Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 101 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23135 |
Gởi ngày: 19/Apr/2014 lúc 9:23am |
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 19/Apr/2014 lúc 9:25am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 20/Apr/2014 lúc 8:53pm |
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23135 |
Gởi ngày: 21/Apr/2014 lúc 7:57am |
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Apr/2014 lúc 8:40am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23135 |
Gởi ngày: 22/Apr/2014 lúc 11:44am |
Ngụm cà phê tháng TưTháng tư, tôi ngồi trong quán cà phê Starbucks
trên đường 20th của thành phố tôi cư trú. Tôi cúi xuống nhìn mầu cà
phê đen đặc, sóng sánh sót lại một ngụm trong chiếc ly giấy. Tôi cầm
chiếc ly chao nhẹ đi một chút, do dự chưa muốn ngửa cổ uống nốt ngụm
cuối cùng. Ngụm cà phê trông như ngụm nước mắt đen. Chao ôi nước mắt
đã có một lúc nào đó, ta ngửa cổ uống được cả ngụm Anh ạ tháng tư sương mỏng
lắm Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 22/Apr/2014 lúc 11:46am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23135 |
Gởi ngày: 23/Apr/2014 lúc 7:46am |
Tháng Tư , niềm đau còn đó
____________
Cái
thùng sắt cũ , bên ngoài đã rỉ sét vài nơi . Nó nằm ở một nơi thật
khuất của tầng Basement . Bụi phủ một lớp thật dầy trên mặt , chắc cũng
lâu lắm rồi chẳng ai buồn mở đến nó . Thế mà sáng hôm nay hai đứa con
gái tôi dọn dẹp nhà cửa , tự nhiên hai chị em nó khệ nệ rinh cái thùng
ra,và tôi nghe loáng thoáng tiếng con Ty nói với em nó
-Đồ gì không hà , My nói với Mẹ mình đem bỏ thùng rác đi
- Mẹ, con đem cái thùng nầy ra garbage nghe Mẹ , toàn là cái gì không hà . Sao Mẹ keep nó làm chi vậy
Tôi giật thật mạnh cái thùng từ tay con bé . Tôi nói lắp ba lắp bấp, nghèn nghẹn
- Con bỏ cái gì thì bỏ . Còn cái thùng kia và tất cả đồ đạc trong đó giữ nguyên cho Mẹ
Nhìn
thấy cái cảm xúc tột cùng của Mẹ , hai chị em nó lấm lét đưa mắt nhìn
nhau . Chừng như tụi nó không hiểu chuyện gì liên quan giữa Mẹ nó với
cái thùng sắt cũ kỹ nầy . Con Ty khẽ bảo
-
Mấy cái đồ trong thùng cũ quá rồi . Còn dùng được nữa đâu . Mẹ để chi
cho chật nhà . Như cái khăn nầy Mẹ coi nè ... Vừa nói nó vừa kéo cái
khăn trong thùng ra .
Lâu
ngày mùi ẩm mốc xông lên làm con bé quay mặt đi . Tôi ngồi bệt xuống .
Hai tay ôm lấy đầu . Nước mắt ứa ra . Tay thẫn thờ ve vuốt từ cái nón ,
từ cái khăn mặt, từ bộ đồ hôm từ giã quê nhà trốn chui trốn nhũi xuống
tàu để ra đi . Tôi run run cầm
cây muỗng ăn cơm hồi ở trại - Cây muỗng mà đêm tối để chuẩn bị sáng
mai xuống tàu Má đã cẩn thận nhét vào túi xách . Má vừa sắp đồ mà nước
mắt Má giọt ngắn giọt dài tuôn chảy . Má nói
-Đem theo để sang bên đó có cái muỗng mà ăn cơm con ơi
Tất
cả vẫn còn đó . Như chứng tích của một đoạn đời nghiệt ngã đã qua . Tại
sao tôi không quên hết đoạn đường giông bão ngày nào mà ngay lúc nầy
bao nhiêu hình ảnh năm xưa hiện về và về thật rõ hơn bao giờ hết ....
Cuối cùng rồi tàu cũng cập bến Mã Lai . Bến bờ đầu tiên tôi đến trên đường đi tìm Tự Do .Đây là một căn cứ của một trạm lính
cũ . Nghe mọi người bảo vậy . Đầu óc tôi choáng váng . Lúc nầy một nỗi
lo sợ tột cùng vây kín tôi . Trời ơi mới đó mà tôi đã thực sự xa hẳn quê
hương tôi rồi sao ? va` tôi sẽ đi về đâu trong những tháng ngày sắp tới
. Tôi bơ vơ hơn lúc nào hết và lúc nầy tôi thèm được úp mặt vào lòng Má
và khóc . Đây là lần đầu tiên tôi xa nhà trong hoàn cảnh như thế nầy ?
mới buổi sáng cách đây mấy ngày còn thấy Má , còn cầm tay Má , còn nghe
giọng nói nghẹn ngào của Má trong buổi sáng sớm lên đường
-
Con ơi! thôi con ở lại đi con đi Má khổ lắm . Để các em con đi một mình
được mà . Tôi đã nao lòng khi nhìn những giọt lệ đầm đìa trên khuôn mặt
người Mẹ thân yêu đã một đời vì con và trong lúc nầy đứa con như đã sắp
rời bỏ vòng tay mình mà đi và ngày về biết đến bao giờ .
Thế
mà mới đó mà giờ đây ngàn trùng cách biệt .Tôi đang đứng trên đất trời
của quê người . Tôi đã ở tại trại lính Mã Lai nầy hai ngày rồi . Hai
ngày mà tưởng chừng như dài cả thế kỷ . Mấy ngày đến đây thần trí tôi
như mù mờ nửa tỉnh nửa mê . Đàn bà con gái được ưu tiên cho vào trạm
mà ngủ song chỉ chen chúc ngồi mà ngủ vì căn phòng nhỏ xíu mà số người
con nít đàn bà đã gần 20 người . Hai ngày nay từ lúc trên tàu xuống đến
giờ tôi không ăn gì cả . Mà thực ra có gì mà ăn đâu . Đồ ăn đem theo
của chủ tàu có lẽ còn nhiều song lúc nầy hình như sự chia sớt khó mà có
nữa . Ai cũng phòng thân mình , còn đâu mà nghĩ tới kẻ khác . Hôm mới
đến , cả tàu được mấy anh lính Mã Lai cho mấy hộp cá mòi nhỏ xíu . Mấy
hộp cá bỏ vào soong cho thêm nước và muối làm sao mà chia đủ cho 49
người trên tàu . Thiên hạ tranh nhau giành giựt lẫn nhau vì miếng ăn la ó
, chửi bới um sùm . Chưa bao giờ tôi chạm phải hoàn cảnh khốn cùng như
lúc nầy . Tôi ngồi yên ở một góc phòng và khóc . Một cô bé học trò cũ
đến đây có lẽ từ mấy ngày trước đem đến cho cô giáo chén cơm nhỏ xíu
khoảng mấy muỗng và có một miếng cá mòi nhợt nhạt màu . Cô bé khẽ cầm
tay tôi ngập ngừng trao chén cơm và nói
-
Cô rán ăn một chút đi cô .Em rán tranh lấy được một chút cho Cô . Mấy
ngày nay em thấy cô có ăn gì đâu . Đừng buồn nữa Cô . Em biết cô khổ lắm
.
Tôi ôm chầm lấy em và nức nở khóc . Tôi tủi thân hơn lúc nào hết
Con bé lấy khăn lau nước mắt cho cô giáo , chợt hỏi tôi
- Cô đi có một mình sao Cô ?
Tôi
thuật em nghe chuyến rời quê hương mấy ngày trước , chị em tôi lạc mất
nhau , các em tôi đi từ buổi chiều hôm trước . Tôi còn nán lại để lãnh
lương sau cùng cuả tháng để lại cho má tôi . Bao nhiêu vàng vòng đều
bán sạch để mua chỗ cho mấy chị em tôi . Tôi đi rồi má tôi mới sống làm
sao đây...Khi tôi lên được tàu lớn thì chẳng thấy bóng dáng tụi nó đâu
cả . Trên tàu kẻ lạc vợ , kẻ lạc chồng song tàu phải đi thôi không thể
quay về . Con bé học trò cũng kể lễ
- Em cũng lạc má em . Không biết má em có bị bắt không ?
Vừa
nói nó đưa tay quẹt nước mắt , thút thít khóc . Con bé đến đây một mình
. Tôi cũng một mình . Cô trò tôi gặp nhau trong hoàn cảnh đáng thương
cùng cực nơi đất trời lạ xa nầy
Mấy ngày sau chúng tôi được chuyển sang trại Cây Dương , nơi đây rộng rãi hơn , nhưng chỉ cây là cây , không một bóng nhà . Thì ra đây cũng là một hòn đảo không người ở . Cô trò tôi theo người ta đi kéo lá về cất nhà để ở . Chẳng mấy chốc mà các túp lều che nắng che mưa được dựng lên để mọi người có chỗ trú thân . Tôi kêu em về ở chung với tôi cho có bạn . Dù sao cô trò tôi cũng còn có nhau nương nhau để mà sống . Sáng nào hai cô trò cũng len lỏi vào rừng tìm coi có rau gì ăn được thì hái . Có lần gặp được một rừng rau dềnh . Tôi mừng quá đưa tay ngắt một lá và ngửi . Thì ra đúng y chang là mùi rau dềnh . Tôi mừng quá, kêu lên
- Rau dềnh em ơi
Song
là loại rau dềnh dại , không phải loại được trông nên màu xanh và hơi
có lông chứ không màu tím thẫm như ở bên nhà . Hôm ấy sau thành quả hái
được cô trò tôi ăn rau dềnh luộc một bữa no nê từ sáng đến chiều . Nhớ
lúc ăn con bé học trò vừa ăn mà như sợ sợ . Con bé nói
- Không biết phải rau dềnh không cô . Mùi thì y chang . Hỏng biết mình ăn có sao không nữa ?
Tôi cười và bảo
- Có sao mai không thức dậy thì biết liền . Giờ thì tất cả đã vào trong bụng rồi . Sợ chi cho mệt hả em ?
Hơn
1/2 tháng không một cọng rau trong người nên mặc dù nói thế cô trò tôi
chẳng mấy chốc thanh toán sạch sành sanh hết soong rau luộc .
Sáng thức dậy mới biết không sao , mới biết là mình còn sống . Con nhỏ học trò cười khúc khích khi thức dậy và bảo
- Cô với em gan thiệt , nhưng không sao cô há . Mai mình đi lại chỗ đó hái nữa nghe Cô ...
Rồi
cũng không có dịp đi hái rau dềnh lần nữa , chúng tôi được dời sang
trại chính thức Cheratin trên đất liền . Nơi đây có chỗ sẵn để ở và Cao
Uỷ Tị Nạn sẽ đến để phỏng vấn và bốc đi định cự Hình như là một căn cứ
quân sự cũ của Mã Lai nên không phải lo việc cất nhà như bên Cây Dương .
Thực phẩm được Hội hồng thập tự cung cấp , mỗi tuần có rau tươi , thịt
tươi . Đời sống tương đối hơn, có miếng ăn để mà sống . Ai có tiền có
thể nhờ tụi lính Mã Lai mua đồ bên ngoài vào ăn . Các thùng Supply cho
người tị nạn thì là đồ hộp . Thùng nào may mắn có mì gói lúc đó là niềm
hạnh phúc vô cùng .Chiều chiều cô trò tôi theo người trong trại xuống
bến đón những thuyền mới tới hy vọng xem có gặp được người thân của mình
. Hôm nay có một thuyền vừa cập bến . Mọi người nhốn nháo đổ xô xuống
bến tìm người . Người từ tàu lần lượt lên đất liền như những bóng ma từ
cõi chết trở về . Từng người , từng người một . Không có em tôi . Người
cuối cùng trong đoàn người trên taù lên là một cô gái rất trẻ khoảng
18 thôi . Khuôn mặt em còn đầy nhừng nét kinh hoàng . Em đi như không
vững , vừa đến bờ em quỵ xuống bất tỉnh . Người ta vây chung quanh em ,
đỡ em và đưa em về bệnh xá .Tôi nghe loáng thoáng ai nói sau lưng " Tội
nghiệp .Con nhỏ đó bị hải tặc ... ".Tôi nghe mà rưng rưng , thương cho
thân phận nữ nhi trong cảnh nước mất nhà tan . Sau hôm đó tôi đi tìm em
tôi đem em về ở chung với tôi . Tôi vỗ về ẹm . Tôi săn sóc những vết
đau còn trên thân thể em . Chiều nào cũng vậy, em một mình ra bờ biển
em ngồi . Em khóc . Có lần em bảo tôi em muốn tự tử mà chết để quên
chuyện nhục nhằn đã qua cho trọn với người tình ở lại . Em khóc mà bảo
rằng
- Em khổ lắm , không còn gì nữa cô ơi
Tôi vuốt tóc em , dịu dàng nói - Can đảm lên em ơi . Cả một đất nước điêu linh , không riêng gì chúng mình đâu em
Rồi
cuối cùng tôi cũng đi định cư . Em ở lại chờ giấy bảo lãnh . Nghe tôi
xin đi Canada người ta hù tôi đủ chuyện nào là bên ấy lạnh lắm sẽ chết
chịu không nổi đâu . Bước xuống máy bay thở ra là đã đông thành nước đá
song tôi bình thản vô cùng và tôi nghĩ rằng người ta ở được thì mình ở
được và bất cứ nơi nào cũng khá hơn nơi chốn mà tôi đã bỏ đi , và trong
tàu đi tôi là người đi định cư đầu tiên vì ai cũng chờ để đi Mỹ . Hôm từ
giã để chia tay lên đường mỗi người mỗi ngã , ai cũng không cầm được
nước mắt .
Thế
mà hơn ba mươi năm trôi qua . Chuyện ngày xưa của gần nửa thế kỷ qua
như mới ngày nào . Bao giờ cho tôi quên đây . Tôi mân mê từng kỷ vật
còn lại của quãng đường đi tìm tự do ngày nào ... Từ cái mũ đen . Từ
Chiếc áo bà ba màu trắng ngày nào đã vàng theo năm tháng ,cái áo màu
gạch tôm có thêu hoa cúc của em học trò tặng tôi hôm tôi lên đường định
cự . Tôi nhớ hoài buổi tối hôm đó khi em ngập ngừng đến lều tôi ở trao
chiếc áo cho tôi mà nghẹn ngào nói
-
Mai cô đi rồi không biết có lần Thầy Trò gặp lại . Em có chiếc áo nầy em
mang theo lúc vượt biên. Em xin tặng Cô để cô mặc tươm tất hơn bữa cô
lên phi cơ nghe Cô , để mỗi lần cô thấy Nó cô nhớ đến em . Đó là Kiều
Xuân cô bé học trò Lâm Quang Ky con của Cô giáo Mai trường Nam Tiểu Học
ngày nào . Bây giờ 30 năm sau chiếc áo vẫn còn đây mà người học trò
xưa đã ra người thiên cổ bên trời viễn xứ ...
Con
gái tôi ngồi yên lặng nảy giờ nghe Mẹ trầm buồn kể cho con nghe chuyện
thật thương tâm mà đây là lần đâù con được nghe . Tôi thấy có giọt lệ
nào đong đầy trên khóe mắt con tôi . Con tôi nắm tay Mẹ như san sẻ cùng
Mẹ nỗi buồn mà người mang theo từ bao năm qua . Con nhẹ nhàng xếp lại
những món đồ kỷ niệm của Mẹ vào thùng như cũ . Con khẽ bảo
- Con hiểu rồi Mẹ . Con xin lỗi đã vô ý làm Mẹ buồn
Tôi
ôm con tôi và tôi chạnh nhớ người con gái chiều nao trong chuyến đi
định mệnh của em . Ngày ấy em cùng trạc tuổi con gái tôi lúc nầy . Không
biết bây giờ người em gái năm xưa ra sao ? Em ở đâu ? em có hạnh phúc
bên chồng con và còn nhớ gì chuyện đau thương ngày cũ ...
Em còn nhớ không em ? Tháng tư ơi ! Niềm đau ngày nào vẫn còn đó trong tôi Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/Apr/2014 lúc 7:59am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 24/Apr/2014 lúc 10:38am |
Thời Thế, Thiện, Ác, và... Con Người
Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương. Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn. Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7. Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường
nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II. Bệnh viện
này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2
chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó
tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay chuyển ra
Hạm Đội 7. Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng. Hai người ngừng trò
chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc. Ngày kế tiếp, sau
bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và
viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện.Anh Tư bắt tay
tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng.
Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay, Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa. Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam. Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa. Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ
binh bắt đầu các phiên gác đôi.Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu
tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần
hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa. Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay. Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác. Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm. |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23135 |
Gởi ngày: 25/Apr/2014 lúc 10:16am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23135 |
Gởi ngày: 26/Apr/2014 lúc 8:35am |
Sài Gòn, những ngày cuối tháng Tư 1975
Tháng
tư năm 1975 có lẽ là một thời điểm không thể nào quên của dân tộc chúng
ta. Ở ngày tàn của cuộc chiến, là của chia ly và mất mát. Bao nhiêu
người đã nằm xuống sau một cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm. Tưởng đã hòa
bình, đã hết những bi thảm nào ngờ bắt đầu từ lúc ấy lại kế tiếp hết
những bi thương này qua những bi thảm khác…
Với
ngày lịch sử ấy, từ nhạc đến thơ, từ tiểu thuyết đến hồi ký, đã có biết
bao nhiêu tác phẩm ghi nhận lại những bi thảm nhưng hào hùng, những mất
mát đau xót không thể nào quên được trong tâm khảm những người Việt
Nam. Hôm nay, trong cái hồi tưởng để nhớ về những ngày đã qua ấy, chúng
tôi nhắc lại những tác phẩm đánh dấu một thời điểm quan trọng của lịch
sử Việt Nam, phản ánh tâm tư thời đại, và những nỗi niềm của những người
bị quay cuồng trong con lốc thời thế...
Là
một người lớn lên và trưởng thành trong xã hôi miền Nam thì thế hệ
chúng tôi có nhiều cái chung lắm. Cùng đi học, cùng đi lính, cùng vào
tù, cùng vượt biển hay đi định cư theo diện HO, cùng lưu lạc ở hải ngoại
và cùng chung những nỗi niềm, những tâm sự về ngày đổi đời bi đát của
đất nước này. Với những cái chung của nhiều người ấy đã thành một phận
đời dù có những nét tư riêng nhưng cũng phản ánh phần nào được xã hội mà
chúng tôi đã sống, đã buồn, đã vui, đã hy vọng và thất vọng theo mệnh
nước nổi trôi…
Nhiều
nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ đã sáng tác rất nhiều về đề tài này. Đã là
nghệ sĩ, thì làm sao tránh được cái nhạy cảm với thời thế, huống chi
biến cố ấy đã ảnh hưởng trực tiếp vào đời sống. Viết văn, làm thơ, đặt
nhạc về những ngày tháng ấy là một xu hướng biểu lộ chân thực nhất mà
cảm xúc cũng như kỷ niệm riêng của mỗi người đã ảnh hưởng làm cho văn
chương sinh động hơn và có hơi thở của cuộc sống thực hơn. Tôi thấy mình
cũng có những xu hướng ấy và hơn nữa nó là một động lực để tôi đến với
nghiệp cầm bút.
Trước
1975, tôi chỉ là một người lính yêu sách vở và đam mê văn chương. Sau
năm 1975, khi trải qua nhiều cảnh huống và tâm tình không thể nào quên
của cuộc đời mình, tôi chập chững đi vào công việc cầm bút cho đến ngày
hôm nay. Có thể đó là một sự tình cờ, nhưng có khi trong thâm tâm tôi đó
là một sự trả nợ cho những người mà mình phải mang ơn họ trong cuộc
sống. Có thể họ là bạn cùng trang lứa cùng đồng ngũ với tôi, hay những
người đã mất trong một cuộc chiến. Vì thế, nếu nói một cách bóng bẩy văn
hoa thì viết là một cách thế sống để sòng phẳng với mình và với cuộc
đời..
Thật
ra có rất nhiều tác phẩm văn chương và âm nhạc viết về ngày cuối tháng
tư đau đớn của lịch sử Việt Nam. Đáng kể như tập hồi ký “Tháng Ba Gẫy
Súng” của Cao Xuân Huy viết về những ngày tan hàng ở Quảng Trị và Huế,
như tác phẩm “Ngày N+” của Hoàng Khởi Phong viết về cuộc di tản từ
Pleiku đến Tuy Hòa, hay như những ký sự của ký giả Nguyễn Tú, của nhà
văn Nguyên Vũ hay những đoản thiên của nhà văn Hải Quân Phan Lạc Tiếp,
của nhà văn Không Quân Đào Vũ Anh Hùng, viết về những cuộc di tản bằng
chiến hạm hoặc phi cơ ra biển Đông…
Về
thi ca, thì cũng có rất nhiều thi sĩ và nhiều bài thơ viết về những
ngày tháng tư buồn thảm như thơ Cao Tần, Thanh Nam, Tô Thùy Yên... Những
bài thơ rất ngậm ngùi đầy tiếc nuối của những người đã trắng tay trong
một cuộc đổi dời của lịch sử.
Nhưng
với tôi, thì gây cảm xúc nhất lại là những bản nhạc. Những bản nhạc
nhắc lại Sài Gòn, nói đến những cuộc chia ly, tả về những tiếc thương
cho một thành phố bị xóa tên và nằm trong tay quân thù. Như bản nhạc
“Sài Gòn niềm nhớ không tên” của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn.
Bản
nhạc ấy đã gây thật nhiều cảm xúc cho tôi vì tôi nghe bản nhạc ấy lần
đầu tiên ở trại tù Long Khánh do một người bạn đồng tù hát. Nhạc đệm chỉ
là một cây đàn guitare tự chế bằng tôn nhôm và gỗ săn nhặt được và giây
đàn được làm bằng những sơi dây điện thoại tước ra từng sợi nhỏ tạo
thành. Cũng như ca sĩ là người chung cảnh ngộ hát bằng cả tấm lòng và
giọng hát thầm thì như của một người đang làm một công việc mạo hiểm,
hát để cho vơi tâm sự mặc kệ mọi sự cấm đoán đe dọa của hệ thống quản
giáo cai tù đầy dẫy ăng ten báo cáo. Tôi cũng chẳng hiểu làm sao mà
những bản nhạc như thế lại được hát và phổ biến ở trong tù như vậy.
Chúng tôi xung quanh ngồi nghe như uống từng nốt nhạc, như chắt từng câu
ca. Sài Gòn xa rồi, bây giờ ở ngoài vòng rào kẽm gai mịt mùng. Sài Gòn,
vẫn còn gần gũi những ngày mà thành phố thảng thốt lọt vào tay giặc
thù, những anh hồn liệt sĩ còn phảng phất đâu đây từ những ngày bi thảm
mà chúng tôi bị buông súng một cách tức tưởi…
Lời nhạc lôi kéo chúng tôi ; ngôn ngữ hiền từ tha thiết không kêu gọi máu lửa nhưng sao lại lôi cuốn chúng tôi dường ấy:
“Sài
Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên - như dòng sông nước quẩn
quanh buồn - như người đi cách mặt xa lòng - ta hỏi thầm em có nhớ
không… Sài Gòn ơi, đến những ngày ôi thành phố xôn xao-trong niềm vui
tiếng hỏi câu chào - sáng đời tươi thắm vạn sắc màu- còn gì đâu...”
Lúc
ấy, chúng tôi chưa biết bản nhạc ấy là của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn.
Tên nhạc sĩ tác giả là cả một huyền thoại đối với chúng tôi lúc đó. Có
người bảo đó là của nhạc sĩ P. hát bản nhạc ấy ở hải ngoại rồi cảm xúc
đến nỗi bị ngất xỉu ngay trên sân khấu. Có người bảo đó là một bản nhạc
của một nhạc sĩ đang bị giam ở khám Chí Hòa truyền ra ngoài và phổ biến.
Đến mãi về sau, khi đã qua Mỹ định cư tôi mới biết tác gỉa là người chủ
trương Chương trình Nhạc Chủ Đề trên đài phát thanh Sài Gòn và là thi
sĩ, văn sĩ nổi tiếng của hai mươi năm văn học miền Nam…
Chương
trình Nhạc Chủ Đề do nhà văn Nguyễn Đình Toàn thực hiện trên đài phát
thanh Sài Gòn vào buổi tối ngày thứ năm hàng tuần với mục đích giới
thiệu với thính giả những bản nhạc được lựa chọn và được viết với lời
giới thiệu và giọng đọc rất đặc biệt của người chủ trương. Theo như ý
kiến của nhiều người, những lời giới thiệu nhạc hay nhất trong lịch sử
âm nhạc có lẽ là bài viết và giọng đọc của nhà văn Mai Thảo và Nguyễn
Đình Toàn. Những bài viết ấy đã mở ra những khung trời lãng mạn mà người
nghe có cảm giác như đã quên đi hiện tại để bồng bềnh trong mênh mang
của chữ nghĩa và âm nhạc…
Chương
trình Nhạc chủ đề ấy có những lời mở đầu như những cánh tay mở khung
cửa mơ mộng, để ở đó tình yêu trở nên mơ màng hơn, có chuốt lọc nhưng lạ
có những cảm giác nhẹ nhàng như tơ làm mềm lòng những tuổi thanh xuân
đang hăm hở vào đời với sự tinh khôi trong sáng của những bình minh hứa
hẹn những giọt nắng thủy tinh ngời tin yêu nồng biếc.
Ai
đã nghe qua những lời mở thế này mà không rung động ? Nhất là những
chàng tuổi trẻ ngày xưa nay đã thành những ông già lão nhìn lại quá khứ
ngày nào đã rất xa, thật xa mà sao lại còn rưng rưng nỗi niềm chia sẻ:
“Tình
ca - những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời nhất của một đời người -
bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó, một quê hương, một thành
phố, nơi người ta đã yêu nhau... Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ
cây, của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại, làm nên hạnh phúc, làm
nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”
Hay như một lời ngỏ khác, thầm thì, kêu gọi những bước trở về, đi ngược lại vòng quay vô tình của thời gian :
“Em
đâu ngờ anh còn nghe vang tiếng em trong tất cả những tiếng động ngù
ngờ nhất của cái ngày sung sướng đó: tiếng gió may thổi trên những cành
liễu nhỏ, tiếng những giọt sương rơi trên mặt hồ, tiếng guốc khua trên
hè phố…Ngần ấy thứ tiếng động ngân nga trong trí tưởng anh một thuở
thanh bình nào, bây giờ đã gần im hơi, nhưng một đôi khi vẫn còn đủ sức
làm ran lên trong ký ức một mùa hè háo hức, một đêm mưa bỗng trở về, gió
cuốn từng cơn nhớ… Anh bỗng nhận ra anh vẫn còn yêu em, dù chúng ta đã
xa nhau như hia thành phố…”
Tôi
thời còn là sinh viên đã rất mê chương trình này. Có thể nói, đó là một
phần khá đẹp của cuộc sống tôi. Bây giờ, nghe lại CD của Nhạc Chủ Đề
cũ, tôi lại bồi hồi và một phần đời đã qua như hồi sinh lại.
Sau
này, ở xứ Mỹ này, tôi có hỏi ông về trường hợp sáng tác bản nhạc này
như thế nào thì ông chỉ nói qua với sự rất hờ hững coi như đó chỉ là một
trong những gần trăm bản nhạc ông đã sáng tác. Và ngay cả khi tôi hỏi
về cách ông thực hiện hàng trăm chương trình nhạc làm say mê cả một thế
hệ trẻ trong thời kỳ ấy hoặc hỏi về mấy trăm bài thơ và mấy chục tác
phẩm vừa tiểu thuyết vừa tùy bút nổi danh một thời thì cũng với vẻ hờ
hững ấy, ông cũng trả lời với vẻ thản nhiên của một người đã trải qua
nhiều thay đổi và hiểu được rằng có những điều không cần biện giải của
cái tự nhiên đã có.
Cũng
như, khi tôi hỏi về những khó khăn của cuộc sống hiện nay, ông cũng trả
lời chẳng có gì cưc nhọc dù rằng tôi hiểu được đó là một sự thản nhiên
chấp nhận của một người đã trải qua nhiều mệt mỏi của cuộc đời.
Đó
là những ca khúc mà ông gọi là viết trong những thời gian tăm tối nhất
của lịch sử và của chính cuộc sống ông. Nhưng đó lại là những lời kêu
gọi yêu thương mong con người trở về với tình tự dân tộc. Có những bài
hát trong tuyển tập nhạc “Hiên cúc vàng”, “Tôi muốn nói với em“ và "Mưa
trên cây hoàng lan” đã chứng tỏ điều ấy. Chất nhân bản đã làm thành
những ca từ đẹp và có sức thuyết phục mạnh với thính giả và cũng chuyên
chở một cách thâm trầm những thông điệp gửi cho người cho đời những ước
vọng và tâm sự.
Những lòi nhạc như “Tôi
đã bám lấy đất nước tôi bằng sức người vô hạn. Bằng sức người đầu đội
trăm tấn bom. Tim mang nghìn dấu đạn. Tôi đã đổ mồ hôi, đổ máu tươi. Để
mong ở lại đây. Nhưng đất đã đỏ vì bị nung bằng những lời dối trá. Người
bám vào lửa đã đốt cháy tay. Lửa hờn căm, lửa hiểm thâm, lửa khốn cùng
cay đắng. Người lừa nhau trời đất còn bưng mặt thảm thương. Ba mươi năm
cuộc tương tàn chưa đủ? người giết người không kịp mở mắt trông. Ba mươi
năm mạng người như rác cỏ. Giây hòa bình còn thắt cổ người tin…”
trong bản nhạc ”Tôi cố bám lấy đất nước tôi” có phải là những lời chân
thành dù trong cơn tuyệt vọng nhưng vẫn còn cố gắng bám víu vào cuộc
sống một ý nghĩ nào tích cực nhất?
Những
lời ca viết cho thành phố Sài Gòn trong thời thế ấy bỗng dưng trở thành
những lời kêu gọi của một dân tộc đã chịu quá nhiều đau khổ. Hết rồi
những cơn mưa chiều cũ, mất rồi những buổi sáng rực rỡ xưa. Lời ca, ý
nhạc lôi kéo chúng ta trở về con hẻm nào của những hẹn hò, của nụ hôn
môi tuyệt vời, của hương tóc thề e ấp phả trong tà áo lụa xôn xao. Cái
cảm giác ngày nào như sống lại, làm gai gai trong da thịt nỗi ngây ngất
thuở nào. Nghe đâu đây như bước chân nào trở về đồng vọng...
Bản
nhạc ấy là “Sài Gòn ơi vĩnh biệt” của nhạc sĩ Nam Lộc. Lại cũng là
tiếng gọi bi thiết nhưng tràn đầy thương yêu về thành phố mà có người
nói rằng đó là chỗ để người ta yêu nhau. Nhạc Nam Lộc gợi cho tôi những
nỗi niềm của một người mong nhớ với tâm trạng dằn vặt. Những lời ca thất
thanh của một người mất quê hương:
“Sài
Gòn ơi tôi đã mất người trong cuộc đời. Sài Gòn ơi thôi đã hết thời
gian tuyệt vời. Giờ còn đây những kỷ niệm sống trong tôi. Những nụ cười
ngắt trên môi. Những giọt lệ ôi sầu đắng. Sài Gòn ơi nắng có còn vương
trên đường. Đường ngày xưa mưa có ướt ngập lối đường về. Rồi mùa thu lá
còn đổ xuống công viên. Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng. Hay đã khóc
thương cho người yêu…”
Hình như, tôi thấy tôi đã kêu thất thanh như thế trong cuộc đời tôi...
Không
phải tôi nói văn hoa đâu mà tôi đã nhiều lần kêu “thất thanh“như thế!
Như một lần trong ngày 30 tháng tư năm 1975 khi tôi từ Cần Thơ trở về
lại nhà ở Sài Gòn!
Trước
ngày 30 tháng tư năm 1975, tôi chỉ đi học và đi lính, nhưng sau ngày ấy
thì tôi đi tù vì không di tản được. Mặc dù tôi ở trong Không quân và
ngày ấy đang làm việc ở phi trường Tân Sơn Nhứt.
Đơn
vị của tôi là Đoàn phi đạo F5 thuộc Sư Đoàn 3 Không quân ở phi trường
Biên Hòa sau ngày 20 tháng tư năm 1975 thì một phần lớn phi cơ di chuyển
về phi trường Tân Sơn Nhứt. Ngày 30 tháng 3 đáng lẽ tôi phải biệt phái
ra Đà nẵng để làm biệt đội trưởng kỹ thuật để bàn giao phi đạo cho Sư
Đoàn I Không Quân nhưng Đà Nẵng đã thất thủ. Trước ngày đó chúng tôi đã
chở từ Biên hòa ra Đà nẵng rất nhiều quân dụng và cơ phận thay thế của
phi cơ trị giá cả chục triêu đô la và lúc đó kể như thiệt hại hết. Một
số nhân viên biệt phái thoát về kể lại cảnh tượng ở Đà nẵng khiến người
nghe phải rùng mình. Chiếc Boeing 727 thuê bao của Trung Hoa Quốc Gia
cất cánh mà cửa chân đáp không đóng được vì một số hành khách đã ôm vào
chân đáp nên phi cơ phải bay từ từ về Sài Gòn trong khi những người bám
vào chân đáp bị rụng rớt vì không chịu nổi áp lực của không khí chỉ còn
vài người buộc mình vào phi cơ mới không rớt dù khi máy bay đáp xuống đã
bất tỉnh. Ở trên phi đạo Đà Nẵng là cả một rừng người và tình trạng lộn
xộn khiến tất cả các phi cơ vận tải không thể đáp xuống để bốc người
không vận về Sài Gòn. Chính ở Sư Đoàn 3 KQ cũng dự trù dùng phi cơ AD5
để bốc các chuyên viên kỹ thuật biệt phái về nhưng không thực hiện được…
Rồi sau đó các căn cứ Pleiku, Phù Cát, Nha Trang, di tản rồi căn cứ Phan Rang thất thủ.
Ỏ
Tân Sơn Nhứt những ngày cuối tháng tư tình trạng khá hỗn loạn vì các sư
đoàn KQ di tản về. Từ bãi đậu phi cơ vãng lai vào đến phi đạo bên trong
phi cơ đậu thành hàng đông nghẹt. Trực thăng, A37, phi cơ quan sát xếp
ken vào nhau thành ra vấn đề an toàn khá phức tạp. Ở khu huấn luyện sư
đoàn đầy nghẹt những quân nhân về trình diện từ các đơn vị đã bị tan
hàng, mọi người đều linh cảm rằng một cơn địa chấn dữ dằn sẽ tới.
Gia
đình tôi thì đã ra đi nên tôi làm việc và ở luôn trong phi trường. Hàng
đêm, chúng tôi lái xe ra bãi đậu phi cơ xem những chuyến bay chở người
di tản. Nếu quyết định ra đi lúc đó thì khá dễ dàng, chỉ cần thay quân
phục và mặc đồ dân sự là có thể leo lên phi cơ một cách dễ dàng. Nhưng
tôi vẫn nghĩ không thể nào thua trận mau chóng như vậy được và nghĩ rằng
đi lúc đó là quá sớm. Đến đêm 27 tháng tư, căn cứ Biên Hòa di tản về
Tân Sơn Nhứt. Và lúc đó quả thực tôi bị chấn động và hiểu rằng ngày cuối
đã tới. Suốt đêm phi cơ bay đầy trời và chúng tôi đã phụ giúp để trang
bị rocket và đạn cho phi cơ trực thăng gunship bay yểm trợ trên các mặt
trận ven thành phố.
Chiều
ngày 28, lúc Tổng Thống trần Văn Hương bàn giao cho tướng Dương Văn
Minh ở Dinh Độc Lập thì năm phi cơ A37 oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhứt
do tên phản tặc Nguyễn Thành Trung dẫn về khi các phi tuần nghênh cản
phòng không F5E chấm dứt túc trực. Lúc ấy, tôi đang tập họp biệt đội
trong hangar thì xảy ra biến cố ấy. Và sau đó đến bốn giờ sáng thì các
đợt pháo kích ác liệt của Cộng quân vào phi trường. Trong phi trường
khói lửa tùm lum, một hỏa tiễn 122 ly rớt trúng phân đội nữ quân nhân.
Lúc sáng sớm, tôi lái xe qua khu vực ấy còn thấy những mảnh quần áo và
cả da thịt vương vãi trên những tàng cây. Buổi sáng, tôi leo lên F5 rồi
không đi. Kết quả là chiếc phi cơ ấy bị rớt ở phi trường Utapao ở Thái
lan hy sinh tất cả những người trên phi cơ. Rồi tôi lên trực thăng xuống
Cần Thơ và bị kẹt lại đến chiều 30 thì xuống Rạch Giá kiếm đường vượt
biển nhưng cũng không xong và ngày 1 tháng 5 thì phải trở lại Sài Gòn…
Trên
đường từ Cần Thơ trở về tôi đã nhìn thấy ở dọc đường quốc lộ số 4 những
cảnh tượng mà tôi không thể nào quên. Hai bên đường những chiếc xe tăng
và những chiếc trực thăng nằm chỏng chơ và quần áo trận, nón sắt, dây
ba chạc, giày lính,... vứt lộn xộn tạo ra một khung cảnh điêu tàn của
một trận chiến về chiều. Đi từng đoạn rồi cũng về tới Sài Gòn về nhà để
thấy căn nhà mình ở bị niêm phong. Tôi vô nhà đại và mang vài vật dụng
đi ra và đau lòng biết bao nhiêu khi nhìn thấy vật dụng hàng ngày của mẹ
tôi và các anh em tôi trong một căn nhà mà tôi bị đuổi ra vì cả gia
đình đã di tản. Tôi muốn khóc khi nhìn thấy ô trầu của mẹ, khi nhìn thấy
đôi dép mẹ đi, cái áo ấm mẹ mặc. Vật thì còn nhưng người đã đi xa, biết
đến bao giờ mới gặp lại…Và không biết ở phương xa, có còn trầu cau để
cho mẹ ăn không ? Buồn thật phải không? Quốc phá thì gia vong. Người xưa
đã nói thì chẳng sai chạy được…
Nguyễn Mạnh Trinh |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 27/Apr/2014 lúc 7:26pm |
Chuyện một người mang tên Nguyễn Thị Di Tảnhttps://soundcloud.com/dieuthangxd/nguyenthiditan-dieuthang Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 27/Apr/2014 lúc 7:31pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 27/Apr/2014 lúc 9:57pm |
Thằng Bé Tát Dầu <<<<<
Phan Văn Hưng Elvis Phương Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 27/Apr/2014 lúc 10:02pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 101 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |