![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Tâm Tình | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 146 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Câu Chuyện Cuộc Đời: Nợ Người Dễ Trả Hơn Nợ Chính Mình![]()
Hóa ra, có những tâm hồn lớn lao và cao thượng lại nằm trong những con người khốn khó và giản dị. (Ảnh: Baq)
Năm nay tôi đã gần bảy mươi tuổi. Cái tuổi mà con cháu đã có thể
chúc thọ được rồi. Tôi đã chứng kiến biết bao câu chuyện cuộc đời. Nhưng
có một câu chuyện mà tôi không thể nào quên được. Tôi viết lá thư này
gửi các anh, các chị để kể lại câu chuyện mà tôi là một người liên quan
đến câu chuyện đó. Hy vọng, câu chuyện của tôi nếu được in lên sẽ nói
với bạn đọc gần xa một điều gì đó về cuộc đời này.
Câu chuyện xảy ra vào năm cuối cùng trong
đời sinh viên của tôi, ở ký túc xá mà tôi ở lúc đó. Một hôm, chúng tôi
đi tập quân sự. Duy chỉ có một người trong phòng kêu ốm và ở lại. Người
đó là S, quê ở Thanh Hóa. Buổi chiều trở về, tôi sắp xếp lại đồ đạc cá
nhân và hoảng hốt nhận ra một chỉ vàng của tôi không cánh mà bay. Đó là
chỉ vàng mà cha mẹ cho để mua xe đạp đi làm sau khi tôi ra trường. Ngay
lúc đó, tôi nhìn S đang nằm quay mặt vào tường và hoàn toàn tin rằng S
đã lấy cắp chỉ vàng của tôi. Tôi đề nghị mọi người trong phòng cho tôi
khám tư trang của họ. Cuộc khám xét không thành công.
Nhưng
qua phân tích của chúng tôi và qua thái độ hoang mang của S, chúng tôi
đều tin S đã giả ốm ở nhà để lấy cắp chỉ vàng của tôi. Chúng tôi đã báo
cáo sự việc với nhà trường. Bảo vệ nhà trường cho biết, buổi sáng chúng
tôi đi tập quân sự thì S có ra khỏi trường khoảng một giờ đồng hồ. Mặc
dù S cả quyết không hề lấy cắp chỉ vàng ấy, nhưng chúng tôi và nhà
trường đã tiến hành nhiều cuộc họp để chất vấn và khẳng định thủ phạm vụ
trộm đó là S.
![]()
Một tuần sau, chúng tôi
phát hiện S mang một bao tải mì sợi ra ga tàu mang về quê. Chúng tôi
túm lại hỏi S lấy tiền đâu mà mua mì sợi. S không nói gì mà ôm mặt khóc.
Năm đó, nhà trường đã không xét tốt nghiệp cho S mặc dù học lực của S
rất khá, với lý do đã có hành vi đạo đức xấu và không trung thực với tội
lỗi của mình. Chúng tôi hồ hởi nhận bằng tốt nghiệp và quyết định phân
công công tác. Chỉ có S không được nhận bằng tốt nghiệp và tạm thời
không được phân công công tác. Đồng thời nhà trường có công văn gửi về
địa phương S sinh sống đề nghị địa phương theo dõi và giáo dục S. Khi
nào địa phương chứng nhận S đã hối cải và tiến bộ thì nhà trường sẽ xem
xét giải quyết trường hợp của S.
Thời
gian cứ thế trôi đi. Một số bạn bè học cùng chúng tôi vẫn có liên lạc
với nhau. Duy chỉ có S là không ai biết rõ ràng ở đâu và làm gì. Nhà
trường cho biết, S cũng không quay lại trường để xin cấp bằng và phân
công công tác.
Ngày tháng trôi qua,
tôi chẳng còn nhớ tới chỉ vàng bị lấy cắp năm xưa. Trong đám bạn bè tôi,
có những người rất thành đạt. Đặc biệt H đã trở thành một người rất
giàu có bằng năng lực và sức lao động của chính anh. Anh là một người
được xã hội biết đến.
Một hôm, sau
ngày tôi vừa nghỉ hưu, có một thanh niên mang đến nhà tôi một lá thư và
một cái hộp giấy nhỏ. Anh thanh niên nói là một người nhờ chuyển, nhưng
lại nói là không nhớ tên người đó. Tôi băn khoăn và hồi hộp mở thư ra.
Lá thư chỉ vẻn vẹn mấy dòng: “Anh P thân mến, tôi xin được gửi trả lại
anh chỉ vàng mà tôi đã lấy của anh cách đây mấy chục năm. Tôi sẽ đến gặp
anh để xin anh thứ tội. Kính”. Đọc thư xong, tôi thực sự bàng hoàng. Lá
thư không ký tên. Tôi không còn nhận được chữ đó là của ai viết nữa.
Tôi đoán đó là thư của S. Tôi mở chiếc hộp giấy nhỏ và nhận ra trong đó
có một chỉ vàng. Đó là một chỉ vàng mới. Không hiểu tại sao lúc đó nước
mắt tôi chảy ra giàn giụa. Lúc này tôi mới thực sự nghĩ đến S với một
nỗi xót thương. Ngày ấy, S là sinh viên nghèo nhất trong lớp. Bố S mất
sớm. Mẹ S phải tần tảo nuôi năm anh chị em S ăn học. Có lẽ vì thế mà
trong một phút không làm chủ được mình, S đã trở thành một kẻ ăn cắp.
Nếu lúc đó, chúng tôi có được sự xót thương như bây giờ thì có lẽ chúng
tôi không đẩy S vào tình cảnh như ngày ấy.
Sau
khi nhận được lá thư và chỉ vàng, tôi hầu như mất ăn, mất ngủ. Có một
nỗi ân hận cứ xâm chiếm lòng tôi. Ngày ngày tôi đợi S đến tìm. Tôi sẽ
nói với S là tôi tha thứ tất cả và tôi cũng xin lỗi S vì lòng tôi thiếu
sự thông cảm và thiếu vị tha.
Một buổi
sáng có tiếng chuông cửa. Tôi vội chạy ra mở cửa. Người xuất hiện trước
tôi không phải là S mà là H. Tôi reo lên: “Ối, hôm nay sao rồng lại đến
nhà tôm thế này”. Khác với những lần gặp gỡ trước kia, hôm đó gương mặt
H trầm tư khác thường. Tôi kéo H vào nhà và nói ngay: “Mình vừa nhận
được thư thằng S. Cậu có biết nó viết gì không? Nó đã trả lại tôi chỉ
vàng và nói sẽ đến gặp tôi để xin lỗi”. Khi tôi nói xong, H bước đến bên
tôi và nói: “Anh P, anh không nhận ra chữ viết của tôi ư. Tôi chính là
người viết lá thư đó. Tôi chính là người đã ăn cắp chỉ vàng của anh”.
Nói xong, H như đổ vào tôi và khóc rống lên. Tôi vô cùng bàng hoàng và
không tin đó là sự thật. Khóc xong, H đã kể cho tôi nghe tất cả sự thật.
Vì cũng muốn mua một chiếc xe đạp sau khi tốt nghiệp đi làm, H đã tìm
cách lấy trộm chỉ vàng. Và suốt thời gian qua, H rất ăn năn và luôn tìm
kiếm S để chuộc lỗi. Thế rồi chúng tôi quyết định về quê S mặc dù biết S
không còn sinh sống ở quê đã lâu.
Vất
vả lắm chúng tôi mới biết thông tin về S: Sau khi bị nhà trường gửi
công văn đến địa phương thông báo về đạo đức của mình, S đã phải chịu
quá nhiều tai tiếng và những ánh mắt khinh bỉ của hàng xóm. S đã xin đi
khai hoang ở một huyện miền núi.
Nghe
vậy, chúng tôi lại tức tốc lên đường tìm đến nơi S đang sinh sống. Ở đó S
sống cùng vợ con trong một ngôi nhà gỗ đẹp dưới chân một dãy đồi. S
trồng trọt và mở một trang trại chăn bò lớn. Trông anh già hơn tuổi
nhưng khỏe mạnh và đôi mắt nhân ái vô cùng. Cả ba chúng tôi ôm lấy nhau
mà khóc.
Tôi và H quyết định ngủ lại một đêm với
S. H xin S cho H được kể sự thật cho vợ con S nghe để họ thanh thản và
hãnh diện về chồng, về cha mình và H muốn được tạ lỗi với vợ con S.
Nhưng S gạt đi và nói: “Chưa bao giờ họ tin tôi là kẻ ăn cắp”. Trước khi
chia tay nhau, H cầm tay S khóc và nói: “Mình có tội với cậu. Cậu đã
tha tội cho mình. Nhưng mình muốn được trả một phần nhỏ cái nợ lớn mà
đời mình đã mang nợ với cậu. Hãy nói mình phải trả nợ cậu như thế nào”. S
mỉm cười và nói: “Ông đã trả hết nợ rồi”. Khi tôi và H còn chưa hiểu ý
thì S nói: “Việc ông nói ra sự thật về tội lỗi của ông là ông đã trả hết
nợ rồi. Đừng nghĩ gì về chuyện cũ nữa. Mà thực ra, ông nợ chính ông
nhiều hơn là ông nợ tôi. Nợ người dễ trả hơn nợ chính mình”. Cho đến lúc
đó, tôi mới thực sự hiểu con người S. Tôi hiểu ra một điều gì đó thật
xúc động, thật sâu sắc về cuộc đời này. Hóa ra, có những tâm hồn lớn lao
và cao thượng lại nằm trong những con người khốn khó và giản dị như
thế.
Cũng trong cái đêm thức với S tại
ngôi nhà gỗ của anh, chúng tôi mới biết những ngày đi học, khi nghỉ
học, S vẫn đi quay mì sợi thuê để mua mì sợi cứu đói cho gia đình. Chúng
tôi đã không hiểu được bạn bè mình. Chúng tôi đã làm cho một con người
như S nếu không có nghị lực, không có lòng tin có thể dễ dàng rơi vào
tuyệt vọng.
Thưa các anh, các chị, câu
chuyện tôi kể cho các anh, các chị chỉ có vậy. Nhưng với tôi đó là một
bài học về con người và về cuộc đời. Kính chúc các anh, các chị mạnh
khỏe, an khang và thịnh vượng.
Đ.V.P |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23731 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23731 |
![]() ![]() ![]() |
Tóc trắng
Ông Hai vừa mở mắt thức giấc đã nghiêng đầu nhìn cái đồng hồ reo nằm trên bàn cạnh đầu giường. Đồng hồ quartz loại nhảy số. Ông nheo mắt đọc: “Chín giờ hai mươi”.
Rồi nằm ngay ngắn lại, càu nhàu: “Đồng hồ gì mà không có một cây kim, không có một tiếng tích-tắc. Chẳng biết đâu mà rờ!”.
Ông nhớ lại hồi còn ở bên nhà, ông cũng có một cái đồng hồ reo đặt ở cạnh đầu nằm. Nó lớn bằng bốn cái đồng hồ điện tử “mắc dịch” này. Nó hiệu Jaz, ông còn nhớ rõ. Nước xi bóng loáng, mặt dạ quang, “ban đêm thấy rõ như ban ngày”! Và khi nó reo thì... “hàng xóm còn nghe chớ đừng nói chi người nằm ngủ kế bên”. Như vậy mới gọi là đồng hồ báo thức. Chớ phải đâu như cái đồng hồ điện tử này, nó reo “bíp bíp, bíp bíp” nhỏ rí như sợ người ta nghe! Ngoài ra, cái đồng hồ reo của ông, không cần nhìn cũng biết nó đang chạy, bởi vì chỉ cần nghe tiếng “cộc cộc, cộc cộc” của nó là đủ. Phải công nhận là tiếng kêu của nó “có hơi lớn”, nhứt là về khuya, lúc thanh vắng, nghe giống như tiếng gõ mõ nhịp đôi.
Hồi xưa, hồi còn sanh tiền, bà Hai vẫn phàn nàn về vụ tiếng “cộc cộc, cộc cộc” của cái đồng hồ. Bà nói: “Cái đồng hồ reo của ông càng già càng kêu lớn. Nó giống như ông, càng về già ông càng ngáy to, chẳng để cho ai ngủ hết!”
Rồi, chẳng lẽ đi chỗ khác ngủ sau mấy chục năm ngủ chung, bà Hai đã giải quyết vấn đề bằng cách... nằm ngược chiều với ông Hai, nghĩa là bà nằm xoay đầu về phía chân giường. Dĩ nhiên là ông Hai đã phật ý, không thèm nói chuyện với bà Hai hết một thời gian. Nhưng riết rồi cũng quen đi, nên không còn để ý đến tình trạng dị thường đó. Cũng như ông Hai đã quen nghe tiếng “cộc cộc, cộc cộc” của cái đồng hồ nên không nhận thấy là nó kêu lớn! Đối với ông, tiếng động quen thuộc đó chứng tỏ là cái đồng hồ còn “sống”, nghĩa là ông không có quên lên giây thiều. Và như vậy, ông mới yên lòng dỗ giấc ngủ.
Ông Hai đưa mắt nhìn quanh căn phòng nhỏ. Thời tiết đã sang Xuân nên vào giờ này, trong phòng đã đầy ánh sáng. Căn phòng thật là “nhỏ xíu giống như một cái hộp”.
Hồi ông mới tới Pháp, mấy con ông đi rước ở phi trường Charles de Gaulle, tíu ta tíu tít: “Tụi con đều ở chung một immeuble. Chỉ có chị Hai là ở tuốt dưới Tours. Mới đầu, tụi con định lấy một studio trong immeuble cho Ba ở, nhưng chị Ba không chịu. Nói Ba già rồi, ở một mình bất tiện, nên chị Ba dọn cho ba một phòng riêng trong appartement của chỉ, có vue xuống lac. Rồi ba coi. Dễ thương lắm!”
Ông Hai chưa từng xuất ngoại nên chẳng hình dung được cái “appartement” bên Pháp nó ra làm sao, nhưng nghe các con diễn tả có vẻ “rất vừa ý cả bọn”, ông cũng nghe vui trong lòng.
Khi về đến nhà Kim – người con gái thứ nhì của ông Hai – ông tưởng như đi vào một cái hang chớ không phải một cái nhà! Cái gì mà mới bước vào là đã phải lo quẹo trái - bởi vì bên mặt là cửa vào nhà bếp - rồi bước vài bước phải quẹo mặt rồi lại quẹo mặt lần nữa để tránh nhà tắm và cầu tiêu nằm liền nhau ở góc đó, rồi đi tới mấy bước lại phải quẹo trái mới vào được căn phòng “có vue xuống lac dễ thương lắm”.
Phòng nhỏ xíu vuông vức, bước có mấy bước là đụng tường, nhìn ra phía ngoài qua ô kiếng to thấy trời lồng lộng bởi vì không có nhà ở phía đối diện.
Nhìn xuống bên dưới - vì nhà ở từng thứ tám - thấy toàn bộ cái hồ nhân tạo thật rộng với đồi cao trũng thấp và những con đường đất nhỏ uốn khúc quanh quanh.
Thằng Út - con trai út của ông Hai, tên Tuân nhưng ở nhà quen gọi là Út, năm nay “trên hai mươi tuổi là ít”- ôm lấy lưng ông Hai đang đứng gần ô kiếng: “Ba biết không? Ở Paris khó kiếm được nhà có cái vue như vầy lắm. Và hướng này là hướng Đông Nam, sáng, nắng vào tận phòng. Ba có thể vừa ngồi đây sưởi nắng vừa nhìn xuống lac coi vịt, thiên nga... Tụi con biết thế nào Ba cũng thích”.
Ông đưa tay vỗ vai nó - bây giờ nó cao lớn quá, không vỗ được đầu nó như hồi thuở ông đưa nó lên phi trường để “đi Tây”- gật gật đầu: “Ờ... Ba cũng thích lắm!”
Nói như vậy, nhưng khi mấy con kéo hết ra phòng khách để cho ông thay đồ, ông ngồi xuống giường nhìn quanh rồi thở dài...
Mấy đứa con, vì “đi Tây” quá sớm, không biết cái nhà mà ông đã xây cất ở trên sở cao su của ông. Cái nhà đó, ông đã mơ nó từ thuở còn là thơ ký cho hãng cao-su Terre Rouge. Hồi đó mới có hai đứa con, mà đã hình dung trong đầu một cái nhà thật to, kiểu “colonial”, có hàng ba thật rộng vây quanh để tránh trời trưa hanh nắng... Cái nhà “trong mộng” đó phải to hơn đẹp hơn cái nhà của thằng chủ Terre Rouge. Mà muốn như vậy, không phải làm công suốt đời mà có được. Vậy là hai vợ chồng “thôi” Terre Rouge (bà Hai cũng làm việc cho Terre Rouge). Rồi vay nợ ngân hàng, gom góp từng đồng để xây dựng một đồn điền cao su riêng cho mình. Sau đó, phải đổ mồ hôi xót con mắt hết mười mấy năm để bắt đầu dư dả tiền bạc thực hiện “cái nhà trong mộng”.
Ông hãnh diện với cái nhà đó lắm. Ông thường nói: “Tôi đã vẽ nó trong đầu hồi tôi chỉ có hai bàn tay trắng”.
Hôm ăn tân gia, ông Hai đã “mời hết cả tỉnh” đến dự, có cả mấy hãng cao su Terre Rouge, SIPH... Quan khách ai cũng trầm trồ khen ngợi, nhứt là cái phòng ngủ thật rộng trong đó có cả bộ xa long để ông Hai ngồi hút thuốc đọc báo nghe ra-dô!
Hồi 75, Việt Cộng về, vẫn cho ông ở cái nhà đó tuy rằng sở sùng đã bị tịch thu hết (Họ nghĩ tình hồi xưa ông đã “đóng góp” giúp cách mạng nên cho ông một chân trong tổ kế hoạch, suốt ngày ngồi... uống trà, hút thuốc. Vụ này đã làm cho bà Hai buồn rầu sanh bịnh rồi qua đời vào giữa năm sau...) Rồi lần lần, Việt Cộng “lấn” ông ra nhà bếp để lấy nhà trên làm trụ sở ủy ban nhân dân. Cái nhà bếp đó vậy mà rộng rãi thoải mái hơn cái “phòng nhỏ có vue xuống lac” này...
Nghĩ đến đó, ông Hai bật cười. Hồi mới đến tịch thu đồn điền, Việt Cộng chạy xe thẳng vào văn-phòng nằm cạnh con lộ cái. Ở đó, có khu nhà máy, khu nhà kho, khu cơ giới... v.v. Thấy đồ sộ như vậy, chúng nó bèn “đóng chốt” ngay ở văn phòng, ăn ngủ ở đó luôn mặc dù trong đồn điền còn có khu nhà ở, bịnh xá, trường học, câu lạc bộ... không thiếu gì nơi để ở. Đã gọi là hòa bình rồi mà tụi Việt Cộng vẫn còn lối sống dã chiến: lấn chiếm được đến đâu là “ta đóng chốt ngay ở đó thôi”.
Về sau, khi chúng nó “báo cáo rằng mạng lưới tổ chức đã hoàn chỉnh” thì khu văn phòng đã biến thành nhà ở của mấy gia đình cán bộ, còn nhà ở của ông Hai được chia đôi, một bên làm văn phòng, một bên làm ủy ban nhân dân - nghĩa là làm việc ở cách nhà máy trên hai cây số! - Nhà bếp của ông đã biến thành nhà kho sau khi chúng nó đã “lích” ông ra nhà kho để ở!
Cái gì cũng ngược ngạo hết. Ngược ngạo đến vô lý! Vậy mà hể mở miệng ra là chúng nó cứ tự hào là “đỉnh cao trí tuệ”!
Nắng đã bắt đầu vào đầy phòng. Căn phòng nhỏ bây giờ thật ấm. Ông Hai vẫn nằm yên, lắng nghe từng tiếng động (Đó là cái thú “nằm nướng” của ông hồi còn ở bên nhà vào những sáng chủ-nhựt rỗi rảnh). Bốn bề yên lặng. Lâu lâu nghe tiếng nước “giựt cầu” từ mấy từng lầu trên theo ống dẫn chảy ngang một cách âm thầm vội vã... Rồi hết. Yên lặng đến buồn thiu! Chẳng bằng ở bên nhà. Hừng sáng đã nghe gà gáy, không phải một con mà là ba bốn con, gáy “đối đáp” thật rộn rã. Rồi tiếng bầy chim trong lá ríu rít, nghe lúc xa lúc gần đủ biết là chúng đang bay liệng từ cây này sang cây nọ, trở đi trở về. Đến khi nghe mấy con gà mái kêu tục tục xen lẫn tiếng gà con chim-chíp, tiếng vịt khàn khàn, tiếng ngỗng huen-hoét... là biết ngay thím Tám Lư đang cho gà vịt ăn ở vườn sau.
Rồi đến tiếng mô-tô nổ máy, rồ vài “cú” xong là nghe tiếng máy đi xa lần xa lần. Đó là thằng Rớt đang chạy xuống tỉnh mua hủ tiếu về cho ông ăn sáng.
Ngần đó tiếng động vây quanh ông, thật là tầm thường nhưng cũng thật sinh động. Chẳng có gì hết, vậy mà sao ông nghe hoài không thấy chán. Trái lại, mỗi lần có dịp “nằm nướng” để lắng nghe những tiếng động quen thuộc đó, tâm hồn ông lâng lâng trải rộng. Làm như chúng nó đem đến cho ông cái thi vị đầu ngày, nhẹ nhàng tươi mát...
Những tiếng động đó, bây giờ, ông nằm đây trong cái yên lặng của căn phòng nhỏ, ông mường tượng như còn nghe rõ ở trong đầu. Không sót, không quên một tiếng động nào hết, kể cả tiếng đổ kiểng tòn-teng tón-teng mỗi mười lăm phút của cái đồng hồ Wesminster treo ở phòng khách nhà ông. Ờ... cái đồng hồ hồi đó ông mua ở P***age Eden đường Catinat. Thùng làm bằng gỗ quí chạm trổ thật khéo. Trên mặt có ba lỗ để lên dây thiều: một lỗ để cho máy chạy, một lỗ để đổ kiểng, một lỗ để đánh giờ.“Trứng dái” đong đưa nghe cọc-cạch cọc-cạch chậm rãi đều đặn (Về điểm này, bà Hai cằn nhằn: “Ông ăn nói không thanh bai chút nào hết. Quả lắc thì gọi là quả lắc, chớ gọi trứng này trứng nọ nghe dị-hụ quá chừng!”
Ông cãi: “Thì từ xưa đến giờ thiên hạ gọi cái đó là trứng dái, chớ gọi bằng gì? Tôi chẳng thấy có gì tục tĩu trong đó hết. Tại vì mình nghĩ bậy nên mới thấy nó tục”
Từ đó, bà Hai không thèm đá động tới cái bộ-phận lòng-thòng lắc qua lắc lại ở phần dưới của cái đồng hồ Westminster!)
Hồi đó, những lúc “nằm nướng”, ông hay lắng tai nghe tiếng đồng hồ đổ kiểng dìu dặt: đổ “một hồi” là mười lăm phút, đổ “hai hồi” là ba chục phút, đổ “ba hồi” là bốn mươi lăm phút, còn đổ “bốn hồi” là sửa soạn đánh giờ... Thật là thú vị! Mình “nghe” thời gian đi qua và “biết” thời gian đã đi qua từ lúc nào! Thành ra, tiếng cọc-cạch cọc-cạch, tiếng đổ kiểng, tiếng đánh giờ của đồng hồ Wesminster cũng thuộc vào những tiếng động mà ông Hai đã mang theo trong lòng khi bỏ xứ ra đi...
Giờ này, nhà vắng teo. Vợ chồng Kim đã đi làm, chiều mới về. Thằng Tí, bốn tuổi, cháu ngoại của ông, đã được cô Út của nó rước về Antony hôm qua vì có ông bà nội nó từ dưới tỉnh lên chơi. Hồi ông mới qua Pháp, lần đầu gặp thằng Tí, nó thấy người lạ nên lấp ló núp sau váy của má nó, miệng cười lỏn lẻn.
Má nó nói: “Ông ngoại nè con. Bonjour ông ngoại đi!”
Ông ngồi xuống ghế xa-long đưa hai tay về phía nó: “Lại đây, lại đây ngoại cưng”.
Má nó phải đẩy nhẹ nó mấy lần nó mới bước tới bắt tay ông Hai. Ông ôm nó vào lòng, hôn lên má phinh-phính của nó mà nghe thơm nghe ngon. Tình thương bỗng dâng tràn trong lòng.
Trong giây phút đó, ông bỗng thấy chẳng còn tiếc cái gì nữa hết, từ đồn điền cao su đến cái nhà trong mộng, mà Việt Cộng đã chiếm đoạt. Làm như đứa cháu ngoại mà ông đang ôm trong vòng tay đã mang đến cho ông một luồng sinh khí mới, một cái gì mà ngay bây giờ đã chiếm trọn tâm hồn ông. Lạ quá! Có bằng chút xíu như vậy - thằng Tí - mà đã có thể thay thế được những gì thật lớn lao thật sâu rộng mà ông đang mang mểnh trong lòng như quê hương, như sự nghiệp! Ông lại ôm hôn nó một lần nữa để nhận thấy rằng ông không lầm: tình cảm mới mẻ đó có thật như vậy. Lần này, chẳng ai bảo mà thằng Tí tự nhiên nhón chân lên hôn ông Hai. Nó hôn bằng mũi giống như ông hôn nó! Rồi nó quay lại nhìn mọi người, miệng cười lỏn lẻn.
Ông ứa nước mắt vì sung sướng và nghĩ rằng ở cái tuổi già và trong cuộc sống lưu vong, có được đứa cháu ngoại như vầy, thật là Trời còn thương ông nhiều quá! Rồi ông ví-von: quê hương của ông bây giờ là thằng cháu ngoại này. Ông sẽ vung-bồi nó như ngày xưa ông đã vun bồi chăm sóc vườn ương cao su con, để khi đem ra lô, nó sẽ lớn mau lớn mạnh. Nhứt là cái gốc Việt Nam, phải còn, phải có...
Từ đó hai ông cháu như hình với bóng. Ông lãnh phần đưa rước thằng Tí đi trường mẫu giáo. Mỗi sáng, ăn điểm-tâm xong là ông cháu dẫn nhau thả bộ lại trường nằm cách nhà không xa lắm, ở khu nhà nằm phía bên kia hồ. Thằng Tí phát âm tiếng ngoại không được, nên gọi ông nó bằng “moại” nhưng lại nghe ra là “mọi” làm má nó rầy quá, cứ bắt thằng nhỏ chu môi ngoáy miệng lập đi lập lại cho đúng.
Ông rầy: “Kệ nó, con! Từ từ... Đừng làm quá đây rồi nó bị mặc-cảm không thèm gọi ba bằng gì hết thì khổ? Thà để nó gọi trại trại mà mình còn nghe có cái gì Việt Nam. Rồi mình sửa lần, con hiểu không?”
Ông thường can thiệp những chuyện như vậy nên thằng Tí thích ông ngoại nó lắm. Đi với ông, nó học từng tiếng Việt và cố gắng nhớ để nói cho đúng. Bởi vì nó thấy mỗi lần nó nói đúng, ông ngoại nó thật vui. Còn ôm nó hôn trơ trất nữa.
Có một lần ông Hai chỉ mấy con vịt đang lội trên hồ, hỏi: “Con này kêu là con gì, Tí?“
Thằng nhỏ nhìn vịt rồi nhìn ông, vừa lắc đầu vừa cười lỏn lẻn: “Không biết”. Ông nói, phát âm từng tiếng thật rõ: “Con... vịt”. Thằng nhỏ lập đi lập lại mấy lần cho đúng và cho nhớ.
Một lúc sau, ông chỉ vịt mà hỏi: “Con này là con gì?” Thằng nhỏ nói “Con...”, rồi há miệng tròn vo định nói tiếp.
Ông thấy ngay là sai rồi, bởi vì vịt không thể phát âm với cái miệng mở tròn được. Ông bèn ra dấu để nhắc nó, ông chỉ chỉ lên miệng ông. Ở đó, ông bành môi ra cho giẹp giẹp như sắp phát âm “vịt”. Thằng nhỏ mắt sáng rỡ, khép miệng lại rồi làm y như ông nhắc. Nó nói vịt mà đầu nó gật xuống một cái, đủ thấy nó cố gắng vô cùng làm ông thấy thương quá.
Bỗng nó hỏi: “Moại! Moại! Sao con vịt nó giống con... nó giống con...”
Ông tiếp hơi cho thằng nhỏ: “Nó giống con...”
Thằng Tí nói lớn như vừa được tiếp sức, vừa lớn vừa rõ: “Nó giống con canard...”
Ông bật cười, chửi đổng nho nhỏ: “Cha mầy!”, rồi ôm hôn nó đầy mặt đầy cổ. Nó nhột, rút đầu rút cổ cười lên hăng-hắc...
Nghĩ đến đó, ông Hai thở dài. Bây giờ, ông không còn đưa rước thằng Tí nữa. Má nó giành làm. Viện cớ là cần gặp thường xuyên những người phụ trách mẫu giáo để hỏi han theo giỏi tình hình phát triển của thằng nhỏ. Ông nghi là có một lý-do nào khác mà má thằng Tí không tiện nói ra. Mới đầu, ông thật buồn, nhưng rồi cũng phải nhẫn nại chịu như vậy. Và định bụng có dịp nào đó sẽ hỏi Kim cho rõ trắng đen. Trong khi chờ đợi, ông nằm nhà như một người thất nghiệp, đi ra đi vô phòng khách nhà bếp, hút thuốc hết điếu này đến điếu khác. Lâu lâu nhìn đồng hồ để coi mấy giờ, làm như đang trông một cái gì hay đang đợi một người nào đó! Có hôm ông cũng xuống dưới nhà đi bách bộ quanh hồ, rồi quen chân đi lại trường mẫu-giáo đứng cạnh rào lưới kẽm đưa mắt tìm thằng Tí trong bầy trẻ đang nô đùa bên trong. Không có gì: ông chỉ cần thấy xa xa thằng cháu ngoại đang la hét chạy nhảy với bầy bạn của nó là đủ để ông nghe trong lòng phơi-phới một niềm vui... Có khi thằng Tí nhìn thấy ông, nó mừng rỡ vừa chạy lại vừa kêu: “Moại! Moại!” Đến hàng rào, nó đưa ngón tay trỏ mũm mĩm qua lỗ lưới kẽm để cho ông nắm lấy bằng đầu mấy ngón tay khẳng khiu của ông, lắc nhè nhẹ. Đó là cái bonjour của hai ông cháu. Xong, ông nói: “Thôi! Vô trổng chơi đi con. Ngoại về”. Chỉ có như vậy thôi! Vậy mà cả ngày hôm đó, cái gì ông cũng thấy tươi thấy đẹp...
Ông Hai vươn vai ngáp rồi ngồi dậy với lấy áo lạnh dài tay máng trên thành ghế mặc vào kỹ càng mới bước xuống giường. Ông kéo cái couette xuống phía chân giường để so lại thẳng thớm cái mền xếp đôi nằm giữa cái drap và cái couette. Xong, ông lại kéo cái couette đấp trở lại trên mền, kéo mí drap phủ lên couette. Cuối cùng, ông lòn tay kéo tất cả cái “thứ tự” đó lật ngửa lên và tuột xuống phía chân giường. Ông phải làm như vậy để chiều về con gái ông làm giường thấy rằng “ông ngủ hạp vệ sinh” nghĩa là có nằm giữa hai lớp drap đàng hoàng! Câu chuyện có vẻ “rắc rối” này bắt đầu từ hồi ông mới qua Pháp. Hai đêm đầu, ông ngủ không được. Một phần vì sự chênh lệch giờ giấc, một phần vì lạ nhà và nhứt là lối “ngủ theo tây” ông không hạp. Cái gì mà khi mình chui vào giữa hai tấm drap, mình nghe nó lạnh ngắt. “Mò” tới đâu là nghe lạnh tới đó, mặc dầu bên trên có phủ kín nhét kỹ một cái couette dầy. Rồi phải nằm đợi một lúc lâu, bên trong mới âm ấm!
Đến ngày thứ ba, ông nói với con gái: “Cho ba xin một cái mền, con!”
Kim ngạc nhiên: “ Ủa! Bộ cái couette không đủ ấm sao ba?”
Ông ngần ngừ rồi đáp: “Thì... cũng ấm. Nhưng ba muốn có một cái mền...”
Ba thằng Tí chen vào, nói với Kim: “Thì em cứ mua cho ba một cái mền, đi! Ba già rồi chớ phải như tụi mình đâu mà ngủ với cái couette là đủ”.
Vậy là hôm đó, đi làm về, Kim mang về một cái mền to. Kim xếp cái mền làm đôi đặt ở giữa tấm drap trên và cái couette.
Đêm đó, thay vì chui vào giữa hai lớp drap, ông Hai chui vào giữa hai lớp mền! Chui vào tới đâu là nghe ấm tới đó! Thật là thích thú! Ông đưa bàn chân “mò” bên mặt bên trái, ông đưa bàn tay rờ rờ lớp mền dưới lớp mền trên, bắt gặp lại cảm giác quen thuộc khi đắp mền hồi còn ở bên nhà: lông mền dù mịn nhưng vẫn đâm đâm chích-chích. Ông lại thích như vậy. Ông nhớ lại hồi nhỏ khi còn ở với bà nội dưới quê, trưa trưa ông hay nhảy vào bồ lúa trải cái bao bố tời lên mặt lúa rồi “ình” lên đó ngủ một giấc “ngon lành”. Riết rồi ông ghiền cái vừa êm êm vừa xót xót đó! Cho nên khi đã chui vào giữa hai lớp mền, ông tưởng chừng như ông là đứa bé vừa nắm được “cái ghiền” để đi vào giấc ngủ...
Vậy rồi hôm sau, khi con gái của ông làm giường thấy cái “ổ” êm êm xót xót đó, la lên: “Trời ơi! Ba ngủ gì kỳ vậy? Người ta nằm giữa hai lớp drap cho nó sạch sẽ hợp vệ sinh, bởi vì drap mình thay mình giặt. Chớ còn chui vào mền, nó tẩm trong đó chịu gì nổi!”
Vậy là từ đó, đầu hôm, ông chui vào hai lớp drap “cho con nó vui” (Kim thường đưa cha vào giường mỗi tối để chèn tấn mí couette thật kỹ sợ ông già thấm lạnh về khuya). Nhưng khi đã tắt đèn, ông chờ một lúc “coi động tịnh thế nào” rồi mới chun ra để mò mẫm dỡ mí mền chui vô... Rồi sáng nào dậy cũng phải... sắp xếp lại drap mền couette cho có vẻ “tự nhiên”, làm như ông đã ngủ giữa hai lớp drap, “đúng như lời con nó dặn”!
Ông đốt điếu thuốc rồi vào ngồi trong cầu tiêu. Cái cầu này, ông đã để ý từ hôm mới đến, nước cứ chảy tỏn tỏn. Chắc cái clapet đóng không kín. Mấy vụ này mà có thằng Rớt ở đây thì chỉ “mười lăm phút, nửa tiếng là xong ngay”. Thằng Rớt là con trai út của Chín Lúa, người phụ tá đắc lực của ông. Chín Lúa đến giúp việc cho ông từ thuở ông còn chạy nợ hốt hụi mỗi cuối tháng để trả lương dân thợ. Sau này, vì nghĩ đến cái công góp phần dựng nghiệp đó mà ông đã cắt đất cho vợ chồng Chín Lúa ra canh tác riêng, ông giúp nông-cụ cơ-giới và phân bón. Thay vì trồng cây ăn trái như các nhà vườn khác, Chín Lúa lại tiếp tục trồng cao-su.
Ông Hai thường nói đùa: “Tên là Lúa, dân Hậu Giang, vậy mà lại lập nghiệp ở miền Đông, và chuyên môn trồng cao su chớ không phải trồng lúa! Thiệt là tréo cẳng ngỗng!”
Cái hôm mà vợ Chín Lúa chuyển bụng thằng Rớt, Chín Lúa đi Sàigòn vắng. Hay tin, ông bèn cho tài xế lấy xe đưa bà bầu đi sanh. Nhưng đi nửa đường là thằng nhỏ đã lọt lòng! Vì vậy mới đặt tên nó là Rớt.
Về sau, để tỏ lòng biết ơn, vợ chồng Chín Lúa bắt thằng nhỏ gọi ông bà Hai bằng ông nội, bà nội. Lớn lên, thằng Rớt chỉ mê có máy-móc. Thứ gì nó cũng “dọc”. Máy nào ăn-banh, nó cũng lăn vào phụ mấy ông thợ cái mò ra “bịnh” để sửa. Nhờ vậy mà nó giỏi. Trong nhà, có cái gì hư cũng một tay nó sửa hết. Cho nên bà Hai mến nó lắm. Hồi bà Hai mãn phần, nó cũng chít khăn chịu tang, rồi dọn về ở với ông Hai “cho có ông có cháu”. Chiều chiều nó lấy Honda đèo “ông nội” nó xuống quán Tư Siêu nhậu thịt rừng.
Nó không ưa Việt Cộng. Nó nói với ông Hai:
“Tụi này xài không vô, nội à! Dốt thấy mẹ mà cứ làm tàng. Cho nên rớ tới đâu là hư tới đó, rồi chê trong Nam máy móc thiết bị không đúng tiêu chuẩn, bảo quản không có kế hoạch... Có khi còn nghi là có kẻ phản động muốn phá hoại nữa! Cho nên bác Tư, chú Hai Quới, bác Sáu Tài đều lần lần rút lui hết vì sợ vạ lây! Bỏ máy móc lại cho cha con tụi nó mò thắc họng. Thằng thủ trưởng có tới gặp con mấy lần nhưng con cho de luôn. Kệ bà nó! Muốn tới đâu thì tới!”
Tánh tình thằng Rớt rất bộc trực, lại ít học nên ăn nói “phang ngang bửa củi” chẳng cần dè-dặt nể nang gì hết. Vậy mà ông Hai lại thương nó ở chỗ đó. Ông thấy ở nó cái cốt cách của người dân quê, thật tự nhiên, “ăn sao nói vậy” nhưng xử sự “có thủy có chung, biết tình biết nghĩa”. Hồi Việt Cộng về tịch-thâu đồn điền (sở cao su của Chín Lúa cũng cùng chung một số phận) vợ chồng Chín Lúa và thằng Rớt chạy qua nhà định chở ông bà Hai đi trốn. Ông bà Hai không chịu đi. Thằng Rớt quyết định ở lại để bảo vệ “ông bà nội”.
Nó nói: “Mấy thằng này tiền hậu bất nhứt, khó tin lắm, nội! Hồi mới vô tuyên bố là không động tới cây kim sợi chỉ của nhân dân, nghe ngon lành. Vậy rồi sau đó hốt hết!”
Sau này, chính thằng Rớt khuyên “ông nội” nó đi Tây. Nó nói: “Nội già rồi. Bà đã mất. Mấy cô chú đều ở ngoại quốc hết. Nội còn tiếc cái gì nữa mà không chịu đi Tây phứt cho rồi? Ở lại đây, liệu nội có làm gì được nữa không? Nội đi đi! Để còn hưởng cái an-nhàn của tuổi già. Còn hơn ở lại mà ứa gan khi nhìn tụi nó cạo chết cây cau su, còn lên lớp dạy lại mình cách trồng cau su, cách lấy mủ!”
Đến khi ông đi lo giấy tờ để xin xuất cảnh, thằng Rớt lái Honda đưa ông lên lên xuống xuống thành phố. Và cuối cùng, trong lúc ngồi trên xe ca đưa ông lên phi trường, nó kề tai nói nhỏ: “Nội đi rồi, chắc con không ở lại đây lâu đâu. Con sẽ vô khu đi kháng chiến phục quốc”.
Ông bỗng nghe như xương sống của ông đứng thẳng lên, máu trong người chảy mạnh hơn, hơi thở thật sâu thật dài... Ông cầm lấy tay thằng Rớt, ráng sức già bóp thật mạnh. Chắc nó phải hiểu rằng ông đồng ý với nó. Chắc nó phải hiểu rằng ông đặt hết niềm tin vào nó và chúc nó thật nhiều can đảm để dấn thân. Nhưng chắc nó không thể hiểu rằng trong cái siết tay đó ông còn ngầm cảm ơn nó đã cho ông thấy rằng tinh thần bất khuất của người dân miền Nam vẫn còn được luân lưu tiếp nối. Ông nói với nó mà tưởng chừng như nói với chính mình: “Bây giờ, ông thấy chẳng còn gì thắc mắc. Ông đi được rồi đó, Rớt!”
Ở phi trường, trong lúc ông theo luồng người bước vào bên trong, ông nghe thằng Rớt nhắn vói, giọng thật to thật rõ: “Chừng yên nơi yên chỗ rồi, nội nhớ viết cho con ít chữ cho con yên lòng, nghe nội!”
Câu nói chẳng có gì hết nhưng lại làm ông xúc động đến rớt nước mắt. Ông có cảm tưởng như thằng “cháu nội” đó thật sự là ruột thịt của ông và nó đang gởi ông đến một nơi an toàn để rảnh tay “lo chuyện lớn”, chuyện mà người già như ông không còn đủ sức để gánh vác. Ông nhìn lại thấy thằng Rớt thật mạnh khỏe, thật hiên-ngang, nổi bật trong rừng người đưa tiễn. Ông gật gật đầu trả lời nó rồi tiếp tục bước vào trong mà có cảm tưởng như vừa nhìn thấy, ở phía sau, một chân trời đang mở rộng...
Ông Hai qua nhà tắm súc miệng rửa mặt, rồi vào nhà bếp kiếm cái gì bỏ bụng. Trên bàn ăn, Kim có dằn một miếng giấy chữ viết hơi to để ông đọc mà khỏi phải mang kiếng lão: “Hột gà để sẵn trong cái chảo nhỏ. Bánh mì trong four. Ba hâm cà phê sữa trong micro-ondes, nhớ vặn nút qua nấc thứ ba. Trưa, có cơm trong nồi điện, thịt kho rau sống trong frigo. Hôn ba.”
Sáng nào cũng có miếng giấy dặn-dò từa-tựa như vậy, nhứt là cái điểm “nấc thứ ba trên micro-ondes”. Bởi vì hồi mới qua, ông đã làm trào sữa ở trong đó! Mấy đứa con đã chỉ thật kỹ, “làm như vầy... vặn như vầy... rồi đợi nghe một tiếng keng là xong, nhưng coi chừng phỏng tay”. Ông đã áp dụng đúng mấy cái “như vầy như vầy”, nhưng khi nghe cái keng ông mở cánh cửa lò micro-ondes thì... sự đã rồi! Ông đã chùi lau rất kỹ vậy mà chiều về Kim cũng thấy. Vậy là mỗi sáng, có màn dặn-dò khi cần nấu sữa nhớ để nấc số 3...
Ông ngồi ăn trứng chiên mà bỗng nghe thèm tô bánh canh của con Tư Liếu, con gái Sáu Tài thợ máy ở đồn điền (Sáu Tài có “nghề tay trái” là đờn ghi-ta cổ nhạc, nên đặt tên con là thằng Xang, thằng Xừ, con Liếu, con Xê...). Tô bánh canh của con Liếu thơm phức, nước trong veo, sợi bánh tròn đều trắng phau phau không dai không bở, thịt heo vừa mềm xắt không mỏng không dầy. Đặc biệt là mỗi miếng đều có đủ thịt mỡ và da. Chỉ cần nhai vài cái là đủ thấy cái thi vị của cuộc sống nằm hết trong răng trong nướu!
Hàng bánh canh của con Liếu đặt nép dưới mái hiên của tiệm nước thằng Tỷ, người Việt gốc Hoa. Tiệm này không có bảng hiệu, nhưng vì nằm ngay dưới gốc cây điệp thật lớn nên người ta gọi là “quán Cây Điệp”. Nhưng riết rồi khách hàng chỉ gọi trổng bằng “Cây Điệp” hay “Thằng Tỷ” là hiểu ngay cái tiệm nước đó. Có lẽ tại vì chung quanh không còn cây điệp nào khác và chắc cũng không còn “thằng Tỷ” nào khác bán quán cà-phê trong cái tỉnh lỵ nhỏ xíu này!
Điểm đặc biệt là ở đây còn giữ nguyên nét “cổ điển” của tiệm cà phê: bàn gỗ vuông vuông đóng thô sơ, ghế đẩu mặt tròn, trên bàn có ống đũa bằng sành và hai chai bằng sành loại có vòi như bình trà, một đựng xì-dầu một dấm đỏ (Để phân biệt, thằng Tỷ có chấm một chấm sơn đỏ trên cái nút dẹp, cũng bằng sành, của chai dấm. Nhưng khách hàng không cần để ý tới điểm đó bởi vì đã có thói quen đưa vòi lên mũi hửi trước khi sử dụng). Cái bếp nằm ngay phía trước. Ở đó, nấu mì hủ-tiếu pha cà-phê bán thuốc lá và thâu tiền. Trên quầy có để hộp tăm xỉa răng và một hộp quẹt máy cột dính vào một cây đinh bằng sợi nhợ dài... để khách hàng đốt thuốc mà khỏi mang nó đi luôn! Hồi đó, ông Hai có cái thú dậy thật sớm lái xe xuống “Cây Điệp” uống cà-phê để nghe cái mùi tiệm nước nó đánh thức từ từ khứu giác và vị giác. Thật là đặc biệt, cái mùi tiệm nước. Mà phải là tiệm nước thuộc “loại cổ-điển” mới có cái mùi đó. Mùi ngây ngấy của bàn ghế gỗ thấm dầu mỡ lâu ngày mặc dù vẫn được lau tới lau lui.
Mùi béo ngậy của giò cháo quảy bánh tiêu vừa mới chiên xong để trong dĩa trên bàn.
Mùi nước lèo phất qua mỗi lần thằng Tỷ mở nấp để múc chan lên tô mì hay tô hủ-tiếu.
Và đặc biệt là mùi cà-phê mà tía thằng Tỷ lược bằng “dợt” (vợt) vải trong mấy cái siêu bằng sành da lán màu vàng sậm. Cà-phê do tía thằng Tỷ pha trộn và rang lấy theo “bí quyết gia truyền”, có phun rượu trắng và “áo” bưa Bretel, nên thơm một cách... mời mọc! Chen vào những thứ mùi đó, lâu lâu có mùi khói than trong bếp, nồng nồng cay cay...
Thật là thú vị “cái mùi tiệm nước” buổi sáng sớm, khi mặt trời chưa ló dạng, khi bên ngoài không khí còn ướt lạnh sương đêm. Cái mùi đó nghe “thật ấm”, làm cho hớp cà-phê đầu ngày càng thêm đậm đà...
Đối với ông Hai, cái mùi tiệm nước đó cũng mang nét quê hương như mùi đống un, mùi rơm mùi rạ, mùi bông lài bông bưởi bông cau... Những thứ mùi mà dù đi xa mấy cũng không bao giờ quên và dù thời gian cách biệt mấy cũng vẫn còn nhớ rõ. Làm như nó thấm ở đâu trong xương trong tủy... mà chỉ có trong kiếp lưu vong, con người mới nhận thấy rõ sự hiện diện của nó thôi.
Ông Hai thay đồ ấm rồi xuống đi bộ chậm chậm quanh hồ. Giờ này cũng vắng người. Trên khoảnh đất trống cạnh hồ, một bé gái tóc vàng cỡ tuổi thằng Tí đang chơi một mình với quả bóng to. Phía sau nó, trên một băng gỗ, ba bà người Pháp vừa đan áo vừa nói chuyện với nhau, trong nắng. Ông Hai dừng chân gần đó, đứng hút thuốc cạnh bờ nước nhìn bầy thiên nga trắng phau bơi trên mặt hồ nhẹ nhàng như những đám bông gòn bị gió đưa đi. Trời đã sang xuân nên cây cối quanh hồ trổ chồi non mươn mướt. Cỏ xanh được cắt xén kỹ, trải dài từ đồi nhỏ qua đồi to. Rải-rác dọc theo chân đồi là những khoảnh đất trồng bông đủ màu sắc. Mùi cỏ mới cắt thoang thoảng trong không khí, ông Hai hít một hơi dài sảng khoái.
Bỗng một vật gì chạm nhẹ vào chân ông. Nhìn xuống thì ra là quả bóng của con bé tóc vàng. Ông nhìn nó, nó cười với ông. Thấy thương quá! Ông bèn đá bóng về phía nó, nó vỗ tay nhảy lên vui mừng. Rồi chận bóng đá trở lại, nhưng vì còn vụng về nên bóng đi xéo xéo làm ông Hai phải chạy vài ba bước mới chận kịp. Thấy ông Hai chận được bóng, con bé lại vỗ tay thích chí. Vậy là ông Hai với nó đá qua đá lại một lúc. Bỗng con bé giao bóng lệch đi khá xa. Ông Hai cố sức chạy theo nhưng không kịp. Quả bóng văng luôn xuống hồ. Ông vừa thở hổn-hển vừa “bật” ra bằng tiếng Việt: “Đá như vậy, ông nội tao giờ cũng chận không kịp nữa!” Sực nhớ ra, ông quay về hướng nó, nói bằng tiếng Pháp: “Mày giao bóng xa quá mà!”.
Con nhỏ mếu-máo, rồi vừa khóc vừa chạy về mấy người đàn bà. Ông thấy nó chỉ ông và ông nghe rõ nó nói: “Thằng chệt già đó làm văng bóng của con xuống hồ rồi kìa!”.
Một bà đứng lên nhìn quả bóng đang bập-bềnh cách bờ hồ độ một thước rồi cau mày nhìn ông. Có lẽ bà ta thấy mái tóc bạc của ông Hai nên nét mặt hơi dịu lại. Tuy nhiên, bà cũng đi nhanh về phía ông, vừa chỉ chỏ quả bóng vừa to tiếng: “Ông làm gì quả bóng của con bé vậy? Ông đá nó xuống hồ, hả? Sao ông ác quá vậy? Hả? Hả? Rồi bây giờ lấy gì cho nó chơi Nó khóc kìa, ông thấy không?”
Đằng xa, con bé vừa dậm chân vừa khóc la: “Trả bóng lại đây! Trả đây! Ư...Ư...”
Ông Hai vừa ngạc nhiên vừa tức giận, nhưng cố giữ trầm tĩnh để phân trần: “ Không! Không phải tại tôi. Tại con bé đó chớ!”
Người đàn bà vẫn to tiếng: “Tại nó? Vô lý. Chính nó nói là ông đã làm văng quả bóng kia mà”.
Ông lắc đầu, chỉ tay về hướng con bé: “Nó đá quả bóng chớ phải tôi đá đâu! Nó nói láo đó!”
Bà ta vẫn gân gân: “Trẻ con tuổi đó mà nói láo à?”
Ông chưa biết phải nói làm sao thì hai bà kia đã dẫn con bé đến “tiếp sức” với bà thứ nhứt. Cả ba bà tranh nhau nói, tranh nhau lý-luận để đổ lỗi cho ông Hai. Còn con bé bây giờ đã ngồi bẹp xuống đất tiếp tục khóc la đòi bóng! Nghe to tiếng, ông làm vườn đang trồng bông gần đó chạy đến xem. Mấy người đàn bà lại tranh nhau phân trần cho ông làm vườn. Bây giờ câu chuyện đã trở thành như sau: ông Hai giành chơi bóng của con nhỏ rồi đá bóng xuống hồ để... trả thù!
Ông làm vườn phá lên cười: “Tôi xin lỗi. Mấy bà nói quá lời, đó! Làm gì có chuyện như vậy? Tôi biết ông đây mà”.
Rồi quay sang bắt tay ông Hai: “ Ông mạnh giỏi? Mấy lúc sau này sao không thấy ông đưa thằng Titi đi học?” (Ông ta gọi thằng Tí là “Titi”)
Ông Hai vui vẻ trả lời: “Cám ơn ông, tôi vẫn mạnh. Dạo này, mẹ nó đưa nó”.
Ông làm vườn “à” rồi quay sang mấy người đàn bà: “Ông đây ở cao ốc số 28. Ông thương trẻ con lắm. Tôi biết mà. Thôi các bà yên tâm. Để tôi vớt quả bóng cho”.
Mấy bà nói “vậy à” lấy lệ rồi làm ra vẻ bận lo dỗ về con nhỏ để khỏi phải chú ý đến ông Hai. Ông cám ơn ông làm vườn rồi chậm rãi đi về nhà bằng con đường tắt dẫn lên lưng chừng đồi. Ông nghe lòng nặng trĩu, và thèm chửi thề một tiếng thật lớn!
Vào nhà, ông lấy rượu chát uống ực một ly. Ông rất thích rượu chát. Ngày xưa, lúc nào trong nhà cũng có rượu chát. Bây giờ ở Pháp, các con mua cho ông loại Chateauneuf du Pape là loại mà ông thích nhứt. Ngày nào ông cũng nhâm-nhi mấy lần, kể cả khi ăn điểm tâm. Ông thường nói:“Rượu chát, phải nhìn màu nâu đỏ của nó gợn lên trong ly, phải hít nhẹ mùi thơm của nó khi đặt vành ly lên môi. Chừng đó mới hớp một hớp, ngậm một chút để nghe chất rượu tròn lên trong miệng rồi mới nuốt từ từ...” Vậy mà bây giờ, ông ực một ly giống như uống nước lạnh! Để thấy “thiệt là bực mình biết bao nhiêu”!
Qua phòng khách, ông đốt điếu thuốc rồi ngồi bập liên miên. Phải chi thằng Tí đừng về nội, giờ này nó ở trường, giờ này ông đã đến thăm nó... thì đâu có chuyện gì. Phải chi ông còn đưa rước thằng Tí như dạo trước thì ông đâu cần đi lang bang... Phải chi “con Kim nó nói thiệt để mình biết tại sao nó không để mình đưa rước thằng Tí”... thì ông đâu có thắc-mắc, bởi thắc-mắc nên cứ muốn đi vòng vòng... Phải chi hồi còn “vàng son”, bay qua đây tậu một villa to cho các con, có đất rộng vườn to... thì bây giờ ông đâu gặp chuyện bực mình ở nơi công cộng... Ờ... mà phải chi miền Nam đừng bị Việt Cộng chiếm đoạt... thì ông đâu trắng tay để phải lưu vong như vầy... Phải chi... Phải chi... Ông Hai thở dài, dụi điếu thuốc rồi đưa hai tay vuốt tóc như muốn phủi xuống những cái “phải chi” đang đè nặng trên đầu. Ông nghe ở kẽ mấy ngón tay dính vài sợi tóc. Đưa ra trước mặt, nheo mắt nhìn: sợi tóc nào cũng trắng phau như cước.
* * *
Đêm đó, sau khi đưa cha vào giường nằm giữa hai lớp drap, Kim vừa tấn mí couette vừa hỏi: - Ba có đồ giặt không?
- Có. Cái quần với cái áo sơ-mi máng trên cửa đó, con.
Kim cầm lấy quần áo thọc tay vào mấy túi để coi “ông già có để quên gì trong đó không”. Từ trong túi quần, Kim móc ra một cái đồng hồ đeo tay cũ kỹ.
Ngạc nhiên, Kim hỏi: - Ủa, Đồng hồ nào đây?
- Đồng hồ của ba, à...
- Còn cái đồng hồ Seiko điện tử mà thằng Út mua tặng ba đâu rồi?
Ông Hai nghiêng đầu về phía cái bàn con đặt cạnh đầu giường: - Đó! Nó nằm cạnh cái đồng hồ reo, đó. Ba vẫn đeo nó chớ!
- Vậy! Còn cái này?
Ông Hai ngập-ngừng một lúc: - Ờ... thì... ba giữ nó làm kỹ niệm.
Kim cầm đồng hồ ngấm nghía rồi cau mày: - Ủa! Đồng hồ gì mà chạy kỳ vậy? Bây giờ mà nó chỉ 5 giờ!
- Giờ Việt Nam đó con.
Kim phì cười: - Ở bên Pháp mà ba còn giữ giờ Việt Nam làm gì?
- Để... nhớ...
Tiếng “nhớ” nghẹn ngang ở cổ. Mặt ông Hai bỗng nhăn lại. Ông nhắm nghiền mắt để kềm cảm-xúc. Trong một khoảnh-khắc, bao nhiêu hình ảnh hiện về trong đầu ông thật nhanh, chớp tắt không thứ-tự lớp-lang: bà Hai, cái nhà, sở cao-su, tiệm nước thằng Tỷ, con nhỏ tóc vàng đòi bóng, thằng Tí đứng sau hàng rào lưới kẽm, thằng Rớt tiển ông ở phi-trường...
Một lúc sau, ông mở mắt nhìn con gái, giọng buồn vô hạn: - Ba bỏ xứ ba đi, ba chẳng còn gì để đem theo hết. Chỉ có cái đồng hồ đó là còn giữ được chút gì của Việt Nam, lâu lâu lấy ra dòm coi mấy giờ ở bên đó. Để còn có cái gì nó nhắc nhở. Và để thấy làm như mình vẫn chưa cắt lìa cuống rún đối với quê hương. Con hiểu không?
Kim cảm động nhìn cha. Mái tóc trắng càng quá trắng trên nền áo gối màu xanh sậm. Bao nhiêu nếp nhăn trên mặt trông thật rõ nét vì niềm xúc động dâng lên. Kim thấy thương cha vô cùng. Cô đem cái đồng hồ cũ của cha đến đặt một cách trang trọng cạnh đồng hồ Seiko, rồi cuối xuống vừa hôn lên trán cha vừa nói: - Ba đừng buồn. Ở đây còn có tụi con, còn có thằng Tí...
Ông Hai xẳng giọng: - Thằng Tí! Thằng Tí! Có mỗi chuyện đưa rước nó đi mẫu giáo mà con còn giành thì lấy gì biểu ba vui đây?
Kim quỳ xuống cạnh giường, nhìn cha một lúc rồi nói: - Chừng thằng Tí đi nội về, con sẽ giao nó lại cho ba đưa rước.
Kim gật gật đầu nghiêm giọng: - Nhưng mà với điều kiện là ba đừng cho nó uống rượu và ba phải bớt hút thuốc đi. Trong trường, người ta than phiền là sáng nào thằng nhỏ vào đó cũng nghe mồm miệng hôi rượu và quần áo tẩm mùi thuốc lá. Vậy, ba có hứa không?
Ông Hai nhớ lại sáng nào khi ông uống rượu chát ông cũng cho thằng Tí hớp một hớp giống như khi ông ăn vặt ông thường đút cho nó vài miếng. Thằng nhỏ khoái lắm, nhảy tưng tưng. Hình ảnh đó thật là dễ thương. Bây giờ thì... thôi! Điều quan trọng là được tiếp tục đưa rước thằng cháu ngoại.
Nghĩ như vậy nên ông nheo mắt mỉm cười: - Hứa chớ sao không, con.
Bỗng cái cười của ông méo đi. Ông chớp chớp nhanh mắt. Không kịp rồi! Hai giọt nước mắt đã lăn xuống hai bên thái dương.
Kim ngạc nhiên: - Ủa! Sao ba lại khóc?
- Ờ... già rồi, kỳ lắm. Buồn thì khóc đã đành. Mà vui cũng bắt chảy nước mắt nữa con! Ba đang vui lắm đó chớ!
Kim phì cười, cuối xuống hôn cha rồi đứng lên lấy đồ giặt bước ra. Đến ngưỡng cửa, Kim quay nhìn cha mà nghe tình thương càng dào-dạt trong lòng. Kim đưa tay tắt đèn rồi đóng cửa lại nhè nhẹ. Trong bóng tối, ông Hai tự nhủ thầm: “Rồi mình cũng phải tìm cách cai thuốc lá nữa chớ! Cho con nó vui...”
Đêm đó, ông Hai ngủ thật ngon, quên luôn rằng mình đang nằm giữa hai lớp drap chớ không có chui vào hai lớp mền như thường lệ!
Tiểu Tử
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23731 |
![]() ![]() ![]() |
Tri Ân Vòng Tay Nhân Ái Của Canada, Cảm Ơn Cuộc Đời - Thuyền nhân Nguyễn Thượng Chánh và Nguyễn Ngọc Lan![]()
Ngày 22/6/1980 chuyến bay charter Wardair cất cánh từ Bangkok đã đưa trên 300 thuyền nhân Việt Nam qua định cư tại Canada.
Sau khi ghé Nhật Bản (căn cứ Guam hay Okinawa?) để
lấy thêm nhiên liệu, phi cơ tiếp tục bay đến Canada. Đáp xuống phi
trường Edmonton (Alberta) một giờ, xong bay tiếp đến phi trường Mirabel,
phía Bắc Tp Montreal.
Tới rồi!
Cuộc đời trước mặt
Một cảm giác mừng vui, lo âu, bồi hồi, hoang mang, xúc động không thể nào tả hết cho được.
Trên
mười chiếc xe bus quân sự loại lớn đưa hết người tị nạn mới đến về tạm
trú tại căn cứ quân sự Longue Pointe nằm ngay trên đường
Hochelaga,Montreal. Đây là một Immigration processing center hay trung tâm làm thủ tục định cư.
Gia đình người gõ thuộc diện “mồ côi” nên được hội
nhà thờ bảo trợ. Một tuần sau, thì được đưa ra phi trường Dorval (nay là
phi trường Trudeau) để đi định cư tại Montague, một thành phố nhỏ với
2000 dân cư thuộc tỉnh bang PEI (Prince Edward Island), duyên hải phía
Đông Canada.
Nhà thờ Công giáo St Mary’s
Parish và nhà thờ Tin Lành United Hillcrest Church tại Montague đã dang
rộng vòng tay nhân ái đứng ra bảo trợ gia đình tác giả trong vòng một
năm..
Tại
nơi đây, người gõ đi làm lặt vặt như hái thuốc lá, hái dâu Tây và làm
công nhân lao động trong nhà máy biến chế thủy sản GeorgeTown Seafoods,
nhưng chỉ được 3 tháng thì bị cho nghỉ việc vì mùa đông nhà máy đóng
cửa.
Tháng 3 năm 1981, gia đình quyết định dọn về Montreal để lập nghiệp.
Trong
một hai năm đầu, hai vợ chồng đi làm trong hãng xưởng với lương tối
thiểu 3.75$/giờ. Người gõ làm cho một hãng sản xuất phụ tùng điện và
plastic tại Ville Mont Royal, Montreal. Nói cho ngon vậy thôi, chớ công
việc thật sự là travail genéral, anh cai sai biểu mình làm cái gì thì mình làm cái đó.
Bà nhà thì đi làm cho một xưởng sản xuất nữ trang rẻ tiền tại Ville Saint Laurent, gần phi trường Montreal.
Sau đó thì hai vợ chồng tìm cách đi học lại nghề cũ.
Cảnh đời phiêu bạt
Nhớ hồi năm 1980 lúc còn chân ướt chân ráo mới đến định cư tại cái xứ đất lạnh tình nồng nầy…
Mình thấy cái gì mình cũng ham hết.
Ôi thôi! nào là bơ, nào là sữa, nào là kẹo, bánh, thịt thà đủ thứ hết…sao mà nó ê hề nhiều quá xá cỡ thợ mộc.
Để
bù đắp lại những ngày thèm khát thiếu thốn ngày xưa lúc miền Nam vừa
đổi chủ, hầu như mỗi cuối tuần mình đều bày đặt nhậu nhẹt lu bù với anh
em trong nhà hoặc với bạn bè.
![]()
Sống Khổ Cực Nhưng Tự Do-Và Có Tương Lai - MONTREAL 81-85
Tiệc tùng làm ngay trên sàn nhà nơi “phòng khách” hoặc cạnh bên nhà bếp vì toàn là dân mới qua, nghèo rớt mồng tơi.
Đi
làm lương tối thiểu 3.75$/giờ. Ai cũng đều ở apt mướn hết. Đâu có đứa
nào có nhà có cửa riêng đâu. Rồi còn phải tằn tiện, dành dụm để mỗi 6-7
tháng có thể gởi chút đỉnh giúp đỡ gia đình bên Việt Nam.
Đồ
xài trong nhà toàn là đồ nhà thờ cho, mua rẻ từ Salvation Army, hoặc
lượm ngoài đường đem về sửa lại qua loa rổi xài đỡ. Đó là thời của dân
tị nạn boat people.
Những năm sau nầy thì bà con mình qua theo diện đoàn tụ ODP thì khỏe hơn trăm bề.
Nhưng hồi đó lại vui.
Vui vì mình biết rằng mình được TỰ DO và con cái mình sẽ có tương lai.
Từ vài năm qua, người Viêt Nam qua Canada du lịch hay
du học quá ư là dễ dàng như đi chợ vậy. Theo Chánh phủ Canada cho biết,
riêng năm 2012 có trên 3400 du sinh Việt Nam qua học tại Canada trong
thời gian 6 tháng hay cao hơn…Và nhớ là cha mẹ du sinh phải có thật
nhiều tiền…và thuộc giai cấp COCC.
En 2012, plus de 3400 étudiants vietnamiens
étudiaient au Canada (pour une période de 6 mois ou plus), une
augmentation de 15.9% par rapport à 2011, faisant du Vietnam la
12ème source d’étudiants internationaux au Canada.
Ăn nhậu cuối tuần
Thịt
heo mua cả ký, để nguyên da và mỡ cho nó béo, bỏ vô nồi luộc chín, đem
ra xắt mỏng cuốn bánh tráng rau sống chấm mắm nêm hay mắm ruốc ăn sao mà
thấy nó ngon quá trời quá đất.
Bia thì mua cả thùng cả két, uống hết chai nầy thì khui chai khác.
Thuốc hút thì mỗi ngày một gói Export A, toàn là thứ nặng không hà, rẻ mạt, hút thả cửa.
Cũng may cho cái chuyện ghiền thuốc lá.
Nhớ hồi năm 81, lúc đi học lại Thú y tại Đại học
Montreal, sáng vô giảng đường, trong khi thầy bà đang giảng ào ào phía
trên, tự nhiên thình lình mình bị ngứa cổ kềm hổng nổi nên phải sủa rống
liên hồi như súng đại liên khạt đạn khiến thiên hạ đều phải im hết và
quay đầu lại nhìn mình có vẻ khó chịu.
Quê quá trời, mất mặt thiếu điều muốn độn thổ luôn, tức mình bỏ thuốc luôn từ dạo đó. Thế mà hay.
Chè đậu nước cốt dừa, bánh trái, đồ ngọt nữa…lúc nào cũng đầy ấp cả tủ lạnh, ăn mệt nghỉ.
Đôi
khi cũng đổi món cho đỡ ngán, khi thì thịt bò nhúng giấm, khi thì đổ
bánh xèo hay chiên chả giò rồi hú bạn bè lại nhà làm một chầu càng hong
ai nấy đều ngất ngư hết.
Có khi thì cháo vịt, có lúc thì cháo lòng.
Còn
muốn cho tiện cho lẹ thì xẹt xuống phố Tàu mua bậy một con vịt quay,
con gà hấp xì dầu hoặc đôi ba kí thịt heo quay và phá lấu đem về thù tạc
với nhau. Hồi đó, mình khoái nhứt là mấy cái cẳng heo sữa quay, chặt
khúc nho nhỏ, vừa cạp vừa gặm uống la ve chơi đã lắm.
Tuần này nhậu ở nhà mình, tuần sau thì làm ở nhà người khác.
Mùa
hè thì làm thịt nướng barbecue, thịt gà hoặc sườn ướp sả và ngũ vị
hương ngon ơi là ngon, nướng lên thơm phức cả làng cả xóm. Toàn là
chuyện đớp hít không hà.
Mà cũng ngộ, hồi đó mình ăn uống thả cửa, thả giàn,
chẳng cần e dè kiêng cữ gì hết như bây giờ. Cholesterol, mỡ dầu, đường,
muối mình coi như nơ pa chẳng làm cho mình lo âu run sợ chút nào hết.Còn
ba cái chuyện tập thể dục thể thao cho có sức khoẻ thì mình đâu có huỡn
, có ý thức mà làm như bây giờ…
Mà mình cũng chẳng thèm quan tâm đến ba cái vụ lẻ tẻ đó làm chi cho mất công.
Mình mới có 40 tuổi hà, chưa đến nỗi nào gọi là già
cả. Mình đang khỏe, còn phong độ, còn sung, máy còn chạy quá ngon lành,
bình còn đầy ấp, khỏi cần sạc điện sạc pin,.. tội gì mà không hưởng thụ
chút đỉnh cho nó sướng tấm thân.
Không ăn để chết thành ma đói hay sao?
Mình nghĩ rằng ba cái chuyện bệnh hoạn là chuyện của
người ta, của mấy ông già bà cả chớ đâu phải là chuyện của mình. Lo chi
cho thêm mệt.
Ngày nay nghĩ lại thấy hết hồn hết vía...Mình năm nay cũng nằm trong nhóm lão ông rồi.
Xây dựng tương lai
Rồi thì hai vợ chồng phải đi học lại để mong có được một tương lai tươi sáng hơn, chớ hổng suốt đời làm “lao động chân tay” hoài hay sao?.
Cũng
may là nhờ ở cái xứ tuyết giá này, nhà nước có chánh sách nâng đỡ sinh
viên nghèo khó cho nên mỗi năm mình được cấp cho vài xấp gọi là học
bổng, rồi còn được quyền vay mượn (loan) nhà băng thêm chút đỉnh nữa đủ để gia đình sống cầm hơi.
Khi ra trường nhớ trả lại và đóng thuế luôn thể cho tiện...
Trong bốn năm dài đăng đẳng phải sống trong sự căng
thẳng, thiếu thốn, nhọc nhằn, khó khăn, phập phòng, thử thách đủ mọi bề,
trần ai lai khổ, lo sợ hổng biết mình học có nổi hay không.
Phân khoa Thú Y thuộc Université de Montréal nằm ngay
tại tại thành phố St Hyacinthe cách Montreal 45 phút xe. Hồi đó mình
đâu có tiền mà mua xe để đi học nên bắt buộc phải mướn phòng trọ
(30$/tuần) ở luôn dưới đó những ngày trong tuần. Chỉ về Montreal mỗi
cuối tuần mà thôi. Thứ sáu, sau giờ học là lúc mình náo nức nhứt để mong
được gặp mặt lại vợ con…nhớ lắm.
Chiều chúa nhựt má sắp nhỏ cụ bị cho mình mấy lon
thịt kho, có thêm vài cái hột gà để mình cầm cự trong suốt một tuần ở
dưới đó. Có khi đổi món chiên sẵn cho 5-6 miếng sườn ướp sả thơm phức,
đủ ăn trong 5 ngày. Bả còn nhét thêm cho mình năm sáu gói mì hành Ramen
để phòng hờ lỡ có kiến cắn bụng giữa khuya. Rồi cũng không quên dặn dò
đủ thứ... trước khi khép cửa lại. Mình bước lùi ra mà trong lòng buồn
man mác…
Sau đó thì lấy xe bus đầu đường, ra Métro Longueuil,
rồi lại lấy xe bus khác để xuống thành phố St Hyacinthe để ngủ cho khỏe,
sáng còn cuốc bộ đi học sớm nữa.
Nhưng, mình còn khỏe hơn vợ mình rất nhiều.
Bả ở Montreal rất cực vì vừa đi học, và đồng thời
cũng vừa phải lo cho hai đứa nhỏ nữa. Tụi nó đứa thì đi nhà trẻ, đứa thì
đi học mẫu giáo… Làm sao đây?
Đó là một vấn đề hết sức nan giải cho tụi nầy. Nghĩ lại lúc hai vợ chồng còn đi học sao ớn quá trời quá đất.
Trong suốt bốn năm dài đăng đẳng, bà xã mình thường nói giỡn là bả có chồng bán thời gian part time mà.
Bả vừa đi học lại ngành dược tại Université de
Montreal mà cũng còn phải chăm lo cho chồng và quán xuyến luôn hai đứa
con nhỏ nữa. Chuyện học hành cũng đâu phải đơn giản vì ngày xưa khác với
mình, bả học chương trình Việt, vốn liếng tiếng Tây tiếng U phần lớn đã
trả lại cho thầy bên VN.
Tiền
học bổng và tiền vay mượn nhà băng cũng không là
bao nhiêu, chật vật lắm, nhưng nhờ vợ mình khéo quản lý chi tiêu, cần
kiệm tối đa nên cũng qua cầu được…Chỉ có người gõ nhờ theo học toàn thời
gian ( full time) nên được cấp học bổng và còn có quyền vay mượn thêm
tiền (loan) không lãi. Vợ mình thì học bán thời gia (part time).
Cuối cùng nhờ Trời Phật phù hộ, nhờ phước đức ông bà, hay nhờ may mắn gì đó nên rồi cũng xong.
Đúng là hay không bằng hên.
Hú hồn hú vía! Hai vợ chồng đều trở lại nghề cũ của mình ngày xưa bên nhà.
Làm lại cuộc đời lúc 42 tuổi
Mình nhảy vô chánh phủ làm nghề khám thịt cho chắc ăn và khỏi sợ bị mất việc bất tử.
Khi ra trường vì cần có việc làm ngay để nuôi vợ con nên mình chấp nhận đi xa.
Tháng 6,1985 vừa lãnh bằng Bs Thú y xong hồi trưa thì
6.30 pm chiều hôm đó tôi lấy xe lửa Via Rail dông tuốt xuống Moncton
thuộc tỉnh bang New Brunswick, cách Montreal gần 1000 km để trình diện
Regional Office Agriculture Canada vùng Maritime. Họ cho hai tuần để làm
orientation và thu xếp, ổn định nơi ăn chốn ở. Xong xuôi mình mới quay về Montreal rước vợ con xuống.
Thế là bắt đầu làm lại cuộc đời vào năm 1985, lúc đúng 42 tuổi.
Rồi phải học lái xe, rồi phải gấp rút mua một chiếc
xế hộp, mới có thể đi làm được. Vấn đề là từ nhỏ lớn tui chưa từng cầm
volant lần nào cả. Học lấy bằng thì dễ nhưng khi chính mình cầm tay lái
thật sự thì khác. Lo quá.
Lấy cái xe
Toyota Tercel Hatchback mới toanh về nhà dượt sơ sơ quanh xóm chừng đâu
hai ba bữa thì phải lái đi làm xa. Phải đối đầu với đường cao tốc
expressway, với xa lộ và bắt buộc chạy cho lẹ, cho nhanh như mọi người.
Thấy xe người ta chạy ào ào hai bên, sợ lắm thiếu điều...
Trong hai năm đầu làm việc, mình lôi vợ con đi theo trên bước đường sương gió vùng duyên hải phía Đông Canada.
Hồi những năm 85-86, người Việt định cư ít lắm. Mua
nước mắm hay đồ ăn Á Đông phải lái xe qua tận thành phố Halifax, thủ phủ
của tỉnh bang Nova Scotia kế cận, cách nhà 200km mới có, bất tiện quá.
Sau
hai năm, mình làm đơn xin đổi về tỉnh bang Québec nơi có nhiều đồng
hương VN để thấy bớt lẻ loi hơn và nhứt là tiện cho bà xã dễ hành nghề
cũng như thuận lợi cho con cái học hành sau nầy. Mà đúng vậy.
Tại
Quebec mình làm bất kể giờ giấc để gom bạc cắc. Thường, mùa hè cũng như
mùa đông, 5.30 sáng là phải ra khỏi nhà vì 6.30 là nhà máy khởi sự cho
chạy khi đã có sự hiện diện của thú y sĩ. Đó là luật bắt buộc. Lái xe
trong mùa đông, trong mùa bão tuyết là nỗi ám ảnh triền miên của tôi cho
mãi tới ngày hôm nay. Chuyện đường trơn, xe tự nhiên lủi vô cột đèn hay
quay ngược đầu bê tuốt xuống vệ đường mình cũng đã từng nếm mùi đôi lần
rồi. Sợ lắm.
Chỗ nào hơi hắc ám và xa lắc xa lơ, inspector da trắng chê là có tui
nhận liền. Chổ nào cần tui thì tui có, chổ nào khó là có tui đây.
Ban ngày làm tới 4 giờ. Ca chiều lỡ thiếu người, tui vô long te ở lại
làm luôn để có tiền “ô quờ thêm” overtime Đôi khi thứ bảy cuối tuần, hay
trúng nhầm ngày lễ nhà máy làm thêm ca bất thường, tui cũng nhận luôn.
No problem.
Mấy thằng bạn da trắng từ chối đi làm vì weekend phải ở nhà hú hí với vợ
với con. Tui nhảy vào vô lông te thế chỗ, xếp tui mừng lắm, cám ơn tui
lia lịa mẹt xi bổ cu đốc tơ Chánh.
Còn
tui thì cũng mừng thầm vì mình có cơ hội kiếm thêm chút cháo để dành lo
tương lai và hậu sự... Có cái hơi đau là tiền phụ trội “ô quờ thêm” đều
bị trừ thuế mất toi hết 50%. Thôi cũng được. Ít còn hơn không đúng với
câu Less is more.
Trong
23 năm ngụp lặn trong nghề đâm heo thuốc chó tại xứ người, tôi đã đặt
chân vào hầu hết các nhà sát sanh tại khắp các tỉnh bang Quebec, New
Brunswick và Nova Scotia của Canada. Làm việc ngay tuyến đầu của ngành
thịt, Hằng ngày và hằng đêm (nhà máy chạy cả hai ca) mình phải chứng
kiến biết bao nhiêu là cảnh máu đổ thịt rơi, cùng những âm thanh la rống
ghê rợn hãi hùng của các sanh linh khốn khổ trước giờ bị hành quyết.
Thủ phạm thật sự của tội lỗi và độc ác trên cõi đời nầy vẫn là từ con người có tư duy và lý trí.
Tôi là nhân chứng của bao nhiêu sự đổi thay, thăng trầm, hỉ nộ ái ố trong kỹ nghệ thực phẩm nói chung và kỹ nghệ thịt nói riêng.
Bởi lý do nầy, những đề tài tôi viết thường xoáy
quanh những mối ưu tư của bà con mình trong vấn đề dinh dưỡng sức khỏe,
vệ sinh phòng bệnh thịt thà cá mắm rau cải, v.v…Khi tôi viết bài đăng
báo, tôi thường hay tham khảo về chuyên môn với bạn bè đồng nghiệp (da
trắng) và cấp chỉ huy nên họ biết tôi có cái đam mê lạ đời nầy.
Khi Bác Sĩ Thú Y Gõ "Báo Chùa" Nguyễn Thượng Chánh Bs thú Y
BOAT PEOPLE -LAN CHÂU NGUYEN
![]()
Lên voi xuống chó
Nhớ hồi những năm 78-79, lúc cuộc đời hai đứa đang
trên đà xuống dốc thảm thương vì những chuyến vượt biên bất thành, hết
hai lần nằm khám, thì từ ngôi vị một chủ nhân và đúng theo chủ trương
lao động là vinh quang, lang thang là chết đói hay nói là ủ tờ của nhà
nước, bà xã tui đã can đảm nhảy phóc xuống một cách tỉnh bơ làm một cô
bán xôi, bán cà phê (hổng phải cà phê ôm đâu) trên vỉa hè sát bên tiệm
thuốc Tây cũ của mình mà lúc bấy giờ thì nó đã được người khác quản lý
rồi.
Cũng có nhiều lúc, phường khóm cũng gởi tụi cách mạng
30 đến dò la tư tưởng, nói xa nói gần chẳng hạn như sao chị là dược sĩ
mà hổng chịu xin đi làm trong ngành nghề của mình mà lại đi bán cà phê
làm chi cho phí cuộc đời.
Đó, dân miền Nam
là như thế đó, hoàn cảnh nào cũng sống được hết, hổng cần phải cầu cạnh
xin xỏ ai hết. Lao động trí óc làm được, lúc cần thì lao động chân tay
cũng coi như pha chẳng nhầm nhò gì hết.
Nghề bán xôi cũng được bả đem theo qua Thái Lan trong thời gian tạm cư tại trại tị nạn Laem Sing.
Sau nầy có mấy người bạn đã gặp lại tụi nầy ở bên
đây và họ có nhắc lại chuyện hồi năm xửa năm xưa lúc còn ở trại tị nạn,
mỗi sáng họ mua xôi vì tội nghiệp, thương hại và cũng vì muốn ủng hộ
giúp đỡ vợ chồng tụi nầy, “chớ xôi của chị nấu ăn sao nhão nhoẹt, có khi
thì khen khét, có khi thì xừng xực sống nhăn, ăn vừa ngán ngược, vừa
nuốt không vô chán thấy mẹ”.
Mà họ nói
cũng đúng thôi, vì có đủ củi lửa đâu mà nấu cho chín cho ngon được. Có
khi đang nấu ngoài sân thì trời lại trút mưa xuống bất tử, củi lửa ướt
mẹ nó hết, khiên nồi vô ra ba lần bốn lược thì làm sao mà xôi chín cho
được.
Khi lên đến trại Thái Lan thì mình không còn một chỉ,
hay một đồng xu dính túi vì bị mấy thằng hải tặc chiếu cố quá kỹ lúc
còn lênh đênh ngoài biển.
Nhờ bà xã chịu
khó tảo tần như thế nên mỗi ngày mình mới có chút tiền còm để mua vài
thùng nước tắm cho hai đứa nhỏ, cũng như để mình mới có thể ngồi quán
cóc bà Nòi gần cổng trại mà nhâm nhi ly cà phê đắng, phì phà điếu Samit
và dệt mộng cho tương lai…
Gõ cho đời thêm vui ![]()
Nói rõ là tôi không phải là một nhà văn hay một nhà báo gì cả. Tôi chỉ là một nhà gõ mà thôi.
Tôi
gõ chùa, không vì tiền nhưng gõ cho vui, để tự mình trau dồi thêm kiến
thức, để tự học hỏi, để giải khuây, để khỏi nghĩ quẩn, để khỏi bị bệnh
Alzeihmer, để thoát ly và cũng để giảm bớt stress trong cuộc sống,
v.v...
Thế cho nên tôi gõ cho người nhưng
thật sự ra là tôi cũng đồng thời gõ cho chính tôi, cho cuộc sống của
mình được thêm phần ý nghĩa hơn.
Tôi rất vui sướng vì ít nhứt mình cũng có được tự do làm một cái gì mình ưa thích.
Phục vụ cộng đồng VIỆT NAM hải ngoại-
Nhờ những bài viết cho cộng đồng VN tại Canada phổ
biến kiến thức vệ sinh ăn uống, đồng thời cũng là sợi dây liên lạc của
cơ quan Canadian Food Inspection Agency (CFIA) với cộng đồng VN, GS
Nguyễn Thượng Chánh (K5) được trao tặng giải thưởng Presidential Prize,
Community Services tai cơ quan Canadian Food Inspection Agency (CFIA)
tai Ottawa, Nov 2000..
![]()
President's National Awards ( Ottawa Nov, 2000)
Dr. Thuong Chanh Nguyen
Quebec Area, Operations Branch
Dr. Nguyen has done a considerable amount of work
with the Vietnamese community in Quebec to increase the community's
awareness of food safety and consumer protection issues. Dr. Nguyen has
written a number of articles directed at the Vietnamese community, which
have appeared in Quebec publications and pertain to issues such as
hamburger disease and other food-borne illnesses and the important of
respecting federal laws to protect Canada's natural resources and
agri-food industry.
He has received letters of congratulation from his
superiors for his role in educating this community and increasing its
awareness of the role the CFIA plays in protecting consumers.
Dr. Nguyen's work has enabled the CFIA to reach out
and educate the Vietnamese people of Quebec, increasing their awareness
of important health issues.
![]() ![]()
The Queen Elizabeth II Golden Jubilee Medal 2002
![]()
DS Ngọc Lan nghỉ hưu 2009
![]()
Nghỉ hưu 2008-Một giai đoạn mới trong cuộc đời.
Trong đời sống của mọi người, đến một lúc nào đó
chúng ta cũng phải ngưng làm việc để nghỉ hưu. Phải nghỉ lúc chúng ta
còn chút ít sức khỏe để có thể đi đây đi đó.
Rồi tối ngày, đi vô đi ra tà tà...chờ lệnh bà, cũng như chờ đến ngày hẹn để đi khám bác sĩ thử máu, thử tim, thử đủ thứ…
Biết chừng đâu, cũng có thể là chờ ngày mình
phải...Sayonara Good Bye đi luôn.Tôi cũng như mọi người, cũng sợ bệnh sợ
chết như như ai vậy.
Một số bạn bè đã lác đác bỏ đi rồi. Những người còn
lại thì có người thì lo thiền, có người thì lo tu, khiến cho tôi cũng
phải bắt đầu suy nghĩ.
Nhưng, tôi biết rằng căn duyên của mình chưa tới. Biết sao bây giờ?
Hai vợ chồng đã gác kiếm từ quan từ 9-10 năm nay rồi.
Đây là một giai đoạn mới vô cùng quan trọng trong cuộc đời của mỗi người.
![]()
Cám ơn hai chữ Tự Do, cám ơn cuộc đời
Mới đây mà mình đã phải rời bỏ quê hương được 35 năm rồi...(2015)
35 năm thật sự sống trong không khí tự do trên một
đất nước rộng lớn và hòa bình, một chốn tạm dung cho hằng triệu người
khốn khổ đến từ khắp các miền đau thương trên thế giới.
Canada, tuyết lạnh mà tình nồng. Đất lành thì chim đậu.
Như hằng triệu người Việt Nam phải liều chết ra đi để
tìm tự do, mình cũng phải cam phận đánh đổi nhiều mất mát, tù đày, đắng
cay, bầm dập, v.v...trước khi đến được miền đất hứa.
Cũng như hằng triệu gia đình VN, mình vượt biên vì hai chữ Tự Do!
Mình xót xa phải bỏ lại tất cả, bỏ lại người thân, bỏ
lại mồ mã tổ tiên, bỏ lại tài sản, sự nghiệp, bỏ lại những kỷ niệm vui
buồn, và nhất là phải bỏ lại những gì thân thương và thiêng liêng nhất:
Đó chính là Quê Hương Việt Nam Yêu Dấu.
Mình không ân hận một chút nào cả, nhưng ngược lại
nhờ những năm tháng bị kẹt lại bên nhà mình mới hiểu được thế nào là...
thiên đường cộng sản (sic).
Tại miền đất tự do, cũng như tất cả đồng bào khác,
mình đã phải nhẫn nại, phải cố gắng chịu đựng nhiều nhọc nhằn và khó
khăn trong sự hội nhập, phải phấn đấu rất cam go để vươn lên hầu có được
một chỗ đứng khiêm nhường như ngày hôm nay.
Miền đất hứa rất bao dung. Canada đã thật sự mở rộng
vòng tay nhân ái, đón nhận và đã giúp đỡ tất cả mọi người tị nạn, di dân
khốn khổ, để họ có thể làm lại cuộc đời trong tự do, bình đẳng và nhất
là được quyền sống thật sự như một con người.
Cũng như tất cả các bậc cha mẹ di dân thuộc thế hệ
thứ nhứt, mình rất sung sướng và rất tự hào là đầu cầu vững chắc cho
những thế hệ con cháu nối tiếp tiến lên.
Và nay, thế hệ thứ hai và thứ ba cũng đang vững bước tiếp nối thế hệ cha, ông trong niềm lạc quan và hy vọng tràn đầy.
Mong rằng chúng sẽ không bao giờ quên ơn Canada, quê
hương thứ hai đã cưu mang, tận tình giúp đỡ cũng như đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho chúng sống, ăn học để trở thành những công dân hữu
dụng trong một đất nước thật sự tự do, dân chủ và bình đẳng.
Nhưng trên hết, mình ước mong và hy vọng rằng con cháu mình cũng sẽ không bao giờ quên cội nguồn của chúng là người Việt Nam.
Tre tàn thì măng mọc.
![]()
Bước chân Việt Nam là biểu tượng cho sự bất khuất,
cho lòng yêu chuộng tự do, hòa bình và cũng là niềm kiêu hảnh chung cho
tất cả các người tị nạn trên thế giới.
Nhờ Trời Phật phù hộ mình đã đạt được ước nguyện ban đầu.
Mình rất tự hào là một thuyền nhân, một boat people, một ngưới tị nạn CS vì lý tưởng Tự Do.
Một lần nữa, tháng tư đen lại trở về.
Cố quên nhưng lòng vẫn nhớ./.
Grand merci la France, pour vos bras ouverts. Thanks
Australia, for your open hearts. Thank you Canada, for the liberty.
Thanks America, for your open arms. We, thank the world, for its true
freedom. We thank the world, we thank the world Thank you, we thank you
all.
![]() ![]()
Tình già là báu vật
Vợ chồng già như bình rượu hiếm, như gừng già càng
già càng cay nhưng đôi khi cũng cần phải có tiếng qua tiếng lại chút
chút để tình càng thêm mặn nồng hơn.
Mà rượu càng cũ thì càng quý có phải vậy không các ông anh?
Coi vậy mà tôi đã đụng bả được trên 45 năm rồi…45 năm
mặn nồng sương gió, vui buồn, thăng trầm sướng khổ đều có nhau.Nay thì
cả hai vợ chồng đều bước vào tuổi thất thập cổ lai hy hết rồi.
Giờ đây, nhà chỉ còn có tui với bà, sớm tối hủ hỉ bên
nhau và tay trong tay, đôi ta chậm bước bên nhau trong quãng đời còn
lại để cùng già bên nhau./.
![]()
-Chanh Nguyen Thuong se fait communicateur auprès de la communauté vietnamienne
Par Rhonda Wilson, Affaires publiques- CFIA
-Nguyễn Thượng Chánh
-Như lục bình trôi-Chuyện viết báo chùa tại hải ngoại
Rencontrez Dre Lan C. Nguyen, Omnipraticienne chez Dermapure Saint-Lambert et Montréal
INSTITUTE-ADVANCED AESTHETICS-EXPERT SUMMIT NOV 2019 MUNICH.
Montreal, 2020
Nguyễn Thượng Chánh & Nguyễn Ngọc Lan
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23731 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23731 |
![]() ![]() ![]() |
Chuyện Bé Thụy ĐiểnỞ Tỉnh Gävle miền Trung Thụy Điển, Tòa phán quyết, luận cứ theo pháp lý: Chuyện thương tâm, khởi sự từ khi đó, Bé âm thầm, gương mặt buồn da diết Tan học, một mình, lủi thủi ra xe. Con bé gan lì, không tưởng tượng được! Bé vô lớp chẳng hé môi than thở, Bé tủi thân, khóc oà lên nức nở, Rồi câu chuyện lọt đến tai nhà báo, Tuy chuyện buồn bởi gia đình cháu bé, Các em sống giữa đám người vô cảm, Trần Quốc Bảo Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Mar/2020 lúc 4:45pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23731 |
![]() ![]() ![]() |
Hãy Quỳ Xuống![]()
Không ai
thấm thía sự hiệu nghiệm từ những lời cầu nguyện bằng tù VC (tên bóng bẩy
là tù cải tạo)
Sống với hai trái bắp cộng một
chén rưỡi cơm gạo mốc mỗi ngày đổi lấy chừng bốn muỗng canh mồ hôi chảy ra để
đem của cải về cho trại tù giam mình nếu không cầu nguyện chắc số tù được tha
về chỉ đếm trên ngón tay. Nhiều ngày kiệt sức không lê nỗi bước chân với hai
vai oằn oại bởi sức nặng của tảng đá hàng trăm ký, tù chỉ muốn vất mẹ nó
xuống đất rồi ra sao thì ra. Chính những lúc như thế lời cầu nguyện sẽ trở
thành nguồn sức mạnh để tù tiếp tục lết tấm thân ba mươi mấy
kí (xương với da) đến hết ngày. Chu kỳ lại tiếp tục ngày mai ngày
kia cho đến khi tù cầm được giấy ra trại.
Tù sống sót chẳng nhờ giỏi giang hay dẻo dai gì, tất cả cậy trông vào một quyền lực từ trời cao rót xuống tiếp sức cho những thân thể ốm đói thiếu thốn mọi thứ. Không phải như VC khoe “ Với sức người sỏi đá cùng thành cơm “ cầu nguyện là dấu chỉ cho thấy sự giới hạn , yếu đuối rất thực tế của tạo vật . Nhưng nhờ biết đặt sự mỏng giòn của mình vào tình yêu và quan phòng từ trời cao, nhiều sinh mệnh cuối cùng trở về nhà bình yên sau biết bao khốn khổ phải chịu (mà không thể giải thích được). Nhiều sinh mệnh lúc bước vào “trại giáo dục cải tạo “ phương phi phốp pháp, về tới nhà thân hình dài ngoẵng như sợi dây, cân nặng (tính luôn sáng giờ chưa đi vệ sinh) cỡ chừng bốn chục kí.
Dĩ nhiên lời cầu nguyện không
phải xin cho được tha về nhà là ngày hôm sau giấy ra trại sẽ tới .
Cũng chẳng phải cầu xin ăn no thì lập tức trại tù sẽ phát thêm vài trái
bắp, vài lát khoai mì chạy chỉ . Cầu nguyện cần kiên trì và luôn vững
tin , rồi chuyện mình van nài nếu chính đáng sẽ đến !
Tôi đã từng xin cho được về nhà trước Giáng Sinh để dự lễ nửa đêm với gia đình năm 1976. Đêm đó ba giờ khuya nằm biệt giam với mấy tay tổ Fulro Thượng ở trại Pleiku đột nhiên từ xa xa tiếng chuông nhà thờ vẳng lại, chợt nhớ những tháng ngày hoang đàng chi địa chơi bời lêu lổng. Tôi bật ngồi dậy, làm dấu đọc kinh. Rồi đói khát khiến tôi dần quên đi những lời van xin chân thành nhất từ khi được rửa tội , nhưng Mẹ vẫn nhớ và Mẹ đã chuyển đến cùng Thiên Chúa . Tin rằng bất cứ lời cầu xin nào của Mẹ , Thiên Chúa không thể từ chối nên buổi sáng 22/12/1976 tôi cầm lệnh tha rời khỏi trại tù (lần thứ nhất) và tôi về tới nhà ở Biên Hòa kịp thời gian dự lễ Nửa Đêm với ba má . Bây giờ chính là lúc con người trên toàn thế giới cần quỳ xuống mà ăn năn thống hối cầu xin thiên ân từ trời cao đổ xuống trước Wuhan virus. Người ta sợ nó vì sức lây lan không lường trước được , cũng như nó tấn công không chừa một ai. TT Brazil bị nó vịn vai, bộ trưởng y tế Ý nó cũng không sợ. Phó Thủ Tướng Iran còn chịu thua nó , nhằm nhò gì giáo sư tiến sĩ lý luận đảng CSVN Nguyễn Quang Thuấn. Sự đáng sợ của con virus Wuhan là khả năng lây lan không theo mô hình nhất định nào, chứ không phải tầm sát hại . Nó lại chỉ nhằm vào mấy tiên sinh gần đất xa trời phía trong thân thể chứa toàn mầm bệnh . So với các bệnh dịch khác số lượng tử vong thấp nhưng vì không lường định được đường đi của nó nên người ta bị hoang mang hoảng loạn , thêm đủ kiểu hà hơi tiếp sức có một biến thành mười của fake news TTTT. Mới hôm trước Hoa Kỳ được xem như miễn nhiễm nay đã có hơn ngàn trường hợp cũng như gần 50 người mất mạng. Hãy nhận ra sự giới hạn khả năng , thân phận yếu đuối , dễ hư nát của con người . (Dân Mỹ nên hãnh diện đã có một Tổng Thống biết đặt mình vào sự quan phòng của Thiên Chúa, một TT phục hồi lời chúc mừng Merry Christmas sau 8 năm bị buộc phải lãng quên , một TT cùng đồng hành với phong trào bênh vực sự sống , một TT công khai cầu nguyện cùng mọi người từ phòng làm việc. Chưa thấy lãnh đạo thế giới nào đủ khôn ngoan tự đặt mình dưới sự quan phòng của Thiên Chúa như TT Mỹ.) Không chỉ người Công Giáo, các Phật Tử các tín hữu những tôn giáo khác cũng nên biết quỳ xuống hợp nhất lòng thành . Cùng với y học , lời khấn xin chân thật từ tâm tình hiến dâng của con người sẽ được Thiên Chúa nhậm lời.
Và như Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel
loan báo cùng Trinh Nữ Maria về bà Elizabeth đang mang thai “ Không Có Việc gì
Thiên Chúa Không Làm Được “
Vậy nếu Thiên Chúa ở cùng
chúng ta thì sự ác nào làm hại chúng ta được ?
Nguoiviettudo
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23731 |
![]() ![]() ![]() |
TÍCH TRỮ VÀ ĐẦU CƠ*Nên mua hàng một cách thông minhNgười dân xếp hàng chờ trả tiền cho các món như giấy vệ sinh, nước lọc tại một siêu thị ở Tijuana, Baja California, Mễ Tây Cơ ngày 13 tháng 3, 2020. (Getty Images) Viễn Đông Daily - Chính quyền tiểu bang đang kêu gọi người dân nên mua hàng một cách thông minh và có tính toán, thay vì cứ đổ xô đến cửa hàng và vơ vét mọi thứ, trong bối cảnh nhiều cửa hàng cạn sạch hàng hóa vì nỗi sợ coronavirus. Các cửa hàng như Costco, Target, Ralphs… trong thời gian đây luôn tấp nập khách hàng đến mua gel sát trùng, giấy toilet, và nước uống. Nhiều người khi đến cửa hàng chỉ thấy những dãy kệ trống trơn. Thành phố Pasadena vào thứ Sáu đã ra thông cáo khuyên người dân chỉ nên mua đồ dùng đủ cho khoảng 14 ngày cách ly, và thêm rằng “việc chuẩn bị không có nghĩa là tích trữ hàng hóa một cách vô tội vạ.” “Hãy nghĩ đến những người khác và chỉ mua các sản phẩm quý vị thật sự cần,” thành phố nói. Trong khi đó, nhà chức trách cũng đang bắt đầu kiểm tra những trường hợp lợi dụng khó khăn để tăng giá hàng. Phòng công tố của Los Angeles từng nhìn thấy một mục rao bán hàng trên mạng, bán thuốc tẩy với giá $100 Mỹ kim. Các thành phố và quận hạt đang lập một lực lượng đặc nhiệm để truy tìm những người tăng giá bất hợp pháp. http://www.viendongdaily.com/nen-mua-hang-mot-cach-thong-minh-nBt5eLJ3.html *Ôm hàng 17.700 chai nước rửa tay khô và không biết bán chúng ở đâu
Photo Credit: The New York Times
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23731 |
![]() ![]() ![]() |
Câu Chuyện Về Lòng Bác Ái: Người Ăn Mày![]()
Victor sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở nước Anh.. Cha mẹ của
cậu đều dựa vào làm thuê để sinh sống. Mặc dù họ sống trong nghèo khó,
nhưng mọi thành viên đều không vì vậy mà đánh mất đi sự chính trực, lòng
lương thiện và nhân ái.
Khi còn bé, Victor đã từng gặp một ông lão ăn mày đáng thương gõ cửa xin ăn. Lúc ấy đang là giữa mùa đông, bên ngoài gió tuyết không ngừng thổi, ông lão ăn xin vừa đói vừa lạnh. Mẹ Victor trên tay chỉ còn vẻn vẹn mấy đồng tiền lẻ, nhưng đều đưa hết cho ông lão ăn mày. Victor nhìn mẹ cảm thấy thật khó hiểu..
Người mẹ nói với Victor :
“Chúng ta ăn ít đi một bữa thì có thể cứu sống được một mạng người.”
Victor lớn lên trong hoàn cảnh luôn chứng kiến những lời nói và việc làm mẫu mực của cha và mẹ.
Vài năm sau đó, Victor khi ấy đã trưởng thành. Trong một lần gặp gỡ bạn bè, anh quen được một cô gái có dung mạo xinh đẹp. Thế rồi rất nhanh, hai người họ đã yêu nhau.
Nhưng, cha của cô gái là một quan tòa, không muốn con gái mình lấy một người thanh niên nghèo chỉ có hai bàn tay trắng.
Vì vậy, ông nói :
“Khi nào cậu kiếm được đủ 10 ngàn bảng Anh thì mới nhắc tới hôn sự này.”
Mười ngàn bảng Anh, đối với một người trẻ tuổi vừa mới ra ngoài xã hội mà nói, thật sự là điều không thể nào thực hiện được..
Victor thất vọng đi tìm người bạn tốt của mình để tâm sự giải sầu.
Daniel, bạn của Victor, là một họa sĩ trẻ tuổi, đang ở nhà vẽ một bức chân dung về người ăn mày.
Anh ta mời một người ăn mày đến làm người mẫu. Người này ăn mặc quần áo
cũ rách, khom người, một tay chống gậy, một tay cầm bát hướng về phía
trước, trên trán còn hằn sâu vài nếp nhăn.
Victor nhìn thấy vậy trong lòng xúc động vì nhớ đến người ăn mày năm xưa ở trước cửa nhà mình.
Trò chuyện một lúc, anh biết được người bạn của mình trả cho ông lão đó tiền công là 10 xu/1 giờ. Victor không khỏi xấu hổ vì sự keo kiệt của anh bạn.
Lúc này, người gác cổng trước nhà đến báo, Daniel có người tìm gặp vì thế anh vội đi và để Victor ngồi lại với ông lão ăn mày.
Victor nhìn thấy bộ dạng đáng thương của ông lão, tay không tự chủ được
mà đưa vào túi quần, móc móc một lúc. Cuối cùng cũng móc ra được một
đồng bảng Anh tiền xu.
Thừa dịp Daniel còn chưa quay lại, Victor mau chóng nhét đồng bảng Anh tiền xu vào tay ông lão.
Ông lão ăn mày ngẩng đầu lên nhìn Victor có chút kinh ngạc, rồi tiếp nhận mà không nói một lời nào.
Sau đó, trong một lần tụ họp bạn bè, Victor gặp lại Daniel, anh bèn hỏi
thăm xem bức chân dung người ăn mày của Daniel đã hoàn thành chưa.
Daniel nói cho Victor biết, ông lão ăn mày kia vốn dĩ chính là nam tước Alfred Adler, một vị danh gia vọng tộc.
Sản nghiệp của ông ấy nhiều vô kể, hàng năm ông đều dành ra 1 phần tặng
tiền từ thiện rất lớn cho các tổ chức và trường đại học.
Ông sở
dĩ muốn để Daniel vẽ mình thành một lão ăn mày cũng bởi lòng hiếu kỳ,
muốn biết xem khi mình là một tên ăn mày thì bộ dạng sẽ như thế nào.
Victor nghe xong tình huống này trong lòng cảm thấy xấu hổ vô cùng vì sự khinh suất lỗ mãng của mình khi đó:
“Người ta là phú ông tiền tỷ, còn ngươi chỉ có một đồng bảng Anh tiền xu mà dám bố thí sao? Thật là không biết lượng sức mình!”
Không lâu sau đó, Victor nhận được một bức thư do nam tước Alfred Adler gửi đến. Trong thư ông viết :
“Chàng trai trẻ, ta vì sự lương thiện, chính trực và tấm lòng nhân ái
của cậu mà cảm thấy tự hào. Ta được Daniel kể cho nghe về câu chuyện
tình yêu đẹp đẽ của cậu. Bức thư này có lẽ có thể giúp cậu biến câu
chuyện tình yêu đẹp đẽ ấy thành sự thật.”
Trong bức thư còn kèm theo một tấm thiệp chúc mừng, bên trong có tấm chi phiếu 10 ngàn bảng Anh được viết như sau:
“Lễ vật thành hôn dành cho anh Victor cùng cô Alister! Một lão ăn mày kính tặng!”
Sưu tầm
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23731 |
![]() ![]() ![]() |
Y Đức![]()
Năm 2008 tôi về Quảng Ngãi tìm tư liệu và chuẩn bị làm phim về cụ Huỳnh
Thúc Kháng. Khi đang chụp ảnh phần mộ của cụ trên núi Thiên Ấn thì một
bác già khả kính đến nói với tôi:
- Anh làm ơn chụp cho đoàn bác vài kiểu ảnh kỷ niệm. Máy bác hết phim ( hồi đó con chụp bằng phim).
Nói rồi ông gửi tôi cái danh thiếp và hẹn gặp lại ở nhà khách UBND tỉnh Quảng Ngãi gần đường Hùng Vương.
Nhìn tấm danh thiếp tôi khoái ngay và chỉ sau một giờ tôi đã đem đến
nhà khách biếu quý khách một bộ ảnh rất đẹp, không lấy tiền.
Cảm
kích vì nghĩa cử đó và nhận ra mình là đồng hương, quê tôi ở Cẩm Khê,
nhà ông ở Xuân Huy, Lâm Thao một làng nhiều Tiến sỹ nhất Việt Nam từ năm
…1970 chỉ cách nhau hơn chục cây số, ông tiếp tôi rất nồng hậu.
Khi tôi khéo léo hỏi ông (có ghi âm) về chuyện Y đức thì vị giáo sư bạc đầu này nhận ra ngay.
Ông nói:
-Tôi không trả lời anh đâu, nhưng tôi kể cho anh nghe câu chuyện của chính gia đình tôi, rồi anh làm gì thì làm.
Tôi nghe xong câu chuyện mà xúc động. Câu chuyện này có lẽ đủ tư cách
giải thích tất thảy những chuyện vui buồn của ngành y tế, từ chuyện tiêm
vacxin chết người đến chuyện Cát Tường, chuyện dịch sởi v.v…
..
Dưới đây là câu chuyện của GS Võ Như Lành.
-Một lần tôi về phép đúng vào dịp người em tôi bị đau vùng bụng cấp, rất nguy kịch, phải đi bệnh viện ngay ban đêm.
Là nhà nghề tôi leo lên xe đi cùng. Vào khu vực phòng cấp cứu, tôi vui
mừng nhận ra vị trưởng phòng cấp cứu là BS Huy, một học trò giỏi của tôi
trong trường y.
Khi khiêng băng ca vào phòng, hai lần tôi giáp mặt với BS Huy nhưng tôi chợt nhận thấy hình như anh ta không muốn chào tôi.
Anh đeo khẩu trang nhưng làm sao tôi quên được vầng trán, ánh mắt, dáng đi của một SV đặc biệt đã học tôi 6 năm trời.
Và đêm ấy, theo gợi ý của cô y tá và sự chỉ dẫn của một người lạ, người nhà tôi phải chi ra 2 triệu bôi trơn cho kíp mổ.
Một tuần sau em tôi ra viện.
Tôi cầm tiền lên thanh toán viện phí và chủ trương đối diện với tay sinh viên xưa, nay đã trở thành kẻ bất trị này.
Khi tôi vào phòng y vụ, vừa chìa giấy tờ ra thì cô nhân viên chừng 30 tuổi đứng bật dậy, giọng nói trầm ấm, thân tình:
-Mời thầy đi theo em.
Mặc dù tôi chưa dậy cô này ngày nào nhưng nghe giọng nói thân thiện, tác phong rất chân tình, tôi vô thức bước theo cô.
Cô đưa tôi lên thẳng phòng …cấp cứu. Đến cửa, cô nói:
-Mời thầy vào, Xếp em đang chờ thầy!.
Cô mở cửa ấn tôi vào căn phòng mát rượi và đi ra.
Khi chỉ còn hai người, BS Huy ôm chầm lấy tôi. Anh nói ngay:
-Thầy ngồi đi, em biết là thầy giận em lắm. Rồi em sẽ giải thích ngay để thầy hiểu.
Tôi lắng nghe.
Vẫn con người ấy, thông minh, lanh lợi, tin cậy và thân tình.. Anh ta nói:
“ Và nếu hôm đó, thầy trò mình nhận nhau, tay bắt mặt mừng thì có thể, người nhà thầy…chết!.
Nếu kíp mổ nhận thấy họ đang phải thức ba tiếng đồng hồ giữa đêm khuya
để mổ một ca không – phong – bì thì chất lượng chuyên môn, các biện pháp
hỗ trợ sẽ chạy theo kiểu không – phong – bì thầy ạ.
Bởi vậy, khi gặp thầy, em làm lơ, tính sau kíp mổ sẽ gặp lại thì Thầy đã về rồi.
Hôm nay, em xin tạ tội cùng thầy và em phải nói rằng, em có được
như ngày hôm nay là nhờ thầy, Xin thầy đừng từ chối món quà này của em,
coi như vài thang thuốc bổ để chăm sóc thầy khi không được gần thầy” .
Huy nói rồi lấy một gói giấy mỏng, gói ghém chu đáo sẵn nhanh tay nhét vào túi trong áo veston của tôi.
Tôi hoàn toàn mất tự chủ.
Sự thể diễn ra hoàn toàn ngoài suy đoán, dự cảm của tôi. Huy vẫn như cậu sinh viên hiếu hạnh, chu đáo và giỏi giang nằm xưa.
Cuối cùng, tôi hỏi:
- Tôi có dạy các anh làm thế không?.
- Dạ, thưa thầy, cái lỗi chính nằm ở chỗ ấy ạ. Cái chính là vì các thầy đã không dạy những cái đó, những cái cần – phải – dạy.
Tôi ớ ra, hỏi cho rõ thì BS Huy nhẹ nhàng:
-Ngày làm luận văn tốt nghiệp, các thầy cho một câu hỏi: Người BS chế
độ XHCN khác với người BS tư bản ở chỗ nào? Nếu ai trả lời rằng, điểm
khác biệt đó là người BS XHCN không cần tiền bạc vẫn làm tốt chức phận
của mình thì được điểm cao.
Thực tế không phải thế!
..
Tôi bắt đầu hiểu ra vấn đề. Hình như toàn bộ bi kịch là ở đây. Hình
như chúng tôi có lỗi. Không có BS nào là không cần tiền cả. Tôi ngậm ngùi
thăm hỏi hoàn cảnh BS Huy. Anh nói:
“ Sau khi ra trường, con
về phục vụ tại một bệnh viện chuyên ngành chăm sóc cán bộ tại Hà Nội.
Bệnh nhân của BV này toàn loại VIP.
Đến bữa trưa, con đem cặp
lồng cơm đã nguội hắt có vài cọng rau muống đen xì và nửa quả trứng kho
mặn vợ chuẩn bị ra ăn trong khi những bệnh nhân kia chơi gà luộc nửa
con, giò chả ngập chân răng và họ luôn có quyền bắt ne bắt nét chúng
con.
Đến một lúc, con nghĩ: tại sao cùng là người sao họ sướng
thế. Sao mình ra sức phục vụ, ăn học từng ấy năm, tận tụy, hiểm nguy mà
khổ thế. Phải “chặt”!.
Lần đầu con chặt, cầm cái phong bì hơi cũng run tay nhưng về sau quen dần, càng chặt càng bén, chặt nhát nào ra nhát ấy.
Về sau con cũng đứng lớp, cũng dạy học trò nghề y cao quý này, ra
trường chúng cũng biết chặt, chúng chặt giỏi hơn con, chặt nhát nào ra
nhát ấy”.
..
Tôi không biết nói gì lúc này nữa.
Trong
không gian này, tôi không biết ai là thầy, ai là trò nữa. Hình như BS
Huy đang dạy cho tôi bài học vỡ lòng về sự bất hợp lý trong những vận
động xã hội đã xảy ra, đang xảy ra.
..
Trên đường về, tôi giở
phong bì ra, đếm được mười triệu. Tôi lẩm cẩm nghĩ: Lãi 8 triệu và một
bài học quý từ cuộc sống, thôi thì….
..
Câu chuyện của GS Lành
đến đây là hết. Không gian nhà khách UBND tỉnh Quảng Ngãi trầm hẳn
xuống. Tôi cũng chẳng biết bình luận gì thêm.
Phải chăng, chúng
ta đã tạo ra một không gian để phát triển một loại mâu thuẫn xã hội đằng
đẵng dăm chục năm và rồi hôm nay ta đắm mình trong bi kịch đó, bi kịch
mà một nhà văn đã nói:
Cái lò xo bị nén xuống ba tấc, khi bật lên, nó sẽ bật lên chín tấc.
Những tiêu cực trong ngành y tế sẽ còn dài chứ không dừng lại ở đây kể cảkhi thay ba bộ trưởng.
Bao giờ cái thiết chế y tế, từ đào tạo đến các nguyên tắc về phúc lợi,
nhân đạo, chính trị thay đổi theo hướng tích cực, có lý có tình thì tình
hình sẽ tự nó tốt lên, các bạn ạ.
HUY CƯỜNG
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 146 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |