![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 108 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Người Thiếu Phụ Trong Mưa Phùn Giữa Núi Rừng Việt Bắc (Đ.Văn)
Soỉ đá ngùi xa "lấy cốt" chồng Rượu nhạt rửa xương đau đớn dạ Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Oct/2023 lúc 12:58pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Một Ngày Tan Chiến Tranh – Băng Châu | Những Bài Nhạc Xưa Bất Hủ Trước 1975 <<<<<<![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Oct/2023 lúc 8:14am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Nước Mắt Giữa Trùng Dương(Viết theo lời kể của một thuyền nhân, tên nhân vật đã được thay đổi.) Trong cuộc đời của một con người, hẳn ai cũng có những lần gặp nhiều sự việc quan trọng xảy ra trong cuộc sống của mình. Những sự việc đó đã được khối óc ghi nhận và lưu giữ lại ở một chỗ nào đó trong đầu mà chúng ta gọi là ký ức. Tuy vậy có những việc, nó chỉ lưu giữ trong ký ức một khoảng thời gian rồi phai mờ dần, nhưng có những điều lại như hằn sâu, như khắc đậm, muốn quên mà không thể quên được. Câu chuyện sau đây trong cuộc đời tôi là một minh chứng cho sự huyền diệu của khối óc: Tôi đã nhớ và đã nhớ cả một đời. Tôi là đứa con gái út trong một gia đình đông con, mẹ tôi mất năm tôi 12 tuổi, vì thế bao nhiêu tình thương yêu của Bố và các anh chị đều đổ dồn cho tôi. Tôi được nuông chiều như một cô công chúa, từ nhỏ cho đến khi tốt nghiệp đại học, mọi việc đều do các anh chị tôi lo lắng, sắp xếp cả, chính vì vậy mà khi ra đời, không có kinh nghiệm sống, lại ngu ngơ, không biết cách ứng xử, tôi luôn bị thua thiệt, bị bắt nạt. Nhưng có lẽ ông trời thương hại kẻ khù khờ nên đã cho tôi một khuôn mặt khá xinh xắn, để bù lại những thiếu sót của tôi. Với khuôn mặt xinh xắn này, tôi đã luôn nhận được sự giúp đỡ cũng như chiếm được cảm tình của rất nhiều người trong đó có anh. Anh Bằng là sinh viên đại học Bách Khoa năm cuối cùng, tôi quen anh trong lúc tham gia công tác đổi tiền của nhà nước, một công việc mà sinh viên phân khoa các đại học bắt buộc phải có mặt, làm việc theo sự phân bổ của chính quyền CS. Chính anh là người đã giúp đỡ và bảo vệ tôi trong suốt thời gian đổi tiền và cũng từ đó chúng tôi quen nhau rồi yêu nhau. Yêu nhau một thời gian dài, anh xin với bố tôi cho cưới. Bố không bằng lòng vì nghĩ tôi còn quá trẻ, sau anh nài nỉ mãi và cũng vì thấy chúng tôi quá thương nhau, bố động lòng, nhưng chỉ bằng lòng cho làm đám hỏi, còn cưới thì phải chờ tôi trưởng thành hơn nữa . Đám hỏi chưa kịp làm, đột nhiên anh biệt tăm cả tháng trời, không thấy đến tìm tôi. Lo lắng, tôi đến gia đình anh để hỏi thăm thì được biết anh và anh trai ra miền Trung thăm bà nội bị bệnh. Ba ngày sau anh đến nhà tôi với cái đầu trọc lóc, anh kể: - Anh vừa mới được thả về, anh nhấc mũ ra, đưa tay xoa xoa cái đầu, em biết tại sao rồi chứ? - Làm sao em biết được? Tôi trố mắt lên nhìn anh, bộ anh bị bắt hả, mà làm gì bị bắt thế? Anh nhéo mũi tôi nói nhỏ: -Trời ơi, em tôi đúng là một cô bé khờ. Thì anh đi vượt biên bị bắt chớ sao? - Vượt biên? Sao anh đi mà không nói cho em biết? Chuyện quan trọng như vậy mà lại giấu em. - Chính anh còn không biết, mọi việc ba anh sắp xếp hết, giờ cuối cùng, ba gọi anh về để đi cùng anh hai, và đi gấp trong đêm, nên đâu thể nào báo cho em biết được. Chuyến đi thất bại, tụi anh bị bắt, lúc được thả về, anh quyết liệt với ba là anh sẽ không đi đâu nếu không có em đi cùng. Ba đã đồng ý. Nói trước cho em biết để chuẩn bị tinh thần, lần sau nhất định có đi thì hai đứa mình cùng đi, bé hết giận anh chưa? Cứ tưởng anh nói để dỗ ngọt tôi, ai dè một tháng sau, vào buổi tối ngày 24 tháng 5 năm 1981, anh đến nhà xin phép bố tôi cho tôi đi vượt biên cùng anh ngay đêm ấy, bố tôi hơi ngỡ ngàng,và có ý không bằng lòng. Bố ngần ngừ và trầm ngâm rất lâu: - Bác biết con rất thương Ngọc, nhưng vượt biên không phải là chuyện chơi, biết bao nhiêu hiểm nguy, bất trắc đang chờ đón, hơn nữa, Ngọc là con gái, các con chưa chính thức là gì với nhau, ra đi như vậy có hợp với lễ giáo hay không? Nghe bố nói vậy, Bằng kéo tay tôi, hai đứa cùng quỳ xuống trước mặt bố, giọng anh thiết tha: -Thưa bố, chính vì điều này mà con cúi xin bố thành toàn cho chúng con, cho chúng con được thành vợ, thành chồng. Sự cho phép của bố sẽ giá trị hơn bất cứ một lời cam kết nào trong cuộc đời này. Con xin thề với bố, con sẽ thương yêu và đối xử thật tốt với Ngọc, khi qua được bên kia đại dương, con sẽ làm đám cưới với Ngọc đúng theo lễ giáo. Mong bố toại nguyện cho chúng con. Ôm lấy đầu gối của bố, tôi tiếp lời của Bằng: - Bố ơi, Bằng nói thật đó, anh ấy rất yêu con, không bỏ con đâu, hơn nữa bố ơi, bố làm việc trong chính quyền cũ, các anh con thì đều bị đi học tập cải tạo, sống trong một gia đình bị gọi là ngụy quân, ngụy quyền, tương lai chúng con sẽ ra sao? Bố để con đi, qua bên đó biết đâu con còn có thể giúp đỡ phần nào cho gia đình mình, giúp các cháu đỡ đói khổ. Nhìn chúng nheo nhóc bố đành lòng sao? Bây giờ có cơ hội, bố cho con theo anh ấy nhe bố, Con xin bố, cho con đi nhe. Có lẽ, nhận thấy những lời của chúng tôi nói không sai và cũng cảm động trước sự chân thành tha thiết của hai đứa, bố đã đồng ý và chúc lành cho chúng tôi. Ở lại nhà anh một ngày, chiều 25 chúng tôi đón xe đi Bà Rịa để 9 giờ tối hôm đó đón “taxi” ra “tàu” lớn. Tiếng là tàu nhưng thực sự đó chỉ là một con thuyền đánh cá không lớn lắm mà tôi từng được trông thấy khi ra Vũng Tàu chơi thời còn dưới chế độ VNCH Khi tàu ra xa, đã vào được vùng an toàn thì mọi người mới phát giác ra sự lừa đảo của bọn chủ tàu, chúng không hề mua nước cũng như đồ ăn để dự trữ cho chuyến đi của 66 người. Khi bị chất vấn, chúng đổ thừa tại bến bị động nên không thể chuyển lương thực được. Một số người không nhịn được sự tức giận đã nhẩy lên đòi đánh tên này, nhưng cuối cùng, vì sự đã rồi và cũng vì nhóm người của chủ tàu quá đông, nên mọi người đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Nhóm chúng có phòng hờ đem theo đồ ăn nhưng cũng không nhiều, một chút gạo và khoai lang, chỉ đủ cho chúng dùng trong vài ngày thế thôi. Từ đó ai có chút đồ ăn đều phải giữ kỹ để phòng thân. Riêng vợ chồng tôi (chúng tôi xưng vợ chồng để tránh những rắc rối sẽ xảy ra) còn sui xẻo hơn, ngoài bọc đồ ăn nho nhỏ và một số thuốc phòng thân chồng tôi buộc ở trên vai, lúc ra taxi, hỗn độn, chen lấn đã bị ai đó giựt mất, anh Bằng lại đạp phải cái gai dừa trên bãi biển, lên đến tàu anh mới thấy đau. Nếu ngay khi mới đạp phải gai, lấy ra ngay thì còn được, nhưng vì lo chạy đi ra taxi để không bị bỏ lại, nên cái gai càng ngày càng đâm sâu vào chân hơn, không có cách nào lấy ra nữa. Mấy hôm sau chỗ bị gai đâm bị sưng tấy lên, mưng mủ, nó đã bị nhiễm trùng. Chồng tôi đã bắt đầu bị sốt. Mới đầu chỉ hơi nóng nhẹ, anh còn chịu đựng được, vẫn còn có thể hứng nước mưa cho hai đứa uống, nhưng vì nhịn đói và khát cả hơn một tuần lễ, cơ thể không có sức đề kháng, cơn sốt càng ngày càng tăng và kéo dài hơn. Gói bánh nhỏ tôi lấy vội trước khi đi còn sót trong túi áo lạnh, đã cho anh ăn dần, cầm cự được vài ngày rồi cũng hết. Sau đó, tôi có hỏi xin thuốc và đồ ăn cho anh nhưng không ai cho, họ còn phải thủ cho mình vì ai cũng tưởng chỉ một hai ngày thì sẽ gặp được tầu vớt, nên thực phẩm mang theo rất hạn chế, không ai muốn bị chết đói cả. Đồ ăn mang theo hầu như đã gần hết, lần đầu tàu chúng tôi có gặp khoảng 40 chiếc tàu, có những chiếc bỏ đi luôn, có những chiếc dừng lại nhưng không chịu vớt mà chỉ chấp nhận tiếp tế lương thực thôi, nhưng vì tàu của chúng tôi quá bé, không thể lại gần vì sợ bị lật tàu, nên đành đau đớn nhìn tàu lớn bỏ đi mà không nhận được gì. Tất cả chúng tôi trên con tàu này đều đã phải nhịn đói và hứng nước mưa uống để sống sót. Ngay mấy ngày đầu, khi tàu vừa ra tới hải phận quốc tế, thì vợ tên chủ tàu ngồi phía trên gần cái máy, không biết loay hoay thế nào mà đạp vào cái cần điều khiển, thế là máy tắt luôn. Tên tài công không biết cách sửa để máy chạy lại vì chính hắn chỉ là tên tài công dỏm, nhận bừa để được cho đi thôi chứ có biết tí gì về máy móc đâu, vì vậy con tàu cứ lênh đênh trôi trên biển cả mặc sóng cuốn về đâu thì hay đó. Sinh mạng 66 con người giờ phó mặc cho trùng dương chỉ vì lời nói dối của một kẻ bất tài. Con thuyền không được điều khiển, cứ trôi không biết đâu là bến bờ, khi thủy triều xuống, thuyền mắc cạn vào một hòn đảo san hô nào đó, chỉ thoát ra được khi thủy triều lên sóng đánh, kéo tàu ra xa. Một niềm hy vọng cho mọi người là tại những đảo san hô này, trứng chim biển rất nhiều, thấy vậy, có mấy thanh niên nhảy xuống, bơi vào đảo hy vọng sẽ lấy được trứng thì sẽ không còn bị đói nữa, nhưng bất hạnh thay, đá trên đảo san hô lại rất nhọn, sắc cạnh và trơn trượt, trứng không lấy được mà còn bị té đập đầu vào đá sắc mà chết, trong số người chết có anh Tư là người dẫn chúng tôi ra tàu. Con tàu lại lênh đênh trên biển như chiếc lá giữa dòng, và người chết vì đói đã bắt đầu có. Trước hết là những em bé, các em mới đầu còn khóc vì đói, sau đó cứ lịm dần và ra đi trong lòng mẹ. Tiếng khóc thương con thảm thiết vang lên như át cả tiếng sóng vỗ của đại dương. Sau đó là một vài người lớn, cơ thể yếu đuối, không chịu được cơn đói và lại thêm bị sóng nhồi, nên đã ra đi, xác bị thả trôi trên biển. Lúc này chồng tôi khi tỉnh, khi mê. Đang là một thanh niên khỏe mạnh, cường tráng, nhưng vì nhịn đói nhiều ngày, lại thêm vết thương ở chân bị nhiễm trùng, không có thuốc chữa, khiến anh lên cơn sốt, vì thế sức khỏe anh càng ngày càng suy kiệt. Đã mười mấy ngày rồi, cơn sốt vẫn không thuyên giảm, tôi bất lực chỉ biết ôm anh trong lòng mà khóc, nhiều khi nước mắt không còn để mà chảy ra nữa. Ôm anh trong tay, lúc nào lòng tôi cũng nơm nớp lo sợ anh sẽ bỏ tôi mà đi như những người kia. Một vài người thấy tình cảnh của vợ chồng tôi, họ cũng thương nhưng cũng không thể làm được gì cho chúng tôi, họ chỉ có thể hứng dùm chút nước mưa để cho tôi thấm vào đôi môi khô và tím lịm của anh thế thôi. Ngồi trong lòng tôi, đầu anh tựa vào vai vợ, mắt nhắm nghiền, hơi thở nóng hổi, mặt ửng đỏ, lâu lâu anh lại rên khe khẽ. Tôi biết anh đau lắm, mệt lắm, mà không thể giúp gì được cho anh, nghiêng mặt qua, hôn lên vầng trán nóng bỏng của chồng, nước mắt của tôi rỏ trên má anh, anh thều thào: -Anh yêu em, đừng khóc Ngọc ơi, con tàu này bị ếm rồi, khó qua lắm. Anh hé cặp mắt lờ đờ nhìn tôi, rồi lại nhắm lại, anh xin lỗi em, đừng khóc nữa, anh muốn được nghe em hát, hát lên đi em, hát cho anh nghe... Tôi có linh tính đây là lần cuối anh nói với tôi. Để môi mình trên trán anh, tôi xiết người anh trong vòng tay tôi chặt hơn và tôi bắt đầu hát nho nhỏ: - ...ngủ đi anh, ngủ đi anh. Ngủ đi, mộng vẫn bình thường, à ơi, sẵn tiếng thùy dương đôi bờ, cây dài bóng xế ngẩn ngơ, hồn em đã chín, mấy mùa buồn đau. Tay em, anh hãy tựa đầu, cho em nghe nặng trái sầu rụng rơi. Ngủ đi anh... ngủ đi anh...Bằng ơi Tiếng hát của tôi hòa lẫn trong tiếng sóng rì rào của đại dương bát ngát, mặc những cơn nức nở làm nghẹn lời, tôi vẫn cứ hát, cứ miên man hát cho chồng tôi nghe lần cuối trong đời và nước mắt tôi vẫn cứ chảy, chảy ràn rụa trên khuôn mặt tái dần, tái dần của anh. Tôi cứ hát trong nước mắt mà không cảm thấy người anh như đang nhẹ hẳn đi, bàn tay anh đặt trên bàn tay tôi đã lơi ra và rơi xuống sàn tàu. Bất chợt tôi nắm lấy bàn tay anh, sao tay anh lại lạnh như thế này Anh đã đi, anh đã ra đi rồi sao, anh đã bỏ tôi thật rồi sao. Tôi hốt hoảng lay lay anh thật mạnh, anh Bằng ơi, anh Bằng ơi... Anh vẫn bất động, tôi ôm lấy đầu anh, hôn lên khuôn mặt giá lạnh của anh trong tiếng khóc ngất. Tiếng khóc của tôi làm người ngồi bên cạnh chú ý, anh là người luôn giúp đỡ chúng tôi, chắc anh cũng đoán trước được sự ra đi của chồng tôi nên khi nghe tôi khóc lớn, anh liền sờ vào mũi Bằng và bảo: - Cậu ấy đi rồi, cô không nên ôm như vậy, cái lạnh cơ thể của cậu ẩy sẽ không tốt cho sức khỏe của cô đâu và tập tục ở miền biển, chúng tôi phải thủy táng cậu ấy như những người trước. Lúc này tôi không còn nghe thấy gì hết, chỉ biết ôm chặt thể xác anh trong tay và khóc. Tôi cứ ôm chặt lấy anh, không cho người ta lấy anh ra. Tôi biết nếu tôi buông anh, tôi sẽ mất anh vĩnh viễn kể cả về nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Rồi sau cùng mọi người phải dùng sức kéo tay tôi để lấy anh ra mang thả xuống biển vì, theo tập tục của dân đi biển, thì khi một người đã chết thì phải làm lễ thủy táng trước khi mặt trời lặn. Qua làn nước mắt, nhìn thân xác của anh nằm sấp mặt trên sóng nước bồng bềnh, trái tim tôi thắt lại, buốt nhói, tôi nhào ra cạnh thuyền hai tay với với về phía anh một cách tuyệt vọng, giọng tôi khản đặc: - Anh ơi, Bằng ơi, đừng bỏ em, đừng trôi đi, đừng trôi đi mà, em xin anh đấy, Bằng ơi, em xin anh mà, đừng trôi anh ơi!!! Mặc cho tôi kêu khóc, xác anh trôi về cuối thuyền. Tôi cố len qua mọi người để bò về cuối tàu, thì anh lại trôi về đầu tàu, tôi vừa khóc, vừa bò ngược lại, mọi người lại tránh chỗ cho tôi. Thấy tình cảnh đáng thương của tôi, không nhịn được, một số người ôm tôi lại và khấn to: - Cậu Bằng ơi, cậu sống khôn thác thiêng thì trôi xa đi, đừng làm khổ vợ nữa. Và kỳ lạ thay, sau lời khấn ấy, xác anh không trôi quanh tàu nữa mà trôi ra xa rất nhanh, càng ngày càng xa tàu đến khi mất hút. Tôi chới với nhìn theo, lồng ngực chợt như bị bóp lại, như muốn vỡ toang ra, tôi cố gào lên, cố kêu tên chồng tôi, nhưng không được, tiếng kêu như bị tắc nghẹn trong cổ họng, không thở được nữa và tôi ngất đi. Không biết thời gian bao lâu, khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang được một bác gái, nhỏ vào miệng vài giọt nước mưa đựng trong một cái nắp chai, thấy tôi mở mắt, bác mừng rỡ: - Cô ấy tỉnh lại rồi, vừa nói bác vừa đỡ tôi ngồi dậy, và đút vào miệng tôi một miếng đường thẻ nhỏ xíu, con ăn chút đường cho lại sức. Tôi ngậm miếng đường, cám ơn bác. Bỗng như sực nhớ điều gì, tôi bật ngồi thẳng dậy, mắt dáo dác nhìn quanh, miệng lẩm bẩm: - Anh Bằng? Anh đâu rồi, chồng tôi đâu rồi? Vừa nói, tôi vừa tính bò ra mạn tàu, nhưng cánh tay tôi đã bị một bàn tay giữ lại kèm theo là một giọng nói đàn ông: - Cậu ấy đã mất, chúng tôi cũng đã thủy táng cho cậu ấy rồi, trời tối thế này, cô không thể nhìn thấy cậu ấy nữa đâu. Nghe lời tôi đi, cố gắng mà sống để còn có người báo tin cho người nhà biết chứ, chết hết rồi thì làm sao. Quay nhìn người ngăn tôi lại, tôi lí nhí nói trong giòng nước mắt: - Cám ơn anh, tôi hiểu. Và kể từ đây, không còn người để nương tựa, tôi phải tự mình bảo vệ lấy mình. Tôi lùi vào một bên mạn tàu, ngồi bó hai gối lại, nước mắt lại trào ra, tôi nghĩ về Bằng. Tôi yêu Bằng nhận làm vợ anh và nghĩ hai đứa sẽ hạnh phúc bên nhau trọn đời. Bây giờ, bao nhiêu dự tính tốt đẹp về tương lai đã bị sụp đổ hoàn toàn, trước mắt tôi là một khoảng tối đen, mù mịt. Ai ngờ, cuộc đời tôi lại bất hạnh như thế này đây, cứ tưởng mình sẽ là cứu cánh của gia đình, thế mà, ngay đến bản thân mình không biết sẽ ra sao nói gì đến lo cho ai được. Bằng đã bỏ tôi bơ vơ trong một hoàn cảnh éo le, ngặt nghèo. Tôi sẽ không bao giờ quên Bằng cả, tôi yêu anh, yêu anh thật nhiều, Bằng ơi, em nhớ anh quá, em mãi mãi muốn được ôm anh trong vòng tay nhỏ bé của mình, muốn được hát cho anh nghe, muốn được có anh bên em suốt đời, nhưng làm sao khi định mệnh đã ngăn cách chúng mình để giờ đây, một mình em bất lực ngồi đây mà nhớ anh, mà thương anh. Bằng ơi, em xin khấn nguyện Phật Trời cho linh hồn anh mau được siêu thoát về nơi cõi an bình nhe anh. Tôi ngồi trong bóng tối và thì thầm cầu nguyện cho anh: - Nam Mô, Đại Từ Đại Bi, Tầm Thinh ,Cứu Khổ Cứu Nạn, Quảng Đại Linh Cảm Bạch Y, Quan Thế Âm Bồ Tát Câu chú này là do chị Cả của tôi dạy, chị bảo tôi khi nào gặp nguy hiểm hãy đọc chú này thì sẽ được cứu. Từ đây cho đến suốt cuộc đời, tôi sẽ luôn niệm chú này và tôi cũng đã thoát qua nhiều hiểm nguy nhờ đọc chú Quan Thế Âm. Chỉ cần một câu thôi. Từ ngày tàu ra khơi tính tới hôm nay là đúng 19 ngày và chồng tôi mất đúng vào ngày thứ 19. 