![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Âm nhạc | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
Người gởi | Nội dung | |
Huy-Tưởng
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 15/Aug/2008 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 164 |
![]() ![]() ![]() Gởi ngày: 26/Apr/2012 lúc 7:46am |
|
Ông giáo sư dạy Sử
Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại
Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang vào những năm 1972-1973. |
||
mhth
|
||
![]() |
||
hoangngochung
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 27/Nov/2010 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 513 |
![]() ![]() ![]() |
|
(Hồi ký của Vương mộng Long k20, Viết để nhớ về bạn bè của tôi ở trung học Trần Quý Cáp Hội-An, và nhớ về những thuộc cấp của tôi trong binh chủng Biệt Động Quân/QLVNCH)
Gia đình tôi dọn về khu chùa Âm-Bổn, Hội-An khi tôi học xong Đệ Lục
trung học Trần Quý Cáp. Tôi có bốn người bạn thân, Trần ngọc Lợi, Lê
văn Bảy, Ngô Rân, và Lê hữu Mục. Năm đứa chúng tôi chơi với nhau từ Đệ
Thất. Tối tối chúng tôi tụ họp trên lề xi
măng sát bờ sông Thu-Bồn, trên đường Bạch-Đằng, đối diện với nhà bác
Trần ngọc Mai, thân sinh của anh Trần ngọc Lợi. Chúng tôi tâm sự, chuyện
vãn, học bài dưới ánh điện đường. Đôi khi cao hứng, chúng tôi ngâm nga
những bài thơ vừa học trong giờ giảng văn, thơ Nguyễn Khuyến, thơ Tản
Đà, thơ Xuân Diệu… vân vân. Thời cụ Diệm, đất nước thanh bình. Nhà,
phố, ban đêm không cần khóa cửa. Tuổi trẻ hồn nhiên. Tâm hồn tôi thơ
thới. Đời tôi chưa vướng chút âu lo gì về hòa bình hay chiến tranh. Có
khi, Thứ Bảy, tôi và bạn quây quần bên nhau cho tới nửa đêm mới chia
tay, ai về nhà nấy. Trừ những ngày nước lũ, mùa dông, dòng Thu-Bồn lúc
nào cũng mờ mờ hơi khói sương, đầy nét mơ màng. Dòng sông ấy là một
trong những dòng sông tôi yêu quý nhứt. Lớn lên, tôi sống xa Hội-An,
nhưng mỗi khi có dịp ghé về, tôi thường lang thang nhiều giờ, bên bờ
sông, nhìn những con đò ngang, đò dọc, nhìn bèo trôi, mây bay… Một hôm, tôi vớ được “Paris Có Gì Lạ Không Em” của Nguyên Sa, tôi
viết nó lên bảng cho bạn bè thưởng lãm, ai cũng khen thơ ông này có cái
phong thái mới lạ, dễ thương… Bạn cùng lớp tôi ai cũng rõ tôi là “Công-Tử Nhất-Bộ” vì mỗi năm, tôi
chỉ có một bộ đồng phục. Tôi may bộ đồng phục đó sau khi lãnh học bổng
mỗi cuối niên khóa. Một cái sơ-mi trắng và một cái quần xanh. Tôi mặc
đồng phục đi học. Về tới nhà, tôi thay quần áo ra, đem giặt. Khi ở nhà
hoặc đi kèm trẻ, tôi mặc quần áo nhà binh, vừa rẻ, vừa bền. Mờ sáng, đi
gánh nước, tôi cởi trần, mặc quần dài xăn tới đầu gối. Đoạn đường từ
nhà tôi tới giếng nước nhà cô Cư, đèn đường mờ mờ. Lịch tập thể dục
hàng tuần của trường Trần Quý Cáp chia ra, học trò con trai tập thể dục
vào những ngày chẵn, Thứ Hai, Tư, Sáu. Học trò con gái tập thể dục vào
những ngày lẻ, Thứ Ba, Năm, Bảy. Bạn gái cùng lớp tôi, đi tập thể dục,
thường xuyên đụng đầu một “thi nhân” đang hùng hục leo dốc với hai
thùng nước đầy, đung đưa bên hông. Bọn nữ tặc túm năm, tụm ba, chặn
đường tôi, réo gọi om xòm, “Anh Vọi ơi! Anh Vọi ơi! Dừng chân cho chúng
em tỏ một đôi lời đi!… Anh Vọi ơi!” Vào năm Đệ Tam, vì không còn học bổng, trong niên khoá, tôi phải đi
dạy kèm buổi tối. Học trò của tôi là hai bé trai tiểu học, em của chị
Thảo. Cuộc sống của gia đình tôi khá hơn, vì mỗi tháng tôi kiếm thêm
được ba trăm đồng, nhưng công việc học hành của tôi lại bận bịu hơn.
Tôi phải học hành chăm chỉ hơn, vì lệnh động viên đã bắt đầu. Chậm chân
rớt lại đàng sau, có thể bị gọi đi lớp hạ sĩ quan. Đối với vấn đề văn
nghệ, văn gừng, thơ phú, tôi cũng thờ ơ. Thời gian này tôi không có bạn
gái, vì không có nữ sinh nào theo phân ban Toán (B). Nhiều lần áo tôi
rách bươm, không người vá giùm.
Seattle, tháng 11 năm 2006 |
||
hung0989077120@ahoo.com
|
||
![]() |
||
hoangngochung
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 27/Nov/2010 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 513 |
![]() ![]() ![]() |
|
![]() Trường trung học Trần Quý Cáp - Hội An ![]() Thiếu tá Vương Mộng Long và phu nhân Chỉnh sửa lại bởi hoangngochung - 27/Apr/2012 lúc 9:43pm |
||
hung0989077120@ahoo.com
|
||
![]() |
||
hoangngochung
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 27/Nov/2010 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 513 |
![]() ![]() ![]() |
|
THÁNG MƯỜI, NHỚ LẠIVương mộng Long....
![]() Tháng Mười lại tới rồi! Nếu ở Huế, thời tiết đã bắt đầu chuyển mùa vào Đông. Huế tháng Mười, trời mờ sương. Gió nhẹ và se lạnh. Những hàng cây sấu, cây bông sứ, cây phượng, dọc hai bên đường Lê-Lợi, từ chân cầu Tràng-Tiền tới Ga đã trụi lá. Liễu vẫn rũ bên sông, đò vẫn đưa, nước vẫn xuôi dòng, nhưng người qua lại đông hẳn lên vì trên con đường này có Viện Đại-Học, có Quốc-Học, có Đồng-Khánh. ![]() Bướm vàng đã hiếm bay, nhưng áo len màu, choàng ngoài áo dài trắng, thì nhiều lắm.
![]() Mấy hôm rày, (tháng Mười 2006) bạn bè tôi đưa tin Huế đang bị lụt, tôi nhớ lại chuyện xưa; nhớ lại một ngày trong đời mình.
![]() Ngày 1 tháng Mười, cách nay đúng 40 năm (1966) có một người lính, áo hoa rừng, bước thấp, bước cao, đi qua, rồi đi lại, nhiều lần, đoạn đường từ Ga Huế, về tới chân cầu. Người lính tửng tửng đó là tôi, Biệt Động Quân Vương mộng Long. Trên đường, tôi đã gặp vài người quen ngày xưa, hồi còn ở Hội-An. Nói chuyện đôi lời, bạn vào trường, tôi tiếp tục bách bộ. Chẳng nhớ tôi đã đánh mấy vòng qua đoạn đường này trong thời gian từ trưa tới chiều. Tôi đã làm cái màn bách bộ tửng tửng này để giã từ Huế. Hôm ấy, trong túi tôi có cái sự vụ lệnh về trình diện Chiến đoàn 1 Biệt Động Quân đóng tại bãi cát Phú-Lộc, Hoà-Khánh, Đà-Nẵng. Tôi vừa được phóng thích từ Quân-Lao Mang-Cá.
![]() Tôi bị giam ở đây 30 ngày vì tội tham gia vào vụ "Phản Loạn Miền Trung". Sáng hôm sau, tôi rời Huế, rồi từ đấy tôi chưa một lần về lại nơi đây.
Chiều ngày 2 tháng Mười năm 1966, tại hậu cứ Phú- Lộc (Đà-Nẵng) của Chiến đoàn 1/BĐQ, một người to lớn, ngồi trên bàn, hai tay chống trên mặt bàn, đôi chân đánh đung đưa, hai vai nhún nhún, đàng trước, đàng sau. Người đó đang nhìn ra cửa. Ông ta đeo kiếng đen, mặc quân phục đen, giầy sault đen. Trung tá Sơn Thương, chiến đoàn trưởng, bắt tay tôi, rồi rất ôn tồn, "Trước ngày đi tù, cậu đã làm đại đội trưởng ở TĐ11 BĐQ phải không?" "Thưa trung tá, tôi coi đại đội 3/11." Ông bỏ cặp kiếng đen ra, nghiêng đầu ngó tôi một lúc, rồi ra lệnh cho ban 1, "Làm sự vụ lệnh cho Thiếu úy Vương mộng Long về TĐ 39 thay thế Trung úy Phan thọ Hạnh thuyên chuyển." Hôm sau, tôi vào lấy sự vụ lệnh. Sự vụ lệnh không ghi cho tôi đi Miếu-Bông, Đà-Nẵng để thay thế Trung úy Phan thọ Hạnh. Nơi tôi sẽ tới ghi trên cái sự vụ lệnh này xa xôi lắm, vùng 2! Quyết định của Tư lệnh quân khu 1 thật rõ ràng: Hoàn trả sĩ quan đương sự về TĐ11/BĐQ (đang ở Biển-Hồ, Pleiku). Lý do: Sĩ quan đương sự không được phép phục vụ tại vùng 1 Chiến Thuật.
Tôi đành lếch thếch balô mang vai, "tìm đường lên núi". Ngày ấy ở Pleiku, Tiểu đoàn trưởng 11/BĐQ là Đại úy Biên, TĐT/TĐ22 BĐQ là Đại úy Luận, và TĐT /TĐ23 BĐQ là Đại úy Chữ. Vì hồ sơ quân bạ của tôi lạc đi xứ nào không ai biết. Nếu cho tôi ra trận, rủi tôi đền nợ nước, thì không biết báo cáo ra làm sao? Báo cáo cho ai? nên chẳng ông tiểu đoàn trưởng nào nhận tôi về đơn vị. Trung tá Nguyễn đức Ninh, Chiến đoàn trưởng, Chiến đoàn 2/ BĐQ đành gửi tôi cho Thiếu tá Phạm văn Toán, Chiến đoàn Phó, để ông già Toán, "canh chừng cái Anh Chàng Thiếu úy Phản Loạn Miền Trung này." (nguyên văn). Ban quân lương chiến đoàn, Thượng sĩ Phong và Thượng sĩ Đăng, cảm thông hoàn cảnh của tôi. Hai ông trình với Đại úy Kính, ĐĐT/ĐĐ/YTCV ứng bừa cho tôi cái lương trung sĩ, "cứ làm sổ lương trung sĩ, cho ông có tiền ăn, hồi sau phân giải." Tôi được chỉ định tạm phụ tá ban 3 Chiến đoàn 2/BĐQ ở Biển-Hồ, Pleiku (nằm sát với hàng rào TĐ11/BĐQ). Hàng ngày tôi vào trại, giúp đỡ Đại úy Huân, ban 3, vẽ "nửa" cái phóng đồ, thảo "nửa" cái công điện, rồi leo lên xe Lamb ra phố. ![]() Bạn BĐQ vùng 2 cùng khóa 20 VB của tôi lúc đó chưa có ai leo lên tới chức chỉ huy đại đội. Chưa chàng nào có Jeep. Về phố, rủ tôi đi chơi, các bạn tôi phải dựa hơi các ông già đại đội trưởng, để mượn Jeep. Có Jeep thì mai vàng mới oai. Chúng tôi lang thang đầu con dốc này, tới cuối con dốc khác, phiêu du từ quán này, tới quán khác. Lúc nào đói bụng, chúng tôi chui vào Quán cơm Bình-Dân Ba Cò nơi bến xe cũ. Bà chủ quán cơm Ba Cò biết tên tôi từ dạo đó.
Lúc này Hội-Quán Phượng-Hoàng vui nhộn vô cùng. Khi mới đặt chân tới Pleiku, tôi cũng thường tới đây. Nhưng nhớ lời mẹ dặn,"xướng ca..." tôi dang xa dần nơi này. Nhứt là, khi thấy cô Trang ca-ve đập bầu, rồi cột cổ anh bạn Thiếu úy Hữu của tôi, bắt làm cha khai sinh đứa bé mới ra đời, tôi không dám bén mảng tới đây nữa. Ông Tướng vùng hào hoa và bình dị Vĩnh-Lộc không có vẻ gì là ghét bỏ BĐQ. Đã có lần, chúng tôi 4 đứa, Bửu, Long, Hùng, Ngọ, súng xệ ngang hông, giăng một hàng ngang, đi bộ từ từ trước cái xe Falcon đen của ông Tư lệnh đang tới, trên đường Phan bội Châu, Pleiku. Quân Cảnh bóp còi inh ỏi. Bốn chàng BĐQ rút súng bắn chỉ thiên tám phát lên trời. Đạn nổ đoàng, đoàng, cành phượng gãy, hoa phượng rơi.
Bắn xong, bốn đứa chúng tôi quay súng một vòng trên ngón trỏ (như cao bồi thứ thiệt), rồi đút súng vào bao, chia đôi hai bên đường, trái, phải quay, miệng hô "hai! ba!" dơ tay chào, thế đứng nghiêm. Xe Tư lệnh ngừng, kiếng cửa xe hạ xuống. "Mấy thằng nhỏ điên hả?" Rồi kiếng xe lại nâng lên. Xe tiếp tục lăn bánh. Xe Tư lệnh quân đoàn rẽ phải, lên Hội Trường nằm sát ban Biệt Cảnh. Tư lệnh đi tham dự ngày lễ gì đó. Ông Tướng không thèm trách cứ cái hành vi ngông nghênh càn quấy vừa qua của "mấy thằng nhỏ". Chính cái "phong cách Ngô-Khởi" của ông đã khiến những sĩ quan trẻ BĐQ chúng tôi xả thân quên mình nơi tuyến đầu.
Một ngày, khi tôi đang đọc "cọp" tờ nhựt trình ở sạp báo bé Hạnh, trước tiệm phở Kim-Phượng, thì một giọng nói Bình-Định đàn ông sau lưng hỏi, "Ông thiếu úy có biết tên Dương ở Tiểu đoàn 23/BĐQ không?" Một vị đứng tuổi, có lẽ trên 50, đang đứng sau lưng. "Dạ không! Thưa bác, tôi không quen ai tên Dương ở TĐ23 cả bác ạ." " Tôi là chú của thằng Dương. Nó ở Tiểu đoàn 23/ Biệt Động Quân, tôi tưởng thiếu úy quen nó. Nhà tôi gần đây, mời thiếu úy ghé chơi" "Cám ơn bác! Thôi! Để khi khác, lúc nào rảnh, tôi ghé nhà bác chơi."
Bác Ba có cô cháu gái mười tám tuổi, tên Dung. Cô Dung mặt như trăng rằm. Cô Dung má lúm đồng tiền, da ngăm ngăm đen. Cô làm nghề khuân vác gạo ngoài bến xe. Cô rất giỏi võ. Cô đánh roi, đi quờn vèo, vèo. Cô túm bao gạo trăm ký từ sàn xe, kê vai, vác đi nhẹ nhàng. Tới sạp, cô nghiêng vai, ném bao gạo trăm ký xuống đất, nhẹ nhàng. Từng hàng gạo xếp ngay ngắn, thẳng hàng. Thuở đó, bao gạo nặng bằng hai trọng lượng của tôi. Láng giềng nhà cô Dung có một người cùng xứ Phú-Phong với bác Ba là anh Nhơn. Anh Nhơn lái xe Lamb ba bánh. Anh là học trò ruột của bác Ba. Anh rất có cảm tình với tôi. Anh thường chỉ vẽ cho tôi những ngón nghề khi thực tập côn, quyền. Hình như anh Nhơn thương cô Dung. Một ngày không hành quân, chú Dương, Binh nhứt thuộc TĐ23/ BĐQ gặp tôi ở nhà bác Ba. Bác mổ gà đãi chúng tôi một bữa nhậu. Cuối tiệc, Dương kề vai tôi nói nhỏ, "Em Dung nó nói với tôi rằng, nó thương thiếu úy." Tôi cười cười lắc đầu. Tôi mến cô Dung lắm, nhưng không dám có ý nghĩ sẽ nhờ vị nữ hào kiệt này nâng khăn sửa túi. Chẳng rõ anh Nhơn có biết "ý riêng" của cô Dung đối với tôi không, mà từ đó, mỗi khi thực tập, anh Nhơn ra đòn không nương tay, tôi chống đỡ trối chết, anh vẫn truy kích không tha. Cũng hên là, dịp này, tôi có lệnh đòi của Toà, phải rời Pleiku. Nhờ thế, tôi thoát được những cú đá chết người của anh Nhơn. Tôi ra đi trong danh dự. Hú hồn! Ngày tôi trở lại Pleiku, thì cô Dung đã thành bà Nhơn, bà chủ xe Lamb chạy đường Lệ-Trung, Trà-Bá. Sau gần ba tháng ở Pleiku, không có quân sĩ dưới quyền, không hồ sơ quân bạ, không chức vụ rõ rệt, tôi được lệnh gọi ra Toà án Quân Sự Nha-Trang vì "tội phản loạn". Tới Nha-Trang, tôi không bị ra tòa án, mà ra Hội Đồng Kỷ-Luật của Đại tá Cách. Kết quả tôi bị nhốt thêm 60 ngày trong quân lao. Rồi tôi bị giáng xuống trung sĩ. Tôi về Đơn Vị 2 Quản-Trị Địa-Phương; doanh trại đặt ở đầu đường đi Thành, dưới chân núi. ![]() Trên đỉnh núi có tượng Phật Bà màu trắng. Ngày ngày, Phật Bà cúi nhìn tôi với con mắt rầu rầu, xót thương. Ngày ngày, tôi lủi thủi trong sân trại, cô đơn.
Trong gần 4 tháng đầu năm 1967, tôi làm việc dưới quyền một ông chuẩn úy mới ra trường. Vị chuẩn úy này lại là cựu trung sĩ BĐQ, thuộc cấp cũ của tôi. Tháng 2/1966, khi tôi vừa lên làm đại đội trưởng đại đội 3/11/BĐQ ở Điện-Bàn, Quảng-Nam, tôi đã ký giấy cho phép 2 hạ sĩ quan dưới quyền là Trung sĩ Thành và Trung sĩ 1 Khê theo học khóa Sĩ-Quan Đặc-Biệt Thủ-Đức. Mỗi tối, tôi theo Chuẩn úy Thành đi kiểm soát vài yếu điểm trong quân trấn Nha-Trang. Công việc của tôi khỏe re. Tôi chỉ ngồi bên ông chuẩn úy, theo xe đi kiểm soát một số yếu điểm. Ông chuẩn úy làm hết mọi việc, từ ghi chép tình hình, kiểm điểm quân số, đến ký sổ bàn giao. Mỗi khi tôi nhấp nhổm định xuống các trạm để làm công việc của mình, thì ông ta cản tôi lại, "Ông thày ngồi chơi. Để em lo!" Một hôm, có chiếc xe tang chạy ngang doanh trại tôi ở. Tới cổng Trường Bồ-Đề Nha-Trang, xe ngừng lại để bốc thân nhân. Thân nhân người chết đầu quấn khăn tang, nước mắt dầm dề. Hỏi ra, người vừa tử trận lại là bạn tôi. Người tử trận là Thiếu úy BĐQ Lê văn Hai khóa 20 Đà-Lạt. Nước mắt tuôn rơi. Tôi cảm thương bạn tôi. Tôi xa chiến trường đã mấy tháng rồi... Tháng Năm 1967 có toán tuyển mộ Biệt Động Quân tới Đơn Vị 2/ QTĐP tuyển quân nhân về bổ sung cho binh chủng. Tôi tình nguyện về lại Biệt Động Quân. Ông Thượng sĩ trưởng toán không dám ghi tên tôi vào danh sách. Ông ta nói trường hợp tôi, phải chờ quyết định của Đại tá CHT/BĐQ/QLVNCH. Tôi viết một cái thư riêng, đưa cho ông thượng sĩ, để trình cho Đại tá Trần văn Hai, trong đó có câu, "Tháng Năm năm ngoái, tôi là đại đội trưởng ĐĐ3/TĐ11/BĐQ, trấn giữ chùa Phổ- Đà, Đà-Nẵng. ![]() Chính tôi đã ra lệnh bắn 2 quả SKZ 57 ly chận đầu xe của Trung Tá Trần văn Hai, CHT/BĐQ/QLVNCH, ngăn không cho đoàn xe của ông tiến vào khu TĐ11 BĐQ kiểm soát. Một đơn vị Thiết giáp Hoa-Kỳ cũng bị chúng tôi bắn chặn khi xâm nhập vùng này. Sau khi tình hình yên ổn trở lại, tôi đã bị thi hành kỷ luật nặng nề. Từ một Thiếu úy tốt nghiệp khóa 20 TVBQGVN, tôi đã bị giáng cấp xuống trung sĩ. Tôi không khiếu nại, không than van. Tôi lúc nào cũng tự hào mình là một sĩ quan có kỷ luật trong vụ chính biến đó. Tôi chỉ là một sĩ quan thuộc cấp, tôi thi hành nghiêm chỉnh tất cả mệnh lệnh cấp trên giao phó. Nay, dù chỉ là một trung sĩ, tôi vẫn vui vẻ tình nguyện về phục vụ binh chủng mà tôi đã chọn lúc ra trường. Tôi nghĩ rằng Đại tá không nỡ từ chối ý nguyện của tôi."
Tuần sau, toán tuyển mộ lại xuất hiện, ông Thượng sĩ trưởng toán cười nói với tôi, "Đại tá nhận Trung sĩ về lại BĐQ rồi đó!" Tôi được chỉ định làm trưởng toán 4 người, gồm có tôi và 3 anh trung sĩ mới từ quân lao được tha. Bốn anh trung sĩ trẻ măng, có tên trong một sự vụ lệnh do tôi làm trưởng toán: TS Vương mộng Long, TS Huỳnh văn Nghệ, TS Trần văn Sơn, và TS Nguyễn mạnh Hà. Chúng tôi được nghỉ ba ngày để chuẩn bị. Sau ba ngày lang thang tắm biển, uống bia, nhậu rượu, giã từ bạn bè "đồng cảnh", chúng tôi vào lấy sự vụ lệnh và chứng chỉ ngưng lương để lên đường. Cái sự vụ lệnh đã đổi lại, lạ lùng! Trên đó, Thiếu úy HD Vương mộng Long làm trưởng toán, dẫn 3 Trung sĩ Nghệ, Sơn, Hà về trình diện TTHL/BĐQ/Dục Mỹ để hoàn tất thủ tục đáo nhậm đơn vị. Sau này, tôi nhận được một bản thông báo của Nha Quân Pháp về Quyết Định phục hồi cấp bậc thiếu úy của tôi, trong đó có bản sao phiếu góp ý của Đại tá Trần văn Hai, CHT/BĐQ/QLVNCH, tôi mới rõ nguyên ủy sự việc. Thì ra, khi nhận thư của tôi, Đại tá CHT/BĐQ/QLVNCH đã đọc lại hồ sơ quân bạ của tôi. Đại tá đã gửi gấp cho Nha Quân Pháp một phiếu đề nghị xét lại trường hợp của Vương mộng Long. Ông viết, "Thiếu úy Vương mộng Long là một sĩ quan đại đội trưởng có kỷ luật. Mọi chuyện sĩ quan này làm, hoàn toàn là thi hành lệnh trên." Ông Đại tá CHT BĐQ QLVNCH yêu cầu Hội đồng Kỷ Luật trả lại lon Thiếu úy cho tôi vì, "Trường VBQGVN đã gắn lon này cho nó! Tướng Thi không gắn lon này cho nó!" Ngày tôi đi, Chuẩn úy Thành theo chân tôi tới tận phòng ngủ của Thiếu úy Ngô văn Niếu, trong trung tâm huấn luyện BĐQ/Dục-Mỹ. Thiếu úy Niếu và 9 người nữa, bạn cùng khoá VB của tôi, đã tình nguyện ở lại Dục-Mỹ làm huấn luyện viên từ ngày học xong khóa 23 Rừng Núi Sình Lầy, sau khi mãn khóa 20 VB. Trước lúc lên xe về lại Nha-Trang, Thành còn đưa cho tôi 500 đồng, chú nghẹn ngào, "Suốt đời em không quên ông thày đâu!" Tôi với Chuẩn úy Thành bịn rịn mãi mới rời tay nhau. Tháng 12/1969 tôi có dịp tháp tùng Trung Tá Bùi văn Sâm, LĐT LĐ2 BĐQ ghé TTHL BĐQ Dục-Mỹ. ![]() Tôi mượn xe của Trung tá Phú, CHT TTHL BĐQ Dục-Mỹ chạy về Trung Tâm 2/QTĐP kiếm chú Thành. Bà chủ quán cơm đầu ngõ, nơi tôi và Thành ăn cơm tháng, cho tôi hay rằng, sau khi tôi đi, Chuẩn úy Thành được lệnh lên đường bổ sung quân số cho Sư đoàn 22/BB. Ông chuẩn úy đã chết trận ngoài Bồng-Sơn. Bốn thày trò tôi, Long, Hà, Sơn, Nghệ, sau khi trình diện Trung tá Hồ hữu Dõng, Liên đoàn trưởng, đã chia tay nhau đi các đơn vị trực thuộc liên đoàn, nhập trận. Trung sĩ Nguyễn mạnh Hà (TĐ23/BĐQ) đứt ruột sáng Mồng Một Tết Mậu Thân, giải ngũ. Trung sĩ Trần văn Sơn (Đại đội 1/11BĐQ) gãy tay trận Chư-Pa tháng 1/1969, giải ngũ. Chiến tranh chấm dứt, còn lại Thiếu tá Vương mộng Long (TĐ82/BĐQ/BP) và Thượng sĩ Huỳnh văn Nghệ (TĐ23/BĐQ).
Tháng Mười 2006. Mây trời Bắc-Mỹ âm u. Gió hiu hiu. Lá rụng đầy mặt lộ. ![]() Một người Biệt Động già, tửng tửng đi qua, đi lại, trên một đoạn đường Highway 99 trước Home Depot thành phố Everett, WA, USA, lòng ngậm ngùi nhớ lại chuyện đời mình, ngày xưa...
Seattle, ngày 07 tháng Mười năm 2006 |
||
hung0989077120@ahoo.com
|
||
![]() |
||
hoangngochung
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 27/Nov/2010 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 513 |
![]() ![]() ![]() |
|
.
Những đứa con Trường Trung học Trần Quý Cáp - Hội An Tác giả: Vương Mộng Long Tôi mồ côi cha từ nhỏ. Trường Trần Quý Cáp đã làm cái thiên chức của bố tôi, dạy dỗ, uốn nắn, và bao dung che chở cho tôi suốt thời niên thiếu. Tôi đã được trui rèn nhân cách, trau dồi kiến thức, để trở thành một người tốt; biết tự trọng, kiên nhẫn và nhún nhường; biết tự hào là công dân của một nước độc lập, sẵn sàng hi sinh vì lý tưởng tự do. Từ nơi đó, tôi đã lớn khôn. Từ nơi đó, tôi đã thành người.
Vương Mộng Long, tác giả - 1958 Giữa thập niên 50 của thế kỷ 20, đậu vào Đệ Thất Trung-Học Công Lập Trần Quý Cáp Hội-An là một thành tích xuất sắc đáng hãnh diện của một cậu học trò Quảng-Nam mới qua cấp tiểu học;.. vì Trần Quý Cáp là trường trung học lớn nhất và danh tiếng nhất của tỉnh. Năm đó, ước lượng, có gần hai ngàn thí sinh tranh nhau 170 chỗ, kể cả dự bị, dành cho bốn lớp Đệ Thất Trần Quý Cáp. Tôi được ghi danh vào lớp Đệ Thất 3 cùng với hơn 40 nam nữ sinh khác. Trong bộ đồng phục quần xanh áo trắng, tôi cảm thấy mình lớn hẳn lên, và chững chạc hẳn ra. Đời học trò, lên Đệ Thất là bước vào một thế giới mới. Chân trời trước mặt rực rỡ, đầy hoa thơm cỏ lạ ngát hương, và thánh thót tiếng chim. Thời gian này, trường đang mở rộng cơ ngơi, hàng rào bê tông được dựng lên, cùng với cái cổng xi măng hoành tráng, sơn phết đàng hoàng. Tiếp đó là cái trụ cờ, và những sân bóng chuyền, bóng rổ nhanh chóng hình thành. Những hàng phượng vĩ đã bắt đầu cho bóng mát. Hai năm Đệ Thất, Đệ Lục chỉ là thời gian làm quen với nếp giáo dục mới, với chế độ học giờ, học với nhiều thày giáo, thay vì chỉ có một thày giáo. Chúng tôi biết học nhóm, và biết thế nào là hình phạt cấm túc. Trong hai năm này, thày hiệu trưởng Tăng Dục, thường ghé lớp, kể cho chúng tôi nghe những thành tích vẻ vang của các đàn anh lớp trước. Thày nói rằng nước nhà mới độc lập, đang cần bàn tay xây dựng của các công dân trẻ. Thày mong muốn chúng tôi luôn luôn chăm chỉ học hành, để sau khi thành đạt, ra giúp nước, làm rạng danh cho trường. Với tôi, trường Trung-Học Trần Quý Cáp là ngọn đèn soi lối cho tôi ngày mới lớn. Tôi cảm thấy vô cùng yên tâm dưới sự che chở của những bàn tay trìu mến bao dung, đang dẫn dắt tôi. Làm sao tôi có thể quên những người suốt đời tận tụy vun xới cho tương lai của đất nước như cô Luyện, cô Nguyên, cô Huỳnh Tân, thày Kiệm, thày Nhâm, thày Tước, thày Phan Khôi, thày Tống Khuyến, thày Hoàng Trung, thày Dương Đức Nhự…. Qua giờ học đầu tiên với cô Luyện, tôi mới hiểu phải tốn bao nhiêu công sức bỏ ra từ khi hạt mạ gieo xuống, cho tới lúc chúng ta có bát cơm ăn mỗi ngày. Vào giờ Pháp Văn, tôi cứ tưởng tượng như được thày Tống Khuyến dẫn đi thăm công viên Luxembourg ngắm lá đổ chiều Thu, leo lên tầng gác chót của tháp thép Eiffel soi bóng nước sông Seine giữa Paris, hay lênh đênh trên giòng Lên tới Đệ Ngũ chúng tôi thành ma cũ. Vào năm này, chúng tôi sang tuổi trổ mã, áo quần cứ ngắn và chật hẳn đi. Phong trào rèn luyện thể chất của lực sĩ đẹp Nguyễn Công Án đang lên. Những bộ ngực kiến càng của anh Cẩn, Bảo An Đoàn và anh Bính, Ty Thanh Niên trở thành những bộ ngực lý tưởng của lớp nam sinh. Chiều nào tôi và bạn bè cũng tới tập tạ trong trụ sở Thanh Niên Cộng Hòa đối diện Trường Trung Học Diên-Hồng. Những võ sĩ tên tuổi như Văn Đại, Minh Cảnh, Đặng Bốn, Võ Long Châu thỉnh thoảng lại về Hội-An giao đấu biểu diễn. Nhiều lò Thiếu Lâm, Võ Ta, Nhu Đạo, Quyền Anh, mọc lên dưới Sơn-Phong, trên Chùa Cầu, ngoài Nhà Thờ. Chúng tôi bắt đầu được chấm chọn vào đội túc cầu của trường để đem chuông đi đánh xứ người, trong Tam-Kỳ hay ngoài Đà-Nẵng. Lớp Đệ Ngũ 3 có anh Thành và anh Tâm là hai tiền đạo xuất sắc của đội túc cầu học sinh Hội-An. Đội văn nghệ của trường tôi cũng xôm tụ lắm. Những giọng ca sáng giá thời đó phải kể là, Minh Thu, Ngô Rân, Khưu Vỹ Hoàng. Chị Giang người Bắc Di Cư, nhà ở trên Vĩnh-Điện, được nhìn nhận như là kịch sĩ Kim-Cương của ngày mai. Thầy Nhâm vừa là ông bầu vừa là đạo diễn của ban nhạc Trần Quý Cáp. Đệ Ngũ cũng là năm nhiều bạn hữu của tôi chập chững bước vào con đường tình. Vào lứa tuổi mười bốn, mười lăm, tình yêu là cái bệnh hay lây. Người mắc bệnh này thường ưu tư muộn phiền vô cớ. Từ đó, một ánh mắt, một nụ cười, một tiếng nói, cũng có thể trở thành kỷ niệm một đời. Mắc bệnh này cũng nguy hiểm lắm, bị đánh sưng mặt như chơi. Những kỷ niệm buồn vui thời trung học, nửa thế kỷ qua rồi, tôi vẫn chưa quên. Năm đó mùa Đông về sớm, gió Bắc lạnh tái tê. Một tối, trước thềm chùa Âm-Bổn, tôi và Trần Ngọc Lợi, ngồi bên nhau, hút thuốc lá, chuyện gẫu chờ thằng Phùng Tiến và thằng Ngô Rân. Hai đứa bạn hút hết bốn điếu Ruby rồi mà hai thằng kia chưa tới. Bỗng đâu, từ hướng phố, trên đầu dốc, xuất hiện hai chiếc xe đạp. Xe lạng một cái vèo, đậu ngay giữa sân. Một trong hai kỵ sĩ áo đen, chống nạnh hất hàm, – Ê! Sẵn sàng chưa? Thằng Tiến đâu? Tôi chưa hiểu chuyện gì, thì Lợi đã mau mắn trả lời, – Lúc nào cũng sẵn sàng! Thằng Tiến chưa tới. Nhờ ánh điện đầu đường mờ mờ, tôi nhận ra hai người bận đồ đen này là Lưu Lương Cơ và Nguyễn Đức Tâm, hai anh này học trên chúng tôi hai lớp. Họ là hai tay Huyền Đai Nhu Đạo có hạng của Hội-An. Anh Tâm nhanh nhẩu, – Để khi khác tụi này hỏi tội thằng Tiến. Bây giờ thì hai chọi hai. “Moi” với “Toi” chơi trước. Lợi quay qua tôi căn dặn, trước khi bước ra sân, – Mi lược trận cho tau, nếu thằng Cơ can thiệp, thì chận nó lại. Bước ra giữa sân, võ sĩ Nguyễn Đức Tâm xuống tấn, chân trái trước, chân phải sau, hai tay xoè song song giơ ra phía trước trong một thế Judo căn bản. Anh Tâm đang chờ địch thủ xông vào để ném địch thủ xuống nền đá dưới chân. Võ sĩ Trần Ngọc Lợi, học trò ruột của thày Năm Sửu thì tạ mình xuống thấp, chân duỗi chân co, sẵn sàng một đường Thiếu-Lâm. Dáng dấp của Lợi như một chàng Sơn-Đông mãi võ sắp đi quyền. Thoáng một cái, Trần Ngọc Lợi xoay người, đá dứ chân trái, trước mặt Tâm. Đôi tay của Nguyễn Đức Tâm chưa kịp tóm bàn chân đối thủ, thì nhanh như chớp Trần Ngọc Lợi đã xoay người quạt một cú đá tạt bằng gót phải trúng vai Tâm. Bị cú đá bất ngờ khá mạnh trúng sau vai trái, Tâm chưa kịp lấy lại thế quân bình thì Lợi tiếp một ngọn cước cũng bằng chân phải móc ngược lên, nhắm cằm của Tâm. Cú đá này nhanh và sắc như một nhát cuốc chỉ thiên. Phải là tay Judo bản lãnh lắm, Tâm mới kịp ưỡn người ra sau để tránh. Cằm anh chỉ cách lưỡi cuốc vài phân. Sau đó, nhanh không kém, lợi dụng lúc Trần Ngọc Lợi chỉ còn trụ trên một chân, Nguyễn Đức Tâm xoay người lòn ra sau lưng Lợi. Tâm nhập nội, hai tay túm được vai áo của đối thủ. Anh nghiêng người, kê hông phải làm đòn bẩy, nâng Lợi lên sau vai… Tôi thót tim. Chắc phen này thằng bạn chí cốt của tôi sẽ bị quật dãy “đành… đạch!…” trên nền đá sân chùa, như con cá lóc bị người ta đập đầu làm thịt! Ai dè, Tâm chưa kịp quật Lợi xuống đất thì cái cùi trái của Lợi đã vèo tới cằm anh. Để tránh bị vỡ hàm, Tâm đành buông Lợi ra. Sức nặng của Lợi lơi ra làm cho Tâm mất thăng bằng. Đúng là bên tám lạng, bên nửa cân! Cặp này biểu di࿅n còn hấp dẫn hơn cặp võ sĩ nhà nghề Đặng Bốn “Đầu Tầu Xe Lửa Phan-Rang” và Minh Cảnh “Đôi Găng Vàng Thủ-Đô” vừa diễn ra trước đây một tháng tại sân quần vợt tỉnh, nhân dịp Linh Mục Nguyễn Văn Vàng du thuyết đề tài “Tuổi Trẻ và Quê Hương”. Đứng ngoài, tôi và Lưu Lương Cơ hứng chí vỗ tay “đồm độp!” tán thưởng. Chưa xong! Trong lúc Nguyễn Đức Tâm bị trượt chân, còn đang chao đảo, thì ngọn cước chân trái của Trần Ngọc Lợi lại tới. Dân Thiếu-Lâm có những cú đá vô cùng lợi hại, “Bốp!” Ngọn cước trúng hạ bộ của địch thủ. Người bị đòn vào “chỗ đó”, đau quá, nhảy tưng tưng, hai tay ôm ngã ba, mặt nhăn nhó, miệng rên “ư… ư… ư…” – Ngưng ngay! Ngưng ngay! Đề nghị ngưng ngay! Lưu Lương Cơ thấy bạn trúng thương khá nặng, bèn đề nghị ngừng trận đấu. Tôi hỏi anh Cơ, – Thế nào? Tôi và anh sao đây? Anh Cơ xua tay, – Hẹn dịp khác! Lợi gật đầu, – Chờ kỳ tới, có thằng Tiến. Thì ra, hôm ấy hai anh Tâm-Cơ đã bỏ công đạp xe khắp nơi để truy lùng thằng Phùng Tiến, để cho nó một trận đòn, chỉ vì nó đã mắc tội “dám yêu” nàng Minh Nguyệt. Cô bé Nguyễn Thị Minh Nguyệt là em gái anh Nguyễn Đức Tâm. Minh Nguyệt học dưới chúng tôi một lớp, có dáng người thanh thanh như liễu rũ, có màu mắt đẹp như nước hồ thu. Tôi chẳng rõ Minh Nguyệt có nhỏ chút xót thương nào cho cái cây si đang héo hon sau ngõ nhà nàng không? Nhưng chỉ vì cái bịnh yêu của thằng Tiến mà bạn bè của nó bị vạ lây. Thực ra tôi và thằng Lợi chẳng có ân oán, nợ nần gì với anh Tâm cả. Hai cặp Lợi-Long, Tâm-Cơ bắt tay nhau, lòng không chút hận thù. Nhị vị đàn anh Trần Quý Cáp phóc lên xe. Đêm yên tĩnh lại trở về. – Cậu Long ơi! Từ lần sau, các cậu có dợt võ thì vào sân sau chùa. Dợt ngoài này, lỡ gặp mấy ông Cảnh Sát đi tuần mấy ổng rầy la đó! Tiếng nói phát ra từ một bóng người trong đêm tối, nơi cửa hông. Đó là tiếng ông từ giữ chùa. Ông từ vừa có ý kiến với “Cậu Long”. Trong xóm này “Cậu Long” cũng có uy tín lắm, vì tôi được tiếng là chăm học, chăm làm. Tôi là học trò duy nhứt có học bổng trong số rất đông học trò cư ngụ từ khu Trường Diên-Hồng tới Đế-Võng, Sơn-Phong. Trừ ba tháng nghỉ Hè, mỗi tháng trong niên khóa, tôi được chính phủ trợ cấp 200 đồng. Thời này anh tân binh quân dịch lãnh lương tháng vỏn vẹn có 120 đồng thôi. Phụ huynh học sinh Bắc Kỳ Di Cư xóm chùa Âm-Bổn thường đem tôi ra làm cái gương tốt cho con em của họ. —o— Trong trường Trần Quý Cáp và lớp Pháp Văn của ông Quận Đĩnh, tôi có nhiều nhóm bạn riêng. Ngay trong lớp Đệ Ngũ 3 này, bạn trai của tôi có hai, ba nhóm. Nhóm bạn văn nghệ, văn gừng là Trần Ngọc Lợi, Ngô Rân, Lê Hữu Mục, Lê Văn Bảy, Phùng Tiến. Nhóm bạn áo rách, nhà nghèo là Nguyễn Đình Liếu, Phan Minh Đông, Nguyễn Văn Đang, Nguyễn Đác. Nhóm Bắc Kỳ Di Cư có Vũ Văn Bằng, Nguyễn Hữu Hạnh, Trần Quế Chính… Bạn gái của tôi cũng có hai phe, mức độ thân thiết và xưng hô khác nhau. Phe thứ nhứt gồm chị Lê Thị Kim Tư, Trần Thị Diệu Hồng, Ngô Thị Xuân Lan, Võ Thị Quý, thêm một bạn trai là Vũ Đức Phụng. Ngoài chị Lê Thị Kim Tư, chúng tôi kêu bằng “chị” và xưng tên, số còn lại chúng tôi gọi nhau là “mi” và xưng “tau”. Sau này, lên đệ nhị cấp, chúng tôi tan đàn, xẻ nghé, nhưng mỗi lần gặp nhau, kể cả khi đã có vợ có chồng, chúng tôi vẫn “mi… mi… tau… tau…” Nhóm bạn gái thứ nhì của tôi gồm hai cô ở sát nhà nhau là Tô Thị Vân và Nguyễn Thị Nguyệt Thu. Có một thời gian bạn bè trong lớp tưởng rằng người đẹp sắc nước hương trời Nguyễn Thị Nguyệt Thu có tình ý với tôi. Vì mỗi khi làm xong một bài thơ mới, Nguyệt Thu đều đưa cho tôi xem để tôi cho ý kiến. Và đôi lần, Nguyệt Thu đi học, đem theo vài bông hồng mới cắt sau nhà tặng cho Anh Vọi. Cho tới một hôm, tôi tới nhà thăm Nguyệt Thu, tôi gặp bác Hàm, thân phụ của Nguyệt Thu. Khi tiếp chuyện với bác, tôi thấy ý bác không muốn chúng tôi thân thiết nhau. Từ đó, tôi không ghé nhà Nguyệt Thu nữa. Năm sau, gia đình bác Hàm chuyển nhà ra Huế. Chúng tôi không còn liên lạc với nhau. Nhà họ Tô có ba cô con gái. Cô nào cũng đẹp và duyên dáng. Chị Tô Thị Hồng ít khi xuất hiện. Tô Thị Vân học chung lớp với tôi. Tô Thị Lan học thua tôi một lớp. Chị Vân cũng là một thùng thư. Nhiều anh trong lớp trao thư cho chị lắm. Năm Đệ Ngũ tôi còn một lô bạn gái học chung trường Pháp Văn nhà lá của ông Quận Đĩnh ở Hồ Sen. Tôi được Bác Đĩnh cho học không phải đóng tiền. Đáp lại, tôi đã rủ rê, chiêu dụ được khá nhiều bạn bè tới học Pháp Văn ở ngôi trường nhà lá này. Trong nhóm bạn này có ái nữ của nhà chụp rửa ảnh Huỳnh Sỏ, nàng Huỳnh Thị Tuyết Trinh. Các bạn tôi, và kể cả Bác Đĩnh, hay cặp đôi tôi với cô bé con ông tư bản chủ tiệm ảnh. Một hôm, tan lớp tối, Tuyết Trinh và một đoàn nữ binh kéo nhau tới cổng nhà tôi. Mẹ tôi gọi, – Long ơi! Có khách. Tôi ra tiếp khách. Khách chẳng chịu vào nhà. Khách líu lo dưới gốc cây đu đủ. Ba bốn cô đang tìm cách đẩy cô bé cận thị về phía tôi, – Trinh có gì nói với Anh Vọi thì nói đi! Mắc cỡ chi nữa? Đứng trước một đám nữ sinh, tôi cũng mắc cỡ lắm, nhưng cũng làm bộ tỉnh, – Chi rứa Trinh? Có gì thì nói đi? – Không có chi mô Long! Tan học, còn sớm, mấy người rủ Trinh ghé thăm Long đó thôi! Có tiếng Tô Thị Lan, – Trinh nhớ Anh Vọi, Trinh rủ tụi này qua đây để có dịp cho Trinh thăm Anh Vọi đó! Tuyết Trinh nhoẻn miệng cười, lắc lắc cái đầu. Dưới cặp kính cận, đôi mắt Trinh long lanh… Bọn khách phá làng phá xóm này vớ vẩn đôi lời hỏi thăm chủ nhà, rồi ào ào kéo nhau sang quán chè Bà Chỉ. Chị Hảo, người hàng xóm, chọc quê, – Được nhiều người đẹp ghé thăm, Cậu Long đào hoa lắm nhe! Ba thằng nhỏ trong xóm, một đứa là con Trung Sĩ Tranh, Bảo An Đoàn cũng phụ hoạ, – Anh Long có bồ! Anh Long có bồ! Lêu!… Lêu!.. Anh Long!… Lêu!… Lêu!… Rồi một tối sáng trăng, tôi lại vướng vào một vụ rắc rối khác. Chúng tôi ba đứa Long, Rân, Mục đang tản bộ nơi ngã ba Ty Thông Tin thì đụng đầu toán yêng hùng Lò Heo… Bốn tay hảo hán chặn đường ba đứa chúng tôi lại, – Thằng Rân có ngon thì bước ra đi! Ông nội Ngô Rân lui ra phía sau, xô tôi tới trước, – Hôm nay tau nhức đầu, mày thay thế tau một trận. Người gọi tên Ngô Rân thách đấu là anh Mãnh, một dân chơi xóm Lò Heo. Tôi và anh Mãnh đã có dịp đọ sức một lần, lâu rồi, ở sân sau Trường Tự dưng bị bạn đưa ra làm lá chắn, nhưng tôi vẫn thản nhiên, – Tôi đại diện cho thằng Rân tiếp anh. Anh Mãnh nhanh nhảu, – Thôi thì tiện đây mình giải quyết món nợ cũ cho xong. Tay chân vung lên, hai đứa đánh toàn là đòn độc. Cuộc chiến diễn ra giữa phố. Anh Mãnh cao hơn tôi một cái đầu, vì thế tôi cố tiến sát địch, đánh cận chiến. Tôi gồng mình chịu ba bốn cú thôi sơn vào ngực, vào hông. Nhưng rồi tôi đã thành công với hai phát chém bằng sống tay trúng ngay mặt địch thủ. Chắc mũi địch thủ của tôi phải xẹp lép vì hai cú chém này. Tôi nhấn thêm một bước cho gần địch thủ hơn. Tôi vung chân phải lên, ngáng cẳng sau của địch, đồng thời bàn tay phải tận lực đẩy ngay cằm anh ta. Nếu trúng đòn này, một con bò cũng phải té bật ngửa. Nhưng anh Mãnh quả là tay bản lãnh rất cao. Anh ta xoay nhanh theo chiều kim đồng hồ, tay trái đấm một phát chí tử trúng ngay cằm tôi. “Bốp!” Lãnh cú đòn này, hai mắt tôi nổ đom đóm, hai tai kêu lùng bùng. Tôi nghiến răng, liều mạng, dùng đầu làm vũ khí, húc ngược lên. “Cốp!” Đỉnh đầu tôi chạm cằm của anh Mãnh rất mạnh. Anh ta lảo đảo. Tôi nhào vào kẻ địch, vật nó xuống. Hai đứa quấn vào nhau, lên gối lia lịa… ‘Hự!… Hự!…”. Hai đấu thủ lăn lộn giữa đường phố. Một lúc sau, thì bốn cánh tay khóa chặt, chân mỏi nhừ, chẳng đứa nào đánh thêm được cú nào nữa, đành nằm ôm nhau thở phì phò… Lúc tôi đang nằm dưới, Mãnh đè phía trên thì nghe tiếng con gái la rối rít, “Cảnh Sát! Cảnh Sát tới!” Một ông cò cầm dùi cui xuất hiện, – Ê! Hai thằng kia, ngừng lại! Nghe tiếng ông cò nạt, Mãnh buông tôi ra. Tôi vội nhoài người, đứng dậy. Ông Cảnh Sát quất cho mỗi đứa một dùi cui vào mông đít, – Đi về! Lớn rồi còn đánh lộn hả? Một đám học trò con gái bu lại. Có mấy đứa cùng lớp tôi, đang chí choé với nhau. Có đứa lấy dầu cù là bôi lên cằm tôi, chỗ vừa bị đấm. Tôi nghe tiếng Võ Thị Quý, Trung úy Long và ĐĐ1/11 BĐQ tại Liên Khương trước giờ trực thăng vận, 08-1968 “Cứa thèng Lang quỷ sứ nài cứ đi đắn lộộn hùa!” (Cái thằng Long quỷ sứ này cứ đi đánh lộn hoài!) Hôm sau, vào lớp, chị Kim Tư cằn nhằn, – Long! Lớn rồi, đừng đánh lộn nữa nhé! Tôi bẽn lẽn, trả lời chị, – Vâng, từ nay Long không đánh lộn nữa. À mà ai mách cho chị chuyện này vậy? – Quý chứ ai! Quý, Xuân Lan, Diệu Hồng, đi học Pháp Văn về. Thấy Long đang đánh nhau, tụi nó dừng lại coi. Xuân Lan nó bôi dầu lên chỗ đau cho Long, không nhớ sao? Tôi có nhớ gì đâu? Tôi chỉ ậm ừ. Võ Thị Quý chõ miệng vào, – Mắc cỡ! Đánh lộn bị thua, nằm dưới. Nếu không có ba của Ngô Rân tới can thì bị một bữa ăn đòn đau rồi. Nghe Quý nói, tôi mới nhớ ra. Cái ông Cảnh Sát lùn tịt đó, thấy sao mà quen quá! Thì ra ông ấy là bố thằng Rân. Đêm tối nhập nhoè, tôi không nhìn ra ông. Chắc ông già nhận ra tôi, nên chỉ phết cho một dùi cui rồi đuổi đi. Chứ nếu không, ổng túm về ty, giam cho một đêm, chắc là bị muỗi đốt cho khờ khạo. Nhìn cái miệng Võ Thị Quý cứ xoen xoét hài tội, tôi ức lắm, nhưng không làm gì được nó. Tôi đành rủa thầm, “Cái con khỉ này sao mà lắm mồm thế!” Tôi quay đi không thèm đôi co thêm với các cô này. Cũng từ đó, tôi chấm dứt các cuộc tỉ thí võ nghệ tay đôi. Và chuyện tình của thằng Tiến, thằng Rân chẳng còn dính dáng gì tới tôi nữa. Năm đó, cứ vào giờ thày Tống Khuyến dạy Pháp Văn lớp Đệ Ngũ 3, thì lớp Đệ Tam được nghỉ. Những đàn anh “đứng đắn” thì túa ra sân bóng rổ luyện thể lực, hay lang thang trong sân trường tìm ý thơ. Những tay “ba nhe” thì cứ liệng qua liệng lại trước hiên các lớp dưới có con gái đẹp. Hai chữ “ba nhe” có nghĩa gì, tôi cũng chẳng biết. Thấy chúng bạn dùng danh từ này để chỉ những kẻ xấu, tôi cũng dùng theo. Chúng tôi thường xuyên bị những tay “ba nhe” lớp trên quấy rầy, chỉ vì lớp tôi cũng có vài cô dung nhan khá dễ thương. Bọn phá phách này cứ đi qua, đi lại ngoài hàng hiên, miệng oang oang như những cái loa Ty Thông Tin, “Lune d’automne!”… “Lune d’automne!” (Nguyệt Thu!… Nguyệt Thu!) “Nuage!”… “Nuage!” (Vân!… Vân!) Chúng tôi ngồi trong lớp mà cứ nhấp nhổm, muốn nhảy ra túm cổ bọn nhí nhô đấm vài phát cho bõ ghét. Chúng tôi gọi những tay quậy phá này là bọn “quái vật”. Một hôm, thày Khuyến cất giọng, sai tôi, – Long! Nước cam cho thày! Tôi biết là phải ra ngoài nhà ông phu trường mua dùm thày chai nước cam. Thày mà khô cổ, không có nước cam, thày giảng bài không được. Vừa bước ra khỏi cửa, tôi đụng đầu ngay một đàn anh. Anh ta đang gân cổ gáy, “Lune d’au…” Tôi hét lên, – Con quái vật này! Ông đấm… (bể mõm bây giờ!) Tôi chưa la hết câu, thày Khuyến đã thò đầu ra. Thày cũng quát lớn, – Con quái vật kia, mi làm cái chi mà ồn ào rứa? Nghe tiếng thày Khuyến hù, những cái loa Ty Thông Tin tắt ngấm. Đám đàn anh của tôi chạy có cờ. Hôm đó các chị trong lớp ca tụng thày Khuyến hết lời. Còn bọn con trai chúng tôi cũng gân cổ đổ đủ thứ tội lên đầu bọn nam sinh Đệ Tam. Cái uy của thày Tống Khuyến cũng hiệu lực được vài hôm, rồi đâu lại hoàn đấy. Cứ tới giờ Pháp Văn, chúng tôi lại nghe tiếng ma kêu, quỷ rú, từ gần ra xa, từ xa về gần “Lune d’automne!… Nuage!…” —o— Đầu thập niên 60, đất nước lâm nguy, đám nam sinh Trần Quý Cáp hăng hái, “đứng lên đáp lời sông núi…” (Quốc Ca) Trước ngày quân đội đồng minh đổ bộ lên bãi biển Sơn-Trà, Đà-Nẵng, Trường Sĩ Quan Hải Quân đã mời gọi được những người trai yêu biển cả như Lưu Lương Cơ, Trần Văn Căn, Trần Quế Chính.. Trường Sĩ Quan Không Quân cũng tuyển Nguyễn Hữu Hạnh và Vũ Văn Bằng ngay từ khi hai bạn này vừa xong Tú Tài I. Nghe đâu anh Mãnh xóm Tây Hồ cũng cùng vài người bạn, đã tòng quân, theo khóa Hạ Sĩ Quan, Nha-Trang. Tôi quen biết nhiều anh trong số những chàng trai đã cất cao khúc hát “Biệt Kinh Kỳ” thời đó, như Võ Văn Sung, Hoàng Công Thưởng, Trương Đình Bảy, Khưu Vỹ Hoàng, Lê Hữu Mục, Lê Trung Bòng, Hồ Hùng, Đỗ Bá, … Một ngày, khi đứng trong đám tân binh của Quân Đoàn I chuẩn bị lên xe lửa vào Đà-Lạt nhập Khóa 20 Võ-Bị, tôi thấy anh Nguyễn Đức Tâm đeo lon thiếu úy, ưỡn ngực đi qua, đi lại, dưới hàng hiên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Hôm đó, tân Thiếu úy Nguyễn Đức Tâm Khóa 18 Võ-Bị, vừa ra trường, đang nghỉ phép thăm nhà. Thấy tôi, anh Tâm giơ tay vẫy. Ngày đó tôi lên đường, Hát khúc Xuất Quân (Thơ VMLong) Giữa thập niên 60, đám nữ sinh bạn tôi lần lượt lên xe hoa, về làm dâu… nhà người ta. Thời gian này tôi đang học trong Trường Võ-Bị Đà-Lạt nên không có dịp tiễn chân bạn mình sang sông. Huỳnh Thị Tuyết Trinh lấy một ông thày dạy Anh Văn trường Trần Quý Cáp. Chị Lê Thị Kim Tư lấy một Y Sĩ Trung úy. Vài năm sau, Võ Thị Quý kết hôn với một ông sĩ quan trưởng kho đạn đồn trú ngoài bãi biển Sơn-Trà. Có một lần tôi về thăm nhà, tới thăm bạn, bạn tôi vừa nựng con, vừa cười với tôi, – Nếu mi tìm không ra vợ. Về lại Hội-An tau giới thiệu cho một mớ. Tha hồ mà lựa. Muốn đứa nào, tau nói cho một tiếng là xong. Mà cũng lạ hí? Tụi mình chơi với nhau thân như rứa, mà sao chẳng nghĩ tới chuyện lấy nhau? Lạ hí? Tôi chỉ cười trừ. Chứ biết trả lời sao với bạn tôi đây? Càng ngày, chiến tranh càng leo thang. Tôi tham gia hết chiến dịch này qua chiến dịch khác dọc Trường-Sơn, ít khi có dịp về thăm chốn cũ. Ngày xưa nghe Minh Thu hát, Rừng ơi! Ta nhớ những đêm trăng buồn. (Hùng Lân) tôi đã thương núi, yêu rừng. Tới khi quanh năm trong rừng, tôi lại thèm được một ngày trở về Hội-An, để nghe Minh Thu hát. Sau Tết Mậu-Thân, đơn vị tôi hành quân trên Đà-Lạt. Tiểu đoàn 11 Biệt Động Quân chạm trận nặng trong rừng Cam-Ly. Đại đội tôi bị máy bay đánh lầm, phải chạy bán sống, bán chết. Đại úy Hồ Khắc Đàm, tiểu đoàn trưởng bị thương. Đài BBC thổi phồng sự thiệt hại của đôi bên, làm cho dân chúng thành phố xôn xao. Ngay hôm tôi rút quân về, một người bạn báo cho tôi biết Nguyệt Thu đang ở đây, và đã tới Bộ Chỉ Huy tiểu đoàn tìm tôi nhưng không gặp. Hôm sau tôi và tài xế cùng một người bạn gốc Hội-An tới nhà Thu ở trọ để thăm Thu. Lúc đầu, tôi không thể nhận ra Thu. Thu đang có bầu, mặt đầy tàn nhang, chỉ có đôi mắt to đen, mở lớn là còn nét quen thuộc. Nguyễn Thị Nguyệt Thu đã lập gia đình lâu rồi. Và Thu đang làm cô giáo, dạy tiểu học ở Trại Hầm. Tôi cám ơn Nguyệt Thu đã tới tìm thăm tôi, khi nghe tin đơn vị tôi vừa chạm trận, thiệt hại nặng. Nguyệt Thu ngắm cái phù hiệu Biệt Động Quân trên vai áo tôi, giọng bùi ngùi, – Ngày đó Thu tưởng, sau này lớn lên, Long sẽ thành một nhà văn. Không ngờ Long lại chọn nghề võ. Nghe Nguyệt Thu nhắc lại kỷ niệm thời Đệ Ngũ, lòng tôi cũng cảm thấy bâng khuâng. Cả một khung trời êm đềm của tuổi học trò như vừa hiện về. Tôi chợt thấy an ủi trong lòng, khi nhận ra rằng, dù không gian cách trở, thời gian có trôi qua, nhưng tình nghĩa bạn bè tuổi ấu thơ vẫn còn bền chặt thân thiết như thuở xưa. Mới đó mà, từ sau năm Đệ Tứ, chúng tôi đã xa nhau tám năm. Trong tám năm dài đằng đẵng ấy, đã xảy ra bao nhiêu là thay đổi… Tháng 9 năm 1970 tôi phải về Sài-Gòn chờ đi học một khóa ngắn ngày bên Ngày đó tôi ngu quá. Nghe lời thằng Ngô Rân giảng “mo ran” rằng, “Chỉ những thằng khốn kiếp, mặt dày mới đi cù em gái của bạn!” nên tôi cứ phải đóng vai lạnh lùng, đạo mạo với mấy cô em gái của tụi bạn tôi. Ai dè đâu, chỉ vài năm sau, thằng “mặt dày” Ngô Rân cưới được Quế Hương, em gái thằng Trần Ngọc Lợi. Lúc tôi thấy mình ngu, thì tôi đã vào Pleiku mất rồi. Tôi còn nhớ, lần đó bọn thằng Lợi, thằng Nghĩa nài nỉ tôi kể chuyện đời lính Cao-Nguyên cho chúng nó nghe… Đang vui câu chuyện, ông vua phản chiến Nguyễn Tăng Kỷ vụt đứng dậy bĩu môi, – Chỉ vì những thằng hiếu chiến như tụi mi nên mới có chiến tranh! Hôm đó bùng nổ một cuộc đấu lý kịch liệt, một bên là Nguyễn Lợi và Đặng Xuân Nghĩa, bên kia là Nguyễn Tăng Kỷ. Tôi hầm thằng Kỷ lắm, nhưng không quen đánh nhau bằng mồm. Chờ lúc tụi nó thở ra, nghỉ mệt, tôi hét vào mặt thằng Kỷ, – Nếu không có mấy thằng hiếu chiến như tụi tao, thì làm sao mày có thể sống nhơn nhơn ở Sài-Gòn bao nhiêu năm nay được? Cái đồ vô ơn! Thấy tôi đổ quạu, các bạn tôi ngừng cãi nhau. Từ Singapore về, tôi lại tới hẻm 164 Yên Đổ ngủ nhờ, chờ phương tiện về Pleiku. Ngày hai bữa, chúng tôi hẹn nhau về cái chòi căng bằng vải nhựa của một bà bán cơm dĩa trong con hẻm đối diện. Tội nghiệp bà chủ quán. Vào giờ đông khách, trông bà cứ như con vụ, xoay mòng mòng, tả xung, hữu đột, đối phó với bọn khách đang đói bụng. Ít năm sau, bọn khách bình dân này thành Đốc-Sự, Thanh-Tra, Phó Quận, Phó Tỉnh. Chẳng đứa nào ghé thăm bà chủ quán cơm. Có lẽ chỉ vì bà không có con gái, nên khi thành đạt rồi, chúng nó quên bà ngay. Vài hàn sĩ thư sinh bạn tôi đã thoát xác để thành một Phó Ty Cảnh Sát Tỉnh, một Ủy Viên Giám-Sát-Viện, một Chánh-Văn-Phòng sau cùng của Thủ-Tướng Trần Thiện Khiêm. Và từ năm 1973, mỗi khi nhắc tới tiểu sử Trung-Học Trần Quý Cáp Hội-An, người ta lại thấy tên Trần Huỳnh Mính trong danh sách hiệu trưởng trường, sau tên quý vị tiền nhiệm Lưu Chí Kiên, Hoàng Trung, Tăng Dục… Thế sự cứ xoay vần, vận nước cứ đổi thay. Làm sao chúng ta đoán biết được tương lai? Nhưng suy cho cùng, “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả” (Phan Bội Châu) thì ai cũng thành thạc sĩ, tiến sĩ, bác sĩ, có ai dại dột đi làm binh… sĩ như tôi? Nhưng có một lần tôi nghiệm ra rằng trăm nẻo đường đời, nẻo nào cũng có chông gai riêng của nó. Đi lính đã trên chục năm, bất ngờ một hôm tôi thấy dưới quyền mình có một người quen. Anh Chuẩn úy Nguyễn Hồng Khanh, Sĩ Quan Trợ Y Tiểu Đoàn 82 BĐQ, là bạn cùng lớp của tôi suốt ba năm Tú Tài. Anh Khanh bị loại năm cuối cùng tại Đại Học Dược Khoa Sài-Gòn, bị gọi đi Sĩ Quan Trừ Bị, rồi bị đưa vào Pleime. Đơn xin học lại năm chót Dược Khoa Quân Y của Khanh đã được chấp thuận, nhưng anh phải chờ người thay thế mới được rời đơn vị. Tôi thấy ở Pleime, Tử Thần rình rập từng giờ, từng ngày. Bạn tôi lên đường càng sớm càng hay. Tôi vội ký sự vụ lệnh cho Chuẩn úy Nguyễn Hồng Khanh ra đi. Mãi một năm sau (tháng 1/1975) tôi mới được bổ sung ông Sĩ Quan Trợ Y mới. Dược sĩ Nguyễn Hồng Khanh hiện nay vẫn còn hành nghề thày thuốc ở Hội-An. Không biết người cựu chiến binh Biệt Động này có nhớ gì Pleime không? —o— Ba chú bé trong xóm Hồ Sen, từng có lần trêu chọc tôi, “Anh Long có bồ! Lêu!… Lêu!…”, đã nghe lời cha mẹ dặn, lớn lên noi gương “Cậu Long” cố gắng học hành. Ngày tôi ra trường Võ-Bị, đầu đội cái mũ nâu, về thăm nhà, chúng nó đã trở thành học sinh Trung-học Trần Quý Cáp. Ba thằng em bu quanh tôi, miệng hát, “Biệt Động Quân… chết trên rừng,” Nghe thế, mẹ tôi trừng mắt, – Các cháu đừng nói gở… Cả ba đứa toét miệng ra cười, – Anh Long ngon quá! Mai này lớn lên tụi em sẽ đi theo anh… Đầu năm 1974, có một chuẩn úy mới ra trường đáo nhậm đơn vị. Khi nghe anh nói chuyện giọng trăm phần trăm Quảng-Nam, tôi tò mò, – Chú nói tiếng Quảng không pha một chút nào. Vậy chứ chú em quê ở đâu? – Em quê Hội-An. – Em có học Trần Quý Cáp không? – Em tốt nghiệp Trần Quý Cáp sau Thiếu Tá chín năm. – Vậy ra em có biết anh? – Em ở trong khu Hồ Sen, Chùa Âm-Bổn. Nhà em gần nhà Thiếu Tá. – Em tên là gì? – Em tên Trương Trọng Tài. Nhưng em thích được gọi là Trương Thiên Tài. – Ừ thì anh sẽ gọi em là Trương Thiên Tài. Nhà em ở chỗ nào khu Hồ Sen? – Nhà em cách nhà bác Thạnh hai căn, đâu lưng với nhà bác Nhuận, tài xế. – Anh nhớ ra rồi, nhóm em có ba đứa. Hai đứa kia giờ này ở đâu? Đôi mắt người sĩ quan trẻ chợt buồn, – Thiếu Tá ơi! Chúng nó bỏ học ngang xương, tình nguyện đi lớp Hạ Sĩ Quan. Hai đứa đều về Tiểu đoàn 39 Biệt Động Quân. Trận Hạ Lào, chúng nó không về. Lớp tuổi của em, trong xóm mình, còn có mình em thôi. Như thế là, hai đứa em trong xóm, đã theo chân “Anh Long” thành Biệt Động Quân, và đã… chết trên rừng. Nghe Tài kể chuyện, tôi chợt cảm như có cái gì đó làm tôi nghẹn hơi. Có cái gì đó làm tôi khó thở. Ngực tôi đột nhiên nặng như chì. Năm ấy, chiến dịch mùa mưa Cao-Nguyên khởi đầu sớm hơn mọi năm. Một hôm, bình minh lên cùng với tiếng súng. Mưa pháo ào ào cày xới Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku. Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân QLVNCH bị hai trung đoàn Cộng Quân tấn công. Chín giờ sáng ngày 14 tháng Tư năm 1974, Chuẩn úy Trương Thiên Tài bị thương vào tay trái. Băng bó vừa xong, người trung đội trưởng lại vội vã lao ra chiến hào. Trận đánh càng lúc, càng thêm ác liệt, và kéo dài suốt đêm. Lực lượng trừ bị sau cùng của tiểu đoàn đã được tôi tung vào trận địa để chống đỡ những đợt biển người liên tiếp của Sư Đoàn 320 Cộng-Sản Bắc-Việt. Tám giờ sáng ngày 15 tháng Tư năm 1974, trung đội trưởng trung đội 3 đại đội 3/ 82 gục trên chiến hào, cách tôi và Thiếu úy Phiến đại đội trưởng đại đội 3/82 vài thước. Chuẩn úy Trương Thiên Tài vỡ ngực vì một băng AK 47 trong đợt tấn công biển người lần thứ sáu của Cộng Quân trong hai ngày kịch chiến. Hôm đó, nơi tiền đồn biên giới, trong màn lửa đạn mịt mù, một đàn anh Trần Quý Cáp vuốt mắt cho một đàn em Trần Quý Cáp. Em gục xuống rồi. Từ nay trong xóm mình, lớp tuổi của em, không còn ai nữa! Biệt Động Quân chết trên rừng, Như giòng Thu-Bồn chảy mãi không ngừng. Từ nơi đó ra đi, những thế hệ học sinh đã theo chân nhau đóng góp tuổi trẻ, mồ hôi, và xương máu, cho quê hương Việt-Nam, làm rạng danh Trung-Học Trần Quý Cáp. Thời chiến tranh, biết bao thanh niên đã lên đường ra mặt trận. Mỗi năm, bạn bè tôi cứ hao hụt dần. Các anh Trần Ngọc Lợi, Lưu Lương Cơ, Hoàng Công Thưởng, Trương Đình Bảy, Khưu Vỹ Hoàng, Trần Quế Chính, Hồ Hùng, Đỗ Bá, đã đền nợ nước. Cho tới đầu tháng Năm năm 1975, vào một ngày rất buồn, tôi gặp lại Niên Trưởng Nguyễn Đức Tâm trong Khu Đăng Ký Sĩ Quan Cấp Tá của Ủy Ban Quân Quản, đường Trần Hoàng Quân, Sài-Gòn. Thiếu tá Nguyễn Đức Tâm là vị tiểu đoàn trưởng sau cùng của Tiểu đoàn 14 Nhảy Dù. Hai anh em nhìn nhau, mắt lệ rưng rưng. Chúng tôi đã không làm tròn sứ mệnh quê hương giao phó. Chúng tôi đã đánh mất quê hương. “Quê hương tôi (Thơ VMLong) Rồi chúng tôi bị đưa vào các trại tập trung cải tạo. Từ đó, tôi bắt đầu cuộc đời tăm tối không ngày mai. Nhiều đồng ngũ của tôi bị xử tử vì tội vượt ngục.Vượt ngục không thành, nếu may mắn không bị xử bắn, thì cũng bị cách ly, kiên giam, bỏ đói, nhốt trong hầm tối một thời gian. Hai lần trốn trại bất thành của tôi ngoài Hoàng-Liên-Sơn cũng làm cho tôi mất một cái răng, và gãy một cái xương sườn, sau những trận đòn thù của bộ đội Đoàn 776 Quân-Đội Nhân-Dân Việt- Nam. Truyện kể về cuộc đời sau chiến tranh của những người thất trận là một truyện trường thiên đầy nước mắt, không bút giấy nào ghi cho hết. —o— Sau mười ba năm tù cải tạo, tôi về. Một hôm, trên đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài-Gòn tôi gặp Nguyễn Tăng Kỷ đạp xe lọc cọc ngược chiều. Thấy tôi, hắn dơ tay vẫy, miệng cười thân thiện. Tôi nghếch mặt lên trời ngắm cánh én bay, không đáp lại cái vẫy tay của người bạn bảy năm Trần Quý Cáp này. Rồi sau đó tôi được nghe bạn bè nói lại rằng, chỉ vài năm sau ngày Miền Nam sụp đổ, Nguyễn Tăng Kỷ đã mở mắt ra. Giấc mơ thiên đường Xã-Hội Chủ-Nghĩa của nó thành mây khói. Vợ nó chết rồi. Con gái nó đã ra khơi làm thuyền nhân, đang định cư ở Úc. Biết điều này, tôi mới hiểu vì sao, hôm đó cái vẫy tay của nó lại có vẻ thiết tha như thế. Khi nghe tin thằng Kỷ đã sang Úc sum họp với gia đình con gái nó, tôi cũng mừng cho nó. Năm 1993, gia đình tôi lên đường đi Mỹ theo diện HO. Tháng 9 năm 2007, nơi quê người, tình cờ tôi gặp lại Nguyễn Lợi nhân một chuyến về chơi Wesminster, Hơn 40 năm sau, học sinh Trần Quý Cáp gặp lại nhau năm 2007. Bên trái là Vương Mộng Long - tác giả và vợ. Quả đúng như nhận xét của Thục Anh, cô học trò của tôi, “Anh Nguyễn Lợi trông già không ra già, trẻ không ra trẻ, vừa gặp là nhận ra ngay…” Bao năm qua, mà “dung nhan” của Nguyễn Lợi chỉ thay đổi tí ti thôi. Bởi thế, nơi sân khách sạn Little Saigon, khi nghe tiếng người xứ Quảng, “Ê! Lang! Có phửa Giương Mộng Lang đó khô… ong?” (Ê! Long! Có phải Vương Mộng Long đó không?) quay lại, tôi nhìn ra “con ma xó” này ngay. Tôi lén đặt cho nó cái hỗn danh “con ma xó” là vì, chuyện trên trời dưới bể, cái gì nó cũng biết, cái gì nó cũng rành. Nguyễn Lợi giúp tôi tìm được Mạc Phi Hoàng và nhà thơ Phùng Minh Tiến. Mấy thằng này vẫn còn tươi rói, mặc dù mái tóc thằng nào cũng có vẻ nhạt màu và thưa đi nhiều, không còn bồng bềnh đen nhánh như thời chúng nó mới vào Đại Học Chính-Trị Kinh- Doanh, Đà-Lạt. Cho tới bây giờ tôi mới biết rằng Mạc Phi Hoàng cũng là tay yêu văn thơ. Có lẽ vì thế mà nó kỳ khu, miệt mài lấy cho được mảnh bằng Cử-Nhân Văn-Khoa trường Đại Học Đà-Lạt. Cậu học trò Mạc Phi Hoàng nhút nhát lắm. Trong bảy năm, nó âm thầm ôm ấp hình bóng một giai nhân lớp dưới mà không ai hay. Trong tập thơ mới xuất bản gần đây, nó đã thú nhận cái nhút nhát ngày xưa của mình, nơi bài “Hoa Tuyết Phi” Chàng yêu tha thiết cả con tim (Thơ Phan Huy Mạc Phi Hoàng) May thay, nó đã chọn đúng người. Khi thương nó rồi, người cựu nữ sinh hương sắc Trần Quý Cáp đó đã thủy chung tần tảo nuôi con, mỏi mòn đợi chờ nó. Nó đi tù cải tạo gần mười năm. Giờ đây, nơi đất khách, anh thi sĩ Phan-Huy Mạc Phi Hoàng, bạn tôi chỉ còn bên mình tập thơ “Phố Cũ Tình Xưa” và nàng Tuyết-Phi, cùng hai cậu quý tử mà nó và cô ta đã vất vả chung lưng “sáng tác”. Năm 2009, nhân ngày “Kỷ Niệm 46 Năm Nhập Khóa 20 TVBQGVN” vợ chồng tôi lại về Hôm đó, những kỷ niệm của đoạn đời thơ mộng ngày nào chợt sống lại. Một con lộ cắt ngang ruộng rau muống, đêm đêm ếch nhái kêu vang, trước Khổng Miếu tối om; một đoạn phố ven sông, có ánh đèn điện mờ mờ, từ Chùa Cầu tới rạp Hòa-Bình; một khúc đường quê bốn mùa hoa nở từ Chùa Sư Nữ xuống Phước-Trạch; hay cái lối mòn hun hút, ngoằn ngoèo trên cồn cát cháy nắng sau Chùa Long-Tuyền; những con đường in dấu chân thời mới lớn, những mối tình học trò, đã là những đề tài nói mãi không thôi. Hết chuyện thế giới, chuyện quê nhà, tới chuyện gia đình vợ con, chúng tôi hàn huyên suốt buổi. Đêm sao ngắn quá! Mà tâm sự thì chưa thổ lộ hết cho nhau. Tôi cứ thắc mắc trong lòng, thằng Nguyễn Lợi ly dị vợ, sống một mình đã đành; chuyện thằng Phùng Tiến đang đơn côi mới là điều đáng ngạc nhiên. Bộ thằng khờ này không biết Việt kiều đang rủ nhau về quê cưới vợ rần rần hay sao? Tôi nhắc Tiến, – Người xưa đâu? Nó chỉ lắc đầu cười, rồi đưa tặng tôi một tập thơ nhiều tác giả, xuất bản cách đây khá lâu. Trong “Tuyển Tập Thơ Quốc Gia Hành Chánh” này, tác giả Phùng Minh Tiến có mười bài. Nơi đây, tôi vẫn nhận ra dáng dấp thơ của cậu học trò Đệ Ngũ, Trần Quý Cáp ngày nào, Tôi về thăm bóng trăng xưa (Thơ Phùng Minh Tiến) Đời người đâu có dài cho lắm? Vậy mà, hơn bốn mươi năm sau, nụ cười của một người Hội-An vẫn chưa nhạt phai trong tim một người. Bây giờ là thế kỷ 21. Một trang sử đã lật qua. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Mỗi người con Trung-Học Trần Quý Cáp có những nỗi niềm tâm sự riêng khi nhớ về nơi ấy. Nhưng cứ mỗi lần nghe ai nhắc tới tên ngôi trường này, lòng tôi lại cảm thấy dạt dào thương nhớ. Tôi mồ côi cha từ nhỏ. Trường Trần Quý Cáp đã làm cái thiên chức của bố tôi, dạy dỗ, uốn nắn, và bao dung che chở cho tôi suốt thời niên thiếu. Tôi đã được trui rèn nhân cách, trau dồi kiến thức, để trở thành một người tốt; biết tự trọng, kiên nhẫn và nhún nhường; biết tự hào là công dân của một nước độc lập, sẵn sàng hi sinh vì lý tưởng tự do. Từ nơi đó, tôi đã lớn khôn. Từ nơi đó, tôi đã thành người. Tôi đã cống hiến cả cuộc đời mình cho quê hương xứ sở. Tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được để phục vụ đồng bào tôi và đất nước tôi, như bố tôi đã hằng mong. Và trên xứ Thiên-Đàng, chắc bố tôi cũng đã mỉm cười hài lòng vì đứa con mình. Bây giờ tôi ở cách xa Hội-An cả một đại dương, nhưng trong tâm tưởng, tôi vẫn có thể mường tượng ra rất rõ, hình ảnh của ngôi trường xưa, cùng nét mặt thân yêu của những người đã một thời dạy dỗ tôi. Vương Mộng Long Chỉnh sửa lại bởi hoangngochung - 28/Apr/2012 lúc 4:46am |
||
hung0989077120@ahoo.com
|
||
![]() |
||
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |