Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 100 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 07/Mar/2024 lúc 9:56am |
CHO CON ĐI VƯỢT BIỂN
Anh đưa thư trẻ vẫn nhởn nhơ đi qua nhà mỗi ngày, nhưng trưa nay anh quẹo thẳng vào sân nhà tôi và hớn hở: Quả nhiên, bà hàng xóm bên cạnh bấy lâu hay tò mò thắc mắc đã bước sang, chẳng biết bà vui cùng hay là ganh tị: – Có tin thằng Thi đến đảo rồi hả, thích nhỉ? Tôi đoán đúng mà, nó đi vượt biển chứ còn đi đâu, giấu ai chứ chẳng qua mắt được tôi… Cả nhà tôi đã hồi sinh. Vài ngày sau nhận thêm lá thư của anh Thi. Lá thư viết trước tờ điện tín dù nó đến sau. Anh kể chiếc ghe nhỏ bé chở 12 người đã may mắn trong biển êm gió lặng sau 7 ngày thì đến Thái Lan, 5 phân vàng mẹ đưa anh đã tặng cho người dẫn đường chiếc ghe nhỏ của anh khi ra đến cửa biển nên anh không có tiền đánh điện tín về nhà ngay. Nhưng anh tin là chờ mong càng dài thì niềm vui mừng càng tràn đầy. Trời ơi, anh Thi đâu biết là anh để cho chờ mong khủng khiếp này dài thêm chút nữa là cả nhà càng thêm sống dở chết dở… Mẹ tôi mỉm cười hạnh phúc trách yêu thằng con trai đang bình yên nơi xa: – Có mấy phân vàng mang theo phòng thân mà cũng cho người ta… – Biết đâu nhờ anh rộng lượng tử tế nên trời thương. Mẹ tôi kể công: – Nhờ mẹ đi coi bói và đi chùa cầu nguyện nữa chứ. Bố tôi phản đối: – Chuyến nào của nó bà chẳng đi coi bói chẳng đi chùa cầu nguyện, vậy mà hai chuyến trước thất bại còn vào tù hơn năm trời. Mẹ tôi bỗng quay ra nhìn tôi và tiếc rẻ: – Nhưng chuyến này Trời Phật thương, biết thế mẹ cho con đi cùng với anh Thi, chẳng tốn thêm tiền lại được thêm một đứa. Bố tôi hù dọa: – Nhưng nếu nó đi thì sẽ thành 13 người là con số không may đấy. Tôi nũng nịu với bố mẹ: –
Thôi, mẹ đã bảo con gái… không quan trọng mà. Anh Thi đi được là cả
nhà mình trút được gánh nặng sầu lo, con cũng đang sung sướng hạnh phúc
lắm đây…. Nguyễn Thị Thanh Dương
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 11/Mar/2024 lúc 10:37am |
1. Khoảng
chín giờ tối, tôi lặng lẽ rời trường đi về hướng giếng Cây Trâm như lời
hướng dẫn. Đèn đường lưa thưa, nên đoạn đường tối lờ mờ không nhìn rõ
mặt người. Đêm như lặng lẽ bắt đầu với vài cơn gió hanh hanh mùi rạ khô
dọc ven đường. Vừa đi tôi vừa cố nghe ngóng những động tĩnh chung quanh
và mong rằng không gặp mặt học trò hoặc người quen. Lòng dạ xôn xao, cả
ngày hôm nay tôi chẳng làm gì ra hồn và gần như không nuốt được buổi cơm
chiều. Mặc dù đã hứa, tôi cứ mãi đắn đo không biết có nên giữ lời hứa
đó hay không? Đây là buổi hẹn rất nguy hiểm cho người gặp gỡ và có khi
sẽ là một lần vĩnh viễn chia tay. Những ngày tháng gần đây Rạch Giá trở
thành nơi tập trung cho những chuyến ra đi, những chuyến ra đi biền biệt
quê nhà. Ngôi trường cấp 3 Rạch Sỏi nhỏ bé của tôi cũng không ngoại lệ.
Học trò bàn chuyện "vượt biển" nhiều hơn chuyện học. Thầy cô mỗi ngày
nhìn xuống lớp, vài khuôn mặt mất đi giữa ghế bàn. Đôi lúc phải dồn lớp
dạy mới đủ số học sinh. Đã có nhiều buổi chiều học sinh vào trường như
thăm viếng thầy cô và để kín đáo nói lời chia tay. Ở tuổi các em "ăn
chưa no, lo chưa tới" mà đã phải tự làm người lớn, vượt ngoài ý thức của
bản thân. Một thế hệ "lớn trước tuổi", toan tính hoang mang nhiều hơn
mơ mộng sách bài. Nhiều thầy cô giáo phải "nổi giận" vì tinh thần học
tập sa sút của các em. Tôi thương các em nhiều hơn bao giờ hết. Nếu tôi
là các em chắc cũng không thể làm khác, nhiều khi còn tệ hại hơn không
chừng? Vì thương con, cha mẹ đã đẩy các em "ra khơi" mong sẽ tìm được
một cuộc sống, một tương lai tốt đẹp hơn. Chỉ với hành trang là những tờ
giấy trắng, các em phải làm gì cho những bước đường vô định, tương lai
may rủi nơi bên kia xứ lạ quê người? – Thầy Hoàng... thầy Hoàng phải không? Tiếng gọi làm tôi giật mình, dừng bước chân lại. Chiếc xe lôi trờ tới, trời tối không nhìn rõ mặt người đàn ông chạy xe. – Dạ... tôi đây. Tôi là thầy Hoàng. – Thầy lên xe, tôi đưa thầy về Tắc Cậu.
Giọng người đàn ông rắn rỏi, chắc không còn trẻ. Mọi việc đúng như lời
căn dặn của Dung, tôi bước vội lên chiếc xe lôi... Rồi không ai nói gì
thêm, người đàn ông đạp chiếc xe lôi đưa tôi qua khỏi giếng Cây Trâm
chạy về hướng Minh Lương. Tuy trời tối nhưng vì quá quen thuộc nên tôi
có thể đoán được đoạn đường hai bên. Chạy một lúc sau, người đàn ông
chợt quay xe trở ngược lại đường cũ. Có lẽ do thận trọng, tôi chỉ biết
ngổi yên lặng phía sau. Đến ngã ba Sua Đũa thì chiếc xe lôi quẹo trái
vào phía Tà Niên. Vài chiếc xe gắn máy vượt qua để lại những vệt đèn
sáng phía trước. Đây là đoạn tôi có nhiều nhà của học trò chạy dài cho
đến chợ Tà Niên và cả bến đò Tắc Cậu. Thật tình mà nói, tôi chẳng biết
chiếc xe lôi sẽ đưa tôi đi đâu, ghé nơi nào? Chỉ biết đêm nay tôi sẽ đến
nơi đưa tiễn LTT Dung, người bạn gái thân thương của những ngày tháng ở
đại học sư phạm Sài Gòn. Cũng đêm nay ba chị em Dung sẽ cùng gia đình
chồng tương lai rời bến ra khơi ở Tắc Cậu. Đây là chuyến đi "bán chính
thức", tương đối an toàn vì mỗi người hình như phải đóng số tiền khá
lớn: 10 cây vàng. Đó là chưa kể ba chị em phải mua giấy chứng nhận người
Việt gốc Hoa, với một giá không phải rẻ. Vì hầu hết tổ chức dành cho
người Việt gốc Hoa, mua tàu mua bãi của các chuyến vượt biển này. Tôi
không biết rõ, chỉ nghe Dung nói lại. Cuộc hôn nhân của người đẹp khoa
Anh ngữ: LTT Dung là ba chỗ cho nàng cùng hai đứa em trai, quà cưới của
gia đình bên chồng? Chạy vào một khoảng không xa, chiếc xe lôi chợt chậm
lại rồi ngừng trước cỗng của một căn nhà vườn. Tôi lo lắng, đúng ra
phải vào tận Tắc Cậu kia mà. Đây là Tà Niên, nhà học trò tôi cùng khắp
con đường này. Có lẽ đây cũng là đoạn đường đẹp nhất Tà Niên với những
vườn khóm thẳng tấp, với những ao bông súng tím thẳm sau nhà. Tôi nhớ
hình như nhà vườn của em Sĩ cũng ở gần đâu đây? Tôi có ghé căn nhà vườn
trồng khóm của gia đình Sĩ vài lần. Rồi nhà của chị em Thanh Nga, Thanh
Sơn... được mệnh danh là "con chim sơn ca" của trường cấp 3 Rạch Sỏi
cũng ở Tà Niên... Nhưng hình như từ ngả ba Sua Đũa đi vào, không gần
đến như vậy. Nếu bị học trò bắt gặp tôi không biết phải giải thích thế
nào cho ổn thỏa: đang đêm thầy Hoàng vào đây để làm gì? – Thầy Hoàng dô nhà... Cô Dung đang ở trổng!
Giọng người đàn ông đứng tuổi, kéo tay tôi bước vào nhà. Bên trong tôi
đã thấy Dung đứng phía sau chiếc tủ thờ lớn. Nụ cười quen thuộc nở khó
khăn trên khuôn mặt mệt mỏi của người con gái. – Anh tưởng là Dung ở Tắc Cậu? – Có chút thay đổi nên chưa kịp báo cho anh biết. Anh vào đây có gặp khó khăn gì không? – Không, mọi chuyện bình thường. Gặp được Dung là mừng lắm rồi. – Theo em...
Tôi theo chân Dung rời nhà trên, đi xuống phía nhà sau. Căn nhà dài qua
vài căn phòng khá khang trang, phía sau là căn bếp lợp lá với chiếc bàn
ăn tròn. Ngồi quanh chiếc bàn là hai thanh niên trẻ và người đàn bà
đứng tuổi độ năm mươi cùng mấy tô cháo ăn lỡ. Mùi cháo cá và rau đắng
nồng ấm gian nhà. – Dũng, Cường hai em trai của Dung. Đây là dì Sáu, đi chung... Anh ngồi ăn chút cháo cá, nghen anh?
Tôi lắc đầu nhìn khuôn mặt lúng túng của Dung. Chưa bao giờ tôi thấy
Dung như đêm nay! Nét kiêu sa trên khuôn mặt đẹp không còn nữa, mà những
lo âu có chút sợ sệt khiến nàng trở nên vụng về. Có thể mấy đêm qua
Dung đã không ngủ được. Không khí căn phòng chừng như căng thẳng, không
ai muốn lên tiếng nói gì. Buổi ăn tối vội vã kết thúc, hai em trai Dung
và người đàn bà đi chung chào tôi rồi lặng lẽ đi lên nhà trên. Họ tìm
chút nghỉ ngơi cho cuộc hành trình dài, vô định sắp tới? Căn nhà bếp chỉ
còn lại tôi và Dung. Có lẽ đã nửa đêm. Tôi ngồi xuống bàn đối diện
nàng, nhìn bâng quơ không biết phải nói gì trước.
Có quá nhiều người đã bỏ ra đi. Có người tôi quen, có người yêu dấu.
Những mất mát, đắng cay của quê hương không cầm chân được ai? Đêm nay
tôi lại tiễn đưa thêm một người bạn gái thân thương của nhiều tháng ngày
quen biết. Đã qua khỏi mức bạn bè, nhưng chưa lần vượt qua tình yêu như
thể. Tôi có chút gì đó ngần ngại. Dung cũng dùng dằng ở mức đón đưa... – Mấy giờ thì Dung vô Tắc Cậu? Tôi lên tiếng phá bầu không khí căng thẳng, khó thở. – Ba giờ sáng. Để Dung pha cho anh ấm trà...
Chỉ còn vài tiếng nữa. Đêm luôn dài, nhưng bây giờ sao quá ngắn. Nét lo
âu, mệt mỏi làm khuôn mặt Dung đẹp nhiều hơn. Đêm nay có lẽ Dung sẽ
không phàn nàn, nếu tôi có tham lam nhìn nàng không rời mắt. Nhìn vệt
chân mày rậm vắt ngang đôi mắt như biếng lười chăm sóc. Nhìn đôi môi ướt
nhỏ, thỉnh thoảng bím chặc suy tư. Nhìn khuôn mặt thanh tú rõ từng sợi
lông măng lưa thưa dọc đường chỉ tóc mai. Tôi nâng niu từng giây phút
nầy với Dung như trân trọng tình bạn giữa tôi và nàng. Tình yêu sẽ là sự
chiếm ngự, chỉ có tình bạn là chia sẻ, quý trọng lẫn nhau. Tình yêu sẽ
cho bạn hạnh phúc và khổ đau. Tình bạn sẽ làm cho bạn thăng hoa và rộng
lượng. – Mình ra ngoài uống chút trà đi anh. Bên trong nhà nóng quá! Dung đưa tách trà cho tôi, nói nhỏ.
Bây giờ tôi mới cảm thấy hơi nóng hâm hâm trong căn nhà bếp. Hai đứa
ngồi xuống bên hiên mái hè, trời tối đen hòa vào tiếng côn trùng, ếch
nhái kêu đêm. Có quá nhiều câu hỏi cho Dung, nhưng không hiểu sao tôi
vẫn yên lặng. Mấy ngụm trà nóng khiến tôi tỉnh táo hơn, thỉnh thoảng vài
cơn gió thổi nhẹ mùi hương con gái nồng nàn. – Anh nói với Dung hay hỏi Dung câu gì đi anh?
Chừng như nói câu nói, mọi câu hỏi đều trở nên vô nghĩa và trống rỗng.
Chừng như chỉ có sự yên lặng là ngôn ngữ của cuộc chia ly? Đêm vây phủ
như có bàn tay mềm mại đang ôm phủ bàn tay tôi ấm áp. Trong hơi ấm của
bàn tay Dung sao tôi nghe như có tiếng thở dài. Tiếng thở dài đáng lẽ
không nên có ở một người con gái. Người con gái đẹp, thông minh và mang
niềm kiêu hảnh trong ánh mắt của người chung quanh. Đã có người tự tử vì
nàng, đã có người buông bỏ tất cả tiền tài, gia đình để chỉ được có
Dung. Chuyến đi này là tất cả những gì người đàn ông đó dành cho nàng và
hai đứa em trai. – Rồi Dung sẽ đến được bến bờ hạnh phúc. Anh sẽ cầu nguyện cho Dung, cho mọi người... – Tất cả những điều anh nói là của ngày mai... Bây giờ Dung đang ở đây. Dung chỉ muốn hiện tại, đang bên cạnh anh...
Vài sợi tóc theo gió đêm Tà Niên vướng lòa nhòa trên mặt tôi. Hơi thở
của Dung thật gần. Thật gần để bất chợt có bàn tay kéo khuôn mặt tôi vào
chạm bờ môi con gái. Nụ hôn bỡ ngỡ, vụng về rồi bám chặc không rời. Nụ
hôn dài như hương từng rẫy khóm của đêm Tà Niên ngọt lịm. – Để anh đừng quên Dung... Để anh sẽ nhớ Dung...
Nụ hôn để nhớ, không phải để yêu. Không hiểu sao tôi nghe tiếng nấc
nghèn nghẹn của Dung. Tôi rất sợ nước mắt, nhất là nước mắt của con gái.
Như phản xạ tự nhiên, tôi kéo khuôn mặt nàng áp vào ngực của mình. Nước
mắt của buổi tiễn đưa nào mà không thắm mặn. Đêm Tà Niên cuộn tròn
thương tiếc, vùn vụt trôi nhanh. – Cô Dung ơi, đã tới giờ... Phải đi rồi cô Dung!
Tiếng người đàn bà thì thào, hối thúc. Tôi kéo tay Dung đứng dậy đi
vào. Bên trong mọi người trên tay một chiếc xách nhỏ chờ đợi. Không khí
trở nên căng thẳng, ngột ngạt. Lấy một xách tay góc nhà, Dung đưa cho
tôi: – Nhờ anh đưa lại cho gia đình Dung...
Rồi chừng như không nói gì thêm được nữa, Dung cúi đầu đeo chiếc giỏ
xách bước theo mọi người. Bên ngoài trời vẫn tối đen. Mấy chiếc xe lôi
đang chờ sẵn, lặng lẽ đưa nhóm người chìm vào đêm tối. Tôi cầm chiếc
xách tay, lên chiếc xe lôi khác quay trở lại trường. Đồng hồ đeo tay tôi
chỉ 3 giờ 45 sáng ngày 4 tháng Ba, năm 1978 ở xóm nhỏ Tà Niên. 2. Đã
hơn bốn mươi năm, thời gian thoáng chốc. Tất cả mọi đổi thay như xô đẩy
chúng ta đi vào biết bao định mệnh đời người. Số phận không nói lên
hoàn cảnh và đôi khi cùng hoàn cảnh lại có muôn vàn số phận khác nhau...
Vài tuần lễ sau của đêm hôm đó, tôi đã đem chiếc xách tay đến cho gia
đình Dung ở Sài Gòn. Nhưng mãi đến gần 4 tháng sau, tôi mới được tin của
Dung từ gia đình nàng. Chuyến đi của Dung đã không đến được bến bờ tự
do. Con tàu định mệnh đó vĩnh viễn nằm lại lòng biển rộng. Phải mất
nhiều đêm, nhiều ngày tháng sau này để tôi có thể chấp nhận được sự thật
đau xót này. Tất cả chừng như không có một hình ảnh nào, một vết tích
nào để khỏa lấp ánh mắt, nụ cười và đôi môi hôn ấm của đêm chia tay vội
vã ở Tà Niên. Tôi vẫn luôn tin rằng một nơi nào đó trong vùng trời tự do
vĩnh cửu, Dung đang vun đấp cuộc sống có thật của mình. Nơi đó sẽ không
còn khổ đau, không còn những hệ lụy cưu mang cho một kiếp người... Biển
rộng bao la nhưng biển cũng hẹp tay người. Hình ảnh người con gái trong
đêm chia tay ở Tà Niên luôn sống mãi trong tôi. Nụ hôn vội vàng để nhớ,
là nụ hôn tha thiết nhất một đời có được: ... Tình yêu như biển Biển hẹp tay người Biển hẹp tay người lạc lối Em đi về nơi ấy Nơi đâu nơi đâu Sông cạn đá mòn Trăng treo đầu con sóng Tan theo tan theo Chút tình xa vắng... (1) Mỗi
số phận của chúng ta, đôi khi gắn liền với những biến động của hoàn
cảnh và lớn rộng hơn, của lịch sử. Nhưng đôi khi, số mệnh của chúng ta
lại lặng yên nằm bên lề của mọi cơn lốc cuộc đời. Dù ở phía nào đi nữa,
sự hữu hạn của kiếp người, chỉ cho mỗi chúng ta chiêm nghiệm được một
phần thật nhỏ nhoi của thân phận. Không có mẫu số chung cho định mệnh.
Hãy mở rộng mọi ý thức và đừng bao giờ đóng kín những đổ vỡ của trái
tim. Cuộc đời sẽ tin yêu ta, nếu ta đặt trọn mọi tin yêu có thể cho
người. Lá khô rụng kín mùa này là mần non hoa trái mùa sau. Có bao nhiêu
dư âm xưa trong đêm dài chờ sáng? Có bao nhiêu cuộc chia ly trong giọt
lệ trùng phùng? Dù biết rằng trái tim luôn đập theo từng nhịp của hôm
nay cho sự sống, nhưng không hiểu sao dòng máu chúng ta đôi lúc luân
lưu, tuần hoàn trong mỗi tế bào của quá khứ? Những ngày đầu của mỗi
tháng Ba, phải chăng vẫn buồn và vẫn khoắc khoải trôi về:
... Phương trời mình đi xa thêm xa Nghe vạn mùa thu sau lưng ta Em ơi, em ơi! Thu thiết tha Ơi người vì ta qua phong ba Có còn gì sâu trong tâm tư Mắt lệ mờ hoen dư âm xưa... (2)
– Nguyễn Vĩnh Long Durham, North Carolina
(1) Lặng Lẽ Nơi Này – Trịnh Công Sơn (2) Tình Lỡ – Thanh Bình |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 12/Mar/2024 lúc 7:33am |
Chuyện Một Thuyền NhânSau nhiều năm "luyện chưởng" ở miền Bắc, tôi được phép "hạ san". Cầm tờ "lệnh tạm tha" tôi trở về thành phố đã thay tên, từ cảnh vật đến tình người đều thay đổi, tôi ngơ ngác như Mán ra thành. Tuy đã ra khỏi "lò hấp", nhưng người ta vẫn "quan tâm?" về tôi, ngày ngày cho chú công an khu vực đến "vấn an sức khỏe" và mỗi tuần tôi phải lên trụ sở công an phường để họ ngắm dung nhan cùng đóng một con dấu đỏ vào tờ giấy ra trại. Dù tỏ ra "ưu ái" nhưng khi tôi xin phép về quê để viếng mộ Cha-Mẹ, tôi phải đợi dài cả cổ. Hỏi thì được trả lời "đang kíu xét". Tâm sự với thằng bạn thì nó hỏi: – Mầy có gì cho nó chưa? Tôi đáp: – Tao vừa mới ra tù, không một đồng xu dính túi, lấy gì mà hối lộ? Nó cười: – Dễ lắm, chỉ cần vài điếu thuốc có cán thôi. Tuy không tin lắm, nhưng tôi cũng thử cầu may. Tôi xin người thân tiền mua 3 điếu thuốc có đầu lọc, mượn cái hộp quẹt của ông anh vợ, rồi đến gặp tên cán bộ phụ trách, mồi điếu thuốc mời anh ta hút và tặng luôn 2 điếu bỏ túi, thế là tôi có ngay tờ giấy phép đi đường. Hết xẩy! Từ đó về sau, mỗi khi cần gì tôi chỉ bổn cũ soạn lại hoặc đôi khi cho chắc ăn hơn, tôi mua vài tờ vé số cặp 2 hoặc 3 (1 đồng/tờ) trao cho tên cán bộ, rằng thì là cán bộ lương chẳng nhiều, giữ vài tấm vé số nầy biết đâu gặp may trúng độc đắc sẽ đổi đời; nghe bùi tai nên lúc nào họ cũng thỏa mãn ngay cho tôi khỏi cần "kíu xét". Về thăm lại nơi chôn nhao cắt rốn cách Sài Gòn hơn trăm cây số, quê tôi trước 1975 thật trù phú, nhưng nay cũng cùng số phận hẩm hiu của cả miền nam, trở nên tiêu điều, người dân vất vả hơn, câm nín hơn và nhất là vắng tiếng cười hồn nhiên của trẻ thơ…. Tôi vốn luôn nghĩ rằng Sinh-Lão-Bệnh-Tử là luật của vũ trụ, chẳng ai tránh khỏi, nên ngay trước sự ra đi của người thân tôi cũng xem đó là điều tự nhiên, chẳng có gì phải bi lụy; nhưng lần nầy, đứng trước mồ của mẹ, nước mắt tôi tự dưng tuôn thành giòng. Một mảng ký ức trở về trong tâm khảm tôi: "Vào những ngày cuối của tháng 3/1975, di tản từ V1DH về trú ở V3DH, tôi gặp lại ông Xếp cũ năm 1972 cùng phục vụ ở CCHQ/MT mà hiện là HT của 1 chiến hạm. Tôi hỏi ông đi đâu? Ông bảo muốn kiếm vài bản đồ vùng Đông Nam Á. Tôi vào phòng thằng bạn lấy cho ông vài bản. Ông vỗ vai tôi thân mật bảo: – Anh về nói với bà Cụ (Mẹ tôi) chuẩn bị sẵn, khi tôi đến đón gia đình bên vợ sẽ đón luôn gia đình anh. Số là, ông rất mến tôi vì khi tôi phụ tá ông, mọi việc của căn cứ tôi đều cán đáng. Ngoài ra, ông lập gia đình với một người phụ nữ gần nhà tôi, tức ngoài tình chiến hữu còn có thêm tình chòm xóm. Tôi cám ơn ông, nhưng cho biết là sẽ không đi. Rồi ngày 29/04/1975,ông Xếp của tôi là Đô Đốc TL/HQ/V1DH và ĐĐ.TL/HQ/V3DH, trước khi lên xe ra Vũng Tàu để xuống chiến hạm 2 ông cũng đã khuyên tôi nên cùng đi với 2 ông: – Anh ở lại với tụi nó không được đâu. Tôi cám ơn 2 ông nhưng khước từ ra đi và trở về Sài Gòn để sau đó đi tù. Tuy nhiên, cho đến nay, tôi không ân hận chút nào về quyết định nầy. Vì tôi không thể bỏ Mẹ tôi để ra đi. Mẹ tôi, người đã cho tôi cả một tình thương bao la, ngay từ khi ba tôi bỏ gia đình đi sống với một bóng sắc khác lúc tôi vừa tròn tuổi thôi nôi. Dù nhà thật nghèo, phải vô cùng vất vả, nhưng Mẹ tôi lúc nào cũng vì Nội và 2 chị em tôi. Mẹ tôi thủ tiết cho đến khi nhắm mắt lìa đời năm 1976, đúng vào lúc kẻ cướp đày tôi lên vùng thượng du Bắc Việt. Tôi đã đi biết bao sông dài, biển rộng, nhưng không có đại dương nào bao la bằng tình thương của Mẹ tôi. Tôi cũng đã có dịp đi công tác ở nước ngoài, thấy được sự văn minh, giàu có của họ, nhưng không có vật chất nào đủ hấp dẫn để tôi phải xa Mẹ tôi. Tiếc thay việc ở lại của tôi chỉ là điều vô nghĩa vì ước nguyện được cận kề Mẹ tôi đã không thành. Mẹ tôi, một người phụ nữ hiền lành, chất phác, không biết chữ để đọc được sách thánh hiền, nhưng bản chất đôn hậu, luôn yêu thương, giúp đỡ mọi người, nên rất được hàng xóm mến, và cả gia tộc nhà chồng thương, tuy nhiên thật tội nghiệp, chỉ có thằng con trai là tôi nhưng từ khi tôi học trung học, đại học và làm lính với cuộc sống phiêu bồng thì chẳng mấy khi được gần con, thậm chí trước khi nhắm mắt lìa đời cũng không được thấy con lần cuối. Trở lên Sài Gòn, lần nầy tôi quyết định phải ra đi. Nghe nói có thằng bạn cùng khóa HQ, thường tổ chức vượt biên. Tôi tìm đến, đề nghị lái ghe cho nó. Nó đồng ý nhưng chỉ cho thêm một chỗ. Tôi trình bày là tôi có một vợ và một con, chẳng lẽ phải để lại người nào? Nó dứt khoát một chỗ, nếu nhận thì đánh, không thì thôi. Tôi từ chối, lủi thủi ra về, lòng ít nhiều xót xa, nhớ lại kỷ niệm 2 năm chung quân trường và vào năm 72-73 khi tôi phục vụ ở CC/HQ/MT, lúc đó nó bị nạn dường như vụ còi hụ Long An, ghé tôi và tôi vẫn đối xử trong tình bạn. Rồi cơn buồn chỉ thoáng qua, vì vào thời điểm 1983 phong trào vượt biên còn khá rần rộ, tôi lại là lính biển thứ thiệt, chắc sẽ không đến nỗi nào và đúng như tôi nghĩ, không biết họ lấy tin từ đâu mà nhanh thật. Nhiều tổ chức đã đến đề nghị tôi cộng tác với họ, kể cả một tên Đại Úy bộ đội. Trước kia, tôi không rõ về VC lắm, nhưng giờ thì cho cả kho vàng Fort Knox tôi cũng không tin nổi họ, do đó tôi cho biết là 29/04/1975 đang ở Vũng Tàu, dù có phương tiện nhưng tôi đã không đi, vì không đâu đẹp bằng quê hương mình, vả lại sau nhiều năm cải tạo, tôi đã hiểu được lao động là vinh quang, nên từ nay sẽ hăng say lao động để góp phần làm cho đất nước ta giàu mạnh. Tên bộ đội, không biết là muốn bẫy tôi hay thực sự đã chán ghét chế độ, hắn tròn mắt nhìn tôi và nghĩ có lẽ tôi mới vừa ở Chợ Quán hay Biên Hòa ra, nên vội vã kiếu từ. Những tổ chức vượt biên, nếu để hốt vàng thì thường chỉ cho người Hoa Tiêu thêm 2 chỗ, còn nếu không vì thương mại thì họ chấp nhận cho cả gia đình người lái cùng đi. Lần đầu, tôi đến với một gia đình ở Sa Đéc, nhưng thấy không thuận lợi, nên không tiến hành. Lần thứ hai, gia đình của cựu Đại Tá Tỉnh Trưởng Gò Công đề nghị tôi hợp tác và đưa tôi về Bến Tre để cùng nhà văn Kim Nhật tìm phương cách ra đi. Ông nầy nguyên là Bác Sĩ y khoa, mê chủ thuyết cộng sản nên theo VC và giữ chức giảng nghiệm viên y khoa ở cục R, nhưng khi rõ bộ mặt thật đê hèn và man rợ của chúng, ông bỏ về thành viết cuốn Đường về R và bị VC tuyên án tử hình khiếm diện nên phải trốn về Bến Tre để sống. Nguyên là BS, nhưng ông ăn trầu bỏm bẻm, đi chân đất... Sống như một bần cố nông thứ thiệt, ông kịch giỏi đến nỗi sống chung với hàng xóm toàn là VC nơi quê hương đồng khởi của chị Ba Định mà không ai biết được hành tung. Từ nhà ông ra biển, với một chiếc ghe nhỏ gắn buồm con, hai cây dầm, một hai tấm lưới bén, một cái thạp nhỏ và ít muối hột, ông cùng cậu con khoảng 7, 8 tuổi và tôi dãi nắng, dầm mưa trong 2 ngày lần dò ra cửa biển. Trên đường đi, gặp bất cứ trạm kiểm soát nào ông cũng tự động ghé vào, trình thẻ đảng và hỏi các đồng chí nhờ chỉ giùm nơi nào có thể lưới kiếm chút cá về làm mắm trong khi chờ mạ lớn để cấy. Tôi vốn là dân thành phố da dẻ trắng trẻo lại vừa ở tù ra không có giấy tờ, nên những khi đó tim tôi đập liên hồi. Ông giải thích: – Chú không biết, VC là chúa đa nghi, mình phải cao tay ấn nếu không chúng nghi sẽ hạch hỏi, còn tránh né hoặc không tuân thủ chúng sẽ dùng AK hoặc thượng liên để giải quyết. Tuy đôi khi cũng có vài tên VC xuống kiểm soát ghe, nhưng thấy không có vẻ gì khả nghi, nên chúng cũng cho đi. Thời gian ở bên nhà văn Kim Nhật không lâu, nhưng ông kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện của VC, thú vị nhất là việc anh Ba mặt nám tức Lê Duẩn khi làm bí thư xứ ủy Nam Bộ đã đê tiện hiếp chị X... Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Cần Thơ. Chị là con của một ông Hội Đồng giàu có, là hoa khôi của Tây Đô và có vị hôn phu là Tiểu Đoàn Trưởng của Tiểu Đoàn nổi danh 307. Lê Duẩn đã điều vị Tiểu Đoàn Trưởng nầy đi xa để ly gián hai người, rồi ra lệnh cho chị Chủ Tịch Liên Hiệp Phụ Nữ Nam Bộ cùng chị X vào cục nhận công tác. Khi bị Lê Duẩn hiếp, chị X đã kêu la cầu cứu, nhưng chẳng ai dám can thiệp, kể cả nhà văn Kim Nhật. Bất mãn, buồn chán… Ông bỏ trốn về thành…. 2 hôm sau, tôi trở lên Sài Gòn, trình bày mọi việc cho tổ chức. Nhận thấy là thái độ của nhà văn Kim Nhật chưa dứt khoát, vì Ba ông không muốn xa con cháu; riêng ông có vẻ mong 1 người đồng chí cũ hiện giữ chức vụ lớn trong Quốc Doanh đánh cá đang tìm cách cướp 1 chiếc ghe tốt, có trang bị vũ khí để vượt biển được an toàn hơn chiếc ghe sông nhỏ với thành ghe rất thấp không thích hợp để đi biển của gia đình ông cựu Đại Tá Tỉnh Trưởng Gò Công. Rồi tôi nhận lái ghe cho 1 tổ chức người Hoa. Họ cho tôi 2 chỗ và thêm 1 người bạn của cậu em vợ được tháp tùng với giá đặc biệt 1 lượng vàng. Tôi bàn tính mọi việc với Bà chủ ghe, Bà nghe tôi nhưng cho rằng "tôi là người quan trọng nhất, không nên lộ diện sớm, chỉ nên đi như khách và chỉ nhận trách nhiệm khi ghe ở ngoài biển". Tôi đồng ý. Đúng ngày hẹn, ghe Taxi đón chúng tôi gần bến phà Thủ Thiêm. Đến Cần Giuộc, Cần Đước gì đó khoảng 2, 3 giờ đêm; người lái Taxi cho biết là "động rồi, cá lớn phải chạy về Vĩnh Bình ẩn và yêu cầu chúng tôi lên bờ tự túc về nhà". Ghe Taxi chở khoảng 20 người, hầu hết là người Hoa, tôi khuyên họ là nên phân nhóm nhỏ 2, 3 người để di chuyển nhằm tránh sự nghi ngờ của dân địa phương và lực lượng dân phòng. Nhờ là lính biển, quen nhìn phương hướng, tôi dẫn cô em gái, cậu em vợ và bạn nó, tìm ra được bến xe đi Chợ Lớn. Len lén ngoái đầu lại, thì tất cả mọi người cùng đi trên chiếc ghe Taxi cũng đã có mặt. Xe chở khách bán buôn, đã đầy nghẹt, còn quang, gánh thì cũng đầy trên nóc và lủng lẳng khắp thành xe. Tới mỗi trạm gác thì người phụ xế đều chạy đi nạp hối lộ, do đó không hề có sự kiểm soát nào, nhờ đó chúng tôi may mắn về đến Sài Gòn được an toàn. Bà chủ ghe đến gặp tôi và trấn an, tôi yên chí, không hề thắc mắc là thời đó chưa có điện thoại di động để liên lạc thì làm sao ghe Taxi biết được là đã bị động. Mải vài hôm sau, cháu của bà chủ đến gặp tôi. Chị là vợ của một Thiếu Tá Công Binh đã vượt biển thành công sang Úc và đã làm thủ tục bảo lãnh vợ – con, nhưng có lẽ vì nóng lòng hoặc không chịu nổi sự hoạnh họe của lũ VC ở địa phương Cây Gõ nên chị liều lĩnh vượt biên trước. Chị Y khóc lóc kể với tôi rằng chiếc ghe trị giá 12 lượng vàng mà phần chị và 3 người con đã góp vào 8 lượng, nhưng bà chủ ghe dì ruột của chị vì tham dùng người lái phụ chỉ tốn thêm 1 chỗ đã lái ghe đi, bỏ rơi cả gia đình chị. Tôi nghèn nghẹn, nhưng cũng chỉ biết an ủi chị rằng lòng người khó mà dò. Ít lâu sau, có 2 người đến gặp tôi nhờ lái ghe. Người đàn ông xưng là dân Quốc Gia Hành Chánh Cựu Phó Quận Trưởng Quận Cần Đước. Bà vợ thì đeo cẩm thạch, vàng đầy tay và chiếc đồng hồ hiệu Citizen (thời đó Citizen là đồng hồ thuộc loại xịn) để khoe của và sự thành công. Trong khi bàn bạc và bày vẽ phương cách ra đi cùng họ, tôi đã thật thà khai báo là "vừa bị 1 tổ chức lừa, nhưng tôi nghĩ là họ sẽ không tệ như tổ chức kia". Họ cười cười và hẹn 2 ngày sau sẽ đến đón tôi, nhưng hơn tuần lễ vẫn không thấy, tôi bèn tìm đến nhà họ ở đường Tôn Thất Thiệp khu Chợ Trời để hỏi, thì người nhà của cặp nầy cho biết là chưa thuận lợi để đi và sẽ báo ngay cho tôi khi họ quyết định. Tôi ra về, nhưng sau đó được biết là họ đã bỏ rơi tôi, dùng người lái phụ lái ra cửa Tiểu thì bị Công An Tỉnh Tiền Giang xét bắt, cả 150 người khách và Ông-Bà chủ ghe phải đi gỡ lịch. Thật may! Số tôi đã hết dịp đi tù. Tôi vốn gốc dân quê không lanh lợi, lớn lên đi học, đi lính, rồi đi tù nên thật ngờ nghệch trước những đổi thay của xã hội thời VC. Sau 2 lần bị gạt, tôi thật hoang mang, cộng với chuyện gia đình không vui, nên tuy bề ngoài luôn cười cợt, nhưng bên trong lại thường khóc thầm. Biết điều phiền muộn của tôi, người anh vợ từ sau khi ra tù, ngày ngày phải đạp xích lô để kiếm sống, nhưng thỉnh thoảng cũng đi vác củi thuê cho Ty Chất Đốt của thành phố, để khỏi phải đi vùng kinh tế mới và anh đã đề nghị tôi cùng làm việc nầy. Tôi lên phường xin cấp cho 1 giấy tờ hợp pháp để tôi làm việc cho Ty Chất Đốt Thành Phố. Những chức sắc của VC hầu hết đều không có trình độ văn hóa, thường chỉ do có công với "cách mạng" mà được chỉ định phụ trách điều hành công việc hành chánh. Tên Cán Bộ Phường Trưởng vui vẻ bắt tay tôi và gọi tôi là đồng chí, làm tôi nổi da gà. Ty Chất Đốt tọa lạc trên đường Trần Quý Cáp thuộc Quận 3. Hàng ngày họ cắt 5-6 xe vận tải lên rừng chở củi về thành phố. Mỗi chiếc xe, ngoài tài xế là nhân viên cơ hữu của Ty, còn chúng tôi 5, 6 đứa chỉ là phu công nhật. Tài xế vận tải thời nầy có thớ lắm, thật khá giả và rất hách dịch. Số xe lên rừng mỗi ngày chỉ cần vài chục người phu, nhưng số người chầu chực buổi sáng mong được cắt đi lúc nào cũng khoảng vài trăm và người phụ trách chấm công lại là 1 cựu Trung Úy VNCH. Không rõ người anh vợ tôi đã nói gì mà mỗi khi thấy tôi thì ông cựu Trung Úy nầy đều chỉ định tôi đi làm và có lần còn kề tai nói nhỏ: – Khi nào dzọt, đàn anh nhớ thằng em nầy với nhé. Từ nhà tôi ở Phú Nhuận ra đến Ty Chất Đốt, tốn 5 đồng xe lam, 2 ngày ở trong rừng ăn 4 dĩa cơm với vài miếng ba rọi kho và chút rau muống tốn 40 đồng cộng thêm 4 đồng trà đá vì trời nóng như thiêu, vị chi là 49 đồng, nhưng khi được trả công chỉ nhận có 50, hoặc 55 đồng. Đường lên rừng Xuân Lộc, Hớn Quản, Lộc Ninh, Trảng Bàng... thật khủng khiếp, không chỉ ổ gà mà toàn lỗ chân Khủng Long, ngồi trong lòng xe mà bị dằn xốc đến nỗi có lần tôi treo một cái võng nylon để nằm và chiếc võng đã bị đứt làm đôi. Sáng thì bụng trống trơn, lên đến rừng thì tên tài xế ra lệnh phải lăn xả vào công việc, trời thì nắng như thiêu, nhiều lần tôi bị choáng váng. Nếu 1975, khi tôi tù ở Long Giao, VC đã đốn vô tội vạ cao su ở Long Khánh để làm củi thì nay chúng cũng tàn phá những rừng của Miền Nam để lấy củi. Những khúc củi dài 2 mét, đường kính từ hai đến 4 tấc có khi nặng cả trăm kí lô gram. Chúng tôi phải khiêng đến xe với khoảng cách vài chục đến trăm mét, rồi chất lên xe tải có mui, lèn kín củi như chất que diêm trong một cái hộp quẹt. Tội nghiệp, mấy cậu trai trẻ thấy tôi quá đuối nhiều lần đề nghị: – Ông thầy mới ra tù, khiêng hổng nổi đâu, để tụi em làm. Tôi thật cảm động, cám ơn các em, nhưng cũng phải ráng hết sức mình. Chất kín củi lên xe đã khó, mà chừa hộc để tên tài xế giấu nhựa cao su hay cà phê hoặc đậu xanh lại càng khó. Chắc chắn là hắn đã ăn chịu, nên chẳng ai dám tố cáo, còn nếu rủi bị thuế vụ xét gặp thì hắn sẽ đổ đẩy cho lũ phu chịu tội. May là chuyện bị xét đã không xảy ra lần nào. Chỗ xuống củi để trữ cho thành phố là khu đất gần Trung Tâm Tiếp Huyết và Tổng Y Viện Cộng Hòa. Việc xuống củi thì tương đối dễ dàng hơn. Trên đường Võ Di Nguy đoạn gần khu chứa củi thì con buôn đã đứng sẵn rất nhiều và các cậu phu lợi dụng đẩy xuống đường vài khúc củi để kiếm thêm vài trăm đồng. Phần tôi, đang đóng kịch đã giác ngộ lao động là vinh quang, nên dù một đêm trên rừng làm mồi cho muỗi đốt, khổ sở, vất vả, bầm dập tay chân.. để hầu như làm việc không công, nhưng tôi vẫn làm ra vẻ vui vẻ, còn các cậu trai trẻ thì đâu thể ngu như tôi rồi lấy gì sống. Chính VC đã đẩy các em phải mánh mung để sinh tồn. Rồi một ông Trung Tá Công Binh mời tôi tham gia tổ chức của ông. Ông dẫn tôi đến xem chiếc ghe đang tân trang. Ghe dài khoảng 17 mét, 4 máy. Ông cho biết đã có 2 khẩu đại liên M60, 2 cây phóng lựu M79, 1 khẩu M16, vài thùng đạn và tuyên bố là nếu bị VC xét thì ăn thua đủ để thoát hoặc chết, quyết không để chúng bắt. Dù không thấy súng ống, nhưng tôi thích phương cách của ông Trung Tá Công Binh nầy. Tiếc là để kiếm cho đủ 250 người khách vượt biên như ông muốn không phải dễ và chẳng biết đến bao giờ. Sau đó, một ông Trung Tá Dù đề nghị tôi lái cho 1 tổ chức đã có liên tục 10 chuyến thành công. Ông ta chỉ cho tôi thêm một chỗ và dù chưa thấy qua chiếc ghe, nhưng tôi vẫn nhận vì bằng mọi giá tôi đã nhất quyết phải ra đi. Ông giao cho tôi một số tiền để mua sắm hải đồ và tôi may mắn được em của một người bạn cùng khóa HQ bán rẻ nửa giá. Trước khi ra đi, tôi đã dùng số tiền thừa phân nửa đó để đãi cho 4 đứa con của người dì vợ, mỗi đứa 1 tô bò viên ở chợ Phú Nhuận.Nhìn những đứa bé sung sướng xì xụp với tô bò viên, tôi thật xúc động. Trước 1975, nhà chúng cũng không tệ, nhưng khi VC thống trị thì trở nên nheo nhóc, cha là ngụy nên phải đi tù, mẹ thì muôn ngàn khó khăn để nuôi đàn con đông nheo nhóc, do đó trong nhiều năm chúng chỉ biết cơm độn với rau muống chấm nước mắm kho quẹt. Riêng cô chị cả của chúng, 16 tuổi đã đỗ tú tài 2, hạng tối ưu và nhờ học ở hội Việt-Mỹ nên khá thạo tiếng Anh, nhưng vì lý lịch con ngụy nên không được tiếp tục học, cũng không xin được việc làm. Cô tâm sự: – Người xứng với em thì hoặc đang ở nước ngoài hoặc còn trong tù, còn lũ người rừng nầy (VC), thì dù chết em cũng không ưng. Do đó cô đã lén lút buôn chuyến, xuống miền Tây mua ít thịt thà, cá mắm đem về Sài Gòn bán kiếm chút lời, nhưng thời đó những món nầy đều bị cấm, bị chận xét, tịch thu và phạt; nên 10 chuyến chỉ họa hoằn 1, 2 chuyến là thoát. Kiếm được chút đỉnh, vay mượn thêm, cô vượt biển nhiều lần, nhưng đều thất bại và sau cùng bị chết đuối. Tội nghiệp, cô rất ngoan đạo, nhưng phận bạc phải lìa đời lúc tuổi còn thanh xuân. Người trong tổ chức của ông Trung Tá Dù, chở tôi từ Sài Gòn xuống Vĩnh Bình bằng xe gắn máy. Ông nầy là cựu Đại Úy Biệt Động Quân, người to lớn, mập mạp, đội nón cối, đi dép râu, giống hệt 1 cán bộ VC, còn tôi với giấy tờ giả, ôm sacoche theo ông như là tà lọt. Nghe nói ông gốc dân Văn Khoa, không biết làm cách nào mà có dạo phụ trách thảo diễn văn cho tên Tư Lệnh Quân Khu 7 của VC. Đón chúng tôi ở 1 quán cà phê ở Vĩnh Bình là 1 bí thư Xã Ủy VC. Ông nầy mê cộng sản, đã hiến 15 mẫu đất cho VC làm công binh xưởng, cả gia đình đều theo VC, có vài đứa con đã lên bàn thờ, riêng bà vợ bị bom gảy cột xương sống. Có điều là dưới thời VNCH thì ai cũng được bệnh viện chăm sóc, chữa trị, nhưng khi VC cướp miền Nam thì tất cả thuốc men đều vét sạch chở ra bắc, từ đó người dân Miền Nam dù bệnh gì thường chỉ có xuyên tâm liên hoặc thuốc dỏm, Bác sĩ dỏm thôi. Đến 1976, thì Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị giải tán và hầu hết cán bộ VC Miền Nam cũng bị cho ra rìa. Bất mản vì 2 thập niên theo VC, chỉ được dăm bằng liệt sĩ, vài tấm huân chương treo vách để nhát con nít khi chúng khóc, vợ đau xin cấp thuốc cũng không có... ông bí thư Xã Ủy nầy quay sang bắt tay với "ngụy" và sau mỗi chuyến thành công được tổ chức thưởng cho 2 lượng vàng. Cạnh nhà ông Bí Thư là nhà của tên Trung Đội Trưởng du kích xã, hôm đó có giỗ. Khoảng hơn 20 tên du kích với AK47, CKC nhậu nhẹt rần rần; thỉnh thoảng có tên kêu vói mời Bác Năm (ông Bí Thư) sang nhậu với chúng, ông ta thối thoát: – Tao không khỏe, tụi bây cứ tự nhiên. Đến đêm, ông và cậu con, chống ghe nhỏ đưa tôi và ông Đại Úy Biệt Động Quân ra chiếc ghe lớn đậu gần 1 trại cùi. Mọi người đã lên ghe đầy đủ và chúng tôi là 2 kẻ sau cùng. Ghe bắt đầu hướng ra biển. Theo giao hẹn, tôi chỉ trách nhiệm khi ghe ra biển, nhưng khi đi được một đoạn còn khá xa biển, người lái ghe nhảy xuống ghe con trở về. Phóng lao phải theo lao, tôi tiếp tục lái ghe ra cửa Ba Động. Hồi năm 1971, khi phụ trách chiếc kiểm báo Hạm Ba Động HQ 460, tàu tôi neo ngoài khơi cách cửa Ba Động 20 cây số, các Sĩ Quan thay nhau vào Vĩnh Bình mua thực phẩm cho tàu, còn tôi chưa lần nào vào đó. Vì không biết gì về cửa Ba Động nên khi ghe ra gần đến cửa biển, dù sông thật rộng, ghe tôi bị vướng phải một cồn ngầm. May nhờ thủy triều lên, tôi rút ghe ra được và thẳng ra biển. Lúc đó biển thật động, mà ghe là ghe nhỏ đi sông, thành ghe rất thấp, không có volant nên phải lái với cái cần lái ở đuôi ghe. Do không thể đâm thẳng ra biển, tôi phải lái chếch sóng, nhưng ngày càng gần hải đăng Vũng Tàu. Cuối cùng tôi phải liều lĩnh chấp nhận rủi- may đâm ra khơi. Hôm đó vì biển quá động, những ghe quốc doanh đánh cá từ Côn Sơn phải chạy cả về SGN và khi ghe tôi ra khơi khoảng hơn nửa giờ thì bị một ghe Quốc Doanh đuổi theo. Ghe chúng lớn loại đi biển được trang bị máy mạnh, còn ghe tôi nhỏ, máy chỉ 2 Bloc; nếu chúng tiếp tục đuổi chắc chắn sẽ bắt được chúng tôi, nhưng không hiểu vì sao chúng bỏ cuộc và ghe tôi thoát nạn. Trưa hôm sau, chúng tôi lọt vào một cơn giông. Thường thì sóng biển từng đợt đánh theo chu kỳ, nhưng trong cơn giông thì sóng loạn, tôi vừa lái vừa cố gắng tránh sóng, tuy nhiên vì thành ghe thấp và đôi khi tránh không kịp nên thỉnh thoảng ghe cũng bị sóng tràn vào. Tôi yêu cầu cánh đàn ông, chia từng cặp thay nhau múc nước đổ ra biển. Còn phụ nữ và trẻ con thì thật tội nghiệp, họ vô cùng sợ hãi, nhưng chỉ biết xì xụp lạy hay cầu nguyện. Trên ghe tôi có 1 ông Tiến Sĩ, nhưng lúc đó ông không phụ tát nước mà chỉ cầu nguyện như những người phụ nữ, tuy có trình độ văn hóa cao nhưng khi hữu sự giá trị của ông lại không bằng các cậu trai trẻ. Phần tôi, đã từng 2 lần thoát chết trong trại tù CS, nên lúc đó tôi không hề sợ, ngoài ra nhìn hàng chục đứa bé thật tội nghiệp, tôi càng vững tay lái hơn, vừa niệm Phật vừa lái đến khi trời sụp tối. Tôi đang lo là sẽ không thấy đường để tránh sóng thì may thay sóng dịu dần như có một phép mầu. Sau 1 ngày vật vã với sóng gió, tôi mệt đừ, nên giao tay lái cho cậu em vợ và ngả lưng bên cạnh những buồng dừa ngổn ngang. Số là tổ chức cho biết là tôi có 1 người phụ lái và 1 người thợ máy nhưng trên thực tế thì người phụ lái là 1 cựu Đại Úy Địa Phương Quân đã có lái qua tàu sông, nhưng suốt trong chuyến vượt biên ông không lái thay cho tôi lần nào. Còn người thợ máy thì dỏm, thực ra chỉ là 1 thợ tiện, anh ta ở trong cabine trông nom máy và phụ trách giữ mấy bao bột đậu xanh và bột Bích Chi. Anh lại rất say sóng, nên giữ gìn thế nào mà mấy bao thức ăn nầy bị lọt xuống hầm máy và ngấm dầu gas-oil nên không còn dùng được. Trong đêm, khi cậu em ôm tay lái, tôi chập chờn bên cạnh thì nghe tiếng nước chảy róc rách. Kiểm lại thì chiếc thùng phuy chứa nước uống vì quá cũ lại bị sóng nhồi nên bị thủng và nước thoát ra, khi tôi phát giác và bít được lỗ thủng thì nước chỉ còn lại rất ít. Rồi một cơn mưa to chợt ập đến, do không được dự trù trước nên một số người vội đem cái mền căng ra hứng được đầy phuy nước. Điều thật buồn cười là cái mền cũ có lẽ từ nhiều năm không được giặt nên ngày mai khi nắng lên, nước hứng được có màu xám đen và trên mặt là một lớp váng. Dĩ nhiên là chẳng ai dám động đến, do đó suốt chuyến vượt biên, ngày 2 lần, khoảng 10 giờ sáng và 17 giờ chiều, cậu em vợ tôi và vài cậu nữa phải chặt dừa, đem phát cho trẻ con, phụ nữ và đàn ông mỗi đầu người khoảng 10cc nước dừa tươi, phần tôi cũng ngần đó. Sang ngày thứ tư, chúng tôi gặp 2 tàu đánh cá Hồng Kông đang neo và chúng tôi đến để xin tiếp tế. Mấy cục piles phải ưu tiên dùng cho hải bàn và thỉnh thoảng cho radio để nghe tin tức khí tượng, nên mỗi khi gặp tàu, vì không có đèn làm hiệu, mấy cậu trai thường lột áo nhúng dầu buộc vào cây sào rồi đốt lửa làm hiệu cầu cứu, do đó thường các cậu chỉ còn có cái quần sọt, mình trần, còn đầu thì quấn chiếc khăn trông giống như hải tặc. 2 chiếc tàu cá Hồng Kông ít người, có lẽ sợ bị cướp nên lúc đầu ra dấu không cho chúng tôi đến gần. May thay trên ghe có 1 phụ nữ gốc Hoa, trao đổi tiếng Hoa với họ. Khi hiểu rõ, họ cho phép ghe tôi cặp vào để cho nước, nhớt, bánh ngọt, tạp chí. Riêng tôi còn được vào phòng lái để xem vị trí nơi tàu đang neo và có lẽ nhờ ơn trên, dù chỉ lái bằng sự phỏng định, nhưng vị trí ghe tôi cũng không sai lắm so với ước tính. Với vị trí nầy, nếu không có gì bất thường thì khoảng 24 giờ sau chúng tôi có thể đến được Mã Lai hoặc Nam Dương. Chúng tôi từ giã thủy thủ đoàn của 2 chiếc tàu Hồng Kông với niềm biết ơn sâu xa. Mọi người trên ghe tôi chia nhau bánh, tạp chí, uống nước thỏa thích và vì sắp được đến đích nên ai cũng đều lên tinh thần. Riêng tôi, miên man nghĩ về việc trong khi hàng chục chiếc tàu đủ quốc tịch đã làm ngơ trước sự kêu cứu của chúng tôi, thì tại sao 2 chiếc tàu Hồng Kông nầy lại thật tốt giúp đỡ chúng tôi. Nhớ hồi năm 1974, có 2 chiếc tàu đánh cá Hồng Kông vi phạm lãnh hải VN, bị chiến Hạm HQ/VNCH bắt giải giao về BTL/HQ/V1/DH. Lúc đó tôi phụ trách về việc nầy trước khi giao lại cho Quan Thuế Đà Nẵng lo về thủ tục pháp lý và liên lạc với chính phủ Hồng Kông. Thủy thủ đoàn của 2 tàu đánh cá nầy rất lo sợ, họ đã tìm cách hối lộ tôi, nhưng chẳng những tôi không động đến tôm cá hay tiền bạc của họ, mà còn giúp cho họ trong khả năng. Không biết có phải là luật nhân quả đã ứng hiện cho trường hợp nầy chăng? Nhưng rồi niềm vui của mọi người sớm vụt tan, anh thợ máy dỏm không rõ vụng về thế nào, làm rơi chiếc áo tee-shirt quấn vào trục láp làm chết cả 2 máy tàu và không sao khởi động lại được. Ông phụ lái của tôi lúc nầy xuất hiện, đề nghị cắt miếng bạt mui ghe làm buồm và nhiều phụ nữ tiếp tay thực hiện được chiếc buồm con, nhưng không may hôm đó gió rất yếu lại thổi ngược hướng chúng tôi muốn đi, nên buồm cũng không có công dụng lắm, ghe chúng tôi trôi lênh đênh như con tàu ma. Không rõ ông phụ lái thuyết phục thế nào mà hầu hết mọi người nhất là mấy bà yêu cầu tôi quay mũi ghe đi Phi Luật Tân. Tôi giải thích rằng mình đang gần Nam Dương, Mã Lai, Singapore, ghe hiện trên hải đạo quốc tế có nhiều tàu bè qua lại, hy vọng chúng ta sẽ được cứu vớt, còn đi Phi Luật Tân thì rất xa mà ghe mình chỉ có chiếc buồm con lại thiếu lương thực và nước uống. Tôi đề nghị là nếu qua 2 ngày mà không có tàu cứu sẽ quyết định sau. Mọi người đồng ý, nhưng chỉ sau 24 tiếng đồng hồ họ lại nghe ông phụ lái yêu cầu tôi phải đi Phi Luật Tân lập tức. Tôi thật nản, định buông xuôi, nhưng trên bầu trời bỗng xuất hiện 1 chiếc máy bay cánh quạt của US NAVY bay thật thấp gần ghe chúng tôi. Mọi người la hét kêu cứu, nhưng máy bay tiếp tục bay thẳng vào Mã Lai. Thật ra thì người trên máy bay đã thấy chúng tôi và họ cũng đã liên lạc với tàu trong khu vực đến cứu chúng tôi. Lúc đó thì không xa chúng tôi có 2 chiếc tàu; chiếc thương thuyền chạy thật nhanh thì xa hơn, còn chiếc tàu gần thì chạy thật chậm. Trời lúc đó mưa lất phất, trần mây thì thấp và u ám. Lợi dụng lúc mặt trời vừa thoát ra khỏi cụm mây, tôi dùng đáy của hộp bánh sơn màu trắng inox lắc lắc như đánh đèn hiệu về hướng chiếc tàu chạy gần và liền đó chiếc nầy chuyển hướng đi về phía chúng tôi. Khoảng nửa tiếng sau thì chiếc CHINON tàu dầu của hãng BP ( British Pétroleum ) chỉ còn cách ghe tôi vài chục mét. Họ ném dây xuống cho chúng tôi. Vài cậu trai trẻ nhảy ùm xuống biển để vớt dây. Tôi lo lắng vì sợ họ bị cá mập tấn công, nhưng may thay có một đàn cá heo vài chục con nổi lên nhào lộn gần mấy cậu đã cất đi niềm lo của tôi, vì thường đâu có cá heo là không có cá mập. Khi ghe tôi đã áp vào tàu lớn thì họ thả thang dây xuống để chúng tôi leo lên tàu. Tôi là người sau cùng đặt chân lên tàu và được yêu cầu lên gặp ngay vị Thuyền Trưởng. Ông cho biết là chính phủ ông không thuận để cứu ghe vượt biển, nhưng vì lý do nhân đạo mà ông đã linh động, do đó yêu cầu tôi phải đánh đắm chiếc ghe, ông cũng ngỏ ý xin cái hải bàn và tấm hải đồ để làm kỷ niệm. Tôi cho thi hành mọi việc, đồng thời dặn dò mọi người nên giữ tư cách, kỹ luật và tuyệt đối tôn trọng về an ninh phòng hỏa hoạn cho chiếc tàu dầu. Có lẽ do vui mừng vì sắp được bến bờ nên mọi người đã răm rắp nghe tôi và lấy được cảm tình của thủy thủ đoàn của chiếc tàu dầu. Lúc đầu họ nấu thức ăn rồi đem ra boong tàu phát cho chúng tôi. Sau thấy chúng tôi không tệ nên đến giờ ăn thì chúng tôi cũng được vào phòng ăn chung với họ. Vì quá mừng, khi leo thang lên tàu, một số người tỵ nạn đã vứt cả giày, dép nên ông Thuyền Trưởng đã ra lệnh cho thợ mộc trên tàu cưa ván ép, đóng cho những người nầy những đôi guốc đi lốc cốc trên tàu trông thật ngộ nghĩnh; ngoài ra ông còn cho tổ chức văn nghệ, ca múa để mọi người giải trí. Tối hôm đó tôi được viên Sĩ Quan đi phiên mời lên phòng lái. Tàu dầu dài hơn 300 mét, trọng tải vài trăm ngàn tấn, nhưng thủy thủ đoàn chỉ 32 người và ngoài giờ hành chánh, để đi quart trên đài chỉ huy chỉ có 2 người và dưới phòng máy 1 người. Ông SQ trưởng phiên cho người phụ tá đi lấy 1 chai rượu chát và rót mời tôi một ly. Khi nghe tôi trình bày, ông rất chú ý lắng nghe và cho biết là nếu ghe tôi phải quay về Phi Luật Tân thì có thể sẽ gặp 2 cơn bão nhiệt đới. Ông còn cho biết là khoảng thời gian nầy năm trước, tàu ông có cứu 1 ghe vượt biển gần 30 người, nhưng khi lên tàu họ phá phách quá và còn cắp vặt. Rút kinh nghiệm lần trước, ngoài ra vì chính phủ Pháp không cho phép nên ông Thuyền Trưởng đã nói với thủy thủ đoàn là ghe tôi chắc đã chết hết rồi. Mãi đến khi thấy vài ánh chớp, tức còn người sống, thủy thủ đoàn nài nỉ quá nên ông phải chiều theo và cứu chúng tôi. Đang nói chuyện với nhau, thì có âm thanh và đèn hiệu báo động, ông SQ.TP giải thích là có chướng ngại vật trên hướng đi của tàu, tuy nhiên tàu sẽ tự động giải quyết mà không cần đến sự can thiệp của ông. Làm việc trên con tàu tối tân sướng thiệt. Sau hơn một ngày thì chiếc CHINON đến Singapore. Cơ quan tỵ nạn LHQ ở nước nầy cho 1 chiếc tàu nhỏ ra đón chúng tôi, thủy thủ đoàn của chiếc tàu dầu thật tử tế, họ quyên tiền tặng chúng tôi, nhưng tôi đại diện cám ơn rằng các ông đã cứu mạng chúng tôi, điều đó thật cao quý và xin khước từ số tiền, ngoài ra khi tiễn chúng tôi, thủy thủ đoàn chiếc tàu CHINON có nhiều người đã rơm rớm nước mắt. Bà Mười – Vợ của DS La Thành Nghệ, đại diện HCR thật ân cần thăm hỏi chúng tôi và đưa thẳng chúng tôi vào trại tỵ nạn Sembawang – Singapore. Trại trước kia là khu gia binh của các Sĩ Quan người Anh, thật khang trang, sạch sẽ. Trại không có các vòng rào kẽm gai, không có gác sách. Những người làm việc cho HCR thì thật lịch sự và tử tế. Tuy chúng tôi chỉ ở trại 3 tháng, nhưng họ cũng tổ chức dạy cơ bản về tiếng Anh, tiếng Pháp cho người tỵ nạn, chăm sóc tốt sức khỏe và mỗi tuần phát cho chúng tôi mỗi người 10 đô la Singapore tức 5 dollars Mỹ để sống và cuối tuần chúng tôi còn được phép đi phố chơi. Những người vượt biển hầu hết đều có mang theo tiền bạc và nữ trang, giá sinh hoạt ở Singapore cũng không đắt đỏ lắm, nên tha hồ mua sắm. Phần tôi không có xu teng nào nhưng nhờ được cấp 10 đô la mỗi tuần nên cũng thong dong. Còn cậu em vợ theo mấy cậu trai khác lén ra phố khuân vác lặt vặt cũng kiếm được chút đỉnh để mua sắm. Người Singapore thật văn minh, lịch sự và tử tế... hàng tuần họ còn chở thịt cá, rau cải vào giúp cho chúng tôi. Công tâm mà nói thì Singapore quả là thiên đường của người tỵ nạn. Những người cùng trên chiếc ghe tôi tỵ nạn ở Singapore, trừ những ai được thân nhân ở Mỹ, Canada, Úc bảo lãnh, số còn lại vài người vì do tàu Pháp vớt, nên được đi định cư ở Pháp. Phần tôi, do trước kia đã cứu mạng 3 quân nhân Mỹ và được thưởng huy chương Hải Quân Mỹ, nên tôi được xếp loại ưu tiên đi Hoa Kỳ, nhưng cay cú về việc người Mỹ đã vô nhân đạo trước nỗi hiểm nguy của thủy thủ đoàn chiếc HQ10 đào thoát trong trận hải chiến Hoàng Sa chống Trung Cộng xâm lược năm 1974, trong đó có bạn tôi là HP chiếc HQ10, ngoài ra "nực" về việc Mỹ đã phản bội VNCH, nên tôi đã khước từ đi Mỹ. Tháng 11/1983, tôi sang Pháp định cư đúng vào thời mà Đảng Cộng Sản Pháp cực thịnh, nên không được thuận lợi và tôi đã phải vô cùng khó khăn, vất vả để thích nghi với cuộc sống mới. Tôi
sinh ra đã sớm nếm mùi tân khổ, cuộc đời lại trải qua không ít nghịch cảnh,
ngoài ra còn biết thế nào là địa ngục trần gian ở các trại tù VC; chính những kinh
nghiệm quý báu đó đã giúp tôi vượt qua tất cả mọi khó khăn. Rồi nhờ ơn trên,
sớm ngộ được thiền mà tôi có được cuộc sống thong dong, thanh thản. Hiện tôi có
sức khỏe tốt, vật chất đủ, nhiều tự do, so với hàng triệu người trên thế giới,
tôi thật may mắn. Ơn đời thật chứa chan, xin cám ơn Cha-Mẹ và những người
đã giúp tôi có cuộc sống hôm nay./. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 16/Mar/2024 lúc 7:46am |
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 18/Mar/2024 lúc 8:58am |
Tháng Ba Ngậm NgùiNhững ngày của tháng 03/75 khởi đầu là cuộc triệt thoái theo liên tỉnh lộ 7 của quân đội từ Pleiku xuống Tuy Hòa đầy máu và nước mắt. Nhìn đoàn người dân chạy giặc từ ngoài Trung vô trên quốc lộ 1 ngang thị trấn Bình Định nơi tôi đang đứng, tôi biết rằng Bình Định đang trong cơn hấp hối. 6 năm sau đó cũng vào tháng 03/81 có một chiếc xe đò hiệu Khánh Hòa với thùng than to tổ bố đèo theo phía sau rùng rùng ngừng lại tại ngã ba cải lộ tuyến Ninh Hòa nơi quốc lộ 1 kéo dài từ Nam ra Bắc (trong hình). Chiếc xe thả xuống lòng đường một tên ốm nhách nặng chưa tới 42 ký. Tên này áo quần bèo nhèo nhăn nhúm với bọc đồ được gói trong một miếng ni lông ôm trong bụng. Tên đó là tôi sau 6 năm ở tù từ Trại A30 vừa được thả ra. Nơi này có một tấm bảng chỉ đường. Mũi tên phía phải chỉ hướng Tuy Hòa. Mũi tên còn lại chỉ hướng Ban Mê Thuột. Đó cũng là con đường đi vào phố chợ Ninh Hòa nơi có nhà tôi ở, cũng là nơi tôi được sinh ra và lớn lên. Khuất sau chòm cây bên phải của tấm hình là Hòn Sầm, có mộ má tôi nằm yên giấc. Lội theo con đường phía bên trái tôi đi bộ về nhà. Đi ngang qua Trường Trần Bình Trọng nơi tôi theo học thời niên thiếu, nhìn lại cảnh cũ âm thầm nuốt lệ. Tôi vào tù năm 25 tuổi và được thả ra năm 31 tuổi. Cái giá 6 năm không nhiều lắm nhưng cũng đủ chuyển tôi từ 1 thanh niên phơi phới tuổi thanh xuân biến thành 1 gã đàn ông lếch thếch giống như đang mắc bệnh nghiện xì ke. Hàng cây khuynh diệp trước cổng tự tay chúng tôi trồng kỷ niệm khi cây còn bé tí đo chưa tới 2 gang tay nay đã cao lớn và cũng sắp già. Hàng cây này chúng tôi trồng vào năm 1967 là năm tôi học lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ). Nơi này cũng là nơi tôi và các bạn cùng lớp quây quần bên nhau từ giã tuổi niên thiếu trước khi bước chân vào cuộc chiến. Đang vào mùa đông trốn trong nách phía trên cao của dãy khuynh diệp là những vệt nắng chiều thả màu vàng yếu ớt lên những chiếc lá èo ọt. Ngang trường cũ tôi đứng lại với bộ đồ tù vá đùm đụp nhiều chỗ. Tôi lặng lẽ buồn. Tại nơi này mới hôm nào tôi còn là một cậu học trò đồng phục quần xanh áo trắng giờ là người tù đang bước vào tuổi trung niên. Cũng chỉ là một người nhưng tôi có cảm tưởng bị tách làm hai. Tôi nhớ bạn bè cùng lớp, những đứa con trai bị dòng chiến tranh cuốn hút tản lạc muôn phương. Những đứa tử trận, những đứa còn sống đang vất vưởng tại một nơi nào của một trại khổ sai nào đó. Những người con gái sợ lỡ xuân thì cũng vội vã lấy chồng là lính giờ cũng đang mòn mõi đợi. Tôi lủi thủi đi vào con phố với biết bao nỗi ngậm ngùi. Không ai nhận ra tôi đang trên con đường. Sau khi miền Nam bị đoạt mạng tất cả đều tan nát... Ngậm Ngùi Chiếc xe đò rùng mình nín thở Quẳng xuống đường một nhúm xương khô Gã lính ngụy lưu đày ngơ ngác Chưa dám tin mình đã trở về Gã băng qua mùa đông vào phố Nắng loe hoe đọng ngã ba đường Chiều ngủ vùi trên manh áo vá Có con chim cất tiếng chào buồn Dãy bạc hà hiên trường thuở nhỏ Gió thều thào lúc gã đi qua Vàng thiêm thiếp thẫn thờ lá đợi Chút mong manh xuân ấm chợt về Chiếc cầu nơi tuổi thơ đánh rớt Đám lục bình khóc ướt dòng sông Gã lục lọi tìm trong ký ức Bạn bè xưa ai mất ai còn Cây trụ điện đứng nơi góc chợ Gánh cặp loa ruột thắt gan bầm Hát ra rả ngàn lời mị ngữ Còn riêng mình mòn mỏi tháng năm Gã tha thẩn mò vào xóm cũ Người quen xưa tản lạc muôn phương Trời lồng lộng cao không vói tới Giẫm cuộc đời nát vụn dưới chân Con chó già ngồi chơi trước cửa Ngửi hơi xưa lúc lắt đuôi chào Chiếc áo mặc tróc bươm từng mảng Con ruồi bay quanh mũi lao đao Tên công an trông coi khu vực Biết gã về mang súng tới hăm Con chó nản nhắm nghiền mắt đói Chuyện thường ngày lâu thét thành quen. Quan Dương Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 18/Mar/2024 lúc 9:14am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 20/Mar/2024 lúc 1:11pm |
Văn ĐIỆN THƯ CUỐI CÙNG - Nhạc Makiko Hirohashi - 3/2016 <<<<<<Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Mar/2024 lúc 1:13pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 23/Mar/2024 lúc 12:42pm |
Chuyện Hồi Đó - Chỉ Có Người Mỹ !QUẲNG XUỐNG BIỂN HƠN 10 TRIỆU ĐÔ LA VÀ VƯỢT QUA KỶ LUẬT KHẮT KHE CỦA QUÂN ĐỘI, ĐỂ CỨU MẠNG 7 NGƯỜI. Bảy mạng người hay 10 triệu Mỹ kim năm 1975. Người Mỹ có thể quyết định những việc phi thường trong thời khắc ngắn ngủi. Sống trên trái đất này sẽ cảm thấy không uổng phí, khi được chứng kiến cuộc sống vẫn còn nhiều TÌNH NGƯỜI, ở nơi này nơi khác, ở quá khứ hay hiện tại. Đây là một trong những bức ảnh nổi tiếng nhất của chiến tranh Việt Nam. Có lẽ nó cũng không mấy xa lạ với nhiều người trong chúng ta, bởi lẽ năm nào người ta cũng chiếu trên tivi vào dịp 30 tháng 4. Tôi không nhớ tôi thấy bức ảnh này lần đầu tiên là khi nào, nhưng tôi vẫn còn nhớ câu chuyện của nó: đây là cảnh lính Mỹ và miền Nam Việt Nam vứt trực thăng xuống biển trong khi tháo chạy khỏi Sài Gòn vào ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam. Tại sao họ lại đẩy trực thăng xuống biển? Tôi không nhớ ai đã trả lời câu hỏi này cho tôi, người kể chuyện trên tivi, trên báo đài hay ở trường học, nhưng câu trả lời mà tôi biết đã luôn là: họ không muốn những trực thăng này rơi vào tay của quân đội Bắc Việt Nam. Thực sự thì đây cũng là một câu trả lời khá hợp lý, mà có lẽ tôi sẽ không bao giờ thắc mắc nếu không vô tình biết đến viện bảo tàng cũng là hàng không mẫu hạm USS Midway ở San Diego. Hóa ra có một câu chuyện khác, rất khác so với những gì tôi đã nghĩ, đằng sau bức hình này. Bức ảnh này được chụp vào ngày 30/4/1975 trên boong sàn bay (flight deck) của USS Midway, một trong nhiều tàu chiến Mỹ tham gia vào chiến dịch Gió Lốc (Operation Frequent Wind), chiến dịch di tản bằng trực thăng lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Trong vòng hai ngày, lính Mỹ đã di tản toàn bộ người Mỹ ở miền Nam Việt Nam cũng như hơn 6.000 người Việt Nam tị nạn. Mặc dù được đánh giá là một chiến dịch thành công, nhưng những hình ảnh di tản trong hoảng loạn đã đánh dấu một trong những thời điểm đen tối nhất trong lịch sử nước Mỹ và cả Việt Nam. Quay trở lại bức hình trên. Chiếc trực thăng trong hình là một trong nhiều chiếc máy bay do các sĩ quan không quân Nam Việt Nam tự chở gia đình đáp xuống USS Midway. Khi trên boong đã kín chỗ thì các thủy thủ phát hiện thêm một chiếc máy bay cánh quạt L-19 Bird Dog đang tìm cách hạ cánh xuống Midway. Người ta liền liên lạc với viên phi công, yêu cầu ông ấy bay sát mặt nước biển và nhảy ra khỏi máy bay, rồi cho thuyền ra cứu, chứ trên boong không còn chỗ đậu trực thăng nói chi là máy bay hạ cánh.😒 Có vài chiếc trực thăng trước đó đã phải xử dụng phương pháp nhảy xuống biển này. Tuy nhiên viên phi công không nhận được tín hiệu liên lạc và cứ bay vòng tròn trên đầu như muốn hạ cánh trên boong. Viên phi công không có radio, nên ông ấy cố gắng liên lạc với Midway bằng cách thả giấy xuống boong tàu. Lần thứ nhất ông ấy gắn mảnh ghi chú vào một con dao và quăng nó xuống boong, nhưng gió lại thổi nó rơi xuống biển. Ông ấy thử lại với một chiếc giày rồi một chùm chìa khóa nhưng tất cả đều rớt xuống biển. Chỉ đến khi ông ấy quấn mảnh ghi chú vào một khẩu súng lục thì nó mới rơi trúng boong. Vài dòng ngắn ghi bằng tiếng Anh dịch ra là như thế này: "Các ông có thể di chuyển những chiếc trực thăng này sang một bên được không? Tôi có thể hạ cánh trên đường băng của tàu. Tôi có thể bay được thêm một tiếng nữa, chúng ta có đủ thời gian để di chuyển. Làm ơn cứu gia đình tôi với, Thiếu tá Lý Bửng, vợ và 5 con." Thế là mọi kế hoạch đáp xuống biển bị hủy bỏ vì người ta e rằng những người ngồi sau sẽ chìm cùng chiếc máy bay trước khi thuyền cứu hộ đến kịp. Thế là thuyền trưởng tàu L. C. Chambers bất chấp án binh treo trên đầu,😳 ra một quyết định có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử quân đội Hoa Kỳ. Ông lệnh di dời những chiếc trực thăng, và những chiếc nào không thể nhanh chóng chuyển qua một chỗ khác an toàn hơn thì sẽ bị đẩy xuống biển. Ông kêu gọi mọi người góp sức và ngay lập tức nhiều thủy thủ trên tàu, bất kể cấp bậc, cùng tham gia đẩy xuống biển hàng chục chiếc trực thăng, có giá trị tổng cộng gần 10 triệu Mỹ kim. Đó cũng là lúc bức ảnh ở trên được chụp. Hôm ấy trời có mưa, boong tàu trơn ướt và có gió. Chiếc L19 không được thiết kế để đáp trên hàng không mẫu hạm. Phi công Việt Nam cũng chưa bao giờ được huấn luyện để đáp lên tàu sân bay, vì Việt Nam đâu có tàu sân bay. Nhưng kết quả thật có hậu, dù chỉ một lần thử và không được sai sót, ☹️. Đáp không được thì bay lên, đáp lại vài chục lần nữa. Xăng còn cả̀ tiếng đồng hồ mà. thiếu tá Bửng thành công đáp máy bay xuống tàu. Ông cùng vợ con xuống Midway trong sự kinh ngạc tiếng vỗ tay hoan hô của những người trên tàu. Khi tất cả đã là lịch sử, ta nhận ra rằng những quyết định anh hùng chỉ đến trong khoảnh khắc. Chiếc Bird Dog chở họ ngày hôm đó ngày nay được trưng bày ở bảo tàng Hải Không Quân ở Florida. Người hùng Lý Bửng trong khoảnh khắc sinh tử đưa cả gia đình vào cõi chết để tìm cõi sống. Gia đình ông này đã định cư ở Mỹ. Thuyền trưởng Chambers không bị kỷ luật. Ông Chambers và ông Bửng thỉnh thoảng vẫn gặp nhau. Trong một phỏng vấn khi ông Chambers được hỏi rằng: Ông là một người hùng khi trực tiếp cứu hàng ngàn người Việt, và quyết định nhân văn của ông khi đẩy những chiếc trực thăng xuống biển để cứu gia đình ông Bửng, ông muốn cộng đồng người Việt làm gì cho ông? Ông Chambers hóm hỉnh trả lời: Chỉ cần có thêm nhiều nhà hàng Việt Nam với những món ăn Việt thật ngon quanh khu tôi sống là đủ. @Dan Van sưu tầm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 27/Mar/2024 lúc 9:35am |
Nhạc CHẾT NON - NhậtNgân & ĐinhViệtLang - ThanhThúy 08-2018 <<<<<<Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 27/Mar/2024 lúc 10:00am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 29/Mar/2024 lúc 8:53am |
Cuối Đường"Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ. Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của mình!" (Vương Mộng Long) Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của Quốc Lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, Quốc Lộ 1 sẽ chấm dứt. Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-Bình thì Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên Đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư Đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu, -"Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!" Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để "phòng thủ thủ đô". Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên Quốc Lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ. Vào giờ này, quân số Tiểu Đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân Khu 2 còn lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu Tá Vương Mộng Long), Thiếu Úy Thủy, Trung Úy Trâm, Chuẩn Úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ. Ông Đại Úy Ngũ Văn Hoàn, Tiểu Đoàn Phó chết đêm 28 tháng Tư. Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Phước và Trung Úy Đăng mất tích. Thiếu Úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu Úy Học, Thiếu Úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn Úy Gấm, Chuẩn Úy Trung, Chuẩn Úy Lê Văn Phước (Ban 3) cùng Trung Úy Trần Văn Phước thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua. Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi. Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên-Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi là Quốc Lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hi sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới. Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương Văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông Dương Văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là "những người anh em" Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi, -"Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?" -"Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?" Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt, -"Thiếu Tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu Tá ơi! Hu...hu ...hu..." Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van... Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này. Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương Văn Minh lên chức tổng thống lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng Thống Việt- Nam Cộng -Hòa được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quyệt nước mắt. Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền-Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang, -"Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!" - "Hoan hô!...Hoan hô!" Thùng!... Thùng!... Hoan hô!...Hoan hô!... Thùng!... Thùng!... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió; lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió. -"Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?" Chửi thề xong, ông Hạ Sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn. -"Thôi! Ta đi!" Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị. -"Mình đi đâu bây giờ, Thiếu Tá?" Thiếu Úy Thủy băn khoăn hỏi. -"Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ." Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm. -"Thùng!... Thùng!...Hoan hô!...Hoan hô!" , chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng. -"Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!" Hạ Sĩ Phi lại đổ quạu. -"Cành! Cành! Cành!... Cành!... Cành! Cành!" Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết. Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Don đưa ống nghe cho tôi, -"Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!" Tôi nghe tiếng Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng LĐ24/BĐQ, -"Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!" giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng. Nghe ba tiếng "Đường-Sơn Quán", tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy. Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ Chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740. Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sé San là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương Bắc. Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông. Họ quen gọi tôi là "Anh Hai". Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng "Anh Hai" của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, "Anh Hai" lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn II giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim "Đường-Sơn Đại-Huynh" được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh "Đường-Sơn Đại-Huynh" chỉ vì tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý Tiểu Long, tài tử chính của phim này. Sau khi "Anh Hai" vào Plei-Me nhận Tiểu Đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái "Đường-Sơn" khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía. Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu? Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi, -"Có phải Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?" -"Phải rồi! 82 đây!" -"Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!" -"Có ai ở đó không?" -"Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng" Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung Úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi, -"Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!" Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho "hòa bình" có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ Sĩ Phi, một của Trung Sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be. Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la, -"Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát!" Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. "Hòa bình" rồi, tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng? -"Choác! Choác! ....Choác!" Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun "phì...phì..." che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh, -"Đưa tao!" Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be. "Oành!" một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu; máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay. Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu. Hạ Sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, "Cành! Cành!..." -"Choác! Choác!..." - "Xoẹt! Xoẹt!..." -"Oành! Oành!..." Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang. -"Cành! Cành! Cành!..." Trên xe, Hạ Sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí, -"Đù má tụi mi! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!" Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của Quốc Lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên của Trung Sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đã bị loại ra ngoài vòng chiến. Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, Vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên. Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé... Binh Nhứt Liêu Chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ). Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng Trung Úy Trâm thét lên, bên hông trái xe, -"Thái Sơn ơi! Hình như tank tới !" -"Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!" Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ "đúp" (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ Sĩ Phi vỡ óc. Hạ Sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút chạy vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều. Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung Sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung Sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều thào, - "Chạy đi!...Ông thày...chạy đi!..." Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ "toang toác!" trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ. -"Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi!" đó là tiếng Trung Úy Trâm. "Toác!Toác!"- "Chíu! Chíu!" đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất. Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương vãi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban-Mê-Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú, -"Ôi!...Ôi!... Ông Trời ơi!...Ông Trời ơi!...ơi...ơi..." Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt nguội của Trung Úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng. -"Trâm ơi ! Làm ơn! ...Cho anh chết! Trâm ơi!..." Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung Úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một nông dân đạp xe tới chặn đường, -"Ông Thiếu Tá bị thương hả?" Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng, -"Ông Trung Úy lấy xe này đưa Thiếu Tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!" -"Cám ơn cụ!" Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng. Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài, -"Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?" Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, "Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!" Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn, -"Thày ơi! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em, thày ơi! " Trung Úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thày trò tôi ôm nhau. "Hu ... hu... hu...." Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi. Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng Quốc Lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ, -"Thiếu Tá lên xe, em chở đi trốn." Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo. -"Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi? Họ khai có ông Thiếu Tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác Thiếu Tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa Thiếu Tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt." Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa, -"Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!" Cánh cửa hé mở, một bà già, tiếng Bắc Di-Cư, -"Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo!" -"Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!" Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà, -"Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!" Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà. Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp, -"Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không?" một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi. -"Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng..." Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không, -"Chứ hai anh kia làm chi rứa? " -"Anh Cả và anh Hai của tôi đó!" Hải nhanh miệng. -"Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt." Bà cụ phân trần. Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh, -"Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!" Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về, -"Thiếu Tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi." -"Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!" bà cụ ân cần. -"Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào." Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la. -"Thưa Mẹ! Con đi!" -"Thưa Mẹ! Con đi!" -"Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!" Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải còn trông theo. Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi, - "Thái Sơn ơi! Trâm ơi!" Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu Úy Trần Văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà, sau khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố. Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tài, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?) Còn cách ngã ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-Gòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược. Chúng tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. Chiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục Việt-Nam Cộng-Hòa, dây đạn, nón sắt, ba lô... Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn Gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng Đoàn Phòng Vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đình bạn tôi đã di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy. Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia... Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung Úy Trần Văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn hay mất. Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu "Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh". Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước. Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi, - "Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!" Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-Gòn. Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu Úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, vì địch quá đông. Đến lúc khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa. Thời gian trôi... Mười ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca "Mùa Xuân Trên Thành Phố ************". Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời, -"Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!" -"Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!" anh Bắc-Kỳ mừng rỡ. Bà chủ nhà nghệch mặt, giương mắt nhìn anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh. Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có còn nhận ra anh không? Qua văn phòng Ủy-Ban Nhân-Dân Xã, đến Quốc Lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số. Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số "82" màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói. Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng, -"Các chú tha lỗi cho anh..." Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não nuột, -"Thày ơi! Chạy đi!... Thày ơi!..." Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ... ●Vương Mộng Long |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 01/Apr/2024 lúc 9:26am |
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 100 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |