nàng ra hầu hạ nhà vua may ra kiếm được chút ơn mưa móc. Chẳng hiểu ông vua trẻ tòm tem ra sao mà băng ngay đêm đó tại nhà cụ. Thế là triều đình đổ xô vào hạch cụ về cái tội giết vua và cái tước khai quốc công thần của cụ cũng đành vứt đi khiến cho cụ chỉ còn biết cam phận lãnh cái bản án tử đi đoong luôn một lúc cả ba họ.
 
 Các nhà nghiên cứu về sinh vật còn đưa thêm một nhận xét là có nhiều loài sinh vật sau khi tòm tem thì chị cái còn xơi tái luôn anh chàng đực cho đã cơn đói lòng, chẳng hạn như loài bọ ngựa. Ðiều này tưởng chừng không xảy ra nơi con người nhưng nếu nghiệm kỹ ra thì cũng có, nhưng vì con người có đời sống văn minh cho nên cái mục cô nàng xơi tái anh chàng này cũng diễn ra dưới một hình thức mới mẻ hơn, khoa học hơn, tinh vi hơn, trông nhẹ nhàng và không có vẻ rùng rợn nhưng độc ác thì không kém. Nàng chỉ móc cái ví tiền, nắm lấy cái ví tiền thôi chứ không cần moi ngực moi tim gì cả. Có biết bao ông "nam nhi chi chí", chỉ vì tòm tem mà bị thân bại danh liệt do ăn hối lộ, thụt két để cung phụng cho cô nàng no bụng còn ông thì vào nằm nhà đá gỡ lịch. Ðối với những ông có sẵn cơ nghiệp thì cô nàng cứ việc tha hồ ăn cho tới sạt nghiệp rỗng túi phải ra thân ăn mày. Ngay cả những ông được cái tiếng là hiền lành cũng lắm lúc khốn khổ vì đi làm lãnh lương ba cọc ba đồng thôi mà cũng bị bà vợ móc sạch. Thế là đủ cho anh chàng từ đó cứ lệ thuộc vào bà vợ mà ngáp ngáp. Còn bà vợ thì phây phây
"chưa đi đến chợ đã lo ăn quà", càng ngày càng phốp pháp ra trong khi đức lang quân thì càng ngày càng cà tong cà teo như que củi.
 
 Chuyện tòm tem mà đi vào văn học sử thì rất nhiều. Vào cái năm Tí Sửu Dần Mẹo gì đó có sứ Tàu sang nước ta. Không hiểu do đâu mà sứ lại gặp bà Ðoàn Thị Ðiểm, lại còn buông lời chọc ghẹo chớt nhả:
"An nam nhất thốn thổ, Bất tri kỷ nhân canh", nghĩa là "một tấc đất An nam không biết bao nhiêu là người cày" ý xỏ xiên gái Việt. Bà Ðiểm vốn đã từng dịch Chinh Phụ Ngâm, chữ nghĩa đầy mình, đâu dễ gì chịu mất mặt như vậy, bèn đối ngay: "Trung quốc đại trượng phu, Giai do thử đồ xuất". Câu này có nghĩa là "bậc trượng phu của nước Tàu cũng từ đó mà chui ra cả thôi". Ðúng là chậu nước lạnh hắt vào mặt sứ Trung quốc.
 
 Trên đây là chuyện vào thời nước ta chỉ biết giao hảo với nước Tàu. Vào cái buổi giao thời Tây Tàu nhố nhăng thì có:
    
Vị Xương có Tú Xương
    Dở dở lại ương ương
    Cao lâu thường ăn quỵt
    Thổ đĩ lại chơi lường
Cụ lại còn tự thú thêm:
    
Một trà, một rượu, một đàn bà
    Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
    Chừa được thứ nào hay thứ ấy
    Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Tuy nhiên đáng nể hơn cả phải nói là bà Hồ Xuân Hương. Sự nghiệp văn chương của bà toàn hướng về trọng tâm duy nhất: phải làm sao nói lên được cái nguyên lý tòm tem ẩn tàng trong mọi sự vật, và tên tuổi của bà gắn liền với sự nghiệp trên đến nỗi hễ một người nào đó chỉ cần nhắc đến tên bà là người khác hiểu ngay ý người kia định nói gì.
 
 Trên đây tôi chỉ đơn cử vài danh nhân tiêu biểu thôi chứ thực ra nếu mà xét cho cùng thì bao nhiêu tác phẩm văn chương nghệ thuật trên thế giới này nếu không liên quan đến ăn thì cũng là do cái động cơ tòm tem thúc đẩy mà ra cả.
 
 Nếu cái chuyện tòm tem nơi loài vật là một sự kiện tự nhiên nên hễ muốn tòm tem thì đi tìm đối tượng hợp tác giải quyết là xong thì nơi con người vì văn minh nên thường
"vẽ rắn thêm chân" do đó để thỏa mãn cái nhu cầu tòm tem, con người cũng đặt ra vô số quy định gọi là luật pháp, đạo đức, phong tục, tập quán để làm khó cho mình. Chính vì thế mà chuyện tòm tem của con người mới được phân biệt thành nhiều hình thức.
 
 Thông thường nhất và được xã hội cho phép và nhìn nhận là tòm tem có đăng ký chính thức. Ðể có thể tòm tem theo kiểu này con người phải trải qua nhiều bước gian truân lo lắng và chờ đợi, kết quả có khi được mà cũng có khi chỉ là dã tràng xe cát cho nên mới có chuyện nhiều anh chàng hay cô nàng vì lý do này lý do nọ không hội đủ tiêu chuẩn để xin được giấy phép hành nghề, đành ôm hận đáp chuyến tàu suốt về miền quên lãng, hoặc nhẹ lắm thì cũng là cúi đầu nhìn người yêu ôm cái tòm tem sang ngang không hề ngoảnh lại. Ðiều này nếu có gây đau khổ cho một số người thì chính đó cũng là nguồn cảm hứng để cho những tâm hồn đau khổ đó có thể sáng tác nên những vần thơ tuyệt tác, những áng văn bất hủ và những bản nhạc để đời.
 
 Ðối với những người hân hoan rước được cái tòm tem về rồi thì mọi chuyện bây giờ trở nên như cơm bữa nên không có gì đáng bàn ngoài cái chuyện đêm đêm:
   
Ðàn ông gì thứ đàn ông
    Nửa đêm trở dậy cắm chông đàn bà
    Ðàn bà gì thứ đàn bà
    Nửa đêm trở dậy rút ruột già đàn ông
Thỉnh thoảng mới có vài trường hợp cá biệt như:
   
Lấy chồng từ thủa mười lăm
    Chồng chê tôi bé không nằm cùng tôi
    Ðến năm mười tám đôi mươi
    Tôi nằm dưới đất chồng lôi lên giường
    Một rằng thương, hai rằng thương
    Có bốn chân giường gãy cả còn đâu...
Chẳng cần phải giải thích ai cũng thừa biết là thương ở trong lòng thì làm sao gãy được chân giường, chẳng qua chuyện gãy cả mấy cái chân giường là do tòm tem sôi nổi mới ra cớ sự. Tuy nhiên cũng không thiếu gì những trường hợp có kẻ vì những lý do không được tiết lộ nào đó mà cứ phải bóp bụng thở than:
    
Chàng ơi bỏ thiếp làm chi
    Thiếp là cơm nguội để khi đói lòng
 Nhờ xã hội bày ra cái chuyện tòm tem phải có đăng ký chính thức này mà có những ông vốn coi trời bằng vung bắt đầu biết sợ, dĩ nhiên là không phải sợ trời mà sợ kẻ cao hơn trời nữa kia. Riêng các bà thì có một số khỏi phải khổ công đèn sách, đánh giặc hay phấn đấu công tác cũng bỗng dưng trở thành cô Tú, bà Bác sĩ, bà Thiếu tướng, bà Tỉnh trưởng v.v... để ra oai tác yêu tác quái, có khi còn thêm màn phụ diễn "gà mái đá gà cồ". Ðiều này có vẻ như là một bất công đối với phái nam vì khi một anh chàng nghèo dốt đặc nào đó vô phúc vớ được một bà luật sư, bà bác sĩ cũng không bao giờ được thiên hạ gọi là ông luật sư , ông bác sĩ gì cả để mà hậm họe với đời hay lên lớp chị vợ.
 
Thời còn chế độ phong kiến thì tuy vua thay trời trị dân, nhưng vì có vài ông vua lại học được cái câu
"nhất vợ nhì trời" của dân gian nên có nhiều bà gốc dân giã, không cần dựng cờ khởi nghĩa để làm vua mà chỉ cần được một ông vua loại trên tuyển về làm Hoàng hậu rồi sau đó lại còn lên Thái hậu là cũng đủ làm cho đất nước điêu đứng.
 
 Riêng đối với đa số các bà thường thường bậc trung không có gì để thi thố với đời thì nhờ có sẵn nhãn hiệu cầu chứng lận trong lưng nên rất hãnh diện phô trương cái thành quả tòm tem của mình, đi đâu cũng vác cái bụng phình chương ướng nghễu nghện ra cái điều ta đây nết na đức hạnh để cho xã hội nhìn vào mà nể nang chứ không giống như mấy cô nàng tòm tem lén, tòm tem chui, lỡ có kết quả là tìm cách dấu còn hơn
"mèo dấu cứt".
 
 Mặc dù các nhà đạo đức và các nhà luật pháp thường khuyến cáo con người chỉ nên và chỉ được tòm tem có đăng ký chính thức tại một nơi thường trú, nhưng nhiều khi vì tính ham vui mà có những cặp chưa kịp làm xong thủ tục đăng ký đã tòm tem. Ðây là loại tòm tem lén cha lén mẹ. Hình thức này rất phổ biến trong lứa tuổi rường cột của tương lai nên đây cũng là niềm lo lắng của các bậc làm cha mẹ. Tuy nhiên có nhiều cô cậu gặp khó khăn trong vấn đề đăng ký hành nghề, thì lại nhờ cái khoản có kinh nghiệm hành nghề trước mà sau đó được cấp giấy phép điều chỉnh, hoặc cũng có khi là bị bắt buộc điều chỉnh giấy phép tùy trường hợp.
 
 Cũng có khi đã đăng ký có nơi có chốn, nhưng vì thích điều mới lạ hoặc ngán cơm nhà ăn hoài nhạt miệng nên ở đâu lúc nào cũng có chuyện
"ông ăn chả bà ăn nem" hoặc là ông đi lính "nhảy dù" bà đi tìm nơi "ăn vụng". Ðây là loại tòm tem chui, trốn thuế cho nên thường xảy ra nhiều màn đấu gươm, nổ súng, rượt bắt rất sôi nổi, hoặc nhiều cảnh trừng trị rất rùng rợn. Ngày xưa khi mà "phép vua thua lệ làng", dân nông thôn ở các vùng ven sông đôi khi vẫn vớt được đôi trai gái bị trói thúc ké thả trôi theo giòng nước chỉ vì bị bắt quả tang đang ăn vụng.
 
 Thời Ðệ nhất Cộng hoà, có một ông quan nhà binh súng ngắn nọ không thích bắn súng đồng ngoài chiến trường mà chỉ thích bắn súng cao su ở các vũ trường. Quan bắn giỏi quá nên có một em ca ve xin được rước quan về cận vệ cho mình. Chị cả ở nhà thấy quan lâu ngày không chịu cho mình khám súng mà cứ vác súng đi suốt đêm nên cho tay em đi điều tra. Tay em tìm ra cớ sự bèn về bẩm báo và hiến kế cho chị Cả nên tặng cô nàng nọ một liều a xít để biến cô nàng thành đống sắt vụn. Báo hại sau vụ ấy cả miền Nam mỗi khi nghe có ai nói tới hai tiếng
''a xít Cẩm Nhung'' là các bà các cô đua nhau tìm đường chạy trối chết.
 
 Có những bà vì không có phương tiện để theo dõi tìm tòi hoặc không muốn lặn lội thanh toán kẻ địch ở xa cho nhọc công phí sức, nên cứ nhắm ngay đối tượng gần là ông chồng mà trị tội cho tiện. Nghe đâu thời Tây còn cai trị xứ Nam kỳ có cô Năm Huờn ở chợ Đủi giận ông chồng không chịu tòm tem với mình mà cứ đi tìm người khác để tòm tem cho nên mới nổi tam bành rưới xăng đốt luôn ông chồng làm đuốc cho đời soi chơi.Cảm ưứng từ việc đó mà ông nhạc sĩ họ Lê sáng tác bài nhạc
''Đốt chồng''
 
Thời Liên khu V kháng chiến, nghe đâu tại Mộ Ðức cũng có một nữ cán bộ thấy đồng chí chồng cứ đi công tác với các nữ đồng chí ấp khác mà không chịu sinh hoạt ở ấp nhà nên tức giận dùng dao phay chặt phăng cái lệnh công tác của đồng chí chồng. Tin này được nhanh chóng loan truyền trong hàng ngũ cán bộ, do đó mà sau này trong các buổi họp giao ban, mỗi khi có đồng chí nào đó thích thảo luận cù nhầy mà có nữ đồng chí nào giơ tay phát biểu: "Tôi xin cắt đứt đồng chí" là các nam đồng chí hè nhau bỏ chạy xanh cả mặt.
 
 Tòm tem chui có khi
"chùa" mà cũng có khi là "tiền trao cháo múc". Nếu là tòm tem theo kiểu tiền trao cháo múc thì thường phái nam là kẻ phải chi tiền, họa hoằn mới có vài anh mày dày mặt dạn được đời tặng cho cái danh hiệu là "đĩ đực". Riêng khối chị em ta là vừa được tòm tem lại có tiền ăn bánh nên có nhiều cô nàng bất cần miệng đời khen chê đã xin chọn con đường này làm "con đường em đi". Xã hội nào mà có nhiều cô nàng chọn con đường này thì mấy bà phước ở trong xã hội đó lại càng có dịp nuôi một bầy con không phải con mình. Tuy nhiên cũng có những trường hợp cá biệt, có những cô nàng lúc đầu đi con đường này, nhưng sau đó tình cờ vớ được một anh chàng kiểu Từ Hải mà bỗng hóa thành mệnh phụ phu nhân, trở nên danh giá, ban ân ban phước cho đời. Ấy là chưa kể đến chuyện vào hậu bán thế kỷ 20 lại còn có thêm hiện tượng hàng loạt chị em ta nhờ tòm tem với của lạ nước ngoài mà về sau biến thành Việt kiều được đồng bào cả nước mến mộ vì mấy đồng đô la trong ví.
 
 Ngoài các hình thức tòm tem có đăng ký, tòm tem lén, tòm tem chui, tòm tem nhảy dù còn có một hình thức nữa gọi là tòm tem ẩu. Ðây là một hình thức tòm tem không thông qua sự thỏa thuận của đôi bên mà chỉ đến từ một phía. Loại tòm tem này có thể là hình thức nhẹ như của mấy anh chàng thích thả dê theo kiểu trong ca dao:
   
Vú em chum chúm hạt cau
    Cho anh bóp cái có đau anh đền
    Vú em chẳng đáng một tiền
    Cho anh bóp cái anh đền quan năm
Có nhiều anh chàng nhờ trước thả dê, sau thành duyên nợ, nhưng cũng có khối anh chàng bị ăn tát tai, đòn gánh, guốc cao gót có khi lỗ máu đầu, hoặc phải ra hầu toà về cái tội hành nghề không có giấy phép.
Hình thức mạnh thì thường đi kèm với dao găm, lưỡi lê, súng đạn, hoặc ít nhất là cũng đôi cánh tay gân guốc. Ðây là một hình thức dã man thô bạo, thường gắn liền với những tội ác mà con người không thích thấy nhưng lại cứ hay diễn ra tại những nơi nào có chiến tranh, loạn lạc, bất công và áp bức. Chuyện kiểu này thì vô cùng, xin để dành phần hành này cho các nhà làm chính trị, các nhà làm luật pháp, các nhà rao giảng đạo đức, tôi không dám lạm bàn.
 
 Mặc dù tòm tem là một nhu cầu tự nhiên nhưng con người lại thích khoác cho nó cái vẻ không tự nhiên cho nên mới sinh ra lắm cái nực cười hay những chuyện thương tâm đầy nước mắt.
Trong một phiên họp Quốc hội thời Ðệ nhất Cộng hòa tại Miền Nam để biểu quyết một dự luật về vấn đề bảo vệ tòm tem, có hai vị dân biểu nọ tranh luận nhau sao đó mà vị nữ dân biểu bỗng đứng dậy một tay rút guốc đập lên bàn, một tay xỉa xói vào mặt vị nam dân biểu và the thé:
"Không có đàn bà làm sao có đàn ông?" Vị nam dân biểu bị xúc phạm liền hùng hổ không kém đứng lên vung tay quát: "Không có đàn ông làm sao có đàn bà?" Chẳng ai biết hai vị dân biểu kia rốt cuộc ai thắng ai nhưng dân chúng nghe qua chuyện này đều ôm bụng cười và bảo nhau là hai vị nọ rõ khéo thừa hơi vì nếu không có tòm tem thì làm quái gì có đàn ông hay đàn bà để mà cãi cọ.
(còn tiếp)
 
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22139
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Dec/2010 lúc 10:39pm
Đổi Mỹ Nhân lấy ngựa
 
Tô Đông Pha là một thi hào danh tiếng đời nhà Tống (950-1275). Ông có mộ cô hầu tuyệt đẹp tên Xuân Nương. Vì bất đồng ý kiến với Tể Tướng Vương An Thạch nên bị nhà vua trích đi Hoàng Châu.

Lúc sắp lên đường, có người bạn làm chức quan Vận Sứ họ Tưởng đến nhà Tô chơi để tiễn biệt.

Tô Đông Pha bảo Xuân Nương ra mời khách uống vài chén rượu, cảm khái biệt ly. Thấy Xuân Nương đẹp như tiên nga, họ Tưởng giật mình hỏi:

- Cô bé này có đi theo bác không?

Tô bảo là Xuân Nương không muốn đi theo vì đường sá xa xôi khó nhọc nên xin trở về nhà nàng. Nhân đó, họ Tưởng nói:

- Vậy thì bác cho phép tôi đem con ngựa bạch tuyệt hay để đổi lấy cô Xuân có được không?

Đông Pha ưng chịu.

Họ Tưởng lấy làm khoan khoái vô cùng, liền ứng khẩu làm bài thơ tứ tuyệt:

"Tiếc gì con ngựa đẹp như mây,

Ơn bác cho tôi đổi gái này,

Giờ mất nhạc vàng rung bóng nguyệt,

Nhưng thêm má phấn bạn làng say".

Nguyên văn:

"Bất tích sương mao võ tuyết đề,

Đẳng nhân phân phó tặng nga mi.

Tuy vô kim nặc tê minh nguyệt,

Khước hữu giai nhân bỗng ngọc bì".

Tô Đông Pha cũng ứng khẩu đáp lại:

"Cô Xuân đi vậy cũng xa xăm,

Dầu chẳng kêu ca chớ giận ngầm.

Vì nỗi non sông nhiều hiểm trở,

Đổi người lấy ngựa phải đành tâm".

Nguyên văn:

"Xuân Nương thử khứ thái thông thông,

Bất cảm đề thanh tại hận trung.

Chỉ vị sơn hành đa hiểm trở,

Cố tương hồng phấn hoán truy phong".

Xuân Nương nghe hai người đối đáp nhau và có một hành động khinh thường nàng như thế nên bực tức, đỉnh đạc nói:

- Tôi nghe nói ngày xưa vua Tề Cảnh Công muốn chém tên giữ chuồng ngựa mà Yến Tử cản ngăn. Chuồng ngựa nhà mình cháy, Khổng Phu Tử chỉ hỏi thăm có ai chết không, chớ không hỏi ngựa sống chết mất còn. Ấy là người ta quý người khinh vật. Nay học sĩ đem người đổi lấy ngựa, thì ra quý vật mà khinh người.

Đoạn, Xuân Nương cũng ứng khẩu làm một bài thơ:

"Chém cha cái kiếp của đàn bà,

Khổ sướng trăm bề há bởi ta.

Giờ mới biết người thua giống vật,

Sống làm chi nữa trách ai mà".

Nguyên văn:

"Vi nhân mạc tác vị nhân thân,

Bá ban khổ lạc do tha nhân.

Kim nhật thùy tri nhân tiện súc,

Thử sinh cẩn hoạt oán thùy sân".

Đọc xong, nàng vội lao mình ra sân đập đầu vào cây mà chết.

Thấy thân xác nàng quằn quại trên vũng máu đào bên cội cây, cả hai vô cùng hối hận, nhìn nhau ngậm ngùi nhỏ lệ.

Nhưng đã muộn rồi.

(Điển cố)



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Dec/2010 lúc 10:42pm
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 30/Dec/2010 lúc 4:35pm

.

 
TÒM TEM
(Tiếp theo)
 
 
 
Cái chuyện tòm tem không phải chỉ có người mới thích mà ngay cả thần tiên cũng còn đam mê. Trong dân gian vẫn truyền tụng những câu truyện như Sơn Tinh và Thủy Tinh chỉ vì tranh nhau nàng công chúa con vua Hùng mà đánh nhau hết năm này sang năm khác, gây ra cảnh gió mưa bão lụt làm khổ cho dân. Lại có những nàng tiên còn vương vấn mùi tục lụy nên mới xui khiến cho chàng Từ Thức lạc động Hoa vàng. Có nàng thì lại còn ham vui xuống tận trần gian xem hội của người đời để rồi gây ra cớ sự khiến cho phải vướng vào duyên nợ với người trần như truyện Giáng Kiều và Tú Uyên.
 
 Tòm tem là nguyên lý của sự sống cho nên hình như dân tộc nào cũng đề cao. Văn minh Văn lang cũng có sự tích
"ông Ðùng bà Ðà". Tương truyền là ngày xưa có nhà nọ sinh ra được hai con một trai một gái. Ðến tuổi trưởng thành thì cả hai chị em nhà này đều cao lớn dị thường do đó khi bắt đầu biết đến tòm tem thì nhìn quanh nhìn quẩn không thấy đâu có đối tượng có khả năng hợp tác với mình nên cuối cùng cả hai đành phải hợp tác với nhau. Dân làng cho rằng đây là một hành vi loạn luân bèn xúm lại tẩm quất cho hai chị em nhà này một trận, đến lúc dừng tay lại thì chỉ còn thấy hai đống thịt. Dân làng sợ Trời phạt cái tội cả gan hủy diệt cái nguyên lý của sự sống mà bắt phải tuyệt tự cho nên mới lập đền thờ. Hằng năm đến ngày giỗ thì lại làm hai hình tượng khổng lồ rước đi nghễu nghện khắp làng sau đó là trai gái trong làng được một đêm tự do ra đình làng tòm tem bằng thích để tạ tội. Nghe chuyện này biết đâu chừng có nhiều người cũng đang tiếc hùi hụi tại sao ta lại không được sinh ra tại cái làng ấy.
 
 Khờ khạo như Bờm nhưng một khi đã biết đến tòm tem thì cũng mê mẩn ra phết. Chuyện kể là ngày xưa có hai ông bà hiếm hoi sinh hạ được có mỗi một cậu con trai đặt tên là Bờm. Vì sợ mất giống nên Bờm được cha mẹ cưới vợ cho rất sớm. Chị vợ lớn hơn Bờm nên hàng ngày cứ phải bế chồng đi chơi, đút cơm và lo tắm rửa cho chồng năm này sang năm khác mà ban đêm thì chẳng xơ múi gì. Ðùng một cái đến cái năm con chuột rúc rích gầm giường, chị vợ táy máy sao đó mà Bờm bừng sáng trí khôn hiểu ra cái lẽ sống ở đời.
 
 Từ hôm ấy Bờm cứ mê mẩn quanh chị vợ tối ngày làm chị vợ không còn thì giờ làm công việc nhà nên bị bà mẹ chồng đay nghiến nhiếc móc. Chị vợ ức quá bèn dấu cục đá dưới váy rồi dẫn chồng đến bờ ao lôi cục đá thảy tòm xuống ao và bảo chồng:
"Thôi nhé! Tôi đã quăng cái tòm tem xuống ao rồi! Từ nay đừng có theo tôi mà đòi nghe rõ chưa." Bờm tiếc của trời nên ngày nào cũng lội xuống ao mò mẫm. Ðược vài ngày chị vợ thấy vừa thương hại vừa nhớ nên mới ra ao bảo chồng: "Thôi về nhà đi rồi tôi đền cho! " Bờm không dám tin vào người vợ đã từng nhẫn tâm quăng mất niềm vui của mình nên cứ ở lì dưới ao. Chị vợ tức quá bèn vén váy vỗ phành phạch mà bảo: "Nó đây rồi nè!" Bờm ngước lên thấy vợ mình vẫn còn giữ cái món của hồi môn tưởng chừng như đã bị quăng mất ấy y nguyên chỗ cũ bèn hớn hở bò lên theo vợ về nhà. Nghe nói từ đó về sau Bờm tòm tem rất tiến bộ, sinh ra cả bầy con, rồi con cái Bờm lại nối gót mẹ cha mà tòm tem cần cù để tiếp tục sinh ra cháu chắt hàng đàn hàng đống ở chật ních cả giải đất hình chữ S.
 
 Chuyện tòm tem mà có nói mãi thì cũng không bao giờ cùng, cho nên tôi cũng không tài nào nói hoài, chỉ xin tóm lại một câu: dân tộc ta qua hàng ngàn năm nô lệ, hàng ngàn năm thiếu ăn, hàng ngàn năm chinh chiến, người chết như rơm rạ mà vẫn không bị diệt chủng là vì nhờ dân ta ở đâu lúc nào cũng khoái tòm tem và có thể tòm tem. Và
cũng chính vì nhờ có chút tòm tem mà đời vẫn còn vui để cho chúng ta cứ mê muội ngụp lặn trong vòng khổ ải.




 
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
Trang  of 5 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.174 seconds.