Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Âm nhạc | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Âm nhạc |
Chủ đề: Nhạc sĩ Văn Phụng | |
Người gởi | Nội dung | |||||||||||||||||
HongLan
Senior Member Tham gia ngày: 12/Jan/2014 Đến từ: Switzerland Thành viên: OffLine Số bài: 170 |
Chủ đề: Nhạc sĩ Văn Phụng Gởi ngày: 12/Mar/2014 lúc 1:30pm |
|||||||||||||||||
Nhạc
sĩ Văn Phụng (1930 -1999) tên thật là Nguyễn Văn Phụng, sinh năm 1930
tại Hà Nội, trong một gia đình có 8 người con mà ông là thứ hai.
Thuở
ấy, phong trào âm nhạc cải cách (tân nhạc) mới du nhập vào
Việt Nam và được giới trẻ nhiệt tình hưởng ứng. Văn Phụng đặc biệt có
năng khiếu về tân nhạc nên được các giáo sư dương cầm là bà Perrier và
bà Vượng dìu dắt rất tận tình. 15 tuổi, ông đã nổi đình đám khi đoạt
giải nhất độc tấu dương cầm với bản La Pirière d’une Viege tại Nhà hát
Lớn Hà Nội, 16 tuổi ông đã thi đậu tú tài. Ngặt nỗi ông bố (vốn là thông
phán) lại quá nghiêm khắc, ông cấm không cho cậu con trai đi theo
phường “xướng ca vô loài” mà chỉ muốn con mình làm… bác sĩ, nhưng Văn
Phụng theo học ngành y chỉ được một năm rồi bỏ học đi theo tiếng gọi của
âm nhạc.
Năm 1948, Văn Phụng cho ra đời tác phẩm đầu tay Ô mê ly với tiết tấu sôi động, phấn chấn yêu đời Ô mê ly đời sống với cây đàn tình tình tang… Ô mê ly, mê ly đời ta. Ông thường cùng các bạn bè nam, nữ tụ tập đàn hát với nhau. Nếu như trong đám bạn trai, Văn Phụng như là một “chủ súy” bởi ngón đàn tài hoa thì trong đám bạn nữ vút lên một giọng hát rất đỗi “liêu trai” của Châu Hà, người thiếu nữ Hà Nội có mái tóc dài vẫn thường thả lỏng như một dòng suối. “Trai tài, gái sắc” cứ quấn quýt bên nhau, thế nhưng ông thông phán lại rất ác cảm với nghề xướng ca vô loài nên tìm đủ cách để ly gián tình yêu của con trai mình. Biết rằng gia đình Văn Phụng không chấp nhận mình, Châu Hà phẫn uất đi lấy chồng và theo chồng vào Sài Gòn để xa hẳn một quá khứ đẹp mà… buồn. Châu
Hà đi rồi, một thời gian sau Văn Phụng cũng được bố mẹ cưới vợ. Ông
chấp nhận như là để khỏa lấp những trống vắng mà Châu Hà đã để lại cho
mình. Vợ ông cũng là người Hà Nội nổi tiếng “đẹp người, đẹp nết” rất
được bố mẹ chồng thương quý. Đến khoảng đầu thập niên 1950, vợ chồng Văn
Phụng đã có 2 người con gái. Những tưởng mọi sự đã an bài, nhưng tình
xưa đâu dễ quên… Tất cả những nỗi nhớ thương đều được ông đưa vào
các ca khúc của mình Tìm đâu thấy liễu xanh xanh lả lơi. Hay đi tìm
dòng suối tóc trên vai. Ghi trong khóe mắt u hoài hình bóng ai. Tôi thấy
em một đêm thu êm ái… Người em gái đứng im trong hồi lâu. Tôi ngập
ngừng lòng muốn nói đôi câu. Xin cho suối nước non ngàn tìm đến nhau.
Như chúng ta đôi đời hàn gắn thương yêu… (Suối tóc – 1954).
Rồi
không ngăn được tiếng gọi của con tim, Văn Phụng vào Nam. Châu Hà lúc
này đã trở thành ca sĩ chuyên hát ở đài phát thanh và các phòng trà cùng
thời với những Mộc Lan, Linh Sơn, Ánh Tuyết… Văn Phụng cũng mau chóng
hòa nhập vào làng ca nhạc miền Nam. Không chỉ sáng tác ca khúc, ông
còn thành lập ban tam ca nam đầu tiên ở Việt Nam với Văn Phụng – Anh
Ngọc – Nhật Bằng (1953-1954). “Tình cũ không rủ cũng tới” nhưng… không
phải dễ dàng gì bởi còn đó những trói buộc gia đình, còn những lời đàm
tiếu, dị nghị chung quanh. Chính những lúc buồn nản nhất, Văn Phụng đã
viết Tôi đi giữa hoàng hôn (1962) với điệu slow rock: Tôi đi giữa
hoàng hôn, khi ánh chiều buông, khi nắng còn vương. Một mình tôi ngắm
cánh chim lạc loài mà lòng thấy u hoài… Tôi thương nhớ ngày qua, trên
bến Hoàng Hoa, trên những đường xa, thường thường hai đứa nắm tay nhau
tươi cười, như thầm hẹn nhau mùa sau…. Ở Tôi đi giữa hoàng hôn không
hề có sự yếm thế, bi thảm mà là một nỗi buồn lâng lâng, siêu thoát. nhẹ
nhàng và trầm ấm đầy chất phương
Đông: …Dù cho mưa gió bên mái tranh nghèo. Dù cho nắng, dù cho sương
khói mịt mờ, niềm tin yêu hằng xin mãi mãi không hề phai. Nhớ… Nhớ… Nhớ
đêm nao trên bến Hoàng Hoa, hai đứa nhìn nhau, không nói một câu…
Chính tình yêu đó, cuối cùng, vượt qua mọi trở ngại, “Kim – Kiều” đã lại tái hợp, tạo nên một đôi uyên ương nổi tiếng trong làng ca nhạc Sài Gòn một thời. Văn Phụng – Châu Hà có với nhau 2 người con gái (với người vợ trước ông có 5 gái, 1 trai). Từ
thập niên 50, 60, từ Hà Nội đến Saigon, nhạc Văn Phụng đã mang đến một
nét mới lạ trong vườn nhạc Việt Nam. Qua các làn sóng phát thanh, các
đài truyền hình, băng nhạc, các buổi trình diễn, phòng trà, dạ vũ… ,
các bản nhạc như Ghé bến Saigon, Suối tóc, Ô Mê ly, Trăng sáng vườn chè,
Tôi đi giữa hoàng hôn, Yêu, Bức họa đồng quê.. ai nghe cũng mê thích vì
nét nhạc khi vui tươi, lúc êm đềm, vài bản với hòa âm kiểu Âu Mỹ, kể cả
lời ca cũng khác lạ với những bản nhạc thường nghe.
Từ
năm 75 di cư ra ngoại quốc, nhạc Văn Phụng lại càng được trọng dụng.
Các ban nhạc có khi đổi lại nhịp điệu cho hợp thời trang: slow đổi thành
pop, boston thành rumba v.v… , ai mà không thích Ái Vân ca nhạc dân tộc
tính Trăng sáng vườn chè… Nhạc sĩ Văn Phụng cùng thời với
Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Phạm Duy, Phạm Nghệ, và vì thời cuộc cùng
gia nhập ban Quân nhạc, ta gọi là “lính kèn”, với Nguyễn Khắc Cung, Nhật
Bằng, Ðan Thọ, Vũ Thành, Hoàng Trọng v.v…
Văn Phụng đã được trời ban cho tài, không những là một nhạc sĩ về sáng tác mà còn là một nhạc sĩ về hòa âm, trình tấu và kỹ thuật âm thanh. Trước hết, về tài sáng tác, anh đã viết rất nhiều, bài nào thường cũng hay cả lời lẫn nhạc, nét nhạc và đầu đề thật là độc đáo nên ca sĩ nào cũng thích hát nhạc Văn Phụng. Về tài trình tấu, Văn Phụng chơi nhạc trong ban Quân nhạc Ðệ tam Quân khu, đài phát thanh và Vô tuyến truyền hình Quốc gia và Quân đội, tại phòng trà và vũ trường nhiều năm ở Hà Nội, Saigon và Hoa Kỳ, sử dụng nhiều nhạc khí. Tiếng kèn clarinet của anh lả lướt êm dịu như của những nhạc sĩ Âu Mỹ có tiếng về jazz và ngón chơi piano đặc biệt của anh, với những lèo láy bay bướm hay những hợp âm mới lạ, lồng theo tiếng ca, khi anh đệm nhạc cho một ca sĩ. Sau hết, về tài kỹ thuật âm thanh, Văn Phụng rất thành thạo cả về máy móc thâu thanh và các nhạc khí điện tử. Anh đã may mắn có nhiều kinh nghiệm về dụng cụ và kỹ thuật âm thanh khi anh làm việc tại đài phát thanh và cơ quan UFO Hoa Kỳ ở Việt Nam cùng đài TV56 PTA ở Virginia. Trong phòng nhạc, anh tự đóng lấy nhiều kệ bằng gỗ rất đẹp, chạy chung quanh tường, để xếp đàn, sách nhạc, dàn âm thanh v.v… Văn Phụng mất ngày 17/12/1999, để lại khoảng 60 ca khúc. Việt Nam cũng mất đi một thiên tài âm nhạc |
||||||||||||||||||
IP Logged | ||||||||||||||||||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |