Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: NIỀM TIN & HY VỌNG&GƯƠNG TỐT&CHIA SẼ Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 147 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23873
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Nov/2020 lúc 8:50am

CÁM ƠN NƯỚC MỸ


thankusa1
Trong cuộc sống đa đoan và nhiều thăng trầm, trắc trở của tôi, biết bao nhiêu kỷ niệm, biến cố đã trôi qua trong đời kể từ ngày tôi bám vào chiếc xe ba bánh, xa ngôi làng Mã Châu, xã Xuyên Châu, Quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam thân thuộc.

Những vui, buồn, hy vọng, tuyệt vọng đã đến và đi trong đời sống nhiều đến nỗi tôi không thể nào nhớ hết. Thế nhưng, tôi sẽ không bao giờ quên được những tháng ngày đầu tiên của tôi trên đất Mỹ.

Trong trí nhớ của tôi vẫn còn in đậm hình ảnh chiếc Boeing bay ngược chiều kim đồng hồ đưa chúng tôi từ Manila đến phi trường Chicago vào một ngày cuối tháng 11 năm 1981. Giọng người nữ tiếp viên hàng không êm ái cất lên lời tạm biệt. Tôi không hiểu hết nhưng đại khái biết rằng cô ta vừa chào mừng chúng tôi sắp đặt chân lên đất Mỹ.
Tôi tự nhủ, “quãng đời lưu vong thật sự sắp bắt đầu”. Bên ngoài trời đẹp nhưng xa lạ.

Như lời bà hướng dẫn viên người Phi dặn dò trước khi lên máy bay, chúng tôi, tay cầm chặt chiếc túi đựng hồ sơ tỵ nạn có chữ ICM thật lớn, sắp một hàng dài dọc theo hành lang phòng đợi để khỏi bị lạc.

Người đầu tiên ra đón chúng tôi ở phi trường Chicago là một cô gái Việt trẻ đẹp, có lẽ còn là sinh viên và đang làm việc cho cơ quan thiện nguyện. Một ông Mỹ già đẩy đến cho cô ta một thùng áo quần và lặng lẽ bỏ đi.
Theo lịch trình đã được ấn định trước, tại Chicago chúng tôi sẽ được cấp phát áo ấm mùa đông trước khi chuyển máy bay về địa điểm định cư cuối cùng trong hành trình tỵ nạn.
Trạm cuối của tôi là Boston.Tôi biết và kính trọng thành phố Boston văn hóa lịch sử, qua nhiều môn học, nhưng chưa bao giờ nghĩ có một ngày sẽ là nơi tôi gửi gắm phần đời còn lại của mình.

Người con gái đẹp mà tôi không dám hỏi tên, phát cho mỗi người trong đoàn chúng tôi một chiếc áo ấm. Tất cả đều cùng một cỡ như nhau. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn chiếc áo ấm dày cộm rộng thùng thình hoàn toàn tương phản với bầu trời nắng chang chang bên ngoài.

Hiểu ý, với giọng Huế nhẹ nhàng, người đẹp dạy cho chúng tôi, những lưu dân đến từ vùng nhiệt đới, bài học đầu tiên về thời tiết nước Mỹ:
“Ngó vậy mà không phải vậy đâu. Trời gạt mấy anh đấy. Ra ngoài không áo ấm vài phút là chết cóng”.
Ngừng một chút, nàng cười tinh nghịch: “Ai không tin bước ra thử thì biết”. Nghe cô ta nói vui vui, tôi cũng định đáp lại bằng vài lời tán tỉnh nhưng chợt nhớ ra đây không phải là quán cà-phê trên đường Duy Tân cây dài bóng mát mà là thân phận hẩm hiu của một người tỵ nạn chân vừa chạm đất quê người, nên đành im lặng.
Đúng như lời cô gái Việt ở Chicago cảnh cáo, Boston chào đón tôi bằng những cơn bão tuyết triền miên suốt mùa đông dài rét buốt.

Đêm giao thừa của ngày Tết Việt Nam đầu tiên trên nước Mỹ, không có bánh chưng xanh, không có rượu nồng pháo nổ, không một lời chúc tụng ngoại trừ âm hưởng của những bông tuyết trắng bị gió đùa vào cửa sổ.
Người anh lớn tuổi nhất trong nhà đang cặm cụi sửa soạn một bàn thờ nhỏ trong phòng khách để cúng ông bà. Bàn thờ đơn giản, chỉ một lon hương, hai cây đèn, một nải chuối và một bình hoa.

Tôi và những người ở cùng nhà ra khỏi phòng, nghiêm trang đứng sau lưng anh. Anh khấn vái xong, chúng tôi, những kẻ không họ hàng, thân thuộc gì với nhau, cũng lần lượt mỗi người thắp một cây hương, cúi đầu vái ba vái. Không biết vái về đâu và cũng không biết từ phương Đông xa xôi, tổ tiên ông bà có nghe được lời cầu nguyện của những đứa con đang lạc loài trên đất khách.

Tôi thường gọi đất Mỹ nầy là đất tạm dung, trạm dừng chân của tôi và hàng triệu đồng bào tôi, trên quãng đường dài lưu lạc. Tôi trả thuế cho nước Mỹ căn cứ vào những lợi tức mà tôi thu nhập được. Đó không phải là một nghĩa vụ thiêng liêng theo kiểu “Đừng hỏi đất nước đã làm gì cho bạn, hãy hỏi bạn đã đóng góp được gì cho đất nước” (Ask not what your country can do for you; ask what you can do for your country) của cố TT Kennedy.
Nước Mỹ không phải là “country” của tôi. Tôi trả thuế nhưng đó không thể gọi là đóng góp. Đóng góp hàm ý nghĩa thiêng liêng, tự nguyện trong lúc trả thuế là một điều luật pháp bắt buộc tôi phải làm nhằm trang trải cho các khoản chi dùng công cộng.

Ngày tôi đưa tay tuyên thệ làm một người Mỹ vừa được công dân hóa sau năm năm thường trú, tôi cảm thấy buồn nhiều hơn vui, tủi thẹn nhiều hơn tự hào. Một tên Mỹ da vàng không quê hương, không tổ quốc, ngơ ngơ ngác ngác giữa quê người, có gì đáng để mừng vui.
Viên thư ký sở nhập tịch hỏi tôi theo thủ tục có muốn thay cái tên cúng cơm của tôi bằng tên Mỹ. Tôi lắc đầu. Nhiều người đã chọn đổi tên. Một số người làm như thế chỉ để dễ kiếm công ăn việc làm nhưng cũng một số khác để chứng tỏ mình biết hội nhập vào đời sống Mỹ.
Việt Nam, với nhóm người sau, đã đồng nghĩa với một thời quá vãng.

Tự do, vâng, tôi may mắn tìm được tự do nhưng đó chỉ là tự do cho chính bản thân mình. Ngồi trên thềm tòa nhà lịch sử Fanueil Hall ở Boston sau giờ tuyên thệ tôi làm bốn câu thơ lục bát để kỷ niệm ngày thành công dân Mỹ:

Mặt mày hớn hở vui tươi
Sao lòng nghe thẹn làm người tự do
Của nầy là của trời cho
Của ta đánh mất không lo đi tìm.
(ttđ)

Năm 1999, vợ chồng tôi quyết định dời sang một tiểu bang khác nếu công ăn việc làm thuận tiện hơn. Tôi được một công ty chuyên về Internet ở miền Tây Nam phỏng vấn bằng điện thoại. Kết quả rất khả quan. Họ hứa hẹn rất nhiều, từ việc giúp chúng tôi di chuyển cho đến việc tạm cư trong thời gian đầu.

Quyết định rời khỏi tiểu bang M***achusetts, về mọi phương diện, vật chất cũng như tinh thần, là một quyết định lớn của gia đình tôi. Sau này tôi không rời tiểu bang mà chỉ dời sang thành phố khác cũng thuộc M***achusetts. Dù sao chúng tôi cũng quyết định bán căn nhà ở Dorchester cho một người quen.

Đêm cuối trong căn nhà cũ, lần đầu tiên tôi khám phá ra rằng nước Mỹ với tôi không phải là đất tạm dung. Cảm giác đêm cuối cùng, cách đây gần 20 năm khi tôi xa Sài Gòn, đã trở lại với tôi lần nữa. Tôi sắp sửa rời xa một căn nhà, một nơi chốn thân thương. Căn nhà trên đường Thornley Street là nhà của tôi, Dorchester là thôn xóm của tôi và Boston là thành phố của tôi. Nước Mỹ đã cho tôi nhiều hơn tôi trả lại cho nước Mỹ.

Ân huệ mà đất nước nầy đã cho tôi không phải chỉ là tự do nhưng còn là cơ hội và hy vọng, những điều tôi đã không tìm thấy trên quê hương ruột thịt của mình.
Hy vọng không phải là giấc mơ huyền ảo mà là một điều có thực và là chất sống cần thiết để nuôi dưỡng một con người phải không ngừng tranh đấu để sống còn như tôi.
Nước Mỹ gắn bó với cuộc đời tôi nhiều hơn tôi gắn bó với nước Mỹ.

Đêm cuối trong căn nhà cũ, lần đầu tiên, tôi nghĩ về đất nước đã cưu mang tôi trong suốt gần 20 năm nhiều thay đổi của đời tôi với một tấm lòng biết ơn và trân trọng chân thành.

Đêm cuối trong căn nhà cũ, tôi nằm nhớ lại bàn tay người lính hải quân Mỹ của chiến hạm USS White Plains vói xuống để nhấc thân hình ốm o, đói khát của tôi lên khỏi chiếc cầu dây đong đưa bên thành tàu.
 Chiếc cầu dây mong manh tôi bám để leo lên chiến hạm trở thành chiếc cầu biên giới, không chỉ cách ngăn giữa độc tài và tự do, của quá khứ và tương lai, mà còn giữa có quê hương và thiếu quê hương.

Đêm cuối cùng trong căn nhà cũ, tôi mới sực nhớ ra rằng, tôi chưa bao giờ nói một tiếng cảm ơn những thủy thủ đã cứu vớt tôi trong đêm hãi hùng trên biển Đông năm ấy.
Lẽ ra, ít nhất mỗi năm một lần, tôi nên gởi một tấm thiệp Giáng Sinh kèm theo lời cảm ơn về địa chỉ của chiến hạm USS White Plains ở bộ Hải Quân Mỹ. Tôi tệ đến nỗi một việc làm đơn giản như thế mà bao nhiêu năm qua tôi vẫn chưa làm được.

Đêm cuối cùng trong căn nhà cũ tôi nằm ôn lại một khoảng đời 20 năm, từ hai bàn tay trắng đến khi có được một gia đình êm ấm. Nỗ lực của chính tôi không thể nào thành đạt nếu không có những cơ hội đã được mở ra từ xã hội Mỹ.
Nước Mỹ là vùng đất của cơ hội và mọi người đều có quyền có một American Dream.

Đêm cuối cùng trong căn nhà cũ, tôi nghĩ về con đường Dorchester mà tôi mỗi ngày mấy bận đi qua. Giống như đường Santa Clara ở San Jose, Bolsa ở Nam California, Colonial ở Orlando, đường Dorchester là xương sống của xóm Dorchester chúng tôi.

Bao nhiêu người đã ăn nên làm ra cũng nhờ vào con đường nầy, mặc dù không phải ai cũng biết ơn nó, không phải ai cũng nhớ tới nguồn gốc của chính mình, không phải ai cũng nhớ đến những ngày đầu tiên đi sắp hàng mua từng vỉ cánh gà, từng gói mì ăn liền bằng Food Stamps trong cái rét căm căm của miền Đông Bắc.

Trên con đường đó mỗi buổi sáng tôi đã gặp hàng trăm em bé Việt Nam sắp hàng ở góc đường chờ xe bus đưa đến trường. Những chiếc xe bus màu vàng nối đuôi nhau đưa các em đến tương lai huy hoàng của nước Mỹ. Nói như cựu tổng thống Bill Clinton, các em là chiếc cầu của tương lai hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Các em may mắn quá.

May mắn lớn nhất không phải chỉ vì các em được làm công dân của một cường quốc nhưng quan trọng hơn, các em không phải sống trong những ngày cháo rau khoai sắn như hàng triệu đứa trẻ cùng thế hệ các em bên kia bờ trái đất. Các em sẽ không bao giờ hiểu thế nào là “kế hoạch nhỏ”, “trồng cây, trồng người”. Các em sẽ lớn lên, vươn lên trong cuộc đời một cách hiên ngang, không sợ hãi.

Nhà văn Trần Hoài Thư đến Boston nhiều lần và cũng đã yêu mến một cách say mê con đường Dorchester như chính tôi đã và đang yêu mến. Anh Trần Hoài Thư có lần viết về thành phố Boston: “Con đường Dorchester qua những tiệm ăn, tạp hóa Việt Nam. Và một khu Việt. Và những gương mặt da vàng. Và những lời trao đổi bằng tiếng mẹ đẻ vang trên bãi đậu xe.

Đời sống vẫn bận rộn. Cõi lòng vẫn quay quắt. Nhớ nhung vẫn bão bùng. Bạn hữu mấy thằng trôi thất tán. Mấy thằng đợi một chuyến đò ngang…Cái mẫu số chung ấy là mẫu số của bất cứ người tị nạn nào trong chúng ta…Cám ơn Boston với những con tim kỳ diệu. Nếu không có những con tim này, tôi nghĩ, chắc chắn sẽ không có Trần Trung Đạo”.

Đêm cuối trong căn nhà cũ, tôi biết rằng mình không chỉ có một quê hương. Ngoài quê hương Quảng Nam Đà Nẵng ở Việt Nam, tôi còn có một quê hương khác, quê hương Boston trên nước Mỹ này.

Trần Trung Đạo
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23873
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Nov/2020 lúc 5:27am

Thằng chồng Việt kiều của tôi!





Những ai phải trải qua cay đắng mới biết giá trị đích thực của cuộc sống. Tôi cũng vậy. Hạnh phúc, tiền bạc, danh vọng, và bộ mặt đã làm tôi như quay cuồng. Cũng chỉ vì “lấy chồng Việt Kiều” và “có rể Việt Kiều” đã làm cho “thằng chồng Việt Kiều” của tôi điêu đứng và tôi suýt bỏ rơi anh ta khi mới bắt đầu qua đây. Có lẽ tôi quá cay đắng nhưng tôi đã hối hận rất nhiều.

Tôi vốn ở Biên Hòa, được cho là xinh đẹp từ nhỏ. Tôi được gia đình cưng chiều nhưng không có hư đốn. Tôi vào được Đại Học Sư Phạm nghành Anh Văn và học xong. Trong thời gian làm kiếp sinh viên, gia đình tôi đi xuống và lam lũ. Tôi trở thành sinh viên nghèo phải bươn chãi kiếm sống vì gia đình tôi không thể chu cấp mọi chi phí.

Ở xóm, có nhiều người lấy chồng Việt Kiều và có tiền xây nhà cao ráo. Ai cũng nói tôi có học và có sắc tại sao không kiếm được chồng Việt Kiều cho gia đình đỡ khổ. Cuộc sống khốn khổ như vậy khiến cho tôi nghĩ đến chuyện “lấy chồng Việt Kiều” để cưu mang gia đình. Tôi nghĩ đơn giản như vậy, chính vì đơn giản đó đã làm hại một người, đó là thằng chồng Việt Kiều của tôi.

Với ý nghĩ đơn giản, tưởng rằng ở nước ngoài ai cũng ăn sung mặc sướng dễ kiếm ra tiền. Tôi có đọc sách báo thì thu nhập trung bình hàng năm của người Mỹ là 24 ngàn đô-la. Nếu thằng chồng làm 24 ngàn đô-la thì mình xin 6-7 ngàn có sao đâu. Nhưng thánh thần ơi, đó là thu nhập, chưa tính thuế, tiền xăng, ăn uống, chi tiêu, nhà cửa, điện nước,…

Cái ý nghĩ ngu xuẩn chỉ cần 6-7 ngàn mỗi năm đó lan truyền vào gia đình tôi và gia đình tôi tưởng bở và thật. Cũng chính vì tôi có sắc và có thân hình đẹp nên tôi kiếm được một thằng Việt Kiều hiền lành nhưng có chút khờ trong những Việt Kiều về thăm.

Hắn hồi ở Việt Nam chỉ học tới lớp 9, sau đi làm phụ hồ, và theo gia đình đi Mỹ theo diện HO. Qua đó hắn chỉ biết đi làm. So về trình độ học vấn thì chênh lệch với tôi do đó khó nói chuyện. Tôi biết không hạp lắm nhưng giả nai để được đi Mỹ. Tôi nhanh chóng trao sự trinh tiết cho hắn và bắt hắn phải chịu trách nhiệm và cưới. Hắn hứa cưới. Tôi ra giá là trước khi tôi qua Mỹ thì gia đình tôi cần 20 ngàn đô để xây nhà mua xe (vì nhà tôi ọp ẹp và không có xe gắn máy).

Hắn trở lại Mỹ, và gởi tiền đều đều, hắn làm gì tôi không quan tâm vì tôi chẳng yêu, thấy tiền là tôi thích. Tôi cố gắng học cho xong 4 năm đại học để phòng khi không qua được Mỹ thì tôi có bằng cấp và dạy học Anh Văn cũng có tiền. Khi nhà cửa tôi xây xong, xe có 2 chiếc thì hắn về. Trông hắn tiều tụy và ốm sau 2 năm và tôi cũng vừa tốt nghiệp Đại Học. Đám cưới tổ chức linh đình. Gia đình tôi nở mặt nở mày với hàng xóm.

Trong khi chờ đợi qua Mỹ, tôi học thêm đủ thứ nghề từ thêu may đến vi tính, uống tóc đến móng tay,… Hắn chu cấp vài trăm đô mỗi tháng.

Khi đến Mỹ tôi thật sự thất vọng. Thằng chồng tôi ốm yếu và bịnh hoạn. Tôi biết sự thật là sau khi gặp tôi, hắn làm 2 việc để có tiền gởi theo yêu cầu tôi. Mỗi ngày hắn chỉ ngủ được 4 giờ. Cuối tuần làm thêm. Nhà thì ở nhà mướn chứ không như tôi nghĩ là nhà riêng có bãi cỏ đẹp. Xe hơi thì xe cà tàng cũ xì chứ không bóng lộn như tôi thấy ở tỉnh ủy tỉnh Đồng Nai. Tôi lúc đầu nghĩ rằng hắn lừa dối tôi để được tôi nên tôi giận quá bỏ hắn qua người dì. Hắn sụp đổ tinh thần và vào bịnh viện tôi chẳng cần quan tâm. Tôi luôn nghĩ cuộc sống của hắn ở Mỹ phải tốt, phải như thiên đường….. Nào ngờ chỉ là dân lao động nghèo nàn không biết Anh Văn.

Dì tôi nói là nếu không trở lại sống với hắn thì về Việt Nam vì nếu tôi bỏ hắn thì tôi bị trục xuất. Dì tôi không dám chứa chấp tôi sợ liên lụy. Dì tôi cho tôi 10 ngày suy nghĩ. 10 ngày đó tôi tìm hiểu cuộc sống ở Mỹ. Tôi thấy ai cũng cố gắng đi làm để có tiền chứ không dễ hái ra tiền. Khác với ở Việt Nam là làm việc ở đây dù tiền ít vẫn không bị đói. Môi trường sống tốt hơn, học hành miễn phí, có biết tiếng Anh xin làm dễ hơn,....

Tôi nghĩ về thằng chồng tôi không yêu nhưng lấy chồng vì tiền. Tôi dần dần thấy tội nghiệp hắn. Vì mê sắc đẹp tôi mà hắn phải hao tổn sinh lực làm 2 việc để có hơn 24 ngàn đô-la gởi về cho tôi trong lúc bản thân hắn chẳng có gì. Tôi dần dần động lòng trắc ẩn thằng chồng không yêu. Tôi thấy tội nghiệp quá. Đã tốn sinh lực kiếm tiền cho tôi và sau đó bị tôi bỏ đi. Tôi ứa nước mắt ân hận.

Sau một tuần tôi trở lại và xin lỗi. Những giọt nước mắt hạnh phúc trong thân hình tiều tuỵ của hắn làm tôi thêm đau lòng. Tôi thề với Trời Phật tôi không bỏ hắn và sẽ lo cho hắn. Tôi dễ dàng kiếm việc và hắn nghỉ 3 tuần dưỡng sức vì mới ra viện. Tôi ráng bươn chãi thêm việc cuối tuần để hòng giúp hắn có tiền mua xe khác và cho tôi một chiếc xe cũ nào đó vì sống ở Mỹ thiếu xe không thể xin việc làm tốt hơn.

Tôi giải thích cho gia đình tôi hiểu và tôi chỉ sẽ chu cấp 100 đô mỗi tháng mà thôi. Gia đình tôi dĩ nhiên không hiểu và giận tôi và nói rằng tôi đi Mỹ bị Mỹ hoá không biết lo cho gia đình. Tôi thấy 100 đô đủ rồi, gia đình tôi kiếm thêm chứ làm sao tôi phải nuôi chồng và nuôi 6 người bên Việt Nam. Hắn từ từ hồi phục nhưng do lao lực quá nên lúc nào cũng ốm ốm và không có sung sức. Cuộc sống tình dục vợ chồng rất thưa thớt vì hắn yếu sức. Tôi muốn có con với hắn để hắn yên lòng vì thế tôi và hắn phải nhịn 6 tháng để hòng hắn có đủ sức lực theo lời bác sĩ.

Trời Phật thương tôi và tôi có thai. Hắn hạnh phúc và sức khoẻ dần dần tốt hơn. Do có vốn tiếng Anh, tôi có việc trong ngân hàng và lương khác. Hắn chỉ đi làm việc nhẹ và tôi ghánh vác mọi thứ. Tôi chỉ mong hắn khoẻ mạnh trở lại chứ trong gia đình ai đi làm chính cũng vậy thôi. Con tôi ra đời khoẻ mạnh, tôi mừng khôn xiết, người mừng vui hơn tôi là hắn.

Giờ gia đình tôi ổn định. Tôi làm việc có lương gấp 3 lần chồng vì chồng chỉ lao động bình thường và khó lòng vươn lên vì trình độ bị giới hạn. Tôi dần dần có được hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng, cũng như được thoả mãn tình dục do chồng tôi hồi phục được sức khoẻ. Tôi đã sai và sửa sai.

Hy vọng các chị muốn lấy chồng Việt Kiều hiểu rõ hoàn cảnh của ông chồng tương lai để tránh nhiều chuyện đau lòng nơi xứ người.


Nàng Kiều VN
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23873
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Nov/2020 lúc 6:46am

Biết Ơn


Biết ơn là phẩm chất cao quý của một tâm hồn đẹp. Chính vì vậy mà có rất nhiều truyện kể được lưu truyền để nhắc nhở chúng ta rằng: Làm người, cần có lòng biết ơn!

Có một câu chuyện kể rằng:

Xưa có một hành khách bước đơn độc trên chặng đường xa. Khi đã quá mỏi mệt và kiệt quệ, anh nằm xuống và ngủ một giấc ngon lành trên thảm cỏ ven đường. Không lâu sau, một con rắn độc từ trong bụi cỏ chui ra và bò về phía người độc hành này.

Khi con rắn chuẩn bị cắn người khách đang ngủ, bỗng một người đi ngang qua đó, kịp thời đánh chết con rắn độc rồi đi tiếp. Người độc hành vẫn ngủ say sưa mà không hề biết chuyện gì đang diễn ra. Cho đến cuối cuộc đời, anh vẫn không hay biết rằng mình đang sống trong ân huệ của người qua đường vô danh thuở nọ…

Có thể vị khách độc hành không hề biết đến ơn cứu mạng ấy, và người qua đường cũng đã quên từ lâu, nhưng sự tình này đều ghi dấu trong Trời Đất.

Lại cũng có chuyện như thế này:

Một hôm, người chồng trở về nhà. Lúc đó trời đã khuya lắm rồi, nhưng chiếc đèn bên hiên nhà vẫn sáng rực, chiếu rọi một đoạn đường phía ngoài ngôi nhà. Anh cho rằng vợ mình ngủ quên, định bụng vào trong nhà tắt đèn, nhưng không ngờ lại bị vợ cản lại. Anh chưa kịp hỏi nguyên do thì chị vợ đã chỉ tay ra ngoài cửa sổ cho chồng nhìn.

Ven đường bên ngoài cửa sổ là một chiếc xe ba bánh chở đầy rác. Ngay cạnh đó, một cặp vợ chồng đang ngồi nghỉ dưới ánh đèn ấm áp bên hiên nhà. Họ vừa nói vừa cười, và cùng nhau ăn chút gì đó để lót dạ đêm khuya.

Nhìn thấy cặp vợ chồng ấy đang chuyện trò vui vẻ dưới ánh đèn, cả anh và vợ đưa mắt nhìn nhau rồi nhẹ nhàng rút lui. Có lẽ hai vợ chồng người thu gom rác ấy sẽ vĩnh viễn không biết rằng, ở đâu đó trong thành phố này, có một ngọn đèn vẫn hàng đêm vì họ mà thắp sáng.

Và bạn thấy đấy, có những sự giúp đỡ diễn ra trong âm thầm và lặng lẽ. Vậy cớ sao cứ phải đợi đến khi mắt thấy, tai nghe rồi chúng ta mới biết ơn trong lòng?

Bởi vì, có những “cho đi” không bao giờ mong chờ bạn đền đáp. Có những “giúp đỡ” không bao giờ chờ bạn nói “Cảm ơn!”

Vì vậy, hãy cứ biết ơn cuộc đời này và hãy dùng lòng cảm ơn để đối đãi với tất cả mọi người xung quanh bạn.

Và đừng quên rằng:

Không biết trân quý, có núi tiền cũng chẳng thể vui tươi.
Không biết khoan dung, có bạn bè rồi cũng rời xa.
Không biết cảm ơn, có tài giỏi cũng chẳng thể thành công.
Không biết hành động, có thông minh cũng chẳng thể viên dung.
Không biết hợp tác, có làm việc chăm chỉ cũng không thành đại sự.
Không biết tiết kiệm, có kiếm nhiều tiền cũng không thể phú quý.
Không biết thỏa mãn, có nhiều tiền cũng không thể hạnh phúc.
Không biết dưỡng thân, có trị liệu cũng chẳng thể trường thọ.

Hãy nhớ:

Có một thứ không thể lợi dụng: Đó chính là thiện lương.
Có một thứ không thể gian dối: Đó chính là tình cảm.
Có một thứ không thể lừa gạt: Đó chính là sự chân thành.
Có một thứ không thể thiếu: Đó chính là bạn bè.
Có một thứ không thể tha thứ: Đó chính là phản bội.
Có một thứ không thể cứu được: Đó chính là tuyệt vọng.
Có một thứ không thể bội quên: Đó chính là cảm ơn. 

Sưu tầm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23873
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Dec/2020 lúc 7:11am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23873
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Dec/2020 lúc 11:21am

Thằng Mất Gốc


For%20You%20|%20Candle%20gif,%20Candles,%20Pretty%20flowers

Tác giả Võ Phú dự Viết Về Nước Mỹ từ 2004. Võ Phú sinh năm 1978 tại Nha Trang-Việt Nam; định cư tại Virginia-Mỹ, 1994. Tốt nghiệp cử nhân Hóa, Virginia Commonwealth University. Hiện làm việc và học tại Medical College of Virginia. Sau 12 năm bặt tin, tác giả tiếp tục viết lại từ 2016 và nhận giải Danh Dự Viết về nước Mỹ từ 2019. Sau đây, thêm một bài viết mới. 


***


 Ông Toán sững sờ đứng lặng người khi nghe thằng Tony, con trai ông, nói như thét:

- Mấy người lúc nào cũng nói muốn cám ơn nước Mỹ mà cứ lợi dụng kẽ hở để moi tiền nước Mỹ. Ơn gì mà ơn... Ơn tiền thì có.

Nói xong, Tony mở cửa đi thẳng ra sau vườn. Cậu đóng rầm cánh cửa...

Cơn gió nhẹ thổi qua. Hơi mát của những ngày cuối xuân vẫn còn quanh quẩn đâu đây, nhưng nỗi bực dọc trong người Tony vẫn chưa nguôi. Câu nói của đứa em gái còn văng vẳng bên tai về việc đi làm rồi mà vẫn còn xin thêm tiền trợ cấp thất nghiệp. 

Ở trong nhà, ông Toán mặt ông phừng phừng cơn giận.  Ông muốn chạy ra ngoài vườn đá cho cái thằng con mất gốc này một cái. Nếu ông còn ở Việt Nam, dám có thể ông cầm rựa chém nó một phát vì cái tội hỗn hào, không coi ông  ra gì.

Nghe ồn, bà Tâm, vợ ông từ trên cầu thang đi xuống, hỏi:

- Chuyện gì mà cha con ông rần rần dưới này?

Nghe vợ hỏi, ông  như người đuối nước vớ được phải phao, nói liền một mạch:

- Thì thằng con của bà kìa nó nói tui lợi dụng nước Mỹ để lấy tiền.  Mà tui có lấy cũng lấy tiền của Mỹ chớ có lấy tiền của ông cố nội nó đâu mà nó làm ầm lên.  Bà coi có được không?  Cái đồ mất gốc.

- Mà chuyện gì mới được?  Ông nói không đầu không đuôi tui có biết chi mà lần.

Ông Toán dịu giọng kể lễ cho vợ nghe:

- Thì hôm trước tui với bà nói với nó là tuần tới vợ chồng mình dìa lại với con Thủy để giữ con cho tụi nó đi làm vì tiệm nails của hai vợ chồng nó sắp mở cửa trở lại.  Cái thằng đó nó đồng ý xong hết, nhưng khi nãy nghe tui nói chuyện với con Thủy, tự nhiên nó nỗi khùng la tui với con Thủy một trận.  Con Thủy lật đật cúp máy. Đúng là thằng mất gốc mà.

- Mà ông với con Thủy nói chuyện gì mới được.

- Thì con Thủy nó gọi cho tui nó hỏi chừng nào ba má dìa? Tui nói để cuối tuần. Nó hối tui với bà dìa sớm để nó chuẩn bị đi ra tiệm nails phụ chủ lau chùi, bắt kiếng chắn, sửa soạn để thứ Hai đi làm.  Rồi nó kể chuyện bà chủ tiệm của nó chịu trả tiền mặt thêm mấy tuần để nó ăn tiền thất nghiệp. Tự nhiên nghe tới đó, thằng Tôn nó nổi khùng rồi nói tui với con Thủy là tham lam lợi dụng để bòn rút tiền của nước Mỹ. Bà nghĩ coi có tức không chứ?

- Cũng tại ông thôi...

- Tại tui?  Sao lại tại tui? Tui chưa có đi làm mà sao tại tui?

- Ai biểu ông nói chuyện điện thoại lúc nào cũng oang oang rồi còn mở loa cho lớn.  Mở lớn chi cho nó nghe rồi nó la ùm lên?

- Đụng tới quý tử của bà là bà binh chầm chập. Tui nói thiệt với bà chứ hên là nó ở đây chứ như hồi còn ở Việt Nam là tui dzớt nó vài đá rồi.  Cái đồ mất gốc.

- Mà chuyện tiền thất nghiệp gì mà nó đùng đùng vậy?

- Thì từ lúc dịch con Covid 19 này nè, vợ chồng con Thủy nghỉ ở nhà xin tiền thất nghiệp. Tui cũng có apply và nhận mỗi tuần mà tui có nói với bà đó. Mỗi một tuần vợ chồng con Thủy, mỗi đứa tụi nó nhận được một ngàn mấy, trừ thuế ra cũng hơn chín trăm, nhiều hơn đi làm rất nhiều. Nghỉ ở nhà còn được nhiều tiền hơn, nên khi chánh phủ thông báo mở cửa để mọi người đi làm lại tụi nó không muốn đi làm liền.  Tụi nó mới nói với chủ tiệm trả tiền mặt cho để xin thêm tiền thất nghiệp cho đến khi bị cắt thì trả lại check như bình thường. Nghe tới đó là thằng Tôn nó khùng lên. Nó nói tui là mang ơn, nợ nước Mỹ này nọ mà lợi dụng để trục lợi. Chỉ có cái thằng mất gốc đó mới nói vậy thôi chứ tui thấy ai cũng làm vậy hà rầm. Mình không lấy thì người khác cũng lấy. Mà mình nộp đơn đàng hoàng, chứ có phi pháp đâu mà nó làm ùm.  Nước Mỹ này giàu và nhiều tiền mà. Năm bảy ngàn có thấm béo gì đâu. Mùa dịch này bọn Mỹ lời chán vì số người già chết quá nhiều. Mỹ khỏi cần phải trả tiền Social. Tui nói vậy bà thấy có đúng không?

-  Nói như ông vậy mà nghe được? Thằng Tôn nó nói cũng phải mà ông...

- Bà lại bênh nó nữa. Đúng là con hư tại mẹ mà...

- Ông với con Thủy mới hư đó.  Mình mới vừa lãnh một người một ngày hai mà.  Nước Mỹ đâu có bỏ đói mình đâu mà vợ chồng con Thủy còn bòn rút nữa. Với lại ông phải thông cảm cho thằng Tôn chứ. Nó qua đây từ nhỏ, nên tánh nó dậy thôi.  Ông phải từ từ nói cho nó nghe, dạy biểu nó.

- Dạy gì được với cái thằng mất gốc đó.  Thôi bà lên trên chuẩn bị quần áo, tui chở bà dìa ở với vợ chồng con Thủy.  Tui không đợi cuối tuần gì hết nữa.

- Ông nói cuối tuần thì để cuối tuần chứ ông đòi dìa giờ thì ai coi tụi nhỏ cho vợ chồng nó?.

- Không cuối tuần gì hết trọi. Bà khéo lo… Hồi trước khi dịch, không có tui với bà, nó cũng lo được.

- Nhưng...

- Không nhưng nhị gì hết...

- Ông thiệt là... Có muốn gì thì cũng chờ con vợ nó dìa để vợ chồng nó tìm chỗ gởi mấy đứa nhỏ chớ.

- Bà muốn ở lại thì một mình bà ở.  Còn tui... Tui dìa.  Tui không muốn thấy cái bản mặt thằng mất gốc đó nữa.

- Thôi được rồi.  Mà thằng Tôn đâu?

- Nó dộng cửa cái rầm rồi ra sau vườn...

Bà Tâm đi ra sau vườn tìm con. Bà thấy Tony ngồi trên chiếc ghế đu, cạnh hồ cá. Có lẽ Tony đang nhìn mấy con cá koi đang bơi lội trong hồ.  Bà nhớ hồi còn nhỏ, mỗi lần có chuyện buồn là nó hay ra ngoài lu để ngắm cá. Bà đi đến sau lưng Tony, nhẹ nhàng gọi:

- Tôn...

Tony quay lại, nhìn bà:

- Dạ... Má...

Bà Tâm nhìn con, bà không biết bắt đầu từ đâu.  Người đàn ông trước mặt bà không còn là thằng Tôn mười hai tuổi của ba mươi năm về trước.  Mà là cậu thanh niên chững chạc, tóc đã điểm vài sợi bạc.  Một người thân nhưng cũng xa lạ đối với bà... Bà Tâm ấp úng...

- Má...

- Má có chuyện gì nói với con?

- Ừa... Chuyện mày với ba mày khi nãy... Giờ ổng muốn dọn về nhà con Thủy liền thay vì cuối tuần...

- Dạ... Vậy thì má đi với ổng đi...

- Còn mấy đứa nhỏ?

- Không sao đâu má.  Con với vợ con sẽ gọi vô sở nói họ đổi ca hay vợ chồng con xin nghỉ vài ngày để coi tụi nhỏ chờ lúc daycare mở cửa rồi tụi con đem gởi...

- Má... Má... không biết nói sao... Nhưng...

- Con không hiểu được ba với con Thủy nghĩ gì.  Vợ chồng con Thủy đâu có nghèo. Tụi nó cũng dư ăn dư để, vậy mà còn tính bòn rút của nước Mỹ.  Còn ba nữa. Ba nghe nó nói ba cũng không khuyên còn nghe theo nó tiếp tục xin thêm tiền thất nghiệp...

- Thì ổng thất nghiệp thiệt mà...

- Con biết, nhưng đi làm lại rồi mà còn muốn lấy thêm... Vậy mà cứ nói là yêu nước Mỹ.  Nhớ ơn nước Mỹ cưu mang này kia nọ.  Con nghe phát bực.

- Tại con sống ở đây từ nhỏ nên không biết chứ người mình nghèo nên khi có tiền thì...

- Nghèo là hồi còn ở Việt Nam kìa má.  Giờ mình ở Mỹ rồi đâu có nghèo. Không có tiền thất nghiệp tụi nó cũng không có đói. Bòn rút thêm chi khi nước Mỹ gồng mình trong cơn đại dịch này...  Nhưng mà thôi…

Ngưng một chút, rồi Tony tiếp:

- Má lo thu xếp dọn đồ về trên đó với vợ chồng con Thủy đi chứ không khéo ba lại la má.

- Ừa... Vậy má thu dọn xong, chờ con Tina về rồi ba má đi.

- Dạ.

Bà Tâm trở vô nhà rồi đi lên phòng. Lúc vào phòng, bà thấy ông Toán đang nằm trên giường coi điện thoại. Mắt không rời khỏi cái phôn, ông hỏi:

- Bà nói chuyện với nó xong rồi hả?

- Ừa. Xong rồi.

- Rồi nó có nói gì không?

- Không. Nó kêu tui lo thu xếp rồi đi theo ông dìa.  Tụi nhỏ vợ chồng nó lo được.

- Đó, tui nói với bà có sai không.  Nó đâu cần mình.

Bà Tâm vừa xếp áo quần vừa nghĩ đến Tony.

***


Ba mươi năm trước...

Thằng Tôn của bà chỉ là cậu bé mười hai tuổi. Bà còn nhớ rõ, năm đó vào dịp hè, bà cho con ở lại nhà cô Lan để cậu bé vui chơi cùng thằng Hải, đứa em cô cậu, ở thành phố biển Nha Trang. Trong một chuyến vượt biển, cô Lan đã dắt theo thằng con trai của bà. Đùng một cái bà mất con cho đến hai mươi năm sau mẹ con mới được gặp lại mặt nhau. Lúc gặp nhau thằng Tôn của bà không còn là thằng bé thuở nào mà đã là một cậu thanh niên với cái tên rất Mỹ, Tony. Tony giờ đã học thành tài. Một dược sĩ với mức lương ngất ngưỡng và chuẩn bị lấy vợ.  

Thằng Tôn của bà nghe theo lời cô dượng nó, cũng là cha mẹ nuôi trên giấy tờ, nên đã làm giấy tờ bảo lãnh cả gia đình ông bà qua Mỹ trước rồi mới làm đám cưới sau. 

Trong ngày cưới của con trai có đầy đủ cả gia đình ông bà.  Có cô Lan dượng Trung và còn có vợ chồng cô em gái của Tony.  Lễ cưới của con trai mà bà cứ tưởng của người ngoài vì mọi chuyện đều do cô Lan lo hết. Ông bà có mặt cũng chỉ làm "hình nền" thêm cho đầy đủ màu sắc trong ngày trọng đại của con.  Bà buồn lòng, nhưng không nói ra.  Còn ông Toán thì lại trách cô em gái đã qua mặt qua quyền, nên từ đó đã giận luôn cô em.  Ông không thèm qua lại với gia đình em gái.

Thời gian trôi qua bà Tâm đã sống ở đất nước này hơn mười năm.  Sống mười năm, vậy mà bà chưa từng đi làm ở bất cứ nơi đâu, ngoài việc chăm lo cho chồng, cho con, cho cháu.  Mỗi tháng, con trai, con gái cho bà vài trăm đô để dành dưỡng già. Mấy tháng trước khi dịch cúm vi khuẩn Corona bùng phát, chính phủ đã trợ giúp cho mỗi người một nghìn hai trăm đô la. Gia đình bà trừ con trai và con dâu (vì chúng làm vượt qua mức lương quy định để nhận được sự trợ giúp) thì ai cũng nhận được tiền.  Bà thầm nghĩ, nước Mỹ này quá tử tế đối với một người như bà.  Bà chẳng làm gì, nhưng vẫn được tiền trợ giúp.  Số tiền đó, bà trích ra phần lớn gởi về cho thân nhân bên Việt Nam, phần còn lại bà cất dành. 

Bà Tâm nhớ lại trong những buổi tiệc, lễ lộc, chung vui của gia đình, nhất là ngày Thanksgiving, bà luôn nói với các con là gia đình bà rất biết ơn nước Mỹ đã cưu mang đùm bọc cả gia đình. Bà nói với các con hãy cố gắng hết sức mình để làm việc và đền ơn nước Mỹ, đất nước đã giúp đỡ mình.  Chắc có lẽ vì vậy mà Tony nghe và nhớ những lời căn dặn của bà?  Thành thử khi nghe em gái và cha bàn chuyện đi làm nhận tiền mặt để xin thêm tiền thất nghiệp, nên nó mới giận cha và em. Nghĩ tới đây bà chợt mỉm cười. Bà nghĩ thầm: "Thôi kệ, thằng Tôn mất gốc, nhưng nó vẫn còn nhớ tới những lời nói của mình.  Và, hơn hết, tuy nó mất gốc, nhưng không mất nhân cách làm người.  Còn cái gốc như cha con ông Toán cũng chỉ là đồ bỏ ."



Võ Phú

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23873
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Dec/2020 lúc 12:47pm

Điếu Thuốc Ba Tôi 

Hình minh họa

Mấy em tôi gọi điện thoại qua mét, giọng bực bội: “ Chị nói với Ba. Ổng bệnh vậy mà cứ lén hút thuốc hoài.”

Ba tôi đã trên chín mươi và đang bị ung thư gan. Ai cũng nói ung thư gan sẽ đi rất nhanh. Ba tôi đã chuẩn bị tinh thần. Má tôi và chị em tôi cũng đã chuẩn bị tinh thần cả rồi nhưng ba vẫn kiên cường trụ được hơn ba năm dù lâu lâu phải cấp cứu. Bản thân tôi đã hơn ba lần bay về để tiễn biệt ba.

Tụi nó mét tôi vì nghĩ rằng tôi là chị lớn, lại là người cung cấp tài chánh cho ông cụ mấy chục năm nay. Chúng tin là tôi có uy tín với ông nhất.

Tôi hỏi lại:” Lén hút là sao?”

– Thì tụi em không cho ba hút thuốc sợ ông ho mà ông cứ lén hút hoài. Đã vậy má còn đồng loã, bả còn canh tụi em cho ổng hút nữa.

Tôi bật cười. Bà già tôi luôn có lối suy nghĩ và hành xử không giống bà già nào. Tôi khoái bà chỗ đó! Tôi hỏi:

– Ba hút thuốc gì?

– Ổng khoái nhất là Marlboro á. Ổng cứ nói thuốc này nhẹ hều, hút chút có sao .

Tôi gọi điện về cho má, vừa cười vừa hỏi:

– Bộ má canh tụi nó cho ba hút thuốc hả?

Nghe tiếng cười đồng loã của tôi, bà mạnh dạn nói:

– Ờ. Thì tao hỏi bây ổng đã chín mươi rồi. Nếu ổng không bệnh thì cũng không biết ổng” đi” ngày nào . Gần chết tới nơi rồi còn bày đặt kiêng cử làm gì. Còn sống ngày nào cứ để cho ổng sướng ngày đó đi.

Tôi về thăm ba sau lần nói chuyện với má, quà cho ông là hai cây thuốc lá mua ở phi trường. Má tôi vội đem thuốc vô phòng dấu. Ba tôi nhìn thấy hai cây thuốc lá cười rạng rỡ cứ như tôi ngày nào còn bé, được ông mua cho chiếc xe đạp mini đi học. Sướng nhất với ông là tôi để ông hút thoải mái, không cần phải giấu đút. Mà tôi đã không cự nự thì đố đứa nào dám nói. Từ hôm đó ông cứ hút công khai, chẳng cần phải dụi ngang điếu thuốc khi có đứa con nào bất chợt xuất hiện.

Mấy em biết được chị cho ba hút thuốc, có đứa bất mãn ra mặt. Có đứa còn dám nghĩ tôi mong ông cụ đi sớm để khỏi phải nuôi.

Rồi có lần ông rất khoẻ, ông đòi đi tắm biển. Ông muốn nghe tiếng sóng biển ầm ì,hương biển tanh tanh mùi cá, vị biển mằn mặn trong gió.

Lần đó bọn tôi mướn một nhà sát biển ở. Sáng sớm khi con cái còn say giấc ,ông cụ cởi trần ra biển bơi. Mấy đứa con lại la ầm lên: “ Ba ra biển bơi sớm vậy, rủi có gì rồi ai hay?”

Ba tôi nói : “ Có gì thì vớt xác ba lên chôn. Có chi mà ầm ĩ”.

Má tôi bênh chồng: “ Ổng đang bơi, đang sướng mà “đi luôn” là sướng tới chết rồi còn gì. Có chi đâu mà ầm ĩ.”

Cứ đụng tới cách hành xử hơi trái khuấy của ba tôi là nhà tôi chia hai phe. Tôi với má cùng phe. Mấy đứa con ít chăm sóc trực tiếp hay nuôi dưỡng lại cùng một phe.

Má tôi nói: “ Mấy đứa không thức đêm thức hôm chăm ông già, không nặng gánh cơm áo gạo tiền thuốc men thì tụi nó phải la to hơn để thể hiện sự quan tâm, thể hiện cái lòng hiếu thảo. Nói đại một câu cho sướng miệng lại được tiếng quan tâm tới cha mẹ thì ngại gì không nói. Tao bảo ổng cứ kệ tụi nó, thích làm gì thì cứ làm, muốn ăn mặn ngọt thế nào thì cứ ăn. Không cần kiêng cử gì cả nhưng ông cứ sợ đứa này la, đứa kia nói . Phải nói là cha mẹ già lại thích sợ con hơn ngày xưa con sợ cha mẹ nha. Khi bị con rầy la, cái miệng các cụ thì than chứ cái bụng cũng thấy sướng sướng . Nó la vẫn còn hơn nó không thèm nói đụng tới, ngó ngàng tới. Ông cứ kể thằng Khanh nó không cho tôi đi chụp hình, muốn đi là phải trốn mà đi. Con Lan không cho ăn nhiều mỡ sợ khó tiêu, con Liên bắt phải vận động sợ cứng khớp…

Ba tôi hút thuốc nên ho nhiều hơn. Mấy em tôi nhờ bác sĩ khuyên can ông nhưng bác sĩ nói :’ Hút nhiều là ho nhiều cụ nhá.” Ông trả lời: “ Ho cũng khổ mà nhịn cũng khổ bác sĩ ơi. Ho thì khổ lúc ho thôi, nhịn thì khổ suốt ngày đó bác sĩ à”.

Bác sĩ cười, chịu !

Rồi một ngày ba tôi đi nhẹ nhàng không phải vì ung thư, cũng không phải vì thuốc lá hay bơi sớm mà chết đuối dưới nước. Ông đi vì ông đã như một cây đèn cạn dầu nên thôi không cháy nữa. Vậy thôi!

Trên bàn thờ ông lúc nào cũng có một cây Marlboro . Mấy đứa con hay cấm ông hút thuốc giờ hay đến đốt một điếu thuốc lá cắm lên bàn thờ cho ông. Má tôi nhìn mà không nói gì!

Văn Mỹ Lan

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23873
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Dec/2020 lúc 8:39am

Lời nói dối của cô giáo lớp 5

Image%20result%20for%20cô%20giáo

Ngày đầu tiên của năm học mới, cô giáo Trương đứng trước tất cả các bạn học sinh lớp 5, nhìn khắp một lượt và nói rằng: Cô sẽ yêu và đối xử bình đẳng với từng bạn trong lớp mình.

Nhưng, đó là một lời nói dối. Điều cô vừa nói là không thể.

Cô có ấn tượng không tốt với cậu học sinh ngồi ngay dãy bàn đầu tiên, cậu bé tên là Lý Đức Huệ.

Cô Trương phát hiện Lý không thể cùng chơi với các bạn khác. Quần áo của cậu bé rách nát, người bẩn thỉu và thật khó để ai đó có thể yêu quý cậu bé cho được. Ngay cả bản thân cũng rất thích dùng bút đỏ gạch một dấu X to đùng trên vở của cậu bé.

Cho đến vài hôm sau, nhà trường yêu cầu giáo viên kiểm tra học bạ của các em học sinh, cô Trương đã cố tình để hồ sơ của Lý xuống dưới cùng. Vậy nhưng khi xem đến hồ sơ của cậu bé, cô giáo đã vô cùng ngạc nhiên.

Giáo viên năm lớp 1 của Lý viết rằng: “Tiểu Lý là một cậu bé thông minh, nét mặt lúc nào cũng rạng rỡ với nụ cười luôn thường trực trên miệng, viết chữ rất ngay ngắn và sạch sẽ, ngoan ngoãn lễ phép, mang đến niềm vui cho những người xung quanh.”

Giáo viên năm lớp 2 thì viết: “Tiểu Lý là một học sinh ưu tú, rất được các bạn quý mến nhưng cậu bé rất buồn, vì bệnh của mẹ em đã ở giai đoạn cuối, cuộc sống gia đình rất khó khăn.”

Giáo viên năm lớp 3 viết: “Mẹ qua đời đã gây ra một cú sốc lớn đối với Tiểu Lý, cậu bé đã nỗ lực hết sức nhưng bố em là người sống thiếu trách nhiệm. Nếu không có giải pháp cải thiện, gia đình sẽ gây ảnh hưởng rất tiêu cực đến Tiểu Lý.”

Giáo viên năm lớp 4 viết: “Tiểu Lý tính cách dị biệt, không thích học, không có bạn, nhiều khi còn ngủ trong giờ học.”

Lúc này, cô Trương mới ý thức được những vấn đề đang tồn tại với cậu học trò nhỏ. Cô cũng cảm thấy xấu hổ vì hành vi của mình.

Nhưng tuyệt nhiên, cậu bé Lý Đức Huệ không biết về việc này.

Vì lần nói dối trước cả lớp, cô giáo không ngờ sau đó thỉnh thoảng lại nhận được 1 lá thư

Đến ngày lễ của các nhà giáo, khi các em học sinh đem quà tặng cho mình, cô Trương càng cảm thấy day dứt hơn. Các bạn nhỏ tặng quà cho cô đều bọc giấy màu đẹp đẽ, bên trên còn dán dây ruy băng, chỉ có mình Tiểu Lý là ngoại lệ.

Cậu bé dùng mảnh giấy màu da bò dày bì bì, có lẽ được xé ra từ một cái túi đựng đồ tạp nham để bọc quà.

Món quà là một chiếc vòng tay được xâu chuỗi bởi các hạt thủy tinh, có hạt đã bị mất và một lọ nước hoa chỉ còn ¼. Các học sinh khác cười ồ lên.

Cô giáo phải ra hiệu cho các bạn im lặng không được trêu chọc bạn trước khi khen chiếc vòng thật đẹp rồi nhanh chóng đeo nó lên tay.

Cô cũng xịt một chút nước hoa lên cổ tay trước mặt các em học sinh.

Sau buổi học hôm đó, Lý nói với cô giáo một câu rồi mới về: “Cô Trương, hôm nay trên người cô có mùi rất giống mẹ em trước đây.”

Khi các bạn nhỏ đã về hết, cô Trương ngồi lại lớp hồi lâu. Cô đã khóc mất hơn một tiếng.

Sự thay đổi tích cực

Từ hôm đó, cô không còn nghiên cứu về việc làm sao để dạy bọn trẻ đọc, viết hay làm toán mà nghiên cứu về việc làm thế nào để giáo dục các em học sinh.

Cô Trương bắt đầu chú ý đến Tiểu Lý. Khi học cùng cô, cậu bé ngày càng cho thấy mình là một đứa trẻ năng động là linh hoạt. Càng được cổ vũ, phản ứng của cậu bé càng trở nên nhanh nhẹn.

Cuối năm đó, Tiểu Lý trở thành đứa trẻ thông minh nhất lớp. Mặc dù cô giáo nói sẽ yêu thương và đối xử bình đẳng với tất cả các bạn trong lớp nhưng Tiểu Lý đã trở thành “con cưng” trong mắt cô.

Một năm sau đó, cô Trương phát hiện một mảnh giấy nhỏ trong khe cửa. Là của Tiểu Lý. Cậu bé nói với cô, rằng cô là cô giáo tuyệt vời nhất mà cậu gặp trong đời.

6 năm nữa trôi qua, cô Trương lại nhận được một mảnh giấy khác của cậu học trò nhỏ. Tiểu Lý viết rằng cậu bé đã tốt nghiệp trung học phổ thông, đứng thứ ba trong lớp về thành tích học tập và cô vẫn là giáo viên tuyệt vời nhất cậu gặp trong đời.

Nhiều năm sau nữa, cô Trương tiếp tục nhận được một là thư. Lần này Tiểu Lý viết, khi nhận tấm bằng cử nhân loại xuất sắc, cậu đã quyết định sẽ ở lại trường tiếp tục học lên và cô Trương vẫn là giáo viên tuyệt vời nhất mình được gặp trong đời.

Tuy nhiên lần này, phần ký tên có sự thay đổi và dài hơn một chút: Tiến sỹ y khoa Lý Đức Huệ.

Mùa xuân năm đó, Lý lại gửi cho cô Trương một lá thư, nói là mình sắp kết hôn, không biết cô có muốn tham gia hôn lễ của cậu hay không và cô sẽ ngồi vào vị trí của mẹ chú rể.

Tất nhiên là cô Trương đã đồng ý. Hôm đó, cô đã đeo chiếc vòng mà cậu bé Lý tặng năm nào, xịt một chút nước hoa mà mẹ cậu bé đã từng dùng trước đây.

Gặp lại nhau, hai cô trò ôm nhau thật chặt. Lý Đức Huệ thì thầm vào tai cô: Cảm ơn cô, cô Trương, con vô cùng cảm ơn cô đã cho con biết mình có thể làm được nhiều việc mà trước đây con không nghĩ tới.

Còn cô Trương lúc này cũng không ngăn được nước mắt, nghẹn ngào nói: Tiểu Lý, con nhầm rồi, là con đã dạy cho cô nhiều điều. Cho đến khi gặp được con, cô mới biết làm giáo viên là phải như thế nào!

Lời bình

Hy vọng rằng câu chuyện này có thể lan tỏa đến tất cả những người đang làm giáo viên, những người đang làm công tác giáo dục.

Trong câu chuyện này, chúng ta đã nhìn thấy một phương pháp giáo dục hiệu quả mà một phần trong đó đến từ những lời nhận xét chi tiết, đầy quan tâm mà giáo viên ghi lại trong sổ học bạ của học sinh cuối mỗi năm học.

Chúng ta cũng đã nhìn thấy trách nhiệm của một giáo viên ưu tú, cô đã suy nghĩ nghiêm túc về công việc của mình trước đây và bắt tay vào thay đổi. Cô đã nghiêm túc hoàn thành công việc trồng người của chính mình và ở một mức độ nào đó, cô đã thành công.

Vị giáo viên ấy đã giữ cho mình một trái tim nhân ái, tình nguyện vì học sinh mà thay đổi, dùng hành động thực tế của mình để trao cho học sinh sự cổ vũ mạnh mẽ nhất.

Với một đứa trẻ, cô giáo quan trọng biết nhường nào, các em rất cần tình yêu của các thầy cô giáo.


st.


Christmas%20Tree%20Outdoors%20Under%20Moonlight%20Greeting%20Card%20for%20Sale%20by%20Carson%20%20Ganci



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Dec/2020 lúc 8:40am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23873
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Dec/2020 lúc 9:38am
Xin Lỗi Hoa Hường


Does%20Every%20Rose%20Have%20a%20Thorn?%20|%20Wonderopolis

Tên thật: Nguyễn Cao Thái. Sinh năm 1959 tại Huế. Vào Saigon 1968, và vượt biên đến Mỹ 1979. Hiện định cư tại San Jose, CA cùng gia đình, đã góp cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12 nhiều bài viết linh hoạt. Bài viết mới củaThaiNClần này là không phải là chuyện trên đất Mỹ, mà là chuyện trong ký ức của một Việt kiều từ Mỹ trở lại thành phố cũ.

***

“Bánh mì đây, Bánh mì nóng đây”
“Aiìi mua bánh mì không?”
Tiếng ai kéo dài nghe như là tiếng ải lảnh lót của con nhỏ bán bánh mì đêm đã xuất hiện đầu ngỏ. Thằng Cọp và thằng Thọ, hai thằng vừa là bạn cùng lớp vừa là hàng xóm kế nhà nhau, núp dưới lùm cây đưa mắt ra hiệu chuẩn bị. Đêm nay hai thằng sẽ cùng nhau một trò chơi hứa hẹn vô cùng lý thú.
Hàng rong buổi tối là một nét đặc thù của Huế. Có tối nào mà thiếu vắng tiếng mì gỏ của ông Tàu già, tiếng chè gánh, hột vịt lộn, và … bánh mì nóng mới ra lò đã trở thành những thứ quen thuộc. Chỉ có điều lạ thằng Cọp và Thọ để ý là từ hai tuần nay, tiếng rao quen thuộc của thằng bán bánh mì đã không còn nữa mà đổi thành giọng rao lanh lảnh của một đứa con gái mà hình như cũng còn nhỏ lắm cở Cọp và Thọ thôi. Hai đứa đang học lớp ba trường tiểu học Phú Mỹ. Tụi nó tính sẽ phá con nhỏ này một trận.
Đêm nay là đêm thi hành kế hoặch.
Biết giờ con bán bánh mì sắp đi qua, hai thằng hẹn nhau chờ sẵn núp trong lùm cây. Khi tiếng rao hàng tới gần và thấy con nhỏ vác bao bánh mì trên vai gần tới, thằng Thọ bụm mủi, giả giọng khò khè như người lớn kêu “bánh mì!” Con nhỏ bánh mì dừng lại lắng tai nghe vì tiếng kêu bất ngờ nó chưa định được phương hướng xuất phát. Thằng Thọ lại kêu lên lần nữa “bánh mì”. Lần này thì con bé định được hướng, đi về phía cổng. Sau cái cổng chính là gần chục nóc gia với ánh đèn mờ leo lét kể cả nhà thằng Cọp, nhà thằng Thọ, biết nhà nào kêu? Con bán bánh mì dừng lại và cất tiếng hỏi
- Nhà mô? Nhà mô kêu bánh mì rứa?
Không có tiếng trả lời làm con nhỏ ngần ngại. Ngoài ánh đèn lờ mờ trong nhà, bên ngoài trời tối đen, vài ánh sao yếu ớt không đủ soi năm ngón tay. Nó lại hỏi lần nữa, đầy hy vọng
-Ai rứa? Ai kêu bánh mì rứa?
Đến lượt thằng Cọp ra tay. Nó cũng bụm mủi lại như thằng Thọ vừà hú vừa nói giọng nghe thật rùng rợn trong lúc thằng Thọ thì cố thở phì phì thiệt lớn “Hú húuuu. Ma đây! Ta là Ma đây phhhùùùù. Mi tên chiii?” Nghe ba chữ Ta là ma con bán bánh mì muốn rụng rời chân tay, hồn vía nó lên mây, ba chân bốn cẳng bỏ chạy, không để ý ma này kỳ ghê chỉ dám núp trong xó tối doạ chứ không dám hiện hình ra mà nhát.
Thằng Cọp và thằng Thọ ôm miệng cố nhịn cười thành tiếng khi thấy con bánh mì hối hả chạy, vấp phải một rể cây, té bổ sóng soài trên mặt đất. Chắc là đau lắm, nhưng con bé không dám chần chừ, lật đật ngồi dậy xốc lại bao bánh mì móp méo rồi ù té chạy tiếp, để quên lại một chiếc dép bị văng ra lúc té xuống.
Đợi cho con bé chạy xa rồi, hai thằng mới ôm bụng cười nắc nẻ. Người ta nói con gái là chúa sợ ma quả nhiên là đúng thiệt. Mới phì phì mấy cái là đã vắt giò lên cổ.
Đang cười khoái chí, thằng Thọ ngưng lại, lượm chiếc dép của con bán bánh mì lên giọng lo ngại
- Chết cha. Lỡ mai hắn trở lại kiếm chiếc dép này rồi vô mét ba tao hay ôn mi là bị đòn mi ơi.
Thằng Cọp trấn an
- Để tao cất vô nhà. Nó khỏi kiếm được đi.
- Rồi lỡ ôn mi thấy hỏi thì răng?
Thằng Cọp ngần ngừ một chút, rồi cầm chiếc dép đến bên cái ao cạn đầy rác và muỗi gần đó rồi quăng xuống. Xong. Có trời mới biết.
Thằng Thọ gật gù khen: mi giỏi thiệt.

*
Đã mấy ngày rồi không thấy con bán bánh mì tới kiếm chiếc dép và cũng không thấy nó rao bán qua xóm nhà của Cọp và Thọ nữa làm cả hai thằng đều thắc mắc và ái ngại, nhất là thằng Cọp.
Bẳng thêm vài ngày nữa, bỗng giữa một đêm mưa rả rích, thằng Cọp mừng khấp khởi khi lại nghe tiếng rao lảnh lót trộn trong tiếng mưa rơi
“Bánh mì đây. Bánh mì nóng đây”
“Aaiììi mua bánh mì không”
Vẫn tiếng ai kéo dài của con bán bánh mì làm thằng Cọp bỗng thấy nao nao trong dạ. Nó nhìn ra ngoài trời đang mưa rỉ rả. Thỉnh thoảng vài cơn gió mạnh rít lên dữ tợn luồn dưới mái tôn làm rung chuyển cả mái nhà. Chắc có bão đâu đó nên mới có gió mạnh như vậy. Đang ở trong nhà mà thằng Cọp còn cảm thấy lạnh, mà ngoài kia con bé bán bánh mì đêm đang đội mưa đón gió …
Thằng Cọp nhìn ông nội nằn nì
- Ôn ơi con muốn ăn bánh mì.
Ông nội Cọp ngạc nhiên. Đây là lần đầu tiên Cọp đòi ăn đêm. Đúng lúc đó, bà nội cũng lên tiếng
-Con cái nhà ai giờ chừ mưa gió như ri mà còn đi bán.Tội quá. Kêu vô mua mấy ổ dùm nó đi ôn.
Ông nội Cọp không nói gì, đứng dậy kiếm cây dù và cái đèn PIN mở cửa bước ra. Đợi tiếng rao tới thật gần, ôn gọi
-Bánh mì, vô đây mua.

Con bán bành mì dừng lại hỏi câu thường lệ của nó

-Nhà mô rứa. Nhà mô kêu bánh mì rứa?

Ông nội Cọp căng cái dù lên, bật đèn pin dọi về phía trước và bước ra đón.

Con bán bánh mì đã thấy ông nội Cọp với ánh đèn pin sáng chói nên nó yên tâm tìến về phía nhà Cọp.

Khi ông nội và con bé bước vào, thằng Cọp bỗng thấy hồi hộp. Nó đâu có đói đúng gì mà đòi ăn. Nó cũng như bà nội chỉ muốn mua dùm cho con bán bánh này vài ổ kẻo tội nghìêp. Trời mưa bão như ri nhà người ta đóng kín cổng lo ngủ chứ ai mà ăn bánh mì. Và điều quan trọng hơn hết là tự nhiên thằng Cọp nổi tính tò mò muốn biết con bán bánh mì này là ai.

Con bán bánh mì đêm đã bước vào nhà. Toàn thân nó được bao kín mít bằng chiếc áo tơi lính và cái nón lá. Sau lưng nó nổi u một cục của cái bao bánh mì..

Một cách từ tốn, con bé tháo cái áo mưa ra trước để xuống góc nhà, và hạ bao bánh mì xuống cạnh bên. Xong rồi nó tháo chiếc nón ra để lên cái áo mưa, dùng cả hai tay vuốt những giọt nước mưa còn đọng trên mặt, từ trước vuốt ra sau, tụm lại mái tóc cho gọn gàng.

Thằng Cọp la lên thất thanh

-Ê Hoa, mi bán bánh mì hả?

Con Hoa bán bánh mì bây giờ mới thấy thằng Cọp ngồi ở góc nhà. Nó cũng kêu lên ngạc nhiên: -Ủa, Cọp. Mì ở đây à.

Thì ra là con Hoa bạn học chung trường Phú Mỹ mà. Cọp học lớp 3B con trai, còn con Hoa 3A con gái. Không chung lớp nên tụi nó chỉ biết nhau sơ sơ. Cọp là con trai đâu chịu chơi với con gái! 

*
Có ai đó nói rằng Huế là của quá khứ, không phải là hiện tại và càng không thể là tương lai. Hôm nay Cọp ngồi một mình trong quán vắng để vọng về quá khứ đó.
Bên ngoài trời vẫn đổ mưa, như là cơn mưa chưa bao giờ ngừng từ cái đêm con Hoa vô bán bánh mì ở nhà Cọp. Đêm đó sau khi con Hoa bước ra, ông nội Cọp lấy cái ly bỏ sữa đặc để Cọp chấm ăn với bánh mì. Đây là món khoái khẩu của Cọp. Vậy mà hôm đó Cọp ngồi thẩn thờ không nuốt nổi miếng nào. Cọp ráng lắng tai nghe tiếng con Hoa hòa lẫn cùng tiếng mưa “ăaìi mua bánh mì không?” mà nghe như tiếng nó đang réo rắt “Ai mua bánh mì dùm con…mua dùm con. Trời mưa quá.” Cọp cầu sao nghe được tiếng con Hoa dừng lại hỏi “ Nhà mô? Nhà mô kêu bánh mì rứa?”… Không biết con Hoa có phải bán hết bánh mì rồi mới được về nhà? Cọp tiếc là hồi nãy không nói ông nội mua hết dùm nó. Thằng Cọp ngồi thẩn thờ. Miếng bánh mì lúc mới bẻ ra còn nóng hổi bốc khói nay đã lạnh ngắt. Vài chú ruồi đêm đánh hơi mùi sữa bay lại đậu trên vành ly chờ cơ hội nhào xuống Cọp cũng không buồn để ý. Cọp chỉ thấy lờ mờ đôi bàn chân gầy guộc của con Hoa mang hai chiếc dép khác nhau xiêu vẹo trên con đường lầy lội, và tiếng rao của nó nhỏ dần… nhỏ dần. Bỗng nhiên Cọp thấy buồn quá. Thiệt là buồn.
Những ngày sau đó gặp nhau trong trường thằng Cọp cứ lén nhìn xuống chân con Hoa và thấy nó vẫn còn đeo hai chiếc dép khác nhau. Té ra con Hoa nghèo quá chưa đủ tiền mua đôi dép khác lại càng làm Cọp bứt rứt thêm. Cọp ước chi con Hoa là con trai. Cọp có nhiều dép dư lắm. Dép nó chưa kịp mòn thì ba mạ Cọp đã mua cho đôi khác. Ông nội Cọp thấy tiếc nên giữ lại những đôi củ nhưng vẫn còn tốt chán. Cọp sẽ cho con Hoa một đôi. Nhưng nó là con gái thì đời nào chịu mang dép con trai? Mà nếu Cọp hỏi mua dép con gái, ai hỏi Cọp biết trả lời răng? Dị chết.


Cứ vậy mà mỗi ngày đến giờ ra chơi là thằng Cọp lại nhìn chân con Hoa. Ngày lại ngày qua, con Hoa vẫn hai chiếc dép khác màu mà thằng Cọp vẫn chưa nghĩ ra được cách nào để đền cho Hoa đôi khác.
Rồi tết đến.
Chẳng may đây là cái tết tàn khốc nhứt trong lịch sử của Huế. Tết 1968.
Và ba Cọp quyết định đưa gia đình nó vào Sàigòn sinh sống, tìm nơi an toàn.
Cọp phải ra đi trước khi có cơ hội đền cho Hoa đôi dép. Lời xin lỗi mà Cọp ấp ủ thế là không còn dịp để nói ra nữa rồi!

Bây giờ cũng sắp tết. Cái tết năm 98.
Ba mươi năm…
Cọp về làm khách phương xa ngay trên quê hương của mình. Rời đất Thàn Kinh từ năm ấy Cọp chưa lần nào có dịp trở lại. Vận nước đổi thay đã đẩy đưa Cọp đi thật xa, qua tận bên kia bờ đại dương.
Vài năm trước đây, gặp lại Thọ tại Cali, mừng mừng tủi tủi, Thọ đã kể lại cuộc đời buồn thảm của Hoa.
Thọ sau này cũng biết con nhỏ bán bánh mì bị dọa ma chính là Hoa. Nhưng nó hoàn toàn vô tâm không để ý chuyện chiếc dép. Sau Mậu Thân, khi mọi chuyện đã yên, thằng Thọ, con Hoa và bao đứa trẻ khác cũng trở lại trường. Tới khi Thọ đậu đệ thất trường Quốc Học, nhưng Hoa đã không vào được Đồng Khánh như ước mơ. Thọ và Hoa không gặp nhau từ đó. Bẳng đi một thời gian khá lâu sau, Thọ tình cờ gặp một người quen cho biết Hoa không có chồng mà lại có một đứa con gái. Cuộc sống nghèo khổ cùng cực đến nổi Hoa mang bệnh nặng, không tiền thuốc thang nên đã chết rồi. Đứa con nó lúc đó mới khoảng hai tuổi, mạ chết, ba không có, không biết lưu lạc về đâu.
Cọp bùi ngùi nghe Thọ kể. Thực ra thì Hoa và Cọp cũng không phải là bạn thân thiết gì để mà tiềc nuối. Nhưng đã từ lâu, hình ảnh con Hoa mang hai chiếc dép khác nhau với túi bánh mì giữa một đêm mưa không hề phai nhạt trong tâm trí của Cọp. Mỗi lần cầm ổ bánh mì nóng hổi nào trong tay là ký ức Cọp như tự động quay lại khúc phim năm xưa…
Đêm nay trời cũng mưa.
Cọp trở về xóm cũ để tìm lại ngày xưa. Nhưng ngày xưa đâu còn nữa! Và người xưa cũng không thấy ai. Cọp lang thang quanh quẩn trên con đường quen thuộc của quảng đời ấu thơ mà thấy như đang lạc loài ở một nơi xa lạ. Còn gì nữa đâu! Những bãi cỏ xanh mướt hai bên đường, những vườn cây đầy trái, những dàn bông Cẩn đỏ rực… tất cả chỉ còn là quá khứ. Thay thế vào đó là những ngôi nhà sát rịt nhau, hàng quán chi chit. Cọp lang thang quanh quẩn ở đây từ sáng đến tối, chỉ mong được nghe một tiếng “ Cọp” của một người quen biết nào đó còn xót lại, nhưng vẫn chưa ai.
Cọp chọn quán này để ngồi đêm cuối cùng ở đây. Theo Cọp thầm tính thì nơi đây chính là cái ao cạn mà ngày xưa Cọp một lần nhẫn tâm quăng chiếc dép con Hoa xuống. Thời gian có thể làm kỷ niệm nhạt phai, nhưng sao vẫn không xoá đi được một lỗi lầm nhỏ của thời non dại.

“ Vé số đây. Vé số đây. Aaìii mua vé số không”
Đang bâng khuâng thả hồn về dĩ vảng, Cọp giật mình vì tiếng rao bán vé số. Cái tiếng AI kéo dài thành tiếng Ảỉ nghe thật là quen thuộc. Cọp nhìn ra phía ngoài thấy có một con bé toàn thân kín mít trong tấm áo mưa và chiếc nón lá, nhưng bàn tay nhỏ bé đang chìa ra khỏi áo cầm một cọc vé số dược bao kín bằng bao nylon, phất qua phất lại chào mời. Như có cái gì thúc đẩy, Cọp đưa tay gọi con bé vào.
Nghe tiếng gọi, con bé mừng lắm quày quả bước tới. Trước hết nó tháo cái aó mưa thả xuống nền, bỏ nón lá xuống, và lấy cả hai tay vuốt hết những giọt nước mưa trên mặt rồi kéo cả đôi tay ra phía sau túm mái tóc lại cho gọn. Cọp suýt nữa kêu lên. Ngày xưa con Hoa khi vào nhà nó bán bánh mì cũng làm những động tác như cô bé này. Và khi nó tiến lại gần thì, trời ơi, hình như là nó giống con Hoa lắm! Cọp nói “hình như” bởi vì đã ba mươi năm rồi, ký ức dù sao cũng đã nhạt phai.
Cọp ra dấu cho con bé ngồi xuống.
-Con còn nhiều vé sô không? Cọp hỏi
-Chừng ni. Con bé đưa hết cả bọc cho Cọp.- Mai xổ rồi chú. Dễ trúng lắm.
Cọp đang bồi hồi trong dạ cũng suýt bật cười.
-Mai xổ rứa con nhắm bán hết không?
Khuôn mặt nó có vẻ đăm chiêu, thở nhẹ
-Chắc là không mô chú ơi. Dạo ni cái chi cũng ế ẩm…
-Vậy chú mua hết số vé này …được không?
-Dạ được chơ- nó hí hửng- Cám ơn chú.
-Nhưng mà chú hỏi con mấy điều này con phải trả lời thiệt nghe?
Nó có vẻ chần chừ- Da…được.
Cọp thấy gương mặt con bé xịu xuống như sợ Cọp sẽ không mua hết vé số nếu nó không trả lời được, làm Cọp thấy bất nhẫn, vội vàng trấn an
-Thôi coi như chú mua hết rôì đó. Chừ con biết thì trả lời. Không thì thôi.
-Dạ. Chú hỏi chi ? Con bé nói như reo, sợ Cọp đổi ý.
- Con tên chi? Mấy tuổi rồi?
- Tên Hường. Mười tuổi.
- Rứa mạ con tên chi? Cọp hồi hộp chờ.
- Con không biết.
Câu trả lời làm Cọp thất vọng. Tại sao nó không biết ? Nhìn mặt nó buồn buồn như có điều chi tâm sự.
- Con 10 tuổi rồi mà không biết tên mạ con à?
Hường mắt đỏ hoe ngập ngừng
-Con nói thiệt… Mạ con chết rồi, lúc con còn nhỏ nên con không biết tên mạ con.
Cọp bỗng thấy hối hận khi không lại khơi dậy nỗi buồn của con bé.
-Còn ba con mô?
-Con không có ba. Con chỉ nhớ là mình có mạ thôi. Con không có ba.
Cọp hỏi thêm:
- Mạ con làm răng mà chết?
-Họ nói là mạ con nghèo quá, không có tiền mua thuốc nên bịnh quá chết.
Có thể nào đây là một sự trùng hợp không? Con bé này tên là Hường, cái tên mà Cọp cảm thấy có một sự liền lạc với tên Hoa. Hoa Hường. Nó không có ba, và mạ nó nghèo bịnh không có tiền thuốc men mà chết. Cọp buột miệng hỏi:
- Có phải mạ con tên Hoa không?
Hường ngơ ngác
-Con không biết. Mà răng chú nói mạ con tên Hoa?
Cọp chưa kịp trả lời, con bé đã vội vàng đứng dậy.
-Chú ơi con phải về, không thôi trể giờ họ đóng cửa. Cám ơn chú.
Nói xong nó lấy nắm tiền của Cọp đưa không kịp đếm, khoác vội chiếc aó mưa băng mình ra cửa thật mau.
Cọp ngẩn ngơ trông theo và kịp thấy con Hường bị trợt chân ngã sóng soài. Như một phản xạ Cọp la lên.
- Coi chừng Hoa … và phóng mình theo.
Tới ngang ngưỡng cửa Cọp thấy một chiếc dép của con Hường lúc té bị sút ra. Cọp cầm chiếc dép xỏ vào chân con Hường đang ngồi suýt soa.
-Con có sao không?
Con bé Hường không trả lời. Nó thân thiết dựa vào Cọp và hỏi lại.
- Chú ơi, răng mà chú kêu con là Hoa rứa? Mạ con tên Hoa thiệt hả chú? Chú biết mạ con hả chú?
Cọp lặng thinh. Con Hường nhìn mặt Cọp hỏi
- Răng mà chú khóc?
Cọp chùi mặt
- Không phải mô. Nước mưa đó.
Con Hường bỗng đứng dậy hốt hoảng.
-Chú ơi con phải về. Trễ rồi.
Nó vùng đứng dậy chạy được mấy bước, chợt quay lại nói;
-Chú là bạn của mạ con thiệt hả chú? Chú có hình của mạ không? Tối mai chú tới đây nữa cho con coi hình của mạ con nghe chú?
Nó hỏi một hơi và băng mình chạy đi không cho Cọp kịp trả lời một câu nào.
Bóng Hường đã khuất vào màn đêm mà Cọp vẫn đứng bất động.
Mưa vẫn rơi…
Đứa bé này có phải là đứa con mồ côi của Hoa không? Hay nó chỉ là một trong muôn ngàn đứa bé lam lũ kiếm sống khắp nẻo đường quê hương? Cọp nhớ lại lúc xỏ chiếc dép cho con bé Hường, nó thấy một cảm giác rất ấm áp, thân tình. Cọp bỗng thấy tiếc là ngày xưa phải chi Cọp cũng biết cầm chiếc dép trả lại cho con Hoa thì biết đâu chừng mọi sự sẽ khác đi một chút, tốt hơn một chút? Phải chi cái nghèo không đeo đuổi cuộc đời của mạ con Hoa, nếu bé Hường chính là con gái của Hoa. Và, phải chi không hề có cuộc chiến để ba con Hoa không đi lính chết để Hoa không phải đi bán bánh mì mưu sinh lúc tuổi còn thơ. Phải chi Cọp có thể mua vé số cho bé Hường hằng ngày. Phải chi, phải chi…
Suy nghĩ mông lung không làm Cọp quên rằng sớm mai Cọp phải rời Huế trở lại Sàigòn để kịp chuyến bay về Mỹ. Vợ và con đang chờ Cọp ở Cali.
Chiều mai khi con Hường trở lại đây, chắc là nó sẽ ngồi chờ và thắc mắc cái ông tốt bụng hôm qua đi mô mà lỗi hẹn với nó? Có lẽ hôm sau, rồi hôm sau nữa…nó cũng sẽ tới đây với hy vọng thấy được hình và nghe chuyện của mạ nó. Không biết là nó sẽ chờ đến bao lâu vì không ai nói cho nó biết rằng cái ông đó bây giờ đã ở xa, xa lắm…
“Xin lỗi Hoa – Xin lỗi Hường”./.

ThaiNC
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23873
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Dec/2020 lúc 10:24am

Ngọn Nến Lung Linh

dunghennessy:%20ẢNH%20ĐỘNG%20"CÁC%20NGỌN%20NẾN"

Tôi không nhớ được mùa Giáng Sinh năm ấy tôi bao nhiêu tuổi, nhưng chắc chỉ độ lên mười. Có lẽ đó là một mùa Giáng Sinh khá buồn và ảm đạm vì các anh chị tôi đi làm, đi học xa chưa về kịp, ở nhà quạnh quẽ chỉ còn hai mẹ con. Thời thơ ấu, tôi thèm lắm những bóng đèn xanh đỏ chớp nháy trên cây Giáng Sinh, một hang đá bằng giấy quết mực đen với những tượng Thánh xinh xinh bằng đất nung. Nhưng mộng ước ấy xa vời lắm đối với một đứa trẻ mười tuổi quá bé bỏng, trong lúc mẹ tôi xoay sở lo cho các con cơm ăn áo mặc là một gánh nặng nhọc nhằn, trên đôi vai bé nhỏ của người đàn bà góa bụa.

Là một đứa trẻ con, nhưng dường như ông Trời đã cho tôi một tâm hồn khá nhạy cảm để âm thầm tìm niềm vui cho mình từ những nhỏ nhoi nhất. Bởi vậy, đêm Giáng Sinh năm ấy dù không có đèn sao nhấp nháy, những trái châu xanh đỏ, nhưng tôi đã biết dùng những chiếc kẹo đủ màu để treo lên nhánh cây dương xỉ nhặt được trong khu nhà thờ, khi người ta đến đó trang hoàng hang đá cho mùa Giáng Sinh. Duy nhất một ngọn nến trắng bập bùng, ánh sáng lung linh hắt lên tường bóng một cành cây và một bóng người. Ngọn nến trắng đêm ấy đã làm cho cành cây và cái bóng của đứa trẻ thơ như lớn hơn, in lên tường chập chờn một giấc mơ tuyệt vời ấm áp. Tôi không nhớ được hết cảm giác đó vì thời gian qua đi khá lâu, nhưng cảm nhận về ngọn nến trắng thời thơ ấu đã giúp tôi vượt qua nhiều nỗi buồn, mỗi khi lẻ loi, thất vọng, tôi vẫn cứ nhớ hoài ngọn nến trắng mùa Giáng Sinh năm tôi mười tuổi. Tôi còn nhận được một món quà đặc biệt của bà hàng xóm, bạn của mẹ tôi, cho đến bây giờ dù thời gian qua đi mấy chục năm, tôi vẫn hình dung ra được hình dáng và mùi vị của nó: một củ khoai lang nướng.

Món quà Giáng Sinh nghèo nàn của bà hàng xóm quê mùa thật vừa bụng tôi lắm, dù rằng mẹ tôi có làm vài món ăn đặc biệt cho ngày Lễ. Tôi mơ màng nhìn ngọn nến lung linh soi lên cây Giáng Sinh của tôi, cứ gọi như vậy vì nó là niềm vui có thể làm được của một đứa trẻ con mười tuổi, củ khoai nướng gói trong mảnh lá chuối còn nóng hổi, mùi mật ngọt của khoai bốc lên thơm lừng, mùi rơm rạ hình như còn ủ trong lớp vỏ khoai cháy xém. Nụ cười trìu mến trên khuôn mặt hiền lành của bà hàng xóm, khi đưa cho tôi món quà Giáng Sinh nghèo nàn ấy. Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ khuôn mặt quê mùa, chân thật của bà, củ khoai lang nướng đêm Giáng Sinh ngày thơ ấu đã theo tôi vào đời. Khi trưởng thành, những lúc bụng đói mắt cay, đời gặp lúc gian nan, buồn tủi, tôi cũng nhớ củ khoai nướng, nhớ mùi khoai lang nướng. Khi sung sướng hạnh phúc ở quê người, đời no đủ những cao lương mỹ vị, tôi cũng nhớ mùi khoai nướng. Phải chăng trong tôi vẫn vấn vương thứ TÌNH NGƯỜI nhỏ nhoi ấy, không thể mua được bằng tiền...

-2-

Tôi yêu đóm lửa ngọn nến trắng từ hồi còn thơ ấu, chắc là ngọn nến sáng mùa Giáng Sinh năm xưa cũng đi theo tôi đến những chặng đường còn lại của đời người. Có một câu chuyện tôi sắp kể ra đây, đó là câu chuyện của ông cụ Rôbéctô tôi có dịp gặp ở ngôi nhà nguyện. Mỗi ngày, sau Thánh Lễ buổi sáng, mọi người đã lục tục ra về, ngôi nhà nguyện đóng kín cửa như chìm trong yên lặng và bóng tối, chỉ còn lại duy nhất một ngọn nến trắng trên bàn thờ. Ánh nến hắt lên tường những chấm sáng lung linh, soi lên bức tượng Đức Mẹ bồng con bằng thạch cao trắng toát. Nến trắng và tượng trắng, tất cả chỉ là một màu trắng nhưng nghe trong thinh lặng chút bình an tràn ngập tâm hồn.

Tôi ngồi lại một lúc giữa những hàng ghế chỏng trơ không còn ai, nhìn chăm chăm lên ngọn nến. Tôi ở lại một mình chỉ vì thích đóm lửa nhỏ nhoi của ngọn nến, say sưa nhìn đóm lửa lay lắt tỏa ánh sáng hắt hiu xuống chiếc khăn trải bàn cũng màu trắng, trong cái tĩnh lặng của tâm hồn. Tôi không cầu nguyện gì đâu, nhưng cảm giác bình yên khi nhìn ánh sáng của cây nến trắng đã rất đủ. Chắc hẳn trong mỗi đời người ai cũng có lúc thèm sự yên tĩnh của tâm hồn. À không, ở dãy ghế bên kia còn một ông già Mễ Tây Cơ, ông vẫn quỳ im lặng nhìn lên ngọn nến như tôi vậy, nhưng khác hơn là miệng ông mấp máy cầu nguyện. Mặt ông héo quắt với chòm râu bạc, đôi mắt đăm đăm nhìn lên ngon nến, nét mặt thành khẩn như đang cố bám lấy một niềm hy vọng nơi bức tượng Thánh trên bàn thờ.

Buổi sáng nay đi ngang công viên để đến nhà nguyện, tôi đã nhìn thấy mùa Đông trở về, một rừng lá vàng khô xôn xao đuổi nhau lăn xuống cuối dốc, trơ lại những nhánh cây khô, treo trên đó là những thân tầm gửi đang đong đưa theo gió sớm. Buổi sáng đầu mùa Đông mang theo chút giá buốt, khu công viên chỉ lác đác dăm người đi bộ, và những cây hoa dại có một sức chịu đựng dẻo dai, nở những bông hoa li ti trên bờ cỏ ven đường.

Khi ngọn nến tàn là lúc ấy tôi với ông già Mễ cùng ra khỏi ra nguyện. Ánh sáng leo lét của ngọn nến cháy bập bùng rồi gần như lả xuống trong lòng chiếc bình thủy tinh trong suốt, y như cái ngoẹo đầu cuối cùng của một người khi từ giã cõi đời. Ông già Mễ mỉm cười chào tôi trước sân nhà nguyện, ở đấy có một vườn hoa nhỏ và hai băng ghế dài đặt song song đối diện nhau. Có khi tôi cũng ngồi lại một chút để nhìn vẩn vơ lũ chim sẻ đang nhảy nhót trên sân tìm mồi, bỗng đồng loạt bay ào lên khi thấy có bóng người bước tới. Đôi khi tôi và ông Rôbéctô hay trao đổi vài câu chuyện nhỏ, cái miệng móm mém của ông phều phào kể cho tôi nghe những nỗi buồn nho nhỏ trong gia đình, ông hay đi nhà thờ để cầu nguyện cho đứa cháu đang đi lính ở phương xa.

Khi biết tôi ở lại một mình cũng chỉ vì thích ánh sáng lung linh của ngọn nến trắng, và câu chuyện mùa Giáng Sinh thời thơ ấu, ông RôBécTô cảm động lắm. Đôi mắt ông hấp háy, nhòa ướt qua giọng nói khàn khàn ẩm đục. Mùa Giáng Sinh đến, trời bắt đầu lạnh hơn, tôi có ý nghĩ chuẩn bị một món quà cho ông bạn già vong niên trước ngày Lễ Giáng Sinh. Có gì đâu, tôi lại nhớ đến củ khoai lang nướng bà hàng xóm tặng tôi đêm Giáng Sinh, bây giờ nghe ông Rôbéctô thích vài món ăn Việt Nam, tôi nghĩ đến chuyện tặng ông một hộp cơm rang và chục cái chả giò tôm thịt. Chẳng có gì hơn bằng một món quà đáp ứng đúng sự ưa thích của người nhận, ông Rôbéctô cảm động lắm khi nhận món quà của tôi buổi sáng trước Lễ Giáng Sinh vài hôm, tôi thấy đôi mắt ông nhòa lệ khi nắm lấy tay tôi nói phều phào những lời cảm ơn.

Tôi không nghĩ đến việc cho đi để nhận lại một món quà thật dễ thương của ông Rôbéctô vài hôm sau đó. Khi tan buổi lễ, ông gặp tôi trước sân nhà nguyện, với một gói giấy hoa thật đẹp, thì ra ông già đã nhờ cô con gái mua hộ cho tôi một món quà thật xinh: đó là chiếc áo len màu hồng nhạt. Vẫn cái giọng Mễ Tây Cơ lùng bùng những thanh âm nằng nặng, ông nói rằng món quà này thật là thích hợp cho tôi, người phụ nữ Á Đông có dáng dấp nhỏ nhắn và nước da trắng trẻo. Quả thật chiếc áo len màu hồng khi mặc vào đã làm tôi như trẻ lại hằng chục tuổi. Món quà của ông Rôbéctô đã thắp lại trong tôi ngọn nến sáng mùa Giáng Sinh năm nào, với củ khoai lang nướng khi tôi là cô bé lên mười thuở ấy...

Ông Rôbéctô đã qua đời vài năm nay, ông chết vì bịnh ung thư phổi. Những năm cuối của cuộc đời, ông không đến được nhà nguyện mỗi ngày, nhưng trước khi chết ông vẫn mong được gặp lần cuối khuôn mặt yêu thương của những người Việt ông quen biết. Rất tiếc là tôi không thường gặp ông sau này, nhưng tôi biết ông ra đi rất êm ả. Người ta kể rằng trong những giây phút cuối cùng của đời người, ông chỉ xin đốt lên cho mình một ngọn nến...

-3-

Những ngày cuối năm với những cơn mưa mùa Đông làm ẩm ướt không gian, đất trời như nặng trĩu một nỗi sầu da diết. Trong căn nhà vắng lặng, bóng chiều hình như đến vội với những giọt mưa rả rích ngoài hiên. Trời rét lắm, gió và rét khiến những chú chim sẻ nhiều chuyện không ríu rít như mọi ngày, chúng rủ nhau vào trốn gió sau bụi mía, lả mình vào hàng rào đang rung rung những chiếc lá úa. Những con chim sẻ mùa Đông trông thật dễ thương, xù lông ra tròn quay như một cụm len màu nâu xám biết nhảy nhót.

Góc vườn nơi cửa sổ nhà bếp rất khuất gió, bụi mía sắp tàn như một mái nhà tranh trống trước hở sau, che tạm cho một gia đình nghèo khổ. Sau cơn mưa, trời chuyển qua những đợt gió lạnh buốt xương, tôi đứng từ trong nhà nhìn ra khung cửa kính nhà bếp, tò mò nhìn mấy chú chim sẻ núp dưới vòm lá mía. Cũng đỡ buồn lắm khi ngắm nhìn bầy chim sẻ mùa Đông, y như những đứa trẻ bụi đời trên vỉa hè thành phố một đêm mưa nào đó, rúc vào nhau trong tấm chiếu trải bên lề đường, cuộn tròn lại với nhau đưới tấm chăn bẩn. Mấy con chim sẻ cũng khôn ngoan rủ nhau tụ vào một chỗ, có con đang co ro ngủ gật, có con mắt láo liên, thỉnh thoảng lại lách chách bay lên tàu lá như vừa tìm được một con mồi đỡ lòng cho ngày Đông buốt giá. Nhu cầu ăn để sống vẫn bắt nó phải tìm mồi dù đôi cánh lảo đảo trong gió rét như muốn rơi xuống thảm cỏ, trông thật tội nghiệp.

Đứng trong nhà nhìn qua lớp cửa kính trong suốt, ở góc phòng chớp tắt những chiếc đèn nhấp nháy trên cây Giáng Sinh, tôi thấy con chim bé bỏng đang vỗ vỗ đôi cánh nhỏ, rồi gõ cái mỏ nhỏ xíu lên mặt kính, cũng tò mò nhìn tôi, làm như nó cũng thèm thuồng được vào trú ẩn trong căn nhà có ánh đèn ấm áp. Tôi chia xẻ được gì đây? Người và chim là hai thế giới khác hẳn nhau, và có lẽ dù được cho ăn no, chú chim sẻ vẫn không thích thú gì khi bị con người giam chú vào cái lồng chim chật hẹp. Những chú chim sẻ mùa Đông như những búp len xậm màu, xếp hàng xúm xít vào nhau để trốn gió sau rặng mía ven bờ rào, lại dẫn đưa tôi đến một khía cạnh khác của con người, mà ở câu chuyện này tôi vẫn thấy cái đẹp nhỏ nhoi của Tình Người ấm áp biết bao nhiêu. Đó là câu chuyện của hai người vô gia cư, hay là chuyện "lá rách đùm lá nát" đã làm thức dậy chút bâng khuâng trong tâm hồn những quả tim chai đá.

-4-

Một buổi tối mùa Đông trước ngày Lễ Giáng Sinh, trời mưa phùn, rét như cắt ruột. Đường phố vắng xe qua lại, phía xa là những ánh đèn màu rực rỡ chớp tắt quấn trên những thân cây ven đường. Suốt một tuần sắp lễ Giáng Sinh, thời tiết bỗng dưng âm ỉ rét, những đợt gió lạnh từ hướng Bắc thổi về, người có việc ra đường co ro trong những chiếc áo ấm dày cộm và khăn phu la quấn quanh cổ. Hình như người ta ngại đi ra đường vào một tối trời mưa như vậy, chỉ còn một vài cửa hàng bán "fast food" và cà phê là còn mở cửa, có dăm người khách ngồi im lặng trầm ngâm trước khay thức ăn ăn uống uể oải. Khách đến tiệm vào giờ này có lẽ là những kẻ xa nhà, thiếu một bếp lửa hồng để sưởi ấm cõi lòng cô quạnh, ngày giáp Lễ thường sau giờ làm việc, ai nấy hối hả về nhà chuẩn bị đón mừng lễ Giáng Sinh.

Người phụ nữ bán hàng đang dọn dẹp mấy thứ lặt vặt, mong đến giờ đóng cửa để đi về, vì chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa là đến nửa đêm. Bà nghĩ đến hai đứa con đi học xa vừa về nhà với mẹ mấy hôm nay, đã lâu lắm người mẹ chỉ mong được gặp các con trong những dịp Lễ Tạ Ơn hay mùa Giáng Sinh, và bà đã chuẩn bị những món ăn truyền thống mùa Giáng Sinh cho các con từ mấy ngày hôm trước. Gia cảnh đơn chiếc vì năm ngoái người chồng đã qua đời sau một tai nạn, bà vẫn ở một mình trong căn chung cư cũ kỹ, những ngày gió mưa căn nhà nhỏ như càng ẩm ướt, lạnh lẽo.

Ngay khi ấy, cánh cửa tiệm bật mở đem theo một làn gió buốt lạnh vào trong tiệm ăn, hai người đàn ông chùm đụp trong những tấm chăn bẩn bước vào tiệm. Người phụ nữ nghĩ đó là hai người khách cuối cùng, vì bà cũng nhớ ra đó là hai người đàn ông nghèo khổ, không có một mái nhà, chỗ trú của họ là cái gầm cầu ngoài xa lộ đi về hướng Galveston. Thỉnh thoảng họ có dắt nhau đến đây, trông họ có vẻ là hai anh em, người đàn ông lớn tuổi trông vẻ mặt rất ngây ngô như một đứa trẻ chậm phát triển.

Trong hai người đàn ông ấy, ông già gương mặt đờ đẫn, ngờ nghệch nhìn thế giới xung quanh ông như nhìn một thế giới khác, thời gian đã cày lên khuôn mặt ông những nếp nhăn chằng chịt, bộ râu hung hung nay đã xám ngoét, bết vào nhau như một cụm rơm bẩn. Người đàn ông kia trẻ hơn, có đôi mắt màu xanh lơ trông hiền lành như màu biển, co ro trong chiếc áo rét bằng dạ xám bẩn và cũ. Họ rét lắm, chằng đụp lên người những quần áo và chăn bẩn, bốc lên một mùi hôi. Ngoài trời, cơn mưa phùn mùa Đông như những chiếc kim khâu luồn từng giọt căm căm vào xương tủy, gió nhiều hơn mưa, mưa và gió lại là hai vị Thần nguy hiểm của những người bần cùng, nghèo khổ.

Hai người đứng xếp hàng chờ đợi. Người đàn ông trung niên vét mãi hết túi này đến túi kia được một nắm hào lẻ, chưa đầy một đồng bạc nhưng cũng đủ mua một ly cà phê nóng. Theo quy định của cửa hàng, khách vào tiệm phải mua một món gì mới được phép ngồi lại. Trời rét ngọt ở bên ngoài, nhưng trong tiệm thật ấm vì có máy sưởi, quần áo của hai người đàn ông nghèo khổ toát ra một mùi hôi khiến những người trong tiệm phải nhăn mặt. Mua xong ly cà phê, họ vội vã dẫn nhau vào cái bàn xa nhất, như sợ rằng mùi hôi trên quần áo, cái nheo nhóc, bẩn thỉu của thân phận người nghèo cũng sẽ làm những người xung quanh khó chịu.

Người phụ nữ bán hàng để ý nhìn hai người "homeless" mà chỉ mua có một ly cà phê. Khi nhận ly cà phê trên tay bà, người đàn ông trẻ hơn vội vã đưa cánh tay dìu người đàn ông già đi về chiếc bàn trong góc tối. Hình ảnh đó khiến bà xúc động, một người "không có gì" cũng đang cố sức giúp một người" không có gì" gượng đứng trên cõi đời đầy đau khổ, khi họ nhường cho nhau ủ đôi bàn tay lạnh cóng vào ly cà phê nóng còn bốc khói. Người đàn ông trẻ hơn đẩy ly cà phê vào đôi tay ông bạn già đang run rẩy, rồi một chốc người kia lại đẩy ly cà phê sang phía người đối diện, họ cứ chuyền tay nhau ly cà phê nóng còn bốc khói mà không uống ngụm nào. Họ cần một chút ấm trong đêm nay, mà cơn gió tháng chạp lạnh lẽo đã luồn vào gầm cầu trống trải khiến họ rét run bần bật. Thời tiết và thời gian là đôi bạn đồng hành ác độc đè lên đôi vai họ một cách nghiệt ngã, để họ không còn sức chịu đựng mà chống chỏi cơn giá rét mùa Đông như những năm trước.

Người phụ nữ đứng trong quầy hàng, như bứt rứt trước cái khổ của đồng loại. Dù sao bà cũng có một mái nhà để chui ra chui vào, dù sao bà cũng có hai đứa con, và lát nữa đây khi tiệm đóng cửa, con bà sẽ đến đón mẹ về nhà để đón mừng ngày Lễ Giáng Sinh. So sánh giữa hai cái khổ, bà vẫn thấy mình hạnh phúc hơn hai người đàn ông "homeless" kia. Không biết nghĩ sao, bà móc túi tìm vài đồng bạc lẻ, và thật sung sướng khi đóng vai một người khách, bà có đủ tiền mua tặng cho hai người đàn ông nghèo khổ một khay thức ăn nóng hổi. Bà bưng khay thức ăn đến cái bàn của hai người đàn ông, với một nụ cười dịu dàng và câu chúc "Giáng Sinh Vui Tươi", bên chiếc khay còn thêm một ngọn nến trắng cắm trong cái ly nhỏ bằng thủy tinh trong suốt, bà vừa mua nó hồi trưa nay tại một tiệm chín mươi chín xu để buổi tối đặt trên bàn ăn, đốt lên ngọn lửa giáng sinh ấm áp mừng ngày xum họp trong gia đình.

Hai người "homeless" ngỡ ngàng nhìn người phụ nữ. Người đàn ông mắt màu xanh lơ có chòm râu bạc nhìn chăm chăm vào khuôn mặt của người phụ nữ tốt bụng, nói lời cảm ơn nghẹn ngào với đôi mắt rưng rưng. Ông đẩy khay thức ăn qua cho người bạn già ngớ ngẩn của mình, bằng ánh mắt thương yêu trìu mến. Ngọn nến mà người đàn bà tốt bụng vừa đốt lên để mừng Giáng Sinh, cho họ một cảm giác tuyệt vời hạnh phúc, vì họ đang tận hưởng được sự trân trọng như những con người bình thường trong xã hội.

Sau khi ăn xong khay thức ăn, người đàn ông trẻ tuổi dọn dẹp rồi lại dìu người bạn già ra khỏi tiệm ăn. Đi qua chỗ người phụ nữ, ông ta ngước đôi mắt xanh và mấp máy một lời chúc tốt lành nhất mùa Giáng Sinh đến người phụ nữ, họ mỉm cười với nhau. Đã tới giờ đóng cửa, hai kẻ cùng khổ không nhà ấy dẫn nhau trở về cái dạ cầu, nơi trú ẩn của họ hằng bao nhiêu năm nay, họ xin người đàn bà cho họ mang theo ngọn nến trắng. Bụng đã no, lòng đã ấm vì tình người như một món quà Giáng Sinh quá bất ngờ, vừa rơi xuống từ Trời để họ biết là vẫn còn những tấm lòng tử tế trên cõi đời này. Người phụ nữ cũng sửa soạn ra về, mang theo trong lòng một niềm vui nhỏ nhoi mà thật là ấm áp. Đôi mắt xanh hiền hậu của người "homeless" nhìn bà lúc nãy trông quen quá, dường như bà đã nhìn thấy ở đâu? Sau một phút nghĩ ngợi, bà chợt "à" lên một tiếng nhỏ. Phải rồi, đó là đôi mắt tượng Chúa treo trên vách nhà nguyện, ngồi giữa một bầy trẻ thơ đang ríu rít đứng xung quanh.

-5-

Người ta kể cho tôi nghe một câu chuyện khác, lần này thì tôi nhớ ra ông Tom, người đưa thư da đen quen thuộc vùng ngoại ô SouthEast. Ông Tom gốc gác người Phi Châu, da đen bóng, tổ tiên ông bao đời đã từng sống nơi vùng đầm lầy Lousiana, người du lịch đó đây có thể thấy bên ven đường đi Baton Rouge, đài kỷ niệm những bước chân đầu tiên của người nô lệ da đen trên xứ Mỹ.

Ông Tom làm nghề phát thư cho khu vực này khá lâu, từ khi hàng cây sồi ven đường còn bé tý, những căn nhà khang trang thuở ấy nay đã cũ kỹ, và chủ nhân những căn nhà ấy bây giờ có thể là một bà cụ già đi không vững, đám trẻ đã đi đâu mất, chỉ còn những tiếng chim ríu rít trên rặng sồi là còn y nguyên. Ông Tom biết hết những căn nhà trên con đường River, biết cả những căn nhà lần lượt đổi chủ, và những phụ nữ xinh đẹp dễ thương năm nào, nay bước vào tuổi già còn lại một mình trong khu nhà êm ả đầy bóng cây râm mát.

Ông Tom thân với cụ Mary nhất, cũng từ cái hôm ông bị một con chó trong khu vực ra được cổng rào, rượt ông chạy trối chết rồi vấp chân vào bậc xi măng bên vệ đường, ngã lăn ra trước cổng nhà cụ Mary, đúng vào lúc bà cụ ra mở thùng thư để lấy thư như thường lệ. Bà cụ nhìn người đưa thư da đen ái ngại, rồi bà mời ông vào ngồi nghỉ trên chiếc ghế đá ở sân trước, trong khi ông Tom chưa hoàn hồn vì cái ngã đau làm đầu gối ông bị trầy trụa, rướm máu.

Bà cụ Mary vào nhà, lúc trở ra bà bưng cho ông một ly nước cam, với một túi vải đựng dăm thứ thuốc sát trùng và băng cá nhân. Bà dịu dàng bảo ông Tom vén ống quần lên cho bà xem vết thương, nhẹ nhàng lau vết thương cho ông rồi băng lại cẩn thận. Ông Tom cảm thấy dễ chịu quá, trước kia ông vẫn ngấm ngầm cho rằng đâu đó là sự chia cách của màu da, của con người giữa những tầng lớp xã hội, và những đau buồn của dĩ vãng từ đời tổ tiên khiến ông có ít nhiều mặc cảm với người da trắng. Hai người mỉm cười với nhau, chỉ có thế mà ông Tom nhớ mãi vì hôm ấy là một ngày đẹp nhất của mùa thu...

Từ đó họ thành đôi bạn vong niên của nhau. Ông Tom cũng biết thêm bà cụ Mary sống cu ky có một mình, con cháu bà ở một thành phố khác, từ khi cụ ông qua đời thì bà Mary cô quạnh thêm vì vắng người hủ hỉ. Mỗi ngày đem thư đến khu vực này, ông Tom luôn mong thấy khuôn mặt và nụ cười hiền lành của bà bạn vong niên ra lấy thư, hôm nào vắng bà cụ là ông Tom lại cảm thấy không yên bụng.

Năm nay mùa Giáng Sinh lại đến. Mùa Đông rét hơn mọi năm, hay là ông Tom nay đã yếu để thấy rằng cơn gió mùa Đông Bắc bỗng dưng lại khắc nghiệt hơn những năm trước. Sau mùa Giáng Sinh ông Tom sẽ có những ngày nghỉ phép, ông về thăm lại anh em của mình ở vùng đầm lầy Lousiana, ông sẽ trở về khu nhà tồi tàn, cũ kỹ nhưng ấm áp tình thương gia đình. Trước khi đi, ông Tom sẽ nói cho bà Mary biết những ngày ông đi vắng, và ông cũng mong rằng con cháu bà sẽ về xum họp với bà trong những ngày nghỉ lễ cuối năm. Những ngày cuối năm bận rộn, ông Tom lái xe đem đầy nhóc những cánh thiệp Giáng Sinh, thùng thư nào cũng có những cánh thiệp mang đầy lời chúc tốt đẹp, nhưng hai ngày qua mà thùng thư của bà Mary vẫn còn nguyên, không thấy bà lấy thư như mọi khi.

Ông Tom lái xe đi rồi lại băn khoăn nghĩ ngợi mãi, không yên lòng chút nào cả. Bà bạn già của ông không biết đi đâu, ra sao? Lúc trước mỗi lần đi vắng đôi ngày, bà có nói cho ông Tom biết, nhưng lần này ông chỉ nghe bà khoe người con trai sẽ về thăm, lũ cháu đi nghỉ Đông với bạn bè ở miền Bắc. Chắc chắn là bà Mary ở trong nhà, nhưng lý do nào mà thùng thư của bà hai hôm rồi vẫn chưa lấy? Đáng lẽ ông Tom lái xe về Bưu Điện khi đã bỏ hết thư trong ngày, nhưng nghĩ sao ông lại quành xe về nhà bà cụ Mary, và ông rón rén mở cánh cổng rào thấp, hồi hộp gõ cửa chờ đợi. Ông gõ năm, bảy lần, ông bần thần trong dạ, linh tính cho ông biết bà bạn già không đi đâu, nhưng chẳng biết vì sao bà không mở cửa.

Tuổi già sống một mình như bà cụ Mary là chấp nhận tất cả nỗi cô đơn, buồn rầu, hiu quạnh, chưa kể những cơn bịnh đến bất ngờ không chống đỡ được. Ông Tom định bỏ đi nhưng lòng không an ổn, ông nhớ lại buổi chiều thu hôm nào bà Mary đã lật đật lấy cho ông một ly nước cam, đã lau chùi băng lại vết thương trầy trụa trên đầu gối ông, đã cho ông một nụ cười hiền dịu nhất của tình nhân loại. Không nghĩ gì nữa, ông Tom quyết định gọi "emergency" để báo cáo về sự vắng mặt của bà bạn già dễ mến của mình. Khi người ta phá cửa vào nhà, bà Mary chỉ còn thoi thóp thở, nằm bất động trên giường với khuôn mặt xanh lướt...

Câu chuyện của người đưa thư da đen cứu sống một người đàn bà già nua cô độc trong căn nhà ở đường River, người ta có đưa lên chương trình truyền hình địa phương buổi tối áp lễ Giáng Sinh. Chẳng biết có ai nghĩ gì về những nỗi buồn đầy ắp trong cuộc sống thường ngày, hay chỉ có ông Tom đang cầu nguyện cho bà bạn già mau bình phục.

Nguyên Nhung
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23873
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Dec/2020 lúc 10:05am

Những ân nhân dễ thương


nhung%20an%20nhan%20de%20thuong
Năm 1991
Buổi sáng thức dậy, chị Bông kéo màn cửa và ngạc nhiên. Mới đầu tháng Mười Hai mà tuyết đã rơi, rơi nhiều, một màu trắng xóa. Tuyết đầu mùa và cũng là tuyết đầu tiên trong đời chị Bông.

Chị gọi réo chồng:
– Anh ơi, tuyết rơi đẹp lắm.
Anh Bông đang nằm ngái ngủ trên giường vội ngồi dậy ra bên cửa sổ. Chắc tuyết rơi từ nửa đêm, tới giờ vẫn tiếp tục rơi nên cả không gian mới phủ trắng một màu. Anh tỉnh cả ngủ, thích thú không kém gì vợ:
– Ừ, tuyết đẹp quá. Cảnh này mà hai vợ chồng mình được nghỉ học ở nhà ngắm tuyết rơi nhỉ!
Chị Bông cũng ước ao:
– Tuyết thế này ra đường vất vả lắm đây. Em cũng muốn nghỉ, ở nhà nấu món gì nóng sốt hai vợ chồng mình ăn và mở băng xem phim thật là ấm cúng.
Anh Bông chép miệng tiếc rẻ:
– Nhưng chúng ta vẫn phải đến trường thôi. Ở Mỹ, phải tôn trọng giờ giấc, không thể nghỉ tùy tiện được em ạ.
– Em biết rồi. Hai vợ chồng mình luôn là học trò chăm ngoan của cô Linda mà.
Hai vợ chồng chị Bông đều yêu mến cô giáo Linda. Ngoài dạy tiếng Anh ESL, cô còn sẵn lòng hướng dẫn từng bước cuộc sống mới cho những người mới đến Mỹ định cư như gia đình chị Bông.

Anh Bông chợt nhớ ra, kêu lên:
– Chết rồi, để anh ra ngoài xem chiếc xe thế nào. Người ta nói mùa Ðông tuyết rơi phải cào tuyết và nổ máy xe trước cho nóng máy.
Anh Bông khoác chiếc áo ấm dày cộm và mở cửa, xe đậu ngoài sân vì nhà không có garage. Anh không nhận ra chiếc xe của mình nữa ngoài một đống tuyết lù lù, phủ kín xe.

Anh vào nhà kiếm đồ cào tuyết. Anh đã mua sẵn hai cái cào tuyết một để trong xe và một để trong nhà dự trữ và hôm nay lần đầu tiên dùng đến nó. Ðứng gồng mình trong tuyết lạnh nửa tiếng để cào tuyết hai tay anh Bông gần như tê cóng lại.

Chị Bông muốn chạy ra ngoài sân giúp chồng và thử cảm giác tuyết lạnh thế nào nhưng thời gian không cho phép, chị phải làm món gì đó để hai vợ chồng cùng ăn sáng và đến trường học kẻo trễ.

Anh Bông vào nhà và than thở:
– Lạnh quá! Nhưng máy xe vẫn nổ ngon lành.
Hai vợ chồng nhanh chóng vào restroom đánh răng rửa mặt. Xong, chị Bông ra làm bếp.

Hôm nay chị Bông cho ăn trứng chiên với bánh mì sandwich .
Anh chị Bông mỗi người đều mặc hai lớp áo và khoác thêm áo lạnh thật dày bên ngoài. Những quần áo này nhà chị có cả mớ, toàn là xin ở nhà thờ hay hội từ thiện trong thành phố, xài cả đời không hết.

Chiếc xe cũ nhưng vẫn chạy tốt là gia tài lớn nhất của anh chị Bông. Ngoài ra, hàng tháng hai vợ chồng chị còn được lãnh tiền trợ cấp của chính phủ.

Thành phố nhỏ, con đường từ nhà tới trường Vo-Tech, qua mấy lượt đèn xanh đèn đỏ cũng khoảng chừng một mile. Anh Bông cẩn thận lái xe đi trong màn tuyết càng lúc càng dày đặc. Trong xe mở heat tối đa mà tuyết vẫn mờ kính xe có khi không thấy đường phía trước, cũng may con đường ngắn và quá quen thuộc nên anh Bông không sợ lạc.

Trên đường phố những xe cộ đều chạy chậm như nhau, xe nào cũng mang theo tuyết trên đầu xe, trên mui xe như người ta… chở tuyết đi chơi.

Chị Bông mãi ngắm bên ngoài cho đến khi chiếc xe khựng lại, anh Bông kêu lên chị mới giật mình:
– Xe không chạy được nữa.
– Nãy anh mới khen xe vẫn nổ máy ngon lành mà?
– Nhưng xe lạc bánh rồi em ơi!
– Là sao?
– Ðường đông đá trơn trượt, xe lạc bánh vào hố trũng đầy tuyết bên lề và mắc kẹt chứ còn sao nữa.

Trong lúc anh Bông cố rồ máy cho xe đi lên thì chị Bông lẩm bẩm khấn:
– Cầu Trời Phật cho xe con lên bờ bình an đi tới trường, Cầu Trời Phật cho con đừng trễ giờ.
Anh Bông chán nản:
– Em khỏi cầu, Anh chịu thua rồi, không tài nào cho xe lên đường đi được nữa.

Tuyết vẫn xối xả dày đặc trong không gian. Chị Bông vừa thất vọng vừa lo âu:
– Giờ này lớp bắt đầu học rồi, mình đến trễ hay không đến mà chưa xin phép cô giáo Linda một lời thật là bất lịch sự. Người ta nói rằng ở Mỹ không được thất hẹn.
Hai vợ chồng chị Bông luôn lắng nghe và học hỏi những người đến Mỹ từ trước. Ðiều gì cũng “người ta nói rằng…” và tuân theo răm rắp.
Anh Bông cũng sốt ruột mà vẫn lên tiếng trấn an:
– Em cứ làm như cả cái lớp ESL và cô Linda đang mỏi mòn chờ mong hai vợ chồng mình không bằng. Mình sẽ xin lỗi và giải thích với cô Linda sau.

Hai vợ chồng ngồi trong xe chưa biết tính sao, rồ máy xe không ăn thua gì mà bước ra ngoài xe thì gió lạnh tuyết rơi.
Bỗng một xe cảnh sát ở đâu đang đi đến gần và ông cảnh sát Mỹ bước xuống đến bên chiếc xe mắc nạn của vợ chồng chị Bông.

Chị Bông quay kính xe xuống một chút xíu đã cảm thấy gió lạnh ùa vào trong khi ông cảnh sát đứng khơi khơi ngoài tuyết. Ông hỏi:
– Anh chị đi đâu?
Chị Bông mừng rỡ, cố vận dụng vốn liếng tiếng Anh ESL học bấy lâu, vừa đáp vừa đưa tay chỉ chỏ cho chắc ăn:
– Chúng tôi đang trên đường tới trường Vo-Tech phía kia kìa.
– Anh chị tới trường Vo-Tech làm gì?
Anh Bông hớn hở:
– Chúng tôi có lớp học ESL ở trong trường Vo-Tech đó. Ông có cách nào giúp chúng tôi đến trường không?

Ông cảnh sát kêu lên đầy kinh ngạc:
– Ối trời ôi! Hôm nay thành phố có cơn bão tuyết lớn, tất cả các trường đại học, trung, tiểu học đều nghỉ nói chi cái lớp ESL của anh chị.
Các đài ti vi và radio đều thông báo mà anh chị không nghe hả?

Hai vợ chồng cùng lắng nghe ông cảnh sát nói một tràng dài và… cùng đoán mò thêm mới hiểu ra ý ông. Chị Bông ngẩn ngơ:
– Chúng tôi không biết vì… không xem tivi và không nghe radio.

Chị chẳng đủ từ ngữ và trình độ để giải thích dài dòng với ông cảnh sát rằng nhà chị không có radio, chỉ có một cái ti vi cũ người ta cho nhưng không hề dùng đến vì không bắt cable nên không có bất cứ đài nào cả.
Tiền trợ cấp hàng tháng phải chi trả tiền thuê nhà, tiền thực phẩm, tiền điện nước nên chị phải tiết kiệm những gì có thể. Bắt cable mấy chục đồng một tháng mà xem ti vi chẳng hiểu là bao nhiêu thật là uổng phí.

Ông cảnh sát nhắc nhở:
– Ở xứ Mỹ này, tin thời tiết được người ta quan tâm hàng ngày. Anh chị nhớ nhé. Bây giờ tôi sẽ gọi xe cứu nạn đến giúp để anh chị lái xe về nhà.

Mười phút sau có xe cứu nạn đến. Họ nhanh chóng đưa được chiếc xe thoát ra vũng tuyết đã bị đóng băng đông đá.  Anh chị Bông rối rít cám ơn họ.
Ông cảnh sát dặn dò:
– Hãy lái xe cẩn thận, đi trên những con đường đã được xúc bớt tuyết cho an toàn và nhớ là chớ có ra đường cho tới khi qua cơn bão tuyết. Mùa Ðông tuyết băng là nguyên nhân chính gây ra tai nạn trên đường phố.
Thật cảm động khi có người ân cần chỉ dẫn mình như thế.

Anh Bông lái xe trở về nhà bình yên. Vào trong nhà ấm cúng, anh Bông khoan khoái:
– Nãy hai vợ chồng mính ước ao được nghỉ học ở nhà. Mình có mà không biết hưởng, cũng may xe chỉ bị kẹt trong tuyết chứ không tai nạn gì.

Chị Bông trách chồng:
– Tại anh đòi dọn đến thành phố nhỏ hẻo lánh này, thiếu thốn đủ thứ, ngay cả ti vi cũng không có lấy một đài mà xem nếu không bắt cable.
Thà cứ sống ở San Antonio, Texas, tha hồ xem các đài ti vi chẳng tốn đồng nào và xứ nắng nóng thì làm gì có bão tuyết.

Anh chị Bông đến Mỹ ở nhà người em trai chị Bông tại thành phố San Antonio. Người em làm trong Kelly Air Force Base đã giới thiệu anh chị vào học lớp ESL trong base.
Bà Smith xưa là nhân viên của Kelly Air Force, bà nghỉ hưu rảnh rỗi chẳng biết làm gì và dùng thì giờ trống trải ấy dạy tiếng Anh thiện nguyện cho các người nước ngoài.

Lớp học của bà Smith chỉ loe ngoe dăm bảy người. Thêm anh chị Bông, bà Smith vui lắm.
Em trai chị Bông vui miệng kể chuyện với bà Smith là chị Bông sang Mỹ chỉ thích ăn một thứ là chocolate. Thế là bà Smith tung ngay món chocolate ra để chiêu dụ chị Bông như chiêu dụ một đứa trẻ ham ăn.

Ngày nào đến lớp chị Bông đều thấy một rổ kẹo bánh chocolate và bà Smith thì luôn tươi cười mời mọc.
Bà còn hứa hẹn:
– Mày chăm chỉ đến lớp học tiếng Anh sẽ có nhiều kẹo chocolate ngon nữa mà mày chưa từng biết.
Tội nghiệp bà Smith, dạy tiếng Anh không lương còn tốn tiền mua kẹo mà cũng không giữ được hai đứa học trò này.

Anh Bông có người bạn sống ở thành phố Liberal, tiểu bang Kansas khoe rằng nơi ấy thành phố nhỏ hiền hòa dễ dàng đi lại. Thành phố gần những vùng nông thôn, có trường Vo-Tech dạy nghề, học ngắn hạn là có một nghề trong tay, ra đi làm có tiền ngay.

Anh Bông bàn với vợ về Liberal mình có thể tự túc đi lại trong thành phố nhỏ và học nghề, đỡ làm phiền gia đình người em phải đưa đón nơi thành phố San Antonio rộng lớn. Khi học xong một nghề, tiếng Anh kha khá, lái xe vững vàng sẽ trở lại Texas.

Ðến thành phố Liberal Kansas, anh chị Bông ghi danh học lớp ESL cho tiếng Anh thêm tiến triển mới dám ghi danh học nghề trong trường Vo-Tech sau. Anh Bông dự tính học thợ tiện, chị Bông thích học lớp CNA rất dễ xin việc làm trong các nursing home.

o O o

Cơn bão tuyết lịch sử đổ vào thành phố Liberal tuyết dày tới 12 inches. Buổi tối tuyết đã ngừng rơi để lại thành phố nhỏ đắm chìm trong màu trắng, đến cả hai ba tuần lễ sau tuyết cũng chưa tan hết.

Người ta nói rằng mười mấy năm nay thành phố mới có trận bão tuyết lớn thế này. Hay là bão tuyết đến để… nghinh đón anh chị Bông?
Vì từ lúc ở Việt Nam, chị Bông đã ước mơ được trông thấy tuyết.

Anh chị Bông đã đi học lại ngay khi cơn bão tuyết chấm dứt.
Khi đến lớp ESL chị Bông kể lại chuyện hai vợ chồng lái xe đi học hôm bão tuyết với vài bạn Việt Nam. Có người, cũng giống vợ chồng chị, không hề biết các trường học đều đóng cửa vì bão tuyết nhưng họ vẫn tự động nghỉ học ở nhà, không dám ra đường vì… sợ bị cảm lạnh.
Thanksgiving đang gần kề. Trời rất lạnh nhưng không có tuyết, chắc bao nhiêu tuyết đã đổ ra vào cái ngày bão tuyết kinh khủng kia rồi.

Buổi học ESL cuối cùng trước khi nghỉ lễ thật vui vì cô giáo Linda kể thật nhiều chuyện. Bỗng cô tuyên bố trước cả lớp:
-Chúng ta cũng có một chuyện vui vẻ nữa là hôm nay tôi sẽ có món quà đặc biệt khen thưởng tặng cho hai học sinh của lớp ta là… vợ chồng chị Bông.

Mọi con mắt đổ dồn về phía anh chị Bông làm chị Bông ngượng ngùng mắc cỡ. Chị thì thầm với chồng:
– Chẳng lẽ hai đứa mình học giỏi nhất lớp hả anh?
Anh Bông cũng ngại ngần:
– Hay cô Linda chấm lộn? Lớp mình thiếu gì người giỏi tiếng Anh.
Tiếng cô Linda vẫn tự tin vang lên chứng tỏ cô không hề lầm lẫn:
– Mời anh chị Bông lên nhận quà.

Hai vợ chồng chị Bông rời khỏi chỗ ngồi, e dè bước lên bàn cô giáo. Món quà là một con gấu bông to xinh đẹp. Cô Linda bây giờ mới giải thích lý do trao quà:
– Ðây là món quà tặng hai người anh hùng và chăm chỉ nhất lớp ESL của chúng ta. Hôm bão tuyết ai cũng nghỉ học ở nhà nhưng anh chị ấy không ngại gió lạnh tuyết rơi, không ngại gian khó đã đi đến trường và không may xe mắc kẹt trong tuyết. Câu chuyện thật cảm động.

Cả lớp cùng reo lên và vỗ tay đồng tình với cô giáo Linda. Thì ra câu chuyện vợ chồng chị Bông đi học hôm bão tuyết đến tai cô Linda và anh chị Bông đã trở thành… người hùng nổi tiếng cả lớp ESL này.

Bao nhiêu năm trôi qua, không cần phải đợi đến mùa lễ Tạ Ơn, trong cuộc sống hàng ngày có dịp chị Bông vẫn nghĩ tới nước Mỹ, cám ơn nước Mỹ đã cho gia đình chị nhiều thứ. Trong đó có những vị ân nhân dễ thương đã để lại hình ảnh đẹp trong tâm hồn chị.

Họ nhiệt tình, thân thiện giúp đỡ hướng dẫn anh chị Bông những ngày đầu tiên gia đình chị mới ngơ ngác đến Mỹ như bà Smith dạy ESL ở Kelly Air Force Base, San Antonio, Texas; ông cảnh sát giao thông và cô Linda ESL của thành phố Liberal, Kansas.

Chị đã rời xa họ từ lâu.
Họ ở đâu? Ra sao? Chị Bông không biết.
Nhưng mỗi khi nhớ đến họ chị Bông đều gởi lời cám ơn với tất cả lòng thân mến và mong rằng có phép diệu kỳ nào đó họ sẽ cảm nhận được những lời chân tình này dù họ không còn nhớ chị Bông là ai.

Nguyễn Thị Thanh Dương
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 147 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 2.492 seconds.