19 ngày lênh đênh trên biển cả, những chiếc tàu lớn chúng tôi gặp đều không chịu vớt, ngay cả sau khi chồng tôi qua đời, và những ngày sau đó cũng vậy. Với tình trạng không có nước, không có thực phẩm như thế này, không biết mọi người có còn thể cầm cự được bao lâu nữa đây, nhất là mấy đứa nhỏ. Tên chủ tàu này quả thật là đồ khốn nạn và bỉ ổi. Đói còn có thể chịu đựng được một thời gian ngắn nhưng với cơn khát thì làm sao mà kéo dài sự sống được. Thời gian dần trôi qua, ngày rồi đêm, số người bị bệnh, bị mất sức, bị chết vì đói ăn, vì khát nước càng ngày càng nhiều. Mới đầu tiếng khóc tiễn người thân ra đi còn vang vọng trên biển cả, nhưng dần dần, cả người còn sống cũng không đủ sức để thở, thì còn hơi đâu để khóc cho người ra đi. Trong đời sống của chúng ta, chắc hẳn không ít người đã gặp phải những chuyện lạ lùng, đôi khi huyền bí mà không thể giải thích, nhất là khi chuyện xảy ra liên quan đến những người đã khuất. Mọi người đều bảo đó là những chuyện thuộc về tâm linh, mà đã là vấn đề tâm linh thì không thể cắt nghĩa được. Truyện tâm linh tưởng như khó có thể gặp, nhưng những sự kiện này đã đặc biệt lại xuất hiện nhiều lần xuyên suốt trong chuyến vượt biên trên con tàu chở chúng tôi. Chồng mất, tôi bơ vơ không người che chở, bị bọn chủ tàu bắt nạt, chửi mắng tôi, vì chúng nghĩ tôi là dân “canh me”. Tôi đã hết lời giải thích là tôi đi với chồng, không thể nào tôi là người đi lậu được, hơn nữa anh Tư, người chết trên đảo san hô, là người đưa chúng tôi xuống thuyền biết rõ mà. Chúng nhất định không tin vì cả hai người chứng của tôi đều đã không còn, thậm chí chúng còn xông đến đòi ném tôi xuống biển. Mặc cho tôi khóc lóc van xin thế nào, không một ai chung quanh tôi lên tiếng bênh vực cho tôi cả. Họ phải tự giữ lấy thân, không muốn vì kẻ khác mà rước họa vào người. Giữa lúc tuyệt vọng nhất, khi đã nắm chắc cái chết trong tay, tôi chợt nhớ đến Mẹ Quan Thế Âm và niệm khẽ: “Nam mô...”. tiếng nam mô còn chưa dứt trên môi, thì mọi người đều giật mình vì một tiếng đàn ông hét lớn vang lên từ đầu thuyền: - Dừng lại. Tất cả chúng tôi đều quay nhìn về nơi có tiếng quát phát ra, vợ của người tài công đang đứng đó, mắt bà long lên sòng sọc, tay chỉ thẳng vào bọn chủ tàu: - Đứa nào đụng vào con bé đừng trách tao, tao là người đưa nó lên tàu, nghe rõ chưa. Nói xong bà khuỵu người nằm xuống mắt nhắm lại như đang ngủ. Cái ngạc nhiên và sợ hãi của mọi người là tiếng nói phát ra từ miệng bà là tiếng của một người đàn ông, tiếng của anh Tư, đúng là tiếng của anh, không ai là không biết. Người tài công cũng sợ, anh ta không dám lại đỡ vợ. Một lúc sau bà ngồi dậy, và ngạc nhiên khi thấy mình nằm ở đầu tàu, bà hỏi chồng lúc đó đang nhìn bà mà sự sợ hãi vẫn chưa tan đi trên khuôn mặt của hắn: - Sao tôi ngủ ở đây vậy ? - Phải là...là...bà không vậy? Sao lúc nãy tiếng nói của bà ...khác, giống tiếng của ... - Ông có điên không vậy. Không là tôi thì là ai. Biết chắc là vợ mình, người tài công kể cho bà nghe mọi việc, bà có vẻ như không sợ mà chỉ nói: - Lúc nãy ngủ, tôi có mơ thấy anh Tư, anh nói sắp có bão lớn, mọi người nên cầu Trời, khấn Phật cho qua tai nạn đi. Tuy bán tín, bán nghi, nhưng bọn chủ thuyền cũng không làm gì đến tôi nữa vì chúng còn đang bàng hoàng về sự việc vợ tài công nói giọng của anh Tư. Đúng như lời vợ tài công nói, gió bắt đầu nổi lên, mây đen kéo đến, rồi mưa đổ xuống như trút nước. Những ngọn sóng lớn dần và đập mạnh vào thành tàu, con tàu nhỏ bé, chao qua, chao lại như chiếc lá trong cơn cuồng phong. Tiếng la hét, tiếng cầu kinh vang lên giữa cơn giông bão. Run sợ ngồi trong góc tàu, tôi nghĩ với những ngọn sóng mạnh như thế này chả mấy chốc, con tàu nhỏ bé mong manh này sẽ vỡ ra từng mảnh, rồi sẽ bị sóng cuốn trôi, rồi sẽ bị sóng nhấn chìm tất cả, đem những sinh mạng trên con tàu này xuống lòng đại dương thôi. Sự sợ hãi này chồng lên sự sợ hãi cũ làm đầu óc tôi như mê đi. Tôi lẩm bẩm trong miệng một cách vô thức câu niệm chú Quan Thế Âm, trong khi đầu óc lại nhớ đến bố tôi, đến các anh chị em, các cháu, các người thân. Nước mắt cứ trào ra, trào ra mãi trong tiếng “ Nam mô......” đột nhiên con tàu hơi chao nghiêng, rồi như bị nâng cao lên, và vùn vụt lướt trên mặt biển, dần xa vùng bão tố. Mọi người hoang mang nhìn nhau, không biết chuyện gì đã xảy ra. Mãi cho đến khi cảm thấy con tàu như dừng lại và dập dình như cũ, một vài người mới lần ra ngoài xem và hét lên trong niềm vui sướng:” Chúng ta thoát rồi, thoát khỏi cơn bão rồi” Tất cả mọi người đều vội vàng quỳ xuống khấn tạ ơn Trời Phật, tạ ơn Thiên Chúa, Đức Mẹ, Phật Bà, mà không hiểu tại sao tàu lại trôi đi một cách lạ kỳ như có người nâng tàu lên và kéo đi để thoát khỏi cơn nguy biến như một phép lạ vậy. Người đoán thế này, kẻ nói thế khác, họ nhắc lại việc vợ tài công bị anh Tư nhập, tất cả, tựu trung sự huyền bí vẫn mãi chỉ là huyền bí mà thôi, không ai giải thích được và cũng từ đó mọi người tin là tôi có người âm phò trợ nên không ai dám đụng đến tôi nữa. Đã hơn một tháng trôi qua, số người chết trong thời điểm này đã hơn một phần ba, con nít thì chết gần hết chỉ còn lại một hai bé thôi, trong đó có một bé gái 10 tuổi tên Dương, em đi với bố và anh trai. Khi bố và anh trai bị thủy táng, em khóc đòi theo họ, tôi đã ôm em lại. Từ đó hai chị em nương tựa vào nhau. Con tàu cứ trôi dật dờ như thế, ngày rồi đêm, đêm lại đến ngày, người chết, rồi lại người chết, người còn lại thì sống dở chết dở. Đã vậy, ba ngày nay, tàu lại bị mắc cạn vào sâu trong đảo san hô, thủy triều lên, sóng cũng không kéo nổi tàu ra. Tối nay, có lẽ nỗi sợ hãi nếu tàu không thoát ra khỏi bãi san hô này thì cơ hội sống cũng không có, nên mọi người nổi cơn lên chửi bới nhau, đổ lỗi lẫn cho nhau ầm ĩ. Thấy vậy, sợ bị liên lụy, tôi kéo bé Dương trốn vào một góc tàu, hai chi em thì thầm niệm chú Quan Thế Âm, cầu mong Phật Bà cứu mọi người. (Chú này tôi đã dạy lại cho bé Dương như ngày trước chị tôi đã dạy cho tôi). Bên ngoài, giữa lúc mọi người vẫn còn đang chí chóe cãi nhau mãi chưa dứt, thì có tiếng của một người đàn bà lanh lảnh vang lên giữa màn đêm, bà nói nếu mọi người muốn Mẹ Nam Hải cứu thì hãy cầu nguyện với Mẹ, ai có đạo nào thì cầu theo đạo nấy, đừng cãi nhau nữa Nghe giọng nói lạ, tôi ló đầu ra, ngay chỗ đầu tàu, lại thấy vơ người tài công ngồi đó, ngay chỗ lần trước khi anh Tư nhập vào bà, bà tiếp tục nói và tự nhận mình là bà Mầu, chủ quán cây xăng Esso ở Ngã tư Phú Nhuận. Bà kể, bà vượt biên cùng con gái, tàu gặp cướp Thái Lan, chúng nó lấy hết tiền bạc rồi giết mọi người quăng xác xuống biển. Bà thấy thuyền này có vài người nhân đức nên muốn cứu dùm, bà còn dặn hãy cầu nguyện đi, Mẹ Nam Hải sẽ giúp. Lần này thì mọi người không còn nghi ngờ gì nữa, tất cả quỳ xuống và cầu nguyện xin Đức Mẹ, xin Phật Bà, Mẹ Nam Hải, sáng mai khi thủy triều lên, mong tầu sẽ được cứu thoát ra khỏi vùng san hô này. Lại một lần nữa, chúng tôi được cứu thoát nhờ giòng nước thủy triều dâng rất cao và cũng nhờ những lời cầu nguyện của mọi người, sóng đã kéo con tàu bất hạnh của chúng tôi ra khỏi vùng san hô . Qua những điều kỳ lạ xảy ra, lần này, mọi người trên tàu đều tin có thần linh ở đâu đây, nên ai nấy không còn chửi bới, cãi cọ nhau nữa, nhưng trong lòng tất cả đều rất lo lắng và sợ hãi khi thấy con tàu cứ lênh đênh trên mặt sóng nước mênh mông, không thấy đâu là bến bờ. Ban đêm, biển trông thật dễ sợ. Vài người chúng tôi bảo nhau ra đầu tàu cầu nguyện, thấy vậy cả tàu quỳ xuống cầu theo. Đang cầu nguyện bỗng bé Dương kêu lên: - Ngôi sao đỏ, chị ơi, có ngôi sao đỏ trên trời kìa. Ngẩng nhìn lên, quả nhiên một ngôi sao màu đỏ rực hiện giữa bầu trời đen thẫm. Mọi người lại bàn tán và cho là đấng thiêng liêng hiện ra để cứu mình, thế là tiếng cầu nguyện lại vang lên. Những người quá yếu, không thể ngồi dậy được cũng cố gắng chắp tay lại miệng thì thầm van vái. Cả tàu hầu như không ngủ, chúng tôi cầu nguyện suốt đêm, và tàu cứ trôi không định hướng, theo ngôi sao đỏ trên trời. (Chúng tôi nghĩ thế) Bình minh đã ló dạng, mặt biển như rực sáng lên. Một cảnh tượng tuyệt vời hiện trước mắt mọi người, một quả cầu vàng chói lói, nằm giữa những tia rẻ quạt rực rỡ đủ màu, dưới mặt biển đang từ từ nhô lên. Ôi, đẹp vô cùng! Hơn một tháng qua, bao nhiêu lần mặt trời mọc, thế mà có lần nào tôi được xem đâu, vì biết bao nhiêu biến cố đau buồn xảy ra, tôi cứ thu mình dưới hầm tàu mong tránh những tai họa, những phiền phức vô cớ cho mình. Lần này vô tình được nhìn cảnh bình minh trên biển quá đẹp, làm tôi quên mất hoàn cảnh cùng quẫn của mình. Nhưng với bọn chủ tàu, cảnh sắc đó có lẽ chẳng xa lạ gì, chúng chẳng để tâm, chính vì vậy mà chúng đã phát giác ra gần đó, bóng dáng một chiếc tàu đánh cá của dân chài. Thế là mọi người la hét để kêu gọi họ, những chiếc áo được dùng làm tín hiệu cấp cứu, vẫy vẫy tới tấp. Chiếc tàu kia, có lẽ họ đã thấy, nên chạy về phía chúng tôi. Không nỗi sung sướng nào hơn, như vừa chết đi lại được sống lại, không cần biết chiếc tàu này có phải là của bọn cướp biển như cướp Thái Lan không, chúng tôi cũng vẫn vui mừng, kẻ khóc, người cười, ai nấy đều quỳ xuống tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Trời Phật, tạ ơn những người khuất mày, khuất mặt, đã giúp chúng tôi. Lần này, thần may mắn đã mỉm cười với chúng tôi, đây là tàu đánh cá của dân chài Philippin, họ bằng lòng giúp đưa chúng tôi về hòn đảo Mangsee nơi họ sinh sống. Sau khi đã ngồi yên trên tàu mới. Tôi đưa mắt lên nhìn trời, ngôi sao đỏ đã biến mất từ bao giờ. Không biết có phải ngôi sao đỏ là thiên sứ dẫn đường đưa tàu chúng tôi đến nơi này để gặp được tàu Philippin không, nhưng trong lòng tôi vẫn thầm cám ơn Trời Phật đã không bỏ chúng tôi, bất giác tôi niệm thầm câu chú Quan Thế Âm: - Nam Mô Đại Từ Đại Bi, Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn, Quảng Đại Linh Cảm Bạch Y, Quan Thế Âm Bồ Tát. Chúng tôi ở lại Mangsee ba ngày, sau đó được chuyển qua thủ đô Manila bằng tàu chiến của Philippin và cuối cùng là đảo Palawan, tại đây chúng tôi chờ để làm thủ tục đi đến những quốc gia nơi họ chấp nhận người tị nạn vượt biên. Thế là chuyến hành trình vượt biên bão táp, lênh đênh trên biển của tôi chấm dứt sau gần hai tháng trời. Số người bước chân xuống tàu là 66 và số người được bước lên đất liền chỉ còn 25. Nhìn những con số mà thấy đau lòng chỉ vì sự tham lam và bất lương của lũ vô sỉ, lũ sát nhân mà hại chết nhiều người trong đó có những đứa bé vô tội. Chuyện đã qua, nhưng nỗi đau vẫn còn đó. Xin nguyện cầu cho các linh hồn sớm tiêu diêu nơi cõi phúc. Có lẽ, chẳng mấy người tin những điều tôi kể, bởi họ không được chứng kiến tận mắt những gì tôi đã thấy, đã nghe. Vâng, vì họ không thấy được cảnh thi thể của chồng tôi sau khi nghe mọi người khuyên đừng làm tôi khổ và lúc đó anh đã trôi nhanh ra xa như thế nào. Cảnh vợ người tài công đứng lên đầu tàu hét lên với giọng đàn ông, giọng của anh Tư đã chết, mà cứu tôi khỏi bị ném xuống biển. Cảnh chiếc tàu được Cá Ông( chúng tôi tin thế) đưa ra khỏi vùng bão tố. Cảnh bà Mầu nhập vào vợ tài công kể rõ tên tuổi, địa chỉ, cùng hoàn cảnh của mình lúc vượt biên ra sao. Cảnh ngôi sao đỏ ở đâu lại xuất hiện đúng lúc để dẫn đưa tàu chúng tôi đến vùng biển của Philippin mà để được cứu như vậy. Sau này khi ở lại Mangsee ba ngày, chúng tôi đã được anh chủ tàu kể lại và bảo là chúng tôi thật may mắn, vì tàu của anh chưa bao giờ đi vào vùng biển này để đánh cá, vì đây là vùng biển chết, vùng biển các anh thường đi không hiểu sao mấy hôm nay đánh không được cá, nên các anh đánh bạo, quyết định chuyển hướng về vùng biển này, và đã gặp được tàu của chúng tôi. Nghe xong câu chuyện tất cả chúng tôi đều nghĩ đến ngôi sao đỏ. Không lẽ lại có những sự trùng hợp quá diệu kỳ như vậy à? Như tôi đã nói, những chuyện về tâm linh, hay những chuyện huyền bí, thì muôn đời vẫn không ai giải thích nổi. Tin hay không là tùy từng người, riêng tôi, tôi nghĩ phải có duyên mới có cơ may được gặp những điều huyền bí mà ít người được gặp, vậy đã được thấy, được nghe, được sống trong hoàn cảnh đó tại sao lại không tin nhỉ? Tin để sống cho thật tốt vì Thượng Đế luôn ở quanh để giúp chúng ta. Tường Thúy Tucson – AZ – 23 / 3 / 2022 Ngậm Ngùi Thơ Huy Cận, Nhạc Phạm Duy Share Lại Hoài Niệm T.TT |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Đoạn Trường “Hát Ô”Hồ sơ tỵ nạn người Việt
thuộc chế độ VNCH trên bàn làm việc của nhân viên Sở di trú Hoa Kỳ tại Sài Gòn,
thập niên 1990 (ảnh: Peter Charlesworth/LightRocket via Getty Images) Sau sáu năm tù phờ phạc ở trại Xuyên Mộc, tôi thất thểu trở về làm phó thường dân nơi một xã hẻo lánh vùng Bến Tre – chỗ chôn nhau cắt rốn của mụ vợ thân yêu. Nói phó thường dân cho oai, chứ thật sự chỉ là thằng tù giam lỏng, đi đâu cũng có kẻ rình người rập bất kể ngày hay đêm. Mỗi tuần, theo chỉ thị, tôi còn phải cuốc bộ gần năm cây số đường vườn để tới công an xã, khệ nệ trình cuốn sổ tay dày cộm có ghi rõ từng chi tiết sinh hoạt hàng giờ, để báo cáo với tên công an trưởng (dường như chưa một lần cắp sách tới trường). Ở ấp, tôi vâng lệnh chi bộ ấp như vâng lệnh ông vua, lao động xã hội chủ nghĩa mút mùa, vì sợ phải trở lại trại tù nhai tới nhai lui nắm mì lát chua như bã rượu. Làm nhiều ăn ít, riết rồi tôi co lại như một con tép riu, lom khom như tên tiều phu già nua trước tuổi. Vì vậy, khi có chương trình Hát Ô (Humanitarian Operation – HO) ban ra, tôi vội vã lên tỉnh, hồi hộp dò la ở những nơi chốn có bạn tù. Hồi hộp, dò la là điều tất nhiên ở một xã hội theo chế độ cộng sản. Họ thường nói một đàng, nhưng làm một nẻo. Họ bảo các thành phần chế độ cũ trình diện “học tập cải tạo” một tháng, thì sau khi “gom bi”, các thành phần đó ở tù mút chỉ cà tha. Họ bảo lao động là vinh quang, xây dựng xã hội ấm no – thì sau một thời gian cuốc đất trồng khoai, nhân dân chỉ còn trơ lại cái quần tà lỏn. Khi HO một chuẩn bị lên đường, chúng tôi mới tin đây là một chính sách đúng đắn, do áp lực từ Mỹ. Lúc đó, Sở Công an tỉnh Bến Tre, ngày nào như ngày nấy, đầy nhóc những người chế độ cũ chen chân nhau để mua hồ sơ xuất cảnh. Hồ sơ xuất cảnh được các tay công an “kinh doanh” một cách tận tình. Giá của một bộ hồ sơ quá đắt, so với túi tiền còm cõi của một tên tù lưu đày vừa mãn hạn. Vậy mà, chúng tôi cố chạy chọt khắp nơi, vay mượn đầu này đầu kia để mong sao sớm thoát khỏi cái chế độ “thầy chạy” này. Điền đơn, viết hồ sơ… đó là nghề của tôi, dễ ợt như ăn cơm bữa. Nhưng chứng thực hồ sơ mới là chuyện khó. Khó đến nỗi tôi luôn nhớ suốt đời, như vết thương để lại trên thịt da một vết sẹo hằn sâu. Hồ sơ được luân chuyển đến tay các “đại ca” từ: Ấp, đến huyện, rồi qua tỉnh, về thành phố, ngược xuôi ra Bắc…, lao đao trôi nổi, lận đận trăm chiều. Hồ sơ đi tới đâu, tôi phải thiết tha khẩn cầu, ỉ ôi năn nỉ. Nhưng rốt cuộc rồi cũng chẳng qua “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”. Tôi muốn bắt đầu câu chuyện từ ấp – Ấp Phú Ninh, nơi tôi dung thân sau những năm tháng mãn tù. Sau 1975, ấp này có nhiều tay cách mạng ba mươi ra nắm chính quyền. Cách mạng ba mươi là thành phần làm ăn sinh sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, nhưng sau ba mươi Tháng Tư, lúc cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, thành phần này bỗng trở cờ, ra thờ ma, làm việc cho cộng sản. Trưởng ấp Phú Ninh thuộc thành phần này. Lúc trước, hắn chỉ là một cậu học sinh tầm thường, nương cậy vào nhà chùa để trốn quân dịch. Sau này, vì bọn Việt Cộng quá dốt nát, một chữ lận lưng cũng không có, nên mới đề cử tên này ra đảm nhận chức ấp trưởng. Vừa thấy tôi cầm xấp hồ sơ lấp ló trước cửa, hắn thao thao lên lớp ngay. -Giờ này mà anh chưa chịu từ bỏ, dứt khoát với tư tưởng cũ. Anh vẫn tin vào bọn đế quốc Mỹ. Tôi cho anh biết, anh qua bên đó chỉ làm cu-li cho bọn chúng mà thôi. Sức mấy mà cái lon sĩ quan của anh được chúng phục hồi? Tôi nhẹ nhàng giúi vào tay hắn cây thuốc ba số 5 mà tôi phải vác mía mướn đến “bá thở” mới mua được. -Luyến tiếc gì nữa ba cái lon lá cà chớn ngày trước làm chi anh. Tôi muốn qua Mỹ vì tương lai thằng con. Qua bển, học hành thành tài, nó trở về phục vụ cho đất nước. Quê hương mình, làm sao bỏ được anh? Hắn lấy tay xoa xoa hộp thuốc, đổi giọng, cười khì khì: -Anh nói nghe chí lí, tôi phục đó nha! Thôi, đưa hồ sơ tôi chứng cho. Nhưng nhớ, trước khi lên máy bay, cho anh em chúng tôi một chầu rượu nhe! -Chuyện nhỏ. Anh giúp tôi, làm sao quên ơn anh được? Cái cửa đầu tiên trót lọt, tôi vừa mừng thầm, vừa chưởi thề nho nhỏ. Ngày mai, đem hồ sơ lên huyện, tôi phải đạp xe gần 20 cây số tiểu lộ. Nói tiểu lộ để phân biệt với các con lộ có đá, tráng nhựa. Nó chỉ là một con đường đất gập ghềnh. Trời nắng, gặp chiếc Honda nào rồ máy chạy ngang, tôi đành tấp vào lề, hít đống bụi bặm đang bay loạn xà ngầu trước mặt. Còn trời mưa, xe đạp không còn cõng mình, mà mình phải cõng xe đạp, lò dò từng bước trên con đường sình lầy trơn trợt như thoa mỡ bò. Nhưng dù gian nan cách mấy, sáng sớm, tôi phải quyết định đi. Người ta nói, nếu cái cột đèn biết đi, nó cũng bỏ nước ra đi trong thời gian này kia mà! Tôi sắm sẵn một sợi dây lòng thòng, phòng hờ trời mưa, tôi sẽ quàng xe đạp lên vai, an toàn trở về. Sài Gòn, 1983 (ảnh: Alex Bowie/Getty Images) Huyện Châu Thành nằm trên con lộ độc đạo, dẫn vô thị xã Bến Tre. Huyện đang xây dựng dở dang. Gạch đá ngổn ngang. Công trình dường như qui mô, lớn rộng. Bên cạnh đó, một dãy nhà dân lụp xụp nghèo nàn, tương phản nhau một cách kỳ cục. Căn nhà lá khang trang dựng lên, kế bên công trình, tạm thời làm ban trị sự của huyện. Tôi chuẩn bị sẵn thuốc lá, gói ghém cẩn thận để khi cần, lót tay một cách nhẹ nhàng. Nhưng tôi vỡ mộng, người tiếp tôi hôm đó là một thiếu nữ tuổi độ tròn trăng. Cô bé có vóc dáng của cô học trò thùy mị. Vóc dáng này, hình ảnh này, trong quá khứ, đối với tôi – rất dễ thuyết phục. Nhưng, tôi lại vỡ mộng thêm lần nữa, khi nghe giọng nói sành đời của cô cứng rắn thốt lên: -Ông về đi. Cứ để hồ sơ ở đây. Tháng sau tới… sẽ biết tin. Tôi luống cuống, mân mê hộp thuốc lá cứu tinh, giờ đây đã trở thành vô dụng. -Xin cô vui lòng chứng sớm dùm. Tháng sau… lâu quá! Cô bé bỏ viết xuống, nhìn tôi đăm đăm, dường như có hận thù với tôi từ kiếp nào. Xong, cô lạnh lùng nói: -Lâu hả? Nhiều người còn lâu hơn ông kìa. Có khi họ phải đợi một năm, hai năm… vẫn chưa xong đó! Tôi thất vọng, nhưng ráng cố gắng trì hoãn, xuống nước: -Cô làm ơn giúp dùm. Nhà tôi ở xa, đi lên đi xuống rất khó khăn. Cô bé bực dọc, hầm hầm đẩy hồ sơ tôi sang một bên: -Khó khăn quá thì ông cầm hồ sơ về đi. Tôi không có thì giờ. Tôi tiu nghỉu trở về. Nằm chờ tháng sau, khăn gói lên huyện thêm lần nữa. Lần này, tôi chuẩn bị một phong thư tiền, cẩn thận gói ghém kín đáo. Người ra tiếp tôi, hôm nay, cũng vẫn cô bé tròn trăng, vóc dáng quê mùa. Chưa kịp chào hỏi, cô bé đã gầm gầm: -Hồ sơ ông chưa xong. Chủ tịch huyện bận công tác. Tháng sau tới gặp. Tôi chán nản, định xổ một tràng cho bớt tức tối. Nhưng tôi kịp nén lại, nở nụ cười duyên gượng gạo với cô bé. -Tôi có chút quà tặng cô. Xin cô vui lòng nhận và giúp dùm. Phong thư đặt nhẹ nhàng lên bàn, và nhẹ nhàng hơn nữa là ngăn tủ được kéo ra cho phong thư rớt xuống một cách êm đềm. Hành động này rất nhanh nhẹn và điêu luyện, chứng tỏ người nhận rất quen thuộc với trường hợp này. -Được rồi. Ông ngồi chờ chút. Tôi lên gặp phó chủ tịch, xem hồ sơ của ông đã ký xong chưa? Tôi đặt đít xuống ghế, nhấp nha nhấp nhổm gần cả tiếng đồng hồ, mới thấy cô bé yểu điệu bước ra. -Ông hên lắm! Hồ sơ đã ký rồi. Lên tỉnh ngày hôm nay đi. Nộp luôn cho xong. Thế là hồ sơ xuất cảnh của tôi được lên tỉnh. Và không biết nó chu du nơi nào mà cả một năm sau… vẫn bặt vô âm tín. Buồn tình, tôi đi tìm các bạn tù hỏi ý kiến. Thì ra các HO phải lên Sài Gòn mướn dịch vụ xuất cảnh, cũng do công an Việt Cộng quản lý và kinh doanh. Tôi chạy ngược chạy xuôi vay mượn thêm hai chỉ vàng, vội vã lên Sài Gòn tìm kiếm dịch vụ. Dịch vụ nằm trong một ngôi nhà to lớn, thênh thang những hàng ghế lớn nhỏ dành cho khách ngồi đợi. Tôi chen vào đám đông, định tiến tới phía trước tìm người hỏi thăm, thì có một bàn tay nắm vai tôi kéo ngược lại. Tôi ngó xuống bàn tay. Cánh tay liễu yếu đào tơ của một cô gái có chút nhan sắc. -Anh ra ngoài này, em có chuyện muốn nói với anh. -Chuyện gì? Tôi phải vào lo dịch vụ. Còn về Bến Tre nữa, kẻo trễ xe. Cô gái nũng nịu: -Ít phút thôi! Làm ơn giúp em! Tôi ra ngoài với cô gái. Ánh nắng ban trưa nhấp nha làm đôi má cô gái hồng lên, một cách gợi cảm. -Em muốn ghép hồ sơ với anh. Qua Mỹ, chúng mình sẽ thanh toán sòng phẳng. Tôi ngắm cô gái từ đầu đến chân, rồi cuối cùng chối từ, nhưng trong lòng thật tình rất tiếc. -Xin lỗi, tôi còn vợ con. Vô phương giúp cô được. Nhờ hai chỉ vàng, hồ sơ xuất cảnh của tôi được hoàn tất một cách nhanh chóng. Gia đình tôi thuộc HO 20 và khoảng tháng sau sẽ có “Hộ Chiếu”. Tôi trở về căn chòi xiêu vẹo, nằm mơ tưởng đến tương lai diệu vợi. Rồi đây vợ tôi sẽ không còn cảnh lội ruộng, móc mương. Con tôi sẽ ung dung cắp sách đến trường, miệt mài cho đến khi thành đạt. Tôi sẽ an hưởng thanh nhàn, bù lại những năm tháng tuổi trẻ bất hạnh trong chiến tranh và lao tù. Nhưng khi cầm sổ “hộ chiếu” trên tay, tôi lại phải đối đầu với những gian nan gai góc khác. Muốn định cư ở Mỹ, gia đình HO phải trải qua hai giai đoạn: Sơ vấn và phỏng vấn. Giai đoạn sơ vấn là giai đoạn gặp công an Việt Cộng để khai báo quá khứ và thiết lập hồ sơ, xong rồi, đưa qua phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Khi gặp phái đoàn Mỹ, số phận HO mới được định đoạt. Ngày sơ vấn, tôi đeo xe đò lên Sài Gòn trước một ngày, để hôm sau đi thẳng đến chỗ xuất cảnh sớm nhất. Như lần trước, tôi chuẩn bị một số phong thư. Thằng em út của tôi nhìn thấy, liền kề tai nói nho nhỏ: -Tụi công an ăn hối lộ nhiều quá, tai tiếng tùm lum. Nên lúc này, cấp trên tụi nó ra lệnh thi hành chính sách trong-sạch-hóa. Anh coi chừng việc đi Mỹ của anh có thể bị trở ngại, vì tụi nó đang thi hành chính sách này một cách nghiêm chỉnh. Quả đúng như lời thằng em nói, chỗ xuất cảnh thênh thang, bốn bức tường chung quanh đều treo đỏ các khẩu hiệu bề thế, đại loại như: Chống hối lộ, trong sạch hàng ngũ, đạo đức cách mạng, noi gương bác Hồ… Tôi xé vội các phong thư, rồi xếp hàng nghiêm chỉnh, đàng hoàng như các khẩu hiệu treo trên tường. Ngồi chờ từ sáng sớm đến gần xế chiều, tên tôi vẫn chưa nghe gọi lên. Ồ! Thật lạ quá! Tôi là người ghi danh đầu tiên kia mà. Sáng tờ mờ, tôi đã đến đây trước, lúc cánh cổng chỗ xuất cảnh chưa mở kia mà. Nóng lòng, tôi đi tới đi lui, đi xuôi đi ngược. Cuối cùng, tôi chạy vội đến tên công an ngồi ghi danh trước cổng: -Anh ơi! Tôi là người đến đây đầu tiên, sao mãi tới bây giờ vẫn chưa được gọi tên? Tên công an cộc lốc: -Cứ ngồi chờ đi. Có một người bạn tù thấy vậy, khều tôi ra ngoài hành lang: -Anh “lót tay” cho tụi nó chưa? -Hả? Anh không thấy những khẩu hiệu to bề bề trên tường sao? Người bạn tù lắc đầu: -Anh ngây thơ quá! Nó nói vậy mà không phải vậy. Anh phải hiểu ngược lại chứ! Tôi chạy vội vào nhà vệ sinh, sau khi xin người bạn tù tốt bụng vài mảnh phong bì. Rồi, tôi lại chạy vội về phía tên công an gác cổng. Vài phút sau, tên tôi được gọi lên ngay. Cuộc sơ vấn cũng vậy, y chang như những lần gặp gỡ trước. Cũng phong bì đặt nhẹ nhàng trên bàn. Cũng ngăn tủ được kéo ra, phong bì thong dong rớt xuống. Cuộc phỏng vấn của phái đoàn Mỹ thì khỏi cần lo, vì gia đình tôi có đủ giấy tờ chứng minh một cách hợp lệ. Được phái đoàn Mỹ chấp thuận, gia đình tôi rất mừng, mừng đến rưng rưng nước mắt. Nhưng công an Việt Cộng vẫn chưa chịu tha, họ bắt chúng tôi xác nhận một số giấy tờ, và lại tiếp tục đi lòng vòng để xin chữ ký từng người. Sài Gòn, thập niên 1980 (ảnh: Christopher Pillitz/Getty Images) Trước khi rời Việt Nam, gia đình tôi phải hoàn tất cấp tốc các đơn từ khôi hài như sau: Đơn xin xác nhận không thiếu nợ của nhân dân ở địa phương; chứng chỉ hợp lệ tình trạng thuế vụ; chứng nhận về nhà ở của người đi “nước ngoài”; giấy xác nhận không thiếu nợ ngân hàng thuộc chế độ cũ trong phạm vi tỉnh Bến Tre; giấy xác nhận đã trả thuế đất và thuế nhà năm 1973… Năm 1982, khi thả ra từ trại tù Xuyên Mộc, tôi về quê vợ đốn cây sua đũa làm cột kèo, chẻ tre và cau làm nẹp, dựng tạm một căn chòi cho gia đình tôi dung thân. Buồn cười thay, lúc được phái đoàn Mỹ chấp thuận, căn chòi này đã xiêu vẹo mục nát, sắp sửa đổ lăn ra. Tôi có làm đơn xin dỡ chòi, nhưng chính quyền địa phương không cho phép, họ bảo phải định giá căn chòi để đóng thuế nhà. Và muốn hợp pháp, tôi phải làm đơn xin tặng căn chòi mục nát cho ông anh vợ, trước khi ra đi. 10 năm ở quê vợ, tôi đã miệt mài biến những mảnh đất hoang vu đầy lùm bụi thành những miếng vườn phì nhiêu, cây trái xum xuê. Cảm tạ công lao đó, ông anh vợ đã đền bồi cho gia đình tôi ba cây vàng làm vốn về xứ người. Ngày ra đi, tôi trích 5 chỉ để trả tiền dịch vụ sắp xếp chuyến bay, và sắm một số hành lý cho vợ và con. Còn lại, tôi gói ghém tất cả cho vào túi xách tay, mang theo bên người. Từ Phú Ninh (quê vợ), gia đình tôi phải đi nhiều chặng đường mới lên tới Sài Gòn. Bôn ba qua vài ải, từ tàu đò, đến xe đò, rồi xe lam… Khi đặt chân tới Tân Định, mới hay túi xách tay bị kẻ gian rọc rách, và cuỗm mất toàn bộ tài sản của tôi! Đau quá, tôi định đi báo công an, nhưng nghĩ lại, sáng mai lên máy bay rồi. Đành nuốt lệ, tự an ủi: Của mất thay người vậy. Vào đến phi trường, ngồi ngay cổng để chờ giờ lên máy bay, gia đình tôi cũng vẫn chưa yên ổn. Tên công an lảng vảng phía sau, theo tôi bén gót. Hắn ngoắc tôi ra ngoài hành lang, lạnh lùng nói: -Này, còn bao nhiêu tiền móc hết ra đi. Qua Mỹ rồi, tiền Việt Nam chỉ có nước vứt đi. Tôi gom mớ tiền tống khứ cho hắn, như tống khứ tất cả vận xui ra khỏi cuộc đời mình. Cám ơn Thượng Đế. Cám ơn cuộc đời. Cám ơn tấm lòng nhân hậu của các vị hảo tâm. 17 năm qua, nơi xứ người, từ bàn tay trắng lao lung, gia đình tôi đã có nghề nghiệp vững chắc. Những đứa cháu nội xinh đẹp, khôn ngoan lần lượt ra đời. Những niềm vui tràn trề xuất hiện xua tan đi những nỗi đau thống thiết của quá khứ bất hạnh. HO chỉ là danh sách, chỉ là ngôn từ được đặt ra để nói đến diện tù nhân chính trị. Nhưng HO là nhân chứng, một biến động lịch sử to lớn xảy ra năm 1975. Có HO, dùng danh từ HO, người ta mới phân biệt được tù nhân chính trị thuộc giai đoạn nào trong lịch sử. Từ đó, về sau, khi lật lại từng trang sử Việt, thế giới và hậu duệ chúng ta mới xác nhận được ngày 30 Tháng Tư 1975 chính là ngày quốc hận của Việt Nam Cộng Hòa. Phạm Hồng Ân |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Tuy Hòa Một Thời Gió CátTôi không phải là người Phú Yên, cũng chẳng có mối tình nào gởi lại Tuy Hòa, nhưng dường như cái xứ có núi Nhạn sông Đà thơ mộng ấy đã mãi vương vấn tâm hồn tôi, in đậm trong ký ức tôi những mối tình đẹp, thật dễ thương của đám bạn bè, đồng đội, cùng bao kỷ niệm vui buồn một thời trận mạc. Khi ấy bọn tôi còn rất trẻ, đa số vừa mới rời khỏi học đường vài ba năm để bước chân vào nơi gió cát. Ngày mang “sự vụ lệnh” về trình diện đơn vị tại Ban Mê Thuột, tôi và bốn thằng bạn cùng khóa cứ ngỡ cuộc đời mình sẽ dính liền với rừng núi của xứ “bụi mù trời” và “buồn muôn thuở”, chỉ còn biết nằm nghe tiếng chim kêu vượn hú. Ai ngờ sau hai tuần lang thang quanh quẩn trong con phố buồn hiu, ngắm mấy cô gái Thượng mang gùi đi xuống đi lên trên con đường A Ma Trang Long bám đầy đất đỏ, bọn tôi được ông Trưởng phòng 1 lái xe đi tìm chở về Câu Lạc Bộ Sĩ Quan, vội vàng lấy balô quân trang, rồi đưa thẳng ra phi trường Phụng Dực, tháp tùng phi cơ của ông tư lệnh, đại tá Lữ Lan, bay xuống đơn vị đang hành quân tại Khánh Hòa, ngay vùng biển quê hương tôi. Đơn vị tôi lúc ấy, chắc cũng thuộc loại đánh đấm có hạng nên được chọn làm lực lượng lưu động trừ bị cho Quân Đoàn. Nay đây mai đó.Trước khi di chuyển đến đây, đã có mặt khắp nơi: từ Bình Tuy, Bình Thuận, Ninh Thuận, đến Lâm Đồng, Quảng Đức… Khi đến đơn vị, tôi rất vui. Vì ngoại trừ ông tiểu đoàn trưởng, hầu hết tất cả sĩ quan trong đơn vị đều trẻ măng, độc thân vui tính, anh nào “đàn anh” nhất cũng chỉ vừa rời ghế nhà trường năm ba năm. Ba anh trung úy đại đội trưởng đều dạn dày lửa đạn. Một anh tốt nghiệp khóa 16 VB Đà Lạt, hai anh khóa 13 Thủ Đức, một gốc Huế một gốc Bắc Kỳ di cư. Nhưng anh nào cũng đánh đấm rất gan lì và vui vẻ chịu chơi. Tôi được bổ nhậm về đại đội của anh trung úy gốc Huế nhưng lại thân thiết với anh trung úy gốc Bắc Kỳ, vì ngoài các đức tính khác anh còn có nụ cười và ánh mắt dễ làm “chết người ta”. Không biết có bao nhiêu “hồn (đã) lỡ sa vào đôi mắt…anh” rồi, nhưng tôi là thằng lính ngang tàng mà cũng phải lụy anh trong cái tình huynh đệ. Sau này và cho mãi đến bây giờ, chúng tôi vẫn còn giữ cái tình “anh em tri kỷ” ấy. Đám trung đội trưởng tò te, ngoài tôi ra còn có bốn thằng cùng khóa 18 Thủ Đức với tôi, vài ba anh khóa 15, 17 và hai chàng khóa 19 VB Đà Lạt đầy phong độ, cũng vừa mới ra trường năm ba tháng trước. Tôi nhận trung đội với chỉ 25 thằng lính, nửa Kinh nửa Thượng. Ngay sau khi nhận trách nhiệm, công việc đầu tiên của tôi là dắt đám lính tráng vào QYV Nguyễn Huệ để dự đám tang, chào tiễn đưa ông Thượng sĩ già, trung đội trưởng tiền nhiệm ra nghĩa trang Đồng Đế. Ông vừa tử trận vài ngày trước đó trong một trận phản phục kích tại Tu Bông (Vạn Giã) và tôi đến trung đội để thay thế ông. Nhìn bà vợ và mấy đứa con của ông kêu gào, khóc la thảm thiết, tôi hình dung ra con đường thê lương trước mặt, và tự trấn an mình: mai này mình chết, may ra cũng không có tiếng quả phụ và trẻ thơ khóc lóc! Thời ấy, nhờ ảnh hưởng kết quả của kế hoạch Ấp Chiến Lược còn sót lại, nên tình hình địch ở mọi nơi còn rất yếu, hầu hết là các lực lượng du kích và địa phương, nên bị tiểu đoàn chủ lực lưu động thiện chiến của tôi đánh cho tan tác. Do vậy chúng tôi đến đâu, cũng được các ông tỉnh trưởng đón tiếp nồng hậu. Sau hơn ba tháng theo đơn vị tiếp tục hành quân qua nhiều làng mạc, rừng núi và dẫm nát những mật khu Đồng Bò, Đá Bàn, Hòn Hèo của địch, đơn vị kéo về trú đóng trong một vườn dương bên bờ biển Nha Trang. Đám sĩ quan bọn tôi được ông tỉnh trưởng ưu ái dành cho bốn phòng trong khách sạn Phụng Hoàng, nằm trước ga xe lửa. Mệt và mất ngủ vì vừa trải qua cuộc phục kích đêm hôm trước, nên sau khi tắm rửa xong, tôi ngủ vùi một giấc. Thức dậy, nhìn ra ngoài, ánh đèn đường đã bắt đầu sáng. Mở ba lô tìm bộ quân phục mới để thay bộ quần áo trận còn dính đầy bùn lầy, cho hợp với khung cảnh phố phường. Dự định đi một vòng tìm lại những hang động tuổi thơ cùng dấu tích mấy mối tình học trò của vài năm trước, tôi bỗng nghe tiếng ông tiểu đoàn trưởng gọi tất cả bọn tôi lên xe trở về đơn vị, điểm danh sắp xếp lính tráng lên tàu Hải quân, đã ủi bãi ngay phía trước TTHL Hải Quân. Ra khơi lúc 11 giờ đêm. Qua hơn một đêm lênh đênh trên biển, tàu cặp vào bến của Duyện Đoàn 24 HQ bên bờ biển Tuy Hòa. Trong số những người ra đón đơn vị chúng tôi, ngoài ông tỉnh trưởng- trung tá Trần Văn Hai, anh trung úy Duyên Đoàn Trưởng HQ, tôi còn bất ngờ nhận ra ông anh con bà cô, trung úy thuộc Tiểu Đoàn 23 BĐQ đang hành quân trú đóng ở đây. Từ khi anh vào quân đội, bao nhiêu năm anh em không gặp, bất ngờ lại nhận ra nhau ở một nơi xa lạ, vui mừng quá đỗi. Anh em vừa mới ôm nhau, hỏi han vài câu, thì đơn vị nhận lệnh lên xe di chuyển. Ông anh kéo tôi và mấy sĩ quan cùng đại đôi lên xe Jeep của anh chạy theo đơn vị. Về khu Nhà Bằng, vị trí đóng quân tạm, sắp xếp đơn vị xong, bọn tôi theo anh ra phố. “Moa đãi các toa một chầu để biết mặt Tuy Hòa – xứ nẫu”. Anh bảo thế trước khi lái xe đi. Tôi bỗng giật mình khi nghe “xứ nẫu”. Cái tên “Nam Ngãi Bình Phú” và “Liên Khu Năm” vẫn còn hằn trong tâm trí tôi từ lúc mới lên năm, bởi cha tôi bị Việt Minh bắt đưa ra đây hơn ba năm khi ông là thầy giáo đang dạy trường Pháp Việt, và mẹ tôi qua đời trước đó hai năm. Kể từ ấy tôi sống với ông bà nội, thiếu vắng cả cái tình phụ mẫu. Có lẽ đã phải trải qua những năm dài chiến tranh, nên phố xá Tuy Hòa ngày ấy còn “hoang sơ” lắm. Ngoài văn phòng Air Vietnam hai tầng và khu chợ mới xây dang dở, hầu hết là nhà cũ. Ông anh chở bọn tôi đến một cái quán nằm bên cây cầu, trên đường hướng ra Quốc Lộ 1. Tôi không còn nhớ tên, nhưng quán này nổi tiếng về món cá lóc nướng, và đặc biệt có mấy o Huế rất xinh. Để tránh tình trạng “tấn công nhầm mục tiêu”, ông anh tôi cho biết: – Tuy Hòa có hai quán ăn nổi tiếng, đều có hai cô chủ “hoa khôi” gốc Huế, nhưng một quán đã có ông quan năm trung đoàn trưởng đóng đô, còn quán này là sào huyệt của ông chi đoàn trưởng Thiết Giáp có tiếng hào hoa. Nhìn mặt thằng nào cũng buồn xo, ông anh tôi cười, an ủi: -Yên chí đi! Tuy Hòa còn thiếu gì cô bé dễ thương. Trường trung học Nguyễn Huệ có biết bao cánh hoa biết nói, và mai mốt khi các toa ra vùng hành quân, sẽ có khối cậu chết mê chết mệt vì mấy cô gái quê! Bọn lính trong đơn vị moa thường kháo nhau: “Phú Yên đến dễ khó về” đấy! Thấy trong đám bọn tôi có hai chàng khóa 19VB, ông anh cho tài xế chạy về đơn vị đón một anh cùng khóa 19 ra gặp bạn đồng môn. Hơn 20 phút sau, một thiếu úy BĐQ cao ráo đẹp trai đến nơi chạy vào tay bắt mặt mừng. Cái tình Võ Bị quả là thắm thiết. Anh được giới thiệu là ” Chương Cl***ic” .Và để giải thích cái nick name của mình, anh mượn cây ghita của cô chủ quán, độc tấu mấy bản nhạc Tây cỗ điển. Ngón đàn của anh quả thật tuyệt vời! Chỉ sau ba hôm ở thành phố, đơn vị tôi có lệnh di chuyển đi Hiếu Xương, đến đầu cầu Bàn Thạch để hành quân tái chiếm lại một vài nơi đã bị Cộng quân làm chủ tình hình. Ông tỉnh trưởng cũng đã cảnh báo đám sĩ quan trẻ chúng tôi: -Ở vùng ấy nhiều gia đình có thân nhân theo VC, nên mấy chú phải cẩn thận, nhất là thấy mấy cô con gái đẹp đừng có vội nhào vô. Trước đây đã có một anh chàng sĩ quan đề lô Pháo Binh mết lòng con bé thợ may, hành quân xong cứ ra ngồi ngoài quán, cuối cùng không thấy trở về đơn vị nữa, mất tích luôn! Đám lính trẻ bọn tôi “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” nên chỉ còn nhớ tới “mấy cô con gái đẹp” trong câu nói ấy của ông thôi. Trung đội tôi được lệnh đóng quân giữ an ninh cầu Bàn Thạch và khu vực chung quanh. Cây cầu xi măng đúc đã bị VC giật mìn sập, nên vừa được Công Binh bắc cây cầu gỗ tạm. Cầu nằm gần chợ, và phía bên kia là vùng mất an ninh. Một tiểu đội của tôi nằm tiền đồn bên ấy. Ban chỉ huy trung đội và một tiểu đội bố trí ngay dưới gầm cầu. Sắp xếp vị trí đóng quân và canh gác xong, đã gần 5 giờ chiều, tôi bảo mấy chú lính dọn cơm ăn, để tôi còn đi một vòng chợ tìm xem các cô gái có “đôi mắt người …Phú Yên” ra sao. Vừa mang mấy lon guigoz cơm ra, bốn thằng chúng tôi chưa kịp cầm đũa, thì một trái lựu đạn từ trên cầu rơi xuống. Một anh lính phát giác la lên, cả bọn kịp lăn mình qua bên kia tấm cầu đúc (bị sập xuống), nhưng trái lựu đạn không nổ! Chỉ năm phút sau, người ném lựu đạn bị toán lính của tôi bên kia cầu đuổi bắt. Đến nơi, tôi ngạc nhiên khi nhận ra, không phải một, mà là hai cô con gái quê, tuổi cỡ 14-15, một cô khá xinh, có đôi mắt đẹp. Cô bé này chính là người ngồi phía sau xe đạp, ném trái lựu đạn định giết tôi – chàng “lính trẻ hào hoa”, chỉ mới vài phút trước đây có ý định đi tìm… đôi mắt ấy. Đưa hai nữ “địch quân” đến trình diện ông tiểu đoàn trưởng. Thấy hai cô bé vừa run vừa khóc, mặt mày tái xanh, ông “tâm lý chiến”rất hay, vỗ vai hai cô bé, vừa cười vừa ôn tồn nói chuyện. Hai cô khai hết sự tình, nên được dẫn về giao cho gia đình, vừa “chiêu hồi” và cũng vừa cánh cáo, theo dõi họ. Một tuần sau, toán quân báo tiểu đoàn bắt được người đàn bà trong mũi công tác đã dụ dỗ hai cô bé làm giao liên và ném trái lựu đạn xuống cầu. Chiều hôm sau, đơn vị có lệnh xuất phát cuộc hành quân bao vây và đánh chiếm kho vũ khí của địch tại Đa Ngư-Phú Lạc, nằm trên một khu núi đá sát biển, địa thế khó khăn hiểm trở và được phòng thủ rất kiên cố bằng nhiều ổ súng đại liên.Tin tức cho biết địch quân đã chiếm làng Thạch Tuân và khu vực Hảo Sơn hơn hai tuần nay. Bộ đội địa phương vừa tiếp nhận một số lượng lớn vũ khí từ miến Bắc chuyển vào khu núi Đa Ngư Phú Lạc bằng thuyền. Đơn vị tôi có trách nhiệm phải đánh chiếm kho vũ khí này và sau đó tảo thanh các khu vực địch trong vòng hai tuần để đưa một đơn vị Bảo An của Tiểu khu vào trấn giữ. Đơn vị tôi được tăng cường Đại Đội 23 Thám Kích. Tất cả đều được trang bị mặt nạ chống hơi độc.Khởi hành từ tuyến xuất phát lúc 11 giờ trưa, mãi đến gần 3 giờ chiều chúng tôi mới đến khu vực mục tiêu, vì phải di chuyển qua những địa thế khó khăn hiểm trở để tránh bị phát hiện, gây yếu tố bất ngờ cho địch. Đại đội 3 của tôi đi dọc theo bờ biển đến phục dưới chân núi làm lực lượng án ngữ. Nỗ lực chính đánh chiếm mục tiêu là đại đội 23 Thám Kích và đại đội 2 của ông anh trung úy gốc Bắc kỳ. Không ngờ trận chiến lại khó khăn khốc liệt đến như thế, phải chia nhau từng nhóm nhỏ bò lên chiếm các hốc đá nằm bên ngoài căn cứ, bị địch phát hiện, cầm chân bằng đạn súng cối đủ loại và nhiều ổ súng đại liên. Vì đây là kho vũ khí, nên địch có đầy đủ các loại vũ khí và đạn dược. Cuối cùng phải nhờ đến phi yểm, mặc dù rất bất lợi vì trời chiều, sắp tối. Theo các trái sáng (cầm tay) được đồng loạt phóng lên đánh dấu vị trí bạn, cùng với sự hướng dẫn, chỉ điểm tài tình của anh phi công L19, hai phi tuần khu trục liên tiếp đánh bom rất chính xác xuống căn cứ địch, diệt các ổ súng đại liên, để lực lượng ta bám sát mục tiêu. Đại đội 23 TK và đại đội 2 của anh trung úy gốc Bắc Kỳ đánh đẹp một cuộc cận chiến, chiếm được căn cứ, một số tù binh bị bắt. Đại đôi 1 của anh trung úy Khóa 16VB kịp thời tăng cường bao vây và truy kích. Trận chiến kết thúc trước khi trời tối. Số chiến lợi phẩm thu được khá lớn, địch quân dự trù trang bị các loại vũ khí mới này cho các đơn vị thuộc Liên khu 5 của chúng. Tiểu đoàn kéo về Đông Tác dưỡng quân, được ông tướng tư lệnh Vùng và ông trung tá tỉnh trưởng đến thăm, mừng chiến thắng. Anh trung úy (nhiệm chức) gốc Bắc kỳ khóa 13 Thủ Đức được vinh thăng (điều chỉnh) trung úy thực thụ và tưởng thưởng anh dũng bội tinh với nhành dương liễu. Anh trung úy khóa 16VB được ngôi sao vàng. Nhiều sĩ quan và binh sĩ có công cũng được trao gắn huy chương. Ba ngày sau, được tiếp tế lương thực và đạn dược, tiểu đoàn trở lại Thạch Tuân. Chiếm lại ngôi làng nghèo này rất dễ dàng, cả đơn vị tiếp tục tiến quân vào Hảo Sơn, Đá Bia. Một khu vực núi non hiểm trở. Địch quân đã chiếm ngự các cao điểm trọng yếu. Trung đội tôi có lệnh mở đường dọc theo thiết lộ, nằm sâu giữa hai vách núi, để chiếm một ngọn đồi, đặt đại liên yểm trợ cho đơn vị còn lại bung ra hai triền núi phía trước. Con đường độc đạo hoàn toàn bất lợi, nhưng không còn lối nào khác. Nhờ pháo binh bắn dọn mục tiêu, nên trung đội tôi dễ dàng chiếm lĩnh ngọn đồi, ngay sau khi một toán địch quân vừa bỏ chạy, không kịp mang theo nồi cơm đang nấu và mấy cái võng nilon còn cột chặt trên cây. Cả tiểu đoàn tiếp tục tiến quân hai bên triền núi. Trận chiến khá quyết liệt, vì địch quân đã có sẵn nhiều cái chốt trên các hốc đá nằm cao trên núi, bắn trung liên và ném lựu đạn xuống quân ta phía dưới. Trời đổ mưa như trút nước. Đại đội 1 của ông anh Khóa 16 VB là mũi tiến công chính. Dù ở thế hoàn toàn bất lợi, nhưng nhờ tài chỉ huy và điều quân gan dạ của chàng trai Đa Hiệu, cuối cùng cũng đã chiếm được mục tiêu. Địch quân tháo chạy, bỏ lại vài chục xác chết và trên mười khẩu súng. Bên ta, hai binh sĩ tử thương và vài người khác bị thương nhẹ. Trời tiếp tục mưa không dứt. Bóng tối đã bắt đầu phủ kín khu vực hành quân. Có lẽ lo ngại địa thế bất lợi cho một cuộc đóng quân đêm và địch quân có thể được tăng cường phản kích, nên cả đơn vị có lệnh khẩn cấp rút quân ra. Riêng trung đội của tôi phải nằm lại để yểm trợ và đề phòng địch quân tập hậu. Khi được lệnh rút ra sau cùng, tôi xin pháo binh bắn chặn, để trung đội chia làm hai cánh yểm trợ nhau rút nhanh ra. Tôi đi theo cánh quân có lộ trình nguy hiểm hơn: theo con đường sắt. Nép sát vào vách núi, di chuyển rất nhanh, nhưng chỉ năm phút sau thì nhiều loạt đạn từ trên triền núi bắn xuống. Đạn địch xối xả xuống đường xe lửa, chát chúa ngay sát dưới chân tôi, tóe lên nhiều đóm lửa. Có cả đạn súng cối. Tôi nghe vài tiếng la đau đớn. Anh trung sĩ và một người lính đi sau lưng tôi trúng đạn. Anh trung sĩ bị bắn vào chân, còn anh lính kia bị thương nặng ở vùng bụng, ruột đổ ra ngoài. Cho người băng vội vết thương bằng các băng cá nhân, tôi vừa gọi xin tiếp ứng vừa xin pháo binh bắn cản hậu, rồi cõng anh lính bị thương rất nặng chạy nhanh ra khỏi vùng nguy hiểm. Người tôi ướt đẫm cả máu, nước mưa, và có thể có cả nước mắt (cho người thương binh -không có chút hy vọng sống- của mình). Trên đường trở lại làng Thạch Tuân đóng quân đêm, cả tiểu đoàn dàn hàng ngang lội bì bõm dưới những đám ruộng ngập đầy nước. Du kích trong làng lại bắn ra. Chúng tôi bám theo các bờ ruộng xâm nhập vào làng, nhanh chóng bao vây tứ phía, cả toán du kích không chạy kịp bị chúng tôi bắt. Xe tải thương không thể nào đến được vì không có an ninh lộ trình. Tối hôm ấy, anh lính bị trọng thương của tôi, vốn là một tân binh quân dịch, quê tận Gò Công, đã trút hơi thở cuối cùng trên tay tôi, sau khi giao cho tôi cái bóp có hai tháng tiền lương và thì thào lời trối trăn đứt đoạn, nhờ tôi chuyển lại cho vợ và đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuồi mà anh chỉ mới về phép thăm cháu một lần. Đó là người lính đầu tiên dưới quyền đã chết, trên tay tôi. Anh có cái tên rất dân dã mà tôi không bao giờ quên được: Nguyễn văn Tý. Trùng tên với một nhạc sĩ tài hoa và khí khái mà sau này tôi mới biết. Mục tiêu các cuộc hành quân đã hoàn tất, tiểu đoàn chúng tôi được lệnh về đóng quân dọc theo Quốc lộ 1, từ ngã ba Phú Lâm đến hết Bàn Nham, Bàn Thạch. Trung đội tôi lại nhận lãnh cái cầu (gãy) Bàn Thạch, nơi mà tôi được cô gái Phú Yên đón chào bằng một trái lựu đạn nội hóa. Cứ vài ba hôm chúng tôi lại tổ chức các cuộc hành quân (có khi luân phiên từng đại đội có khi cả tiểu đoàn) ở Hòa Xuân, Hòa Thịnh, Sơn Thành, hay ra tận Ngân Sơn (Tuy An), Hiệp Mỹ, Tuyết Diêm, Hòa Phú, phía dưới đèo Cù Mông (Sông Cầu), giáp ranh Bình Định. Chấm dứt hành quân lại trở về “cứ điểm” Bàn Thạch. Lúc này con đường từ Bàn Thạch ra phố Tuy Hòa đã tương đối an ninh, nên những ngày không bận hành quân, bọn tôi được phép thay phiên nhau xuống phố Tuy Hòa. Cũng có những đón đưa trước cỗng trường Nguyễn Huệ, Bồ Đề. Cũng có những hẹn hò ngoài bãi dương, quán nước.Trong đám bọn tôi cũng vài thằng có những cuộc tình chợt đến chợt đi. Thì ra các cô gái Tuy Hòa trông dễ thương mà thương thì không dễ lắm. Lúc ấy, tuổi trẻ bọn tôi còn cao ngạo: “mấy thằng lính ngang tàng này thì dễ gì mà chết trong mắt em”!, nhưng khi cô đơn lại tự an ủi mình: “đời lính tráng như vậy mà vui, không nợ nần, không làm khổ một ai, vợ con làm gì cho vướng chân vướng cẳng!”, tránh cái cảnh như một ông nhà thơ sau này đã thốt lên lời bi thảm “anh trở về dang dở đời em”! Hồi còn trong lính, tôi ghét cay ghét đắng bài thơ được phổ nhạc này. Đám lính tráng về phép mà nghe được đôi lần, chắc nhiều thằng không muốn trở về đơn vị nữa. Nhưng bây giờ ngồi nghiệm lại, tôi thấy đúng, cho dù có chút đắng cay. Lính bị thương tàn phế, hay là lính bị đày ải trong tù “cải tạo” ngày trở về ít nhiều gì cũng đã làm dang dở đời em. Dù vậy, trong đám bọn tôi cũng có ba chàng phá luật chơi. Một thằng, cùng khóa với tôi, yêu một cô bé học mới lớp đệ lục, nhà ở cạnh chợ Tuy Hòa, một tiệm bán đồ gỗ nhỏ. Bọn tôi cứ nhạo nó là “dụ dỗ gái vị thành niên” và “tiền lương của mày không đủ để mua gạo thúc cho nó lớn”! Vậy mà cuộc tình cũng gắn bó hơn một năm. Ngày đơn vị tôi từ giã Tuy Hòa, cô con gái ấy đã tốn khá nhiều nước mắt. Sau này dường như cô bé trở thành cô giáo, lấy chồng là một đồng nghiệp tốt nghiệp Sư Phạm Qui Nhơn. Thằng bạn của tôi được giải ngũ sớm vì cận thị nặng. Nó trở về tiếp tục sách đèn. Tốt nghiệp sư phạm Đại học Đà Lạt về dạy Triết tại vài trường trung học. Năm 1973, khi nghe bạn bè bảo tôi đang nằm dưỡng thương ở QYV Nguyễn Huệ Nha Trang, nó từ đâu tìm đến thăm. Khi nhắc tới thời lính tráng ở Phú Yên, đôi mắt nó sáng lên, bảo là nó vừa bất ngờ gặp lại cô bé Tuy Hòa ngày xưa, khi cả hai cùng làm giám khảo và giám thị một cuộc thi Tú Tài ở trường Nguyễn Huệ hay Cường Đễ gì đó. Nó cười, nhưng đôi mắt nó lại mơ màng nhìn về một nơi nào đó … xa xăm! Một ông đàn anh khóa 14 Thủ Đức của tôi, SQ/CTCT Tiểu Đoàn, vốn tu xuất và bị động viên khi đang dạy ở một trường La San Taberd nào đó, lại vướng vào lưới tình của một cô giáo Bàn Thạch. Là con một của bà già góa bụa. Cô giáo có nhan sắc và hiền lành, cười nhiều hơn nói. Có lẽ lớn hơn tôi một vài tuổi. Chị tỏ ra rất thân tình với đám lính trẻ bọn tôi. Chỉ một thời gian, chúng tôi xem nhau như người nhà. Khi nào chán cơm lính, bọn tôi rủ nhau ra chợ mua thịt cá rồi kéo đến nhà chị để nhờ chị nấu cơm, rồi cùng nhau ăn uống và đàn địch ca hát cả ngày. Ông đàn anh “tu xuất” của tôi vốn làm thơ tình rất hay, đàn ca có “trường lớp” lắm. Nghe nói trước kia anh làm trưởng ca đoàn trong mấy nhà thờ. Anh thường đệm đàn cho cô giáo hát bài “Chuyện tình Lan và Điệp”. Giọng hát Phú Yên cũng não nùng ai oán lắm. Đặc biệt phía sau nhà có cái giếng nước rất trong, nên chúng tôi thường ghé vào tắm rửa sau các lần hành quân trở về. Sau này, ông đàn anh thuyên chuyển về Vùng 4 trong Nam. Mãi đến năm 1980, tôi bất ngờ gặp lại anh trong một trại tù ngoài Bắc. Ngạc nhiên và thú vị khi nghe anh kể là anh vẫn còn độc thân, và cô giáo Bàn Thạch ngày xưa giờ cũng chưa chồng. Điều làm tôi sững sờ hơn là ông bố của cô không chết mà tập kết ra Bắc năm 1954. Sau 75 về lại Phú Yên và giữ một chức hàm khá lớn. Cô giáo bây giờ không làm nghề giáo nữa mà đang là một cán bộ, chủ nhiệm hay trưởng phòng gì đó của chính quyền CS. Anh còn khoe là cô giáo thường gởi quà cho anh, và còn cho tôi đọc ké mấy lá thư cô ấy viết, bảo là sẽ ra thăm anh, cũng như hứa hẹn bảo lãnh cho anh về Phú Yên, nếu anh thấy lo lắng không muốn trở về quê quán Mỹ Tho, và nơi ấy anh cũng chẳng còn ai, sau khi bà mẹ già đã mất. Nhưng không thấy cô đề cập đến chuyện “nối lại tình xưa”. Tôi ngại, nên cũng không dám hỏi anh. Cuộc tình “giữa hai chiến tuyến” này liệu có làm cho con tim thắng được tất cả mọi giáo điều chủ nghĩa, để vượt qua bao hận thù, tang tóc? Rất tiếc, tôi không tìm được câu trả lời này. Vì mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa gặp lại anh ấy, mặc dù tôi đã nhắn tin và tìm hỏi rất nhiều bạn bè sang Mỹ theo diện HO. Đôi lúc, nghĩ về họ, tôi hình dung đến một đôi vợ chồng già sống hạnh phúc trong ngồi nhà ngói xưa ở Bàn Thạch, có khu vườn và cái giếng nước trong, anh đàn em hát; hay đang cùng quì xuống cầu kinh trong một ngôi nhà thờ nào đó. Cô giáo hiền thục ngày xưa không thể nào trở thành một “nữ đồng chí CS” thứ thiệt được, chắc cũng đã sớm nhìn ra cái lý tưởng hoang đường mà ông cha của cô đã mê muội theo đuổi, để đành lòng bỏ lại mẹ con cô một thời góa bụa cút côi, giờ chỉ còn lại bao hệ lụy đau lòng. Có thể cô đã từ bỏ mọi chức tước (nhờ vào thành tích”phấn đấu”của cha), để cùng người tình xưa – người lính khác chiến tuyến với cha cô – sống trong hạnh phúc bình thường. Cầu mong những người con gái Phú Yên, dù hoàn cảnh nào cũng luôn giữ trọn mối tình xưa. Đặc biệt nhất, và cũng gắn bó nhất, chính là chuyện tình của ông đàn anh Khóa 13 gốc Bắc Kỳ, có nụ cười và đôi mắt dễ làm ” khuấy động trái tim người… ta” mà chúng tôi đã kết nghĩa anh em. Đại đội của anh là đại đội đánh đấm khá nhất, nên được ông tiểu đoàn trưởng tin tưởng, giao cho đóng quân và phụ trách vùng đất bất an nhất: từ phía nam Bàn Thạch đến tận làng Thạch Tuân, tiếp giáp Đèo Cả, ranh giới cuối cùng phía nam của tỉnh Phú Yên. Ban chỉ huy đại đội đóng quân sau khu vườn của một ngôi nhà ngói lớn hai tầng duy nhất ở vùng này. Đối diện phía bên kia, sau con hương lộ, là ngôi trường tiểu học. Ông bà chủ nhà thuộc hàng khá giả, vừa làm chủ một cửa hàng tạp hóa ở tầng dưới, vừa làm nước mắm ở khu nhà sau. Một ngày cuối tuần, anh rủ chú lính cận vệ ra giếng tắm. Thầy trò chỉ mặc quần xà lỏn huýt sáo nhởn nhơ, bất ngờ gặp hai cô gái đang ngồi giặt áo quần bên thềm giếng. Sau khi bớt ngượng ngùng, hỏi ra mới biết là con ông bà chủ nhà, học ở Tuy Hòa, cuối tuần về thăm cha mẹ. Có lần tôi ghé lại thăm anh, được ông bà chủ nhà và hai cô con gái mời hai anh em tôi dùng bữa cơm thịnh soạn. Ông anh Bắc kỳ hào hoa nhưng rất kín miệng. Nhìn ánh mắt tôi biết là anh đang mết cô chị. Cô em còn bé lắm. Ông bà già mua hẵn một ngôi nhà khá khang trang ở phố Tuy Hòa, gần trường Nguyễn Huệ cho hai cô và một ông anh trú ngụ học hành. Là anh em kết nghĩa, vậy mà cuộc tình của anh, tôi không biết mặn nồng đến đâu. Chỉ biết lâu lâu anh lái xe bỏ bọn tôi xuống phố Tuy Hòa, lì xì vài chục uống bia, rồi phóng xe đi một mình. Đúng hẹn ghé đón bọn tôi với nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Hơn một năm từ ngày đổ quân xuống Tuy Hòa, cũng vào một ngày hè nắng cháy, tiểu đoàn tôi có lệnh rời khỏi Phú Yên, bàn giao trách nhiệm lại cho Trung Đoàn 47 biệt lập từ Bình Tuy ra để sáp nhập vào Sư Đoàn 22BB, mà bản doanh Bộ Tư Lệnh đóng ngoài Bình Định. Đơn vị tôi cùng chi đoàn Thiết Quân Vận của ông đại úy tài hoa Bùi Thế Dung, lại lên tàu há mổm xuôi nam, đổ quân xuống Phan Thiết. Ông đàn anh Bắc Kỳ của tôi sau này lên làm tiểu đoàn trưởng, đánh thắng một trận lẫy lừng tại Căn Cứ 6 Pleiku đầu năm 1971, đươc ông Tướng Vùng gắn lon thiếu tá đặc cách tại mặt trận. Sau đó được ông tỉnh trưởng Ninh Thuận (vốn là cựu trung đoàn phó của chúng tôi khi còn đóng ở Phú Yên) xin đích danh anh về Phan Rang làm quận trưởng. Một hôm, bất ngờ tôi nhận được thiệp hồng của anh mời đám cưới. Tôi ngẩn người khi đọc thấy tên cô dâu chính là cô hoc trò, con bà chủ quán ở Bàn Thạch ngày xưa, nơi anh đóng quân sau vườn nhà 6 năm về trước. Đến bây giờ tai tôi vẫn còn văng vẳng dư âm Bài Không Tên Số 2, với giọng hát Phú Yên thật nồng nàn cảm xúc, chị đã hát tặng bọn tôi ngay sau ngày đám cưới. Phải chăng ” đời một người con gái (Tuy Hòa) ước mơ rất nhiều, nhưng trời cho không được mấy, đến khi lấy chồng chỉ còn một mối tình mang theo”? Điều trùng hợp lý thú là năm 1976, khi bị chuyển tù ra Bắc, anh và tôi lại gặp nhau, ở chung một trại. Anh em thường gặp nhau tâm sự. Trong cảnh tù đày khốn khó, tình anh em gắn bó như xưa. Mỗi lần chị ra thăm nuôi anh đều mang theo thêm phần quà cho tôi. Có khi chị giả vờ đi lại trên con đê trước nhà thăm nuôi, biết chúng tôi sau một ngày lao động sẽ được về tắm giặt ở bên con đê ấy, để dúi vào tay tôi mấy tờ giấy bạc. Lòng tôi cảm động. Không ngờ cô con gái hiền lành ở vùng quê Bàn Thạch ngày xưa ấy, sau ngày chồng vào tù, đã dắt ba thằng con trai, mà đứa nhỏ nhất chỉ mới tròn 2 tuổi, vào Sàigòn bươn chãi nuôi con, tạo dựng được cơ ngơi nơi vùng đất lạ xô bồ phức tạp này. Và với chúng tôi, còn là một người bạn, người chị chí tình. Anh chị sang Mỹ theo diện HO. Mang theo kinh nghiệm từ Việt Nam, chị sớm vào nghiệp bán buôn. Chỉ một thời gian ngắn gia đình khá giả. Ba đứa con trai đều thành đạt. Cháu trai út ra bác sĩ, cháu giữa làm luật sư, còn cháu lớn là kỹ sư, nhưng sau này đã trở thành một mục sư đi rao giảng đức tin Thiên Chúa. Ngày đám cưới cháu trai thứ nhì, vợ chồng tôi sang tham dự. Bạn bè cùng đơn vị xưa từ khắp nơi cũng qui tụ về đây. Bất ngờ gặp một nhóm đồng môn Nguyễn Huệ của chị. Một cuộc hạnh ngộ thật kỳ thú. “Phe anh phe chị”. Chúng tôi biết thêm một số người đẹp Tuy Hòa xưa. Đám đàn bà ngồi nhắc tên những thầy bạn cũ. Đám đàn ông bọn tôi ngồi điểm danh lại những thằng bạn lính, từng in dấu giày saut trên vùng đất Tuy Hòa thuở trước. Giờ cũng chỉ còn có hai thằng: ông anh gốc Bắc kỳ và tôi. Một số đã chết trong chiến trận: Trương Ngọc Điệp, anh trung úy gốc Huế, đại đội trưởng đầu tiên của tôi ngày ấy, đã chết tại chiến trường Thiện Giáo (Phan Thiết) sau hơn một năm rời khỏi Tuy Hòa, và sau đúng hai tuần cưới vợ, một cô giáo Ninh Hòa gốc Huế. Vài tháng sau, ông anh Thái Hữu Dư, khóa 16VB, bị thương nặng trong một trận phản phục kích rất hào hùng tại Lâm Đồng, được thuyên chuyển về Vùng 4 sau khi xuất viện. Đặng Trung Đức, khóa 19 Đà Lạt, người bạn rất thân với tôi, tử trận tại Kontum trong “mùa hè đỏ lửa” khi đang làm tiểu đoàn trưởng. Trần Công Lâm, thằng bạn cùng khóa thân thiết nhất của tôi, trước khi nắm tiểu đoàn từng là một đại đội trưởng trinh sát lừng danh của Quân Đoàn II, cũng đã bỏ mình tại vùng Tây Bắc Kontum, trên dãy núi Ngok Wang đèo heo gió hú. Vài thằng giải ngũ vì thương tích. Số còn lại thì bị tù đày rồi tản mát khắp bốn phương trời! Nhưng dù còn sống hay đã chết, có lẽ thằng nào cũng mang theo ít nhiều bóng dáng và giọng nói của các cô gái Tuy Hòa, cùng bao kỷ niệm hào hùng, dễ thương của một thời trai trẻ. Ngày rời khỏi Tuy Hòa năm ấy, đơn vị tôi cũng đã mang theo một số cô dâu Phú Yên xinh đẹp. Tôi còn nhớ mãi những khuôn mặt thật xinh xắn, làn da trắng nõn nà của các cô bé ở Ngân Sơn (Tuy An), bẽn lẽn “hóa trang”làm lính, xúng xính trong bộ quân phục của chồng, đầu đội cả nón sắt, lội nước leo lên tàu Hải Quân, sợ những người chỉ huy chặn lại không cho phép. Nhưng ông tiểu đoàn trưởng đã biết trước, bảo nhỏ đám chúng tôi cứ làm ngơ cho họ được “tùng phu”, khi biết chắc đây không phải là “mỹ nhân kế” của địch, và biết đâu đơn vị lại được thêm vài tay súng, những “người lính không có số quân“! Ông trung tá trung đoàn trưởng cao lớn bô trai của tôi cũng đã mang theo cô chủ quán hoa khôi gốc Huế nổi tiếng một dạo ở Tuy Hòa. Ông đại úy Thiết Giáp hào hoa thì xuống tàu một mình. Sau này lên đại tá, trở thành thiết đoàn trưởng chiến xa lừng danh Vùng I, và đã rước cô ca sĩ Hà Thanh của xứ Huế về dinh. Riêng
tôi, rời Tuy Hòa, không vương vấn mối tình nào, nhưng lại mang theo một cậu con
trai 15 tuổi. Thời gian đơn vị hành quân ở Phú Lâm, tôi đóng quân sau nhà chú
bé. Từ đó chú bé cứ theo mấy chú lính của tôi và năn nỉ xin tôi nhận cho vào
lính. Học tới lớp nhì thì cha chết, bà mẹ theo người chồng mới vào Cam Ranh hơn
một năm sau. Chú bé ở với vợ chồng ông chú, vừa nghèo vừa đông con, lại bị bà
thím hất hủi. Tôi động lòng thương nên thường cho lính gọi đến ăn cơm chung, và
lâu lâu lì xì chút tiền lẻ. Chú có khuôn mặt khôi ngô, tình tình lễ phép, gọi
tôi là anh ba, và khóc lóc năn nỉ nhất định xin đi theo tôi, dù góc bể chân trời
nào. Vào Phan Thiết, tôi kể cho ông tiểu đoàn trưởng nghe hoàn cảnh đáng thương
của nó, ông chở tôi và nó đến một văn phòng xã làm giấy khai sanh, tăng thêm đủ
tuổi để nhận nó vào lính. Ông giao nó cho tôi. Tôi chỉ cho nó đi theo, mang cho
tôi một balô sách và vài thứ thức ăn. Cuộc hành quân nào ác liệt, tôi gởi nó
cho anh HSQ Tiếp Tế ở lại hậu trạm. Hơn bốn tháng sau, được gởi vào Trung Tâm
Huấn Luyện Lam Sơn. Nó trở lại đơn vị khi tôi đã làm đại đội trưởng, nhất định
xin tôi tình nguyện vào tiểu đội thám báo. Không ngờ nó lại là thằng lính đánh
giặc gan dạ, lẫy lừng, đã mấy lần cùng toán thám báo cứu tôi thoát chết. Hai
năm sau, nó tử trận tại mât khu Lê Hồng Phong (Phan Thiết) vào một ngày gió mưa
tầm tã, khi xông vào một căn hầm của địch. Khi ấy nó vừa tròn 18 tuổi đời. Lúc
hấp hối, nó thoi thóp cố mở mắt nhìn tôi, đôi môi mấp máy như muốn nói với tôi
một điều gì đó. Tôi vuốt mắt nó mà nước mắt tôi ràn rụa, trong lòng tựa hổ như
đang có trăm ngàn vết chém. Và đó cũng chính là món nợ ân tình duy nhất mà tôi không bao giờ trả được cho vùng đất Tuy Hòa – Phú Yên – của một thời chiến tranh, khốn khó. Riêng ông trung tá tỉnh trưởng gốc Biệt Động Quân chịu chơi ngày ấy, sau này trở thành vị tướng lãnh tài ba và đã tuẫn tiết theo cùng vận nước vào cuối tháng 4/75. Còn ông anh Nguyễn Văn Tri, con bà cô, và anh “Chương Cl***ic” của Tiểu Đoàn 23 BĐQ đã thoát chết trong một lần Tiểu Đoàn nghỉ quân trong căn cứ của một đơn vị ĐPQ, bị nội tuyến từ trong đơn vị ĐPQ này. Sau này anh Tri bị thương, được chuyển về TTHL/BĐQ Dục Mỹ. Tôi ghé thăm anh một đôi lần khi đơn vị chuyển quân ngang qua Huấn Khu này. Anh sang Mỹ theo diện HO, định cư ở Boston, có cô con gái là ca sĩ Hạ Vy. và anh đã qua đời hơn 5 năm trước. Anh “Chương Cl***ic” khóa 19VB, sau này lên Thiếu tá, làm Tiểu Đoàn Trưởng một Tiểu Đoàn BĐQ lừng danh. Năm 1979, sau một lần chuyển trại tôi bất ngờ gặp lại anh trong một trại tù tận vùng Hoàng Liên Sơn. Hai anh em nằm gần nhau. Anh tự chế một cây đàn rất đẹp. Vẫn luôn giữ phong cách của một cấp chỉ huy, tư cách, nhẫn nhục, ít nói. Đêm đêm hai anh em uống trà tươi (giấu được khi hái trà cho trại), tôi ngồi nghe anh đàn. Trong hoàn cảnh ấy và với không gian yên ắng nặng nề, tiếng đàn Hạ Uy Cầm của anh càng thêm não nề réo rắt, chiêu dụ cả đám bộ đội canh gác, kéo nhau đến bên ngoài mê mẫn ngồi nghe. Nghe nói anh cũng đã sang Mỹ theo diện HO, nhưng nỗi buồn gãy súng vẫn chưa vơi, sống rất âm thầm với vết thương không lành được trong lòng. Xin cám ơn Phú Yên, cám ơn Tuy Hòa, cám ơn cả ngôi trường Nguyễn Huệ đã cho tôi những kỷ niệm vui buồn của một thời làm lính, với những đồng đội, bạn bè cùng những chuyện tình lãng mạn, dễ thương. Tất cả cứ như khói như sương lãng đãng quanh tôi trong những phút giây hồi tưởng. Phạm Tín An NinhChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Oct/2023 lúc 12:36pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Tôi Đã Từng Ngu Như Thế!Khi đó tôi vừa đến Mỹ
được 1 năm, và tôi quen ông, một Trung tá Việt Nam Cộng Hoà, dù tuổi tác chênh
lệch rất xa nhưng chúng tôi nhanh chóng thành đôi bạn. Một ngày kia trong lúc tranh luận hăng say tôi nói với ông:
"Chóp bu VNCH là
đám hèn nhát, bất tài và bỏ chạy mất dép vất dân chúng ở lại chịu khổ". Sau khi tôi nói, ông ngồi sững ra nhìn tôi, bất giác một hàng nước mắt lăn khỏi
mắt ông và tình bạn giữa chúng tôi chấm dứt.
Tôi lớn lên trong mái trường XHCN cho dù tôi ham học, ham đọc nhưng 90% sách tôi
đọc lúc đó là do nhà nước xuất bản. Bất cứ nơi nào cũng chỉ nhìn thấy nói về sự
bất tài và hèn của chóp bu Việt Nam Cộng Hoà mà thôi. Điều đó vô hình chung như
một dấu ấn ghi vĩnh viễn trong lòng tôi. Tôi sang Mỹ dấu ấn đó không hề thay
đổi.
Rồi một ngày kia ngồi trong thư viện bất chợt tôi nhìn thấy quyển hồi ký của
ông Henry Kissinger, tôi tò mò đọc và vỡ ra. Tôi đi khắp nơi lục tìm sách để
đọc. Tôi tìm hiểu từng trận đánh ác liệt, từng chiến dịch trước 1975 và tôi
hiểu. Tôi bị lừa, tôi vô tình bị cộng sản lừa. Tôi là một thằng ngu mà cứ tưởng
mình khôn. Sự thật Việt Nam Cộng Hoà đã chiến đấu hết sức ngoan cường trong một
hoàn cảnh hết sức cay đắng nghiệt ngã. Họ đã chiến đấu đến khi chả còn gì để hy
vọng.
Henry Kissinger nói:
"Tôi vô cùng khâm phục sự kiên nhẫn chịu đựng nhịn nhục của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông ấy bất chấp mọi sự từ chối từ phía Mỹ, bất chấp tất cả mọi sự tuyệt vọng, đã kiên trì đến cùng cho việc đòi người Mỹ phải thực hiện giao ước tài chính với quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Họ đã chiến đấu dù biết chắc chắn rằng đã không còn gì hết họ vẫn chiến đấu ". Điều đó được nói bởi kẻ bán đứng Việt Nam Cộng Hoà đó, không phải kẻ bênh vực Việt Nam Cộng Hoà đâu. Ngược lại Henry
Kissinger bày tỏ thái độ hết sức khinh bỉ với các nhà ngoại giao Bắc Việt. Ông
cho rằng: "họ đầy thủ đoạn bẩn thỉu đáng khinh". Rồi tôi tìm hiểu ngân sách của CS và biết chỉ riêng Trung Cộng đã viện trợ cho
Bắc Việt hơn 800 tỷ USD. Đó là lý do Trung Cộng hận Bắc Việt tận xương tủy khi
bị Bắc Việt đá đít chạy theo Liên Xô. Ngân sách quân sự của Miền Bắc vượt xa
lắc so với Miền Nam.
Rồi tôi tìm hiểu kỹ thuật quân sự mới vỡ ra rằng. Quân đội Miền Bắc được trang
bị những vũ khí hiện đại bậc nhất và quân đội Miền Nam chỉ có đa phần là vũ khí
hạng hai. Ví dụ như xe tăng T-54 là đỉnh của lúc bấy giờ trong khi M-41 của
VNCH được xem là tạp nham Mỹ đóng vội bán rẻ chứ không hề xài. Vậy mà các bạn
biết không trong trận xa chiến gần như là duy nhất và lớn nhất khi tăng chạm
tăng tại Hạ Lào dù trong tình thế bất lợi, đơn vị tăng M-41 của VNCH đã đánh
thắng đơn vị tăng T-54 của cộng sản giúp giảm bớt sự thiệt hại cho Việt Nam
Cộng Hoà trong chiến dịch này. Tại Quảng Trị trong trận phục kích M-41 VNCH đã tiêu diệt đoàn tăng
T-54/55 của CS. Tôi từng đọc những bài nghiên cứu về tăng thiết giáp của Lục quân Hoa Kỳ và họ
tỏ ta kính phục sự gan dạ và sáng tạo của lính tank Việt Nam Cộng Hoà dù phải
đối đầu kẻ địch mạnh hơn .
Thế đấy, dù VNCH có một lớp thối nát thật. Nhưng cơ bản từ Tổng Thống đến quân
nhân họ đã cố gắng hết sức rồi. Họ thua do thế cuộc cay đắng. Hạng Võ thua cuộc
mất cả sinh mạng nhưng người đời chưa có ai chê Hạng Võ hèn cả. Hai Bà Trưng
thua trận phải tự sát nhưng Hai Bà là bậc vĩ nhân anh hùng.
Không cứ phải kẻ thắng là hùng và người thua là hèn. Vậy mà có thời tôi từng ngu như thế. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Nov/2023 lúc 6:53am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Chiếc Nón Sắt Trên Bia Mộ
Anh đi rồi, chiếc nón sắt để lại, Úp trên bia mộ, kỷ vật cuối cùng. Hiện trên nón, những dấu tích kiêu hùng! Của người chiến binh, địa đầu tuyến lửa!
Tấm vải bọc ngoài, rằn ri da hổ, Mầu oai phong, của Binh Chủng Nhảy dù! Bốn Vùng Chiến thuật, lũ giặc cộng nô, Thoáng bóng cọp, là kinh hồn bạt vía!
Quanh sườn nón, có một vài lũng khía, Ấy dấu đạn thù, bắn xớt qua đầu! Lằn đạn trượt nghiêng, nhờ nón quay mau, Cứu sống lính, trong đường tơ kẽ tóc!
Đường hành quân, vượt núi rừng khó nhọc, Đầy bi-đông, song nước chẳng đủ dùng. Mỗi khi đi ngang, khe suối hồ sông, Trữ nước tạm thời, nhờ chiếc nón sắt.
Lương thực hành quân, gạo sấy luôn sẵn, Rưới chút nước vô, có thể ăn liền. Tuy nhiên dừng quân, được chốn bình yên, Dùng nón sắt nấu bữa cơm chắc bụng!
Với chiếc nón sắt, lính xài đa dụng, Úp xuống thành ghế, thoải mái ngồi trên. Khi thèm hút thuốc, sợ lửa lóe lên . Che nón sắt, rít một hơi… mê mẩn!
Này, nhìn kỹ trên vành nón lính trận, Thấy ghi nắn nót, “Tên Một Loài Hoa” Tên Người Yêu, hoặc tên Vợ ở nhà, Nằm trên nón, trong tim người chiến sĩ!
Xin chào Anh!... Chào nón sắt hoen rỉ, Hồn linh thiêng, xin phù hộ Quê Hương! Truyền lại cháu con, dũng khí kiên cường, Một ngày không xa, vùng lên cứu Nước! Trần Quốc Bảo Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 15/Nov/2023 lúc 9:44am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
TẤM THẺ BÀI
![]() Mẹ qua đời tôi chưa tròn một tuổi Sống với bà, nhờ chén nước cơm vo Cha cải tạo, không biết đến bao giờ? Từ giặc chiếm, phải xa cha, lìa mẹ Tôi không được vào trường như bạn trẻ Bởi con “ngụy” liên hệ tội của cha Ăn không no, bà yếu sức tuổi già Sống lây lất bo bo thay cơm cháo Cay đắng nào hơn, tuổi vừa lên sáu Bà qua đời trong khốn khổ, ốm đau! Tôi lang thang bươi rác, ngủ gầm cầu Kiếm từng bữa, ngày qua ngày tiếp nối Lất phất mưa bay, trời chạng vạng tối Chị hàng rong dừng gánh, ở bên đường Cho gối xôi, mắt ấm áp tình thương Ôi hạnh phúc, nghẹn ngào tôi bật khóc! Và từ đó đời bớt phần cô độc Sống với chị, nhờ vào gánh hàng rong Lâu lắm rồi, giữa đêm tối mùa đông! Bờ sống vắng, tôi lên xuồng ba lá Trước, sau xuồng có hai người khách lạ Họ bơi nhanh từ sáng đến xế chiều Qua vùng thôn quê, hoang vắng đìu hiu Trời khuất núi, xuồng vẫn chưa ghé bến Tôi không hỏi đi đâu, bao giờ đến? Qua đồng xanh lác đác cụm trâm bầu Bông súng vàng hơn hớn dưới đầm sâu Cá nhảy ngược, dầm bơi làm quấy động Gió vi vu, xuồng lướt êm trên sóng Tôi lặng thinh, ngắm đếm những sao trời Chăm chú nhìn chờ sao xẹt, đổi ngôi Thành Tâm nguyện, sẽ ứng linh lập tức Tiếng ai gọi? Bàng hoàng tôi chợt thức! “…Con ơi con, hãy tỉnh giấc đi con Cha đây! Con tôi thân xác gầy còm Tuổi thơ dại, sớm chịu nhiều khốn khổ…” Chị thiết tha, vuốt tóc tôi bảo nhỏ: “…Gọi đi em, người đó chính là cha…” Tôi ôm cha, mắt lệ mãi chan hòa! Cha ôm tôi trong vòng tay trìu mến! “…Cha vào bưng, ngày miền Nam giặc chiếm… Bà qua đời rồi con sống với ai? Nhận ra con nhờ có tấm thẻ bài Là di vật cuối cùng cha để lại…” Hôm nay đây, mình tôi nơi hải ngoại Tuy bạn bè và đồng đội rất đông Đoàn tựu rồi, vẫn cách núi ngăn sông! Nhưng cùng dạ, chung lòng cho chính nghĩa DƯ THỊ DIỄM BUỒN Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 18/Nov/2023 lúc 12:52pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23632 |
![]() ![]() ![]() |
Khóc Một Dòng Sông "Người về khóc một
dòng sông Ngày hoa mộng chết bên song cửa buồn". Buổi sáng, khi vầng thái dương vừa tỏa ánh sáng muôn màu xuống những ngọn đồi
nằm sải dài bên khung cửa kính thì tôi cũng vừa thức dậy, trong lúc Thức -
chồng tôi - còn đang say ngủ. Tôi muốn một mình đi dạo quanh đây để nhìn ngắm
lại Đà Lạt sau hơn 20 năm xa cách. Hôm qua, khi chiếc xe thuê ở Sài Gòn đưa được chúng tôi lên tới đây thì trời
cũng vừa tối, tôi chỉ còn làm được việc là tắm rửa nghỉ ngơi rồi giấu mình
trong chăn nệm. Tuy tôi không thể ngủ được ngay, nhưng dù có háo hức muốn đi
thăm Đà Lạt đến đâu, tôi cũng phải để đến ngày mai. Ban đêm Đà Lạt bây giờ sao
mà buồn hiu hắt. Bóng tối bao trùm lên cảnh vật, vài ngọn đèn lờ mờ, cô đơn trong
đêm đen dài vô tận. Thôi đành dỗ giấc ngủ để ngày mai có sức leo đồi. Ôi! Đà
Lạt thân yêu, thành phố mà tôi đã gửi lại tất cả kỹ niệm của một thời con gái,
một quãng đời sinh viên hoa mộng, một tình yêu đầu tiên với rất nhiều nỗi ngậm
ngùi. Những cặp mắt của người làm cho khách sạn đang nhìn tôi lạ lẫm, càng làm tôi
thêm những ngại ngùng. Không, tôi không phải là khách lạ, tôi chỉ là một người
dân Đà Lạt bình thường như 20 năm trước đây tôi đã sống. Cho dù những áo quần
tôi đang mặc có mới hơn một tý, nhưng tấm lòng tôi vẫn là tấm lòng của thuở ban
đầu khi mới bước chân lên Đà Lạt thân yêu. Tôi đã phải nhẹ tay mở cửa để khỏi phá giấc ngủ của chồng. Thức đã cố gắng đưa
tôi lên đây hoàn toàn để chiều theo ý muốn của tôi. Chàng chẳng có một ý niệm
nào về Đà Lạt chứ đừng nói đến kỷ niệm. Cuộc đời Thức lúc nào cũng thành công
và may mắn. Con người chàng vô cùng thực tế đến độ nghĩ về dĩ vãng là một điều
ít khi, nếu không nói là chẳng bao giờ. Thức về lại Việt Nam chẳng phải là vì
nhớ nhung hay thăm viếng mà hoàn toàn là công chuyện làm ăn. Làm ăn với ai,
bằng cách nào chàng không hề bận tâm. Chỉ có tiền là đã đủ cho Thức say mê vào
công việc. Tất cả mọi giá trị ở trên đời này đối với Thức đều đo bằng tiền bạc.
Chúng tôi đã là vợ chồng hơn 20 năm nhưng vẫn có những điều không thể tâm sự
cùng nhau. Như hôm nay, tôi có mặt nơi đây, bên cạnh chồng, nhưng tôi vẫn cô
đơn như bao nhiêu ngày tháng cô đơn đã qua đi với tuổi thanh xuân. Trên mảnh
đất thân yêu xưa cũ này tôi lại càng muốn được cô đơn, để chỉ một mình tôi đi
lại trong ngày tháng đã qua. Tôi tiến ra hành lang để nhìn lại Đà Lạt lần đầu dưới ánh nắng ban mai. Khi
những phút giây bàng hoàng đã qua đi, tôi mới nhận thấy rằng Đà Lạt bây giờ xa
lạ quá. Tôi đã đọc nhiều bài viết về sự đối thay của Đà Lạt nhưng không thể ngờ
rằng người ta lại làm Đà Lạt đổi thay nhiều đến thế. Hình ảnh đầu tiên đập vào
mắt tôi là sự xơ xác và điêu tàn. Tôi chưa nhìn thấy bóng dáng một cây anh đào
nào cho dù bây giờ đang độ sang xuân. Nước hồ Xuân hương không còn trong xanh
như ngày trước. Đồi Cù ngày xưa, cỏ lên xanh mướt, mượt mà, bây giờ chỉ thấy
loang lổ những vết cháy đen, những hàng rào bao quanh ngăn cấm. Nước mắt tôi
trào ra, những hình ảnh cũ của một ngày xưa thơ mộng hiện về trong làn nước mắt
rưng rưng… ... Năm ấy, một đêm khuya, chuyến xe đò cuối cùng mang tôi lên Đà Lạt. Hai lần
hỏng máy dọc đường làm cho cuộc hành trinh đã dài lại dài thêm. Tôi đang lo
ngại không biết tìm ai tin cậy đề hỏi thăm đường thì chợt thấy một người từ xa
đi tới. Những bước chân vội vàng qua trước mặt tôi không thèm ngó lại, chiếc mũ
Kê pi ngay ngắn và bộ đồ dạo phố mùa đông tự nhiên làm cho tôi tin cậy, vội
vàng tôi lên tiếng gọi: - Này, này, anh ơi, ông ơi, cho tôi hỏi thăm. Người ấy dừng lại nhìn tôi hơi bỡ ngỡ, nhưng khi thấy tôi đứng chỉ một mình với
đống hành lý thì chàng hiểu ra ngay, đi tới bên tôi lịch sự:
- Thưa cô, chắc cô muốn
hỏi thăm đường? - Tôi muốn về viện đại hoc, mà trời thi khuya quá.
Một SVSQ Trường Đại Học
Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Người ấy vội reo lên. - Thế thì chúng ta gần như cùng chung một con đường, nào cô hãy theo tôi. Nói xong anh chàng tự nhiên xách chiếc va ly nặng nhất của tôi lên, bưóc đi
ngay. Vẻ nhanh nhẹn, mạnh mẽ của chàng cuốn lấy tôi theo. Chúng tôi vừa đi vừa
nói chuyện, không khí tự nhiên trở nên thân mật bất ngờ. - Thưa ông, tôi là Ngọc, ở Sai Gon lên đây để theo học trên này. - Còn tôi là Hải. Tôi sinh ra và lớn lên ở đây, chưa biết đến Sài Gòn bao giờ.
Hồi còn đi học, tôi cứ mong ước mãi là khi nào lên đại học thì sẽ về Sài Gòn để
học. Thế nhưng vừa mới bước chân lên đại học thì không còn thời gian nữa. Cô
biết đấy, chúng ta đang sống trong thời chiến. Tôi không còn chọn lựa, và rồi
lại vẫn ở trên này. Cũng tốt thôi, ít ra tôi còn được ở thêm Đà Lạt vài năm
nữa. - Ông là sinh viên của trường nào vậy? Tôi nghe nói rằng trên này có hai quân
trường, trường Võ Bị Quốc Gia và... - Trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị. Thưa cô, tôi là Sinh viên Sĩ quan của
trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị. Tôi đi sát vào người con trai để nấp cơn gió lạnh đầu tiên khi màn đêm vừa
buông xuống. Đà lạt vào đêm ngày ấy thật nồng nàn quyến rũ. Những ánh đèn xa xa
thấp thoáng trên những ngọn đồi mờ mờ sương khói. Trong vườn, ngoài ngõ nhà ai
hoa tường vi nở rộ những chùm bông màu hồng lợt cho tôi cái cảm tưởng như đang
bước vào một thế giới thần tiên khác hẳn Sài Gòn ồn ào và náo nhiệt. Tự nhiên
tôi thèm một không khí thân mật thương yêu. Đi thật sát gần như đụng vào người
Hải, tôi lại hỏi chàng: - Tại sao ông lại chọn trường đại học Chiến Tranh Chính Trị? - Trả lời được câu hỏi của cô cũng dài dòng lắm vì có rất nhiều nguyên nhân.
Tôi chỉ xin vắn tắt thế này, dù là trường Võ Bị hay trường tôi thì đều vẫn là
trường hiện dịch, có nghĩa là chúng tôi sẽ gắn bó với quân đội suốt cả một đời.
Tôi yêu cuộc đời còn đi học lắm, thành ra chọn trường đại học Chiến Tranh Chính
Trị cho tôi đôi lúc còn nghĩ rằng mình là một sinh viên.Vả lại, kẻ thù của
chúng ta nham hiểm quá, chúng tôi cần trang bị cho mình một số kiến thức tối
thiểu đủ để truyền đạt cho người lính, bẻ gãy những tuyên truyền mê hoặc của
bọn chúng. Tôi mỉm cười thích thú trước câu trả lời duyên dáng của chàng. Đêm hôm đó, Hải
giúp đưa tôi về viện đại học và hoàn thành các thủ tục nội trú xong mới ra về.
Chàng chỉ cho tôi một ngọn đồi không xa lắm, bảo rằng đó là nơi chàng đang theo
học. Vì bận rộn với những hành lý ngổn ngang, tôi quên đi cả lời cảm ơn sự giúp
đỡ tận tình của Hải. Rồi chúng tôi chia tay nhau mà không biết gì thêm ngoài
cái tên gọi. Về sau, khi đã quen thuộc với những con đường Đà Lạt, nhiều lúc
tôi muốn ghé vào trường để cảm ơn sự giúp đỡ đầu tiên ấy nhưng ngại ngùng không
biết phải làm sao. Thời gian trôi, tôi quen dần với cuộc sống của một sinh viên nội trú và vùi đầu
vào niên học mới. Những trang sách và tháng ngày đầu tiên trên đại học quyến rũ
làm tôi quên hết cả xung quanh, dần dần quên đi cả cái đêm nào bỡ ngỡ, và người
con trai mới gặp... Trời đã gần trưa. Nắng đã lên cao. Đà Lạt bây giờ đang chìm trong biển nắng. Từ
trong hành lang của khách sạn bên cạnh hồ Xuân Hương tôi có thể nhìn bao quát
cả một vùng rộng lớn dưới chân đồi. Kìa là đường Võ Tánh nằm quanh co theo bờ
hồ rồi khuất dần theo những hàng cây. Con đường này chính là con đường tình sử.
Chúng tôi đã hò hẹn, đợi chờ để cùng nhau đi song đôi trong những ngày chúa
nhật. Đã giận hờn chờ đợi những lời dỗ dành như trẻ thơ. Từ con đường ấy rẽ ra
hai ngõ vào hai trường đại học của hai đứa chúng tôi. Tôi vẫn chìm vào trong
những ngày xưa cũ không để ý đến Thức - chồng tôi - đã dậy, đang đứng cạnh tôi
tự bao giờ. - Sao thức dậy sớm vậy em, lại không mặc áo lạnh vào, cảm chết. - Còn sớm gì nữa, em đang chờ anh dậy để đi quanh một vòng Đà Lạt. - Thế thì em bảo tài xế cho xe ra đi, mình kiếm chỗ nào ăn sáng luôn. - Không, em muốn đi bộ dạo quanh hồ Xuân Hương một vòng. Này anh xem, người ta
có cả xe đạp nước cho thuê, em muốn được chơi trên mặt nước. Mình sẽ lên nhà
thủy tạ bằng cách ấy. - Thôi thôi, đồi núi đèo dốc thế này ai mà đi cho được, anh không muốn ngồi
trên cái thùng cỏn con ấy, anh đâu có biết bơi lỡ ngã xuống nước thì khốn. Tôi nhìn lại Thức, người phì mập, bụng to hơn ngực. Chồng tôi không bao giờ tập
thể dục hay khép mình vào một kỷ luật nào, trừ tiền bạc. Anh chàng nuông chiều
thân xác, luôn luôn theo bản năng không kể gì đến thể diện và tư cách. Tôi nhớ
lại ngày xưa có lần bị gọi đi nhập ngũ, Thức đã mếu máo đến khổ sở nhờ cha tôi
can thiệp cho được miễn. Những ngày đầu di tản, khi còn ở trong trại tạm trú,
Thức luôn luôn than phiền về những tiện nghi thiếu thốn. Mỗi lần loa phóng
thanh kêu đi lãnh thực phẩm là chàng vội vã lính quýnh như lúc đi chạy giặc chỉ
để mong được sắp hàng đầu tiên. Tôi chán chường nhìn Thức: - Anh muốn đi đâu làm gì bằng xe thì cứ đi đi, kệ tôi. Tôi muốn đi bộ, dạo
quanh một vòng Đà Lạt. Thức nhìn tôi ngạc nhiên. Mặc kệ chàng cáu giận đi tới đi lui, tôi lại chìm vào
dĩ vãng.... ...Thời gian trôi trong những tiếng cười của cuộc đời sinh viên hoa mộng. Vào
một ngày mùa hạ, trong một buổi đi cắm trại ngoài trời, tôi và các bạn cùng lớp
nô đùa trên những hòn đá lớn trong vũng nước lặng ngay dưới chân thác Prenn.
Khúc suối này ăn sâu vào trong bờ đá nên mặt nước ở đây yên lặng hiền hòa,
nhưng nếu ra xa ngoài kia vào giữa giòng suối thì nước chảy xiết nguy hiểm vô
cùng. Tôi vẫn tự hào rằng mình bơi rất giỏi nên chẳng để ý gì đến những lời
cảnh cáo của bạn bè, tha hồ nhảy nhót tung tăng trên những hòn đá, cho đến khi
trượt chân ngã xuống dòng nước đang chảy mạnh. Dù cho cố gắng hết sức tôi vẫn
không thể bơi vào. Những làn nước vô tình kéo tôi đi xa dần. Tôi cảm thấy đã
gần kiệt sức. Cố gắng vùng vẫy ngoi lên mặt nước, tôi kêu lên những lời cầu cứu
trong tuyệt vọng. Bạn bè tôi trong bờ chỉ còn biết kêu những tiếng thất thanh chứ chẳng ai dám
bơi ra cứu tôi lúc ấy. Cho đến khi tôi không còn hơi sức nữa, buông trôi theo
dòng nước thì chợt thấy có người bơi lại phía tôi, rồi thì cả thân thể tôi được
kéo trồi lên mặt nước. Một vòng tay khỏe mạnh, rắn chắc quàng chặt lên người
tôi. Phản ứng tự nhiên của một người đang gặp hiểm nguy, tôi vội bám chặt lấy
cái phao êm ái ấy không rời. Trong lúc nguy ngập và bối rối tôi không còn nghĩ
gì đến thân thể của mình đang nằm gọn trong vòng tay người con trai mạnh khỏe
kia. Rồi tôi bàng hoàng nhận ra người con trai ấy chính là Hải. Tôi càng ngạc
nhiên hơn khi thấy Hải một tay ôm chặt lấy tôi, còn tay kia bám vào một sợi dây
đang được một đám người đang đứng ở trên bờ kéo vào bờ.Tất cả bọn họ đều mặc
quân phục màu xanh lá cây rừng với những chiếc alpha màu xanh da trời trên cổ
áo. Tôi chỉ biết được đến thế rồi ngất lịm đi trong sự mỏi mệt, nhưng êm ái vô
bờ. Vào được trong bờ, Hải bế tôi đặt lên một chiếc Poncho mà các bạn chàng đã trải
sẵn tự lúc nào. Đám bạn gái chạy đến bao quanh lấy tôi, trùm lên thân thể tôi
đủ thứ, quần áo, khăn quàng. Có đứa cẩn thận hơn xoa bóp tay chân tôi đang tê
cứng vì ngâm lâu trong nước lạnh. Gần cả tiếng đồng hồ sau tôi mới ngồi dậy
được khi những mảnh áo quần khô ráo đã làm ấm thân tôi. Lúc ấy Hải và đám bạn
tiến lại, chàng mỉm cười hiền hậu hỏi tôi: - Khỏe chưa cô Ngọc, lần sau đừng nhảy vào những tảng đá ngoài xa kia như thế,
nguy hiểm lắm. Rồi chàng giới thiệu các bạn bè của chàng với chúng tôi. Tôi ngạc nhiên khi
thấy ai cũng bắt đầu bằng vần H như Hải. Thì ra họ cùng chung một tiểu đội đang
làm công tác dân sự vụ ngay đây. Tôi càng sung sướng hơn khi thấy Hải vẫn còn
nhớ đến tên tôi. Từ sau ngày ấy, tôi bắt đầu nhớ nhung và mơ mộng, sung sướng đón nhận tình yêu.
Tôi - người thiếu nữ trong tình yêu thuở ấy mắt long lanh sáng, má và môi hồng
như hoa đào buổi sớm, lời nói như chim hót bình minh. Bạn bè tôi khen tôi bỗng
đẹp hơn, yêu đời hơn sau ngày xẩy ra tai nạn, một tai nạn đáng yêu nhất trong
cuộc đời tôi. Thứ bảy đầu tiên vào trường thăm Hải, chúng tôi đã ngồi suốt cả ngày trong câu
lạc bộ sinh viên sĩ quan. Rồi sáng hôm sau chúa nhật khi Hải được phép ra ngoài
dạo phố, chúng tôi dành trọn cho nhau. Tôi ngạc nhiên khi thấy mình quá dạn dĩ
và buông thả, và chính Hải cũng đáp ứng sự nồng nhiệt của tôi không kém. Tình
yêu đã cho tôi đôi cánh để bay lên đến một vườn hoa thần tiên đầy hương sắc.... ..Tôi trở lại phòng mình. Không thấy Thức, có lẽ anh đã đi lo công chuyện của
mình. Chuyện làm ăn, sinh lợi lộc không bao giờ chồng tôi bỏ qua. Thức liên
lạc, hợp tác với các viên chức chính quyền Cộng Sản bây giờ tự nhiên như chàng
đã làm với chính quyền Việt Nam ngày trước. Đối với chồng tôi chuyện đất nước,
dân tộc không đáng kể bằng những trương mục trương nở trong ngân hàng. Ai đói,
ai nghèo, khổ sở lầm than ra sao, chàng không bao giờ nghĩ đến. Có lẽ chữ Trung
Hiếu Tiết Nghĩa đối với chàng chĩ là những điều trong sách vở. Một lần lâu lắm,
sau ngày mất nước, khi đã yên lành ở Mỹ, đọc báo thấy nói đến các vị tướng tuẫn
tiết chứ không chịu đầu hàng hay chạy theo Mỹ, Thức bảo tôi: - Mấy ông này đã làm đến tướng mà còn dại quá. Máy bay nó đến rước tận nơi mà
lại không đi rồi còn bắn vào đầu mình. Lần ấy tôi đã buồn lại càng buồn hơn. Biết rằng có nói, có giải thích thế nào
cũng bằng vô ích. Trong cái đầu óc vị kỷ kia, không có cái gì cao quý hơn tiền
bạc. Tôi cảm thấy mệt mỏi, chán ngán vô cùng. Trong đời ai cũng có những lần
lầm lỡ. Nhưng sự lầm lỡ của tôi to lớn quá. Tôi đã phải trả giá cho sự lầm lỡ
của mình bằng cả một cuộc đời tôi. Tôi nằm dài xuống giường nhìn qua song cửa. Những đám mây trắng bạc bay hững hờ
trên những dãy núi mờ xa, cái không gian này đã quen lắm trong ký ức ngày
xưa.... …Càng có dip gần nhau tôi lại thấy nhiều đức tính tốt nơi con người Hải, chàng
hiền lành, ngay thẳng và chăm chỉ. Hải kể cho tôi nghe về những sinh hoạt hàng
ngày, những môn, những giờ học mà chàng ưa thích. Với những môn mà chúng tôi
cùng học giống nhau như bang giao quốc tế, sử quan thì nói không bao giờ hết
chuyện. Đôi lúc Hải lại nói về một vài môn học mà chàng ưa thích như nhân chủng
học của giáo sư Nghiêm Thẩm, và tôi thường trêu Hải trong những bài học nhân
chủng mà chàng kể cho tôi nghe về những giống người còn sống bán khai hoang dã
trong dãy núi Trường Sơn. - Em biết không tuần này tụi anh đang học về người Hmong, ở đó những người con
trai có thể dùng trâu để mua những nàng con gái, nếu họ có nhiều trâu thì mua
bao nhiêu vợ cũng được.
- Thế chắc là anh thích
đến nơi đó lắm phải không? Không để ý đến câu hỏi ngoắt ngoéo của tôi Hải thành thực trả lời: - Anh thích đến đó lắm. Anh vẫn mơ ngày đất nước thanh bình, sẽ được tự do đi
khắp mọi nơi để biết dân mình đang sống ra sao, và nhất là những phong tục, tập
quán của từng nơi, từng chỗ. - Chứ không phải vì anh thích vì có thể mua được bao nhiêu vợ nếu muốn à. Hải chợt hiểu ra ý của tôi, chàng hiền lành giải thích: - Không phải thế em ạ, anh có em là đã quá đủ, là may mắn cho anh lắm rồi.
Không bao giờ anh tham lam đèo bòng như thế. Tôi biết tính Hải và tin những điều chàng nói. Tôi tin ở tình yêu của chàng
chân thật, hiền lành như những cây thông Đà lạt. Hải vẫn thường nói với tôi về
mơ ước sẽ có một ngày được đi đến những chân trời xa lạ đầy những thích thú bất
ngờ như những trang sách nhân chủng kia. Tuy yêu nhau và hiểu tính nhau như thế
nhưng chưa bao giờ chúng tôi nghĩ đến ngay mai, đến hôn nhân vì cả hai đều còn
trẻ và chưa có một chút vốn liếng gì cho tương lai cho dù là học vấn. Năm Hải tốt nghiệp, ra trường để lao vào trận địa cũng là năm mà gia đình tôi
lo xong thủ tục cho tôi xuất ngoại. Tôi muốn cùng Hải về lại Sài Gòn trong
những ngày chàng nghỉ phép mãn khóa để giới thiệu với cha mẹ tôi. Hải cảm động,
lần đầu tiên tôi thấy chàng run run khi nắm tay tôi, đặt lên trái tim, nói
trong hơi thở: - Anh thật may mắn có được người yêu như em. Anh sẽ không bao giờ làm gì để em
buồn, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tôi nũng nịu sa vào lòng Hải: - Chỉ cần anh yêu em, thương em là đủ rồi. - Anh yêu em nhiều lắm. Anh đã yêu em những ngày qua, yêu em hôm nay. Thề có
đất trời là anh sẽ yêu em mãi mãi. Chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau trong một quán nước đối diện cửa nhà vì cần thưa với
cha mẹ tôi trước khi dẫn Hải về ra mắt. Cha tôi là một nhân vật cao cấp trong
chính quyền thời ấy, rất khó khăn và nghiêm khắc. Không may cho hai đứa chúng
tôi là trước khi thưa chuyện, cha mẹ cho tôi hay rằng gia đình đã lo xong thủ
tục để tôi xuất ngoại, và những người bạn đồng sự muốn mai mối để hỏi tôi cho
con của họ. Hai ông bà thi nhau kể cho nghe cả một loạt tên các cậu ấm giỏi
giang thành đạt. Ai cũng sẽ là bác sĩ, kỹ sư trong tương lai. Bọn họ đang du
học tại nước ngoài, không hề biết đến đất nước đang đắm chìm trong chiến tranh. Nhìn nét mặt vui vẻ, rộn ràng của mẹ cha khi nói về tương lai, tự nhiên tôi đâm
ra rụt rè, lo sợ không dám nói chuyện về Hải như dự định. Tôi nhìn sang bên kia
đường, bóng chàng ngồi trong quán nước đợi chờ, yên lặng đợi chờ. Suốt buổi
sáng hôm đó, tôi cố gắng liên lạc với Hải mà chưa có dịp. Buổi trưa tôi phải
theo cha mẹ đi đến ăn cơm ở nhà một người bạn thân của cha tôi. Tiệc tùng trò
chuyện kéo dài đến tận khuya. Tôi không thể còn đi đâu được vì Thức, con trai
của bạn cha tôi vừa mới ở ngoại quốc về thăm nhà, đi theo tán tỉnh, mà cha mẹ
tôi lại rất hài lòng. Khi trở lại nhà đã quá 10 giờ đêm, ngồi trên xe, nhìn vào
quán nước, tôi giật mình vì thấy Hải còn đó, ngồi yên, bất động như pho tượng.
Tôi chạy vội lên lầu mở tung cánh cửa, bước ra lan can nhìn xuống. Hải đứng dậy
đi nhanh về phía cổng nhà tôi, rồi đứng lại như suy nghĩ. Vài phút sau anh quay
ra, lặng lẽ bước về quán trọ. Tôi đứng nhìn theo, lòng hối hận tự trách mình
không đủ can đảm nói với mẹ cha, để Hải phải chờ đợi cả một ngày dài. Tối hôm
đó tôi vật vờ trong giấc ngủ muộn màng, mãi tận gần trưa hôm sau mới ngồi dậy
nổi. Cha tôi đã đi đến sở từ sáng sớm chỉ còn có mẹ. Tôi mở cửa nhìn sang bên
kia đường giật mình thấy Hải đã ngồi đó tự bao giờ. Tôi vào phòng mẹ, ôm lấy bà
rồi bật khóc, lấy hết can đảm để nói chuyện của tôi và Hải. Mẹ tôi chỉ yên lặng
ngồi nghe không nói. Một lúc lâu mẹ cho chị người làm mời Hải vào nhà, mẹ nói: - Chúng tôi được cháu Ngọc nói chuyện về anh. Tôi cũng mừng là cháu đã được anh
để ý đến, xin cám ơn anh. Nhưng mà cháu còn bé bỏng, chúng tôi muốn đưa nó ra
ngoại quốc học thêm vài năm nữa.
Mẹ tôi người Bắc, con nhà
nho giáo, khéo ăn khéo nói. Lời từ chối của bà nghe cũng ngọt ngào êm ái như
chứa đầy những thương yêu. Hôm đó, hai đứa chỉ được nói chuyện với nhau trước
mặt mẹ tôi. Hải nhiều lần như muốn nói điều gì, song chàng nín lặng. Cho đến
lúc chào mẹ tôi quay ra, anh nhìn tôi thì thầm bảo: - Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, anh cũng yêu và chờ em mãi mãi. Tôi tin lời nói thành thực ấy. Tôi biết rằng Hải yêu tôi, chỉ một mình tôi
trong suốt những tháng ngày ở Đà lạt, dù có nhiều bạn tôi rất thích chàng. Thế
là chúng tôi xa nhau với những lời thề thốt gắn bó keo sơn. Hải không ngăn cản
tôi trong con đường học vấn, chàng cũng không hề bày tỏ nỗi lo sợ sẽ mất tôi mà
chỉ nhấn mạnh rằng chàng là con người hơi khó khăn khi chọn lựa, mà khi đã chọn
lựa rồi thì không bao giờ thay đổi. Tôi là người đầu tiên đưa chàng vào tình
yêu diễm tuyệt. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì tình yêu đầu tiên này sẽ là
mãi mãi. Tôi cũng dùng đủ mọi danh từ hoa mỹ thề thốt, để chàng tin rằng tôi
cũng nghĩ như chàng. Nhưng rồi hoàn cảnh của chúng tôi ngày càng khác biệt. Tôi đã quen thuộc với
đời sống xa hoa và tiện nghi vật chất, mà Hải thì lại cứ bận rộn hành quân
chinh chiến, nên dù có dịp về thăm nhà trong những kỳ nghỉ hè chúng tôi cũng ít
có dịp gặp nhau. Một ông văn sĩ lãng mạn nào đó đã định nghĩa rằng tình yêu là
sự va chạm của hai làn da, có lẽ cũng không có gì là sai, nếu so sánh trong
trường hợp của tôi. Chúng tôi có quá nhiều thời gian xa cách, rồi cuộc sống tự
do nơi xứ người đã thay đổi tâm hồn tôi. Tôi cần những sự đụng chạm, những môi
hôn, những lời thầm thì yêu đương, mà Hải và tôi không thể sống gần nhau. Những
ngày, những tháng, những năm nối tiếp nhau qua. Tình yêu với Hải trong tôi dần
dần cũng phôi pha theo ngày tháng. Một ngày mùa thu, khi trở lại Việt nam, tôi theo một chiếc trực thăng lên tiền
đồn miền biên giới thăm Hải. Chúng tôi gặp nhau không nói được thêm điều gì.
Hải thường bảo chàng là một sĩ quan, lo trước nỗi lo và vui sau niềm vui của
lính. Tôi bày tỏ ý muốn nhờ uy thế của cha, giúp đỡ chàng về một nơi tốt hơn,
có cơ hội thăng tiến và đi du học, nhưng Hải từ chối. Chàng không muốn nhờ vả
gia đình tôi dù bất cứ điều gì. Tôi, có lẽ vì mặc cảm, bùng lên cơn giận: - Anh nghĩ lại coi, từ trên xuống dưới ai cũng mong có người che chở, không ai
gàn bướng như anh. Hải không nói gì, chàng yên lặng nhìn vào khoảng không xa thẳm. Có lẽ trong đầu
óc chàng không mấy thích gia đình tôi khi ấy. Tôi nghĩ rằng chàng đã đánh giá
tôi và gia đình thuộc thành phần, mà trong tâm hồn Hải có sự rẻ khinh, chỉ biết
tìm điều lợi cho mình mặc cho đất nước đang bị xâu xé bởi chiến tranh. Càng
nghĩ cơn giận trong tôi càng bùng lên mãnh liệt. Lần đầu tiên kể từ lúc yêu
nhau chúng tôi cãi vã. Tôi giận dỗi về lại Sài gòn, hàng mấy tháng không thèm
viết thư cho Hải. Rồi một ngày kia ở nơi xứ người, tôi gặp lại Thức - Con của bạn cha tôi, người
đã tán tỉnh tôi dạo trước - Thức đi du học trước tôi cả 6,7 năm, đã sành sỏi và
thành công trên đường đời. Sự thành công được đánh giá bằng giàu sang và danh
vọng. Tôi quên hẳn một ngày xưa, trước khi đi du học Thức đã mếu máo khổ sở,
lợi dụng sự quen biết tìm đến cha tôi nhờ can thiệp cho chàng khỏi vào lính như
những thanh niên khác. Chúng tôi về lại Việt Nam. Cả hai gia đinh đều vui mừng vì môn đăng hộ đối. Thế
rồi chúng tôi kết hôn ngay sau đó. Một đám cưới rềnh rang, xa hoa và lãng phí
được tổ chức trong lúc chiến cuộc diển ra dữ dội kinh hoàng. Ngày tôi ngồi trên
chiếc xe hoa lộng lẫy muôn màu về làm vợ Thức, thấy những chiếc xe nhà binh chở
người ra trận địa, lòng chợt nao nao nhớ đến ngày xưa và Hải. Không biết giờ
này chàng ở phương nao? Tháng tư 1975 trong lúc Sài Gòn đang hấp hối, trên chuyến xe vội vã ra phi
trường tôi chợt nhìn thấy Hải và những người lính của anh dưới một giao thông
hào mới được đào để phòng thủ ở ven đường. Nhìn vẻ hoảng hốt lo sợ quá đáng của
Thức thật tương phản với nét rắn rỏi và vẻ bình tĩnh ngoài kia của Hải, tự
nhiên trong lòng tôi dâng lên niềm thương cảm và hối hận. Phải, từ ngày tôi lập
gia đình, đã bao nhiêu lần tôi nhận được thơ của Hải, vẫn những chuyện hành
quân trên đường xa vạn dặm, vẫn những lời yêu thương tha thiết nồng nàn, vẫn
một lòng dạ thủy chung chưa hề biết đến tôi đang bội phản. Chàng còn xin lỗi đã
làm tôi không được vui trong những một ngày lên thăm dạo trước, và cố phân trần
giải thích rằng chàng chỉ muốn tự lập, tự định đoạt cuộc đời mình. Tôi không
dám trả lời Hải. Cho đến một ngày kia biết ra sự thật, Hải vẫn không oán hờn,
trách cứ mà lại nhận lỗi về mình. Chàng xin lỗi vì đã bỏ tôi chờ đợi trong
nhiều năm tháng lạnh lùng, và cầu chúc cho tôi có được cuộc đời hạnh phúc. Từ đó, sau ngày mất quê hương, sống bên chồng nhưng tôi không thể nào quên được
hình ảnh Hải với gương mặt bình thản, lạnh lùng, trong chiều di tản.... Tiếng ai gõ cửa làm tôi tỉnh giấc. Người nhân viên phục vụ lễ phép trong khách
sạn mời tôi: - Thưa bà, ông nhà cho mời bà xuống nhà ăn dùng bữa. Tôi thay quần áo, trang điểm qua loa rồi bước theo sau người nhân viên đang còn
chờ ngoài cửa. Đi qua một dãy hành lang dài tôi bước xuống cầu thang chật hẹp
vào phòng ăn được bài trí thật sang trọng dành riêng cho ngoại kiều và cán bộ.
Thức đang khoa tay múa chân nói chuyện với 3 người đàn ông lạ. Hai người mặc
thường phục, áo quần thuộc loại đắt tiền, có thắt cà vạt. Người thứ ba là một
viên công an. Ông ta mặc đồng phục màu vàng, vai đeo xà cột, trên cổ áo có gắn
cấp hiệu. Mấy ngôi sao trên miếng vải đỏ tươi như máu. Thấy tôi Thức đứng lên
giới thiệu: - Thưa các anh, đây là nhà tôi. Quay sang tôi anh tiếp: - Đây là hai đồng chí trong ban lãnh đạo thành phố, còn đây là đồng chí chỉ huy
công an. Tôi gật đầu chào những người đầy tớ của nhân dân đang ngồi bảnh chọe trên những
chiếc ghế nệm dầy, trong lúc các món ăn đang được dọn ra. Hai ba người nhân
viên vội vã kính cẩn đang chờ sai bảo. Người mặc sắc phục công an nhìn tôi chằm
chằm như dò xét. Cái nhìn đầy vẻ trịch thượng của một kẻ nghĩ rằng mình đang có
uy quyền, pha lẫn những khát khao thèm muốn. Tôi bỗng nhớ đến chị Tâm bạn tôi
kể cho nghe những ngày tháng đi thăm chồng cải tạo. Có những bà vợ lính bị
chúng lợi dụng những đêm tối cô đơn, vắng vẻ để cưỡng hiếp mà không dám than
thở, thưa gửi cùng ai.Khi những lời mời chào, chúc tụng khách sáo qua đi, cả 3
người đều hục vào ăn uống sảng khoái. Họ vừa ăn vừa nói bô bô như không còn có
ai ngoài họ. Cái cấp hiệu màu đỏ tươi như máu kia làm tôi nhớ lại những sợ hãi,
hốt hoảng 20 năm tướrc khi chạy lên tàu tìm đường trốn ra khỏi nước. Bây giờ
nhờ những đồng tiền lại được ngồi đây, được tiếp đón.Tự nhiên tôi muốn buồn nôn
cuộc đời. Tôi ghê tởm chính tôi, ghê tởm cả 4 thằng đàn ông đang ngồi trước mặt.
Tôi lại nhớ đến Hải và những ngày xưa... . ..Mấy năm sau ngày di tản, tôi được tin Hải bị lưu đày nơi núi rừng Việt Bắc
cùng với chồng của một chị bạn học ngày xưa. Khi chị ấy vượt biển sang được
miền đất tự do, chúng tôi có dịp gặp nhau, có nhiều thì giờ kể cho nhau nghe.
Tôi được biết chồng chị đã chết vì kiệt sức, còn Hải thì bị chúng giam cầm
riêng trong ngục tối vì trong những ngày cuối cùng chàng không chịu tuân lệnh
Dương Văn Minh cho lính buông súng đầu hàng. Đáng lẽ ra Hải đã bị xử tử, nhưng
vì mẹ chàng tình cờ gặp lại một người em làm lớn ở phía bên kia. Bà đã cố gắng
lạy van người em cứu con mình nên bản án tử hình của Hải không đem ra thi hành. Nhưng dù không giết chàng ngay khi ấy, vì nhân danh khoan hồng và nhân đạo, vì
tình nghĩa gia đình, người Cộng Sản tìm cách giết Hải dần dần bằng những trận
đòn tra tấn, thù hằn. Chúng nghĩ rằng trong đầu óc chàng chứa đựng cả một âm
mưu ghê gớm, chống lại chúng. Không bao giờ người Cộng sản biết được Hải đã
nghĩ gì, và đổi lại chàng phải gánh chịu những cực hình man rợ nhất. Tôi bỗng
nhớ đến đôi mắt Hải, đôi mát sáng và trong như tâm hồn của chàng. Ngày ấy, mỗi
lần hát cho tôi nghe những bản tình ca thì đôi mắt kia cũng nhìn tôi đắm đuối. Cuộc sống của chúng tôi ở nước ngoài vô cùng thoải mái, Thức lúc nào cũng khôn
ngoan trong công chuyện làm ăn và chưa bao giờ chồng tôi thất bại. Tiền bạc vật
chất dư thừa không làm tôi cảm thấy vui tươi trong cuộc sống. Tôi luôn luôn bị
ám ảnh rằng còn thiếu Hải một món nợ không bao giờ trả nổi bằng những vật chất
dư thừa mà tôi đã có. Những lời hẹn hò ngày xưa thật ra không bay theo
gió.Chúng vẫn hiện hữu trong tâm hồn tôi hôm nay để nhắc nhở rằng tôi chỉ là
một người đàn bà bội phản, một người đàn bà dối gian trong một cuộc tình tươi
đẹp nhất, một người đàn bà ham giàu sang danh vọng mà quên đi cả những lời thề
trang trọng trong đời. Tôi cố gắng tìm mọi cách để liên lạc và giúp đỡ Hải khi được biết chàng được
thả ra, nhưng vô ích. Hải tìm đủ mọi cách tránh né và từ chối sự giúp đỡ vật
chất của tôi cho dù chàng thiếu thốn. Đã mấy lần tôi kín đáo nhờ cậy bạn bè, dò
la tin tức nhưng cũng chỉ biết đại khái rằng chàng đã được thả ra sau 7 năm tù
tội. Rồi khi có chương trình ra đi nhân đạo dành cho những cựu tù nhân, tôi vẫn
hồi hộp đợi chờ sẽ có một ngày gặp lại Hải trên miền đất tự do. Nhưng chờ mãi
cho đến khi không còn kiên nhẫn nữa, tôi đành phải nhờ người chị cùng học với
tôi ở Đà lạt khi xưa lên tìm Hải, và tôi được biết rằng Hải không có ý định ra
đi. Hôm qua, trước khi lên Đà lạt, tôi đã nói chuyện nhiều với chị Tâm về Hải. Tôi
cũng cho chị biết là tôi sẽ lên đây tìm Hải vì chị cho biết Hải vẫn ở ngôi nhà
ngày trước, nhưng bây giờ thì mẹ chàng không còn nữa. Có điều không hiểu sao
chị Tâm không hề khuyến khích tôi mà lại có ý ngăn cản tôi đừng lên. - Ngọc à, chị hỏi thực, em có còn yêu Hải nữa không? - Sao vậy chị, chị có biết rằng em về đây chỉ là để gặp lại Hải một lần. Bao
nhiêu năm đã qua rồi, bây giờ em chắc chắn nói với chị rằng trong đời em, em
chỉ yêu một mình Hải mà thôi. - Chị biết chứ... nhưng mà.. - Nhưng mà sao hả chị, hay là Hải đã có gia đình. Nếu thế thì em cũng mừng cho
Hải và đúng như chị nói, em không nên lên trên ấy. - Không phải đâu, Hải vẫn còn độc thân. Chị biết Hải vẫn còn yêu em, chắc chỉ
yêu có mình em thôi. Nhưng mà... - Thế là đủ rồi. Thế thì em lại càng nên gặp Hải để xin anh ấy một lời tha thứ.
Em cũng muốn khuyên anh ấy nên nghĩ đến mình mà hãy lập gia đình để có người lo
cho lúc về chiều. - Thôi tùy em đấy, nhưng theo chị nghĩ người như Hải chắc chẳng nghe ai... Tôi muốn đi bộ một mình trên những con đường xưa để nghe thấy lòng mình rung
động theo từng sự đổi thay của cảnh vật. Nắng lên, Đà Lạt đắm chìm trong ánh
sáng. Tôi nghe thoáng đâu đây tiếng suối reo trong rừng thông vắng. Gió êm đềm
chở những hương thơm của muôn loài hoa Đà lạt bay bay trong không gian sáng
trong như ngọc. Ngày xưa Hải vẫn thường nịnh khi anh bảo rằng đời anh may mắn
có một viên ngọc quí là tôi. Anh thường nói rằng “mỗi sáng, nắng lên cao, nhìn
cây cỏ xanh tươi chìm trong ánh nắng, anh cứ tưởng đến những viên ngọc bích, và
anh lại nghĩ tới em”. Hôm nay trong khúc đường quanh co của một không gian xưa
cũ, tôi vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây tiếng thầm thì êm dịu của Hải rót vào
tai tôi những lời mật ngọt yêu đương..... Qua khỏi con dốc vắng là đến con đường dẫn đến khu nhà nằm ở ven đồi. Ngày xưa
không biết bao nhiêu lần tôi đi ngang qua chốn này để đến thăm mẹ Hải, để chờ
đợi chàng trong những chúa nhật được phép ra ngoài dạo phố. Nhà của Hải không
lớn lắm nhưng hoa hồng thì lại rất nhiều. Những bụi tường vi uốn ngoài đầu ngõ
phô bày những chùm hoa mơn mởn tươi xinh, những đóa hồng đỏ thắm, vàng tươi,
trắng muốt. Cả một rừng màu sắc rực rỡ như tuổi thanh xuân quây quần lấy hai
chúng tôi dạo ấy. Tôi dừng lại trên đầu dốc, ngạc nhiên nhìn con đường quanh co phía dưới chân
đồi, chẳng còn gì ngoài những vạt đất khô cằn, những bức tường đổ nát loang lổ
rêu bụi phủ mờ. Cả một thôn xóm trù phú tươi xanh ngày xưa đã bị giải phóng
cuốn trôi đi chỉ còn lại đổ nát, lở lói hoang tàn. Tôi lần xuống con đường hỏi
thăm bà cụ đang ngồi thái khoai bên túp lều gần đó. - Cụ ơi cho con hỏi thăm. Bà cụ ngửng đầu lên nhìn tôi đăm đăm khiến tôi hơi ngượng vì những gì mình đang
khoác trên người. Dù đã cố gắng ăn mặc giản dị nhưng vẫn tương phản với những
rách rưới nghèo nàn chung quanh. Tôi đứng im lặng đợi chờ một sự cảm thông,
giúp đỡ. Bà cụ ngừng tay, mời tôi ngồi xuồng chiếc ghế mây duy nhất đã rách nát
xác xơ: - Cô muốn hỏi thăm ai? - Dạ cháu muốn hỏi thăm ông Hải. Cháu nghe mói ông ấy vẫn còn ở đây phải không,
thưa cụ? - Có phải là ông Hải đang bị quản chế đó không? Thế cô là gì của ông ấy? Bây
giờ chắc ông ấy không có nhà đâu. Nhà ông ấy ở ngay kia kìa. Vừa nói bà cụ vừa chỉ đến một túp lều khác được dựng ngay trên nền căn nhà cũ.
Đó chỉ là một mái tranh dựa trên một bức tường vôi duy nhất còn sót lại, chung
quanh được che bằng những tấm tranh thưa. Đúng rồi, đó là nhà của Hải ngày xưa.
Tôi còn nhớ chiếc cổng rào thưa trồng những hàng cây tường vi hồng lạt. Không
trả lời mà tôi lại hỏi ngay bà cụ: - Sao mà ở đây nhà nào cũng bị phá đi tan nát hết? Chắc lúc trước đánh nhau ở
đây dữ lắm, phải không cụ? - Đâu có đánh nhau gì. Ngày mới vô các ông ấy nói là phải đi kinh tế mới, bắt
dân gỡ hết nhà cửa mang lên rừng ở. Mấy năm ở trên ấy chẳng ai ngó ngàng gì
đến, làm không đủ ăn nên lại lục đục kéo nhau về thì nhà cửa còn đâu. Thôi đành
che tạm để có chỗ mà chui chứ biết làm sao. Nhìn quanh một lượt như để cho tôi thấy rõ hơn quang cảnh hoang tàn bà cụ lại tiếp: - Như cái chú Hải đây. Bà
mẹ chú ấy mất ở trên rừng, lúc được thả về thì nhà chẳng còn gì. Cũng may là
nhờ hàng xóm che tạm cho mái lều, chứ không thì thật khổ. - Thế ông Hải bây giờ làm gì thưa bác? - Chú ấy mà làm được gì ngoài cái mò mẫm đan giỏ ở tổ hợp mây tre xuất khẩu, vả
lại người ta có cho chú ấy đi đâu đâu. - Sao vậy bác? - Thì chú ấy bị quản chế mà. Ai đời lại có người dại như chú ấy. Người ta cho
đi sang Mỹ mà lại không chịu. Tôi hỏi tại sao thì chú ấy bảo đất nước của mình,
mình ở chứ đi đâu. Thế là người ta lại càng nghi ngờ rằng chú ấy có âm mưu gì
nên họ canh chừng dữ lắm, cấm không cho bước đi đâu. Thế, cô là gì của chú ấy? - Cháu là... cháu là... Tôi chưa biết trả lời sao thì bà cụ lại chép miệng: - Chắc cô muốn làm vợ chú Hải chứ gì? Bữa trước cũng có mấy cô ở Sài Gòn lên
đây muốn làm vợ chú ấy, nhưng mà chú ấy đâu có chịu. Tôi ngạc nhiên hỏi dồn: - Muốn làm vợ anh ấy, thật không bác? - Sao lại chẳng thật, thì cô tính chú ấy còn độc thân lại có điều kiện đi Mỹ,
ai mà chẳng muốn. Được sang bên ấy cái đã mọi chuyện tính sau. Có người lại còn
đề nghị trả tiền cho chú ấy ngay bên này nữa chứ. Thế cô tìm chú ấy làm gì? Tôi nghẹn ngào: - Thưa bác, cháu không phải tìm anh Hải để mặc cả đi Mỹ đâu, cháu hiện nay đang
ở Mỹ. Cháu chỉ muốn tìm anh Hải để trả cho anh ấy một món nợ, hay là xin anh ấy
tha cho một món nợ ngày xưa. Bà cụ nhìn tôi chăm chú như để đo lường câu nói. Khi những giọt nước trên mắt
đầm đìa nhỏ xuống, tôi nhận được sự cảm thông trong đôi mắt già nua trìu mến
nhìn tôi. Ngừng tay bà lại kể: - Tôi ở đây, bên nhà chú Hải đã từ lâu lắm.Tôi và bà mẹ chú ấy hàng xóm với
nhau khi từ ngoài Bắc mới di cư vào đây. Tội nghiệp cho chú ấy, hiền lành thật
thà. Hồi trước, tiếng là sĩ quan nhưng lúc nào cũng ngoan ngoãn, lễ phép với
mọi người như thời còn đi học. Bây giờ thật là khốn khổ, trời lạnh thế này mà
chú ấy không có cái chăn nào, phải đắp bằng mảnh bao bố cũ. Công việc thì chú
ấy làm chậm lắm có bao giờ đủ ăn đâu, lấy gì mà may với mặc. Tôi nhìn qua con đường đất đỏ. Phía bên kia là căn lều của Hải được cất trên
nền nhà cũ. Tôi hỏi bà cụ: - Thưa bác, cháu muốn sang bên kia, chỗ nhà ông Hải.Cháu muốn chờ ở đấy để gặp
ông ấy có được không ạ? - Cô cứ tự nhiên. Lúc nào chú ấy về tôi sẽ nói cho chú ấy biết. - Xin bác đừng nói gì cả, cháu chỉ muốn dành cho ông ấy ngạc nhiên. Chào bà cụ tôi đi vào ngõ cũ, bồi hồi nhớ lại những lần hai đứa bước song đôi
lên thềm với ước mơ ngày cưới. Nền nhà bây giờ nằm chơ vơ phơi sương gió.Tôi
nhận ra tấm phản cũ đã mòn nhẵn với thời gian. Màu gỗ bóng lộn sang trọng ngày
nào giờ đây bạc thếch, ẩm mục. Chính ở nơi tấm phản này, vào một đêm không
trăng nhưng đầy sao sáng. Tôi không bao giờ quên được đêm ấy, năm xưa..... ...Tôi nũng nịu đi sát người chàng, chiếc áo trận màu xanh còn nguyên mùi hồ
cứng. Đêm yên lặng quá, chỉ có những vì sao thấp thoáng đang nhìn trộm chúng
tôi. Ôi những vì sao long lanh tình tứ như đôi mắt của chàng. Những vì sao cách
xa cả hằng triệu năm ánh sáng cũng đã biết và đồng tình với hai đứa chúng tôi.
Mùi hoa hồng nhẹ nhàng làm tâm hồn tôi càng thêm đê mê rạo rực. Hải ôm lấy tôi
hôn nhẹ lên môi rồi hỏi: - Có chuyện gì mà em nhắn anh phải ra gấp đêm nay? Em biết không, anh phải nhờ
thằng bạn gác thế cho, rồi leo rào ra ngoài này. Mấy ông sĩ quan cán bộ mà biết
đựơc thì anh nằm nhà kỷ luật ngay. - Đêm nay đẹp quá phải không anh? Trăng sẽ lên, và hoa sẽ nở những bông đầy
hương sắc. Em chỉ muốn đựơc nằm trong vòng tay anh đêm nay, có được không anh? - Sao lại không được? Anh sẽ làm bất cứ chuyện gì có thể được để làm vừa lòng
viên ngọc quý nhất đời anh. Chúng tôi hôn nhau dài như chưa bao giờ được hôn nhau như thế. Chúng tôi hôn
nhau say sưa như không bao giờ thỏa mãn. Tôi hiến dâng mà không hề nuối tiếc.
Chúng tôi quấn quýt tan biến vào nhau cho đến khi gà gáy sáng.... Tiếng ai nói lao xao ngoài ngõ làm cho tôi chợt tỉnh giấc mơ xưa. Ngoài sân
nắng đã nghiêng nghiêng soi qua vách lá tranh thưa. Có tiếng chân người vội vã.
Tôi ngửng lên nhìn thấy bà cụ hàng xóm bước vào báo cho tôi biết là Hải đang
về. Tôi hồi hộp nhìn ra con đường đất ngoằn ngoèo, giật mình thấy một người
đang chống gậy mò mẫm từng bước đi tội nghiệp. - Đấy chú ấy về kia kìa. Tội nghiệp, hồi còn cải tạo chúng nó đánh cho khốn
khổ, lại còn tra tấn, không biết vì sao mà đôi mắt hóa thành mù luôn.
Tôi đứng lặng người nhìn
người đàn ông tàn tạ mù lòa, tội nghiệp, đang sờ soạng những bước đi về phía
tôi mà không nói được lời nào. Vẫn biết sự tàn phá của thời gian nhưng trời ơi,
Hải của tôi ngày xưa giờ thay đổi đến thế này sao! Mái tóc rậm dài lòa xòa điểm
rất nhiều sợi bạc. Hai hố mắt sâu thẳm đen ngòm ghê sợ. Tới trước nền nhà người
ấy tự nhiên dừng lại như vừa khám phá có điều gì khác lạ: - Ai, có ai đấy. Ai đang chờ tôi phải không? Bà cụ toan lên tiếng, tôi đưa tay ra hiệu cho bà cụ đừng nói đến tôi. - Tôi đây chú Hải, sao hôm nay đi làm về sớm vậy? - Đang làm thì mấy thằng công an nó cho xe tới mời lên đồn làm việc, cứ khai đi
hỏi lại những câu từ trước tới nay. Chẳng biết bao giờ chúng nó đề yên cho mình
đây. Nói xong Hải ngồi sụp xuống gỡ chiếc nón mê đang đội trên đầu bỏ vào gậm phản
rồi đưa tay vào túi móc ra bao thuốc lá, rút ra một điếu. Điếu thuốc cong queo
thảm hại như cuộc đời của chàng. Hải vuốt lại sơ sài rồi run rẩy đưa lên môi.
Chàng bật mãi chiếc bật lửa đã quá cũ mấy mươi lần mà không hề cháy. Hải lại
đứng lên lần mò đến bên bếp tro thổi tung lên để kiếm mảnh than còn sót lại.
Chàng cầm lên thanh củi nhỏ, lấy tay sờ soạng xem còn hơi nóng. Khi châm xong
điếu thuốc, kéo một hơi dài chàng lại nói tiếp với bà cụ: - Tháng này bên hợp tác xã họ bảo hàng bị trả về nhiều lắm thành thử ra họ chưa
trả công cho mình. Từ hôm qua đến nay cháu phải ăn khoai. Có mấy củ đem đi tính
để ăn trưa mà đã kịp ăn đâu thì chúng nó lôi đi. Hải mò mẫm đặt cái túi vải đang đeo trên vai xuống phản. Chàng lôi ra một miếng
lá chuối đựng mấy củ khoai lang luộc, một cái gói giấy nhỏ đựng ít muối tiêu.
Chàng cúi xuống đưa tay sờ vào tấm phản để dò dẫm trước khi ngồi xuống. Hải cẩn
thận tắt điếu thuốc còn đang hút dở trên môi đút lại vào trong bao thuốc rồi
mới bắt đầu ăn. Đôi bàn tay run run đưa củ khoai lên miệng. Bà cụ hàng xóm yên
lặng nãy giờ mới lên tiếng: - Chú Hải à, có cô này... Tôi đưa tay ra dấu ngăn cản nhưng không còn kịp nữa. Hải hơi giật mình song vẫn
tiếp tục nhai miếng khoai đang còn trong miệng: - Cô nào bà nào nữa? Cháu đã nói nhiều lần nhờ bác là nếu họ đến thì bảo họ
rằng cháu không có đi đâu hết. Đất nước mình đây thì mình có quyền ở chứ đi
đâu. Mà nếu cháu có đi thì cũng không bao giờ làm chuyện gian dối để lấy tiền
lấy bạc đâu. - Không, không phải cô này muốn chú đem sang Mỹ đâu. Cô ấy đang ở Mỹ rồi, chỉ
muốn gặp chú để khất nợ thôi. Hải bỗng giật mình đúng phắt ngay lên, trong lúc vội vã không hề chuẩn bị,
chàng không biết đến mảnh ván đã nghiêng, giờ đổ xuống kéo theo chàng và mấy củ
khoai văng ra lăn lóc dưới nền nhà. Tôi không còn yên lặng thêm được nữa, nước
mắt chảy ra ràn rụa tự bao giờ. Tôi chạy đến ôm chầm lấy Hải, đỡ chàng lên, kéo
đầu chàng sát vào ngực mình nói trong thổn thức: - Anh Hải ơi, em đây, Ngọc đây. Ngọc ngày xưa của anh đây. Sao anh khổ thế này? Chúng tôi ôm lấy nhau không biết là bao lâu nữa. Thời gian nào có nghĩa gì đâu
cho những kẻ yêu nhau. Chúng tôi ngày xưa đã có cả một giòng sông mộng mơ, mà
cuộc đời này đã làm khô cạn bởi những toan tính tham lam, hèn yếu. Phút giây
bàng hoàng đã qua đi tôi hỏi Hải: - Sao anh không làm đơn ra đi như bao nhiêu người khác cho cuộc đời đỡ khổ? Hải đưa bàn tay chai đá sờ soạng vuốt tóc tôi, trầm ngâm trong giây lát, trả
lời: - Sao em lại nghĩ rằng anh đang khổ sở. Anh thua trận, anh mất đi đất nước thì
dĩ nhiên là anh đã mất tất cả rồi. Đến cả ngay cái cuộc sống anh đây cũng tùy
thuộc trong tay kẻ thù. Chúng nó cho đi thì được đi, bắt phải ở là ở lại. Chúng
anh có quyết định đươc gì đâu. Cho dù ở lại đây hay sang bên ấy chúng anh chỉ
là những người có cuộc sống thừa. Sống mà như đã chết. Chỉ có một cách là phải
khôi phục lại giang sơn đất nước xưa thì mới sống được chính cuộc sống mình
mong muốn. Thế mà ai cũng sang bên ấy cả thì còn ai đấu tranh để mong một ngày
kia khôi phục lại giang sơn. Còn sướng hay khổ thì thật là tương đối, tùy theo
ý nghĩ của mỗi con người. Đâu cứ phải là có miếng ăn ngon hằng ngày, chăn nệm
ấm êm mỗi tối mới là sung sướng. Niềm sung sướng hạnh phúc của anh là được sống
theo lý tưởng, theo ý muốn của mình, được nhìn thấy muôn người ấm no, hạnh
phúc. - Em thấy bây giờ người ta cũng đổi thay nhiều lắm, cũng tự do đi lại buôn bán
sầm uất hơn xưa. Thôi anh ạ, cả đời anh hy sinh cho đất nước, bây giờ anh nên
nghĩ đến thân anh. Hải mỉm cười khoan dung: - Ngọc ạ, em lúc nào cũng đáng yêu làm anh không bao giờ quên em hay giận em
cho được. Nhưng em thử nhìn lại mà coi, cái phồn vinh giàu có của đất nước mình
chỉ nằm trong tay của nhóm người cai trị, ở một vài thành phố lớn, còn đại đa
số dân lành thì cuộc sống như anh đây và bà cụ hàng xóm kia, ăn họ ban phát
cho, nói theo lời của họ. Muốn có ý kiến hay đời sống riêng tư thì đi cải tạo.
Những cao ốc những nhà hàng sang trọng mọc lên chỉ để cho những người Cộng Sản
đang nắm quyền và những người ngoại kiều như em chứ có dành cho dân chúng đâu.
Người Cộng Sản khôn lanh quỷ quyệt, khi mà chính quyền nằm trong tay của họ thì
ta không thể kêu gào xuông mà đòi lại được mà phải bằng những hành động đấu
tranh quyết liệt. Nếu ai cũng ra đi thì lấy ai trực diện với kẻ thù. Anh vẫn
biết một con én không làm nổi mùa xuân nhưng có con chim én cũng cho người ta
hy vọng rằng mùa xuân sẽ đến. Hải ngừng nói, ôm lấy tôi chặt hơn, tiếng chàng thì thầm bên tai tôi: - Còn em, em là mùa xuân của riêng anh. Em đang giữ của anh cả tuổi thanh xuân,
chúng ta đã có chung một giòng sông ước mơ trong dĩ vãng. Cho dù không được
sống bên nhau nhưng trong bất cứ lúc nào cô đơn buồn chán nhất ở cuộc đời nầy
anh đều nghĩ đến em, và tưởng như có em bên cạnh. Đêm xuống tận bao giờ. Tôi rung động theo từng tiếng thì thầm êm đềm của Hải.
Chàng lúc nào cũng đại lượng khoan dung, cho dù là với một người phản bội như
tôi. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau quên đi cả cái lạnh của Đà lạt và không cần
nghĩ đến thời gian. Đột nhiên tôi nghe tiếng ồn ào rồi những buớc chân vội vã. Chúng tôi hốt hoảng
buông nhau ra khi thấy những người công an Cộng sản ào vào như cơn lốc. Hai
người lăm lăm chĩa súng vào mặt Hải. Người thứ ba - có lẽ là cấp chỉ huy -
trong bọn chửi thề: - Mẹ bố thằng này, gớm thật, mới vừa mới gọi lên làm việc cho về là liên lạc
ngay với người nước ngoài. Nói xong hắn ta gật đầu ra lệnh. Hai thằng công an xông tới dùng báng súng đánh
tớt tấp lên đầu lên cổ Hải. Chàng loạng quạng bước được vài giây rồi gục ngay
xuống. Một giòng máu đỏ từ đầu chảy xuống. Tôi rú lên khiếp sợ hãi hùng. Trong
cơn mê sảng tôi còn nghe thấy tiếng la hét của người chỉ huy: - Lôi cổ nó về đồn còng tay nó lại. …Rất lâu tôi tỉnh lại, ngạc nhiên thấy mình đang nằm trên giường nệm ấm êm của
khách sạn. Đêm đã khuya lắm rồì, căn phòng tối om như địa ngục đang vây phủ
thân hình tôi. Tôi nhớ lại những gì đã xẩy ra trong buổi chiều. Hình ảnh Hải mù
lòa, lăn lộn dưới chân hai thằng công an mặt đằng đằng sát khí làm tôi kinh
hoàng và hối hận. Trời ơi tôi chỉ đem đến cho cuộc đời Hải những tai họa, khổ
đau và bất hạnh. Đêm đen tối quá, đêm dài tận cùng như đêm không bao giờ sáng.
Tôi sờ soạng chung quanh không thấy Thức đâu. Bao nhiêu câu hỏi chợt đến với
tôi. Ai đã mang tôi về đến khách sạn và giờ này Thức còn đi đâu mà không về
ngủ. Tôi chỉ mong trời sáng để biết tin Hải sống chết ra sao, để giải tỏa những
thắc mắc đang vướng bận trong lòng. Bỗng tôi chợt nghe có tiếng người nói lao xao ngoài cửa. Trời đã khuya mà ai
còn đang thức giờ này. Tôi rón rén bước ra kinh sợ thấy tên trùm công an đã
nhìn tôi hau hau lúc ban trưa đang nói gì với Thức. Hắn bỗng cười lên ha hả. - Ông tính mười mấy báng súng mà nện vào đầu thì làm sao sống nổi. Những thằng
hèn nhát thì đã trốn đi hoặc là chúng tôi cho sang hết cả bên ấy rồi, còn những
thằng cứng đầu như thằng Hải này thì cho nó về âm phủ mà đòi tự do dân chủ. Tôi lặng người ghê sợ không dám nói một lời nào. Tôi sợ chồng tôi. Tôi sợ hãi
cái độc ác của lòng người. Tôi sợ hãi cuộc đời còn lại mà tôi phải sống. Tôi sợ
hãi đêm dài đang bao phủ Việt Nam. Hôm sau tôi vội vã rời xa Đà Lạt. Khi xe gập ghềnh qua thác Preen, tôi nhìn con nước lững lờ trôi mà khóc thương
cho một dòng sông.
Thảo Nguyên (Thân tặng tất cả Nguyễn Trãi và các chiến hữu Biệt Động Quân thân mến của
tôi. Viết để nghĩ về người bạn tù khi được biết hắn không có ý định ra đi)...
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 108 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |