Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: Nhà thơ Bùi Giáng Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Chủ đề: Nhà thơ Bùi Giáng
    Gởi ngày: 17/Apr/2010 lúc 3:34pm
 
 
 
Tuyển tập về nhà thơ Bùi Giáng, xin mời vào link:
 
 
 
 


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 17/Apr/2010 lúc 3:36pm
mk
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 19/Apr/2010 lúc 6:59am
BÙI GIÁNG , AI NGƯỜI CHIA XẺ
 
                                                                                                                          
Bùi Công Thuấn

 

            Đã có nhiều người viết về  Bùi Giáng, tôi chỉ ghi lại vài cảm nhận cuả mình , như là để góp thêm một cách hiểu thơ ông ,  may ra chia xẻ được chút nỗi niềm cuả ông .

 

1. Trạng thái “ điên “ cuả Bùi Giáng có ý nghiã gì ?.

 

                 Theo thầy Thích Nguyên Tạng ( chùa Pháp Vân, Gia Định, Sàigòn ) , Bùi Giáng tự ghi tiểu sử cuả mình cho thầy trong cuốn sổ tay  vào  buổi trưa ngày mùng 10 tháng 11 năm 1993 như sau :                          

                       “    1971 � 75 - 93

Điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang

Rong chơi như hài nhi (con nít)

Được gia đình ông Phó Chủ Tịch (482) Lê Quang Định,  Hội Đồng Thành Phố đối xử

                          thơ mộng thênh… “

Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 ỏ làng Thanh Châu xã Vĩnh-Trinh huyện Duy Xuyên Quảng-Nam . Tạ thế tại bệnh viện Chợ Rẫy Sai-Gòn, hồi 2 giờ chiều ngày 7 tháng 10 năm 1998.           Ông là cháu ngoại của tổng-đốc Hoàng-Diệu, con của ông Bùi-Thuyên và bà Huỳnh-Thị Kiền làm nghề dậy học ở Đà-Lạt, Sài-Gòn, biên soạn sách giảng luận về văn học, triết học, kiếm hiệp, viết văn, làm thơ…

Theo Võ Đắc Danh ,   hồ sơ lưu trữ tại nhà thương điên Biên Hoà ghi nhận Bùi Giáng nhập viện hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1969, lần thứ hai vào năm 1977, thời gian này Nguyễn Ngu Í vẫn còn trong bệnh viện, hai người cùng ở khu 3 .

Bệnh án của Bùi Giáng có đoạn ghi: "Bệnh tái phát từ tháng 4 năm 1969, có hôm thức suốt đêm để viết, nói huyên thuyên, chơi chữ, có khi la thất thanh, ý tưởng tự cao tự đại. Hay phát biểu ý kiến về những vấn đề chính trị, văn hoá trọng đại, có ý nghĩ bị người ta phá hoại sự nghiệp văn chương. Tháng 3 năm 1969 bị cháy nhà và cháy tất cả sách vở quý báu nên đương sự bị bệnh mỗi ngày một nặng hơn...".

          Tuy nhiên đọc thơ Bùi Giáng , tôi không thấy bệnh điên ảnh hưởng gì đến câu chữ cuả ông. Trái lại , ông ý thức rõ trạng thái điên cuả mình , điên là một thái độ sống có ý thức.

              Đời này đất đá cằn khô
                                                      Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng
                                                      Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời

                                                                                                       ( Dzách )

                                                      Uống và say nói lăng nhăng
Miệng mồm lý nhý thằn lằn đứt đuôi
Tâm can chân thể chôn vùi
Mặt trời không mọc với người lem nhem
Còn đâu nguyệt tỏ bên thềm
Ôi người uống rượu còn thêm điên rồ

                                                                                    ( Người Điên Uống Rượu )

Ông điên từ một lần đầu
Tới lần đuôi đứt ruột rầu rĩ đau
Tuyệt mù biển cạn sông sâu

Bụi hồng tản mác trước sau bây giờ  .1996

                                                                                   ( Ông Điên )

Anh đã định suốt thiên thu vạn kỷ

Làm thằng điên rồ dại suốt thiên thâu

Nhưng em ạ, dường như anh vô lý

Lúc đoạn trường anh đứt ruột khổ đau

                                 ( Quá Khứ Cuả Anh )

 

                        Những dòng thơ “ điên “ ở trên như ẩn chưá một điều gì sâu kín lắm trong tâm hồn Bùi Giáng . Ngôn ngữ thơ vưà gói kín vưà gợi ra trạng thái mơ hồ , nưả như đuà , nưả như thật , nưả hồn nhiên , nưả thương đau và cô độc cuả tâm hồn Bùi Giáng . Không có mặt trời mọc , không có trăng bên thềm , chỉ có tuyệt mù sông sâu , biển cạn  , bụi hồng và sự hiện hữu người ngợm vô thường trong  nỗi đau đứt ruột

 

2. Thơ Bùi Giáng , thơ tư tưởng

 

            Trong thơ , người đọc khó khám phá ra nỗi đau thực sự cuả Bùi Giáng là gì, nhưng nỗi đau ấy bàng bạc trong hồn thơ ông

 

Niềm đau đớn xót xa như vĩnh quyết
Niềm điêu linh như vĩnh biệt muôn đời
Tôi về giữ mộng mù khơi
Kết thành viễn tượng cho đời chiêm bao
                                                    ( Ngày Nay Ngày mai )

Ăn làm sao? nói làm sao?
Thủy chung muôn một? còn đau đớn nghìn?
                                                    ( Mười Hai Con Mắt )

            Phải chăng đó là nỗi đau cuả những cuộc tình “ rã đôi “ không thành lời . Sự “ chia ngã đường thu “ đã để lại những vết thương tâm  không rõ  nguồn cơn , nở thành những “ đoá đoá sầu “  để Bùi Giáng tặng cho đời .. Ông có nhắc đến một vài người cụ thể : “Bình sinh mộng tưởng vấp phải niềm thương yêu của Kim Cương Nương Tử,  Hà Thanh Cố Nương và Mẫu Thân Phùng Khánh ( tức Trí Hải Ni Cô) “ ( tiểu sử tự ghi ) Nhưng những người phụ nữ này được Bùi Giáng  tôn vinh như là mẫu thân sinh đẻ ra mình , tuyệt không có chút gì là quan hệ  nhục thể cuả tình yêu nam nữ , nhớ mong , hờn ghen , đau khổ,  hẹn hò,  mộng mơ như trong thơ tình cuả những nhà thơ khác.

Tặng đời đóa đóa hoa sầu
Nhớ nhau từ đóa mộng đầu rã đôi                            

                                     ( Theo Áng Mây bay )        

Những thương nhớ lạnh bao giờ
Đường Thu chia ngã chân trời rộng tênh
                                             ( Mai Sau Em về )

Kính thưa công chúa Kim Cương,
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây .
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?

                                      ( Kính Thưa )

Con về giũ áo đười ươi
Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu thân
Đẻ con một trận vô ngần
Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa thôi
Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời
Chiều xuân thơ mộng dưới trời bước đi

                                         ( Thơ Điên )

 

Nhân vật Em trong thơ Bùi Giáng  thấp thoáng bóng hình một con người cuả thực tại ,

cuả kỷ niệm cuả yêu thương , nhưng  cũng là  huyễn hoặc “ sương bóng “ tâm tưởng để Bùi Giáng giãi bày

 

Em đi sương bóng vô ngần
Nhìn anh như ngó một lần người điên
                                                      ( Mộng )

Xin ngó lại bàn chân em bước
Vì em đi vào lúc gió đương bay
Năm ngón nhỏ như sương đầm lá ướt
Em đưa tay anh vói bắt chừng này
Ngồi kể lại chuyện ngày xưa cũ kỹ
Em không nghe vì anh cũng không nghe ..
                                 (  Nhiên Tượng )


 

             Chuyện tình yêu chỉ thoáng qua rất nhẹ vậy “ Niềm đau đớn xót xa như vĩnh quyết “ cuả Bùi Giáng là gì ? Có lẽ xuất phát từ thẳm sâu  ý thức về thân phận thiên tài , số kiếp kẻ  phong vận bạc mệnh mà Nguyễn Du  nói đến trong Độc Tiểu Thanh Ký ? Xưa nay người phong vận phải mang lấy những hận sự , những kỳ oan , như một định mệnh , biết “ hỏi đoạn trường từ đâu “ , dù có hỏi trời cũng không có lời giải đáp ” . Cổ kim hận sự thiên nan vấn / Phong vận kỳ oan ngã tự cư “. Bùi Giáng  tự kham lấy những nghiệp chướng ấy chăng , rồi nín thinh như cỏ cây

                       

Em về trúc thạch mốt mai
Sẽ nhìn thấy mãi thiên tài chết điên

                                          ( Mười Hai Con Mắt )

Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây

                                          ( Chào Nguyên Xuân )
Dấu bèo phong vận nín thinh
Sóng phơi trường mộng bình minh vô thường
Nắng hồng chiếu bóng đài gương
Lời nghi hoặc hỏi đoạn trường từ đâu …

                                               (   Vẫn Là Là )

 

            Thực ra , trong bản chất cuả thân phận  làm người  , Bùi Giáng đau nỗi đau kiếp nhân sinh , nỗi đau cuả sự thất bại trong nỗ lực  vượt qua “ bốn nuí “ ( Chữ cuả Trần Thái Tông  ,1218 - 1277  , trong Thiền Tông Chỉ Nam ) ,  vượt qua   sắc không  , ngũ uẩn , vô thường  . Bùi Giáng  không sao  đặt được bước chân vào cõi thanh tịnh vô vi (Asamkrita )  . Ông tự dày vò mình trong hình hài “  đười ươi “ , con vật , giống khỉ , ngưả mặt cười vu vơ (  hình ảnh “ điên “ cuả Bùi Giáng )

 

                                                         …Em về giũ áo mù sa

 Tiền trình vạn lý anh là đười ươi…

 

                                                        …Em về giũ áo đười ươi

                                                            Trút quần phong nhụy cho người phụ nhau.

                                 

                                                 Đười ươi tại hạ ra đời

                                                            Thời gian rạch xé tô bồi cho em.

                   

                                                        ….Ông  già rất mực đười ươi

                                                             Già nua lắm lắm còn cười vu vơ.

 

            Nhận ra “ tinh thể đười ươi “ trong thân phận người là một  giác ngộ tư tưởng cuả Bùi Giáng .

 

Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.

 

Trong Thiền Luận ,  Daisetz Teitaro Suzuki   nhắc đến Thiền Thoại sau : Khi Ngưỡng

Sơn ( 804-899) hỏi về Phật tánh. Thiền Sư Hồng Ân thí dụ như vầy: “Như ngôi nhà có sáu cửa nhốt khỉ đột. Ở ngoài có người hô to “khọt khọt”, khỉ đáp lại “khọt khọt”, cứ thế sáu cửa cùng hô cùng ứng. Ngưỡng Sơn hỏi lại: “Ví như lúc ấy khỉ ngủ thì sao?". Hồng Ân bước xuống một tay nắm Ngưỡng Sơn, vừa múa vừa nói: “Khỉ ơi khỉ ơi , ta với ngươi cùng đối mặt nhau đây”.

 

 Đoạn thơ  trên biểu hiện  tâm hồn , tính cách , kiều nói năng rất  Thiền cuả Bùi Giáng .

 Bùi Giáng nhận ra Phật Tánh trong hình hài đười ươi cuả người , cuả tôi  . “ người cũng là tôi , tôi cũng là người , ấy rằng tinh thể đười ươi “ . Vũ trụ ,  thời gian là nhất thể , tự tại , không sinh diệt : “ một cũng là ba , là hai , là một ; mai , mốt cũng là hôm nay “ . Sự giác ngộ như thế là bước giác ngộ thứ nhất để dẫn đấn đại ngộ . Đây không phải là sự  xoá nhoà ranh giới giữa cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái chung” như nhận xét cuả  Nguyễn Hưng Quốc .

                        Trong đoạn thơ trên , phải chăng Bùi Giáng mượn lời  thiền sư Hồng Ân để thể hiện tư tưởng cuả mình ? Rõ ràng  tư tưởng thơ Bùi Giáng là  tư tưởng Phật Giáo  . Đời hư huyễn , như hạt sương , bọt nước , như ánh chớp , như áng mây , vô thường  , chiêm bao ( Bùi Giáng có nhiều bài thơ đề tài Chiêm Bao ) .Tự Tánh cuả vạn vật là KHÔNG, sự từ bỏ  Ngã  , không để vướng mắc vào bất cứ cái gì đạt tới tinh thần  “ Ưng vô sở trú “,  ( Giới thiệu Kinh Kim Cang – Thích Thái Hoà ). Dường như Bùi Giáng đang phát tâm, an trú tâm và hàng phục tâm, đoạn trừ ngã chấp, ngộ nhập ngã- không

           “Anh đã định sẽ cùng em kể lể

Một nỗi đời hư huyễn giữa chiêm bao

Vườn hiu hắt nguyệt hờn mây nhỏ lệ

                                                            Một mùi hương hồng tụ ở nơi nao”  
                  

Anh đã định bỏ hoàng hoa say đắm

Bỏ tâm tư về vắng lặng phương trời

Bỏ tất cả tâm tình xưa say đắm

Tới muôn sau tình tuyệt vọng không lời

                           ( Quá Khứ Cuả Anh )

 

                        Có lúc  Bùi Giáng đã đạt đuợc sự hồn nhiên thanh tịnh (1) , vượt qua sắc không , đạt đến tinh thần cuả Hoa Nghiêm , hoà trong  tạo vật . Tôi không thấy hồn thơ Bùi Giáng bị vây khốn như Thanh Tâm Tuyền đã từng viết về ông .

 

                                                              Rong rêu ngày tháng rong chơi
Tìm xuân tinh thể chốn nơi nào là
Sưu tầm túy vũ cuồng ca
Hồn nhiên như thể như là hài nhi?
                                        ( Bé Con Ơi )

                                                          …Một hàng cây bóng thần tiên
Dập dìu ở giữa khuôn viên thêu thùa
Bé con bốn đứa nô đùa
Một trai ba gái bốn mùa chạy quanh
                                     ( Thiên Thanh Là Là )

                                                               Xin yêu mãi mãi và yêu nhau mãi
Trần gian ôi! cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn.
                                              (  Phụng Hiền )

                                                              Nâu sồng ăn mặc sớm hôm
Ðêm nằm ngó nguyệt sáng dòm song the.
                                        ( Ăn Mặc Nâu Sồng )

Dưới mắt người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong, cái kiến cho đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì mà không dễ thương, không phải là Phật ,  kể cả sơn hà đại địa , phiến đá,  dòng suối trong  rừng, một miếng gỗ, cục đá hay đồng chì ..

                      Nhưng Bùi Giáng không trở thành Thiền Sư , ông vẫn sống với  thân phận đười ươi khỉ đột  giưã đời  , vẫn tra hỏi tìm kiếm mỏi mòn trong cõi bể dâu , và ngày càng xa hút .. trong cái nhìn cuả con người , cái  nhìn đười ươi  , nghi hoặc  , đo , đếm  .

 

Đười ươi giũ áo tình phong nhã

Khỉ đột trút quần tưởng Việt siêu …

                                      ( Chiêm Bao 7 )

  Cố gắng trăm năm tìm kiếm mãi

Mỏi mòn nghìn mối thể thân ly …

                                 ( Chiêm Bao 3 )

Hỏi tên rằng biển xanh dâu

Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa

Gọi tên? Rằng một hai ba

Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm

                                                                                                 ( Tặng Mã Giám Sinh  )

                        Ông chỉ đạt tới tiểu ngộ mà  không đạt tới đại ngộ  cuả  Thực tướng vô tướng ; thực tánh vô tánh . Trạng thái “ điên “ cuả Bùi Giáng chính là trạng thái bất lực trước cuộc vượt qua đề  “ tái sinh “, mặc dù Bùi Giáng đã nhiều lần nói đến tái sinh.

 

Anh đã định sẽ yêu đời suốt kiếp

                                                            Suốt thiên thu từ vạn thuở phiêu bồng

                                                            Rồi anh chợt thấy mình luôn liên tiếp

                                                            Nửa điên cuồng nửa rồ dại bông lông

                                                                                                  ( Quá Khứ Cuả Anh - tại Lê Gia Trang 1991 )

Tỉnh ra nửa sợ nửa mừng
Tận cùng gió núi trăng rừng tái sinh

                                               ( Chuyện Chiêm Bao 20)

  Tận cùng gió gác trăng lầu

  Tái sinh rừng biển buồn rầu trăm năm

                                                 ( Chiêm Bao 21 )

                         Chưa giác ngộ , người ta thấy núi là núi sông là sông. Giác ngộ rồi , người ta vẫn thấy núi là núi , sông là sông , nhưng là một tâm hồn tái sinh . Tái sinh trong tâm bình thường không phải tâm sai biệt  . Như trở về nhà xưa , hoa xuân như lộng lẫy hơn, dòng nước đầu non như chảy mát rượi hơn, trong vắt hơn , trong mọi vật bình thường là toàn thể vũ trụ , là tự do.

 

                        Chính vì không vượt qua được sắc tướng huyễn hoặc hồng trần  , Bùi Giáng cứ phiêu du trong cõi đời cô độc mù khơi , hành trình ấy như một bế tắc , lại vưà như một khám phá hiện sinh làm nên thơ Bùi Giáng , những bài thơ ấy chia xẻ được với mọi người nỗi niềm gần xa . Bởi vì nếu Bùi Giáng “ ngộ “ được chân như , có lẽ thơ Bùi Giáng chỉ còn là những bài kệ để thuyết pháp mà thôi  .

                         

tôi người thủy thủ ra đi
chân trời thấy nước đợi kỳ lên mây
sao đêm đố xuống triều đầy
ai đưa kiếm vút ngang mày hư không
                                     (  Mái Hiên )

lạnh lụng dấu bước bờ sau
mấy đời ly biệt về đau trong mình
năm sầu sa mạc nín thinh
đi vào giá buốt mông mênh cuối trời
                              ( Mái Hiên )

3. Giá trị thơ Bùi Giáng

 

                     Thơ Bùi Giáng tài hoa ở câu chữ , những câu chữ chưá đầy bí mật  . Nhiều người đọc thơ Bùi Giáng không hiểu , tấm tắc khen , rằng là  tài hoa , rằng là hay …  nhưng bất lực , không  giải mã được  ,  đành “ tán “ như vầy : “có khi không hiểu hết nghĩa nhưng tâm hồn vẫn bàng bạc một nỗi cảm hoài. Có thể thơ Bùi Giáng nói được đôi điều rất chân thật với tâm hồn ta, và ta được hưởng ít giây phút sung sướng phiêu bồng mà hầu hết chúng ta đã đánh mất, đã rời quá xa trong cuộc sống đầy phân chia đến chỗ cằn cỗi này”.( Phạm Xuân Đài ) . Nguyễn Phú Long trích dẫn thơ trong  một bài luận về “Sở Dĩ Nhiên”  cho rằng , đọc thơ Bùi Giáng không cần hiểu ý nghiã bài thơ  :” Nhưng tại sao lại đặt vấn đề ý nghĩa cho một bài thơ nhỉ ? Bài thơ là bài thơ, những gì ta thấy ta đọc là những gì ta đọc ta thấy vậy thôi. Đừng đi tìm ý nghĩa. Bài thơ như thế đấy, nó không cần có y’ nghĩa.”  Nguyễn Hưng Quốc còn đi xa hơn : “ Bùi Giáng rất gần các nhà thơ hậu hiện đại. Bùi Giáng còn gần gũi các nhà thơ hậu hiện đại ở một khía cạnh khác nữa: một số khá nhiều những bài thơ của ông là loại thơ không thể giảng .Nói cách khác, bài thơ là bài thơ. Không có ý nghĩa nào ẩn đằng sau bài thơ để chúng ta đào xới, tìm kiếm… Chúng ta không thể phân tích. Chúng ta chỉ cần nghiệm (experience). Đọc lần thứ nhất: chúng ta không hiểu gì cả. Đọc lần thứ hai: chúng ta vẫn không hiểu gì cả. Đọc lần thứ ba: chúng ta lại vẫn không hiểu gì cả.”

 

                   Ô hay ! Bùi Giáng làm thơ là để mong có người chia xẻ tâm sự điêu linh , vậy mà người đọc lại không hiểu , không cần hiểu , không cần đọc những gì ông gửi gắm qua câu chữ , thử hỏi Bùi Giáng có buồn không ?

Xổ bầu tâm sự điêu linh
Ai người chia xẻ với mình với ta

                                             (Một giờ)

                   Không phải thơ Bùi Giáng là “  thơ gần với thơ Hậu Hiện Đại, bài thơ là bài thơ , không có ý nghiã nào ẩn sau để chúng ta đào sới “, đấy chỉ là cách nói cuả sự bất lực trước ngôn ngữ tư tưởng cuả thơ Bùi Giáng . Thơ tư tưởng phải hiểu bằng tư tưởng , không phải bằng câu chữ ; hơn nưã  Bùi Giáng đã dùng một loại ngôn ngữ “ khép kín “ ,  yêu cầu rất cao đối với người đọc để có thể hiểu thơ ông :

Ngữ ngôn khép kín mặc dầu
Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra
Dịu dàng cuối lá đầu hoa
Mười về châu lệ chín sa dòng dòng

                                     ( Bé Con Ơi )

Bùi Giáng bảo rằng phải mở óc trong đầu ra , mở máu trong tim ra , phải có hùng tâm , phải trở về chín phương  trời mười phương Phật  nước mắt dòng dòng tuôn rơi ( như chín chiều ruột đau ) mới có thể đọc Bùi Giáng , lại phải biết trân trọng nâng niu , dịu dàng như nâng niu hoa lá . Nhất là phải có

 “ hùng tâm “ , đừng nghi tâm .Chữ “ hùng tâm “ theo tôi , là chữ Bùi Giáng mượn cái tâm cuả Nguyễn Du : Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên / hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên “ ( Tạp Thi ) . Vời yêu cầu như thế , việc đọc thơ Bùi Giáng thật không dễ dàng .

 

Thực ra thơ Bùi Giáng là thơ tư tưởng , thể tính cuả nó là tư tưởng , không phải câu chữ , hơn nưã  ở nhiều bài thơ , Bùi Giáng đã dùng kiểu diễn đạt “ vô ngôn “ cuả Thiền . Với kiểu ngôn ngữ này , càng bám vào ngôn ngữ , người đọc càng bị mắc bẫy bởi chính tư duy cuả mình  . Thí dụ ;

             Đệ tử hỏi:     - Thế nào là Phật?

             Thiền sư Tịnh Không (1091-1170) đáp :

                                     - Nhật nguyệt sáng soi ức triệu cõi

                                       Ai hay mua móc gội non sông! ( Thiền Uyển Tập Anh )

 

             Bùi Giáng cũng trả lời những người hỏi mình :

Hỏi tên rằng biển xanh dâu

Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa

Gọi tên? Rằng một hai ba

Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm

                                                   ( Bùi Giáng )

            Cách trả lời cuả Bùi Giáng trong đoạn thơ trên cũng là  cách trả lời cuả thiền sư Tịnh Không . Nếu người đọc chỉ tra hỏi , đo , đếm với cái tâm sai biệt ( Nghi tâm ) , chỉ bám vào câu chữ , thì  không thể hiểu ông nói gì . Bởi vì Bùi Giáng tồn tại vô sắc tướng trong đoạn thơ .  Người đọc cảm được cái hay cuả  đoạn thơ  nhưng khó giải thích được được bản chất thẩm mỹ cuả đoạn thơ là gì  . Đây chính là đặc điểm ngôn ngữ Thiền.  Không hiểu mới là Thiền . Bởi vì Thiền  “ ..Bất lập văn tự , trực chỉ nhân tâm “,  Thiền loại bỏ tất cả sự nhận thức cuả  trí.   Khi còn bám vào sắc tướng ( lời ) còn nghi tâm , thì không hiểu được ý ở ngoài lời.

Tất nhiên bằng trực giác , ta vẫn có thể hiểu được lớp nghiã tường minh cuả văn bản , bởi vì trong ta đã có sắn vốn ngôn ngữ để hiểu . Ta hiểu được  “ Biển xanh dâu “ vì trong ta đã có câu thơ Kiều “ Trải qua một cuộc bể dâu “   .Trong ta , ai cũng đã từng một lần dệt mộng cho  tình đầu cuả mình ,

” mộng ban đầu “,  “ mộng dưới hoa “ , “ mộng bình thường “ . Đoạn thơ còn quen thuộc ở cấu trúc giống với đoạn thơ Nguyễn Du giới thiệu Mã Giám Sinh , một nhân vật để lại nhiều ấn tượng cho người đọc Kiều . Sự thú vị càng tăng lên  khi người đọc nhận ra  phép đối trong câu chữ cuả Bùi Giáng với câu chữ cuả Nguyễn Du : “ Hỏi quê: “ rằng huyện Lâm Thanh cũng gần “ ( truyện Kiều ) , đối với “ Hỏi quê ? Rằng mộng ban đầu đã xa “( Bùi Giáng ) . Bùi Giáng đối lập mình với Mã Giám Sinh , từ đó  đặt mình trong tương quan với Nguyễn Du.  Câu thơ Nguyễn Du là câu thơ tả thực nói cái đời thường , quê quán , tuổi tác , gia cảnh .Câu thơ Bùi Giáng ngược lại, dẫn người đọc vào trường ngôn ngữ nghệ thuật đòi sự  cảm nhận lãng mạn. Cái hay cuả đoạn thơ còn ở chỗ Bùi Giáng làm thay đổi đột ngột cách tư duy cuả người đọc. Đang từ kiểu tư duy hình tượng với biển xanh dâu , đột ngột đổi sang kiểu tư duy cụ thể đo đếm,  một,  hai , ba , rồi tức khắc chuyển sang  tư duy triết học với những “ diệu tưởng , nghi tâm “ . Tư duy logic cuả người đọc bị lật nhào , đoạn thơ   mở ra chiều tư tưởng , buộc người đọc phải thoát ra khỏi câu chữ  để nhìn bằng cái tâm không sai biệt. Tiến trình đọc như vậy tạo ra khoái cảm thẩm mỹ .Người đọc có thể không hiểu câu chữ Bùi Giáng vẫn cảm nhận được cái hay cuả thơ ông là vậy.

 

            Nói thơ Bùi Giáng là thơ tư tưởng thì giá trị thơ Bùi Giáng cũng là giá trị cuả chính tư tưởng ấy . Vậy tư tưởng thơ Bùi Giáng là gì ? Ở trên  tôi đã nhận ra tư tưởng cuả kinh Kim Cang , kinh Hoa Nghiêm , tư tưởng Thiền trong thơ Bùi Giáng , nhưng còn một thế giới tư tưởng khác  trong thơ Bùi Giáng là thế giới tư tưởng Nguyễn Du :  biển xanh dâu , đoạn trường ,  phong vận , lầu xanh , cát lầm , bụi hồng , hùm thiêng ( thân phận Từ Hải ) , Đạm Tiên , Từ Hải …Bùi Giáng mượn thế giới tư tưởng nghệ thuật ấy để thể hiện tâm hồn mình

 

Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây

                                   ( Chào Nguyên Xuân )

Tồn sinh quá khứ chôn vùi
Cơn say suốt kiếp - trận cười thâu canh

                                    ( Gõ Cưả Tồn Sinh )

Hùm thiêng chắp nối của tin
Cho người thổn thức cầu xin đá vàng

                                     ( Mười Hai Con Mắt )

Tuyệt mù biển cạn sông sâu
Bụi hồng tản mác trước sau bây giờ
                                      ( Ông Điên )

Cô đơn chứa đựng đầy miền
Cảo thơm tiền kiếp qủa nhiên bây giờ .

                                      ( Quanh Co )

Mặc người
mưa Sở mây Tần
Riêng mình gìn giữ
một lần đầu tiên

                           ( Riêng Mình )
Dấu bèo phong vận nín thinh
Sóng phơi trường mộng bình minh vô thường
Nắng hồng chiếu bóng đài gương
Lời nghi hoặc hỏi đoạn trường từ đâu
                                               (   Vẫn Là Là )

Sao bằng riêng một biên thuỳ
Cõi điên vũ trụ tuỳ nghi tung hoành
            ( Sao Bằng )

Lừng bay thân thế pha mù
Sương mây tuyết dậy thân bù cho thân

                   (Đạm Tiên)

Nhưng thơ Bùi Giáng không chỉ có ngần ấy tư tưởng. Những hệ tư tưởng ấy chưa đủ để ông giải quyết những vấn đề cuả hiện hữu và  cũng không giúp ông nói hết sự trải nghiệm hiện sinh cuả mình , bởi cuộc đời ông , thời đại ông và tư tưởng cuả ông  khác rất xa với quá khứ . Ông tìm đến một cách thể hiện khác , đó là thái độ “ điên “ . Thiền thọai kể lại nhiều hành vi cuả các Thiền sư mà nếu nhìn bằng con mắt bình thường ta có thể sẽ thốt lên rằng “ điên thật ! điên thật !“, chẳng hạn : có một thượng tọa tên là Định hỏi sư Lâm Tế  về đại nghĩa pháp Phật . Sư bước xuống ghế rơm, nắm lấy Định , xáng cho một bạt tai, rồi xô ra. Định choáng váng chưa biết phải làm gì . Một ông tăng đứng bên bảo Định sao không lạy Sư đi. Định toan lạy thì ngay lúc ấy hốt nhiên ngộ đạo. Sau đó,  Định qua cầu gặp ba ông tọa chủ. Một ông hỏi Định : tôi nghe nói dòng thiền sâu thẳm phải dò đến đáy, thế nghĩa là gì ?”.  Định bèn nắm lấy người ấy , toan ném xuống sông ( dẫn theo Suzuki ) . Thiền Uyển Tập Anh kể lại : Thiền sư Đại Xả (1120-1180)  thường xoã tóc , quên ăn, không ở hẳn một nơi nào . Ngày 5 tháng 2 năm Trinh Phù thứ 5 , sau khi  dặn dò đệ tử , sư đọc bài kệ , đến canh năm hôm ấy sư uống thuốc độc mà qua đời .( Thế có là điên hay không ? )

Phải chăng Điên là một cách hành Thiền cuả Bùi Giáng ? và Điên cũng là cách  né tránh đối diện với thực tại , thực tại thời chiến tranh Việt Nam , trước và sau 1975 ? Ta không thấy Bùi Giáng bày tỏ bất cứ chính kiến nào về thực tại đó như thơ văn đương thời . Bài thơ Về Quảng Nam được viết bằng ngôn ngữ đời thường thể hiện rõ thái độ né tránh ấy :

Chiêm bao tôi thấy tôi về Quảng Nam
Rong chơi Đại Lộc, Điện Bàng
Duy Xuyên, Tiên Phước, Hoà Vang, Thăng Bình...

Tìm người bạn cũ không ra
Còn phong cảnh cũ khác xa những ngày...

Xóm làng đồng ruộng lạ thay
Chỉ còn dáng núi chạy dài xa xa
Giữ nguyên hình ảnh đậm đà
Còn trong kỷ niệm bao la tuổi nào...

Ngắm nhìn. Tim máu xôn xao
Tôi rời đất Quảng trở vào Miền nam
Tâm hồn bao xiết hoang mang
Bài thơ viết vội, dở dang lạ lùng
                                                1995

Ta chỉ thấy thấp thoáng tâm hồn Bùi Giáng xiết bao hoang mang , xôn xao ,  dở dang trước thực tại đã thay đổi lạ lùng .Bùi Giáng không lộ ra bất cứ một phản ứng  chinh trị xã hội nào.Thái độ này chẳng khác gì Nguyễn Du lúc sinh thời. Nguyễn Du sống im lặng ,  dấu kín tư tưởng cuả mình với thực tại thời Gia Long  . Nhiều bài thơ cuả Nguyễn Du mượn đề tài Trung Quốc . Thật khó tìm thấy hình ảnh đời sống thật cuả xã hội Việt Nam và thái độ cuả Nguyễn Du trong thơ ông. Thái độ cuả Bùi Giáng với Nguyễn Huệ ( bài Nguyễn Huệ ) cũng gần như thái độ Nguyễn Du với Từ Hải , mà có ý kiến cho rằng Từ Hải là hình bóng Nguyễn Huệ.  Và , phải chăng thái độ cuả Bùi Giáng cũng là thái độ “ giả cuồng “ cuả Nguyễn Gia Thiều trước thời cuộc ? Nguyễn Huệ ra Bắc 1786 , Nguyễn Gia Thiều lẩn trốn ở núi rừng . Khi không còn trốn tránh được , ông trở lại Thăng Long uống rượu , giả cuồng , bất hợp tác với Tây Sơn.

Bùi Giáng ý thức rõ việc lúc nào điên , lúc nào tỉnh , ông cũng ý thức rõ người đời hoài nghi về thái độ “ giả cuồng “ ấy  cuả ông

 

Uống và say nói lăng nhăng
Miệng mồm lý nhý thằn lằn đứt đuôi

                            ( Người Điên Uống Rượu )

Tôi cười tôi khóc bâng quơ
Người nghe người khóc có ngờ chi không.

                                                      ( Bao Giờ)

Tôi nằm ở giữa vườn cây
Tấm lòng men rượu từ nay chịu chừa
Điên cuồng nhảy múa sớm trưa
Từ nay chấm dứt - thượng thừa hoàng trang

          ( Cũng Là Như Thế )

 

            Uống rượu , điên cuồng nhảy muá , nói năng lí nhí , cười khóc bâng quơ ..Nếu nhìn ở hiện tượng ngôn ngữ thì đó là hành vi cuả người điên không còn ý thức , nhưng ở Bùi Giáng đó là một hành vi có ý thức , một thái độ chọn lưạ hiện sinh . Nhất định thái độ ấy phải xuất phát từ tư tưởng . Có thể là ông mắc phải  sai lầm nào đó trong đời , hay sai lầm cuả  những dấn thân “ tội lỗi “

 

Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh

                                    ( Hư Vô Và Vĩnh Viễn )

Máu trong mình mòn ruỗng
Xương trong mình rã riêng
Anh đi về đô hội
Ngó phố thị mơ màng
Anh vùi thân trong tội lỗi
Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang

                                               (Bờ Luá )

            Cũng có thể đó là thái độ sống “ hồn nhiên “ cuả người “ đắc đạo “ .Người đời nhìn ông điên , nhưng , với ông , đó là tự do. Chữ  tự do hiểu theo tư tưởng Phật , không phải tự do chính trị . Tôi không nghĩ rằng “Anh càng lang thang, càng lên cơn điên dữ dội, càng điêu linh tàn tạ, nhưng cùng lúc anh đang đóng vai trò của một sứ đồ tự do, bản thân anh là một bài ca đầy cảm hứng cho nỗi khát khao tinh thần tự do của xã hội…. Anh tượng trưng cho sự "ngoài vòng cương tỏa" mà người văn nghệ chân chính nào cũng thèm muốn.( Phạm Xuân Đài ) . Thực ra đó là tinh thần “ Ưng vô sở trú ‘ cuả kinh Kim Cang , tinh thần tự do cuả Lâm Tế Nghĩa Huyền (? – 867 ) “…gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La Hán hoặc họ hàng thân thiết, giết hết, chớ ngần ngại : đó là con đường độc nhất để giải thoát. Đừng để bất cứ ngoại vật nào trói buộc mình, hãy vượt lên, hãy bước qua, hãy tự do.”( Dẫn theo Suzuki )

 

Ngủ yên bên lá cỏ chiều
Giữa trời thu mỏng gió dìu mây trôi
Ngủ yên bên suối bên đồi
Bên rừng thu tạnh bên người xót xa
Cát lầm ngọc trắng ố hoa
Bên đời thổn thức thiết tha bên người
Ngủ yên cây cỏ ngậm ngùi
Một giờ yên ngủ lấp vùi trăm năm
Tỉnh ra tìm lại chỗ nằm
Chốn xa xôi ấy đêm rằm trăng soi

           ( Chuyện Chiêm Bao 17 )

 

            Bùi Giáng có thể ngủ yên bên cỏ , bên suối , bên đồi , bên rừng  để lấp vùi trăm năm , nhưng Bùi Giáng  không thể quên nguôi nỗi đau đời . Ông gắn bó  đá vàng bên đời buồn tủi , bên người xót xa , ông   thiết tha bên người với tất cả nỗi ngậm ngùi thổn thức  cuả cõi nhân sinh , và ông bỗng nhận ra mình lạc mất  trong chốn xa xối ấy ,  tỉnh ra đi tìm lại chính mình .

                                           
Trước khi về chín suối
Em xin gửi đá vàng
Của trăm năm buồn tủi
Về trở lại nhân gian

                                ( Trước Khi )

 

            Có thể nhận thấy sau Nguyễn Du , Nguyễn Gia Thiều , Cao Bá Quát , thì Bùi Giáng là người làm thơ tư tưởng  , và đưa thơ tư tưởng Việt Nam lên những bước phát triển mới . Điều này trở thành giá trị thơ Bùi Giáng , vì đương thời và cả  hiện nay , rất ít nhà thơ Việt Nam trở thành nhà thơ tư tưởng ( Có chăng là Phạm Thiên Thư , và hiện nay là Trần Ngọc Tuấn với tập thơ Gió Reo ). Tuy nhiên tư tưởng thơ Bùi Giáng không sánh được với tư tưởng thơ Nguyễn Du và Nguyễn Gia Thiều ở sự giác ngộ những trải nghiệm bể dâu , ở cái “ hùng tâm “ và thần lực cuả một hồn thơ mà ngòi bút có thể làm rung chuyển khắp cõi nhân gian như Không Lộ Thiền Sư  “Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.” ( Không Lộ - ?-1119 . Thiền Uyển Tập Anh )

 

 

 

4. Bùi Giáng có cách tân thơ không ?

 

            Bùi Giáng không có cách tân gì về thơ , ông chỉ kế thưà truyền thống và làm mới thơ bằng phong cách ngôn ngữ cuả mình.

 

            Về nghệ thuật và tư tưởng , thơ Bùi Giáng nằm trong  bầu khí tư tưởng và thế giới nghệ thuật cuả thơ cổ điển , cuả Nguyễn Du , tư tưởng Phật Giáo .

 

Thử xem xét  yếu tố thiên nhiên trong thơ Bùi Giáng , người đọc nhận ra ngay  chất cổ điển trong  

cách Bùi Giáng sử dụng những  chất liệu này . Thiên trong thơ Bùi Giáng rất ít khi là thiên nhiên đời thường cuả ca dao, đó là thiên nhiên khái niệm,  mang tính trí tuệ , tính tư tưởng cuả thơ Đường , nó cũng mang cái nhìn Hoa Nghiêm cuả Bùi Giáng trên hoa cỏ , sông núi , ruộng đồng,   gió trăng , mây nước. Thiên nhiên ấy cũng mang màu sắc Kiều cuả Nguyễn Du. Ta gặp nhiều hình ảnh này : chân trời rộng tênh , nguyệt tỏ bên thềm , biển cạn sông sâu , chiều xuân thơ mộng  , bình minh vô thường  , sương đầm lá ướt ,  vườn hiu hắt nguyệt hờn mây nhỏ lệ , gió núi trăng rừng , biển xanh dâu , cây cỏ ngậm ngùi  , trời thu , rừng thu  , mây trôi , bụi hồng ,   cát lầm  , nguyên khê , đầu núi , …và  dường như thấp thoáng Bùi Giáng  trong bài thơ này :                       

                                            Nhị cú tam niên đắc

                                            Nhất ngâm song lệ lưu

                                            Tri âm như bất thưởng

                                            Quy ngoạ cố sơn thu

                                                           ( Giả Đảo )

                                                                             [  Ba năm làm được hai câu thơ /mỗi lần ngâm lên hai hàng lệ chảy /

                                                                                                                       ( nếu )bạn tri âm mà không thưởng thức /

                                                                                                               ( ta sẽ)  về nằm trong  núi xưa ( với ) muà thu ]

 

Nằm giữa vườn cây nhớ bốn trời
Ba bề bảy ngõ nhớ muôn nơi
Tưởng chừng thiên hạ mênh mông quá
Mà thơ ta chỉ có vài lời
Tặng người người có nhận hay không
                          ( Cũng là như thế - Bùi Giáng )

 

Thơ Lục bát cuả Bùi Giáng cũng gần gũi như Lục bát cuả Đoạn Trường Tân Thanh , và gần như ca dao , có cả thơ đuà cợt kiểu ca dao ( Tuy Nhiên Em Có Mặc Quần , Lời Sơn Nữ )

 

           Nhiều bài thơ cuả Bùi Giáng có giọng thơ  cuả thơ Lãng Mạn 1930-1945 ( Ly Tao 1.Ly Tao III. .Màu Trời Đó …)  Cảm hứng chính cuả thơ Bùi Giáng là cảm hứng lãng mạn có màu sắc Thiền ( Chào Xuân Nguyên , Cỏ Hoa Hồn Du Mục , Dư Vang … )

 

          Bùi Giáng có rất ít bài thơ nói về thực tại bằng ngôn ngữ đời thường.( Không Đề - tặng nhạc sĩ Quốc Bảo ; Nguyễn Huệ , Về Quảng Nam , Em Mọi Ơi ) , ngay cả những bài  như thế cũng lãng đãng không khi lãng mạn  ( Oà Các Em , Nỗi Lòng Tô Vũ – kỷ niệm 15 năm chăn dê )

 

         Nhưng Bùi Giáng có phong cách ngôn ngữ riêng , người ta có thể nói đến kiểu ngôn ngữ Bùi Giáng . Ông sử dụng rất nhiều từ Hán Việt bên cạnh từ thuần Việt , đó là vốn từ Hán Việt cuả nhà Phật và cuả văn chương cổ điển , đồng thời ông tạo nên những từ lạ so với vốn từ đã quen dung . Nhiều bài , từ Hán Việt  dày đặc đến nỗi trở nên rất khó đối với độc giả bình thường

 

  Em từ non nước Viễn Khơi

  Trùng lai cố quận chịu chơi một lần

                                                                                        (  Em Từ )

Thiệt thòi đời mộng phiêu linh
Cành sương ngọc thụ tồn sinh cát lầm
Giấc quày quả lạnh anh trâm
Bóng đu sung rớt bến trầm luân sâu
Hoài mong hiu hắt nhịp cầu
Mà hương quan vắng xa màu mây trôi.

                                  ( Muà Phượng Cũ. )

 

                   Điều này giải thích tại sao thơ Bùi Giáng khó hiểu . Bùi Giáng cố ý dùng  nhiều từ Hán Việt trong một cấu trúc ngữ pháp đã bị xáo trộn so với cấu trúc bình thường  để tạo nên “ mật ngữ “ cuả riêng ông  . Có điều lạ là tuy có nhiều từ Hán Việt nhưng thơ ông không hề cổ điển , có lẽ vì ông khai thác thi tứ , đề tài , chất liệu và tạo ra trường nghiã mới so với thơ cổ điển chăng. Cách dùng chữ Hán Việt cuả Bùi Giáng rất khác Nguyễn Du.  Trong  Đoạn Trường Tân Thanh ,  Nguyễn Du đặt từ Hán Việt bên cạnh những từ thuần Việt sao cho người đọc dù không biết chữ Hán vẫn có thể cảm hiểu được thơ .

 

“ Song sa vò võ phương trời

   Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng “ ( Nguyễn Du )

 

Thiên hương quốc sắc lạ thay
Một tòa sẵn đúc dày dày thiên nhiên
Khiến đời tứ đảo tam điên
Cuồng quay đảo phụng cường kiên điên hoàng
                         ( Gà Gáy Sáng – Bùi Giáng
)

                        Với Bùi Giáng , làm thơ như một trò nghịch ngợm chữ nghiã cuả một con người tài hoa. Trong đoạn thơ trên , rõ ràng có bàn tay nghịch ngợm rất mực tài hoa cuả Bùi Giáng. Câu thơ Kiều

 “ Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên “ đã được Bùi Giáng viết lại “ Một toà sẵn đúc dày dày thiên nhiên “ và câu thơ “ cuồng quay đảo phụng cường kiên điên hoàng “ , xáo trộn nghịch ngợm triệt để những từ Hán Việt  ,  ngữ nghiã trở nên xa lạ không sao hiểu được . Có thể  sắp xếp lại theo cấu trúc thông thường  : phụng hoàng kiên cường quay cuồng điên đảo . Tất nhiên  như thế không còn là thơ Bùi Giáng , và ngay cả khi đã xắp lại như thế , vẫn khó tìm ra một  cấu trúc thực sự hợp lý để hiểu ý thơ.  Mật ngữ cuả Bùi Giáng là ở đó . Thực ra Bùi Giáng có  thể viết những câu thơ thật thà hiền lành thế này:

Chiều nay anh làm thơ
Chẳng còn hay như trước
Suốt một tháng
Viết không được một câu
Thì lấy đâu ra thơ
Mà tặng em cho được
Tặng một câu cũng chưa đủ
Thì lấy đâu bốn câu
Cho đủ một bài.   ( Em Mọi Ơi )

 

                    Bùi Giáng là một phong cách đặc sắc ,  nếu  chỉ viết như thế sẽ chẳng bao giờ có thơ Bùi Giáng để người đọc ái mộ.

 

Phong cách thơ Bùi Giáng  trước hết thể hiện ở trò chơi ngôn ngữ thách đố người đọc

như trong trò chơi ú tim . Bùi Giáng có khả năng biến hoá ngôn ngữ một cách tài hoa . Tôi không nghĩ đó là thi pháp , mà chỉ là sự tài hoa cuả ngòi bút , cuả cá tính sáng tạo .Thi pháp thơ Bùi Giáng nằm trong thi pháp thơ cổ điển và thơ Lãng Mạn . Bùi Giáng chưa vượt ra ngoài cõi thi pháp ấy.

 

Nguyễn Hưng Quốc coi những kiểu chơi chữ cuả Bùi Giáng như là thi pháp , điều ấy có

 đi xa quá chăng ?. Ông nhận định :  “ Tôi cho đây là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: thơ Bùi Giáng chính là sự xoá nhoà của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay… xoá nhoà những đường biên về giọng điệu., xoá nhoà ranh giới giữa truyền thống và hiện đại .., xoá nhoà ranh giới giữa cái gọi là thơ và cái gọi là phi thơ … ,  xoá nhoà giữa cái lý và cái phi lý..”  (  Cuộc Hoà Giải Vô tận – Trường Hợp Bùi Giáng ) .

 

Đúng là có những hiện tượng lẻ tẻ như vậy , nhưng không là chủ đạo cuả ngòi bút

Bùi Giáng ..Thơ ông  là thơ truyền thống , chủ yếu là Lục bát , thất ngôn cổ điển ( Chiêm Bao 7 , Chiêm Bao 4.. ) thơ 7 chữ . 8 chữ kiểu Thơ Mới ( Kể Chuyện , Giòng Sông ; Hư Vô và Vĩnh Viễn .. ) , lâu lâu ông đuà nghịch  một chút  , tạo ra một kiểu chơi chữ mới , thách đố ngôn từ , dẫn người đọc vào những miền xa lạ cuả tư duy , tạo ra sự thích thú , như kiểu làm thơ phá cách vậy thôi , đuà một chút thôi mà !

 

Phong cách Bùi Giáng toát ra từ thế giới nghệ thuật cuả cả bài thơ . Thơ Bùi Giáng là một thế giới riêng , thế giới thơ cổ điển cuả hôm nay .  Thế giới cuả nghệ thuật kết hợp với tư tưởng , cuả  tâm thức hiển hiện trong ý thức , cuả câu chữ thật nói lời  vô ngôn  , cuả sự trộn lẫn tài hoa và bi thương  , cuả thực tướng và hư huyễn , cuả những “ đổ lộn “, “ từ bỏ “  núi sông , thành luỹ , hiện hữu , thời gian , thành “ tiếng vàng vang vọng  “ xa lạ..Tiếng Việt trở nên sang trọng và phong phú vô cùng , câu thơ trùng trùng nghiã , chữ gọi chữ , chữ thai nghén nghiã mới , nghiã gọi tâm , tâm lay động  thái hư , vang vọng mãi vào vô biên . Bùi Giáng có nhiều bài thơ hay , không chỉ có câu thơ hay  .Điều đặc biệt là có thể nhặt ra những câu thơ hay , để riêng lẻ , câu thơ vẫn tồn tại độc lập như câu thơ Kiều .

 

Nghe trời đổ lộn nguyên khê
Tiếng vàng rụng rớt gieo về động xanh
Gót chân khơi rộng bóng cành
Nhịp vang đầu núi vọng thành lũy siêu
Thời gian chắc bước bên chiều
Khóc sông bến lạ mưa chiều sớm xuân
Cỏ hoa từ bỏ ruộng đồng
Hồn du mục cũ xa gần hử em

                       ( Cỏ Hoa Hồn Du Mục )

 

Những bài thơ như Cỏ Hoa Hồn Du Mục  trở nên mới lạ và làm nên phong cách Bùi

Giáng so với thơ đương thời . Tôi nghĩ rằng người đọc  có thể tìm thấy nhiều giá trị khác trong thơ ông nếu có được trình độ tư tưởng và khả năng vượt qua được kiểu ngôn ngữ  Bùi Giáng  : Một rừng dày đặc từ Hán Việt trộn lẫn với khẩu ngữ ,  nghịch ngợm , xáo trộn   , thành “ mật ngữ“ ,  thách đố năng lực tư duy , tạo ra thú vị.

“ Dù sao chăng nưã ,Bùi Giáng tạo được một mẫu ngông thời đại , sáng tạo một kiểu say

sưa , chán đời cuả thế kỷ XX , khác với Nguyễn Khuyến trong thế kỷ XIX và Tản Đà đầu thế kỷ XX “ ( T. Khuê –Tự  điển Văn Học bộ mới – Nxb Thế Giới 2004 ) .Đó là kết luận cuả Tự Điển Văn Học

 

Nếu Bùi Giáng đọc được nhận định như thế , có lẽ ông chỉ cười  , cái cười “ đười ươi “

nắm tay ngưả mặt nhìn “đười ươi “ , như ông đã cười khi gặp bà Khổng Tử ở Lục Tỉnh ( Đêm Lục Tỉnh )

  

                                                                                                                                       Tháng 6/2007   



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 19/Apr/2010 lúc 8:01pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 08/Nov/2014 lúc 10:03pm
 
 


 

Chuyện Tình Chưa Bao Giờ Tiết Lộ.

 

Cõi đời một kiếp yêu em

Dẫu là bỏ cuộc, mộng tìm dáng xưa

 

Bùi Giáng (1926-1998): là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là : Trung niên thi sĩ, Thi sĩ đười ươi, Brigitte Giáng, Giáng Moroe, Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ…

Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa Nguồn.

Kỳ nữ Kim Cương : chiếm một vị trí đặc biệt trong cuộc đời, trong tâm hồn và trong sáng tác của Bùi Giáng. Trong tâm hồn ông, Kim Cương là “đệ nhất mỹ nhân” trong thiên hạ. Ông yêu Kim Cương bằng một tình yêu lạ lùng nhất thế gian. Chỉ có thể nói đó là một tình yêu bất tử. Đã có rất nhiều giai thoại xung quanh mối tình kỳ bí này.

Đối với Kim Cương, tuy là mối tình đơn phương từ phía Bùi Giáng, nhưng nữ nghệ sĩ này đã rất trân trọng tình yêu của ông, một sự trân trọng vô cùng cảm động và hiếm thấy.

Image%20removed%20by%20sender.

 

Image%20removed%20by%20sender.

Nhiều năm qua, nghệ sĩ Kim Cương có những lý do riêng nên đã không lên tiếng một cách chính thức. Lần đầu tiên, bà tiết lộ với báo chí một số sự thật về thiên tình sử này, vì đã đến lúc bà không còn lý do để tiếp tục im lặng…

Có lẽ trong cuộc đời của thi sĩ Bùi Giáng, ngoài chuyện văn chương ra thì chuyện tình đơn phương của ông với Kim Cương là nổi bật nhất, kỳ lạ nhất, và cũng cảm động nhất.

Kim Cương còn giữ rất nhiều bài thơ của ông viết tặng riêng bà, cả hình ảnh nữa, nhưng từ lâu bà từ chối mọi lời yêu cầu của các tờ báo, nhà xuất bản xin được phát hành, đặc biệt sau khi Bùi Giáng qua đời nhiều đơn vị còn đặt vấn đề “mua” những tấm ảnh, tập thơ đó. Bà nói : “Tôi không muốn đem tình cảm của Bùi Giáng ra đánh bóng tên tuổi của mình hoặc làm gì đó có dấu ấn kinh doanh. Dù tôi không yêu ông, nhưng tôi trân trọng tình yêu của ông. Tuy nhiên, bây giờ sau loạt bài của báo TN, tôi thấy đây không còn là chuyện riêng tư nữa, mà Bùi Giáng là một sự kiện văn học chung và nếu không lên tiếng thì có những thêu dệt không đẹp cho Bùi Giáng, vì vậy tôi chỉ muốn nói rõ một vài sự thật để người ta hiểu ông đúng hơn”.

Kim Cương biết Bùi Giáng lúc bà khoảng 19 tuổi, còn theo đoàn cải lương của má Bảy Nam nhưng Kim Cương đã được mệnh danh là “kỳ nữ”. Thật ra, ông chú ý đến bà trong một đám cưới của đôi bạn Hạnh – Thùy. Sau đám cưới, một hôm Thùy bảo Kim Cương : “Có một ông giáo sư Đại học Văn khoa, đi học ở Đức về, ái mộ chị lắm, muốn đến nhà thăm chị”.

Kim Cương trả lời : “Ừ, thì mời ổng tới”.

Hóa ra là Bùi Giáng, lúc ấy đang dạy học, cũng áo quần tươm tất chứ chưa có “điên điên” như sau này. Bùi Giáng lui tới, mời Kim Cương lên xe đạp ông chở đi chơi, rồi cả cầu hôn, nhưng bà đều né tránh. Bởi sau vài lần tiếp xúc, bà thấy ở ông toát lên cái gì đó “kỳ kỳ”, bất bình thường, nên bà sợ. Đeo đuổi mãi không được, Bùi Giáng thở dài nói : “Thôi, chắc cô không ưng tôi vì tôi lớn tuổi hơn cô (Bùi Giáng lớn hơn Kim Cương mười mấy tuổi), vậy cô hứa với tôi là sẽ ưng thằng cháu của tôi nhé. Nó trẻ, lại đẹp trai, học giỏi”. Kim Cương ngần ngừ : “Thưa anh, chuyện tình cảm đâu có nói trước được. Tôi không dám hứa hẹn gì đâu, để chừng nào gặp nhau hẵng tính…”. Ý bà muốn hoãn binh. Nhưng Bùi Giáng đã đùng đùng dắt cháu tới.

Trời ơi, hóa ra đó là thằng nhỏ mới… 8 tuổi. Kim Cương hết hồn. Thôi rồi ! Ổng đúng là không bình thường !

Từ đó, mỗi năm Bùi Giáng mỗi bệnh nặng hơn. Ông không có vợ con, suốt ngày đi lang thang ngoài đường, hò hét, rồi cứ địa chỉ nhà Kim Cương mà tới. Thằng bé Toro con của Kim Cương lúc ấy khoảng 5 tuổi, thường trố mắt ra nhìn ông, và hỏi : “Mẹ ơi, sao bác này giống cái xe hoa quá ?”. Tư duy trẻ con thật ngộ nghĩnh, nhưng lại rất chính xác. Thì trên người Bùi Giáng có đủ thứ : nào hộp lon treo lủng lẳng, nào lá cờ giắt sau lưng, nào nhánh cây, vòng hoa trên đầu… cả một nải chuối đeo thường xuyên trên cổ. Không mở cửa cho ông vào là ông la hét, đập cửa, chửi um sùm, ném đá nữa, khiến hàng xóm náo động. Nhưng riết rồi quen, mỗi lần ông tới nhà Kim Cương ai nấy đều cười. Má Bảy Nam ở trên lầu chỉ cần nghe la rùm beng, đập cửa ầm ầm, là hỏi : “Bùi Giáng phải không ?”.

Nhiều lần ông say khướt, nằm ịch xuống gốc cây trước nhà Kim Cương, mọi người phải khiêng vào. Bà lắc đầu : “Sợ ổng chết. Tướng tá vầy có thể chết bất cứ lúc nào. Nhưng khiêng vô rồi cũng sợ rủi ổng chết trong nhà mình. Mà điều, không nỡ bỏ ổng lăn lóc ngoài đường, thấy tội quá”.

Nhưng điều hay nhất là mỗi khi vô nhà Kim Cương ông lại sáng tác thơ để tặng bà. Tiện tay xé bất cứ tờ giấy, tờ lịch nào là ông viết ào vô đó. Nguồn thơ yêu cứ tuôn trào như suối, không vơi cạn theo năm tháng. Về sau, khi ông “quậy” quá thì Kim Cương nghĩ ra cách, không mở cửa, mà lòn một cuốn sổ ra khe cửa cho ông viết thơ. Ông hí hoáy một hồi, rồi vui vẻ bước đi.

Suốt 40 năm, cả chục cuốn sổ tay đã đầy ắp chữ của ông, chỉ riêng tặng “Nương tử Kim Cương”. Bà trân trọng gìn giữ trong ngăn tủ. Những vần thơ yêu với nét chữ ngả nghiêng chệnh choạng nhưng hồn nhiên say đắm lạ kỳ.

 

 Image%20removed%20by%20sender.

Kính thưa nương tử Kim Cương

Tấm lòng rộng mở phi thường bấy nay

Ngàn năm điêu đứng đọa đày

Thiên thu sử lịch cau mày về sau

Thưa em đời mộng dạt dào

Tình yêu vô tận yêu đào vô biên

Kể từ tao ngộ đầu tiên

Kim Cương vô tận, thuyền quyên vô cùng

Bốn mươi năm đã lẫy lừng

Âm thầm tưởng niệm lạ lùng giai nhân

Trái tim thiết thạch vô ngần

Từ tam thu tới tử phần hôm nay

Kể từ sử lịch xa xuôi

Bất ngờ một bận bùi ngùi yêu em

Lang thang vạn dặm độc hành

Cẩm nang bỏ cuôc đời mình trao em.

 

“Quyền lực” của Kim Cương đối với Bùi Giáng

Phải nói là Kim Cương có “quyền lực” rất lớn đối với Bùi Giáng. Cứ nghe tên bà là ông trở lại ngoan ngoãn như một đứa trẻ con. Một lần, ông làm “chim bay cò bay” giữa phố, gây ách tắc giao thông, công an tới lôi ông vào cũng không được. Tình cờ có ông nhà báo trông thấy, thế là anh ta rỉ tai ông : “Kim Cương nhắn ông tới nhà kìa !”. Lập tức ông riu ríu đi theo nhà báo.

Ông còn “ái mộ” bà theo kiểu “kinh khủng” của ông. Người ta ái mộ thì xin chữ ký, xin hình, còn ông thì xin… quần. Ông tới nhà nằng nặc đòi bà cho ông cái quần. Bà lấy quần của cậu Toro nay đã lớn cỡ ông mặc vừa. Ông giãy nảy không chịu, đòi cái quần của Kim Cương mới được. Bà bực quá, đưa thiệt. Lập tức ông mặc vô và rồi không chịu thay ra. Tắm xong, mặc lại. Tỉnh bơ.

Và sau này khi ông ở nhờ nhà anh Hoài – cháu gọi ông bằng bác họ – tại Gò Vấp, thì cũng chỉ Kim Cương là người phụ nữ duy nhất được ông cho phép bước vào nhà. Nhiều lần, các bạn thơ nữ có ghé thăm ông, nhưng vừa mới nghe cháu vô báo tin là ông đã la hét om sòm, đuổi họ như đuổi tà : “Chỉ có tiên nữ Kim Cương mới được bước tới đây. Đi ra ! Đi ra hết !”.

Nghệ sĩ Kim Cương nói : “Tôi rất trân trọng tài năng của ông, nhưng phải nói thật là ông điên nặng, nhưng là cái điên trí tuệ, nói ra nhiều câu cực kỳ sâu sắc”. Thỉnh thoảng, khi ông hơi tỉnh thì Kim Cương cũng ngồi bàn chuyện thơ văn với ông cho ông vui. Những lúc ấy, ông gọi bà bằng “cô” đàng hoàng chứ không “nương tử”, không “Hằng Nga” gì hết. Nhưng có một lần, ông làm bà hết hồn. Hai người bàn luận đến Kiều, bà đọc mấy câu lỡ có sai một chút, ông liền đập bàn, la hét, nhảy dựng lên : “Tại sao Kiều mà cô nói sai như vậy ? Câu vậy mà cô nói là của Kiều hả ?”. Thấy ông trợn mắt giận dữ, bà cứ ngỡ ông sắp bóp cổ mình tới nơi. Bà quên mất rằng ông cũng yêu Kiều say đắm như yêu bà

Có một chuyện nhỏ, nhưng cảm động. Kim Cương nói rằng Bùi Giáng có đóng phim gì nữa đó, chắc đóng vai phụ nho nhỏ thôi. Kim Cương nhớ khi ông lãnh tiền thù lao, liền mua hai trái xoài đem tới cho bà. Rất dễ thương.

Kim Cương bùi ngùi nhớ lại : “Suốt 40 năm, ông đối với tôi như một người yêu đơn phương, thì ngược lại, tôi đối với ông như chỗ dựa tinh thần, bất cứ lúc nào nghe ông đau ốm hay bị công an bắt, bị người ta đánh là tôi có mặt”. Bởi đơn giản, trong đầu Bùi Giáng chỉ có một số điện thoại duy nhất, một địa chỉ duy nhất, đó là địa chỉ và số điện thoại của Kim Cương. Nhiều lần ông đứng giữa đường dang tay la hét, làm kẹt xe, công an tới bắt, hỏi cách gì ông cũng chỉ nói một câu : “Người thân cuả tôi là Kim Cương, ở số… Hoàng Diệu, điện thoại 844…”. Thế là công an réo gọi Kim Cương. Bà đi lãnh ông ra. Chuyện đó xảy ra không biết bao nhiêu lần. Có khi ông bị té, bị thương, người ta chở vô bệnh viện, ông cũng chỉ “khai báo” y như vậy.

Bệnh viện lại réo bà. Bà lại đến. Hoặc những lúc ông lên cơn, có khi vô quậy cả đám cưới nhà người ta, bị người ta đánh, bà lại đến đưa ông về. Có lần, ông xuất hiện trước nhà bà với tóc tai mặt mũi đầy máu vì mới bị ai đó đánh, bà hoảng hốt gọi xích lô cho ông đi cấp cứu. Ông không chịu : “Chừng nào cô đi với tôi thì tôi mới đi”. Ừ, thì đi. Kim Cương gọi chiếc xích lô chở ông, vừa ngồi xe ông vừa nói vung vít, mặc cho Kim Cương chịu trận.

Và như thường lệ, trong cơn điên điên tỉnh tỉnh, ông lại tiếp tục làm thơ yêu qua cuốn sổ nhỏ nhét vào khe cửa nhà bà :

 

Yêu nhau từ bấy tới nay

Xiết bao tâm sự từ ngày qua đêm

Thưa em nương tử dịu mềm

Bốn mươi năm lẻ êm đềm vô biên

Đầu tiên tiên nữ Kim Cương

Cuối cùng muôn một phi thường Cương Kim

Cúi đầu bái tạ tình em

Về sau vĩnh viễn êm đềm thương nhau

Làm thơ tiếp tục yêu em

Ồ Kim Cương ạ êm đềm vô song

Kể từ lịch kiếp long đong

Anh điêu tàn tới thong dong bây giờ

    Image%20removed%20by%20sender.

Bùi Giáng về ở nhà của anh Hoài vào khoảng năm 1978, thì đến khoảng 1992 đã hơi tỉnh tỉnh. Nhà thơ Trụ Vũ thường ghé chơi với ông. Một lần Trụ Vũ bảo : “Kim Cương hẹn ngày mai lên thăm anh”. Thế là suốt đêm ông không ngủ. Sáng dậy, ông đi tới đi lui, đứng ngồi không yên, và càu nhàu : “Cái thằng Trụ Vũ, chừng nào lên thì lên, nhắn nhe làm chi cho người ta sốt ruột”.

Anh Hoài còn tiết lộ ông phải giả vờ uống một tí rượu để đóng vai “say”, như thế khi Kim Cương lên thăm ông mới có cớ đi ngả nghiêng cho Kim Cương dìu đỡ. Nhưng có lần uống mãi, uống mãi, rồi say thật lúc nào chả biết, khi Kim Cương đến nơi thì ông đã… ngủ khò. Một bữa, Kim Cương đến nhà, tặng ông đóa hoa hồng. Ông sung sướng quá. Kim Cương về rồi, ông hỏi anh Hoài : “Làm sao giữ được hoa tươi mãi hè ?”. “Ba ngày là nó héo thôi bác ơi!”. “Trời ơi, của Kim Cương tặng tao, phải giữ hoài chớ bây !”. “Con có cách. Đem hoa trút ngược xuống thì sẽ giữ giùm bác được vài tháng”. Đúng là giữ được vài tháng, đến khi hoa đã khô nát ông mới đành lòng chia tay.

Gần 60 tuổi, ông tới nhà bà với đôi mắt nheo nheo không nhìn thấy rõ. Bà dắt ông đi mua cặp kính lão. Nhưng chỉ một tháng sau, ông xuất hiện với một bên tròng kính bị bể vì người ta đánh. Bà dỗ ngọt : “Tôi mua cho anh kính mới nghen”. Ông lắc đầu : “Thôi cô, nhìn đời bằng một con mắt đủ rồi.

Kể ra, đâu chỉ có Bùi Giáng kiên nhẫn và thủy chung với kỳ nữ Kim Cương, mà chính Kim Cương cũng đã đáp lại mối tình đơn phương của Bùi Giáng một cách chân thành và kiên nhẫn, thủy chung suốt 40 năm, gần giống một người chị, một người mẹ. Cho nên, có người nói với bà : “Chắc kiếp trước Bùi Giáng mắc nợ bà !”. Bà đáp vui trở lại: “Hổng biết ổng mắc nợ tui hay tui mắc nợ ổng!”. Những lúc tỉnh táo, ông nói: “Cô nhơn hậu lắm cô mới chịu nói chuyện với tôi tới giờ này !”. Nhân đó bạn bè hỏi : “Kim Cương có cái gì mà anh thương dữ vậy ?”. Ông đáp : “Lúc tôi gặp cô trong đám cưới của Hạnh – Thùy, cô mặc cái áo dài lụa trắng, tôi thấy hào quang tỏa tỏa ra, tới bây giờ vẫn còn tỏa”.

15 ngày trước khi chết, Bùi Giáng đến nhà Kim Cương để lại mấy câu thơ như báo trước điềm chia ly :

 

Thương yêu có lẽ như là

Nghi ngờ nhau mãi vẫn là Kim Cương

Ta đi đau xiết vui buồn

Một mình ở lại muôn trùng em yêu.

Rồi ông té, chấn thương sọ não, chở vào Bệnh viện Chợ Rẫy. Người đầu tiên gia đình gọi đến là Kim Cương. Kim Cương nói : “Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng sạch sẽ. Đầu cạo sạch, không còn mớ tóc bù xù nữa. Và quần áo bệnh viện thì trắng bong. Cho nên tôi nhìn ổng không ra, cứ chạy đôn chạy đáo khắp các phòng tìm ổng”. Những đứa cháu xin bà cho ý kiến. Bà đồng ý để bác sĩ phẫu thuật cho ông dù chỉ còn 1% hy vọng.
Nhưng rồi Bùi Giáng đã ra đi.

 

Ba lời cảm tạ của Kim Cương

Trước mộ ông trước giờ hạ huyệt, Kim Cương nhẹ nhàng thủ thỉ : “Thưa Bùi Giáng ! Đời ông là một đời giang hồ, nhưng mọi người vẫn mến thương ông, chắc ông cũng mãn nguyện rồi. Riêng tôi có 3 điều cảm ơn ông. Thứ nhất, ông đã để lại một sự nghiệp thơ cho đời. Thứ hai, cảm ơn mối tình 40 năm ông dành tặng tôi, tới giờ tôi có thể nói đó là mối tình lớn, ông là người yêu tôi chung thủy nhất, lâu dài nhất.Thứ ba, cảm ơn vì ông đã cho tôi một bài học, rằng dù điên hay tỉnh, giàu hay nghèo, già hay trẻ, trong lòng mỗi người cũng phải có một mối tình để sống”.

Nhưng chắc gì Bùi Giáng đã chịu xa lìa Kim Cương. Ông còn một lời nhắn nhủ viết trong cuốn sổ tay tại nhà Kim Cương :

“Kiếp sau gặp lại nhau, anh Bùi Giáng chỉ mong được Kim Cương chấp thuận cho phép anh Bùi được làm đầy tớ trung thành tuyệt đối của Kim Cương”.

Và :

 

Vô ngần tao ngộ đầu tiên

Em bao giờ biết anh phiền ưu sao

Yêu em từ những kiếp nào

Về sau cũng niệm nguyên màu ban sơ.

 

.

Huỳnh Văn Yên

 

Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 20/Feb/2015 lúc 2:28am


Nhân đầu Xuân Ất Mùi, 2015.
Kính mời cả nhà thưởng thức bài thơ "Chào Nguyên Xuân", bản Tình Ca Mùa Xuân, của thi sĩ Bùi Giáng .
(nếu có hứng thú với thơ và cuộc đời thi sĩ Bùi Giáng , xin mời đọc thêm : 
Tình Sử Bùi Giáng Kim Cương )

MyKieu



"Khi viết về "trung niên thi sĩ" Bùi Giáng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cho rằng: "Ở cõi đời này, anh đã đến, đã sống và đã rơi vào một cơn hôn mê bất tận. Anh nói cười bằng một thứ ngôn ngữ xa lạ với thế gian và từ đó sinh ra ngộ nhận. Ngộ nhận gây nên đau đớn và cũng từ phía đau đớn ấy, anh như kẻ đắm tàu mang đi cùng mình một nỗi tuyệt vọng bất khả tư nghì". Nhưng, đó là chuyện sau này. Thời trai trẻ, thuở phơi phới đầu mùa Mưa nguồn, Bùi Giáng lúc ấy chưa chìm vào cơn hôn mê mà rất tỉnh táo và yêu đời. Bài thơ Chào nguyên xuân của ông tươi trẻ lạ thường. Ở đó những con người chào nhau giữa con đường, giữa làn môi, giữa bụi đầy... rất đỗi đằm thắm, tha thiết. Và bất ngờ, khoảnh khắc ly biệt ấy cũng chính là lúc hẹn hò, là dự báo sự trùng ngộ của ngày sau. "Chào nhau một bận vẫn còn nhớ nhau" nghe ra thoáng một chút bùi ngùi..." (Nhà thơ LÊ MINH QUỐC)


".....
Và bây giờ đến cặp hỏi - thưa cuối cùng, đẩy tính duy lí của đoạn thơ thứ 6 lên chỗ cao trào và kịch tính nhất: Có nhất thiết phải tồn tại lời chào trong cuộc đời này không khi bản chất cõi thế chỉ là phù du, mỗi con người là những thân phận bé nhỏ, mong manh và cô đơn, chúng thậm chí là những sinh linh bị lưu đày và phiêu dạt:
 
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
 
Hai chữ đất trích gợi cho ta nhớ đến tuyệt phẩm Tỳ Bà hành của Bạch Cư Dị với những câu như: Tầm Dương đất trích gối đầu sớm maiCùng một lứa bên trời lận đận. Hai câu thơ này khiến giọng điệu bài thơ bỗng nhiên chùng xuống, không tránh khỏi phút giây ngậm ngùi; nhưng hai câu kết của thi phẩm, cũng đồng thời là câu trả lời đã làm cho câu thơ cuối vút lên, trong sáng và bay bổng, tràn ngập ánh sáng và sắc hương của một mùa xuân mới:
 
Thưa rằng: li biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên xuân
 
Ai cũng một lần đến rồi đi, ai cũng một lần sống rồi từ biệt thế giới này. Thế nhưng, chúng ta sẽ còn gặp lại nhau bất tử trong một cõi vĩnh tồn bởi chúng ta đã gieo những hạt mầm vĩnh cửu trong cuộc đời này theo một cách thật đơn giản: mỗi ngày để lại một lời chào cho trần thế. Khi cuộc đời và con người nồng ấm chào nhau, mùa xuân nào cũng là Nguyên Xuân, cũng là mùa xuân đầu tiên bất tận. Và nếu mùa xuân vẫn còn trên trái đất này, thì cũng có nghĩa là chúng ta sẽ sống mãi khi từng phút giây, lời yêu thương vẫn cất lên tha thiết...
Bức tranh ngôn từ tuyệt đẹp của Nguyên Xuân có thể được hình dung lại qua sơ đồ sau:

Bên cạnh những vẻ đẹp ngôn từ theo một hành trình ẩn dụ như đã trình bày, Bùi Giáng còn độc đáo trong việc tạo ra một bầu không khí vừa cổ kính vừa lạ lùng qua việc sử dụng các từ Hán Việt một cách mới mẻ và nhuần nhị: miên trường - hồng tàn lệ - bạc mệnh - bất tuyệt - ngẫu nhĩ - li biệt - trùng ngộ - Nguyên Xuân.
 
Trương Trào, một danh nhân nổi tiếng của Trung Hoa với trứ tác U mộng ảnh đã từng viết: "Một chữ tình để duy trì thế giới, một chữ tài để tô điểm càn khôn". Vâng, điều quan trọng sau cùng trên thế gian chỉ còn là một chữ Tình. Cuộc đời ngoài kia vẫn trôi đi. Bao kiếp người đã và đang trôi đi, ngang qua mỗi chúng ta như ngang qua bầu trời và mặt đất. Hậu sinh hôm nay lại thành tiền nhân của ngày mai. Có những lời chào được sắp đặt và những lời chào không hẹn trước. Có lời chào đầu tiên và lời chào tạm biệt. Nhưng tôi thầm tin rằng, sẽ không bao giờ có lời chào sau cuối:
 
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau. "
(Nguồn: TC Ngôn ngữ số 6/2010)






CHÀO NGUYÊN XUÂN
 (Thi sĩ BÙI GIÁNG)
 
 
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
 
Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người
 
 
Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng: những ngón thon thon
 Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau
 
Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
 
Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu
 
Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: Ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân ./.
 
(Theo bản in Mưa nguồn
NXB HộiNhàVăn tái bản năm 1993)





Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 20/Feb/2015 lúc 2:38am
mk
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 21/May/2015 lúc 9:00pm

Kim Cương khóc tiễn biệt thi sĩ Bùi Giáng - YouTube


https://m.youtube.com/watch?v=IabNjjtepF8
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 26/May/2015 lúc 7:43pm

BÙI GIÁNG hay BÙI THI CA-BÙI  THI SĨ
quê ở Duy Xuyên , Quảng Nam


https://scontent-sea.xx.fbcdn.net/hphotos-ash2/v/t1.0-9/s480x480/563193_737469122934079_1695461827_n.jpg?oh=7c44cb93821dd82bb5c5cde5e7b3b231&oe=55E01B8E



ĐNG TƯNG.....

Thi sĩ Bùi Giáng


Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Cứ Trên là Sáng cứ Tu là Hiền
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ nhiều là được cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe là điếc không trông là mù
Đừng tưởng cứ Trọc là Sư
Cứ Vâng là Chịu cứ ừ là Ngoan
Đừng tưởng có của đã sang
Cứ Im lặng tưởng là Vàng nguyên cây
Đừng tưởng cứ uống là say
Cứ chân là bước cứ tay là sờ
Đừng tưởng cứ đợi là chờ
Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần
Đừng tưởng cứ Mới là Tân
Cứ Hứa là Chắc cứ Ân là Tình
Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to
Cứ già là hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua
Dưa vàng đừng tưởng đã chua
Sấm rền đừng tưởng sắp mưa ngập trời
Khi vui đừng tưởng chỉ cười
Lúc buồn đừng tưởng chỉ ngồi khóc than
Đừng tưởng cứ nốc là say
Cứ Hứa là Thật, cứ Tay là Cầm
Đừng tưởng cứ giặc – ngoại xâm
Cứ Bè là Bạn, cứ Dân là Lành
Đừng tưởng cứ trời là xanh
Cứ Đất và Nước là thành Quê Hương
Đừng tưởng cứ Lớn là Khôn
Cứ Bé là Dại, cứ Hôn… là Chồng
Đừng tưởng chẳng có thì không
Chẳng trai thì gái, chẳng ông thì bà
Đừng tưởng chẳng gần thì xa
Chẳng ta thì địch, chẳng ma thì người
Đừng tưởng chẳng khóc thì cười
Chẳng lên thì xuống, chẳng ngồi thì đi
Đừng tưởng sau nhất là nhì
Gần quan là tướng, gần suy là hèn
Đừng tưởng cứ sáng là đèn
Cứ đỏ là chín, cứ đen là thường
Đừng tưởng cứ đẹp là thương
Cứ Xấu là Ghét, cứ Vương là Tình
Đừng tưởng cứ ghế là vinh
Cứ tiền là mạnh, cứ dinh là bền
Đừng tưởng cứ cố là lên
Cứ lỳ là chắc, cứ Bên là Gần
Đừng tưởng cứ đều là cân
Cứ đông là đủ, cứ ân là nhờ
Đừng tưởng cứ vần là thơ
Cứ âm là nhạc, cứ tờ là tranh
Đừng tưởng cứ vội thì nhanh
Cứ Tranh là Được, cứ Giành thì Hơn
Đừng tưởng Giàu hết Cô đơn
Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo
Đừng tưởng cứ bến là neo
Cứ suối là lội, cứ đèo là qua
Đừng tưởng chồng mẹ là cha
Cứ khóc là khổ cứ la là phiền
Đừng tưởng cứ hét là điên
Cứ làm là sẽ có tiền đến ngay
Đừng tưởng cứ rượu là say
Cứ gió là sẽ tung bay cánh diều
Đừng tưởng tỏ tình là yêu
Cứ thơ ngọt nhạt là chiều tương tư
Đừng tưởng đi là sẽ chơi
Lang thang dạo phố vào nơi hư người
Đừng tưởng vui thì sẽ cười
Đôi hàng nước mắt lệ rơi đầm đìa
Đừng tưởng cứ mực là bia
Bút sa gà chết nhân chia cộng trừ…
Đừng tưởng cứ gió là mưa
Bao nhiêu khô khát trong trưa nắng hè
Đừng tưởng cứ hạ là ve
Sân trường vắng quá ai khe khẽ buồn…
Đừng tưởng thu là lá tuôn
Bao nhiêu khao khát con đường tình yêu.
Đừng tưởng cứ Thích là Yêu
Nhiều khi nhầm tưởng bao điều chẳng hay
Đừng tưởng tình chẳng lung lay
Chỉ một giấc ngủ, chẳng may … có bầu.
Đừng tưởng cứ cầu là hên,
Nhiều khi gặp hạn, ngồi rên một mình.
Đừng tưởng vua là anh minh,
Nhiều thằng khốn nạn, dân tình lầm than.
Đừng tưởng tìm bạn tri âm,
Là sẽ có kẻ mạn đàm suốt đêm.
Đừng tưởng đời mãi êm đềm,
Nhiều khi dậy sóng, khó kềm bản thân.
Đừng tưởng cười nói ân cần,
Nhiều khi hiểm độc, dần người tan xương.
Đừng tưởng trong lưỡi có đường
Nói lời ngon ngọt mười phương chết người
Đừng tưởng cứ chọc là cười
Nhiều khi nói móc biết cười làm sao ?!!!
Đừng tưởng khó nhọc gian lao
Vượt qua thử thách tự hào lắm thay
Đừng tưởng cứ giỏi là hay
Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần
Đừng tưởng cứ quỳnh là thơm
Nhìn đi nhìn lại hóa ra cúc quỳ
Đừng tưởng mưa gió ầm ì
Ngày thì đã hết trời dần về đêm
Đừng tưởng nắng gió êm đềm
Là đời tươi sáng hóa ra đường cùng
Đừng tưởng góp sức là chung
Chỉ là lợi dụng lòng tin của người
Đừng tưởng cứ tiến là lên
Cứ lui là xuống, cứ yên là mằn (mần, làm)
Đừng tưởng rằm sẽ có trăng
Trời giăng mây xám mà lên đỉnh đầu
Đừng tưởng cứ khóc là sầu
Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng
Đừng tưởng cứ nước là trong
Cứ than là hắc, cứ sao là vàng
Đừng tưởng cứ củi là than
Cứ Quan là Có, cứ Dân là Nghèo_
Đừng tưởng cứ khúc là eo
Cứ lúc là mạc, cứ Sang là Giàu
Đừng tưởng cứ thế là khôn!
Nhiều thằng khốn nạn còn hơn cả mình
Đừng tưởng lời nói là tiền
Có khi là những oán hận chưa tan
Đừng tưởng dưới đất có vàng
Vàng đâu chả thấy phí tan cuộc đời
Đừng tưởng cứ Nghèo là Hèn
Cứ Sang là Trọng, cứ Tiền là Xong.
Đừng tưởng quan chức là rồng,
Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.
Đời người lúc thịnh, lúc suy
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.
Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.
Ai ơi nhớ lấy đừng quên…


mk
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.176 seconds.