Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh
Message Icon Chủ đề: Ngự tửu Minh Mạng thang Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
6longchanh
Newbie
Newbie
Avatar

Tham gia ngày: 07/Nov/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 6
Quote 6longchanh Replybullet Chủ đề: Ngự tửu Minh Mạng thang
    Gởi ngày: 07/Mar/2008 lúc 5:17pm

Ngự tửu Minh Mạng thang

** Sưu tầm từ Internet.
 
Rượu này trở thành một đặc sản của Việt Nam kể từ ngày Việt Nam mở cửa cho du lịch và kinh tế thị trường để góp nhặt ngoại tệ. Cái gì thuộc về vua chúa nhà Nguyễn trước bị chửi là phong kiến, áp bức thì nay được xưng tụng là di sản văn hóa, trong đó có toa thuốc của Vua Minh Mạng. Toa thuốc này truyền tụng từ lâu ở Huế,  được đồn là do vài vị ngự y chép được. Trong sách Nguyễn triều cố sự ; Huyền thoại về Danh lam xứ Huế ( 1996), tác giả Bửu Kế chép ra hai bài thuốc vua Minh Mạng như sau theo tài liệu của Lương Y Tuệ Tâm:

 

I - Nhất dạ ngũ giao

Thành phần:

1- Nhục thung dung 12g

2- Táo nhân 8g

3- Xuyên Qui 20g

4- Cốt toái bổ 8g

5- Cam cúc hoa 12 g

6- Xuyên ngưu tất 8g

7- Nhị Hồng sâm 20g

8- Chích kỳ 8g

9- Sanh địa 12g

10 -Thạch hộc 12g

11- Xuyên khung 12g

12- Xuyêntục đoạn 8g

13- Xuyên Đỗ trọng 8g

14- Quảng bì 8g

15- Cam Kỷ tử 20g

16- Đảng sâm 10g

17- Thục địa 20g

18 - Đan sâm 12 g

19- Đại táo 10 quả

20- Đường phèn 300 g

(Toa này có người nói là „Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử" nghĩa là có một lần làm thụ thai... song sinh!!)

Cách ngâm: Đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 3 lít rượu nếp ngon trong 5 ngày đêm. ngày thứ sáu, nấu nửa lít nước sôi với 300 g đường phèn cho tan ra, để nguội, rồi đổ vô thẩu, trộn đều đến ngày thứ 10 thì đem ra dùng. Ngày 3 lần sáng, trưa , tối, mỗi lần 1 ly trà. Dùng liên tục.

II- Nhất dạ lục giao

Thành phần:

1-Thục địa 40g

2- Đào nhân 20g

3-Sa sâm 20g

4- Bạch truật 12g

5 Vân qui 12g

6- Phòng phong 12g

7- Bạch thược 12g

8- Trần bì 12g

9-Xuyên khung 12g

10- Cam thảo 12g

11- Thục linh 12g

12- Nhục thung dung 12g

13- Tần giao 8g

14-Tục đoạn 8g

15- Mộc qua 8g

16- Kỷ tử 20g

17-Thường truật 8g

18-Độc hoạt 8g

19- Đỗ trọng 8g

20- Đại hồi 4g

21- Nhục quế 4g

22- Cát tâm sâm 20g

23- Cúc hoa 12g

24- Đại táo 10 quả

Cách ngâm: 24 vị thuốc trên ngâm với hai lít rưỡi rượu tốt trong vòng 7 ngày. Lấy 150 g đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vô keo rượu thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dần. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ, sáng, trưa , chiều trước bữa ăn. Bã thuốc còn lại ngâm nước hai với một lít rưỡi rượu ngon- một tháng sau dùng tiếp.

Chủ trị: Cả hai bài trên có tác dụng đại bổ thận, bồi bổ thần kinh, gia tăng khí huyết, tăng cường sinh lực, mạnh gân cốt, bán thân bất toại, dương sự kém, tăng tuổi thọ.

Vài nhận xét của người viết

Tôi mạn phép có vài nhận xét sau:

a- Trong hai bài thuốc, về cân lượng người ta dùng đơn vị Gramme (g). Ngày xưa ở Trung quốc dùng cân (chin), lượng ( liang), phân (fen). Nhưng ngay bây giờ, ở Trung quốc, người ta dùng những hệ thống khác nhau về cân lượng như 16 lượng, 12 lượng, 10 lượng; thậm chí ở các vùng quê hẻo lánh, người dân dùng hệ thống. 18 lượng, 20 lượng và 24 lượng. Những ấn định về đo lường trong nhiều triều đại đã làm cho vấn đề cực kỳ phức tạp. Kể từ năm 1979, miền Hoa lục đã chuyển theo hệ thống thập phân (metric system) thay vì là hệ thống cân lượng, nên trong nhiều sách thuốc in tại Hoa Lục , hệ thống trọng lượng được thống nhất như sau, để dễ bề tính toán::

1 lượng = 30 g ( hiện nay chính xác hơn là 31 .25 g)

1 tiền = 3g

1 phân = 0.3g

Vậy về phân lượng trong 2 toa thuốc Minh Mạng thang trên, ta không rõ lương y Việt Nam đã dựa vào toa nguyên gốc mà đổi ra gờ ram hay phỏng chừng đổi theo cách thực dụng mới cho tiện việc cân khi mua thuốc.

b- Trong toa Nhất dạ ngũ giao, những vị thuốc bắt buộc phải kén chọn theo nguồn gốc sản xuất, vì các tên thuốc có kèm tên vùng thổ sản như Tứ Xuyên, Cam túc, vùng Lưỡng Quảng, ví dụ chẳng hạn như phải đòi hỏi thuốc từ Tứ Xuyên như Đương Qui, Ngưu Tất, Tục đoạn, Đỗ trọng, Xuyên khung. Trong khi trong toa Nhất nhật lục giao, thì chỉ có Vân Qui và Xuyên Khung là gốc Vân Nam và Tứ Xuyên, còn những vị Tục đoạn, Đỗ trọng, Kỷ tử thì không nói rõ từ ở đâu

c- Điều này rất quan trọng là phân lượng những thành phần kê ra trong một toa thuốc Bắc phải dựa trên tình trạng của mỗi bệnh nhân như thể chất yếu hay khỏe, bịnh trạng nặng hay nhẹ, bệnh tình mới hay lâu. Thành ra hai bài thuốc kê trên không phải là loại "one size fits all".

Do đó, với tư cách người biên khảo vô tư nhưng rất thận trọng về ý thức trách nhiệm, tôi khuyến cáo bạn đọc không thể đơn phương quyết định áp dụng sự tự điều trị cho cá nhân mình mà không tham khảo những vị lương y có thẩm quyền chuyên nghiệp, nhất là những nữ bệnh nhân mang thai, hay những người có chứng huyết áp cao hay những rối loạn bệnh lý hiểm nghèo khác. Một vị thuốc tuy có vẻ hiền lành nào cũng có thể có những phó tác- dụng bất ngờ nhất là thuốc Bắc chưa được kiểm nghiệm như thuốc hiện đại trước khi bán ở thị trường.



Chỉnh sửa lại bởi 6longchanh - 07/Mar/2008 lúc 5:18pm
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.129 seconds.