Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 95 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22274
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Apr/2014 lúc 9:23am


Gởi người dưới mộ





Nơi đó chiều nay anh có lạnh?
Có buồn, nuối tiếc tuổi xuân xanh
Có còn ghi nhớ ngày đưa tiễn
Có kẻ ngâm câu “Tống Biệt Hành”.

Một thuở tung hoành nơi chiến tuyến
Quên đời, quên cả tuổi hoa niên
Anh đem dâng hết cho sông núi
Quên cả tình em lắm muộn phiền.

Từ độ chúng mình quen biết nhau
Anh là kiêu hãnh với tự hào
Vì anh là lính ngoài biên giới
Tráng sĩ, sa trường đẹp biết bao!

Em đã ví mình là chinh phụ
Những chiều đan áo lạnh mùa thu
Gởi anh muôn dặm ngoài sương tuyết
Dõi mắt trời xa, nẻo mịt mù.

Anh vẫn là chim của núi rừng
Em tìm đâu thấy giữa mông lung
Mênh mang trùng điệp ngàn mây trắng
Xin giữ giùm em chút nhớ nhung.

Xin giữ giùm em kỷ niệm đầu
Làm hành trang sẵn để về sau
Nếu đời đôi ngả, duyên không trọn
Còn chút tình si để nhớ nhau
 
Chiều nay ... em nhớ mãi chiều xưa
Trong gió heo may lạnh cuối mùa
Anh đã hôn em lần sau cuối
Hỏi rằng: “Cô bé hết buồn chưa?”

Nhưng rồi thanh sử thêm trang nữa
Anh đã ra đi giữa núi đồi
Bao kẻ tiếc thương người tử sĩ
Em về đau đớn mãi không vơi.

Thôi hãy ngủ yên dưới mộ phần
Chiều nay chợt dậy nổi bâng khuâng
Tóc tang ngày ấy chưa mờ xóa
Em gọi tên anh mấy vạn lần.

Vi Vân.
California
 



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 19/Apr/2014 lúc 9:25am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 20/Apr/2014 lúc 8:53pm


Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển



Chuyện kể rằng:
"Một buổi trên đường vượt biển
chuyến ghe em bị đánh cướp hai lần
chúng ăn hiếp mẹ
ba giận
xông vào đánh trả
chúng lồng lên
vung mã tấu
chém thẳng tay !
ba quị ngã
máu chảy đầy ra đó !
mẹ khóc gào
còn em sợ
nín lặng... mắt mở to !!
Chúng phá nát chiếc ghe bé nhỏ
rồi bỏ đi sau khi đắc thắng cười
Mẹ khóc, ôm xác ba nóng hổi
Em rẩy run, nức nở, kinh hoàng
Em nhìn ba nằm đó, ngỡ ngàng
sao ba lại bỏ em với mẹ ?

Rồi bão tố lớn ơi là lớn
Sóng thật cao
Gió mạnh biết là bao
Sóng xua ngang
Ghe vỡ tan tành
Người ta khóc và em cũng khóc
Mẹ ôm lấy một thùng nhựa rỗng
em ôm ghì trên vai mẹ lạnh run
trôi lênh đênh trên sóng biển chập chùng
Em sợ
Mẹ nói : Con yêu đừng khóc !
Có mẹ đây, mẹ thương con lắm !
Mẹ con mình sẽ sống mà con
Ráng lên con, bão tố chẳng còn
bám vai mẹ đừng buông ra nhé !!

Một ngày sau, mẹ em mệt lả
máu của người ướt cả áo em
chiếc thùng con không đủ sức rồi
nó chìm xuống dần dần, sợ quá
Mẹ thì thào bên em thật khẽ
Mẹ buông tay, con bám chặt thùng đây
Mẹ với ba có lỗi ở kiếp này
không nuôi nấng cho con khôn lớn
Con phải sống, phải ngoan con nhé
Mẹ mệt rồi, mẹ đi tìm ba
Chưa dứt câu tay mẹ đã buông ra
Em khóc nấc: Mẹ ơi trở lại !
đừng bỏ con, con sợ quá mẹ ơi !
Mẹ cứ trôi,
Mẹ chẳng trả lời
Em nhìn mẹ mà òa lên khóc

Một chiếc ghe đánh cá
Vớt được xác mẹ em
Khi trời sắp về đêm
Em được ghe đó vớt
Em ngồi bên cạnh mẹ
Mắt mẹ nhắm chặt rồi
Em sờ lấy đôi môi
Đôi môi không cười nữa
Họ đem mẹ đi đốt
Khói bay ngùn ngụt trời
Họ bảo: "Mẹ lìa đời,
về cõi thần tiên ở"

Từ đó,
những khi em trở mình cảm sốt
nhớ làm sao bóng dáng mẹ hiền
Mơ mẹ em là một cô tiên
vuốt mái tóc, ru em ngoan ngủ
Từ đó,
em không còn cả ba và mẹ
nhìn bạn bè mà thèm lắm thầy ơi !
có nhiều đêm em hỏi ông trời
Mẹ trên đó có nhớ em không hở ??
Thầy cho em tạm dừng, dang dở
Nhớ mẹ rồi, em đang khóc thầy ơi !
từ hôm nay và suốt cuộc đời
em sẽ chẳng còn ba mẹ nữa..... !

CALI
Tôi đã khóc khi viết bài văn này tại trại tịnạn

st.



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 20/Apr/2014 lúc 9:04pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22274
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Apr/2014 lúc 7:57am


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Apr/2014 lúc 8:40am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22274
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/Apr/2014 lúc 11:44am

Ngụm cà phê tháng Tư



Tháng tư, tôi ngồi trong quán cà phê Starbucks trên đường 20th của thành phố tôi cư trú. Tôi cúi xuống nhìn mầu cà phê đen đặc, sóng sánh sót lại một ngụm trong chiếc ly giấy. Tôi cầm chiếc ly chao nhẹ đi một chút, do dự chưa muốn ngửa cổ uống nốt ngụm cuối cùng. Ngụm cà phê trông như ngụm nước mắt đen. Chao ôi nước mắt đã có một lúc nào đó, ta ngửa cổ uống được cả ngụm
Tháng tư, tháng tư, tháng tư năm đó! Đứt ra từng đoạn: đoạn cha, đoạn mẹ, đoạn vợ, đoạn chồng, đoạn con, đoạn anh, chị, em, đoạn bạn hữu... Mỗi đoạn đứt một chỗ, rơi một nơi, đoạn mất đi ngút ngàn biệt tích, không để lại dấu vết, đoạn còn sót lại ngơ ngẩn, mù lòa.
Tháng tư của ba mươi tám năm sau, ngụm nước mắt không bao giờ cạn được.
Tôi ngồi trong quán một mình. Ngó những khuôn mặt lạ, họ không phải bạn bè, nhưng vẫn thấy thân thuộc, vì đó là những khuôn mặt của dân bản xứ tôi gặp thường ngày. Cách ăn mặc và lối cư xử của họ na ná giống nhau. Mình nhìn mấy chục năm, mình quen với cách kéo ghế, cách chụm đầu vào nhau nói khe khẽ, cách nghiêng mình xin lỗi của họ khi phải đi qua mặt ai, nên bỗng trở thành gần gũi.
Tự ngậm ngùi tưởng tượng, nếu bây giờ mình ngồi ở trong một quán cà phê ở Việt Nam, ngắm những người ngồi chung quanh, chắc chắn mình sẽ thấy thất lạc lắm, vì cách ăn mặc và cư xử rất khác mình.Họ cũng sẽ chẳng để mắt nhìn đến mình, một kẻ thường thường trên mọi phương diện. Mình thất lạc ngay chính trên quê hương mình.
Ngồi một mình với ly cà phê Starbucks trong một ngày của tháng tư, quê người; tôi chỉ nhìn ra mình là người lạ với chính mình. Cúi nhìn mấy ngón tay đang cầm ly, những ngón tay gầy đã bắt đầu xanh xao gân lá, biết mình ở đây lâu lắm rồi. Đôi vai bỗng trĩu nặng như có bàn tay ai vô hình ấn xuống ghế. Thôi, đã đến đây rồi, thì ngồi xuống đây, còn đi đâu được nữa. Ngồi đây mà hồn như thác đổ, tiếng nước ầm ầm vọng tới từ một ký ức xa xôi, rồi bỗng òa ra khi chạm vào tảng đá cuối cùng, tảng đá tháng tư.
Tháng tư ở đây là mùa xuân, chim chóc rủ nhau bay vào thành phố, hoa đào nở hồng trên mỗi con đường, nắng mới lách mình vào những khung cửa mở, trong vườn nhà ai hoa táo, hoa lê trắng xóa. Những người Việt di tản như tôi, tháng tư không ít thì nhiều quay đầu nhìn lại quá khứ, nhớ lại những giọt nắng quê nhà năm đó hòa vào máu và nước mắt. Hoa nắng quê người chỉ làm gợi thêm nỗi xót xa.
Anh ạ tháng tư mềm nắng lụa
hoa táo hoa lê nở trắng vườn
quê nhà thăm thẳm sau trùng núi
em mở lòng xem lại vết thương
Chung quanh tôi, một vài bàn nhỏ có người ngồi trước tách cà phê và cái laptop.
Họ im lặng làm việc, học hay sáng tác. Có người với một tờ báo mở trước mặt, hay hai người bạn thì thào nho nhỏ. Quán tĩnh mịch, nghe được cả tiếng gõ khe khẽ của những ngón tay chạm trên bàn phím, thậm chí cả tiếng thở của người ngồi ở bàn gần mình.
Tôi ngồi với ly cà phê cạn. Tôi biết trang mạng của người Việt khắp nơi trên thế giới, vào mỗi tháng tư họ cũng trao đổi cho nhau trên khung hình nhỏ: những tấm hình đang bốc lửa, những khẩu súng đang nhả đạn.Tiếng người đang khóc, đang la vang, đang chạy hoảng loạn, đang giẫm lên nhau. Tiếng súng nổ, tiếng kêu thất thanh….Tất cả hiện ra trên khung hình nhỏ.
Trong một tiệm cà phê ở Mỹ. Tôi ngồi đó, ngửa mặt uống ngụm cà phê đen cuối cùng. Bỗng dưng má tôi ươn ướt. Nước mắt ứa ra từ hai con mắt, bờ mi đã bắt đầu sụp xuống như hai chiếc lá cuốn khô. Nước mắt của một người di tản vì chiến tranh lâu quá rồi, xót xa cho phận mình, phận người, phận quê hương đất nước.
Ba mươi tám năm rồi, mà thỉnh thoảng vẫn đọc được ở trên mạng, lẫn vào những bài vở giải trí, kiến thức hay nghệ thuật, những lời nhắn với nội dung thật buồn:
Một hài cốt với tên họ, ngày sinh và số quân đầy đủ của một quân nhân VNCH, ai đó vừa tìm được bên đường. Mong có thân nhân đến nhận. Nào ai biết thân nhân của bộ xương đó còn sống hay đã chết? Tin đó đến từ Việt Nam và đã chuyển đi nhiều lần.
Tin những người ở Mỹ về bốc mộ, một hố chôn tập thể của binh sĩ VNCH trong một sân trường hay bên cạnh một con mương.
Tin cả trăm bộ xương tìm thấy ở ven biển miền Trung không biết của bên này hay bên kia.
Rồi còn cả những tin như sĩ quan H.O qua đời ở Mỹ không có thân nhân, được những người trong cộng đồng phụ nhau mai táng.
Lời nhắn về một vị tá Hải Quân, có con ở Cali. Xác nằm trong bệnh viện Texas hai tuần rồi. Cha qua đời, con ở đâu chưa đến nhận.
Những dòng chữ như thế, thực sự là một “Tin Buồn” với ý nghĩa đúng nhất của nó.
Tháng Tư là tháng tôi sợ đọc, sợ xem hình trên mạng. Sợ nhìn lại những hình ảnh và đọc lại những bài viết kinh hoàng của những nạn nhân vượt biển; hình ảnh nghĩa trang quân đội bị đập phá trong tủi nhục; những câu chuyện thương tâm của tù nhân và nhà tù cải tạo; Sợ phải xem lại những hình ảnh của một thành phố mình đã sống và lớn lên bị tàn phá bởi chiến tranh; sợ những bức hình và tên tuổi, binh nghiệp của các tướng lãnh tự sát vào ngày cuối cùng, tôi sợ mỗi khi đọc thêm một danh sách tự vận của các cấp tá, cấp úy, các hạ sĩ quan. Họ tự sát riêng lẻ hay có khi cùng với vợ con. Những bức hình im lìm đó là những tiếng gào thét phẫn nộ của những anh hùng VNCH. Tôi không nhớ là mình đã đọc được câu này ở đâu: “Thật đáng thương cho một đất nước nào có quá nhiều anh hùng” vì anh hùng đồng nghĩa với hy sinh và cái chết.
Đau đớn nhất là bao giờ khi xem hình, khi đọc những bài viết xong, cuối cùng mình nhận thức rất rõ rệt: đó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn.Người giết và người bị giết đều mang họ Nguyễn, họ Lê, họ Trần.
Ba mười tám năm rồi, người ta nói là Việt Nam đã hết chiến tranh, người dân đã có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhưng trên mạng, người Việt trong và ngoài nước vẫn có những dòng chữ gửi đến cho nhau mang theo những thông điệp thật buồn: Việt Nam tôi đâu? Người dân mất nhà, mất đất. Gái Việt bán sang Đài Loan. Gái Việt xếp hàng lấy chồng Đại Hàn. Không có Tự Do cho Việt Nam. Ngư dân Việt bị tầu Trung Quốc bắt ngay trên biển của mình. Nước Việt âm thầm mất dần từng mảnh cho Trung Quốc….
Tháng tư, cà phê đắng, đắng thêm khi pha vào những giọt nước mắt vì nước mắt bao giờ cũng có muối ở trong. Nỗi đau tháng tư với một số đông người Việt ở thế hệ bạn hữu tôi, là một vết thương không thành sẹo được, nó lên da non, rồi ngưng lại ở đó. Nhìn xuống vẫn thấy màu hồng, vẫn thấy như còn rơm rớm máu.
Tôi cúi xuống nhìn chiếc ly không, tự lấy tay áo lau thầm những giọt nước mắt mình. Đứng dậy, trở về một nơi tôi gọi là nhà, tiếp tục sống với trái tim di tản.
Vạt nắng tháng tư chỉ bay xiên vào trong quán này một năm một lần, nhưng khi tôi đến đây, dù bất cứ tháng nào trong năm, hồn tôi, tháng tư có thể đến bất chợt ghé xuống và rơi cùng những giọt cà phê.

Anh ạ tháng tư sương mỏng lắm
sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
hay sương thành lệ tra vào mắt
mờ khuất trong em mọi nẻo về….

Trần Mộng Tú



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 22/Apr/2014 lúc 11:46am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22274
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Apr/2014 lúc 7:46am

Tháng Tư , niềm đau còn đó

____________








Cái thùng sắt cũ , bên ngoài đã rỉ sét vài nơi . Nó nằm ở một nơi thật khuất của tầng Basement  . Bụi phủ một lớp thật dầy trên mặt , chắc cũng lâu lắm rồi chẳng ai buồn mở đến nó . Thế mà sáng hôm nay hai đứa con gái tôi dọn dẹp nhà cửa , tự nhiên hai chị em nó khệ nệ rinh cái thùng ra,và tôi nghe  loáng thoáng tiếng con Ty nói với em nó  

-Đồ gì không hà ,  My nói với Mẹ mình đem bỏ thùng rác đi 



Tôi hốt hoảng chạy xuống . Thấy Mẹ, con My nhanh nhẩu đưa tay chỉ cái thùng và lên tiếng 


- Mẹ, con đem cái thùng nầy ra garbage nghe Mẹ , toàn là cái gì không hà . Sao Mẹ keep nó làm chi vậy 

Tôi giật thật mạnh cái thùng từ tay con bé  . Tôi nói lắp ba lắp bấp, nghèn nghẹn 

- Con bỏ cái gì thì bỏ . Còn cái thùng kia và tất cả đồ đạc trong đó giữ nguyên cho Mẹ 

Nhìn thấy cái cảm xúc tột cùng của Mẹ , hai chị em nó lấm lét đưa mắt nhìn nhau . Chừng như tụi nó không hiểu chuyện gì liên quan giữa Mẹ nó với cái thùng sắt cũ kỹ nầy . Con Ty khẽ bảo

- Mấy cái đồ trong thùng cũ quá rồi . Còn dùng được nữa đâu . Mẹ để chi cho chật nhà . Như cái khăn nầy Mẹ coi nè ... Vừa nói nó vừa kéo cái khăn trong thùng ra .

 Lâu ngày mùi ẩm mốc xông lên làm con bé quay mặt đi . Tôi ngồi bệt xuống . Hai tay ôm lấy đầu . Nước mắt ứa ra . Tay thẫn thờ ve vuốt từ cái nón , từ cái khăn mặt, từ bộ đồ hôm từ giã quê nhà trốn chui trốn nhũi  xuống tàu để ra đi .  Tôi run run cầm cây muỗng ăn cơm hồi ở trại - Cây muỗng mà  đêm tối để chuẩn bị sáng mai xuống tàu Má đã cẩn thận nhét vào túi xách . Má vừa sắp đồ mà nước mắt Má giọt ngắn giọt dài tuôn chảy . Má nói

-Đem theo để sang bên đó có cái muỗng mà ăn cơm con ơi
Tất cả vẫn còn đó . Như chứng tích của một đoạn đời nghiệt ngã đã qua . Tại sao tôi không quên hết đoạn đường giông bão ngày nào mà ngay lúc nầy bao nhiêu hình ảnh năm xưa hiện về và về thật rõ hơn bao giờ hết ....

  Cuối cùng rồi tàu cũng cập bến Mã Lai . Bến bờ đầu tiên tôi đến trên đường đi tìm Tự Do .Đây là một căn cứ của một trạm lính cũ . Nghe mọi người bảo vậy . Đầu óc tôi choáng váng . Lúc nầy một nỗi lo sợ tột cùng vây kín tôi . Trời ơi mới đó mà tôi đã thực sự xa hẳn quê hương tôi rồi sao ? va` tôi sẽ đi về đâu trong những tháng ngày sắp tới . Tôi bơ vơ hơn lúc nào hết và lúc nầy tôi thèm được úp mặt vào lòng Má và khóc . Đây là lần đầu tiên tôi xa nhà trong hoàn cảnh như thế nầy ? mới buổi sáng cách đây mấy ngày còn thấy Má , còn cầm tay Má , còn nghe giọng nói nghẹn ngào của Má trong buổi sáng sớm lên đường
- Con ơi! thôi con ở lại đi con đi Má khổ lắm . Để các em con đi một mình được mà . Tôi đã nao lòng khi nhìn những giọt lệ đầm đìa trên khuôn mặt người Mẹ thân yêu đã một đời vì con và trong lúc nầy đứa con như đã sắp rời bỏ vòng tay mình mà đi và ngày về biết đến bao giờ .
 Thế mà mới đó mà giờ đây ngàn trùng cách biệt .Tôi đang đứng trên đất trời của quê người . Tôi đã ở tại trại lính Mã Lai nầy hai ngày rồi . Hai ngày mà tưởng chừng như dài cả thế kỷ . Mấy ngày đến đây thần trí tôi như mù mờ nửa tỉnh nửa mê . Đàn bà con gái được ưu tiên cho vào   trạm mà ngủ song chỉ chen chúc ngồi mà ngủ vì căn phòng nhỏ xíu mà số người con nít đàn bà đã gần 20 người . Hai ngày nay từ lúc trên tàu xuống đến giờ   tôi không ăn gì cả . Mà thực ra có gì mà ăn đâu . Đồ ăn đem theo của chủ tàu có lẽ còn nhiều song lúc nầy hình như sự chia sớt khó mà có nữa . Ai cũng phòng thân mình , còn đâu mà nghĩ tới kẻ khác . Hôm mới đến , cả tàu được mấy anh lính Mã Lai cho mấy hộp cá mòi nhỏ xíu . Mấy hộp cá bỏ vào soong cho thêm nước và muối làm sao mà chia đủ cho 49 người trên tàu . Thiên hạ tranh nhau giành giựt lẫn nhau vì miếng ăn la ó , chửi bới um sùm . Chưa bao giờ tôi chạm phải hoàn cảnh khốn cùng như lúc nầy . Tôi ngồi yên ở một góc phòng và khóc . Một  cô bé học trò cũ  đến đây có lẽ từ mấy ngày trước  đem đến cho cô giáo chén cơm nhỏ xíu khoảng mấy muỗng và có một miếng cá mòi nhợt nhạt màu . Cô bé khẽ cầm tay tôi ngập ngừng  trao chén cơm và nói
- Cô rán ăn một chút đi cô .Em rán tranh lấy được một chút cho Cô . Mấy ngày nay em thấy cô có ăn gì đâu . Đừng buồn nữa Cô . Em biết cô khổ lắm .
Tôi ôm chầm lấy em và nức nở khóc . Tôi tủi thân hơn lúc nào hết 
Con bé lấy khăn lau nước mắt cho cô giáo , chợt hỏi tôi 
- Cô đi có một mình sao Cô ?
Tôi thuật em nghe chuyến rời quê hương mấy ngày trước , chị em tôi lạc mất nhau , các em tôi đi từ buổi chiều hôm trước . Tôi còn nán lại để lãnh lương sau cùng  cuả tháng để lại cho má tôi . Bao nhiêu vàng vòng đều bán sạch để mua chỗ cho mấy chị em tôi . Tôi đi rồi má tôi mới sống làm sao đây...Khi tôi lên được tàu lớn thì chẳng thấy bóng dáng tụi nó đâu cả . Trên tàu kẻ lạc vợ , kẻ lạc chồng song tàu phải đi thôi không thể quay về . Con bé học trò cũng kể lễ
- Em cũng lạc má em . Không biết má em có bị bắt không ?
Vừa nói nó đưa tay quẹt nước mắt , thút thít khóc . Con bé đến đây một mình . Tôi cũng một mình . Cô trò tôi  gặp nhau trong hoàn cảnh đáng thương cùng cực  nơi đất trời lạ xa nầy 


Mấy ngày sau chúng tôi được chuyển sang trại Cây Dương , nơi đây rộng rãi hơn , nhưng chỉ cây là cây , không một bóng nhà . Thì ra đây cũng là một hòn đảo không người ở .  Cô trò tôi theo người ta đi kéo lá về cất nhà để ở . Chẳng mấy chốc mà các túp lều che nắng che mưa được dựng lên để  mọi người có chỗ trú thân . Tôi kêu em về ở chung với tôi cho có bạn . Dù sao cô trò tôi cũng còn có nhau nương nhau để mà sống . Sáng nào hai cô trò cũng len lỏi vào rừng tìm coi có rau gì ăn được thì hái . Có lần gặp được một rừng rau dềnh . Tôi mừng quá đưa tay ngắt một lá và ngửi . Thì ra đúng y chang là mùi rau dềnh . Tôi mừng quá, kêu lên
- Rau dềnh em ơi
 Song là loại rau dềnh dại , không phải loại được trông nên màu xanh và hơi có lông chứ không màu tím thẫm như ở bên nhà . Hôm ấy sau thành quả hái được cô trò tôi ăn rau dềnh  luộc một bữa no nê từ sáng đến chiều . Nhớ lúc ăn con bé học trò vừa ăn mà như sợ sợ . Con bé  nói 
- Không biết phải rau dềnh không cô . Mùi thì y chang . Hỏng biết mình ăn có sao không nữa ?
Tôi cười và bảo 
- Có sao  mai không thức dậy thì biết liền . Giờ thì tất cả đã vào trong bụng rồi . Sợ chi cho mệt hả em ?
Hơn 1/2 tháng không một cọng rau trong người nên mặc dù nói thế cô trò tôi chẳng mấy chốc thanh toán sạch sành sanh hết soong rau luộc .
Sáng thức dậy mới biết không sao , mới biết là mình còn sống . Con nhỏ học trò cười khúc khích khi thức dậy và bảo
-  Cô với em gan thiệt , nhưng không sao cô há . Mai mình đi lại chỗ đó hái nữa nghe Cô ...

 Rồi cũng không có dịp đi hái rau dềnh lần nữa , chúng tôi được dời sang trại chính thức Cheratin trên đất liền . Nơi đây có chỗ sẵn để ở và Cao Uỷ Tị Nạn sẽ đến để phỏng vấn và bốc đi định cự Hình như là một căn cứ quân sự cũ của Mã Lai nên không phải lo việc cất nhà như bên Cây Dương . Thực phẩm được Hội hồng thập tự cung cấp , mỗi tuần có rau tươi , thịt tươi . Đời sống tương đối hơn, có miếng ăn để mà sống . Ai có tiền có thể nhờ tụi lính Mã Lai mua đồ bên ngoài vào ăn . Các thùng Supply cho người tị nạn thì là đồ hộp . Thùng nào may mắn có mì gói lúc đó là niềm hạnh phúc vô cùng .Chiều chiều cô trò tôi theo người trong trại xuống bến đón những thuyền mới tới hy vọng xem có gặp được người thân của mình . Hôm nay có một thuyền vừa cập bến . Mọi người nhốn nháo đổ xô xuống bến tìm người . Người từ tàu lần lượt lên đất liền như những bóng ma từ cõi chết trở về . Từng người , từng người  một . Không có em tôi . Người cuối cùng trong đoàn người trên taù lên là một cô gái   rất trẻ khoảng 18 thôi . Khuôn mặt em còn đầy nhừng nét kinh hoàng . Em đi như không vững , vừa đến bờ em quỵ xuống bất tỉnh . Người ta vây chung quanh em , đỡ em và  đưa em về bệnh xá .Tôi nghe loáng thoáng ai nói sau lưng " Tội nghiệp .Con nhỏ đó bị hải tặc ... ".Tôi nghe mà rưng rưng , thương cho thân phận nữ nhi trong cảnh nước mất nhà tan . Sau hôm đó tôi đi tìm em tôi đem em về ở chung với tôi . Tôi vỗ về ẹm . Tôi săn sóc những  vết đau  còn trên thân thể em . Chiều nào cũng vậy, em một mình  ra bờ biển em ngồi . Em khóc . Có lần em bảo tôi  em muốn tự tử mà chết  để quên chuyện nhục nhằn đã  qua cho trọn với người tình ở lại . Em khóc mà bảo rằng
- Em khổ lắm , không còn gì nữa cô ơi 
Tôi vuốt tóc em , dịu dàng nói
- Can đảm lên em ơi . Cả một đất nước điêu linh , không riêng gì chúng mình đâu em 

Rồi cuối cùng tôi cũng đi định cư . Em ở lại chờ giấy bảo lãnh . Nghe tôi xin đi Canada người ta hù tôi đủ chuyện nào là  bên ấy lạnh lắm sẽ chết chịu không nổi đâu . Bước xuống máy bay thở ra là đã đông thành nước đá song tôi bình thản vô cùng và tôi nghĩ rằng người ta ở được thì mình ở được và bất cứ nơi nào cũng khá hơn nơi chốn mà tôi đã bỏ đi , và trong tàu đi tôi là người đi định cư đầu tiên vì ai cũng chờ để đi Mỹ . Hôm từ giã để chia tay lên đường mỗi người mỗi ngã , ai cũng không cầm được nước mắt . 


Thế mà hơn ba mươi năm trôi qua . Chuyện ngày xưa của gần nửa thế kỷ qua như mới ngày nào .  Bao giờ cho tôi quên đây . Tôi mân mê từng kỷ vật còn lại của quãng đường đi tìm tự do ngày nào ... Từ  cái mũ đen . Từ Chiếc áo bà ba màu trắng ngày nào  đã vàng theo năm tháng ,cái áo màu gạch tôm có thêu hoa cúc của em học trò tặng tôi hôm tôi lên đường định cự . Tôi nhớ hoài buổi tối hôm đó khi em ngập ngừng đến lều tôi ở trao chiếc áo cho tôi  mà nghẹn ngào nói
- Mai cô đi rồi không biết có lần Thầy Trò gặp lại . Em có chiếc áo nầy em mang theo lúc vượt biên. Em xin tặng Cô để cô mặc tươm tất hơn bữa cô lên phi cơ nghe Cô , để mỗi lần cô thấy Nó cô nhớ đến em . Đó là Kiều Xuân cô bé học trò Lâm Quang Ky  con của Cô giáo Mai trường Nam Tiểu Học ngày nào  . Bây giờ 30 năm sau chiếc áo vẫn còn đây mà người học trò xưa  đã ra người thiên cổ bên trời viễn xứ ...

Con gái tôi ngồi yên lặng nảy giờ nghe Mẹ trầm buồn kể cho con nghe chuyện thật thương tâm mà đây là lần đâù con được nghe . Tôi thấy có giọt lệ nào đong đầy trên khóe mắt con tôi . Con tôi nắm tay Mẹ như san sẻ cùng Mẹ nỗi buồn mà người mang theo từ bao năm qua . Con nhẹ nhàng xếp lại những món đồ kỷ niệm của Mẹ vào thùng như cũ . Con khẽ bảo
- Con hiểu rồi Mẹ . Con xin lỗi đã vô ý làm Mẹ buồn 
Tôi ôm con tôi và tôi chạnh nhớ người con gái chiều nao trong chuyến đi định mệnh của em . Ngày ấy em cùng trạc tuổi con gái tôi lúc nầy  . Không biết bây giờ người em gái năm xưa ra sao ? Em ở đâu ? em có hạnh phúc bên chồng con và  còn nhớ gì chuyện đau thương ngày cũ ...
Em còn nhớ không em ?
Tháng tư ơi ! Niềm đau ngày nào vẫn còn đó trong tôi




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/Apr/2014 lúc 7:59am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 24/Apr/2014 lúc 10:38am

Thời Thế, Thiện, Ác, và... Con Người


Tác Giả: Vương Mộng Long

benh%20vien%20da%20chien

Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương. Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn. Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7.

Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II. Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay chuyển ra Hạm Đội 7.
Thay quần áo xong, tôi được đưa vào phòng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn bệnh.Nơi đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dã-Chiến. Hình dáng của bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm áp dịu dàng. Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài lời. Một phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn gì cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ.
Chợt ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương.Hai điều dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19 Võ Bị, tôi quen biết. Anh Tư là dân Tình-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng. Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư : - Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?
- Có phải người của "moa" đâu? Việt-Cộng đó!
- Việt-Cộng à?
- Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt được, đem về Camp Enari , giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ )
- Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?
- "Moa" thấy đùi của anh ta bị quấn "garô" sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết thì chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh ta về đây.
Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi
- Hắn thuộc đơn vị nào vậy?
- Tụi "moa" vừa ký nhận đã phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.
- Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ gì sao?
- Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.
- Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng mình.
- "Toa" biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi "Xuân ơi! Xuân ơi!" Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm . Tôi gật đầu, tán đồng,
- Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, thì con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn. Một năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ còn hình bóng người mà tôi yêu thương nhất. Tôi đã gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.
Tên tù binh được chuyển vào phòng X Ray rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước phòng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.
Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào phòng giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.
Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh. Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp. Mỗi khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã tẩy trùng. Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt thì tới phiên anh tù binh Cộng-Sản. Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên chì Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn chì từ từng vết thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài.
Nhìn những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau. Trong suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột miệng hét lên: " Ối! Ối! Đau! Đau quá!... Ư!... Ư!... ư… ư…"
Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận tình săn sóc tên Việt-Cộng, không khác gì đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ dỗ dành: "Don't worry! Don't worry! You will be Okay!"
Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch. Bốn viên chì đã được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ.
Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo chì.Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng bàn tay. Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra tay. Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ "X" xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi. Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ lòng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm do cô y tá hứng.Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.
Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, "Két! Két! Cột! Cột!" thì điếng người. Ngay cả khi ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. Hình như môi dưới của tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm, rớt ròng ròng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt tôi đã xám xịt như chàm? Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm chú theo dõi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt đời.
Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa khác đã từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, mình còn may mắn hơn những người này rất nhiều... Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta ra .Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, thì ông quả là người có sức chịu đựng phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!
Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội oằn mình, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm. "Bục!" thân mình tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn. Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể. Đau thấu xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay!
"Here it is!" Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi kìm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái sương sườn. Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả người, nằm im như cái xác. Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ý, cô điều dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ. Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô còn quấn thêm một lớp băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau. Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất.
Những gì xảy ra trong phòng giải phẫu buổi trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay Quốc-Gia.
Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào. Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà. Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu: "Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby..."
Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt. Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau.
Ra tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây. Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả ba người.Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít gì, vì họ đã được chích Penicillin rồi.
Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ:
- Thank you!
Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói. Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,
- Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!
- Không thèm! nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng. Tôi tỉnh như ruồi,
- Không hút thì thôi! Tớ hút một mình.
-Thuốc của đế quốc, không thèm hút!
- Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút thì nằm đó mà ngửi khói.
Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh mì kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm nho.Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn tên cán binh Bắc-Việt thì nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay.
Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,
- Take it! It's good for you!
Tôi chêm thêm,
- Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi!
Cô y tá nhìn tôi, đồng tình,
- May you tell him to take it?
Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm. - Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì đói đấy! Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.
Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om xòm. Cô y tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho anh ta nghe.Tôi mồi một điếu Salem , đưa cho tên Việt-Cộng,
- Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ. Lần này thì hắn ta không từ chối nữa.
- Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị "tó" vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm.
- Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn.
- E mấy?
- Hăm Tám (28)
Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,
- Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là may lắm đó
- Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.
- Cấp chức gì?
- Trung úy Đặc-Công.
- Quê ở đâu?
- Hải ..."Rương
- Làng nào?
- Hỏi gì mà lắm thế?
- Thôi không hỏi nữa!
Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.
Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.
Hình như tên tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài. Mấy lần y mở miệng gọi tôi: "Này! Này!"
Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya. Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.
Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ:
- Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?
Tôi ngạc nhiên
- Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?
Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà, - Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn. Tôi phì cười.
- Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!
Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm: "Chẳng lẽ chính ủy nói sai?" tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi. - Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi dò. - Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?

Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng. Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc. Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện.Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng.
- Hết lo chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi!
Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm.Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn.Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh.
- Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương...
Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái.
- Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra... các anh có độc ác đâu? Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.
Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.
Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi rửa sạch.
"Don't throw it away! Keep it for memory!" bà dặn dò.
Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn phòng. "Take care! Good bye! My son!" phút chia tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run. Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi: "Her son was a Ranger like you!"
Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.
Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào.
Thế là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng là một "Ranger" như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng thấy thương, như là thương con mình
***

tu%20binh%20cong%20san
Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư.
- Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?
- Đạo lý làm người mà Long! "Moa" cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi. Tôi biểu đồng tình.
- Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì với mình đâu? Tôi hỏi tiếp.
- Sau này anh có còn gặp lại y không?
- Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?
Tôi nhắc anh Tư.
- Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?
- "Moa" không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.
- Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam .
Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp.
- Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.
Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng.
- Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy.
Anh Tư gật gù.
- Có khi hai người là bà con cũng nên?
Tôi cũng gật gù theo.
- Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, thì quả là "cốt nhục tương tàn". Anh Tư phụ họa.
- Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng Cộng-Sản "cội" đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh "nồi da xáo thịt" này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng mình!
***
Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa -Kỳ thì tôi và anh Tư đã thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại Tam-Hiệp, Biên-Hòa.
Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi còn ở trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao động nặng.
Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Võ-Bị của anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ. Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Võ-Bị thời sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi không lạ gì nhau. Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này. Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu ngày xưa đã mang biệt danh rất hợp thời là "Dũng Điếu Cày".
Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ.Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ròn rã một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng vừa lên đạn "lách cách!" vừa gọi nhau ơi ới: "Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!"
Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Chòi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác nhìn nhau ngơ ngác. Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng.Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã trở lại, nhưng không còn cái không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa. Chẳng ai biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Hòa đã mạo hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là tiếng người ta.
Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn phòng nhận lệnh. Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố: "Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé còn tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân."
Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ? Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19. Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại thì nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương, nhưng vẫn còn bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có mìn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra. Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân thì thầm.
- Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn anh Tư là "Thượng Sĩ Buồn" đó! Anh Tư thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh Tư mà tiếp tục bóp cò từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay anh Tư đã nát bấy, nên anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn chờ chết. Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về lán. Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:
- Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!
"Thượng Sĩ Buồn" là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3. Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rõ tên thật của hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là "Thượng Sĩ Buồn".Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai. Tôi nhớ hồi còn ở bên K 1, ông "Ba Gà Mổ", tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng "hiền hết xẩy" nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng trại. Ông "Ba Gà Mổ" có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm.
- Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau "ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy! Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ "hiền hết xẩy" tôi cũng mừng.
Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nhìn các anh tù tập thể dục dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung, hắn ta được lòng nhiều người. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.
Có một vị tù cải tạo nào đó đã "phịa" ra cái lý lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở lại Sài-Gòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn buồn!
Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng biết rằng, anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh ta.Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một tên cuồng sát máu lạnh núp đàng sau một khuôn mặt điển trai. Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không còn trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng rào K 3 nữa. Hình như hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4?
Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã đưa cho tôi chiều hôm trước. Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng. Lúc đưa "rê" thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói.
- Từ mai, "moa" bỏ thuốc! "Toa" cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay vấn lấy mà hút! "Moa" chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên tích sự gì cả! Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ còn mới toanh, và tuyên bố "bỏ thuốc", chỉ vì anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại!Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm!Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình ra đánh đổi lấy Tự-Do.
Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.
Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp chết vì nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai làm "garô" cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái ngược với hình ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:
"Don't worry! Don't worry! You will be Okay!"
Ngày xưa, khi nhân loại còn dã man, có chuyện người chiến thắng đã đem địch quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới chết.
Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.

Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,
- Lẹ lên! Lẹ lên!
Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc. Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K 3, cách cái chòi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không có lính
canh. Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng. Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống, rõ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra.
"Ối!...Ối! ...Ối!...ôi!...ôi!...ôi!..ư...ư...ư.."
Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa qua, khó có thương binh nào phải lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như tình trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư.
Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba lần bị thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phút này.
Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền.Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp. Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên, "Hừ!... Hừ!...hừ! ...hừ!..." Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ gọi tên ai đó:
"Hừ!... Hừ!...Hừ!..Hường...ơi!...Hư...ường ...ơi!...ực!... ực!...ực!..."
Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ còn những tiếng, "Ư! Ử!...Ư! Ử!...ư! ử!..." nhỏ dần.
Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi, tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tròng trành chìm dần xuống đáy biển khơi.

Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa. Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam. Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa.

Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi.Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.
Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng.Cũng đêm hôm đó, hình như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu ra, còn vài anh Võ-Bị bên Lán 17. Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào... đứng một lúc, nghe ngóng
... rồi đi vào.
Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng vòng trên cao, cất tiếng kêu thương.Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh Tư.
Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là Đại-Úy Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào, tìm cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn. Anh Quang bị vệ binh bắn chết ngay tại hàng rào, còn anh Thịnh thì bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với tôi thời chúng tôi còn là đại đội trưởng ở Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Còn anh Thịnh lại là dân cùng ngành Tình-Báo với anh Tư và anh Bé.
Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh Thịnh bị đưa ra tòa án của trại để xử tội. Hôm đó là một ngày nắng gắt. Khoảng hơn mười giờ sáng, khi loa phóng thanh truyền về trại âm thanh của những loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai người thua trận, thì trời đang nắng bỗng tối sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt. Tiếp theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc thành hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào. Nhưng chỉ vài phút sau, đột ngột, mưa ngừng. Cảnh vật lại trở về tình trạng cũ.
Hiện tượng khác thường này khiến người ta liên tưởng tới sự hiện diện của Đấng Vô Hình ở trên cao, đang theo dõi các hoạt động của con người dưới trần gian. Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đã động tới lòng Trời? Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ hay không?Tôi thì tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên, chính là lúc Thượng- Đế đưa bàn tay thương yêu của Người ra, để dắt dìu linh hồn các bạn tôi tới bến bờ Tự-Do.
Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng nhóm, thì thầm đọc kinh cầu nguyện.Những anh tù đại diện có mặt trong phiên tòa, khi về trại, đã kể lại, việc chôn cất hai người bại trận cũng diễn ra rất gọn, vì một ngày trước khi có phiên tòa này, thì hai cái huyệt để chôn người bị xử tử đã được ban chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi.Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.

Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay. Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác. Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22274
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Apr/2014 lúc 10:16am
Lúc đó bác ở đâu? <<<<



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/Apr/2014 lúc 10:27am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22274
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Apr/2014 lúc 8:35am

Sài Gòn, những ngày cuối tháng Tư 1975

__

Tháng tư năm 1975 có lẽ là một thời điểm không thể nào quên của dân tộc chúng ta. Ở ngày tàn của cuộc chiến, là của chia ly và mất mát. Bao nhiêu người đã nằm xuống sau một cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm. Tưởng đã hòa bình, đã hết những bi thảm nào ngờ bắt đầu từ lúc ấy lại kế tiếp hết những bi thương này qua những bi thảm khác…
Với ngày lịch sử ấy, từ nhạc đến thơ, từ tiểu thuyết đến hồi ký, đã có biết bao nhiêu tác phẩm ghi nhận lại những bi thảm nhưng hào hùng, những mất mát đau xót không thể nào quên được trong tâm khảm những người Việt Nam. Hôm nay, trong cái hồi tưởng để nhớ về những ngày đã qua ấy, chúng tôi nhắc lại những tác phẩm đánh dấu một thời điểm quan trọng của lịch sử Việt Nam, phản ánh tâm tư thời đại, và những nỗi niềm của những người bị quay cuồng trong con lốc thời thế...
Là một người lớn lên và trưởng thành trong xã hôi miền Nam thì thế hệ chúng tôi có nhiều cái chung lắm. Cùng đi học, cùng đi lính, cùng vào tù, cùng vượt biển hay đi định cư theo diện HO, cùng lưu lạc ở hải ngoại và cùng chung những nỗi niềm, những tâm sự về ngày đổi đời bi đát của đất nước này. Với những cái chung của nhiều người ấy đã thành một phận đời dù có những nét tư riêng nhưng cũng phản ánh phần nào được xã hội mà chúng tôi đã sống, đã buồn, đã vui, đã hy vọng và thất vọng theo mệnh nước nổi trôi…
Nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ đã sáng tác rất nhiều về đề tài này. Đã là nghệ sĩ, thì làm sao tránh được cái nhạy cảm với thời thế, huống chi biến cố ấy đã ảnh hưởng trực tiếp vào đời sống. Viết văn, làm thơ, đặt nhạc về những ngày tháng ấy là một xu hướng biểu lộ chân thực nhất mà cảm xúc cũng như kỷ niệm riêng của mỗi người đã ảnh hưởng làm cho văn chương sinh động hơn và có hơi thở của cuộc sống thực hơn. Tôi thấy mình cũng có những xu hướng ấy và hơn nữa nó là một động lực để tôi đến với nghiệp cầm bút.
Trước 1975, tôi chỉ là một người lính yêu sách vở và đam mê văn chương. Sau năm 1975, khi trải qua nhiều cảnh huống và tâm tình không thể nào quên của cuộc đời mình, tôi chập chững đi vào công việc cầm bút cho đến ngày hôm nay. Có thể đó là một sự tình cờ, nhưng có khi trong thâm tâm tôi đó là một sự trả nợ cho những người mà mình phải mang ơn họ trong cuộc sống. Có thể họ là bạn cùng trang lứa cùng đồng ngũ với tôi, hay những người đã mất trong một cuộc chiến. Vì thế, nếu nói một cách bóng bẩy văn hoa thì viết là một cách thế sống để sòng phẳng với mình và với cuộc đời..


Thật ra có rất nhiều tác phẩm văn chương và âm nhạc viết về ngày cuối tháng tư đau đớn của lịch sử Việt Nam. Đáng kể như tập hồi ký “Tháng Ba Gẫy Súng” của Cao Xuân Huy viết về những ngày tan hàng ở Quảng Trị và Huế, như tác phẩm “Ngày N+” của Hoàng Khởi Phong viết về cuộc di tản từ Pleiku đến Tuy Hòa, hay như những ký sự của ký giả Nguyễn Tú, của nhà văn Nguyên Vũ hay những đoản thiên của nhà văn Hải Quân Phan Lạc Tiếp, của nhà văn Không Quân Đào Vũ Anh Hùng, viết về những cuộc di tản bằng chiến hạm hoặc phi cơ ra biển Đông…
Về thi ca, thì cũng có rất nhiều thi sĩ và nhiều bài thơ viết về những ngày tháng tư buồn thảm như thơ Cao Tần, Thanh Nam, Tô Thùy Yên... Những bài thơ rất ngậm ngùi đầy tiếc nuối của những người đã trắng tay trong một cuộc đổi dời của lịch sử.
Nhưng với tôi, thì gây cảm xúc nhất lại là những bản nhạc. Những bản nhạc nhắc lại Sài Gòn, nói đến những cuộc chia ly, tả về những tiếc thương cho một thành phố bị xóa tên và nằm trong tay quân thù. Như bản nhạc “Sài Gòn niềm nhớ không tên” của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn.
Bản nhạc ấy đã gây thật nhiều cảm xúc cho tôi vì tôi nghe bản nhạc ấy lần đầu tiên ở trại tù Long Khánh do một người bạn đồng tù hát. Nhạc đệm chỉ là một cây đàn guitare tự chế bằng tôn nhôm và gỗ săn nhặt được và giây đàn được làm bằng những sơi dây điện thoại tước ra từng sợi nhỏ tạo thành. Cũng như ca sĩ là người chung cảnh ngộ hát bằng cả tấm lòng và giọng hát thầm thì như của một người đang làm một công việc mạo hiểm, hát để cho vơi tâm sự mặc kệ mọi sự cấm đoán đe dọa của hệ thống quản giáo cai tù đầy dẫy ăng ten báo cáo. Tôi cũng chẳng hiểu làm sao mà những bản nhạc như thế lại được hát và phổ biến ở trong tù như vậy. Chúng tôi xung quanh ngồi nghe như uống từng nốt nhạc, như chắt từng câu ca. Sài Gòn xa rồi, bây giờ ở ngoài vòng rào kẽm gai mịt mùng. Sài Gòn, vẫn còn gần gũi những ngày mà thành phố thảng thốt lọt vào tay giặc thù, những anh hồn liệt sĩ còn phảng phất đâu đây từ những ngày bi thảm mà chúng tôi bị buông súng một cách tức tưởi…
Lời nhạc lôi kéo chúng tôi ; ngôn ngữ hiền từ tha thiết không kêu gọi máu lửa nhưng sao lại lôi cuốn chúng tôi dường ấy:
“Sài Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên - như dòng sông nước quẩn quanh buồn - như người đi cách mặt xa lòng - ta hỏi thầm em có nhớ không… Sài Gòn ơi, đến những ngày ôi thành phố xôn xao-trong niềm vui tiếng hỏi câu chào - sáng đời tươi thắm vạn sắc màu- còn gì đâu...”
Lúc ấy, chúng tôi chưa biết bản nhạc ấy là của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn. Tên nhạc sĩ tác giả là cả một huyền thoại đối với chúng tôi lúc đó. Có người bảo đó là của nhạc sĩ P. hát bản nhạc ấy ở hải ngoại rồi cảm xúc đến nỗi bị ngất xỉu ngay trên sân khấu. Có người bảo đó là một bản nhạc của một nhạc sĩ đang bị giam ở khám Chí Hòa truyền ra ngoài và phổ biến. Đến mãi về sau, khi đã qua Mỹ định cư tôi mới biết tác gỉa là người chủ trương Chương trình Nhạc Chủ Đề trên đài phát thanh Sài Gòn và là thi sĩ, văn sĩ nổi tiếng của hai mươi năm văn học miền Nam…
Chương trình Nhạc Chủ Đề do nhà văn Nguyễn Đình Toàn thực hiện trên đài phát thanh Sài Gòn vào buổi tối ngày thứ năm hàng tuần với mục đích giới thiệu với thính giả những bản nhạc được lựa chọn và được viết với lời giới thiệu và giọng đọc rất đặc biệt của người chủ trương. Theo như ý kiến của nhiều người, những lời giới thiệu nhạc hay nhất trong lịch sử âm nhạc có lẽ là bài viết và giọng đọc của nhà văn Mai Thảo và Nguyễn Đình Toàn. Những bài viết ấy đã mở ra những khung trời lãng mạn mà người nghe có cảm giác như đã quên đi hiện tại để bồng bềnh trong mênh mang của chữ nghĩa và âm nhạc…
Chương trình Nhạc chủ đề ấy có những lời mở đầu như những cánh tay mở khung cửa mơ mộng, để ở đó tình yêu trở nên mơ màng hơn, có chuốt lọc nhưng lạ có những cảm giác nhẹ nhàng như tơ làm mềm lòng những tuổi thanh xuân đang hăm hở vào đời với sự tinh khôi trong sáng của những bình minh hứa hẹn những giọt nắng thủy tinh ngời tin yêu nồng biếc.
Ai đã nghe qua những lời mở thế này mà không rung động ? Nhất là những chàng tuổi trẻ ngày xưa nay đã thành những ông già lão nhìn lại quá khứ ngày nào đã rất xa, thật xa mà sao lại còn rưng rưng nỗi niềm chia sẻ:
“Tình ca - những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời nhất của một đời người - bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó, một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau... Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây, của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại, làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”
Hay như một lời ngỏ khác, thầm thì, kêu gọi những bước trở về, đi ngược lại vòng quay vô tình của thời gian :
“Em đâu ngờ anh còn nghe vang tiếng em trong tất cả những tiếng động ngù ngờ nhất của cái ngày sung sướng đó: tiếng gió may thổi trên những cành liễu nhỏ, tiếng những giọt sương rơi trên mặt hồ, tiếng guốc khua trên hè phố…Ngần ấy thứ tiếng động ngân nga trong trí tưởng anh một thuở thanh bình nào, bây giờ đã gần im hơi, nhưng một đôi khi vẫn còn đủ sức làm ran lên trong ký ức một mùa hè háo hức, một đêm mưa bỗng trở về, gió cuốn từng cơn nhớ… Anh bỗng nhận ra anh vẫn còn yêu em, dù chúng ta đã xa nhau như hia thành phố…”
Tôi thời còn là sinh viên đã rất mê chương trình này. Có thể nói, đó là một phần khá đẹp của cuộc sống tôi. Bây giờ, nghe lại CD của Nhạc Chủ Đề cũ, tôi lại bồi hồi và một phần đời đã qua như hồi sinh lại.
Sau này, ở xứ Mỹ này, tôi có hỏi ông về trường hợp sáng tác bản nhạc này như thế nào thì ông chỉ nói qua với sự rất hờ hững coi như đó chỉ là một trong những gần trăm bản nhạc ông đã sáng tác. Và ngay cả khi tôi hỏi về cách ông thực hiện hàng trăm chương trình nhạc làm say mê cả một thế hệ trẻ trong thời kỳ ấy hoặc hỏi về mấy trăm bài thơ và mấy chục tác phẩm vừa tiểu thuyết vừa tùy bút nổi danh một thời thì cũng với vẻ hờ hững ấy, ông cũng trả lời với vẻ thản nhiên của một người đã trải qua nhiều thay đổi và hiểu được rằng có những điều không cần biện giải của cái tự nhiên đã có.
Cũng như, khi tôi hỏi về những khó khăn của cuộc sống hiện nay, ông cũng trả lời chẳng có gì cưc nhọc dù rằng tôi hiểu được đó là một sự thản nhiên chấp nhận của một người đã trải qua nhiều mệt mỏi của cuộc đời.
Đó là những ca khúc mà ông gọi là viết trong những thời gian tăm tối nhất của lịch sử và của chính cuộc sống ông. Nhưng đó lại là những lời kêu gọi yêu thương mong con người trở về với tình tự dân tộc. Có những bài hát trong tuyển tập nhạc “Hiên cúc vàng”, “Tôi muốn nói với em“ và "Mưa trên cây hoàng lan” đã chứng tỏ điều ấy. Chất nhân bản đã làm thành những ca từ đẹp và có sức thuyết phục mạnh với thính giả và cũng chuyên chở một cách thâm trầm những thông điệp gửi cho người cho đời những ước vọng và tâm sự.
Những lòi nhạc như “Tôi đã bám lấy đất nước tôi bằng sức người vô hạn. Bằng sức người đầu đội trăm tấn bom. Tim mang nghìn dấu đạn. Tôi đã đổ mồ hôi, đổ máu tươi. Để mong ở lại đây. Nhưng đất đã đỏ vì bị nung bằng những lời dối trá. Người bám vào lửa đã đốt cháy tay. Lửa hờn căm, lửa hiểm thâm, lửa khốn cùng cay đắng. Người lừa nhau trời đất còn bưng mặt thảm thương. Ba mươi năm cuộc tương tàn chưa đủ? người giết người không kịp mở mắt trông. Ba mươi năm mạng người như rác cỏ. Giây hòa bình còn thắt cổ người tin…” trong bản nhạc ”Tôi cố bám lấy đất nước tôi” có phải là những lời chân thành dù trong cơn tuyệt vọng nhưng vẫn còn cố gắng bám víu vào cuộc sống một ý nghĩ nào tích cực nhất?
Những lời ca viết cho thành phố Sài Gòn trong thời thế ấy bỗng dưng trở thành những lời kêu gọi của một dân tộc đã chịu quá nhiều đau khổ. Hết rồi những cơn mưa chiều cũ, mất rồi những buổi sáng rực rỡ xưa. Lời ca, ý nhạc lôi kéo chúng ta trở về con hẻm nào của những hẹn hò, của nụ hôn môi tuyệt vời, của hương tóc thề e ấp phả trong tà áo lụa xôn xao. Cái cảm giác ngày nào như sống lại, làm gai gai trong da thịt nỗi ngây ngất thuở nào. Nghe đâu đây như bước chân nào trở về đồng vọng...
Bản nhạc ấy là “Sài Gòn ơi vĩnh biệt” của nhạc sĩ Nam Lộc. Lại cũng là tiếng gọi bi thiết nhưng tràn đầy thương yêu về thành phố mà có người nói rằng đó là chỗ để người ta yêu nhau. Nhạc Nam Lộc gợi cho tôi những nỗi niềm của một người mong nhớ với tâm trạng dằn vặt. Những lời ca thất thanh của một người mất quê hương:
“Sài Gòn ơi tôi đã mất người trong cuộc đời. Sài Gòn ơi thôi đã hết thời gian tuyệt vời. Giờ còn đây những kỷ niệm sống trong tôi. Những nụ cười ngắt trên môi. Những giọt lệ ôi sầu đắng. Sài Gòn ơi nắng có còn vương trên đường. Đường ngày xưa mưa có ướt ngập lối đường về. Rồi mùa thu lá còn đổ xuống công viên. Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng. Hay đã khóc thương cho người yêu…”
Hình như, tôi thấy tôi đã kêu thất thanh như thế trong cuộc đời tôi...
Không phải tôi nói văn hoa đâu mà tôi đã nhiều lần kêu “thất thanh“như thế! Như một lần trong ngày 30 tháng tư năm 1975 khi tôi từ Cần Thơ trở về lại nhà ở Sài Gòn!
Trước ngày 30 tháng tư năm 1975, tôi chỉ đi học và đi lính, nhưng sau ngày ấy thì tôi đi tù vì không di tản được. Mặc dù tôi ở trong Không quân và ngày ấy đang làm việc ở phi trường Tân Sơn Nhứt.
Đơn vị của tôi là Đoàn phi đạo F5 thuộc Sư Đoàn 3 Không quân ở phi trường Biên Hòa sau ngày 20 tháng tư năm 1975 thì một phần lớn phi cơ di chuyển về phi trường Tân Sơn Nhứt. Ngày 30 tháng 3 đáng lẽ tôi phải biệt phái ra Đà nẵng để làm biệt đội trưởng kỹ thuật để bàn giao phi đạo cho Sư Đoàn I Không Quân nhưng Đà Nẵng đã thất thủ. Trước ngày đó chúng tôi đã chở từ Biên hòa ra Đà nẵng rất nhiều quân dụng và cơ phận thay thế của phi cơ trị giá cả chục triêu đô la và lúc đó kể như thiệt hại hết. Một số nhân viên biệt phái thoát về kể lại cảnh tượng ở Đà nẵng khiến người nghe phải rùng mình. Chiếc Boeing 727 thuê bao của Trung Hoa Quốc Gia cất cánh mà cửa chân đáp không đóng được vì một số hành khách đã ôm vào chân đáp nên phi cơ phải bay từ từ về Sài Gòn trong khi những người bám vào chân đáp bị rụng rớt vì không chịu nổi áp lực của không khí chỉ còn vài người buộc mình vào phi cơ mới không rớt dù khi máy bay đáp xuống đã bất tỉnh. Ở trên phi đạo Đà Nẵng là cả một rừng người và tình trạng lộn xộn khiến tất cả các phi cơ vận tải không thể đáp xuống để bốc người không vận về Sài Gòn. Chính ở Sư Đoàn 3 KQ cũng dự trù dùng phi cơ AD5 để bốc các chuyên viên kỹ thuật biệt phái về nhưng không thực hiện được…
Rồi sau đó các căn cứ Pleiku, Phù Cát, Nha Trang, di tản rồi căn cứ Phan Rang thất thủ.
Ỏ Tân Sơn Nhứt những ngày cuối tháng tư tình trạng khá hỗn loạn vì các sư đoàn KQ di tản về. Từ bãi đậu phi cơ vãng lai vào đến phi đạo bên trong phi cơ đậu thành hàng đông nghẹt. Trực thăng, A37, phi cơ quan sát xếp ken vào nhau thành ra vấn đề an toàn khá phức tạp. Ở khu huấn luyện sư đoàn đầy nghẹt những quân nhân về trình diện từ các đơn vị đã bị tan hàng, mọi người đều linh cảm rằng một cơn địa chấn dữ dằn sẽ tới.
Gia đình tôi thì đã ra đi nên tôi làm việc và ở luôn trong phi trường. Hàng đêm, chúng tôi lái xe ra bãi đậu phi cơ xem những chuyến bay chở người di tản. Nếu quyết định ra đi lúc đó thì khá dễ dàng, chỉ cần thay quân phục và mặc đồ dân sự là có thể leo lên phi cơ một cách dễ dàng. Nhưng tôi vẫn nghĩ không thể nào thua trận mau chóng như vậy được và nghĩ rằng đi lúc đó là quá sớm. Đến đêm 27 tháng tư, căn cứ Biên Hòa di tản về Tân Sơn Nhứt. Và lúc đó quả thực tôi bị chấn động và hiểu rằng ngày cuối đã tới. Suốt đêm phi cơ bay đầy trời và chúng tôi đã phụ giúp để trang bị rocket và đạn cho phi cơ trực thăng gunship bay yểm trợ trên các mặt trận ven thành phố.
Chiều ngày 28, lúc Tổng Thống trần Văn Hương bàn giao cho tướng Dương Văn Minh ở Dinh Độc Lập thì năm phi cơ A37 oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhứt do tên phản tặc Nguyễn Thành Trung dẫn về khi các phi tuần nghênh cản phòng không F5E chấm dứt túc trực. Lúc ấy, tôi đang tập họp biệt đội trong hangar thì xảy ra biến cố ấy. Và sau đó đến bốn giờ sáng thì các đợt pháo kích ác liệt của Cộng quân vào phi trường. Trong phi trường khói lửa tùm lum, một hỏa tiễn 122 ly rớt trúng phân đội nữ quân nhân. Lúc sáng sớm, tôi lái xe qua khu vực ấy còn thấy những mảnh quần áo và cả da thịt vương vãi trên những tàng cây. Buổi sáng, tôi leo lên F5 rồi không đi. Kết quả là chiếc phi cơ ấy bị rớt ở phi trường Utapao ở Thái lan hy sinh tất cả những người trên phi cơ. Rồi tôi lên trực thăng xuống Cần Thơ và bị kẹt lại đến chiều 30 thì xuống Rạch Giá kiếm đường vượt biển nhưng cũng không xong và ngày 1 tháng 5 thì phải trở lại Sài Gòn…
Trên đường từ Cần Thơ trở về tôi đã nhìn thấy ở dọc đường quốc lộ số 4 những cảnh tượng mà tôi không thể nào quên. Hai bên đường những chiếc xe tăng và những chiếc trực thăng nằm chỏng chơ và quần áo trận, nón sắt, dây ba chạc, giày lính,... vứt lộn xộn tạo ra một khung cảnh điêu tàn của một trận chiến về chiều. Đi từng đoạn rồi cũng về tới Sài Gòn về nhà để thấy căn nhà mình ở bị niêm phong. Tôi vô nhà đại và mang vài vật dụng đi ra và đau lòng biết bao nhiêu khi nhìn thấy vật dụng hàng ngày của mẹ tôi và các anh em tôi trong một căn nhà mà tôi bị đuổi ra vì cả gia đình đã di tản. Tôi muốn khóc khi nhìn thấy ô trầu của mẹ, khi nhìn thấy đôi dép mẹ đi, cái áo ấm mẹ mặc. Vật thì còn nhưng người đã đi xa, biết đến bao giờ mới gặp lại…Và không biết ở phương xa, có còn trầu cau để cho mẹ ăn không ? Buồn thật phải không? Quốc phá thì gia vong. Người xưa đã nói thì chẳng sai chạy được…
 
Nguyễn Mạnh Trinh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2014 lúc 7:26pm

Chuyện một người mang tên Nguyễn Thị Di Tản

https://soundcloud.com/dieuthangxd/nguyenthiditan-dieuthang




Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 27/Apr/2014 lúc 7:31pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2014 lúc 9:57pm
Thằng Bé Tát Dầu    <<<<<
Phan Văn Hưng
Elvis Phương



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 27/Apr/2014 lúc 10:02pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 95 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.305 seconds.