Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 100 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 10/Sep/2024 lúc 7:51am |
Vẫy Tay Ngậm Ngùi(Cho Những Mối Tình Tan Vỡ Vì Thời Cuộc Của K28/VB/ĐL) Nữ tiếp viên hàng
không thông báo 10 phút nữa máy bay sẽ đáp xuống phi trường Phú Bài. Cô mở túi
xách lấy cái gương nhỏ soi lại mặt mình. Mái tóc nâu nhạt vừa được uốn. Màu son
Elizabeth Arden cánh sen duyên dáng. Nốt mụn nhỏ sau bao đêm trằn trọc đã được
khéo léo phủ một lớp phấn mỏng. Cô bồn chồn cho cuộc gặp gỡ sau 30 năm. 30 năm. Gấp đôi cuộc tái hồi giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Cô cũng không nghĩ mình còn có thể gặp lại anh sau bao nhiêu biến thiên của cuộc đời. Ngày nhấc máy điện thoại, cô hững hờ cất tiếng “A lô” mà không ngờ đầu dây bên kia là anh, người đã ghi những kỷ niệm không quên trong cuộc đời cô. Cô nhớ mình đã run rẩy khi cái giọng trầm ấm của anh cất lên. Làm sao cô quên được anh. Ngàn lần cô không thể quên. Xóm Ba cây dừa. Không biết ai đã trồng từ lúc nào để biến nó thành một địa danh quen thuộc của thị xã. Ba cây dừa già lão, nằm nghiêng nghiêng duyên dáng mà vững chải. Nhà cô ở đấy, căn nhà đầy hoa bởi thú vui cây cảnh của người cha. Giữa đám thược dược, mồng gà, cúc đại đóa màu sắc rực rỡ là một cây trắc bá diệp xanh ngắt vươn lên bầu trời. Thi thoảng lại có người vào xin một nắm cho bài thuốc nào đấy. Cái hồ nhỏ bên dưới đầy bèo và cá thia đỏ. Nơi đó cô đã lớn lên, đã sống những ngày thiếu nữ hồn nhiên, mơ mộng. Cô không biết anh chú ý mình khi nào. Chỉ nhớ buổi trưa ấy “như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao” ở thơ Huy Cận. Cô vắt vẻo trên cây ổi bên bờ giếng, miệng nhai rau ráu miếng ổi xanh thì bạn cô xuất hiện. Sâm cười tủm tỉm, đặt cuốn sách trên thành bể cho cô rồi vội vã đi. Đó là tập truyện ngắn của nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn có cái tựa đề thật dễ thương “Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau”. Giữa cuốn sách là bức thư của anh. Bao nhiêu năm đã trôi qua nhưng cô vẫn nhớ rõ những dòng chữ. Nét chữ đẹp, thanh thoát, cái đuôi sau hơi hất lên. Lá thư không có từ nào là “yêu” nhưng cô hiểu đó là một bức thư tình. Bức thư tình cô nhận được đầu tiên năm 15 tuổi. 15 tuổi. Ngực cô mới nhú như chũm cau và vẫn là mái tóc bum bê. Cô khó chịu với cái corset bà chị hai bắt mặc. Cô hồn nhiên và chăm học. Mộng ước của cô là sẽ trở thành một giáo sư như những giáo sư thần tượng của cô thời ấy. Ngày hai buổi, cô tung tăng đến trường trong chiếc áo đầm trắng. Năm cuối của bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp. Cô mong thời gian trôi nhanh để cô lên lớp Đệ Tam, được đổi bảng tên từ thêu đỏ qua thêu xanh, được mặc áo dài thay áo đầm và được coi là... người lớn. Anh học ban B, cái ban mà cô hằng ngưỡng mộ. Dân ban B bao giờ cũng giỏi và có một chút nghệ sĩ tài hoa. Cô chưa học Đệ Nhị Cấp nhưng cô đã có những bài viết trong các tập san của nhà trường. Và cô biết anh qua những tập san ấy. Cô nhớ cô đã không trả lời thư anh. Cô xấu hổ và không biết viết gì. Nhưng sau đó, mỗi lần gặp nhau, má cô hồng lên. Không có những buổi hẹn hò, không có những bức thư nối tiếp nhưng cô biết mình đã thương anh... Máy bay ngừng lại trên đường băng. Cô cất chiếc gương vào xách và theo dòng hành khách ra cửa. Cô nghe lòng rộn rã. Anh đón cô ngay chỗ lấy hành lý. Từ xa cô đã nhận ra dù người anh có hơi đẫy. Gần 30 năm rồi còn gì. Nhưng vẫn là anh với những đường nét thân quen. Anh ôm choàng lấy cô, hôn trơ trất lên mặt lên cổ. Cô bíu lấy vai anh lòng nghẹn ngào. Mùi nước hoa CK for men tỏa ra dịu dàng từ chiếc áo Pull xám. Anh và cô ngồi quán cà phê ven bờ sông Hương nhìn ra bến đò Thừa Phủ xưa. Mùa Xuân. Huế không mưa nhưng thời tiết se se lạnh. Cô hơi rùng mình. Anh khoác lên vai cô chiếc áo choàng mỏng. Cô như ngửi thấy mùi da thịt của anh. Cuối cùng hai người cũng đã gặp nhau. Quán vắng khách. Phía góc bên kia cũng chỉ có một đôi nam nữ. Có lẽ họ đang yêu nhau như cô và anh của 30 năm trước. Cô gái măc chiếc áo màu xanh, sau lưng có dòng chữ bằng tiếng Anh “Let kiss me!”. Cô nhớ mình và anh chưa hề có với nhau một cái hôn đúng nghĩa. Anh học giỏi, nhất là Anh văn. Anh đã hai lần làm chemise với Cô trong kỳ thi lục cá nguyệt. Cô thương anh, thương sự cần cù của chàng trai nghèo đang cố gắng vượt qua hoàn cảnh khó khăn. Khi cô chọn ban C, chính anh là người đã hướng dẫn cô làm bài luận Anh văn đầu tiên. Anh đậu Toàn phần và vào học Văn Khoa. Cô cũng đậu Tú Tài Bán. Hai người như so kè nhau dù không nói. Rồi đột nhiên, anh quyết định vào trường VBQGVN cùng anh trai cô. Có lẽ do hoàn cảnh khó khăn hay do lực hấp dẫn từ bộ Jasper đẹp của những chàng Sinh viên Võ Bị khi đi tuyển quân ở các trường Đại Học. Trước khi đi, anh trao hết cho cô sách vở thời Trung Học với lời nhắn nhủ “Hãy học giùm cho anh!”. Cô nhìn theo ngơ ngẩn. Từ đây cô có hai người để thương để nhớ ở KBC 4027. Những bức thư từ cao nguyên. Anh gởi cho cô tập ảnh “tang thương” của 8 tuần huấn nhục; nụ cười kiêu hãnh khi chinh phục đỉnh Lâm Viên của Đại Đội F; sự oai hùng và tráng lệ của đêm gắn Alfa trên Vũ Đình Trường Lê Lợi. Cô tự hào mình là “người yêu của lính”. Cô vào Đại Học Sư Phạm như ý nguyện của mình. Sự thương nhớ cũng làm cô mạnh dạn hơn. Cô viết cho anh những dòng thơ của Nguyên Sa: “Không có anh lấy ai đưa em đi học về. Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học. Ai lau nước mắt khi em ngồi khóc. Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa...” Cô còn gởi cho anh tấm hình cô mặc áo dài trắng, ngồi xõa tóc ở bậc thềm lăng Tự Đức. Cô đã lớn và không còn mái tóc bum bê. Thư của anh cũng bắt đầu nói về tương lai. Cô sẽ chọn một ngôi trường Trung Học gần nơi đơn vị anh trú đóng. Anh sẽ về thăm người yêu sau những cuộc hành quân. Và sẽ kết thúc bằng một cái đám cưới thời chiến. Từ lúc nào cô bỗng trở nên mê tin chiến sự. Cô theo dõi những cuộc hành quân lớn như Lam Sơn 719. Cô cảm thấy xót xa khi đọc những dòng Cáo Phó mà người hy sinh là những chàng trai Võ Bị kiêu hùng. Cô bắt chước anh gọi là trường Mẹ. Cô viết các truyện ngắn ca ngợi những mối tình tiền tuyến hậu phương. Cô như thấy mình trong đó.. ******* Anh và cô đã đan tay nhau đi trên con đường Lê Lợi- con đường đẹp nhất của thành phố- ước mơ 30 năm qua bây giờ mới thực hiện được. Cô thấy mình như trẻ lại dưới tán lá long não xanh và ngọn đèn vàng. Hai người ngồi hàng giờ ở công viên Tứ Tượng để ngắm cây ngô đồng cuối cùng của Huế. Họ nhìn qua Đại Học Văn Khoa đã trở thành Hotel Sofitel Morin sang trọng. Anh đưa cô đến thăm cô giáo dạy Anh văn xưa. Anh giới thiệu cô là vợ anh. Mắt cô bừng sáng long lanh. Ôi! Đó là những lời nói dối không có tội. Cô cũng đã có buổi họp mặt với các đồng đội cũ của anh ở một tiệm ăn trong Thành Nội. Một đôi ánh mắt tò mò nhưng lịch sự. Cả anh và cô đều không giải thích. Không cần phải giải thích. Nhưng cô đã cho một số tiền tip thật hào phóng khi người phục vụ trân trọng gọi anh và cô là “Ông bà”. Vâng! Đáng lẽ ra anh và cô đã là “Ông Bà” mấy chục năm trước… Cô không quên được mùa hè năm ấy. Con đường Thái Phiên đi vào trường Mẹ vi vu tiếng thông reo. Mặt hồ Than Thở một màu xanh phẳng lặng. Hội quán Huỳnh Kim Quang với tiếng hát đón chào thân nhân, bạn bè chiều thứ bảy. Cô ngồi đối diện anh trai và anh. Vẻ mặt thư sinh ngày nào đã trở nên cương nghị sau gần 2 năm lăn lộn thao trường. Anh đen và chững chạc hơn trong bộ quân phục vàng và Alfa đỏ. Anh đưa cô đến cửa hàng của chị Chúc, chị Mai trên đường Duy Tân, gần khu Hòa Bình - Cửa hàng quen thuộc có thể ghi sổ của SVSQVB- Anh mua tặng cô một cây Pilot màu tím, khắc tên anh và cô cùng KBC 4027. Cô hiểu màu tím - màu của sự thủy chung. Lúc này anh chỉ mới ăn lương Trung Sĩ. Gần 7 năm yêu nhau, cô và anh cũng có những giận hờn nho nhỏ. Cô nhói lòng khi nghe có một cô gái Đà Lạt vào thăm anh chiều thứ Bảy. Anh cũng bóng gió khi cô gặp các anh hùng chiến trận để viết phóng sự chiến trường. Nhưng cả hai chưa hề nói nặng nhau một tiếng, chưa bao giờ đề cập sự chia tay. Đêm Đà Lạt mù sương và lạnh. Không biết bằng cách nào anh đã ra được với cô lúc 9 giờ tối. Anh cầm tay cô, bàn tay lạnh buốt dần ấm lại trong tay cô nóng sực. Anh kể chuyện vì lá thư của cô mà anh bị phạt tác chiến số 4, mang đủ bộ lệ hành quân, đặt thư cô trên đầu vừa chạy vừa la “Người Yêu Tôi Đi Lấy Chồng Rồi”. Cô nghe kể mà ứa nước mắt. Cô nép đầu vào ngực anh. Anh đặt nhẹ môi mình trên mái tóc cô. Tiếng gió xào xạc trên rặng thông. Và cô biết thế nào là hạnh phúc! Tháng 10 năm 1974, đáng lẽ cô về Đà Lạt để dự lễ trao nhẫn cho anh như dự định. Nhưng cô phải đi thực tập tại trường Đồng Khánh Thành Nội. Năm thứ 3 rồi. Đề tài là “Văn Chương Pháp Cuối XIX- Đầu XX”. Tại sao trong nhóm thực tập 3 người chỉ mình cô bốc trúng bài thơ L’Adieu của Apollinaire?Bạn Tường Vy với truyện ngắn Les étoiles dễ thương của A. Daudet; Kim Chi với Les grands coeurs nhân hậu của De Amicis. Còn cô là “Vĩnh Biệt” với những câu thơ sầu thảm: “J’ai cueilli ce brin de bruyère. L’automme est morte souviens-t’en. Nous ne nous verrons plus sur terre…” Soeur Madeleine đã thở dài nhìn cô “Con chọn nhằm một bài thơ quá hay nhưng quá buồn”... Mọi người trong gia đình cô đều thương anh. Thôi thì cô nhờ anh rể vậy. Niên trưởng khóa 16 trao nhẫn cho niên đệ khóa 28 cũng đẹp chứ sao. Sang năm anh sẽ ra đơn vị và cô cũng sẽ tốt nghiệp. Mộng ước sắp thành: “Một gian nhà nhỏ đi về có nhau”. Vậy mà mọi chuyện như một cơn ác mộng. Cô kẹt lại ở Đà Nẵng và xa anh biền biệt. Tháng Tư đen của đất nước. Tháng Tư đen của cuộc đời cô và với nhiều người khác. Anh kể lại Khóa 28 của anh ra trường ngày 21 tháng Tư năm 1975 tại trường Bộ Binh Long Thành chứ không phải ở Vũ Đình Trường Lê Lợi trên ngọn đồi 1515, một lễ ra trường độc đáo nhưng buồn nhất trong lịch sử của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Khóa mang tên vị Đại Tá tử thủ Charlie Nguyễn Đình Bảo. Các tân Thiếu Úy không được mặc đồ Đại Lễ mà trang phục nón sắt, quân phục Treillis. Thủ Khoa Hồ Thanh Sơn cũng không có cơ hội giương cung biểu tượng chí tang bồng hồ thỉ... Xe GMC đợi sẵn trước cổng trường sẵn sàng đưa các tân Sĩ Quan ra trận. Không một giờ phép, không một tiễn đưa, không một lời nhắn với người đã từng ước nguyện trăm năm. Anh chọn binh chủng Biệt Động Quân. Anh được đưa về Bộ Chỉ Huy BĐQ ở trại Đào Bá Phước đường Tô Hiến Thành. Đích thân người anh Cả, Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai, Tư Lệnh binh chủng trân trọng bắt tay các tân Sĩ Quan và ngày mai anh nhận lãnh đơn vị: Liên Đoàn 24 BĐQ. Khi nghe tin Dương Văn Minh đầu hàng, cả quan và lính đều khóc. Anh và Trung Đội định chạy về Vùng IV theo chân Tướng Nguyễn Khoa Nam nhưng mới ngang Long An thì nghe tin vị Tướng này đã tuẫn tiết. Một người lính đã đưa anh về quê và theo một chiếc tàu ra khơi. Cuộc đời binh nghiệp của anh vỏn vẹn có 9 ngày. Sau này, anh đã tìm nhiều cách để liên lạc với cô nhưng bặt vô âm tín. Anh không biết rằng gia đình cô phải bán vội bán vàng cơ ngơi để đi kinh tế mới vì cái lý lịch “ngụy quyền, ngụy quân” của cha và anh cô. Ngày xưa, cô thích nghe bản nhạc “Nghìn Trùng Xa Cách“ của Phạm Duy và bây giờ cô đã hiểu thế nào là xa cách nghìn trùng. Cô cúi xuống hôn lên trán anh. Anh của em. Anh mở mắt và ôm choàng lấy cô. Có phải cô đang ở trên thiên đường... ******* Từ khung cửa sổ khách sạn, cô nhìn ra sông Hương. Muôn đời dòng sông vẫn lặng lẽ trôi nhưng lòng cô thì chao nghiêng. Cô đã mơ một lần về Huế cùng anh vài ngày, trong thâm tâm như để bù đắp những mất mát của mối tình đầu, như để kéo dài chút thời gian có thể là lần cuối cùng được gần nhau. Đêm qua, hai người đã đi lang thang trên những con đường thành phố... Huế thay đổi nhiều quá, mất dần hết những nét u mặc xưa. Ký túc xá cô ở bây giờ trở thành Doanh trại quân đội nhân dân. Các Ma soeur dòng Saint Paul không biết đã về đâu. Cô nhớ nét mặt nghiêm trang của Soeur Chantal trong giờ nguyện ngắm, nụ cười hóm hỉnh của Soeur Madeleine khi đưa cho cô những bức thư màu xanh có hình người sinh viên Sĩ Quan giương cung, cái insigne rồng ngậm kiếm trên góc trái đặc trưng riêng của trường Võ Bị. Anh còn muốn đưa cô về Đà Lạt. Họ sẽ đi Vallée d’amour nơi anh lần đầu cầm tay cô. Họ sẽ ngồi ở hồ Than Thở hoài niệm về một ngôi trường quân sự nổi tiếng và đẹp nhất Đông Nam Á trên ngọn đồi 1515… Nhưng cô đã từ chối. Anh đã kể cho cô nghe về người vợ có tấm lòng nhân hậu, người vợ đồng ý chồng lấy tên người tình xưa đặt cho con gái, người vợ khuyên anh nên về Việt Nam một lần để tìm cô và cũng để tang cho mối tình đầu. Anh về với cô nhưng anh không còn là của cô. Rõ ràng anh và cô hôm nay không phải là anh và cô của 30 năm trước. Những gì cô ấp yêu gìn giữ cũng chỉ là “có còn lại chăng dư âm thôi” như lời một bài hát. Cả hai người đều là nạn nhân của thời cuộc. Có biết bao nhiêu mối tình đã tan đàn xẻ nghé như anh và cô sau Tháng Tư đen? Căn nhà xưa không còn. Ngôi trường cũ cũng thay tên và cuộc đời anh đã sang trang. Thôi thì “Duyên trăm năm đứt đoạn. Tình muôn thuở còn hương”... Cô thẫn thờ xếp những chiếc áo vào valise. Cô đã có những ngày đẹp nhất dù chỉ ba ngày ngắn ngủi. 3 ngày cho 30 năm chờ đợi. Thế là đủ. ******* Xe qua cầu Trường Tiền. Nước mắt cô trào ra nhưng lòng cô thanh thản. Cô khẽ hát “Nghìn trùng xa cách, người cuối chân trời. Đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người.” Hương Thủy |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 11/Sep/2024 lúc 9:34am |
Bắt Đầu Từ Đó...Bắt đầu từ đó. Từ những cửa biển Đà Nẵng, Sài Gòn, Vũng Tàu, Cam Ranh, Nha Trang sau những ngày tháng Tư, mùa bão lửa, năm 1975. Mẹ lạc cha. Vợ xa chồng. Anh mất em. Những đứa bé bị bỏ quên đứng khóc trên đường phố. Những chuyến hải hành vô định trên biển Đông trùng trùng gió bão. Đói khát. Lo âu. Bà mẹ quỳ lạy những tên hải tặc để xin tha cho đứa con gái chỉ mười lăm tuổi ốm o bịnh hoạn của bà. Nước mắt và những lời van xin của mẹ không lay động tâm hồn của những con người không còn một chút lương tri. Tiếng niệm Phật. Lời cầu kinh. Không ai nghe. Không có Chúa và không có Phật. Ở đó, trên bãi san hô của đảo Koh Kra, phía Nam vịnh Thái Lan, chỉ có những thân thể trần truồng, máu me nhầy nhụa, chỉ có tiếng rên của những con chim nhỏ Việt Nam bất hạnh và giọng cười man rợ của bầy ác điểu Thái Lan. Bắt đầu từ đó. Từ trại tỵ nạn Camp Pendleton, Palawan, Laem Sing, Pulau Bidong, Sungai Besi, Bataan, Whitehead, Phanat Nikhom, Galang. Những địa danh xa lạ đã trở nên thân thiết. Ngửa tay cầm chén gạo tình người. Thank you, merci, danke, gracias. Tuổi hai mươi, ba mươi, và ngay cả năm mươi, bảy mươi mới bắt đầu tập nói. Những câu tiếng Anh bập bẹ, những dòng chữ Pháp, Đức, Tây Ban Nha ngập ngừng. Bắt đầu từ đó. Từ những buổi chiều âm thầm nhìn qua bên kia biển, anh tự hỏi, phải chăng chấm đen cuối chân trời đó là quê hương. Cành hoa hồng được thả trôi trên biển để nhớ nhau trong ngày cưới. Con búp-bê được nhẹ nhàng đặt trên mặt nước xanh trong ngày sinh nhật của con. Vợ đã chết và con đã chết trong một lần vượt biển sau anh. Bắt đầu từ đó. Từ đêm Giao Thừa đầu tiên. Không bánh chưng xanh. Không rượu nồng pháo nổ. Không một lời chúc tụng của bà con. Chỉ có tiếng hú của cơn bão tuyết dội vào khung cửa kính. Hai ngọn nến nhỏ, một bó hương thơm và những giọt nước mắt nhỏ xuống trong đêm Giao Thừa cô độc. Em bé mười ba tuổi lần đầu tiên tập cúng mẹ mình. Cúng về đâu và lạy về đâu. Trong lòng Biển Đông sâu thẳm, mẹ có còn nghe được tiếng khóc của đứa con đang lạc loài trên đất lạ. Bắt đầu từ đó. Từ hành lang phi trường Tân Sơn Nhất, người lính già HO gạt nước mắt chào tạm biệt thân nhân, tạm biệt quê hương, nơi một lần máu mình đã đổ. Ra đi, mang theo những tên tuổi, những địa danh đã hằn sâu trong ký ức. Ra đi, để lại sau lưng tuổi thanh niên trong ngục tù xiềng xích. Ra đi, để lại bao đồng đội, chiến hữu, anh em đang tiếp tục đếm những ngày dài bất hạnh trên quê hương. Bắt đầu từ đó. Tiếng guốc không còn khua trên đường phố. Hàng cây sao đã héo. Hàng me xanh đã tàn. Hàng phượng vĩ không còn đỏ thắm. Những trụ đèn khuya trước cổng trường không còn ai đứng đợi. Những ô cửa của lớp học và của đời người đã đóng. Và cả một quê hương thân yêu cũng chừng như đã chết. Ra đi. Ra đi. Và từ đó chúng ta đi. Cảnh đời tuy có khác nhau. Tuổi tác tuy có khác nhau. Thời điểm tuy có khác nhau. Nhưng chúng ta, những người Việt Nam may mắn còn sống sót, cùng mang một nỗi đau chung: nỗi đau Việt Nam. Nỗi đau lớn dần theo mỗi ngày biệt xứ. Nước mắt của những bà mẹ Việt Nam khắp ba miền góp lại chắc đã nhiều hơn nước sông Hồng. Xương trắng của cha anh nếu chất lại chắc đã dài và cao hơn cả dãy Trường Sơn. Hôm nay, cơn bão lửa dù chưa qua hết nhưng với ý chí vươn lên, những người Việt Nam may mắn còn sống sót, thay vì ngồi thở ngắn than dài cho số phận, đã dìu nhau đứng dậy, dìu nhau đi lên, sống một cuộc sống tích cực, làm những công việc tích cực cho bản thân, cho gia đình, cho đất nước. Nhờ thế, sau đêm tối trời của vận nước và đời mình, đa số chúng ta đã tìm được một cành mai hy vọng ở xứ người. Để từ đó làm điểm khởi hành lên đường đi dựng lại Mùa Xuân Dân Tộc. Hôm nay, đau buồn vẫn chưa nguôi nhưng sức sống không phải vì thế mà ngừng lại. Những thuyền nhân tí hon trên những chiếc ghe bằng gỗ mong manh ngày xưa bây giờ đã lớn. Các em đã thành những kỹ sư, bác sĩ tài ba, những khoa học gia lỗi lạc trong nhiều ngành. Ai đã dạy em nên người? Cha mẹ. Vâng. Thầy cô. Vâng. Nhưng còn hơn thế nữa, còn từ trong dòng máu Việt Nam. Hôm nay, những con nước nhỏ dưới chân cầu đã trôi ra biển rộng. Nhưng không phải vì thế mà tan loãng trong đại dương bát ngát như hàng triệu con nước khác. Trái lại, những giọt nước từ sông Hồng, sông Hương, sông Ba, Thu Bồn, Trà Khúc, Cửu Long, Vàm Cỏ, vẫn hẹn một ngày bốc thành hơi, bay về tưới mát ruộng đồng xứ Việt thân yêu đã nhiều năm đại hạn. Tất cả, một ngày không xa sẽ rơi vào quên lãng, sẽ tan biến đi theo chu kỳ sinh, trụ, dị, diệt của nhân sinh. Không quan trọng. Điều quan trọng, trong giờ phút còn có mặt, còn được góp phần, xin làm một que củi nhỏ để ngọn lửa hy vọng, tình người, tình đất nước, trong lòng mỗi chúng ta, đừng tắt. Cám ơn. Trần Trung Đạo Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 11/Sep/2024 lúc 9:37am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 13/Sep/2024 lúc 12:37pm |
Câu chuyện Thằng Cu Tí và Thằng Cu TèoTất
cả 10 điều răn được tóm gọn lại chỉ trong 2 điều là: Trước kính mến
Chúa trên hết mọi sự, sau yêu người như mình ta vậy. Trong tinh thần mỗi
người Kitô hữu tự xét lại lương tâm của mình đã xúc phạm đến Ngài, qua
tư tưởng, lời nói hay việc làm, đã làm tổn thương về tinh thần lẫn vật
chất đến những anh chị em khác, có cùng một Cha chung với nhau là Đức
Kitô đang ngự ở trên trời.
Note: hình trong bài là minh họa Nếu có ai đã được nghe kể lại câu chuyện này, có lẽ sẽ cho rằng đây là một câu chuyện hoang đường 100% của một người có đầu óc quá giàu tưởng tượng phịa ra, để làm cho người nghe câu chuyện phải băn khoăn, oán trách lẫn thương xót cho số phận hồng nhan bạc phận của hai người phụ nữ trong câu chuyện này. Chúng tôi xin mời đọc giả hãy lắng nghe những sự việc diễn biến tuần tự của câu chuyện độc nhất vô nhị, có một không hai này, do nhân vật chính trong câu chuyện này đã thuật lại cho tôi biết để yêu cầu tôi cố vấn cho ông ta.
Nhưng
không phải vì thế mà các anh chị em Chiến Sĩ QLVNCH trở nên khô khan
tình cảm, trái lại trong những lúc ở ngoài tiền tuyến, người Lính Chiến
oai hùng cầm súng, hăng say giết giặc nhiều chừng nào, thì bù lại vào
những lúc được nghỉ ngơi tại hậu cứ, dù chỉ trong một giây lát ngắn
ngủi, con tim của người Lính Chiến lại dạt dào tình cảm yêu thương nhiều
chừng ấy. Thật vậy, trước ngày mất nước, từ thôn quê hẻo lánh xa xôi
cho đến thành thị đông đúc dân cư, ai ai cũng thường nghe thấy câu hát
“Anh Là Lính Đa Tình, Tình Non Sông Nước Việt…” vang lên trên khắp nẻo
đường Miền Nam Nước Việt. Câu hát nói lên ý nghĩa phong phú của chữ đa
tình ở đây, không hẳn chỉ có tình yêu trai gái mà còn là tình yêu Thượng
Đế, tình yêu quê hương, tình yêu tổ quốc, tình yêu nhân loại, tình yêu
Cha Mẹ, tình yêu vợ chồng, tình yêu con cái v.v… để nhắc nhớ cho dân
chúng sống ở hậu phương thành thị hiểu rằng, con tim của các anh chị em
Chiến Sĩ QLVNCH vẫn luôn luôn dạt dào tình cảm, biết thương yêu nhân
loại.
Ông
tâm sự tiếp, con tim của ông đã ngủ yên trong nhiều năm qua, kể từ khi
vợ ông qua đời, nhưng bây giờ con tim của ông bất chợt trỗi dậy, nó đòi
yêu trở lại, nó không thèm nhắc nhở cho ông nhớ rõ tuổi đời của ông đã
trải qua mấy chục vạn ngày rồi. Ông hồi tưởng lại những ngày đầu tiên
được uống bia nội hóa, rồi những giây phút thần tiên được uống bia nằm
với người con gái nặng tình quê hương, còn đang chờ đợi từng ngày để
được tái ngộ với ông ở quê nhà. Trong lòng ông lúc đó cảm thấy xao
xuyến, rạo rực, nóng hổi lạ thường, giống y như tâm trạng của một cô gái
dậy thì. Thế là một tuần lễ sau, hai vợ chồng, chồng già vợ trẻ là tiên, thuê xe riêng chạy từ Đà Lạt về thẳng Vĩnh Long để ông trình diện Mẹ vợ. Xe vừa đậu tới đầu ngõ, nàng bước vội xuống xe, vui vẻ, hớn hở nắm chặt tay ông, kéo ông chạy theo nàng vào đến tận nhà, để giới thiệu đức lang quân mới cưới của mình với Mẹ. Hai người vừa bước chân vào trong nhà thì đã nhìn thấy Mẹ nàng đang đứng chờ sẵn ở giữa nhà, bà vừa nhìn thấy con, bà cười tươi tỉnh mừng đón con gái độc nhất của bà đã về và chào cậu con rể Việt Kiều hơn tuổi bà, mà bà chưa hề biết mặt mũi ra sao, chỉ nghe con gái mình miêu tả diện mạo cậu ở trong điện thoại mấy tháng trước đây thôi, rồi vợ ông chưa kịp dứt lời giới thiệu về người chồng của mình với Mẹ, thì bà Mẹ vợ tự nhiên ngất xỉu, từ từ ngã lăn xuống đất, vợ ông cùng ông vội vàng đỡ bà lên, đặt bà nằm trên một cái ghế dài, nàng lấy dầu nóng xoa bóp lên người bà, một lúc sau bà mới tỉnh lại.
Ông
có đưa ra một giải pháp của ông để giải quyết vấn đề nan giải này và
ông yêu cầu tôi cho biết ý kiến, là ông có nên làm như vậy không? Giải
pháp đó là, mỗi tháng ông sẽ gửi 200 Mỹ kim về cho nàng và Mẹ nàng tiêu
chung, nhưng khi vợ ông hay còn gọi là con ông, sắp sanh đứa bé thì ông
sẽ gửi thêm về cho 2000 để trang trải chi phí sanh đẻ. Chứ nếu bảo trợ
qua đây, thì khó ăn khó nói, khó trả lời với bà con họ hàng, bạn bè thân
thuộc bên này, rồi chưa kể cách xưng hô với nhau trong nhà hay ra ngoài
đường trước mặt bạn bè, nàng sẽ gọi ông bằng anh xưng em, hay bằng Bố
xưng con đây? Rồi cách xưng hô với đứa bé khi nó khôn lớn, nó sẽ gọi ông
bằng Bố xưng con hay bằng ông Ngoại xưng cháu đây? Ôi thật quá nhức
đầu, biết xưng hô thế nào cho phải lẽ, hợp tình hợp lý đây? Nên ông nghĩ
rằng giải pháp của ông vừa trình bày với tôi ở trên là thượng sách
nhất. Tôi
trả lời ông rằng tôi hoàn toàn không đồng ý với giải pháp này của ông
đưa ra. Dù cho ông có vô tình gây ra thảm trạng cay đắng này đi chăng
nữa, nhưng ông nên nghĩ đến tương lai dài hạn của 3 người: trước tiên là
người vợ hoặc con, là người con gái của ông, thứ đến là đứa bé sắp được
sanh ra, có thể là con của ông hoặc chắc chắn nó là cháu ngoại của ông,
cuối cùng là đến bà Mẹ của vợ ông và cũng là người tình chung thủy năm
xưa của ông. Tiền ông gửi về hàng tháng, có bao nhiêu đi chăng nữa, cũng
không bảo đảm cho 3 người này có được một tương lai xán lạn cho suốt cả
một cuộc đời họ, nhất là cuộc đời của con gái ông và cuộc đời của đứa
bé sắp sanh sẽ còn kéo dài cả hàng mấy chục năm nữa, sau khi ông đã qua
đời, chi bằng ông cứ xúc tiến việc bảo trợ cho vợ ông sang đây sau khi
vợ ông đã sanh và tên bố của thằng bé trong giấy khai sanh nên đề là vô
danh thì hay hơn. Còn
một điều nữa là sau khi vợ ông đã ổn định cuộc sống, nạp đơn vô quốc
tịch, rồi bảo trợ cho cho Mẹ của nàng sang đây sum họp với con gái, đệ
nạp đơn xin bảo trợ vào lúc đó sẽ được cứu xét mau chóng hơn. Chứ vấn đề
cách thức xưng hô như ông nêu lên sẽ không đặt thành vấn đề, vì khi đã
biết nàng là con ruột của mình rồi, thì hai người đâu còn ăn ở với nhau
như vợ chồng nữa, chuyện riêng của mình bảo trợ cho vợ qua, nếu hai
người trong cuộc không nói ra, thì ai biết đấy là đâu, người ta vẫn
tưởng Bố bảo trợ cho con qua và nàng sẽ gọi ông là Bố xưng là con, có
chết thằng Tây nào đâu, sự thật vẫn là sự thật, chuyện uống bia nằm với
nàng là một tai nạn ngoài ý muốn của cả hai người, chỉ có ông, Mẹ nàng
và nàng biết mà thôi, ai dại gì khai ra ngoài làm gì, để lạy ông tôi ở
bụi này. Phó tế Nguyễn Mạnh San |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 17/Sep/2024 lúc 9:05am |
Tình người nơi chiến địaCó lẽ cuộc gặp gỡ định mệnh trên chiến trường trong thời chiến tranh, một thời kỳ đầy đau thương và mất mát, nhưng cũng là nơi tình người tỏa sáng. Tôi
vốn là một người lính của một đơn vị Biệt Động quân bình thường, tôi đã
có những trải nghiệm không thể nào quên trong những năm tháng chiến đấu
ác liệt, và trong ký ức của tôi, hình ảnh anh Hưng, vị đại úy phi công
trẻ trung của Phi đoàn 243 Mãnh Sư, sự gan dạ của anh mãi luôn in đậm
trong tâm trí tôi. *
Tam Quan vùng đồi núi chập chùng ở phía Tây, phía Đông giáp Biển chạy
dài xa tít, nơi đơn vị tôi đóng quân là khu căn cứ đối diện chi khu Tam
quan cách bởi Quốc lộ 1. Vào
một ngày nọ trời vừa hừng sáng tôi đã nghe tiếng động cơ trực thăng
của Phi Đoàn 243 tăng phái cho đơn vị chúng tôi, chẳng bao lâu cả ba
chiếc UH-1 đã đáp xuống bãi đáp trong căn cứ . Ra bãi đáp tôi gặp ngay anh Hưng, và đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau tại chiến trường ác liệt ở Tam Quan. Anh
Hưng gốc là người miền Bắc, mang trong mình vẻ đẹp của chàng trai Hà
Nội. Đôi mắt sáng, nụ cười ấm áp và sự điềm tĩnh lạ thường mỗi khi gặp
những tình thế hiểm nguy trên không, nó đã khiến tôi bị cảm phục ngay từ
khi cùng anh quần thảo trên bầu trời Tam Quan Bồng Sơn. Ra
đón các anh gồm các vị sĩ quan trong đơn vị, sau một hồi giới thiệu
thân thế của hai bên , các anh được mời vào Trung tâm hành quân của đơn
vị tôi để nghe thuyết trình tình hình và phối trí lực lượng của ta và
địch. Khoảng một giờ sau tôi cùng Sếp lên chiếc C and C do Đại Úy Hưng làm phi công chính, thấy tui lần đầu anh Hưng vỗ vai hỏi: - Chú em mầy tên gì, chắc chuyên mang PRC 25 theo ông Trung tá Lạc liên đoàn trưởng phải không ? Lấy
làm lạ, vì lần đầu tiên đi bay cùng các anh không quân, có bao giờ họ
chú ý đến mấy thằng "Cắc ké" như tôi đâu, tôi trả lời anh: -Dạ em tên Hùng đó đại úy, đại úy nói đúng rồi, thằng em chuyên mang máy cho Sếp em từ lúc về đơn vị này đến giờ. Đến lượt anh Hưng giới thiệu: -
Mình là Hưng , tương lai chắc "Ăn cơm tháng" với Liên đoàn của chú em
mầy hoài đó, mà tôi hỏi thiệt nghe, chú em mầy đi trực thăng có sợ
không, lên ngồi nhớ vịn cho chắc chớ không gió nó thổi là rớt xuống biển
đó nghe. Biết anh nói chơi cho vui, tôi dạ rân: - Dạ tuân lệnh Đại úy ...
Sau nhiều chuyến đi bay với anh Hưng, tự nhiên hai anh em tôi thân
thiết hồi nào chẳng hay, mỗi khi các đơn vị trực thuộc của Liên đoàn
tôi chạm địch, thì trong tích tắc chiếc UH-1 mang số hiệu 0777 của anh
lại xuất hiện trên bầu trời, anh chở thầy trò tôi bay lên quan sát
chiến trường từ trên cao, nhờ đó sếp tôi đã chỉ huy giải tỏa áp lực
địch một cách hiệu quả hơn.
Có lần, khi một đơn vị trực thuộc của đơn vị tôi bị phục kích, đại úy
Hưng đã không ngần ngại lao vào bầu trời có những làn đạn phòng không
phía bên dưới, anh điều động hai chiếc Gunship bắn rốc kết và những
tràng Miligun trên trực thăng, các anh pilot đã cứu các chiến hữu tôi
trở về an toàn. Từ
đó tình Huynh đệ chi binh giữa chúng tôi từ đó trở nên khăng khít hơn
bao giờ hết. Có những buổi chiều tĩnh lặng, khi không có bận bịu nhiệm
vụ, chúng tôi thường cùng nhau ngồi bên chiếc bàn nhỏ, nhâm nhi ly cà
phê nóng và trò chuyện. Anh kể cho tôi nghe về bầu trời, về những khoảnh
khắc nghẹt thở khi đối mặt với kẻ thù. Còn tôi, tôi chia sẻ với anh về
cuộc sống của một người lính bộ binh, về những nỗi sợ hãi, những ước mơ
và cả những kỷ niệm đẹp. Một
lần nọ, sau một phi vụ thành công, anh Hưng chở tôi về đơn vị của anh ở
phi trường Phù Cát. Hai anh em tôi ghé vào một quán nước nhỏ bên ngoài
phi trường, gọi vài chai bia Larue uống giải khát kể chuyện đời cho nhau
nghe, chiều hôm đó, chị Hưng đã chuẩn bị một bữa cơm tối thịnh soạn cho
chúng tôi, trong căn nhà nhỏ đơn sơ, chúng tôi cùng nhau thưởng thức
những món ăn dân dã, trò chuyện vui vẻ, khiến cho tôi có được cảm giác
ấm áp, gần gũi như gia đình, nó đã làm cho tôi quên đi những mệt mỏi,
những lo âu của chiến tranh đang hiện diên trên đất mẹ. Sáng
hôm sau trước khi ra về anh Hưng tặng tôi một chiếc đồng hồ đeo tay,
chiếc đồng hồ Timex thật mỏng có khắc tên anh ở mặt sau. Đưa cho tôi chiếc đồng hồ anh Hưng nói: - Hùng mang nó đi, cứ mỗi khi nhìn vào chiếc đồng hồ này, anh muốn em nhớ rằng luôn có một người bạn ở bên cạnh em nhé. Chiếc
đồng hồ ấy đã trở thành kỷ vật quý giá của tôi, luôn theo sát tôi trong
suốt những năm tháng chiến tranh, tiếc rằng trong thời gian di tản
chiến thuật, sau một lần lội qua Sông Ba ở quận Cũng Sơn ( Phú yên) tôi
đã làm rớt nơi nào chẳng hay, chừng phát hiện ra điều này khiến tôi buồn
vô hạn vì mình đã đánh mất một báu vật không dễ gì có được . Cuộc
chiến kết thúc thật đột ngột, vừa đúng một tháng rưỡi kể từ khi đơn vị
tôi giã từ Thị xã Kontum, Thời gian trôi qua thật nhanh, tôi trở về đời
sống dân sự ở Sài gòn, anh Hưng thì sau khi phục vụ ở Phi trường Phù
Cát anh được thuyên chuyển về một phi trường ở Vùng bốn chiến thuật,
đúng vào ngày gãy súng anh Hưng và đồng đội đã bay ra Hạm đội Bảy của
Hoa kỳ bắt đầu cho cuộc đời của người tị nạn, sống mỗi người một nơi.
Nhưng tình bạn giữa tôi và anh Hưng tôi nghĩ nó vẫn luôn bền chặt. Nhờ mạng Internet toàn cầu, nhờ mạng xã hội Facebook chúng tôi liên lạc thường xuyên với nhau ôn lại những kỷ niệm đẹp. Chiến
tranh đã qua đi, nhưng những kỷ niệm về anh Hưng và những người đồng
đội vẫn luôn sống mãi trong trái tim tôi. Tình bạn giữa chúng tôi, một
người lính bộ binh và một phi công, là một minh chứng đẹp đẽ cho tình
Huynh đệ chi binh, tình bạn vượt qua mọi khó khăn thử thách. * Đại
úy Hưng năm nay ngoài tám mươi, tuy không còn phong độ một thời khiến
các em nữ sinh thầm ao ước kết giao, nhưng tinh thần anh còn rất minh
mẫn, qua trò chuyện tôi hỏi anh: - Bây giờ cho anh lên UH-1 anh vẫn lái ngon lành không anh Hưng. Anh phá lên cười, anh nói: - Mình bây giơ mắt mờ, chân tay run rẫy rồi , dễ gì lái được như hồi xưa nữa Hùng ơi! Rồi anh nói tiếp: -Cuộc
chiến vừa qua nó khốc liệt quá, nhất là anh em mình ở nơi vùng hai
chiến thuật, nơi bom đạn kinh hoàng nhất vậy mà mình còn nguyên vẹn hình
hài này, quả là phước đức ông bà để lại cho mình dữ lắm. Sau câu nói của anh Hưng , trong video Call tôi thấy anh nghẹn ngào như mình không kém. Tôi
và anh Hưng thầm ước mong có dịp nào đó, hai anh em tôi được gặp lại
nhau ngoài đời để nhắc lại những buồn vui đã qua trong thời chinh chiến,
thời gian mà chúng tôi đã cống hiến tuổi trẻ của mình để gìn giữ quê
hương. Sài gòn một sáng mưa buồn 15.9.2024. Hai Hùng SG
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 17/Sep/2024 lúc 9:07am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 18/Sep/2024 lúc 9:07am |
ANH LÍNH NGHĨA QUÂN GÁC CẦU ÔNG ĐỤNG.
Sáng nay tui chạnh nhớ lại chuyện ngày xưa, tui liền viết lên bài này,
nhằm nói về thằng bạn thân trong xóm tui hồi đó, nó cũng là nhân vật
chính của bài Người Lính Nghĩa Quân gác Cầu Ông Đụng. * Cảnh
là tên của thằng bạn rất thân thiết với tui từ thời còn con nít, nó
mang họ Đặng nhưng không phải là họ của ba nó, khi làm khai sanh cho con
thím Hai má nó gạt nước mắt lấy họ của mình rồi thêm chữ lót với tên
cúng cơm của nó vô tờ khai sanh có Con dấu và chử ký của ông Hội đồng xã
Hạnh Thông chứng nhận, vậy là cái thằng Đặng văn Cảnh ra đời, ba của
nó "Quất ngựa truy phong" khi thím Hai bụng mang dạ chửa.
Theo ngày tháng với sự đùm bọc của bên ngoại, thằng Cảnh lớn với tất
cả sự yêu thương của gia đình, nó chào đời trong cái xóm nghèo này như
vậy đó. Cuộc đời không ai tự chọn cho mình nơi sanh ra, nên Cảnh sống với thím Hai với hoàn cảnh nhà nghèo khốn khó. Hàng
ngày với gánh xôi tự mình nấu, thím Hai gánh đi bán đầu trên xóm dưới,
một phần do thím nấu xôi thật ngon, bán với giá cả phải chăng nên bà con
mua ủng hộ thật nhiều, tui cũng là "Mối ruột" gánh xôi của thím Hai. Tui
nhớ không lầm khoảng vào năm sáu mươi chín, vào năm đó tụi tui cũng
mười sáu mười bảy tuổi, nhà tui đã nghèo mà nhà thằng Cảnh nó còn nghèo
hơn nữa, vì vậy Cảnh chỉ được cho học hết lớp Nhất là nó phải ra đời
bương chảy phụ với thím Hai lo cho cuộc sống rồi. Tui
còn nhớ một sáng nọ hai thằng tui ngồi bệt trước hàng ba nhà chú Năm
Hải , mỗi đứa một gói xôi trên tay để ăn sáng, bất chợt thằng Cảnh nó
than thở: - Chắc tao phải đi kiếm cái gì để làm phụ tiền cho má tao, bán xôi không đủ lo cho gia đình Phương ơi! Nghe Cảnh nói vậy tui bèn hỏi nó: -Mầy
còn nhỏ không biết nghề nghiệp gì ráo trọi, vậy thì ai dám mướn mầy
làm, à hay mầy ra nhà ông Tư "Đờ mi" xin ổng đi theo làm phụ hồ chắc
được đó. Nghe tui gợi ý cho nó "Đường binh" này, thằng Cảnh ngó tui với cặp mắt sáng rỡ, nó nói: - Đúng rồi, sao tao không nghĩ ra, cám ơn mầy nghe Phương. Vậy là chiều hôm đó, tui với nó lọ mọ ra nhà ông Tư 'Đờ Mi" để xin cho Cảnh làm phụ hồ. Thấy hai thằng tui lấp ló ngoài hàng rào cây Dâm bụt, bà Tư liền lên tiếng hỏi: -Hai ông nhỏ này, làm gì lấp ló ngoài đó vậy, vô đây chơi nè, bộ có chuyện gì phải hông . Bà
Tư không đợi hai đứa tui nói gì, bà Tư bước ra nắm tay kéo hai đứa vô
nhà, bà chỉ bộ "Đi văng" kêu hai đứa tui ngồi đó, rồi bà Tư thong thả
hỏi : - Bây cơm nước gì chưa, bà Tư chắc rằng hai đứa có chuyện gì muốn nói phải không? Nghe bà Tư cật vấn như vậy, tui thầm nghĩ trong bụng: -Chèn ơi, bà Tư hay thiệt ta, chưa kịp xin ông Tư cho Cảnh phụ hồ, vậy mà bà Tư biết tỏng tòng tong hết . Thằng Cảnh với điệu bộ ngại ngùng, hai bàn tay của nó cứ nắm thật chặt rồi bắt đầu lí nhí nói: -Dạ
con thưa với bà Tư, hông có giấu gì nhà con nghèo quá, má con đi bán
xôi sớm hôm cực nhọc mà không đủ tiền bạc lo cho nhà cửa, nay con muốn
xin ông Tư cho con theo phụ hồ để kiếm tiền phụ với má con. Bà Tư nghe Cảnh nói vậy, tui thấy gương mặt bà hiện lên lòng thương cảm vô cùng, bà Tư nói: -Tưởng vụ gì , chứ ba cái đồ quỷ đó dễ ẹc hà, để bà Tư nói cho. Vừa dứt câu, bà Tư lên tiếng kêu vọng ra phía sau nhà: - Ông Tư ơi, ổng ra nhà trước tui nói cho ông cái này một chút. Giọng ông Tư vọng ra: - Chờ tui chút xíu, đang lỡ tay chút má nó ơi! Khi gặp mặt bà tư phía nhà trên, đồng thời gặp hai thằng "Xây lố cố", ông Tư hỏi vui: -Chèn ơi! Hai ông nhỏ này đi đâu đây, sao có mặt ở đây nữa. Không chờ tụi tui trả lời, bà Tư hớt ngang: -Thằng Cảnh nó xin theo ông Phụ hồ để có tiền phụ với má nó đó ông. Với cặp mắt nhìn e ngại, ông Tư hỏi: -Bây nhiêu tuổi rồi, không biết mần được hay không đây. Nghe ông Tư nói vậy, thằng Cảnh lóe lên tia hy vọng, nó nhanh nhẩu trả lời: -
Dư sức qua cầu ông Tư ơi, coi vậy chứ con mạnh lắm, bao xi măng con vác
chạy ngờ ngờ, ông cho con theo phụ rồi con học nghề làm thợ luôn. Nghe thằng Cảnh tuôn ra như súng nổ "Ra phan", rồi ngó tướng tá nó một hồi ông nói: -Cha chả, ông con này có lanh dữ bây, được đó vậy thì ngày mơi đi mần luôn nghe. Như vừa biết mình trúng số độc đắc, Cảnh nhào lại ôm tui nó nhắc tui bổng lên quay vài vòng khiến tui xanh mặt tui cự nó: - Thằng quỷ này, mau thả tao xuống mầy "Mad dây điện" hả ? Thả tui xuống đất, Cảnh cám ơn ông bà Tư rối rít rồi kéo tui ra về với nó. Vậy là Cảnh đi làm được một tuần, trong tuần này tui thấy mình thiếu thiếu cái gì đó khiến cho tui buồn buồn. Tuần
đầu được lãnh tiền, nó đưa hết cho thím Hai chỉ giữ lại một ít cho
mình. Nó rủ tui lên chợ Gò vấp ăn đậu đỏ bánh lọt, gương mặt nó rạng rỡ
thấy rõ vì đây là lần đầu tiên nó xài tiền bằng công sức của mình bỏ ra,
tui cũng sung sướng lây với hạnh phúc nhỏ nhoi của nó vô cùng... Chừng
một năm sau, Cảnh đến tuổi Quân dịch, thông thường mấy đứa con nhà
nghèo ít học khi đi lính phải vô các đơn vị chủ lực quân, vì đâu có quen
biết với chức sắc nào để làm lính ở hậu phương, chắc do Cảnh ở hiền gặp
lành nên đúng thời gian này Chi khu Gò Vấp có đợt tuyển mộ lính Nghĩa
Quân cho quận nhà, vậy là thằng Cảnh được vô Nghĩa Quân nó cũng mừng,
một phần vì tháng nào cũng có lương bổng, phần còn lại là được đóng quân
gần nhà nên có dịp chạy tới chạy lui thăm nom thím Hai má nó. Sau
ngày mãn khóa ở Quân trường, thằng Cảnh được đưa về Trung đội Nghĩa
Quân GĐH/15, trung đội của Cảnh chịu trách nhiệm hai cây cầu sắt dã
chiến nằm trên con lộ từ ngã tư xa lộ Đại hàn lên gần tới chợ Thạnh
Lộc. Thằng
Cảnh được ông Trung đội trưởng cho nó gác cầu Ông Đụng, ban đầu thấy
làm lính gác cầu nó ham lắm, mỗi khi về nhà chơi gặp tui, lúc này tui
chưa nhập ngũ, do nhỏ hơn nó một tuổi, nó khoe: - Gác cầu Ông Đụng coi vậy mà vui lắm nghe Phương. Bữa nào mầy lên đó chơi tao cho mày bắn súng đã lắm. Nghe Cảnh nói vậy tui háo hức lắm, tui nói: - Chủ nhật tới đi, tao xin ba tao đi chơi rồi tao đạp xe lên mầy, cầu Ông Đụng tao biết rồi. Ngồi
trên vọng gác ở đầy cầu với thằng Cảnh, tui nghe gió thổi mát hiu hiu
từ cánh đồng bên kia đường thổi sang, nhìn xuống con rạch dưới cây cầu
tui thấy những con cá thòi lòi rượt nhau để ăn thua đủ, chắc hai tên
Thòi lòi đang giành một em gái Thòi Lòi đang lấp ló trong hang cạnh mấy
bụi dừa nước, rồi bổng đâu từng giề Lục Bình dầy đặt đang trôi lững lờ
qua cầu, tui thấy thằng Cảnh lên đạn cây XM16 nó nhắm bắn vào những giề
mục bình trên. Nghe
tiếng súng nổ làm tui sợ điếng hồn, vì những tiếng súng này tụi tui đã
nếm mùi trong đợt Tết mậu Thân, tui nói thằng Cảnh : - Sao tự nhiên mầy bắn dữ vậy, bộ hổng sợ sếp rầy hả. Trao cây súng qua cho tui, nó nói: -
Gác cầu thấy gì nghi ngờ dưới rạch là có quyền nổ súng, nhiều khi mấy
ông bên kia gài chất nổ phá cầu, mầy bắn thử đi cho biết. Sau
khi nó chỉ dẫn tui cũng bắn được vài viên xuống dưới nước, mùi thuốc
súng lần đầu tiên bay lên mũi khiến tui nghe lạ lẫm vô cùng... Tui vô Lính như thằng Cảnh, thay vì cũng đi lính gần nhà như nó, nhưng hoàn cảnh đưa đẩy tui phải vô binh chủng Mũ nâu. Tuy
ở xa nhau. Tui và thằng Cảnh biên thư thăm hỏi nhau thường xuyên qua
Khu bưu chính của từng đơn vị, tui đi nhiều chiến trường xa xôi như An
Lộc, Bình Định, Quảng Ngãi , Kontum nhưng rồi có lúc tui được cầm tờ
phép thường niên về thăm gia đình, gặp lại thằng Cảnh nó tâm sự nhiều
nỗi niềm: -
Tao chán cái nghề gác cầu đơn điệu này lắm rồi Phương, tao thích bay
nhảy như mầy, đi đây đi đó thay đổi không khí, tuy hiểm nguy vô cùng
nhưng là lính thì chấp nhận thôi mầy ơi. Tui khuyên Cảnh: - Mầy điên rồi hả Cảnh, đang yên lành gần nhà, lo lắng cho thím Hai sướng gần chết, đừng đứng núi này trông núi nọ mầy ơi. Cảnh nói chen vô : - Nhưng tao khoái bộ đồ Hoa rừng của mầy quá, nhứt là cái Bê rê Nâu nè. Tui can gián nó liền: -
Vạn bất đắc dĩ tụi tao mới phải chịu xa nhà, chứ nói thiệt thằng nào
cũng muốn được ở nơi yên bình, không có súng nổ bom rơi. Thôi yên phận
đi mầy..
Sau lần gặp mặt đó tụi tui chưa bao giờ gặp lại, một hôm tui nhận được
thư thằng Cảnh báo tin nó bị thương nhẹ phải nằm điều trị gần nửa tháng,
nơi nó đóng quân không còn yên bình như trước, cây cầu Ông Đụng bị quấy
phá liên tục, cũng cái ý nghĩ muốn rời khỏi cây cầu đơn điệu này, tui
hồi âm cho nó thư này cũng là lá thư cuối cùng, tui mất liên lạc với
thằng Cảnh từ đó.. Chiến
cuộc đã tàn, tui trở về xóm cũ nhằm tìm lại những kỷ niệm thời thơ ấu,
tìm lại thằng Cảnh để hàn huyên tâm sự, nhưng than ôi! Nhà nó đã dọn đi
lúc nào tui chẳng hay, hỏi thăm chung quanh chỉ biết Thím Hai dọn về
miệt Long khánh hay Bà rịa gì đó, hỏi tới thằng Cảnh trong xóm không một
ai biết tung tích của nó ở đâu, trong cơn loạn lạc thằng Cảnh như tan
biến vào hư vô không để lại một manh mối nào có thể lần ra nó được, nó
mất tích hoặc chết hoặc bị bắt làm tù binh, hay nó thất chí sống ẩn dật
nơi nào đã là một ẩn số không thể nào giải được . Cảnh ơi! Tao nhớ lắm những ngày xưa thân ái, mầy ác quá bỏ bạn bè không một lời nhắn không một dòng tin. Nếu
mầy còn hiện diện trên cõi đời này, mầy đọc được những chữ trong bài
này mầy phải cho tao biết mầy ở đâu. Còn như phần số định đoạt mà đã lìa
xa nhân thế thì tao mong mầy được yên vui nơi miền xa lắc xa lơ nào đó
nghe Cảnh ơi! Hai Hùng SG
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 18/Sep/2024 lúc 9:10am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 19/Sep/2024 lúc 8:25am |
Những Giọt Mưa Trên Vùng Đất Khô CằnNăm 1980 tôi bỏ vợ và cô con gái mới 13 tháng để đi vượt biên một mình. Chẳng biết vì may mắn ra sao mà tôi chỉ mất có hơn 4 tháng thì qua tới Mỹ. Cứ nghĩ, vào thời điểm ấy, chắc chẳng bao giờ còn gặp lại được vợ con. Thế là tôi nhắm mắt bắt đầu cuộc đời mới. Qua Mỹ tháng 8, tháng 9 tôi cắp sách đến trường, vừa đi học vừa đi làm. Được đồng bạc nào gởi hết về Việt Nam cho vợ con, qua những thùng đồ cần thiết nhưng giản dị. Những tờ 100 đô cuộn thật chặt, bó bằng giấy bạc, bọc trong bao ny lông, nhét dưới đáy cây kem đánh răng, hoặc trong hộp bánh, hay trong cái khe hở của chiếc máy c***ette giả trang, với những lời nhắn nhủ, “đồ kỷ niệm”, “quà sinh nhật cho con”… đừng bán. Ai dè, lại may mắn thêm một lần nữa, hơn một năm sau thì nhận được điện tín vợ báo “Anh ơi, em và con được tàu Úc vớt, mang vào Singapore”. Thế là vừa mừng vừa lo, chạy cuống cuồng. Gia tài có độc nhất hai cái thùng giấy, một thùng đựng quần áo, một thùng đựng sách vở. Vừa đi học, vừa đi làm bán thời gian, có nhiêu gởi về cho vợ con hết nhiêu, bên đây thằng chồng chỉ có trên răng dưới “bác”, ngay cả cái sổ nhà băng còn không có. Ăn thì ăn đường, ngủ thì ở cái shop may đồ gia công của mẹ thằng bạn. Trong túi chưa bao giờ có hơn mấy chục bạc. Vợ con qua tới biết sống sao ? Ở đâu ? Không lẽ kéo nhau núp ở đâu cả ngày, chờ tối đến, shop may đóng cửa mới mò về “nhà” ? Chân ướt chân ráo, qua Mỹ được hơn năm trời, mới học xong được 3 khóa, tín chỉ chưa được 50, bằng cấp thì không có, biết tính sao ? Hồi mới bước chân vào trường Đại Học năm trước, có hai
thằng kia nhỏ hơn tôi độ 2-3 tuổi, qua từ năm 1975 và đã đi học ở đây được gần
hai năm. Chúng nó có xe, có nhà mướn, có việc làm bán thời gian nhưng cũng chưa
được 5 đô/giờ. Hồi đó lương tối thiểu là $2.75/giờ. Hai thằng nó độc thân ky
cóp giúp đỡ tôi, lúc thì ly cà phê, khi thì lon nước ngọt.
Một thằng, mẹ nó có cái shop may nho nhỏ, ban ngày thợ đến may, ban tối họ về, mẹ nó thương tình cho tôi ở đỡ không lấy tiền. Cái này là sai luật pháp nhưng liều vì không tiền, biết sao ? Cũng may ở đó có cái bồn tắm nhưng khổ cái là không có máy nước nóng. Mùa hè thì còn đỡ, mùa đông vừa tắm vừa nhảy. Chưa đầy vài phút nhảy ra chui ngay vào trong cái túi ngủ. Khi được tin vợ con tôi chỉ mấy tuần nữa thì qua tới,
chúng nó chạy lăng xăng như gà mắc đẻ. Đứa tìm nệm cũ, đứa tìm giường tủ, đứa
xin được ít nồi niêu soong chảo, đứa khuân về bộ sofa lòi lò so, ngồi đâm đau cả
đít … Thằng Hải đến cái shop may tôi đang trú ngụ vào một buổi
tối, lừng khừng mãi, mới loay hoay moi trong túi ra xấp tiền, run run nói : “Tao
biết mày chẳng có tiền, mà vợ con thì sắp qua tới nơi. Tao để dành mấy năm nay
được 2 ngàn rưởi, tao cho mày mượn dằn cọc mướn nhà, dư chút đỉnh chợ búa và
mua sắm cho vợ con, còn ít thì phòng khi cần đến”. Tôi đứng há miệng chết trân, chẳng biết nói gì. Cái
thuở 1981 ấy hai ngàn rưởi nó to lắm. Giá một chiếc xe mới trung bình chỉ khoảng
6-7 ngàn. Tôi lại đang là cái thằng khố và áo, gom lại chưa đầy được cái thùng
giấy. Công ăn thì nhiều, việc làm thì chưa có. Học hành chưa tới đâu, tương lai
thì tối như mõm chó mực. Số tiền ấy to lắm. Tôi với nó chẳng thân thích gì, chỉ
biết nhau qua lại ở trường. Nó cho thằng trọc đầu vay tiền, thì có tóc hay chỗ
nào để nắm mà đòi lại ? Và khi nào thì trả ?
Nó chẳng nói gì nữa, cầm nắm tiền dúi vào tay tôi rồi bỏ ra về. Tôi đứng ngẩn ngơ, nước mắt đoanh tròng mà đầu óc trống rỗng. Hai chữ CẢM KÍCH không đáng để diễn tả. Hai tuần sau, chúng nó chạy đôn chạy đáo sau giờ học
đi tìm nhà mướn dùm cho tôi. Chúng nó mới có tín dụng để xin mướn nhà, chứ như
tôi, mướn cái chòi lá vẫn chưa đủ tư cách. Thằng Hải đi học cả ngày, buổi tối
làm nghề đổ xăng trong phi trường quá nửa đêm mới về, thế mà sáng nào cũng cùng
tôi đi lùng sục tìm nhà trọ. Rác rưởi thiên hạ bỏ đi, thì ba thằng lại khuân về
cái tổ quạ cũ và dơ dáy nhất thành phố ấy cho thằng bạn trang điểm để đón vợ
con. Hơn tuần nữa vợ qua, tôi đi nhận nhà. Ba thằng xúm lại
cuối tuần quét dọn, lau chùi và trang hoàng nhà cửa. Chúng nó khuân về cho mấy
bao gạo, ít đồ khô, và mắm muối i như kiểu cha mẹ lo cho con trai lớn ra ở
riêng.
Đến bữa ra phi trường đón, thằng Dũng chở tôi đi chờ chực cả tiếng đồng hồ mà không một lời phàn nàn. Làm xong thủ tục chở vợ chồng con cái tôi về nhà là nó biến ngay. Quay lại không thấy nó đâu, tôi mới chợt nhớ lời nó nói mấy hôm trước : “Vậy là từ nay chỉ còn hai thằng tao, mày về lo cho vợ con êm ấm nhé”. Giờ nhớ lại nghe buồn đứt ruột. Ngày vợ đến, mặc dù tôi đã định cư ở Mỹ được gần 1 năm rưỡi trời, nhưng vì chúi đầu vào sách vở, nên chẳng có gì ngoài hai cái thùng giấy. Vợ bước vào nhà đứng khựng lại mấy giây ngỡ ngàng. Mãi sau này nàng mới kể lại : “Lúc ấy, em thất vọng quá, nhìn vô trong nhà, trống hốc trống hoác từ trước ra tới sau. Ngoài tấm nệm cũ đặt thẳng dưới nền nhà và cái ghế sofa rách rưới cũ kỹ ra, thì chẳng có gì. Em không nghĩ được là anh đã làm gì gần hai năm nay ?”. Sau này nàng hiểu rằng, thằng chồng cu ky, cút kít, cắm đầu đi học lo cho tương lai, nên mới thế. Tình bạn giữa ba đứa chúng tôi không còn quá sâu đậm như hồi còn “độc thân” nữa vì giờ đã có “người khác” xen vào, nhưng nó lại có cái nhẹ nhàng sâu lắng của tình bạn chân thật ít có cơ hội gặp nhau vì chẳng bao lâu sau, chúng tôi chuyển trường, mỗi đứa một nơi. Thế rồi, đường đời cứ vậy trôi đi, chúng tôi học xong,
mỗi đứa dọn đi đến những vùng xa xôi hẳn, ít có cơ hội gặp lại. Cái món nợ hai
ngàn rưởi đó tôi đã thanh toán xong ít lâu sau đó, nhưng cái ân tình đó tôi còn
nợ đến tận thiên thu. Có lẽ chỉ khi nào từ bỏ cõi đời này thì món nợ ấy mới trả
đủ. Mỗi khi có dịp ghé về California, tôi lại tìm gặp những người bạn xa xưa.
Chúng nó giờ con cái đầy đàn, gia đình ấm êm hạnh phúc.
Chuyện cũ chẳng đứa nào nhắc lại bao giờ, nhưng riêng tôi thì có bao giờ quên được. Hôm nhận tiền trả nợ, Hải nói với tôi : “Ôi, ơn nghĩa gì, tình cảm trong đời nó phải như những giọt nước, bốc hơi bay lên trời, gom tụ đủ lại thì sẽ thành mưa, tưới xuống những mảnh đất khô cằn cho cây trái đơm bông”. Ghê thế đấy, cái triết lý của thằng nhóc qua Mỹ một mình mới hơn 20 tuổi đầu. NHỮNG GIỌT NƯỚC ĐÓ, TÔI VẪN CHUYỂN GIAO ĐI ĐẦY ĐỦ, BẰNG HẾT SỨC MÌNH, BỞI CÁI TẤM
CHÂN TÌNH ẤY HẾT ĐỜI NÀY TÔI CŨNG TRẢ CHƯA ĐỦ. Giao Thanh Phạm
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 19/Sep/2024 lúc 8:27am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 25/Sep/2024 lúc 3:09pm |
Thơ: KHÓC EM - Autumn Rose <<<<<<Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/Sep/2024 lúc 3:10pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 26/Sep/2024 lúc 8:49am |
Chuyện Tình Thời Mất NướcĐây là chuyện tình có thật 100/100 bao gồm cả vị trí, địa danh, không gian, thời gian và tên tuổi của nhân vật, được viết lại sau gần 40 năm miền nam Việt Nam thất thủ. Hy vọng chuyện này như một lời tâm sự với tuổi trẻ hôm nay về tình yêu và trách nhiệm trong hoàn cảnh hiện nay của đất nước. Mất nước là mất tất cả.
30 tháng 4 năm 1975 cộng sản chiếm Sài Gòn, hai ngày sau tôi quyết định trở lại Đà Nẵng để tìm lại mẹ và thân nhân đã thất lạc trong cuộc di tản ở Đà Nẵng ngày 29 tháng 3 năm 1975 khi cộng sản tràn vào thành phố. Nhờ ơn trên tôi đã tìm được mẹ và tất cả người thân trên con đường định mệnh này. Sum họp được với gia đình hai ngày thì tôi bị công an Đà Nẵng đến bắt tận nhà và đưa vào trại tạm giam Kho Đạn ở chợ Cồn/Đà Nẵng. Chuyện bắt bớ này diễn ra một cách bình thường và đơn giản, đơn giản đến độ người công an đến bắt tôi phải ngạc nhiên hỏi tôi rằng: Anh đã biết trước mình sẽ bị bắt? Tôi trả lời: Vâng, tôi biết. Anh ta nói tiếp: Tốt nhé, thế là anh đã biết tội của mình!? Tôi trả lời: Không phải vậy, tôi chỉ làm trách nhiệm cuối cùng của một người thua trận. Để tránh phải thấy cảnh chia ly bịn rịn của người thân tôi thúc anh ta: Thôi, chúng ta đi. Không hiểu anh ta có hiểu câu trả lời của tôi không, nhưng sau khi nhìn tôi bằng một ánh mắt kỳ lạ, anh ta đưa tôi ra xe và chở tôi vào trung tâm tạm giam Kho Đạn bằng chiếc Vespa tương đối còn mới (chắc là chiến lợi phẩm sau ngày chiếm được Đà Nẵng) của anh ta. Trên đường đi tôi hoàn toàn không quan tâm đến anh ta và sẽ đến đâu mà chỉ chú tâm dành chút thời gian còn lại ít ỏi của mình để nhìn Đà Nẵng vì tôi nghĩ rằng có thể đây là lần cuối cùng tôi thấy được thành phố thân yêu này. Tại trung tâm tạm giam Kho Đạn chợ Cồn, tôi bị giam vào nhà Bệnh Xá thuộc khu A (nhà nầy trước đây là bệnh xá của trung tâm cải huấn Chợ Cồn Đà Nẵng, sau khi cộng sản chiếm được Đà Nẵng, do số người bị bắt vào đây quá đông nên họ đã biến bệnh xá thành nhà giam để nhốt người). Nhà này và khu A của trại tạm giam tương đối dễ thở, có thể đi lại thông thương với nhau, và có thể tiếp xúc chuyện trò với nhau chút đỉnh, ban ngày thì dùng chung một dãy nhà vệ sinh, lối đi vào nhà vệ sinh là con đường luồng ở giữa (nằm sau lưng các phòng của khu A và bên hông của Bệnh xá). Ba khu còn lại là khu B, khu D (nhốt tù chính trị), khu C (nhốt tù hình sự) thì bị cách ly. Ngay ở đầu khu A, cách vọng gác và nội cổng của trại giam độ 5 mét (meter) có một cây mù-u, gốc lớn hơn vòng tay của một người và tán rất rộng, ban ngày tù nhân khu A muốn đi vệ sinh phải đi ngang qua cây mù-u này, còn ban đêm tất cả tù nhân phải đi vệ sinh ngay trong phòng của mình. Tù nhân khu A và Bệnh Xá thường dùng gốc cây này như một điểm hẹn để kín đáo trao đổi tin tức với nhau. Riêng đối với tôi, cây mù-u này giống như cây bồ đề của Đức Phật, là nơi tôi ngộ được tình yêu và tội ác là hai vấn đề mà trước đây đối với tôi vốn rất mơ hồ. Dưới gốc cây này tôi đã tìm được một bóng hình vĩnh viễn yêu thương và cũng ngay dưới gốc cây này tôi đã chứng kiến sự tàn ác giữa người với người qua cách đối xử của người cộng sản đối với tù nhân của họ. Chính tại dưới gốc cây này tôi đã nghe tên Bách, chính trị viên trung tâm trả lời với một người tù làm trật tự khu B (khu giam tù chính trị), khi người này báo cáo với hắn trong phòng số... khu B có người mới chết. Hắn đã trả lời: Anh báo cáo với tôi làm gì? Tụi nó chết như chó chết, gọi người lôi xác nó ra! Và ngược lại, cũng chính tại gốc cây này tôi đã thấy một "ánh mắt u buồn thế kỷ" của Nàng nhìn tôi trước khi Nàng và các bạn bị trói tay liên hoàn với nhau trên một chiếc GMC để đi lên trại tù Tiên Lãnh. Câu nói của tên chính trị viên và ánh mắt của Nàng là sức sống của tôi từ sau ngày mất nước (30/04/1975) đến nay và có thể là suốt cuộc đời. Tuần đầu trong tù, phần thì nhớ gia đình, phần thì bị thẩm vấn (Cộng sản gọi là đi cung) liên tục nên tôi không ra ngoài, đến tuần thứ hai, vào một buổi sáng, tôi được gọi đi nhận quà thăm nuôi lúc trở vào khi đi ngang qua cây mù-u tôi nhìn vào cuối khu A, nơi có phòng giam nữ thì thấy một cô gái dáng người thon cao, khuôn mặt trái xoan, da trắng, độ 19, 20 tuổi đang vừa chải tóc vừa nghiêng nghiêng mái tóc dài của mình để hong khô dưới ánh nắng ban mai của mặt trời, điểm đặc biệt đập vào mắt tôi lúc ấy là cô ta mặc bộ đồ bà ba trắng do đó nổi bật trong đám 5, 6 cô đang đứng trò chuyện xung quanh. Ngạc nhiên trước một hình ảnh quá trong sáng trong nhà tù, tôi quay lại hỏi anh trật tự (cũng là tù nhân), người dẫn tôi đi nhận quà: Anh T, mấy cô ấy nhỏ như vậy mà bị tội gì vào đây? Anh ta trả lời: Tôi cũng không "nắm chắc" (hồi đó tù nhân hay cố dùng từ cộng sản) nhưng đa số là tội hình sự, một số ít là làm sở Mỹ. Sợ anh ta học lại với cai tù nên tôi không hỏi tiếp và đi về phòng của mình. Suốt ngày hôm đó và cho đến sáng hôm sau, hình ảnh người con gái mặc đồ trắng đứng chải tóc trước cửa nhà tù cứ ám ảnh tôi hoài và hình như có một động cơ nào đó thôi thúc tôi phải tìm biết người con gái đó là ai và bị tội gì! Sau nhiều lần quan sát, biết các cô thường hay đi vệ sinh vào buổi sáng sớm ngay khi cửa phòng được mở, tôi chờ đến ngày thứ bảy (cai tù nghỉ việc), sau khi cửa phòng được mở, tôi ra đứng ngay dưới cây mù-u và đợi họ. Trời không phụ lòng tôi, chỉ độ mười phút sau tôi thấy cô bé bạn với cô gái áo trắng bước ra khỏi phòng để đi vệ sinh, tôi vội đi theo sau lưng cô ta, khi đến con đường luồng, nhìn trước sau không thấy ai, tôi vội nói: Cô bé. Cô ta dừng lại, nhìn lui và hỏi nhỏ: Anh gọi em? Tôi nói: Phải, em cứ tiếp tục đi đi, đừng dừng lại tụi nó nghi, cô gái áo trắng sao hôm nay không thấy ra ngoài? Cô ấy hỏi lại: Anh nói chị Nguyệt hả? Tôi nói Vâng. Không trả lời vào câu hỏi của tôi, cô bé vừa đi vừa nói: Để em nói lại với chị Nguyệt cho, thì ra mấy bữa nay em thấy anh cứ nhìn tụi em, té ra anh nhìn chị Nguyệt. Thấy có người đi sau lưng, chúng tôi chấm dứt câu chuyện và bước nhanh vào phòng vệ sinh. Vài phút sau tôi ra khỏi phòng vệ sinh, đi đến gốc cây mù-u giả vờ nói chuyện với bạn tù và chờ đợi. Quả nhiên sau khi cô bé về phòng chừng 5 phút, tôi thấy cô gái áo trắng bước ra khỏi phòng, nghiêng nghiêng mái tóc vừa chải tóc vừa dùng bàn tay trái còn lại vẫy nhè nhẹ về phía tôi. Đó là hình ảnh đầu tiên tôi quen biết với nàng, chỉ kéo dài chừng 3 phút nhưng nó ở lại trong tôi đến suốt đời. Kể từ sau hôm đó, tôi và Nàng ngày nào cũng chuyện trò với nhau bằng mắt qua một khoảng cách độ chừng 70 mét, tính từ cây mù-u đến cửa phòng tù của Nàng hoặc nhắn gởi, thư từ qua cô bé liên lạc viên mà sau này tôi đặt tên cho cô ta là "Chim Xanh". Thời gian đầu, thường chỉ là một lời nhắn ngắn gọn tỉ như: Anh khỏe không? Nhớ anh! Ra gốc mù-u... hay một câu rất ngắn viết trên một tấm giấy nhỏ xíu được vo tròn như hột đậu phộng, kẹp trong hai ngón tay, được cô bé "Chim Xanh" thả rơi trước mặt tôi khi đi ngang qua. Khó có ai có thể thấy được, hoặc có thấy họ cũng tưởng lầm rằng cô đó vất cục rác nhỏ. Thời gian sau chúng tôi bạo dạn hơn, viết dài hơn và đôi khi còn gởi cho nhau vài vật kỷ niệm nhỏ như chiếc nhẫn, vài viên xí-mụi, chai dầu Nhị Thiên Đường... Hoặc vài lời hứa hẹn vô vọng như: Nếu về được em sẽ đi thăm nuôi anh! Em sẽ chờ anh! Giữ gìn sức khỏe!... Và cứ như thế cuộc tình âm thầm nhưng hạnh phúc của tôi và Nàng êm trôi với sự giúp đỡ bí mật của "Chim Xanh". Khoảnh đất bé tí trước cửa sắt nhà tù của Nàng và gốc cây mù-u đối với hai đứa chúng tôi, đã trở thành thiên đường trong cái địa ngục xót xa này. Thì ra trong địa ngục vẫn có thiên đàng cho những người biết yêu thương nhau! Mặc dầu không ai nói với ai, nhưng cả hai, tôi và Nàng đều phập phồng lo sợ sẽ có một ngày bị chuyển trại. Chuyện gì phải đến rồi cũng đến, đó là một buổi sáng mùa thu tháng Tám (8/1975), sau khi cửa phòng được mở, như thường lệ tôi đi qua nhà bếp ở khu A để kiếm nước sôi về khuấy càfê thì nghe các anh bạn tù nơi đây to nhỏ với nhau: "Hôm nay có chuyển trại" (thường thường tù nhân làm tại nhà bếp hay thạo tin tức trong trại giam vì họ được cai tù thông báo trước để chuẩn bị phần ăn cho tù nhân trong ngày), tôi vội đi tìm anh trưởng bếp đang đứng gần các chảo cơm và hỏi: Anh H, hôm nay có chuyển trại hả? Anh ta nói: Hình như vậy, tụi anh đang chuẩn bị phần cơm cho họ đây. Tôi hỏi tiếp Đông không anh? Khu nào vậy? Anh ta trả lời: Phòng nữ, đông. Nghe vậy tôi hoảng hồn vất ly nước nóng đang cầm và chạy về phòng mình với ý định viết thư báo cho nàng biết. Sau khi viết vội trên tấm giấy nhỏ mấy chữ "hôm nay phòng nữ có chuyển trại" vò nhỏ lại, kẹp trong hai ngón tay và đi ra cây mù-u đứng chờ "Chim Xanh" để gởi cho nàng. Nhưng đã không còn kịp nữa, chắc có lẽ vì có chuyển trại nên cánh cửa sắt phòng nữ không được mở như thường lệ, nó vẫn còn bị đóng im ỉm. Từ xa nhìn đến, tôi thấy có nhiều cánh tay thò ra ngoài khung cửa sắt vẫy vẫy một cách vô vọng như những người chết đuối cố gắng vẫy tay kêu cứu lần cuối cùng trước khi chìm sâu dưới dòng nước, một trong những cánh tay đó có tay áo màu trắng, chắc là của nàng! Độ khoảng gần một tiếng đồng hồ sau, nội cổng của trại giam mở, một tốp cai tù độ 4, 5 tên đi vào, tên đi đầu có cầm một cuốn sổ khá lớn, bọn chúng đi thẳng tới nhà giam nữ và dừng lại trước cửa, sau đó cửa sắt được mở và chúng bắt đầu gọi tên những người bị chuyển trại, đây là giây phút lo sợ nhất của tù nhân, ai ở lại, ai đi được quyết định vào lúc này (ở lại thì có hy vọng được về còn nếu bị chuyển đến trại tù lao động thì ngày về là vô vọng bởi vì họ là những người tù không án). Tôi vì đứng ở xa nên không nghe được mà chỉ thấy từng cô bị gọi tên bước ra khỏi phòng giam, ngồi xếp hàng trước cai tù và Nàng là người số 8 bước ra khỏi phòng. Vẫn bộ đồ bà ba trắng như mọi ngày, tay xách chiếc xắc nhỏ, vừa bước ra khỏi cửa ánh mắt đầu tiên của nàng là hướng về cây mù-u, thấy nàng bước ra, tôi như người mất hết sức lực, vội dựa vào gốc mù-u để đứng cho vững, chăm chú nhìn nàng bước ngang qua hai tên cai tù và đến ngồi sau lưng cô bạn tù ra trước. Vì vướng những người tù ra trước và bọn cai tù nên tôi không thể thấy được gương mặt của nàng sau khi Nàng ngồi xuống mà chỉ thấy tay phải của nàng chốc chốc lại dùng ngón tay trỏ viết viết mấy chữ gì đó trên mặt đất, tôi biết Nàng cố viết để cho tôi đọc nhưng vì quá xa nên tôi không đoán ra được Nàng muốn nhắn lại điều gì. Cuộc điểm danh kéo dài độ 30 phút, sau đó chúng đóng cửa phòng, bắt các cô đứng dậy xếp hàng một, đếm lại một lần nữa trước khi dẫn họ ra chiếc xe GMC đậu sẵn trước nội cổng của trại giam. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng hai đứa chúng tôi được thấy nhau gần nhất, ánh mắt u buồn tuyệt vọng của nàng nhìn tôi, khi đoàn người đi ngang qua cây mù-u đã vĩnh viễn theo tôi trong suốt những năm tháng còn lại của cuộc đời. Như có một linh tính, sau khi nàng vừa khuất sau cánh cửa sắt của trại, tôi vội chạy vào con đường luồng đi vệ sinh để đến phía sau phòng giam của nàng, tôi mừng rỡ khi thấy trong hố đựng phân phía sau của phòng nàng có một mảnh giấy học trò gấp đôi chìm trong phân và nước, biết đó là thư của nàng để lại cho tôi, tôi vội nhặt lên và bỏ nhanh vào túi áo bất kể nó dơ dáy như thế nào. Sau đó tôi giả vờ đi vệ sinh và dùng nước trong nhà cầu để rửa sạch bức thư. Trong thư nàng chỉ viết vỏn vẹn có mấy câu như sau (nguyên văn) Anh, Em vì không chịu làm vợ của công an phường nên bị vu vạ là gái mại dâm và bị bắt đi cải tạo phục hồi nhân phẩm. Nếu không giải được oan nhục này em sẽ chết. Mộng được đi thăm nuôi anh chắc không thành, mong anh giữ gìn sức khỏe, vĩnh biệt anh. Yêu anh - Em. Đọc xong thư, như người mất hồn, tôi vội chạy ra nơi nội cổng của trại giam hy vọng được nhìn thấy nàng lần cuối, nhưng đối diện với tôi là tấm cửa sắt đóng kín mít lạnh lùng và cặp mắt xoi mói, hung ác của tên cai tù trên vọng gác đã trả tôi về với thực tại thân phận của một tù nhân. Để tránh sự nghi ngờ của tên cai tù trên vọng gác tôi vội rẻ hướng đi về phía nhà bếp, giả vờ xin nước sôi để chế mì gói và đi trở về phòng của mình. Công việc đầu tiên sau khi tôi trở về phòng là dùng ly nước xin ở nhà bếp để rửa bức thư của nàng thêm một lần nữa, lấy áo thấm cho thật khô và cất nó vào giữa lớp áo quần mang theo của tôi. Đây là kỷ vật duy nhất của nàng để lại cho tôi, tôi không thể mất nó như đã mất nàng. Sau đó tôi lân la qua khu A dò hỏi về chuyến đi của nàng thì được biết nàng bị chuyển lên trại tù Tiên Lãnh thuộc huyện Tiên Phước tỉnh Quảng Nam/Đà Nẵng. Từ đó mặc dầu trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng nhưng tôi vẫn hy vọng sẽ có một ngày tôi được đoàn tụ với nàng hay ít nhất là biết được tin tức của nàng. Vào khoảng tháng 3 năm 1976 tôi bị chuyển lên trại tù An Điềm thuộc quận Thượng Đức, Tỉnh Quảng Nam/Đà Nẵng, trước khi đi, vấn đề lo lắng nhất của tôi là bức thư của nàng, tôi biết chắc rằng qua mỗi lần chuyển trại, khi đến trại mới tù nhân bị lục soát rất kỹ dù một cây kim cũng không lọt qua được những cặp mắt cú vọ của cai tù, phương pháp tốt nhất là cứ bày ra cho họ thấy để họ không để ý đến thì mới lọt qua sự kiểm tra của họ được, nghĩ vậy nên tôi liền chặt đôi tán đường đen sẵn có, dùng lá thư của nàng gói một mửa tán, trước đó tôi không quên làm nhàu bức thư và lấy nước thấm ướt tán đường để màu vàng của đường thấm vào bức thư làm cho bức thư giống như một tấm giấy cũ thông thường được gói bởi người bán đường khi gia đình tôi mua nó để đi thăm nuôi. Nhờ phương pháp này mà tôi đã giữ được bức thư sau không biết bao nhiêu cuộc tra xét của cai tù trong suốt 12 năm 6 tháng cho đến ngày về. Lên trại tù An Điềm chưa được bao lâu thì đến khoảng tháng 7 năm 1976 tôi bị đưa lên trại Tiên Lãnh để học chính trị cùng với một số bạn tù khác. Lúc đó tôi nghĩ rằng đây là dịp may hiếm có để tôi có thể gặp được nàng nhưng định mệnh thật khắt khe đối với tôi, với chuyến đi này tôi biết tôi đã mất nàng vĩnh viễn, hai chữ "vĩnh biệt" mà nàng đã viết trong thư trước đây, khi nàng rời trại tù Kho Đạn ở chợ Cồn cứ nhảy múa trước tôi hằng đêm, mỗi khi tôi nhắm mắt cố dỗ giấc ngủ của mình. Số là sau hai tuần ở Tiên Lãnh, trong những lần đi chuyển củi về cho trại tù tôi đã tìm ra được khúc sông mà các nữ tù nhân ở phân trại nữ thường hay ra tắm, trong một lần chuyển củi ngang qua đây, nhìn xuống các cô đang tắm tôi thấy được cô bé Chim Xanh trong bọn họ, khi đi gần đến bờ sông cách bọn họ độ 5 mét tôi giả vờ vấp té và làm cho mặt mình lấm đất để đến bờ sông rửa mặt. Trong lúc rửa mặt tôi hỏi cô bé liên lạc viên (cô đã nhận ra tôi và lội đến gần hơn): Chị Nguyêt đâu? Cô ấy trả lời: Chị Nguyệt đã uống Cloroquin tự tử chết rồi! ba tháng sau khi lên đây. Trong lòng bàn tay của chị có tên anh. Nói xong cô ấy vội lội ra xa và quay mặt lại nhìn tôi với dòng nước mắt. Mọi thứ trước mặt tôi trong lúc đó bỗng chập chờn, mờ nhạt chỉ còn lại hình ảnh hư ảo của một cô gái thon cao, mặc nguyên bộ đồ bà ba trắng, một tay chải mái tóc dài và một tay nhè nhẹ vẫy về phía tôi, Biết là mơ, tôi vội vén vạt áo tù lên lau vội khuôn mặt đầy nước của mình, chậm rãi đi về phía cây củi, vác nó nên và đi về trại. Chưa bao giờ có một vật nào đè nặng trên vai tôi như cây củi ngày hôm đó. Chiều hôm đó tôi chỉ ăn một nữa phần cơm của tôi, nữa kia tôi bỏ vào trong cái lon Guizgo cất ở đầu nằm, đến tối sau khi họp hò kiểm điểm xong, đèn trong phòng đã tắt, trước khi đi ngủ tôi lấy xấp áo quần có bức thư của nàng bên trong để trên đầu nằm, sau đó để lon cơm và nửa tán đường kế bên, lấy ánh trăng Thu xuyên qua khung cửa tù làm đèn, lấy tiếng gió rừng rít qua mái nhà tù làm lời khấn để cầu nguyện cho nàng và thiếp đi theo dư âm tiếng hát của nữ ca sĩ Mai Hương từ một nơi xa xôi nào đó vọng về: Nhớ tới mùa thu năm xưa gửi nhau phong thư ngào ngạt hương Nét bút đa tình lả lơi Nhớ phút ngập ngừng lòng giấy viết rằng Chờ đến kiếp nào Tình đầu trong gió mùa Người yêu ơi Em nay về đâu? Phong thư còn đây Nhớ nhau tìm trong ánh sao ..................................... Nhớ tới ngày nào cùng bước đến cầu Ngồi xõa tóc thề Còn đâu ân ái chăng người xưa?(*) Đến khoảng cuối tháng 9/1976 tôi bị chuyển về lại trại tù An Điềm và ở đó cho đến ngày ra tù vào cuối tháng 7/1987. Tháng 6/1988 tôi từ Huế ra Hải Lăng/Quảng Trị để đi vượt biên bằng ghe đánh cá, chuyến vượt biên này không thành, ghe chạy gần đến đảo Hải Nam thì bị chết máy, trôi lênh đênh giữa biển 5 ngày và cuối cùng dạt vào bờ biển Đồng Hới ngay trước đồn công an. Trong khi chờ công an Đồng Hới ra kéo tàu vào bờ, tôi suy nghĩ thật nhiều về bức thư của Nàng, tôi biết lần này bọn công an sẽ lục soát rất kỹ kể cả bắt người phải hả họng, lè lưỡi hoặc cởi áo, cởi quần để chúng khám vào chỗ kín với mục đích tìm vàng của người vượt biên mang theo, tôi cũng không muốn đốt hoặc xé bỏ bức thư vì làm như thế là có lỗi với Nàng và xem như khai tử mối tình của Nàng và tôi, cuối cùng tôi quyết định lấy bức thư của Nàng gói tấm thẻ bài của tôi (là hai kỷ vật độc nhất tôi đem theo khi đi vượt biên) buộc lại bằng một sợi giây sắt nhỏ sau đó thả xuống biển với hy vọng đại dương bao la và sâu thẳm sẽ vĩnh viễn che chở cho mối tình của hai đứa. Hôm nay gần 40 năm sau, tôi ngồi viết những dòng chữ này như một phần để thực hiện lời hứa đối với nàng trong những ngày đầu thương nhau: Oan này anh rửa cho em Tình này anh sẽ theo em suốt đời Nguyệt ơi! Bởi vì em là Nguyệt Nên có chuyện mù-u Bởi vì em là Nguyệt Nên có tình thiên thu.
Ai đem Trăng nhốt vào tù Để anh dựa gốc mù-u* một đời Thương nhau không nói thành lời Nhìn nhau tím cả một trời xa nhau Em ơi, thương nhớ không màu Làm sao đếm được sắc màu nhớ thương Từ em lệ mắt còn vương Tim anh đã biết sầu thương một người Từ em mười chín đôi mươi Tim anh đã biết đầy vơi tình người Vắng em anh chết nụ cười Vắng em anh mất dáng người trăm năm Đêm sâu nơi chốn em nằm Cỏ cây hoa lá về thăm mộ nàng Anh từ tàn cuộc khăn tang Phủ lên nấm mộ em tàn ước mơ Bao giờ cho đến bao giờ Tình em trở lại bến bờ nhân gian Bao giờ cho đến bao giờ Tình anh mới hết đợi chờ kiếp sau.
Em ơi sao chẳng chờ nhau Để anh sống với nỗi đau nghìn trùng. Lê Dủ Chân |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 27/Sep/2024 lúc 9:41am |
Vị ân nhân giấu mặt
Năm ấy – đang giữa kỳ thi học kỳ II, em nghe tin anh bị thương đang nằm ở bệnh viện dã chiến Pleiku. Còn 1 môn Thẩm mỹ văn chương nữa mới hết kỳ thi, em nóng lòng như lửa đốt, chuẩn bị vali đi thăm anh. Giao Chi – cô bạn thân cùng phòng – ngạc nhiên: – Mi định bỏ thi à Hải Sa? Thiếu một môn là bỏ cả năm học đấy. Thi xong rồi hãy đi. Nhưng em còn bụng dạ đâu để thi. Em biết gia đình anh đơn chiếc, chỉ còn một Mẹ già và một cô em gái út 15 tuổi. Chắc là việc đi thăm nuôi cũng khó khăn. Thôi thì có trễ học 1 năm cũng không sao. Con gái mà, đâu phải như con trai thời chiến, trễ học 1 năm là đi vào quân trường. Chỉ tội Ba Mẹ, thôi thì phải tìm cách nói dối chứ biết làm sao. Thế là em mua vé máy bay lên Pleiku. Thành phố Pleiku hồi ấy bé tẹo. Loanh quanh vài ba đường phố đất đỏ. Trời nắng mỗi lần xe nhà binh chạy qua thì bụi bay đỏ trời, trời mưa thì bùn đỏ bắn lên đầy hai ống quần. Em tìm bệnh viện dã chiến không khó khăn mấy. Đến nơi thì anh cũng vừa tỉnh lại sau khi phẫu thuật. Anh xanh xao và gầy, cứ nhìn anh là nước mắt em lại chảy dài. Anh cầm tay em, bàn tay anh nóng hổi vì cơn sốt: – Hải Sa đang học sao lại lên đây? Bé Vy báo cho em biết à? Em gật đầu: – Vy bảo bác gái sẽ lên sau. Ngập ngừng một chút rồi em nói dối: – Sa thi xong rồi. Anh nhìn em ái ngại: – Em đi một mình, anh không yên tâm. Bây giờ em ở đâu? – Cũng gần đây thôi. Thành phố bé tẹo mà anh. Nhà cô ruột em. Khuôn mặt anh dãn ra. Hình như anh thấy yên tâm một chút. Em đi đánh điện cho mẹ anh biết anh đã ổn để bà yên lòng. Mấy ngày em cứ chạy đi chạy lại giữa nhà cô Tám và bệnh viện để chăm anh. Ngày thứ ba mẹ anh lên. Cũng là lúc em nhận được điện tín của Giao Chi. Chi bảo em thu xếp đi ngay vào Sài Gòn tìm đến nhà thầy Khôi xin thi môn Thẩm mỹ văn chương, vì bác thư ký của khoa bảo vẫn còn kịp để tổng kết điểm. Thế là em đi. Yên lòng hơn một chút vì mấy ngày sau thấy anh đã hết sốt, khoẻ hơn một chút. Anh cũng đã ngồi dậy được để nói chuyện với em. Ở bệnh viện mấy ngày mà đầu óc em cứ choáng váng khi thấy cứ một ngày trôi qua là không biết bao nhiêu người lính bị thương được chuyển về. Cũng không ít người ra đi vĩnh viễn khi thân nhân còn chưa kịp đến. Tụi bạn em bảo không thích có người yêu là lính, cứ kiếm anh nào yên vị ở hậu phương thì gật đầu, chứ làm người yêu, rồi làm vợ lính thì dễ làm goá phụ trẻ quá. Tình yêu mà cứ tính toán kiểu cân đo đong đếm thì còn gì là tình yêu nữa. Em chỉ cười, không nói gì. Âu cũng là một quan niệm sống khôn ngoan và thực dụng. Từ Pleiku, anh gửi em đi nhờ máy bay quân sự vào Sài Gòn, vì không có thời gian để chờ mua vé nữa. Đúng là máy bay quân sự, dằn xóc khiếp. Em ngồi bên một bà mẹ từ Sài Gòn lên hỏi thăm tin tức đứa con trai được đơn vị báo về là mất tích trong một trận đánh. Nhưng lên tận đơn vị vẫn không có tin tức gì khả quan hơn. Người ta cho bà cụ lãnh tiền tử rồi về lại Sài Gòn. Ngồi bên cạnh thấy bà cứ thỉnh thoảng đưa khăn tay lên lau nước mắt, em thấy lòng se thắt, cũng chẳng biết nói gì để an ủi cụ. Nỗi đau quá lớn, không có ngôn từ nào xoa dịu nỗi đau. Hình ảnh bà cụ làm em nhớ mẹ em. Cách đây 3 năm, anh em cũng mất tích trong một trận đánh ở miền Trung. Anh Quân là lính nhảy dù, nghe nói bị thương trong khi nhảy từ máy bay xuống, nhưng khi đơn vị thu dọn chiến trường tìm kiếm thì không có anh. Mẹ em khóc nhiều, lúc nào cũng thấy bà cầu khẩn lâm râm trước bàn thờ Phật và Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Mẹ nguyện ăn chay trường để tạo phước mong anh Quân trở về. Mẹ tin theo quan niệm của người đời: “Con trai nhờ đức mẹ”. Một tháng sau ngày được tin anh Quân mất tích, có một người con gái mang bụng bầu khá lớn đi vào cổng nhà em. Hôm đó chỉ có mình mẹ ở nhà. Cô gái giới thiệu là Loan – người yêu của anh Quân. Và cũng cho mẹ biết đứa con cô đang mang trong bụng là giọt máu của anh Quân. Là một người hiền lành nhân hậu, mẹ hết lòng lo cho cô gái. Nhất là khi biết chị ấy không có cha mẹ, chỉ còn một người chị gái đã có gia đình ở Đà Nẵng. Bản thân chị ấy là thư ký cho một công sở trong thành phố quê em, và đang thuê nhà sống một mình. Ngày chị Loan sinh bé trai, mẹ vui như anh Quân sống lại, vì đứa bé rất giống anh. Từ đó chị Loan trở thành một thành viên của gia đình. Tuy không cưới hỏi nhưng mẹ vẫn xem chị ấy như vợ chính thức của anh Quân. Vào Sài Gòn, em chạy ngay đến địa chỉ nhà thầy giáo môn Thẩm mỹ văn chương. Cũng may gặp thầy Khôi ở nhà. Thầy Khôi tuy dạy chính thức ở Văn Khoa Sài Gòn, nhưng là giáo sư thỉnh giảng ở trường em.Thấy em tay xách nách mang hành lý, thầy ái ngại hỏi: – Vì lý do gì em bỏ thi? Em chân thật trình bày lý do với thầy giáo. Thầy tỏ ra thông cảm và bảo em ngồi nghỉ mệt một lát rồi thầy sẽ ra đề thi. Sau khi làm bài xong em ngồi đợi thầy chấm xong sẽ báo điểm cho phòng giáo vụ của trường đại học nơi em học. May quá em đã đủ điểm để tổng kết năm học và hoàn tất các chứng chỉ. Em về quê nghỉ hè, cùng lúc nhận được thư anh báo tin sẽ được về nghỉ dưỡng thương một tháng. Vậy là chúng mình sẽ được gặp nhau ở thành phố quê nhà. Chị Thu – chị kế em – cũng là giáo viên nên cũng đang nghỉ hè. Cả ngày rảnh rỗi hai chị em bày ra làm món nầy món nọ ăn cho vui. Một ngày mưa giữa mùa hè, thấy mát trời chị Thu đề nghị đổ bánh xèo. Chị ngâm bột rồi đem đi xay. Để chuẩn bị cho món rau sống ăn kèm, em ra vườn cắt rau. Anh và em ngồi nhặt rau, anh nói: – Sao Hải Sa không cắt rau dấp cá? Em ngạc nhiên: – Ủa, anh ăn được rau dấp cá từ bao giờ thế? – Từ khi đi lính. Vào lính thì ăn được tất. Rồi anh cười nhại một thành ngữ đang thịnh hành hồi đó: – Lính mà em! Chị Thu đi xay bột về, vừa đổ bánh xèo vừa xuýt xoa: – Giá mà có nấm mối nữa thì tuyệt quá. – Chị nầy lạ, lấy đâu ra nấm mối giữa mùa hè? Em nói thế nhưng trong lòng thì nhớ những mùa Đông, sau những ngày mưa, trời tạnh hanh khô và se se lạnh, nấm mối mọc dày ở các bụi tre sau vườn. Sáng sớm thức dậy ra vườn tìm nấm mối cũng là thú vui của hai chị em. Nhổ nấm mối phải nhổ từ sớm, nếu không nấm sẽ nở hết và tàn rất nhanh. Nấm mối ngon ngọt hơn khi còn là búp, đổ bánh xèo rất ngon, nấu canh với lá rau khoai cũng rất ngon. Đó là món ngon của đất trời không có gì bì kịp. Những mùa Đông ở Huế, mưa dai dẳng và buồn. Có những lúc mưa kéo dài cả mấy tuần lễ, ra đường lúc nào cũng áo mưa lướt thướt. Ngủ thì thôi, lúc nào thức giấc cũng nghe tiếng mưa rơi rả rích trên tàn lá nhãn bên cửa sổ phòng trọ, em và Giao Chi nằm nhớ món bánh xèo nấm mối, món quà của thiên nhiên xứ Quảng quê nhà. Hai đứa đắp chăn và tưởng tượng món bánh xèo bốc khói thơm lừng trước mặt. Em và Giao Chi thân nhau và sở thích cũng giống nhau. Hai đứa rất thích bánh pate chaud mua ở Savier, ăn bánh pate chaud nóng lang thang trong chiều mưa phùn rả rích ở Huế là thú vui của hai đứa, cũng như ăn chè bắp ở cồn Hến những ngày hè nóng nực. Đang lúc em nghĩ đến Giao Chi thì chị Thu nói: – Sao Hải Sa không mời Giao Chi đến ăn bánh xèo? – Hắn đi Sài Gòn thăm chị ruột rồi chị Thu. Thật ra Giao Chi vẫn đang nghỉ Hè ở Đà Nẵng quê nhà. Nhưng em biết Giao Chi không thích anh, vì Giao Chi vẫn có ấn tượng anh có vẻ nghệ sĩ, và cả quá khứ nhiều bồ bịch của anh. Giao Chi sợ em khổ vì tính tình nghệ sĩ phóng đãng của anh. Giao Chi nhiều lần góp ý với em khi em quen anh. Nhưng biết nói thế nào nhỉ, một khi em đã nghe thấy trái tim mình đang chống lại mọi lý lẽ của lý trí. Giao Chi nhiều lần khuyên em không được tỏ ra thất vọng. Hắn nhún vai nói một câu giận dỗi: – Sau nầy mi có khổ đừng có trách tau. Giao Chi ơi, chắc mi cũng biết câu danh ngôn nổi tiếng: “Trái tim có những lý lẽ mà lý trí không thể nào hiểu được”. Em thầm cảm ơn Blaise Pascal đã nói thay những uẩn khúc trong lòng mình. Em nhớ mãi mùa Hè thiên đường ấy. Giữa thời chiến đôi ngày phép cũng khó khăn. Thế mà chúng mình được ở bên nhau đến gần một tháng. Nói thì nghe bất nhẫn, nhưng nếu không có cái lần anh bị thương ấy thì sẽ không có những ngày phép thiên đường. Đêm cuối cùng trước khi lên đường anh dắt em lên sân thượng nhà anh. Đó là một đêm trăng nửa vành, trông giống hệt như chữ D (Duy) tên anh. Em còn nhớ đó là đêm mùng Tám âm lịch. Từ trên cao trăng thật sáng, mùi hoa dạ lý hương nồng nàn trong đêm. Tiếng dương cầm nhà ai đang chơi bản Sonate Ánh Trăng của Beethoven. Cảnh và tình thật hoà hợp. Em tựa đầu vào vai anh lắng nghe âm thanh diệu kỳ ấy và nghĩ giá như thời gian cứ ngưng đọng mãi như lúc nầy. Anh nói: – Anh không dám nghĩ gì về tương lai, cũng không dám hứa hẹn gì với em cả. Anh có tất cả 5 thằng bạn thân lần lượt nhập ngũ trước và sau anh, giờ chỉ còn anh và 2 thằng bạn thân nhất. Chú ruột anh là người có vai vế đang vận động cho anh về một binh chủng không trực tiếp ra trận. Bị thương lần nầy có hy vọng anh sẽ được thuyên chuyển. Khi nào về được binh chủng khác mình sẽ tính tiếp nghen Hải Sa. Em cứ học cho giỏi, sang năm ra trường về được nhiệm sở tốt là được rồi. Em chỉ ậm ừ mà nghe lòng đau nhói. Cuộc chiến đang vào giai đoạn khốc liệt, tình yêu đi liền với nỗi chết. 2 tháng sau em được tin anh đã thuyên chuyển sang đơn vị Công binh, phù hợp với chuyên môn của anh hồi học đại học. Tháng 2 năm 1975 cuộc chiến rơi vào thời kỳ kết thúc, em đang học ở Huế, anh đang cùng đơn vị đóng quân ở Nha Trang. Hàng ngày thấy từng đoàn người bồng bế nhau lũ lượt từ Quảng Trị chạy vào Huế rồi đi dần vào các tỉnh trong. Đêm đêm đại bác dội về làm rung rinh cửa kính. Nhiều đêm em không ngủ được. Chị Thu và mẹ em kể tháng Tư anh chạy về Đà Nẵng tìm em, tính đưa em vào Sài Gòn đi Mỹ cùng anh và gia đình, nhưng không gặp. Lúc đó em cùng Giao Chi từ Huế chạy vào sau khi trường cho sinh viên nghỉ học lấy chỗ cho người dân Quảng Trị tạm thời tá túc. Không gặp em, thời gian cũng không kịp để anh chạy ra Huế, thế là anh cùng gia đình ra đi. Chúng mình mất liên lạc với nhau từ đó. Sau 1975, gia đình em và chị Loan mong mỏi biết đâu anh Quân còn sống sót sẽ trở về. Ngày tháng qua, bóng anh Quân vẫn biền biệt. Em và Giao Chi trở lại Huế, gặp lại bạn bè. Đứa nào đứa nấy ngơ ngác sau một biến cố nghiêng trời lệch đất của đất nước. Nghe các thầy nói khóa 1975 của bọn em sẽ không thi tốt nghiệp mà cho hợp thức hóa để ra trường. Một phần vì số lượng giáo sư cũng không còn đầy đủ, người chết vì bom đạn, người chạy vào Sài Gòn, người chạy ra nước ngoài… Em nhận nhiệm sở về dạy ở thành phố quê nhà, hằng ngày yên phận làm một ‘giáo viên nhân dân’ trong chế độ mới. o O o 25 năm sau biến cố 1975, Hải My – con gái đầu lòng của Hải Sa đi du học Mỹ. Hải My học giỏi nhưng chỉ nhận được một học bổng ít ỏi 50% của một trường đại học. Hải Sa lo lắm nhưng chị không biết làm thế nào để Hải My bỏ giấc mơ du học. Chồng qua đời, đồng lương giáo viên ít ỏi cùng với những thu nhập từ nghề tay trái cũng không thể nào bù được cho Hải My số tiền còn lại. Hải My hứa với mẹ là sẽ đi làm thêm để mẹ yên lòng. Tuy không được học bổng toàn phần nhưng Hải My vui lắm. Hải Sa không nỡ bóp chết niềm vui của con nên đành để con đi. Nửa năm sau Hải My báo về cho mẹ tin vui, kết quả học tập của cô bé cao nên có một nhà tài trợ giấu tên nhận cấp học bổng cho Hải My từ bây giờ cho đến khi ra trường. Hải Sa thở phào nhẹ nhõm, trong lòng cô thầm cảm ơn vị Mạnh Thường Quân giấu mặt. Chị thường ước ao một ngày nào đó chị được gặp vị ân nhân kia để nói một lời cảm ơn tận đáy lòng. 4 năm trời trôi qua, ngày Hải My ra trường đã đến. Nhận được giấy mời của nhà trường qua Mỹ dự lễ tốt nghiệp của con, Hải Sa vui và hồi hộp đến mức không ngủ được. Hải My học giỏi nên tuy mới tốt nghiệp đã có một công ty nhận cấp visa cho cô bé ở lại Mỹ làm việc và học tiếp lên cao học. Hải Sa còn vui hơn khi nghe con nói đã khẩn khoản nhờ nhà trường mời được vị ân nhân giấu mặt, giấu tên kia đến dự lễ tốt nghiệp để cô bé nói lời cảm ơn. Trong buổi lễ tốt nghiệp ấy Hải Sa đã gặp lại Duy – người yêu năm xưa – tình yêu đầu đời của chị trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt nhất. Thì ra Duy là người âm thầm giúp đỡ cho Hải My như đã nhấc đi gánh nặng cuộc đời ra khỏi đôi vai chị. Đáp lại lời cảm ơn nghẹn ngào của Hải Sa, Duy cầm bàn tay người yêu năm xưa thì thầm: – Hải My cũng như con của anh, phải không em? Nếu như không có cuộc chiến tranh ngày ấy… Vương Hoài Uyên Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 27/Sep/2024 lúc 9:58am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 28/Sep/2024 lúc 8:05am |
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Sep/2024 lúc 8:24am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 100 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |