![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Tâm Tình | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 147 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23809 |
![]() ![]() ![]() |
|
Tự Do Không Tự Nhiên Rơi Xuống![]() Trong một thời gian rất ngắn, có ít nhất hai vụ kết án và bắt giữ công dân Việt đã diễn ra. Cả hai vụ đều thiếu sự công minh và thiếu cả tư cách của một quốc gia có luật pháp về quyền con người. Hai người phụ nữ lớn tuổi, tiểu thương ở Đồng Nai, bị kết án 11 năm tù vì đã viết biểu ngữ và kêu gọi chống luật đặc khu vào năm 2018. Chị Vũ Thị Dung, một trong hai người, bị bắt cóc khi đi đám cưới của bạn. Và cả chị Dung lẫn chị Nguyễn Thị Ngọc Sương đều không được yêu cầu luật sư hay gặp mặt gia đình trong một thời gian dài, cho đến khi họ chuẩn bị ra tòa. Thậm chí, ra trước phiên tòa giả hình ấy, người nhà của hai phụ nữ ấy cũng không được vào dự. Gần hơn là vụ bắt giữ công dân Nguyễn Vượng ở Lâm Đồng. Cả trăm công an rầm rộ bao vây nhà của anh, bắt đi, lục soát căng thẳng – mà theo mô tả thì không khí còn nghiêm trọng hơn cả vụ vây bắt 4 người Trung Quốc làm và tàng trữ 13 tấn ma túy ở Gia Lai. Nguyễn Vượng chỉ dùng công cụ livestream của facebook để bày tỏ chính kiến của mình, bày tỏ sự dứt khoát với chủ nghĩa cộng sản. Dù quan điểm chính trị riêng của Nguyễn Vượng được bảo vệ bằng Hiến pháp Việt Nam, nhưng tiếc là ở đất nước mà chúng ta đang sinh tồn, Hiến pháp thuộc về nhân dân, đành thúc thủ trước bạo cường và man rợ thuộc về nhà cầm quyền.
Hiến pháp Việt Nam vẫn ghi rằng bất đồng chính kiến với chủ nghĩa cộng sản là quyền, chứ không phải là tội.
Rất nhiều những chuyện quái gở như vậy đã xảy ra tại Việt Nam, đến
mức dần trở thành chuyện bình thường. Và bình thường đến mức bị nhạt
nhòa trước mắt của đám đông. Đoàn Thị Hồng, bà mẹ có con nhỏ dưới 36
tháng tuổi vẫn bị công an bắt cóc và phớt lờ lời chất vấn từ phía luật
sư. Những vụ điều tra dài ngày kèm thêm sự khủng bố tinh thần nhiều hình
thức trong trại tạm giam để buộc nhận tội như trường hợp anh Lưu Văn
Vịnh, Nguyễn Văn Đức Độ… đều là những vết nhơ của đời sống có luật pháp,
nhưng lại không được nhiều sự chia sẻ, không được nhiều người dám cùng
lên tiếng kêu đòi công lý cho họ. Sợ hãi và thủ phận vẫn còn là một màn
sương dày đặc, không cho con người nhìn thấy nhau, không cho phẩm giá
và lẽ phải của con người được trỗi dậy.
Nhưng đám đông người Việt lại vẫn luôn truyền tai nhau một cách hớn hở về những thông tin Hoa Kỳ thương chiến với Trung Quốc, ra những đạo luật về vấn đề Tây Tạng, Duy Ngô Nhĩ, Hồng Kông… như một phép cứu cánh tinh thần. Nhưng đã đến lúc mọi người cần phải nói với nhau tỉnh giấc, thoát khỏi giấc mơ chờ sung rụng.
Sẽ chẳng có tổng thống Trump nào, hay sự tan rã nào của Trung Quốc sẽ
tự nhiên đem lại dân chủ và nhân quyền cho người Việt Nam cả.
Chỉ vỗ tay và hy vọng thì không đủ. Một nước Việt Nam cần những con
người cùng nhau thực sự hành động để đi đến những sự thay đổi mang tính
hiện thực. Sẽ chẳng có trái sung ngon ngọt nào rơi vào cái miệng sợ hãi
và há to chờ thời mang tên Việt Nam.
Bài tập đầu tiên cho những đổi thay, là từ ngay bây giờ, mỗi con người cần quan tâm hơn và lên tiếng về việc vì sao người dân Việt đang rên xiết với đất đai bị cướp bóc, vì sao những người tù nhân lương tâm đang bị đối xử hà khắc và oan ức từng ngày, vì sao luật pháp đang bị chà đạp bởi những kẻ đang cầm nắm quyền lực…
Hãy tự hỏi mình, bạn đã tìm thấy sự phẫn nộ trước sự bất công đang
chà đạp đồng bào chưa? Bạn đã bao lần quay mặt để được yên phận mình mà
không ray rứt trước nỗi đau của người cùng màu da, tiếng nói?
Đừng tự so sánh với Hồng Kông, đừng lo sợ tương lai Việt Nam sẽ như Tây Tạng…nếu chỉ là chờ đợi thụ động. Nếu có một thể chế mới ngẫu nhiên xảy đến, đất nước này nhiều khả năng sẽ lại bị cầm nắm bởi bọn cơ hội, hèn nhát và vô lương tâm mà thôi. Bởi nuôi dưỡng hèn nhát, chúng ta sẽ nhận lại hèn nhát. Nuôi dưỡng sự ích kỷ, chúng sẽ là nạn nhân của ích kỷ.
Tôi viết những dòng này, bởi có không ít người Việt hôm nay thích
chọn làm khán giả thông minh trước thời cuộc hoặc đóng vai tiên tri đại
ngôn sáng thế, né tránh thực tế đầy nước mắt, máu và oan khiên của đồng
bào mình. Đừng quên bất kỳ sự thay đổi nào trong lịch sử, khán giả vô
tâm hay tiên tri đại ngôn rồi chỉ lộ hình là kẻ ăn bám và đánh cược với
thời đại. Bạn không thấy dân tộc này đã mang nặng và đủ đau về những kẻ
như vậy sao?
Tuấn Khanh's Blog
|
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
![]() |
||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|
Người Chạy Xe Ôm Bến Ninh Kiều![]()
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà
Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau
bữa ăn trễ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa
tôi mới có hẹn với bà xã và mấy đứa cháu ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi
dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm. Bà xã thì trưa nay
đã theo mấy đứa cháu gái đi “làm đẹp”: làm tóc gội đầu, móng tay và cả m***age. Nghe nói những loại dịch vụ này gần đây rất phổ biến và giá cả rất “mềm”, các
bà tha hồ mà chăm sóc mặt mày, tóc da.
Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ
dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật
khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo
Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa
là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh
quanh sông và có cả chương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước.
Bến nước Ninh Kiều còn có một đội ngũ đò máy cho khách du lịch thăm viếng chợ
nổi Cái Răng, những khu sinh thái nhà vườn và các cù lao, cồn vùng lân cận…
Trong tiếng động của nhịp sống chung quanh tôi thấy thật gần gũi, quen thuộc
nhưng cũng có chút gì đó ngập ngừng, bỡ ngỡ. Trên đường ồn ào xe máy, dưới sông
rộn ràng ghe đò tạo khu công viên bến Ninh Kiều mang hình ảnh đặc trưng của một
thành phố đô thị miền Tây.
Loáng thoáng đã gần bốn mươi năm, tôi trở lại nơi này. Trưa ngày mùng bốn Tết
năm 1978 là lần đầu tiên tôi ghé Tây đô. Mùi hương khói tỏa, màu vàng của những
chậu cúc và mai vàng vẫn còn cùng khắp những con đường. Bến đò Ninh Kiều thưa
thớt, trống vắng vào mấy ngày mùng. Không khí Tết tuy trầm mặc nhưng vẫn phảng
phất đâu đó cuộc sống đời thường đang trỗi dậy chung quanh. Tìm đến bến đò đi
về thị xã Vị Thanh, mà tôi chưa hề biết. Địa chỉ đến của tôi chỉ là một lời dặn
dò. Đúng hơn là một lời hứa tưởng chừng như vu vơ, vậy mà tôi vẫn giữ. “Làm sao
để gặp lại Nguyệt?”. “Anh cứ đến bến đò Vị Thanh, Chương Thiện hỏi bất cứ ai:
nhà của cô N.H. Nguyệt. Là sẽ gặp lại em thôi”. “Anh hứa sẽ đến!”. Chỉ có vậy,
võn vẹn có vậy cho chuyến đi năm đó của tôi.
Người con gái có đôi mắt to tròn biết nói, tên N.H. Nguyệt, tôi làm quen
trên chuyến xe qua phà Mỹ Thuận. Rồi vài năm sau mới chợt nhớ và tôi đã trên
chuyến đò vượt “Mười Bốn Ngàn” kinh xáng Xà-No để tới. Một đời người có bao
nuối tiếc, để một lần tôi đánh vỡ chiếc bình thủy tinh thời gian không hàn gắn
lại được. Để rồi đêm nằm quạnh quẽ trong nhà nghỉ bên dòng kinh xáng, tôi cuộn
tròn lòng mình sâu thẵm trong đáy mắt ai một lần gặp mặt. Căn nhà có tên người
con gái tôi quen đã trở thành cửa hàng thương nghiệp. Người chung quanh cho
biết cả gia đình của N.H. Nguyệt đã ra đi hơn nửa năm qua. Gió đêm thổi từ dòng
kinh xáng thì thầm lời cảm ơn em, cám ơn đầm sen hồ thủy tạ nằm giữa thị xã Vị
Thanh cho tôi một đời thương tưởng không nguôi.
“Ông anh đi xe ôm hông?… Tui lấy giá thiệt hữu nghị…”
Tiếng mời hỏi quanh đây, kéo tôi trở về thực tại. Tôi quay lại, người đàn
ông khắc khổ đội chiếc nón vải, cười nhe cả hàng răng cái mất cái còn. Tôi chưa
kịp lắc đầu từ chối, người đàn ông nói vội:
“Cả ngày ế ẩm… ông anh đi một cuốc giúp tui nghen”.
Thật là khó đoán tuổi của người chạy xe ôm. Không trẻ hơn và cũng không quá
già hơn tuổi tôi, dù trên khuôn mặt anh in hằn nhiều vết nắng gió bụi đường.
Mấy món đồ lưu niệm để chập tối hoặc mai mua cũng còn kịp. Nhưng nhớ lời “căn
dặn” nhiều lần của bà xã, “đi đâu phải bằng taxi, nhất định không được đi xe
ôm. Rất nguy hiểm”. Nếu biết tôi liều mạng, không “nghe lời” chắc chắn là bà ấy
sẽ giam lỏng tôi suốt chuyến đi còn lại. Nhìn ánh mắt, khuôn mặt người đàn ông
chạy xe ôm, lòng tôi lại thương cảm. Thôi đành dối vợ lần này, nhưng bây giờ thì
tôi chưa biết phải đi đâu? Tôi ngập ngừng, nói thật:
“Muốn đi giúp anh… Nhưng thiệt tình tui hổng biết đi đâu?”
“À… nhìn là biết ông anh là khách du lịch. Để tui chở ông anh đi vòng quanh
Cần Thơ cho biết. Tui lấy rẻ 110 thôi”.
Mắc hay rẻ tôi nào biết, chỉ gật đầu cười. Thoáng ánh vui mừng trong mắt,
anh đưa tôi chiếc mũ bảo hiểm. Cũng như anh, chiếc xe không mới cũng không cũ.
Người và xe cứ như hai đôi bạn dạn dày mưa nắng của thời gian.
“Tui chở ông anh đi đại lộ Hòa Bình, qua tòa nhà ủy ban nhân dân tỉnh, công
viên Lưu Hữu Phước. Lòng vòng đường Lý Tự Trọng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Đình
Chiểu… rồi mình qua khu dân cư Hưng Phú, nam đô thị mới của thành phố Cần Thơ…
cho biết”.
“Dạ… Anh cứ chạy tới chỗ nào đẹp, nổi tiếng của Cần Thơ là được… Anh chạy xe
ôm lâu chưa dzậy? Vợ con, gia đình anh ở đâu?”. Tôi bắt chuyện, khi chiếc xe ôm
rời khỏi bến Ninh Kiều.
“Chạy xe ôm cũng tầm 10 năm rồi ông anh. Nhà cửa tui ở bên kia Xóm Chài. Hai
vợ chồng tui có ba đứa, hai gái một trai. Tụi nó lớn hết rồi…”
Rồi anh chuyển qua giới thiệu cảnh quang hai bên đường. Thành phố Cần Thơ
như khoắc lên người chiếc áo mới, vừa lộng lẫy lại vừa vừa lem nhem đến lạ
lùng. Những con đường chen chúc con người, xe cộ ngột ngạt mà hầu hết là thế hệ
trẻ, dưới tuổi bốn mươi. Chạy lòng vòng một lúc, khi qua khỏi công viên Lưu Hữu
Phước, hướng về ty bưu điện thì trời đang nắng bỗng lất phất mưa. Anh hỏi tôi
có cần áo mưa không, sẽ dừng lại. Tôi nói không cần, nhưng cảm thấy chừng như
anh run nhè nhẹ và sôi bụng. Anh đang đói hoặc ăn quá ít bữa trưa? Nói anh ghé
vào quán ăn nào đó dọc đường, tôi làm như mình cũng đói và tìm chút gì lót dạ.
Anh liền cho xe vào con đường nhỏ (hình như là Ngô Văn Sở) có nhiều hàng quán
dọc bên đường. Tôi mời anh vào ăn chung cho vui, có bạn.
Một dĩa cơm thịt nướng bì trứng và chén canh cải ngọt cho anh, tô bún nước
lèo cho tôi. Lúc này thì không còn e ngại nữa, anh ăn thật ngon lành. Tôi nhìn
anh rõ hơn, ốm cao và ngoài hàm răng chiếc còn chiếc mất, khuôn mặt anh rắn rỏi
đường nét. Tóc nhiều cứng dợn cao, đôi mắt sâu dù có mờ sương gió vẫn còn đó
nét sáng rạng chập chùng. Tôi nghĩ, lúc còn trẻ chắc chắn anh rất sáng sủa, đẹp
trai.
“Rồi vợ con anh làm gì? Mấy cháu có gia đình con cái gì chưa anh?”
“Vợ tui trước làm phụ nấu cho nhà hàng, lương cũng khá lắm. Có lần qua phà
vấp té, bể xương hông chậu, nay bả đi đướng khó khăn nên nghỉ làm”!
Bên ngoài trời đổ cơn mưa lớn… Anh xuất thân con nhà nghèo ở Xóm Chài,
năm lớp 10 phải nghỉ học đi làm phụ giúp gia đình. Gặp chị, vừa đẹp vừa
là con gái nhà buôn bán khá giả ở Phụng Hiệp. Hai người yêu nhau thắm thiết. Ba
má chị ngăn cấm vì thấy anh nghèo, không tương lai. Nhưng chị quyết tâm một
lòng yêu thương anh, về làm dâu Xóm Chài mặc cho gia đình quay lưng từ bỏ…
Giọng anh kể ngập ngừng, khó nhọc.
“Tui làm mọi nghề, đụng đâu làm đó. Đến nay vẫn chưa lo cho bả được một lần
ăn ngon mặc đẹp. Nói thiệt với ông anh, nhiều khi tui hổng dám về nhà nhìn mặt
vợ con”.
Tôi thấy đôi mắt anh đượm buồn, sũng nước. Ly trà đá trong tay anh cũng run
nhẹ. “Thấy tui làm quần quật, bả đòi đi làm nhưng cả nhà đều cản. Sợ có chuyện
lần nữa, tiền đâu lo thuốc thang… Tháng trước bả nhận đan giỏ bện lục-bình tại
nhà. Hổng bao nhiêu tiền nhưng cũng đở tù túng tay chân…”, mắt anh Nhân (tên
anh) dù buồn nhưng tràn ngập yêu thương mỗi lần nhắc đến vợ. Không hiểu sao,
tôi muốn được nắm tay và ôm anh với lòng ngưỡng mộ. Có lẽ đã lâu lắm rồi tôi
mới nhìn thấy được ánh mắt, được tấm chân tình của tình yêu. Tình yêu thật đẹp
và quý giá có thật, đang hiệu hữu trước mặt tôi, của người chạy xe ôm ở bến
Ninh Kiều.
“Thằng con trai lớn làm thợ hồ chánh công trường, lương hướng rất khá. Mấy
năm trước bị đá đè, gãy một chân mặt. May mà người ta thương, vẫn còn cho nó
làm bảo vệ. Lương ít ỏi nhưng vẫn hơn thất nghiệp nằm nhà”.
Sợ anh chạnh lòng nhiều hơn, tôi hỏi lãng sang chuyện khác: “mỗi ngày chạy
xe ôm anh kiếm được bao nhiêu?”. “Thời taxi đầy đường, trừ xăng dầu tiền bến
kiếm được sáu, bảy chục là mừng. Nhằm bữa ế ẩm, chạy xe không còn lỗ cả tiền
xăng…”, anh cho biết. Lúc trước anh còn ráng chạy thêm ban đêm, nhưng mấy tháng
trở lại đây hổng dám nữa vì nạn cướp bóc hoành hành. Nhiều bạn chạy xe ôm ban
đêm, mất tiền mất xe và đôi khi mất cả luôn mạng. Rồi anh tâm sự tiếp về hoàn
cảnh gia đình mình:
“Đứa con gái kế làm công nhân ở Bình Dương, đủ ăn đủ mặc. Lâu lâu cũng gửi
dzề vợ chồng tụi chút đỉnh. Còn con út tui thì lấy chồng xa… Được cái, mấy đứa
nó thương vợ chồng tui lắm…”
Bên ngoài trời cũng bớt mưa, tôi hỏi anh thức ăn ở đây có ngon không? Anh
cười, “cơm chỗ này là nhứt rồi”! Tôi gọi thêm 3 phần cơm để anh mang về. Anh
ngại ngùng từ chối, rồi cũng nhận với lời lúng túng cám ơn.
“Chắc ông anh là Việt kiều phải hông?”
“Hông… tui là dân buôn bán trà ở Đà Lạt”, tôi đành phải nói dối anh cho qua
chuyện. Điện thoại di động của tôi rung liên hồi trong túi. Chắc bà xã đang
gọi, gần năm giờ rồi. Tôi nói anh Nhân chở tôi trở lại bến Ninh Kiều. Trên
đường về anh trầm ngâm và ít nói hơn. Sau cơn mưa không khí những đường phố Cần
Thơ trở nên dễ chịu và thơm mùi đất mới. Có lẽ cũng như tôi, anh đang cố sắp
xếp lại câu chuyện anh và tôi gặp gỡ, để về kể lại cho vợ con nghe. Rồi chừng
như tôi cũng ngồi im lặng phía sau không biết nói gì thêm. Chiếc xe ôm chạy
rong ruổi trên những mặt đường, còn tôi và anh đang bên nhau chạy mênh mông
trên những mặt đời nghiệt ngã.
Tôi nhắc anh để tôi xuống hơi xa khách sạn, phòng khi bà xã bất ngờ bắt gặp.
“Ông anh cho bao nhiêu cũng được… Hổng cần trả cũng hổng sao…”, anh nói lí nhí
khi tôi đưa lại chiếc mũ bảo hiểm. Tôi nhìn anh cười nhẹ, rồi móc túi quần gom
hết món tiền bà xã đưa tôi dằn túi nhét trọn vào tay anh, “anh Nhân nhớ lấy
tiền mua cho chị nhà vài bộ đồ mới cho đẹp nghen”! Anh nhìn tôi ngẩn người.
Không để anh khó xữ, tôi định quay đi, thì nghe anh nói nhanh:
“Dạ, cảm ơn ông anh thiệt nhiều. Nhưng chắc hổng dám lấy tiền mua quần áo đẹp
cho bả được đâu..!”. Giọng anh nghèn nghẹn, xót xa: “Đứa con gái út, tui
nói nó lấy chồng xa… Thiệt ra nó đi lấy chồng Đài Loan, rồi chết vì tai nạn
giao thông bên đó. Vợ chồng tui phải chắt mót dành dụm, để trả nợ số tiền mang
hài cốt nó về nhà mấy tháng trước…”
Tôi khựng người, chợt nghe trái tim mình như đang bị ai bóp nghẹn. Không dám
quay lại nhìn anh, tôi cố bước chân đi thẳng và thấy lòa nhòa công viên màu
nắng tắt. Số phận đời người sao cứ như cơn gió thoảng vô tình…
Rồi anh sẽ qua chiếc phà về bên kia Xóm Chài, với cuộc đời mỏi mòn còn lại.
Rồi tôi sẽ trở về bên kia xứ lạ, một đời đầy vơi kiếp sống tha hương. Anh có
thể quên tôi, một người khách trên chuyến xe ôm giữa muôn vàn dòng người tất
bật. Nhưng chắc chắn tôi sẽ không thể quên anh, chuyến xe chở cả một trái tim
sâu thẳm, một cuộc đời có thật của người đàn ông chạy xe ôm ở bến Ninh Kiều.
Buổi chiều như một nốt nhạc trầm buồn, chảy vàng vọt trên dòng sông quê hương
tôi muôn thuở…
Durham, North Carolina
Nguyễn Vĩnh Long
|
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
![]() |
||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23809 |
![]() ![]() ![]() |
|
Tình Gà![]()
Lại một cái Tết nữa sắp đến. Hôm đó một người bạn học của vợ chồng tôi
đem biếu đôi gà rừng, nói rằng do người dân miền núi nơi họ ở bắt được
bằng lưới. Anh nhốt chúng vào chiếc lồng che kín và mang đến, chúng tôi
chỉ nghe thấy tiếng kêu quắc quắc vọng ra.
Người bạn còn cho biết chú gà trống rất khoẻ, bất kỳ ai thò tay chạm vào
là nó chống cự quyết liệt, anh còn giơ cánh tay đã bị trầy xước để minh
chứng.
Gần tối chồng tôi đi làm về, tiện trên tay còn đeo đôi găng bảo hộ, anh
nhanh nhẹn thò tay túm được chúng và nhốt vào một chuồng gà bằng sắt cũ
trong sân nhà. Anh nói vẻ đắc ý: "Thật tuyệt, nhà ta sẽ được một bữa súp
gà thật ngon vào đêm 30 Tết…”. Đêm hôm đó tiếng kêu cứu và tiếng đạp
lồng tìm lối thoát của đôi gà khiến tôi trằn trọc không ngủ.
Sáng dậy, tôi vội mang thức ăn cho chúng, vừa mở cửa, tôi giật thót mình
thấy một bóng đen hình con gà in trước cửa. Tôi ngước lên nhìn thì ra
con gà trống đêm qua đã phá được cửa chuồng bay ra đậu ngay đầu hồi nhà.
"Hỏng rồi, con gà trống sổng chuồng rồi”. Tôi vội vàng kêu to, chồng và
con trai tôi đang ngủ cũng chồm dậy lao ra cửa để truy bắt kẻ "vượt
ngục”. Hai bố con tìm đủ mọi cách mà không tài nào bắt được, nó bay mất
hút. Trước tình thế không an toàn ấy, ngay tức thì chồng tôi gia cố lại
chuồng, chằng thêm dây thép xung quanh, cẩn thận hơn, anh ấy còn dùng
dây buộc nốt chân con gà mái lại, vừa làm vừa tự an ủi: "Còn mày, chạy
đằng trời! Thôi thì còn một con mái này cũng đủ ăn Tết”.
Thế rồi chúng tôi mỗi người một việc. Chập tối đi làm về, việc đầu tiên
là tôi vào kiểm tra chuồng gà. Thật kỳ lạ, dưới chân tôi lại hiện lên
bóng đen con gà trống sáng nay "vượt ngục”. Không hiểu tại sao gà trống
lại quay trở lại, tôi trân trân đứng nhìn nó mà trong lòng bao thắc mắc
lạ kỳ.
Rồi tôi chợt phán đoán. Nó bay trở lại không phải nơi đây có thức ăn no
đủ hơn nơi nó đang sống! Càng không phải nó quay lại để tìm cuộc sống
trong "ngục tù”. Phải chăng vì nó không nỡ bỏ rơi bạn gái đang bị giam
cầm và sắp phải đương đầu với cái chết được báo trước. Có lẽ nó cũng
hiểu rằng trước khi giã biệt cõi đời, cô bạn gà mái xinh đẹp kia đang
phải sống trong sự cô đơn thảm thương đến nhường nào!
Trong thế giới thiên nhiên chỉ con người được Thượng đế ban tặng có thêm
chức năng "ý thức” để được cảm xúc sinh động về tình yêu, hận thù, hờn
ghen… nhưng lạ thay hiện hữu trước mắt tôi hôm nay, chú gà rừng kia cũng
mang trong mình một trái tim của sức mạnh tình yêu mãnh liệt. Sẵn sàng
đương đầu với hiểm hoạ để bảo vệ người tình. Biết đâu nơi rừng núi xanh
thẳm kia, chúng là một đôi tình nhân, một đôi uyên ương hay một cặp vợ
chồng đang tuần trăng mật…
Tôi lặng lẽ ngắm nhìn chú gà trống đang thế thủ trên đầu hồi nhà, trong
lòng xốn xang. Như chợt tỉnh, tôi vào nhà lấy rổ thức ăn và một chậu
nước sạch cho cả đôi gà ăn, chắc chúng đã bị đói suốt ngày hôm qua.
"Lại có chuyện gì vậy, con gà trống quay lại phải không?”. Chồng tôi
chạy lại xem đầu đuôi ra sao, anh há hốc miệng vẻ kinh ngạc vì sự thể
đúng như vậy! Chú gà trống cứ nhảy lên lại nhảy xuống từ đầu hồi nhà đến
khúc gỗ gác lên nóc chuồng, nửa muốn tiến đến gần cửa chuồng, nửa vẫn
như cảnh giác để tự bảo vệ mình. Đoán được ý định, chồng tôi liền mở cửa
chuồng và để ngỏ, chúng tôi lánh ra một chỗ chờ đợi, vài phút sau chú
gà trống quả cảm lao xuống cửa và chui vào chuồng. Nó áp mình bên cạnh
cô gà mái, dùng thân và đôi cánh dang rộng che chở. Cô gà mái tìm thấy
hơi ấm người bạn đời, nó run rẩy dũi mình nép vào thân gà trống. Có lẽ
cô ta đang có được sự che chở mạnh mẽ và đầy tin tưởng. Chú gà trống cất
tiếng kêu "Ri, ri…” giọng trầm ấm như an ủi người bạn gái: "Chúng ta sẽ
không bao giờ ly biệt”.
Tối hôm đó gia đình chúng tôi không ngớt bàn luận về tình cảnh của đôi
gà. Ai cũng cảm thấy trong lòng vướng mắc khi chứng kiến được tình yêu
thiêng liêng mà chúng dành cho nhau. Điều đó khiến trong mỗi chúng tôi
đều muốn cưỡng lại ý định giết chúng để ăn thịt. Miếng thịt gà đó thật
thơm ngon đối với bất kỳ ai có nhu cầu hưởng thụ, nhưng sẽ đắng ngắt và
khó nuốt trôi khi biết rằng mình đang huỷ diệt một tình yêu cao thượng.
Chồng tôi chợt nói trong sâu lắng: "Có lẽ…” Anh dừng lời ở đó nhưng tôi
và cậu con trai như chung một dòng suy nghĩ cùng bật lên: "Có lẽ chúng
ta không thể giết thịt chúng để ăn phải không ạ!”- "Đúng vậy!” Anh khẽ
nói. Kể từ giây phút này chúng tôi sẽ trả lại cho thiên nhiên một mắt
xích liên hoàn của sự sinh tồn trên trái đất, nó đã dành cho chúng tôi
sự cảm kích thiêng liêng- đó là cảm xúc lương tâm.
Ai ngờ đêm xuống lại xảy ra một chuyện kinh hoàng. Khoảng quá nửa đêm
một gã mèo hoang to khoẻ móng vuốt sắc nhọn, đôi mắt hung dữ, xuất hiện
trong sân nhà tôi. Cách đây hơn một tháng con mèo hoang này đã từng ăn
thịt một con thỏ mà chúng tôi nhốt trong lồng để ngoài sân. Đêm nay có
lẽ mèo hoang đánh hơi thấy mùi thịt mới, nó rón rén như kẻ săn mồi lành
nghề, trườn tới cửa chuồng gà thò đôi chân móng vuốt sắc nhọn bất ngờ
quặp chặt đúng cổ gà mái, tiếng kêu thảm thiết của gà mái làm chấn động
màn đêm khiến chúng tôi bừng tỉnh chạy ra sân. ánh đèn pin của chúng tôi
quét về phía mèo hoang, nó đang dùng răng cậy cửa chuồng. Quả thực ánh
mắt của mèo sắc lạnh trong một đêm tuyết rơi rét thấu xương. Chúng tôi
không thể làm gì hơn. Chúng tôi chỉ đám đứng từ xa dùng đèn quét lia lịa
đánh động đuổi mèo hoang, một mặt muốn gà trống cùng chúng tôi phản
kích để bảo vệ sự sống cho chúng. Quả nhiên gà trống bật tung mình dùng
đôi cánh chắc khoẻ lao về phía mèo, vỗ đập tới tấp chống trả quyết liệt
để bảo vệ con mái. Đôi móng cựa của gà trống lách qua những khe chuồng
như lò xo vồ vào mắt mèo hoang. Bị đánh trả quyết liệt, mèo hoang bị
thương tích đau đớn đành bỏ lại con mồi chạy hút bóng đêm.
Sáng hôm sau, chúng tôi lại nghe hàng xóm xôn xao không biết nhà ai có
con gà trống đêm qua bị mèo hoang ăn thịt mất một nửa, còn một nửa nó bỏ
lại rặng tre. Con gà trống này được gia chủ nuôi nấng đầy đủ, nên to
cao đến nửa mét, đôi cánh rộng như cánh đại bàng, màu sắc đẹp lộng lẫy
như đuôi công. Sáng nào nó cũng ngạo nghễ đi trên đường làng cất tiếng
gáy vang khoe mẽ khiến những cô gà mái trong làng nhìn thấy đầy vẻ
ngưỡng mộ thèm khát, vậy mà nó chịu để lại một nửa thân xác thảm hại
trước móng vuốt của kẻ săn mồi đêm qua.
Nhìn đám tuyết trên sân nhà, còn đỏ những vệt máu của mèo hoang bị
thương trước sự trống trả quyết liệt của đôi gà rừng đêm qua càng thôi
thúc vợ chồng tôi quyết định dứt khoát trả lại cho chúng bầu trời tự do,
nơi mà tạo hoá ban quyền cho chúng được hưởng trọn.
Đúng vào sáng 30 Tết, hai vợ chồng tôi dậy từ sớm. Việc đầu tiên chúng
tôi mang thức ăn vào cho đôi gà, khi nhìn vào cửa chuồng, tôi thấy đôi
mắt của chúng nhìn chúng tôi vẻ căng thẳng lo âu. Phải chăng chúng ngỡ
đoán đây là bữa ăn cuối cùng trước khi bị con người hoá kiếp. Sau khi
chúng ăn xong, chồng tôi bắt đôi gà cho vào chiếc lồng tre. Chúng tôi
ngồi trên thuyền xuôi theo dòng sông hướng về nơi mà người bạn đã mang
gà biếu. Đi được nửa đường, nhìn bên bờ sông hiện lên một dãy núi với
những cánh rừng xanhngát hùng vĩ. Chồng tôi dừng thuyền, anh trầm ngâm
ngắm một lúc và bảo tôi xách lồng gà cùng leo lên núi. Bầu trời xanh
ngát, gió rừng rào rạt điệp trùng, những cành lá lay động nghiêng ngả
như vẫy chào chúng tôi… Tôi mở nắp lồng, đôi gà rừng trống, mái ngỡ
ngàng không bay ra ngay, ngừng một lát chúng như mới chợt hiểu và từ từ
vỗ cánh chui ra khỏi lồng. Chúng không bay ngay mà đậu trước mắt chúng
tôi, hướng đôi mắt trong vắt như rớm lệ hàm ơn rồi mới vỗ cánh bay xa…
Bóng đôi gà nhỏ dần và khuất vào màu xanh bạt ngàn. Trước khi quay về,
chúng tôi còn kịp nhìn thấy trên mặt tuyết, nơi đôi gà vừa đứng, dấu
chân chúng tôi để lại như một ấn tích liên hệ sự sống còn giữa con người
với thiên nhiên, như ghi lại dấu ấn một Thiên sứ Tình yêu…
Truyện ngắn của Anh Tử (Trung Quốc)
Tạ Đỗ Hiền dịch
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 11/Oct/2019 lúc 6:40am |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
![]() |
||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23809 |
![]() ![]() ![]() |
|
Tình Tận! Tận Tình!![]()
Hồi 16, 17 tuổi tập tễnh vào đường yêu có trăm lần vui; có vạn lần
buồn, tui đọc ‘Uyên Ương Gãy Cánh’ (Broken Wings) của Kahil Gibran, nhà văn Mỹ
gốc Lebanon. Kahil và Selma yêu nhau nhưng
Selma vâng lời Cha lấy người, vốn có quyền thế, mà nàng không yêu, vì hiểu rằng
Cha nàng phải làm điều đó để tránh những thảm họa đổ xuống gia đình nếu nàng cứ
khăng khăng em ‘chả’.
Tan vỡ tình anh, buồn quá nàng
chết ngắt. Cùng với cái chết của nàng, Gibran đã chôn vùi luôn cả trái tim của
mình dưới mộ sâu, ôm xác em sầu! Tình mộng kết thúc đầy nước mắt!!!
Chịu ảnh hưởng tiểu thuyết, để
tránh chết bắt đắc kỳ tử vì yêu, lớn lên tui nguyện với lòng mình là sẽ lấy người
mình yêu. Mộ túp lều tranh hai quả tim vàng! Có vàng rồi thì tiền bạc mà nhằm
nhò gì chớ?!
Rồi đồng vợ đồng chồng tát biển
Đông cũng cạn (Quởn thiệt). Hoặc “Có sức mình sỏi đá cũng thành sạn!”
Giờ cưới vợ hơn bốn chục năm rồi,
nghĩ lại thấy mình ‘khờ dại’ biết bao! Tình mộng chỉ đẹp trong tiểu thuyết mà
thôi?!
Phải chi hồi đó giống cái chuyện
này: Mình hẹn nàng ra “Đèn Ba Ngọn”, Bến Ninh Kiều, Cần Thơ.
Đêm đầy sao lung linh! Mình quỳ,
khụy hai đầu gối xuống, cầm tay nàng. “Em làm vợ anh nhá?” Nàng nói “Không”!
Và sau đó, hai người đều sống
trong hạnh phúc.
***
Tuy nhiên, mới đây đọc báo Herald
Sun (Melbourne, Úc Châu), tui thấy lòng ấm lại khi thấy ‘khứa lão’ này còn ‘khốn
nạn’ (xin hiểu theo tiếng Bắc) hơn mình nhiều!
Chuyện như vầy: Hai người gặp
nhau vào cuối những năm 1980, chàng khụy hai đầu gối xuống, cầm tay nàng. “Em
làm vợ anh nhá?” Nàng nói “OK”! Hai đứa bèn đưa nhau ra nhà thờ để “I
do!”.
Sau 11 năm mặn nồng hương lửa; giờ
lửa củi lạnh tanh; thì đường anh, anh đi; đường tôi, tôi đi; tình nghĩa đôi ta
có thế thôi! (Ý quên còn chia của nữa chớ!)
Chàng biết thân, là dân đất Nữ
Hoàng, ‘Lady First’, nên chung chi trước cho nàng và thằng ‘cu’ 19 triệu đô bất
động sản rồi cộng 1 triệu tiền mặt năm cho nàng dằn túi, và phí cho thằng ‘cu’
ăn chơi chóng lớn.
Vậy mà nàng cũng chưa chịu! Chê
ít quá! Nên nàng đòi thêm 24 triệu đô nữa trong phần bất động sản, 2 triệu cho
thằng ‘cu’ xài cộng với 400,000 đô cho nó đi du hí.
Hàng tuần thêm 9,000 đô để trả trả
‘biu bộng’. Để mua đồ ăn, 1200 đô, quần áo 1100 đô, tóc tai 770 đô, làm vườn, sửa
xe, xà bông tắm… vân vân và vân vân!
Em nói rằng xưa tình nồng, xài thả
cửa; giờ 9,000 đô tuần nhằm nhò gì?
Bà Tòa giữ y nguyên theo yêu cầu
của em; chỉ cho rằng trả ‘biu’ một tuần 9000 hơi nhiều; nên cắt bớt cái râu ria
3,000 còn 6,000 đô chẳn.
***
Hồi xưa ông bà mình nói: của chồng
công vợ. Thôi nhau thì chia hai. Án lệnh bất thành văn này có trước án lệnh
thành văn của quan tòa Tây cả mấy trăm năm.
Vì phụ nữ mình hồi xưa dễ thương
lắm cà! Lỡ có xa chàng, vàng vòng, bông tai, hột xoàn, cà rá cũng hỏng thèm, chỉ
xin mang con theo, để mẹ con em về với má.
“Lỡ mai thiếp có xa chàng. Đôi bông thiếp trả, con chàng thiếp
xin.”
Hai mẹ con khóc hu hu, xách bọc
rác để đựng quần áo cũ, xin chàng đủ tiền đò rồi thôi.“Lỡ mai thiếp có xa
chàng. Thì xin cho thiếp đò ngang thiếp về.”
Chứ đâu phải như bây giờ, em đưa
chàng ra ba tòa quan lớn để kiếm thêm triệu nào hay triệu nấy như hai vợ chồng
ông bán cà phê hột và cà phệ bột trong nước, thôi nhau, rồi đưa nhau ra Tòa
chia của! Thưa từ năm Thìn tới năm Dậu, thưa tới thưa lui mà Tòa xử vẫn chưa
xong!
***
Đó là chuyện của ‘Tây’. Còn dưới
đây là chuyện của ‘Ta’ được viết ra chỉ để giải sầu trước tình đời đen bạc. Mà
tình đời đen bạc không phải cho tui mà cho một ông đồng hương ở xứ Cờ Hoa; vì
là đàn ông con trai với nhau; hổng ‘thố tử hồ bi’ (thỏ chết cáo buồn) thì coi
sao đặng?!
Chuyện rằng: “Sinh năm 1954 tại
‘tỉn’ nước mắm Phan Thiết, bỏ học năm 13 tuổi, làm lơ xe, vượt biên đến Mỹ,
1978, tên mất mũ, mất râu trên đầu thành ‘Men’. (Chớ ‘Men’ không phải là số nhiều
của Man (nhiều người đàn ông) đâu nhe.
Tình thơ dại ‘Men’ với một người
em Châu Mỹ La Tinh. Một đứa con gái xinh xắn tọt ra, tưởng rằng kết nối tình ta
tới ngày răng long đầu bạc. Nào ngờ một ngày đi ‘cày về, em bế con đi mà chẳng
thèm nói ‘bái bai”.
Vợ bỏ ‘Men’, ‘Men’ nghĩ: “Tui
nghèo, em cũng chẳng cao sang, sao em nỡ bỏ Men cho đành ?!” Đúng là đường vào
tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn. Men hát Thói đời Trúc Phương tập một:
“Người yêu ta rồi cũng xa ta
nên chung thân ta giận cuộc đời!”
Đen tình biết đâu chừng đỏ
bạc? Men lên Las Vegas, nghĩ đánh cho vui, cho giải sầu và thua tối tăm mặt
mũi.
Tây khi dễ gọi Men là “Men
Monkey”! (Men Khỉ). Men còn có hổn danh là ‘Money machine’ (Máy rút tiền) vì cứ
thua hết phỉnh là Men lại chạy ra máy ‘ATM’ của Casino rút tiền.
Có công mài sắt có ngày nên sắt,
cộng với thiên tài xác xuất thống kê, đếm bài, Men dần nổi danh trong làng ‘cờ
bịch’ quốc tế, chơi poker, (phé) chuyên nghiệp.
Hai mươi năm chơi Poker, ‘Men’ đã
có tới 75 trận vô địch với tiền thưởng lên tới 10 triệu đô Mỹ. Tâm phục, khẩu
phục, giới cờ bịch quốc tế chuyện nghiệp tấn phong ‘Men Master’. (Sư phụ Men).
Thói đời là vậy: Nghèo thì chúng
khi. Mà giàu thì chúng sợ?
Giàu rồi, đa triệu phú nhiều đô Mỹ
rồi, em xưa đang tâm bẻ gãy chữ đồng giờ tiếc hùi hụi, muốn ‘hàn’ lại, nhưng
Men nói “No”.
Men tâm sự loài chim biễn rằng:
“Trong sâu thẳm, Men vẫn biết ơn em, vì bị em đá! Bị đá đít thì thì thiệt ê
mông nhưng Men không văng xuống mà lại văng lên.”
***
Men tài đến nỗi đọc ngay được cả
con bài của đối thủ còn giấu trên tay nhưng lại lần nữa, Men không ‘đọc’ được
tình em; vì hai con mắt Men nhắm híp lại, chỉ yêu bằng hai cái lỗ tai không hè!
‘Thói
Đời Trúc Phương’ tập hai!“Đôi mắt nào từng đêm buốt giá! bên chiếu chăn tình
xa nhịp thở. Tiền đổi thay khi rủ cơn mê để chua xót trên lối về !”
Năm 1990, ‘Men’ về thăm quê. Lần về ấy, ‘Men’ gặp một người con gái thơm mùi nước
mắm Phan Thiết, xinh như mộng, ngủ mớ còn chưa thấy được. Dẫu là người đa tài
và đa tình, ‘Men’ cũng bị em hớp hết 3 hồn; chỉ còn 9 vía; nên về kêu Tía cưới
gấp gấp nó cho con! Lúc đó, rất nhiều bà con khuyên Men: một cũng đừng; hai
cũng đừng vì ‘em yêu’ còn quá trẻ, nhỏ hơn ‘Men’ tới 13 tuổi (con số hơi xui
nhe!)
Tình yêu không phân biệt tuổi tác, vơ trẻ chừng nào khoái chừng nấy, nên ‘Men’
và em đã nên duyên ‘cầm sắt’. Cầm sắt nhẹ nên em hổng chịu mà chỉ muốn cầm
vàng, tỉ trọng nặng hơn; cho dù Men đã chổng khu lo cho gia đình bên vợ không
thiếu thứ gì.
Vậy là đau đớn thay, chua xót
thay, như ăn nguyên cả một trái chanh giấy vừa lột vỏ, khi ‘Men’ và em có với
nhau đến ba đứa con thì em đòi ly dị. Tình đã tận và em tận tình lấy đi gần hết
số tài sản mà bao năm từng lê gót trong sòng bài mà ‘Men’ ky cỏm được.
“Lỡ mai thiếp có xa chàng. Nhà
đất thiếp ‘xí’, nợ nần chàng ôm”
Em còn đòi ‘xí’ phần luôn cả cái
nhà ‘Men’ mua cho em gái của mình ở Phan Thiết nữa. Thiệt…tình tận, em tận
tình, quyết lột chàng đến sạch sành sanh!
***
“Bắc thang lên hỏi ông Trời! Lấy
tiền cho gái có đòi được không?
Ông trời ngoảnh mặt lại trông. Tao đòi chưa được huống chi là mày!”
Do đó, bây giờ cặp nào trước khi
thành hôn, mà lỡ có giàu bạc hàng chục tỷ như ông chủ Facebook: Mark Zuckerberg
và Priscilla Chan, trước khi động phòng hoa chúc, là lo chạy vắt giò lên cần cổ
kiếm một viên Luật sư chuyên về ly dị để làm cái hợp đồng tiền hôn nhân gọi là
‘prenup’ để theo đó mà chia của; nếu lỡ mai thiếp có xa chàng.
Còn phè phè, ỷ y như ông chủ
Amazon Jeff Bezos, tội gái gú , bị con vợ MacKenzie bỏ; phải chung chi cho em
sơ sơ có 35 tỉ đô hè!
Còn theo tui, khi yêu, con tim
mình còn cho nó được, dẫu mất trái tim là mình chết, chết chắc, còn chưa ngán
thì vài chục tỉ đô mà nhằm nhò gì hè?
Kết luận: Đàn ông chúng ta dẫu đi
mô cũng trở về cái ‘tỉn’; còn quý em yêu mình tình tận thì tận tình lột để có
cái mà vui duyên mới nữa chớ?
“C’est la vie!” Đời là thế!
|
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
![]() |
||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23809 |
![]() ![]() ![]() |
|
Tình Người![]()
Một câu chuyện có thật. Tại một thành phố ở Ấn Độ, vị
thương gia mất cả ngày trời thương thảo với đối tác. Mệt mỏi, ông vào một nhà
hàng sang trọng, tự thưởng cho mình bữa tối thịnh soạn.
Khi những món ăn đã sẵn sàng trên bàn, bất
chợt ông nhìn thấy một cậu bé đang nhìn trộm qua cửa kính, ánh mắt vô cùng thèm
thuồng. Có gì đó đâm nhói trong tim, ông vẫy cậu bé vào. Cậu bé dắt theo một
đứa em gái nhỏ. Hai đứa trẻ chăm chăm nhìn vào những đĩa thức ăn nóng hổi,
chẳng cần biết người gọi chúng vào là ai.
Vị thương gia bảo chúng cứ ăn thỏa thích. Và, không nói, không cười, hai đứa trẻ ngấu nghiến ăn hết các món ăn ngon lành trên bàn. Vị thương gia im lặng nhìn hai đứa trẻ ăn và rời đi, ông thấy cơn đói được xua tan một cách lạ kỳ, một cảm giác khó tả lâng lâng trong lòng...
Vị thương gia gọi lại món ăn, nhẩn nha
thưởng thức, sau đó gọi thanh toán. Ông xem tờ hóa đơn, một giọt nước mắt khẽ
rơi. Ông nhìn người đàn ông tại quầy thu ngân và mỉm cười, anh ta đáp lại bằng
nụ cười rạng rỡ. Tờ hóa đơn không hề ghi số tiền mà chỉ có một lời nhắn: “Thật
đáng tiếc, chúng tôi không in được hóa đơn thanh toán cho tình người! Chúc ngài
luôn hạnh phúc!”.
Vị thương gia dùng “đức”, lấy tình thương đối xử với
người nghèo. Chủ nhà hàng dùng “nghĩa” đáp lại “đức”. Không biết ai hơn ai?
Người xưa có câu: “Ngồi trên đống cát, ai
cũng là hiền nhân, quân tử. Ngồi trên đống vàng mới biết ai thật sự là quân tử,
hiền nhân”.
Tình yêu thương luôn đem đến những điều kì
diệu cho cả người cho đi và người nhận lại. Hạnh phúc mà tình yêu thương đem
lại cho cả hai là cảm giác bình yên và thật sâu lắng, xóa tan mọi đau khổ và
bất hạnh..
Vạn vật tồn tại trên thế giới này đều không thể sống
mãi với thời gian, ngay cả con người cũng không thể đi ngược lại hay cưỡng cầu
với quy luật của thời gian. Theo thời gian, mọi thứ đều biến hóa và đổi thay
khôn lường, có thể sinh ra hoặc mất đi, có thể phát triển hay lụi tàn, cái gì
có đến chắc chắn sẽ có đi, không bao giờ là tồn tại mãi mãi. Nhưng đó chỉ đúng
với vật chất ngoài thân, có một thứ mà con người có thể gìn giữ nó tồn tại mãi
với thời gian đó chính là tình người.
st.
|
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
![]() |
||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23809 |
![]() ![]() ![]() |
|
CHẾT THẸN! PHAN ĐĂNG
Khi xuống tàu hỏa, Phan Bội Châu liền gọi một người phu xe và đưa cho anh ta tấm danh thiếp của Ân Thừa Hiến để nhờ tìm địa chỉ. Người phu xe này không biết chữ Hán, nên đã đề nghị Phan Bội Châu đợi, để mình tìm một người phu xe khác biết chữ Hán để có thể giúp đỡ. Cuối cùng, người phu xe biết chữ Hán cũng xuất hiện và đã đưa Phan Bội Châu - Tăng Bạt Hổ đến địa chỉ của Ân Thừa Hiến. Nhưng khi xe đến Chấn Võ Học Hiệu - nơi tá túc của Ân Thừa Hiến thì mới vỡ lẽ, người bạn Trung Quốc này đã chuyển đi nơi khác, và không ai biết "nơi khác" cụ thể ở đâu. Nghĩ ngợi một lúc, người phu xe liền nói với hai vị khách Việt Nam: "Xin các ngài cứ chờ tôi một chút, tôi sẽ đi tìm địa chỉ mới của Ân Thừa Hiến rồi quay lại đón 2 ngài". Hai vị khách Việt Nam đứng chờ từ 2 giờ chiều, đến 3 giờ, rồi 4 giờ chiều vẫn không thấy người phu xe quay lại, liền nghĩ: Tokyo rộng thế này, biết tìm Ân Thừa Hiến ở đâu. Nhưng đến 5 giờ chiều thì người phu xe bất ngờ quay lại và cho biết đã tìm được nơi cần tìm. Thế là người phu xe đưa hai vị khách Việt đi thêm 1 tiếng nữa đến một lữ quán có treo biển "Thanh quốc Vân nam lưu học sinh Ân Thừa Hiến". Tất cả cho thấy người phu xe Nhật Bản đã tận tuỵ với công việc của mình như thế nào. Nhưng chưa hết, khi Phan Bội Châu hỏi tiền công thì người phu xe nói một con số khiến cụ Phan giật mình: "2 hào 5 xu". Thấy số tiền quá rẻ, Phan Bội Châu rút ra một đồng bạc để trả nhưng người phu xe kiên quyết từ chối với lý do: "Theo quy định thì từ nhà ga Tokyo đến lữ quán này, giá chỉ là 2 hào 5 xu thôi. Thêm nữa, hai ông vì văn minh nước Nhật mà đến đây, chúng tôi hoan nghênh các ông, chứ không hoan nghênh tiền bạc của các ông. Nếu các ông cho tôi tiền xe vượt quá quy định thì không khác gì coi thường, khinh bạc người Nhật Bản chúng tôi". Đây là một câu chuyện có thật, được viết lại trong tác phẩm "Tự Phán" nổi tiếng của Phan Bội Châu. Khi kể lại câu chuyện này, đặc biệt là tâm trạng của mình khi hỏi giá tiền người phu xe Nhật Bản, Phan Bội Châu cho biết: "Sợ nó cũng một nết như phu xe nước mình thì e cũng khốn nạn với vấn đề đòi tiền". Và sau khi bày tỏ sự cảm thán trước một người phu xe Nhật Bản giàu lòng tự trọng thì Phan Bội Châu đã thốt lên: "Chao ôi! Trí thức, trình độ dân nước ta xem với tên phu xe Nhật Bản chẳng đáng chết thẹn lắm hay sao". PHAN ĐĂNGCòn đây là những gì diễn ra ở Việt Nam, trong thế kỷ 21: "Sợ nó cũng một nết như phu xe nước mình..."Đó là hai câu chuyện có tính chất tương phản, một diễn ra ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 21, và một diễn ra ở Nhật Bản vào đầu thế kỷ 20.
Chuyện thứ nhất: Ngày 3-8, một cụ ông Nhật Bản có tên Oki Toshiyuki đang đi dạo quanh trung tâm Quận 1 (TP ************) thì có một người đạp xích lô đi theo mời chào. Khi gần đến chợ Bến Thành, cụ đồng ý để người đạp xích lô chở mình về khách sạn Liberty trên đường Tôn Đức Thắng. Toàn bộ quãng đường chỉ dài 1,5km, nhưng cụ Oki vẫn hào hiệp trả người đạp xích lô 500.000 đồng. Nhưng cụ chưa kịp trả thì người lái xích lô đã chủ động cho tay vào ví cụ rút thêm mấy tờ mệnh giá 500.000 đồng và 200.000 đồng khác. Tổng cộng, người đạp xe lấy của cụ 2,9 triệu đồng cho quãng đường 1,5Km. Rõ ràng là bị "chém đẹp" nhưng khi trả lời báo chí Việt Nam, cụ Oki vẫn nhận phần lỗi về mình với lý do: "Trước khi ngồi lên xe đã không hỏi giá". Cụ Oki sang Việt Nam vừa để du lịch, vừa để thăm con trai đang làm việc ở TP ************. Đây là lần thứ 5 cụ đến Việt Nam kể từ khi con trai cụ lập gia đình và chọn TP ************ là quê hương thứ 2 của mình cách đây 10 năm. Có nghĩa là con trai cụ đã, đang và sẽ tiếp tục gắn bó với "quê hương thứ 2" Việt Nam, và cụ cùng những người thân của cụ có thể sẽ còn trở lại Việt Nam để thăm con. Nhưng với việc "phải trả" (mà thực chất là bị "ăn cướp") tới 2,9 triệu đồng cho một quãng đường 1,5Km, không hiểu nếu trở lại Việt Nam, bản thân cụ Oki và những người thân của mình sẽ phải đối diện với trạng thái cảm xúc nào? Sẽ luôn tự nhủ phải cẩn thận, đề phòng, hay thực chất là sẽ nơm nớp sợ mỗi khi phải gọi một cuốc xe, mua món đồ Việt Nam? Những câu chuyện kiểu này không mới, vì nó đã lặp đi lặp lại rất nhiều lần, đặc biệt là ở những vùng du lịch biển.
Nhưng khi nó diễn ra ở ngay TP ************, một trung tâm du lịch lớn của cả nước, nơi mà các quy định cùng các chế tài kiểm soát về việc phục vụ khách du lịch được thực hiện khá chặt chẽ thì đấy lại là cả một vấn đề. Rất có thể chỉ từ một "con sâu" mà hình ảnh của cả một trung tâm du lịch lớn sẽ bị hoen ố, và tạo ra hàng loạt những hệ luỵ khó lường. Chuyện thứ hai: Năm 1905, khi đang hoạt động ở Nhật Bản thì Phan Bội Châu và Tăng Bạt Hổ rủ nhau lên Tokyo để tìm một người bạn Trung Quốc có tên Ân Thừa Hiến. Khi xuống tàu hỏa, Phan Bội Châu liền gọi một người phu xe và đưa cho anh ta tấm danh thiếp của Ân Thừa Hiến để nhờ tìm địa chỉ. Người phu xe này không biết chữ Hán, nên đã đề nghị Phan Bội Châu đợi, để mình tìm một người phu xe khác biết chữ Hán để có thể giúp đỡ. Cuối cùng, người phu xe biết chữ Hán cũng xuất hiện và đã đưa Phan Bội Châu - Tăng Bạt Hổ đến địa chỉ của Ân Thừa Hiến. Nhưng khi xe đến Chấn Võ Học Hiệu - nơi tá túc của Ân Thừa Hiến thì mới vỡ lẽ, người bạn Trung Quốc này đã chuyển đi nơi khác, và không ai biết "nơi khác" cụ thể ở đâu. Nghĩ ngợi một lúc, người phu xe liền nói với hai vị khách Việt Nam: "Xin các ngài cứ chờ tôi một chút, tôi sẽ đi tìm địa chỉ mới của Ân Thừa Hiến rồi quay lại đón 2 ngài". Hai vị khách Việt Nam đứng chờ từ 2 giờ chiều, đến 3 giờ, rồi 4 giờ chiều vẫn không thấy người phu xe quay lại, liền nghĩ: Tokyo rộng thế này, biết tìm Ân Thừa Hiến ở đâu. Nhưng đến 5 giờ chiều thì người phu xe bất ngờ quay lại và cho biết đã tìm được nơi cần tìm. Thế là người phu xe đưa hai vị khách Việt đi thêm 1 tiếng nữa đến một lữ quán có treo biển "Thanh quốc Vân nam lưu học sinh Ân Thừa Hiến". Tất cả cho thấy người phu xe Nhật Bản đã tận tuỵ với công việc của mình như thế nào. Nhưng chưa hết, khi Phan Bội Châu hỏi tiền công thì người phu xe nói một con số khiến cụ Phan giật mình: "2 hào 5 xu". Thấy số tiền quá rẻ, Phan Bội Châu rút ra một đồng bạc để trả nhưng người phu xe kiên quyết từ chối với lý do: "Theo quy định thì từ nhà ga Tokyo đến lữ quán này, giá chỉ là 2 hào 5 xu thôi. Thêm nữa, hai ông vì văn minh nước Nhật mà đến đây, chúng tôi hoan nghênh các ông, chứ không hoan nghênh tiền bạc của các ông. Nếu các ông cho tôi tiền xe vượt quá quy định thì không khác gì coi thường, khinh bạc người Nhật Bản chúng tôi". Đây là một câu chuyện có thật, được viết lại trong tác phẩm "Tự Phán" nổi tiếng của Phan Bội Châu. Khi kể lại câu chuyện này, đặc biệt là tâm trạng của mình khi hỏi giá tiền người phu xe Nhật Bản, Phan Bội Châu cho biết: "Sợ nó cũng một nết như phu xe nước mình thì e cũng khốn nạn với vấn đề đòi tiền". Và sau khi bày tỏ sự cảm thán trước một người phu xe Nhật Bản giàu lòng tự trọng thì Phan Bội Châu đã thốt lên: "Chao ôi! Trí thức, trình độ dân nước ta xem với tên phu xe Nhật Bản chẳng đáng chết thẹn lắm hay sao". Đầu thế kỷ 20, một trí thức Việt Nam đã phải cảm thán ngưỡng mộ một người phu xe Nhật Bản đến như vậy thì ở đầu thế kỷ 21 này, trong câu chuyện bị "chặt chém" 2,9 triệu đồng cho quãng đường 1,5Km, không biết ông cụ Oki Toshiyuki sẽ cảm thán như thế nào về một người đạp xích lô ở TP ************? "Tôi cảm thấy rất buồn và xấu hổ mỗi khi đọc tin về những vụ chặt chém khách du lịch như thế này" - đó là phát biểu của PGS. TS Phạm Trung Lương, Nguyên phó Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển Du lịch. Còn bà Nguyễn Thị Khánh, Phó chủ tịch Hiệp hội Du lịch TP HCM cũng thốt lên: "Đây là một vụ việc xấu xí, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Sự việc này, một người bình thường cũng thấy quá đáng, bản thân chúng tôi và những đơn vị hoạt động trong lĩnh vực du lịch thì vô cùng bức xúc" (Trả lời phỏng vấn báo điện tử Dân trí ngày 5/8/2019). Theo những thông tin mới nhất thì công an phường Bến Nghé (Quận 1 - TP HCM) đã tìm ra và làm việc với người đạp xích lô có hành vi "chặt chém" cụ Oki. Người đạp xích lô thừa nhận thấy cụ Oki già cả, chậm chạp, lại thấy trong ví cụ có nhiều tiền nên đã nảy lòng tham. Đây là một hành vi rất đáng xấu hổ, và với hành vi này, chắc chắn người đạp xích lô sẽ bị xử lý thích đáng. Về phần mình, cụ Oki (hiện đã trở lại Tokyo) thông qua người con trai (vẫn sống ở TP HCM) đã bày tỏ sự cảm kích trước việc công an Việt Nam đã truy tìm bằng được người đạp xích lô "ăn cướp tiền" của cụ. Và cụ sẽ được hoàn trả lại khoản tiền. Tuy nhiên câu chuyện không chỉ là mối quan hệ tiền bạc và cảm xúc giữa một người đạp xích lô Việt Nam với một du khách Nhật Bản. Hy vọng là với cách xử lý mạnh tay của cơ quan chức năng, tất cả các cá nhân, tổ chức phục vụ công tác du lịch phải hiểu rằng "chặt chém" du khách nước ngoài là điều không đơn giản. Và quan trọng hơn, bản thân những người phục vụ du lịch, từ một người đạp xe đến một người bán hàng nhỏ lẻ cũng phải ý thức rõ rằng mình chính là những "đại sứ" của đất nước trong mắt khách du lịch, cho nên phải có ý thức bảo vệ và xây dựng hình ảnh của đất nước trong bất cứ hành động nào. "Chặt chém 500.000 đồng/ đĩa trứng: Bà chủ nhà hàng bị phạt 27 triệu", "Công an khống chế cô gái trẻ bán tăm giả "cắt cổ" ở Hồ Gươm", "Khách tố quán hủ tiếu chặt chém bị đánh chảy máu đầu"... đấy là hàng loạt những cái tít báo khi chúng ta gõ cụm từ "chặt chém khách du lịch" trên google. Nó cho thấy rằng câu chuyện "chặt chém" đã diễn ra từ lâu, đã bị xử lý rất nặng, nhưng sau đó lại vẫn tiếp tục diễn ra. Có thể tần suất và mức độ của nó đã giảm dần, nhưng để bảo vệ hình ảnh của "điểm đến Việt Nam" với khách du lịch nước ngoài thì phải làm mọi cách để nó không thể tồn tại nữa. Hãy nhớ đến người phu xe Nhật Bản đầu thế kỷ 20 trong câu chuyện của Phan Bội Châu và Tăng Bạt Hổ. Không ai nghĩ rằng lời cảm thán mà cụ Phan viết đến hơn 100 năm sau vẫn chẳng lỗi thời: "Sợ nó cũng một nết như phu xe nước mình thì e...". Diệp XưaChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 19/Oct/2019 lúc 1:50pm |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
![]() |
||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23809 |
![]() ![]() ![]() |
|
Mùa Thu Tội Nghiệp![]() Chị Bông đi chợ Việt Nam, quầy trái cây mùa nào thức ấy, những loại trái cây ngon Việt Nam đã giữ chân chị lâu hơn. Chị thấy một cô gái trẻ mặc váy ngắn, áo hở cổ mát mẻ đang săm soi chọn mít, người cha già đứng bên chiếc xe chợ kiên nhẫn chờ đợi. Cuối cùng cô gái chỉ vào một quả mít to và người cha khệ nệ vần trái mít ra sát bìa quày đề dễ dàng bê đặt xuống xe. Chị Bông thấy tội nghiệp ông già ghê, chắc con gái ăn mặc đẹp điệu đàng không dám bê quả mít sợ bẩn tay bẩn áo. Chị Bông đến gần và nhìn ông già ái ngại khi ông đang hì hục đẩy quả mít vào góc xe cho gọn. Cô gái như hiểu được ý chị, nàng cười cười giải thích: - Cô ơi… chồng em đấy. Và nàng liến thoắng: - Anh ấy muốn làm bất cứ gì có thể để giúp vợ. Em sang Mỹ 2 năm mà vẫn thèm đủ thứ trái cây Việt Nam. Này nhé, nhãn, vải, chôm chôm đắt mấy chồng em cũng mua, hôm nay thì em thèm mít nên mua hẳn một quả to về bổ ăn dần cho đã đời cô ạ… Chị Bông ngượng ngùng vì đã hiểu lầm, nhưng cô gái vẫn hồn nhiên nói tiếp: - Khi còn ở Việt nam thì em có thèm gì món mít, em muốn ăn gì chả có. Bao nhiêu thứ trái cây ngon, trái cây quý chất đầy trong tủ lạnh ấy chứ. Ông chồng quay mặt đi chỗ khác làm như không nghe thấy cô vợ trẻ nói gì. Chị Bông nghĩ thầm chắc cô gái là con nhà giàu đã quen hưởng đầy đủ vật chất sung sướng, lấy ông già để sang Mỹ và lần hồi sẽ bảo lãnh cả nhà sang đây, chiến thuật đi định cư nước ngoài tuy chậm mà chắc. Ông già dù đã nhuộm đen nốt mấy sợi tóc le que còn lại trên cái đầu hói, dù diện quần jean áo thun cho ra vẻ trẻ trung cũng không thể nào xứng tầm bên cô vợ trẻ này. Ông tuổi chắc 70 còn nàng chưa đến 30. Chị ngẩn ngơ nhìn theo đôi vợ chồng đũa lệch khi ông chồng già đẩy chiếc xe chợ đi theo cô vợ trẻ tung tăng váy áo đi trước. Nhìn cảnh này ai mà chẳng nghĩ là cô gái dẫn bố già đi chợ cho vui. Chị Bông về đến nhà không thấy chồng đâu, anh Bông đang ngoài vườn, cây lê quả chín bị sóc gặm hay chim mổ rơi rụng xuống đất anh đang nhặt bỏ vào bao rác, chị Bông chưa kịp kể cho chồng nghe chuyện ngoài chợ thì anh đã than thở: - Mùa Thu về ai mộng mơ với lá Thu rơi còn tôi chỉ lo quét lá, lá càng rơi tôi càng chán. - Anh đừng có kể công, hôm nay em đi chợ thấy một ông già chiều vợ lắm, ông vác một quả mít to nặng cho vợ mà chẳng than thở gì. - Thì bà vợ già của ông ấy yếu đuối… - Trái lại, nàng là một cô vợ mạnh khỏe và rất trẻ đẹp. Anh Bông lẩm bẩm: - Nếu thế thì vác cả tạ gạo cũng vui vẻ chứ đừng nói bê quả mít. - Ý anh muốn nói là những bà vợ già và xấu như tôi thì chẳng cần giúp, cứ mặc kệ cho đáng đời hả? hả? Anh Bông gỡ gạc: - Bà già cũng có giá trị của bà, tôi đang dọn vườn cho bà đây nè. Buổi chiều chị Bông nhận được một cú phone: - A lô, tôi muốn hỏi thuê căn nhà đường Naomi Lane còn trống không ạ? Chị Bông đáp: - Vâng, chị muốn thuê nhà hả, nhà đang sẵn sàng để dọn vào. - Chị cho vợ chồng em cái hẹn chiều mai xem nhà. Chiều hôm sau chị Bông đến địa chỉ căn nhà mà chị đã cắm bảng cho thuê, khi khách đến chị Bông nhận ra cô gái trẻ mua mít trong chợ mà chị đã gặp. Hôm nay nàng lại diện một cái váy khác tươi trẻ và nhí nhảnh hơn cả hôm đi chợ. Cô gái cũng nhận ra chị Bông ngay, nàng ngạc nhiên: - Ối giời ôi, lại là cô mà em đã gặp ở chợ hôm qua lúc em mua quả mít. Nàng lại hồn nhiên kể: - Chồng em đã bổ quả mít ra. Ngon lắm cơ, anh ấy gỡ từng múi mít cho em ăn. Bổ được quả mít to và bóc ra từng múi đã là công việc chẳng hứng thú gì với người phụ nữ, vừa tỉ mỉ vừa dơ tay, nếu không khéo thì nhựa mít dính tay thế mà ông già này phải bổ quả mít to tướng. Lấy vợ trẻ vợ đẹp thì phải chiều cho ra dáng đàn ông chứ chẳng lẽ ông rên hự hự và thều thào rằng: ”Em ơi, anh không đủ sức cầm con dao phay bổ qủa mít cho em đâu”. Chị Bông nghĩ thế và mỉm cười, cô nàng cao hứng khoe thêm: - Chồng em giỏi lắm, còn nấu cơm rửa bát cho em nữa cơ. Thương anh quá, cuối tuần nào em cũng đòi đi ăn nhà hàng để anh ấy… được nghỉ ngơi. Rồi nàng quay ra nói với chồng: - Đúng là chúng mình có duyên với cô đây anh nhỉ? À, cô ơi em xin giới thiệu em là Mộng Châu, chồng em là Tín. - Còn tôi là Bông. Mời anh Tín và cô Mộng Châu vào xem nhà. Ông Tín ngắm nghía bao quát xung quanh căn nhà và nói với cô vợ: - Cảnh đẹp đấy, căn nhà nằm dưới những tàn cây cao. Bây giờ là mùa Thu lá đang đổi màu. Mai kia mùa Thu chín là sẽ vàng rực cả cây và rơi rụng càng thơ mộng em ạ. Chúng mình sẽ ngồi dưới gốc cây này uống trà và tận hưởng mùa Thu em nhé. Cô Mộng Châu chẳng thèm để ý gì đến cảm xúc sung sướng của ông chồng già vừa vẽ ra hình ảnh hai vợ chồng hạnh phúc và thơ mộng với cảnh Thu, nàng vén váy bước vào trong căn nhà cũ kỹ và chê, cố tình cho chị Bông nghe từng lời rõ ràng: - Nước Mỹ nổi tiếng giàu có văn minh mà nhà cửa không đẹp bằng ở Việt Nam. Nhà em ở trước kia là nhà mấy tấm, cổng to lớn cho xe ô tô chạy vào cơ, vườn cây hoa lá đẹp như trong phim truyện Hàn Quốc cơ… Ông Tín ngượng ngùng ngắt lời vợ: - Em kể chuyện nhà to nhà đẹp ra đây làm gì… Chị Bông nghĩ thầm mình đã đoán không sai, cô tiểu thư này từng ở nhà cao cửa rộng, vật chất ê hề, chịu lấy ông chồng già hoặc vì ăn chơi quá độ nên cha mẹ “tống cổ” đi Mỹ cho khuất mắt, hoặc vì mục đích đi Mỹ đổi đời cho bản thân và cả gia đình sau này. Tâm lý của cô con gái nhà giàu ở Việt Nam sang Mỹ bỗng phải sống trong điều kiện tài chính hạn hẹp, thời gian đầu thường bị “sốc” và thất vọng như thế. Chị Bông nói: - Nhà này tuy cũ nhưng sạch sẽ gọn gàng em ạ, lại là căn nhà cuối đường riêng tư với cây cao bóng mát mùa hè, với lá vàng ngập sân mùa Thu ai cũng thích, người thuê trước vì lý do công ăn việc làm họ mới phải dọn di thôi. Em mà không thuê là có người khác thuê ngay. Ông Tín thì thầm năn nỉ vợ: - Em đồng ý nhé. Các căn nhà khác còn cũ hơn, xấu hơn mà chắc gì được chỗ đẹp như thế này. Cô Mộng Châu ngẫm nghĩ, chắc biết khả năng ông chồng già chỉ có bấy nhiêu nên nàng đồng ý và không kêu ca gì nữa. Cuối tuần vợ chồng ông Tín dọn vào nhà. Ông Tín kê một bộ bàn ghế bên hông nhà dưới tàn cây rủ lá. Chị Bông đã tưởng tượng ra có những buổi chiều Thu mát mẻ hai vợ chồng ông Tín ra đây ngồi cùng uống trà, cùng ngắm lá Thu rơi mà vui lây. oOo Mùa Thu lá đổi màu làm đẹp cả khu phố, toàn những cây phong từ đời nào to cao sừng sững, nhất là con đường Naomi có ngôi nhà của vợ chồng ông Tín đang ở. Có lẽ nơi đây khi xưa là một rừng phong trước khi rừng được xẻ ra xây cất thành những khu nhà ở. Từ đầu đường đến cuối đường hai hàng cây chụm đầu vào nhau, chỉ thấy thấp thoáng trời xanh qua kẽ lá. Mỗi khi gió nhẹ lá phong thoảng rơi vài chiếc, nhưng khi gió mạnh thì nhiều chiếc lá phong cùng lả tả rơi xuống bay bay trong gió thành những vũ điệu uyển chuyển tuyệt vời. Chị Bông đến nhà vợ chồng ông Tín để thu tiền thuê nhà, họ gọi chị mấy ngày trước nhưng chị bận rộn, hôm nay sẵn đi công việc khác gần đây nên chị ghé vào. Chiều thứ bảy chắc sẽ có đủ mặt hai vợ chồng ở nhà, chị vừa thu tiền vừa thăm hỏi xã giao đồng hương luôn thể... Chị Bông gõ cửa, khi cánh cửa mở ra thoáng nhìn bên trong chị Bông đã nhận ra cảnh bàn tiệc vừa tàn, đồ ăn thức uống, bát đĩa, ly chén, khăn giấy, vỏ chai, lon nước còn bừa bộn trên chiếc bàn dài và rộng được kê ra từ hai chiếc bàn nhỏ nối lại. Ông Tín đang bận thu dọn bàn tiệc này, ông hơi lúng túng nhưng vẫn lịch sự mời chị Bông vào nhà để ông lấy tiền trả. Chỉ có mình ông Tín ở nhà, ông chán nản chẳng cần dấu diếm: - Chúng tôi vừa có tiệc sinh nhật Mộng Châu, cô ấy và bạn bè của cô ấy ăn xong lại kéo nhau đi đến địa điểm vui chơi nào đó. Tôi... ở nhà dọn dẹp, đi theo làm gì cho thêm mệt thân mà chẳng thích hợp với mình. Lấy tiền xong, chị Bông định ra về nhưng ông Tín dường như quá cô độc và cần có người để trút nỗi lòng nên níu kéo khách ở lại: - Chị Bông không bận gì thì cứ ngồi chơi trong khi tôi vừa dọn dẹp vừa kể chuyện. Đã lâu rồi tôi chưa biết tâm sự cùng ai… - Chuyện cô Mộng Châu, vợ ông? - Vâng, niềm vui và nỗi buồn của tôi là nàng. Chị đã gặp chúng tôi vài lần, hôm nay chị trông thấy cảnh này chắc cũng đoán ra phần nào, biết đâu nay mai chị sẽ nhìn hoặc nghe thấy những cảnh tương tự thì chị sẽ không thắc mắc hay ngạc nhiên gì nữa. Chị Bông tò mò ngồi lại một góc bàn lắng nghe ông Tín kể: - Tôi góa vợ cách đây mấy năm, ba đứa con ở xa đều muốn tôi về ở với chúng. Nhưng vốn tính ăn chơi bay bướm từ thời trai trẻ, buồn tình vì cô đơn và bỗng dưng được tự do thảnh thơi làm lại cuộc đời tôi cao hứng muốn cưới vợ trẻ đẹp. Loại gái trẻ đẹp chịu lấy những ông già đáng tuổi cha tuổi chú như tôi thì chỉ có ở Việt Nam và đầy trên mạng. Tôi đã tìm được Mộng Châu một cách dễ dàng nhanh chóng. Ông Tín thở dài: - Tôi đánh đổi tất cả những tình cảm yêu thương của con cháu vì nàng. Các con tôi đã phản đối, đã buồn giận, các thân nhân họ hàng đã khuyên can, nhưng tôi bất chấp hết. Chị Bông cảm thông: - Tôi thấy ông luôn tỏ ra thương yêu và chiều chuộng nàng bằng tất cả tấm lòng chân thật, chắc nàng cũng hiểu điều đó. - Vâng, nhưng tất cả những thương yêu chiều chuộng ấy không thể biến một ông chồng già thành chàng trai trẻ cho xứng với nàng được. Mộng Châu đang bắt đầu chán chường tôi rồi, thậm chí nàng coi thường tôi, cứ ngang nhiên vui chơi với bạn bè trang lứa, nếu tôi không tự ái chia tay thì cũng có lúc nàng sẽ thẳng thắn nói chia tay. - Rồi ông tính sao? Ông Tín rầu rầu: - Chắc ngày ấy không xa đâu, vì Mộng Châu đã có thẻ xanh rồi. Tôi lại trở về cuộc sống độc thân. Chị Bông nói đùa cho ông Tín bớt buồn: - Nhưng chắc ông không lập lại lần nữa tìm cô tiểu thư con nhà giàu Mộng Châu thứ hai đâu nhỉ… Ông Tín bỗng bật cười ha hả làm chị Bông ngạc nhiên tưởng mình đã nói gì sai trái: - Chị vừa bảo gì? Cô Mộng Châu tiểu thư con nhà giàu? - Chứ còn ai nữa, cô ấy đã mấy lần khoe cuộc sống giàu sang trước đây ở Việt Nam. Ông Tín cười cho đã đời xong mới nói: - Mộng Châu chỉ là biệt hiệu, tên thật của nàng là Nguyễn Thị Chuông... Chị Bông ngạc nhiên: - Nhưng gia đình cô ấy giàu có thì cái tên có ảnh hưởng gì đâu? - Ai bảo chị là nhà cô ấy giàu có? Cô ấy… Chị Bông sốt ruột tranh lời: - Cô ấy khoe ngày ở Việt Nam từ cái tủ lạnh lúc nào cũng đầy ắp trái cây ngon đến ngôi biệt thự to lớn mấy tầng, xe ô tô có thể chạy vào tận trong sân… - Đúng là Mộng Châu từng ở trong biệt thự cao sang, trong nhà có tủ lạnh lúc nào cũng đầy thứ ngon vật lạ. Nhưng vấn đề là cô Mộng Châu tức cô Nguyễn thị Chuông không phải là cô tiểu thư con ông bà chủ, mà chỉ là con sen, là đứa ở đợ mà thôi, gia phả nhà nàng ba đời bần cố nông, vì thế nên cô Chuông đã lên mạng tìm bạn bốn phương để đổi đời và đã đạt ước mơ sang Mỹ như chị đã thấy rồi đó. Chị Bông chưa hết ngỡ ngàng: - Thì ra thế, cô ấy cứ nói kiểu nửa vời làm tôi tưởng lầm. Gái Bắc kỳ khéo léo thật, tôi cũng là Bắc kỳ mà còn thua xa. - Tôi biết rõ hoàn cảnh nàng, một ông già như tôi cưới được vợ trẻ đẹp là quá đủ rồi, sang Mỹ ai biết nàng từng là con sen con ở. Tưởng nàng sẽ mang ơn tôi và an phận sống bên tôi lâu dài… Ông Tín quay ra than van: - Chắc kiếp trước tôi mắc nợ nàng chị Bông ạ, ngày vợ tôi còn sống bà ấy yêu thương săn sóc tôi từng bữa cơm từng giấc ngủ. Lấy Mộng Châu thì ngược lại tôi phải chiều chuộng hầu hạ nàng từng tí một mà nàng chưa vừa lòng. Các con tôi đã đoán trước điều này thế mà tôi cứ đâm đầu vào, không ngờ tình yêu ở tuổi già cũng đam mê, bồng bột mù quáng không thua gì tuổi trẻ. Tôi buồn lắm mà chẳng biết nói cùng ai, con cháu còn đây, thân nhân còn đấy nhưng tôi mặt mũi nào tâm sự với họ. Hôm nay được dịp nói với chị tôi thấy vơi nhẹ lòng. Chị Bông an ủi: - Thôi, ông Tìn đừng buồn, coi như ông làm phước cứu nhân độ thế, mở hé cánh cửa cho đại gia đình bần cố nông cô Nguyễn Thị Chuông sẽ được đổi đời để thế hệ sau khá hơn. Chị Bông chào ông Tín ra về, ông già lù khù lại lúi húi đứng trong bếp rửa tiếp đống bát dĩa cao chất ngất, mà nếu ở với con cháu thì công việc này không phải của ông. Chị Bông bước ra ngoài, mùa Thu vẫn rực rỡ ngoài sân. Chị Bông thấy bộ bàn ghế bên hông nhà phủ đầy lá phong rơi, có lẽ cả tháng nay vợ chồng ông Tín không hề ra đây ngồi hay quét dọn. Cô Mộng Châu trẻ trung phơi phới yêu đời và đua đòi kia làm sao hiểu được thú vui của tuổi già, ngồi hàng giờ bên ông chồng già cùng uống trà và ngắm lá Thu rơi cho được. Tội nghiệp mùa Thu làm đẹp cho đời, cho mọi người nhưng ở góc phố này, góc đường này, nơi lá vàng nhiều nhất, đẹp nhất thì mùa Thu lại bị bỏ quên hững hờ. Tội nghiệp ông Tín ở cái tuổi mùa Thu cuộc đời đáng lẽ ông sẽ được an hưởng tuổi già bên con cháu hay nếu cho đời bớt lẻ loi thì tìm người bạn cùng trang lứa. Ham gì niềm vui ngắn ngủi bên cuộc tình so le để phải nghe tiếng dèm pha của người đời và ngậm đắng nuốt cay như thế này. Nguyễn Thị Thanh Dương |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
![]() |
||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23809 |
![]() ![]() ![]() |
|
Chú Tư Mạnh![]()
Những năm đầu của thập niên 80 , sau 5
năm lưu đày ở Củ Chi , Tôi được về thành phố dạy 1 trường Cấp 3 ở gần
nhà . Mỗi tuần chỉ có 12 tiết dạy của 3 lớp cuối cấp, chuẩn bị thi tốt
nghiệp phổ thông . Rảnh rỗi dù thời gian này, cả nước đang đói . Nhưng
tôi vốn vô lo , đến đâu hay đến đó, quanh quẩn với đồng lương chết
đói , sống tạm qua ngày . Chẳng biết làm chi cho hết giờ, lại bày đặt
Chơi Chim . Chơi ở vườn Tao Đàn, sáng sáng xách lồng chim , đạp xe ra ,
tụ nhau lại đấu láo và nghe chim hót . Và cũng từ đó thành lập 1 nhóm
cùng ngồi với nhau .
Người cao tuổi nhất nhóm là Chú Tư Mạnh , hồi đó cũng khoảng 50 . Chú cao to như Tây , ăn mặc chải chuốt và thanh lịch như công chức cao cấp thời trước . Giọng rặt Nam bộ và hành xử cũng khá hào phóng với mọi người . Gia đình Chú thuộc loại giàu có , hồi đó đa số đều đi xe đạp hoặc xe gắn máy cũ mèm , Chú chơi xe Honda đời mới do đám viễn dương đem về bán , chiếc nào cũng giá mấy lượng vàng . Đôi khi cuối tuần , Chú lại đến bằng xe hơi Peugeot có tài xế lái . Lúc đầu , ai cũng tưởng Chú là cán bộ có chức vụ về hưu , nhưng dần dần hỏi chuyện hoá ra không phải . Chú là dân buôn bán từ xưa đến giờ . Chuyên bán vàng . Lúc đó nhà nước cấm dữ lắm , nhưng nhu cẩu xã hội vẫn có , nên Chú vẫn tiếp tục nghề xưa , dù là mua chui bán lậu . Chú có đến 3 căn nhà , toàn mặt tiền đường lớn , mà cái nào cũng to . Tụi tui cứ thắc mắc không hiểu với tài sản như thế mà sao gia đình Chú lại thoát được mấy lần đánh tư sản khốc liệt vậy ? Hoá ra là Chú có người em ở rừng về , làm chức gì lớn lắm trong uỷ ban thành phố , nên tài sản Chú được an toàn mà nghe đâu lại càng nhiều hơn khi có sự trợ thủ đắc lực của Chú Em . Sáng nào cũng vậy , Chú đều chơi dĩa bò kho bánh mì có bốn miếng thịt lớn , Chú bảo Chú rất thích món này , ăn hoài không thấy ngán . Thường thường , Chú ăn 2 miếng , còn 2 miếng bà chủ đã biết ý , luôn gói lại đưa Chú mang về cho 2 con chó Fox bé tí tì ti . Thời đó đói ăn , cả tháng làm giáo viên như tôi mới mua tiêu chuẩn được nửa kí thịt heo bạc nhạc với mỡ , nên thấy Chú ăn sáng như vậy , tụi tôi thấy Chú quá sang trọng , nên dù ngồi với nhau , tiếng nói của Chú vẫn có giá trị hơn hẳn . Người giàu sang lúc nào cũng thế , giữa mọi người họ vẫn có vị thế cao hơn 1 bậc , bởi họ nhiều tiền hơn đương nhiên tiếng nói của họ được vị nể hơn . Chúng tôi càng nể Chú hơn nữa khi gặp 2 đứa con của Chú . Chú có 2 đứa con , trai lớn gần 30 , cô con gái nhỏ khoảng 25-26 tuổi . Cả 2 đều rất lễ phép và cũng vừa lập gia đình . Mỗi lần đi đâu xa hoặc cuối tuần về quê chồng quê vợ , con Chú đều ra tận nơi sân chim để chào và xin phép Chú về thăm Cha thăm Mẹ . Lần nào cũng cúi đầu , khoanh tay chào hết mọi người khi đền cũng như lúc đi . Chú hãnh diện về điều này , mà tụi tôi cũng đồng ý về sự hãnh diện đó của Chú . Cái thời buổi nhiễu nhương , ông thằng thay đổi tá lả thế này , nề nếp gia phong lộn tùng phèo mà còn được những đứa con như thế thì hãnh diện là quá đúng rồi ! Nhưng hoá ra là đóng kịch cả, là mưu mô cả . Lần hồi, các màn kịch cứ he hé và lần lượt diễn ra, tụi tôi nhiều khi không tin được , không ngờ cuộc đời lại có nhiều chuyện khốn nạn đến thế . Khi xã hội Việt Nam bắt đầu mở cửa là lúc màn kịch bắt đầu . Đầu tiên là căn nhà ba tầng ở Bùi Thị Xuân , căn nhà lâu nay giao cho anh con trai lớn ở và bán buôn . Một ngày đẹp trời vợ chồng anh về thưa với vợ chồng Chú là anh ta muốn sửa sang lại để biến thành khách sạn , bởi bắt đầu sẽ có khách du lịch về , doanh nghiệp qua , đón đầu như vậy mới thắng lớn được . Nghe bùi tai quá , vợ chồng chúng nó từ xưa đến nay ngoan ngoãn , biết lo làm ăn , chưa hề làm mất lòng 2 vợ chồng Chú . Thế là sang tên cho chúng để chúng chúng mở doanh nghiệp , xin giấy phép xây cất . Lại còn cho chúng mượn 300 lượng vàng làm vốn . Hai vợ chồng an tâm phần thằng Hai . Chúng nó làm ăn thành công thì mình lo chi tuổi già , xem như chia gia tài trước cho chúng . Giải quyết nhẹ bâng . Lại đến cô con gái , cũng 1 đêm mát trời , con gái nằm gãi lưng cho mẹ vừa thủ thỉ : Vợ chồng con cũng đã lớn rồi , ba má cho chúng con ra riêng đặng lo cho tương lai . Ba má giao cho tụi con cái nhà ở đường Nguyễn Đình Chiểu đang cho thuê , tụi con dọn về đó mở tiệm vàng , bây giờ nhà nước cho tư nhân mua bán vàng , làm ăn tốt lắm . Ba má vẫn ở nhà này , tuổi già cần yên tĩnh mà ở chung thế này nhiều khi các con của con quấy quá làm phiền ba má . Nói nghe lọt tai quá , nghĩ cũng hợp lí quá , sang tên nhà , đưa thêm 300 lượng làm hàng bán . Lúc đưa vàng , vợ chồng Chú bắt phải có mặt Con Rể , hai vợ chồng cùng ký giấy mượn của vợ chồng Chú 200 lượng , còn 100 lượng kia cho hai đứa bây làm vốn . Thế là xem như xong chuyện của hai đứa con , hai vợ chồng Chú vui vẻ để lại tiếp tục sống cuộc đời hạnh phúc . Đùng 1 cái , anh con trai lớn không biết làm ăn hùn hạp với ai , phải cầm cố nhà cửa , khách sạn . Rồi 1 ngày cả nhà trốn mất . Vượt biên . Khách sạn bị tịch thu , cửa khoá to đùng với tờ giấy dán chéo ghi : Vượt biên , phản quốc với mấy dấu đóng đỏ lòm . Chú Tư Mạnh ốm mấy tháng , Vợ Chú lên cơn đau tim phải vào cấp cứu . Thôi ! Của đi thay người , chỉ mong gia đình nó đến nơi bình an . Nhưng rồi , tin đến chẳng bình an , anh con trai chỉ đi ra được đến bãi là bị gài bắn chết ngay tại chỗ để bọn dân quân , công an cướp vàng . Cô vợ và đứa cháu bay ra được tàu lớn , nhưng rồi bão đánh chìm đâu đó ngoài biển sâu . Vợ Chồng Chú suy sụp hẳn , Chú vật vờ như mộng du , thương con , thương cháu đến đứt cả ruột . Một năm sau , không chịu thấu nỗi đau , không dằn nổi những cơn đau tim , Vợ Chú qua đời . Đến thắp nhang cho Thím , nhìn thấy mái tóc mới qua mấy đêm đã bạc trắng của Chú , chúng tôi xót xa cho bi kịch dồn dập đổ xuống gia đình của Chú . Cô con gái và chàng rể quấn khăn tang lo hậu sự , nước mắt vẫn lả chã nhưng trong đầu cũng đang tính chuyện mốt mai . Thế rồi khi tro cốt của Vợ Chú an vị ở Chùa , ngày cúng thất đầu tiên , hai vợ chồng cô con gái vẫn còn mang áo tang đề nghị với Chú : Má mất rồi , Ba tuổi đã lớn , ở đây 1 mình chẳng có ai chăm sóc gần gũi , gia đình mình giờ chỉ còn Con với Ba , Ba bán căn nhà này đi , cho chúng con mượn thêm , làm ăn bây giờ hơn nhau ở chỗ vốn nhiều mới mong thắng lớn , về ở với vợ chồng con , để con được săn sóc ba tuổi về già , lúc đau ốm , đỡ buổn lo , quạnh quẽ . Nghe đúng quá mà . Bây giờ chỉ còn mình nó , không ở với nó thì ở với ai ? Một mình giữ tiền chi cho nhiều , đưa cho chúng làm ăn , có phải là sinh lợi hơn sao . Nỗi buồn chưa lắng xuống , nên Chú Tư giao việc bán mua cho vợ chồng cô con gái , dọn về ở cùng con . Thế là cuối cùng , Chú chỉ còn độc ngôi nhà này . Lúc đầu , ông Con Rể sắp đặt cho Chú ở lầu 1 , lên xuống cho dễ . Phòng này trước đây cháu ngoại của Chú ở , bây giờ nó dọn lên phòng trên . Phòng tiện nghi , có cửa sổ , có máy lạnh , giường nệm êm , Chú tự nghĩ thế cũng tốt , cũng là nhà của mình mà . Chú lại ra Chơi Chim với nhóm , dù không thường xuyên lắm . Tóc Chú trắng xoá , khuôn mặt buồn không còn vui vẻ như trước , nhưng hàng ngày vẫn dĩa bò kho bốn miếng thịt , ăn hai miếng đem về hai miếng cho hai con chó Fox bé tí tì ti . Nhưng cuộc sống vẫn chưa yên . Hai vợ chồng cô con gái bắt đầu kiếm chuyện . Đầu tiên là mấy con chim . Trước đây ông con rể khi ra chỗ Chơi Chim thường xách lồng ra xe cho Chú , lặt cào cào cho chim ăn , hàng ngày phụ trách vệ sinh mấy lồng chim cho Chú . Bây giờ ông Con Rể ngạo ngược bảo chim cò bẩn cả nhà , trưa nghỉ 1 tí cũng không yên bởi tiếng hót lanh lảnh của nó . Chú Tư tắm chim , phơi nắng cho chim , hắn đi ngang đá lồng lăn lông lốc và bảo : chật chội , vướng víu quá ! Bực cả mình ! Đôi mắt Chú ngày càng buồn , miệng Chú càng ngày càng ít nói . Rồi từ lầu 1 , chúng dời Chú lên phòng sân thượng , ông con rể bảo cho Chú lên đấy để Chú tiện gần gũi với chim , để chim phía dưới mất vệ sinh , thức ăn rơi ruồi bu , kiến đậu , lông chim bay ảnh hưởng sức khoẻ của mọi người . Chú bằng lòng với sự sắp xếp của nó , dù mỗi lần lên xuống cầu thang , Chú phải nghỉ thở mấy lần . Hồi còn ở dưới , đến bữa cô người làm hoặc cháu ngoại còn lên mời Chú xuống nhà ăn cơm . Từ hồi lên trên này , chúng chẳng kêu , chẳng báo . Khi nào đói , Chú lặng lẽ lần mò xuống ăn . Thức ăn lỏng chỏng như đồ thừa , nhiều lần ngồi ăn , Chú rớt nước mắt . Chú thèm được 1 bữa cơm gia đình sum họp , đầy tiếng nói cười với những ánh mắt thương yêu . Mất hết rồi ! Chẳng tìm đâu thấy nữa . Hàng ngày , Chú xách lồng chim ra ngồi với chúng tôi chốc lát , đó là niềm vui còn sót lại trong ngày của Chú , Chú xem chúng tôi như người nhà , nên những chuyện buồn , bất hạnh của Chú , Chú đều kể cho chúng tôi nghe . Chú vẫn còn ăn món bò kho , nhưng không gói thịt về cho chó nữa vì chúng cũng đã bị cậu con Rể đá chết rồi . Nghe tin Chú bệnh , nhóm chúng tôi đến thăm Chú . Bước qua cửa , chúng tôi được đón bằng cái nguýt dài của cô Con Gái , cái ánh mắt bực bội của chàng Con Rể . Chúng chẳng chào 1 tiếng , chẳng hỏi 1 câu làm chúng tôi ngỡ ngàng , sao con người biến đổi 1 cách lạ kỳ như vậy ? Chú Tư đón chúng tôi nơi phòng khách , kế bên cửa sổ nhìn ra sân , Chú không dám nhìn thẳng mắt ai , ánh mắt như muốn xin lỗi , ngượng ngùng . Ngồi chưa nóng đít , anh con rể vừa nhả khói thuốc vừa nói vọng vào từ ngoài sân : Ba đưa mấy Chú lên lầu , lát nữa tui có khách . Chú Tư nhìn ra , ánh mắt 1 thoáng như toé lửa , rồi hạ nhiệt ngay , cụp xuống đầy uất hận . Thấy không tiện , tụi tôi rút , ra về cũng không có 1 lời chào . Ai cũng chép miệng : Tội nghiệp Chú Tư . . Cuối năm 92 , nhóm chúng tôi tản hàng , anh Ba cộng hoà đi HO chuyến áp chót , anh Nam mắt kiếng đi diện đoàn tụ gia đình , tôi bỏ dạy sau 1 màn ác chiến với tay hiệu trưởng vừa nhậm chức , tôi rời bục giảng , mở công ty , chen chân làm doanh nghiệp . Công việc bận rộn , chẳng còn thời gian đâu mà chim với cò , nên cũng chẳng có dịp để gặp Chú Tư Mạnh . Đôi khi gặp đám Chơi Chim ở Tao Đàn , hỏi thăm tin tức về Chú , có người bảo gặp , có kẻ bảo không , định bụng bữa nào ghé thăm Chú 1 bữa . Tình cờ 1 hôm đi qua nhà Chú , thấy người ta đập xây cao ốc mới , hỏi thăm mới biết nhà đã thay chủ , không biết gia đình Chú dọn đi đâu , có người bảo đã đi hết ra nước ngoài . Tôi bặt tin Chú Tư từ đó , lòng vẫn mong chú khoẻ , hy vọng ở nước ngoài , có viện dưỡng lão , Chú được vào đó cũng đỡ khổ thân . * * *
Tết Nguyên Đán năm 2005 , thay vì tổ chức
thăm hỏi , tặng quà cho trẻ bị bệnh ở khoa Nhi bệnh viện Ung bướu như
mọi lần , công ty chúng tôi đổi hướng đi đến thăm những người già ở nhà
dưỡng lão Thị Nghè . Thấy các bé còn nhỏ đã mắc bệnh nan y , thương cho
chúng chưa hưởng gì ở cuộc đời đã mang bệnh chờ chết , đau xót lắm .
Nhưng dù sao các cháu khi bệnh , đứa nào cũng có mẹ , hoặc cha , hay ông
hay bà thay phiên chăm sóc . Còn ở đây , trong thế giới người già , là
nỗi cô đơn cùng cực . Hầu hết các cụ ở đây đều không có gia đình , người
thân , hoặc bị con cháu bỏ rơi . Họ cô độc trong những ngày tháng cuối
của cuộc đời , họ chờ đợi trong vô vọng những ánh mắt thương yêu của
người thân , họ khát khao được nhìn mặt , cầm tay cháu con , nhưng không
bao giờ toại nguyện . Họ chậm chạp trong sinh hoạt và chậm chạp đến lần
với cõi chết . Những căn phòng ẩm ướt , những áo quần chẳng lành lặn ,
những gói , những bao không biết đựng gì để đầy trên giường , dưới chân
họ . Họ mừng khi thấy chúng tôi đến , họ vui khi nhận được quà , nhưng
ánh mắt vẫn nặng trĩu nỗi muộn phiền . Ở cuối phòng , có 1 cụ già cứ lấy
tay che mặt khi chúng tôi trao quà , tránh ánh mắt của tôi .
Tôi xong việc của mình , định ra , bỗng Ông Cụ buông tay , vươn cánh tay vẫy vẫy . Ông Cụ gầy gò , da bọc xương , hai xương vai nhô lên như hai mảnh nhọn , bụng trương lên như trống . Tóc lơ thơ rụng gần hết , mắt đục lờ với khuôn mặt nhăn nhúm , vàng khè . Trên khuôn mặt đó , tôi tìm thấy 1 nét quen thuộc của ai đó mình đã từng gặp trong đời . Tôi chưa nhớ ra . Ông Cụ vẫn vẫy , tôi đi ngược trở lại và ông nắm lấy bàn tay tôi , nói nhỏ : Anh Ngọc phải không ? Có còn nhớ tôi không ? Tôi Tư Mạnh đây . Tôi giật mình , gai ốc bỗng rờn rợn , trời ơi ! Chú Tư Mạnh đây sao . Cuộc đời sao vậy trời . Sao Chú lại ở đây , sao Chú ra nông nỗi này ? Tôi ngồi xuống ôm chặt lấy Chú , Chú cũng ôm tôi và Chú khóc , nước mắt ướt đẫm vai Tôi và Tôi cũng khóc theo Chú . Hai người ôm nhau khóc 1 hồi , có Ông Cụ giường bên nhìn Tôi với ánh mắt chẳng có chút thân thiện : Con cháu , anh em gì mà bỏ rơi Ông Cụ mấy năm liền , giờ còn khóc lóc gì ? Chú Tư xua tay : Không phải , không phải đâu , người quen thôi mà . Chúng tôi ra ngoài sân , ngồi trên ghế đá nói chuyện . Tôi hỏi Chú hay là mình qua bên đường uống cà phê . Chú gật , ánh mắt thoáng chút vui . Tôi xin phép cán bộ dẫn Chú ra ngoài . Hai chúng tôi băng qua đường , Chú đi khập khiễng , tôi phải dìu Chú đi . Tôi hỏi Chú muốn ăn gì không , Chú nhìn tôi , ngập ngừng : Tôi … thèm ăn dĩa bò kho … dĩa bò kho 4 miếng thịt và ổ bánh mì thật dòn . Tôi chảy nước mắt ngồi nhìn Chú ăn , Chú ăn ngon lành , miếng thịt trệu trạo trong cái miệng móm mém gần hết răng của Chú . Và rồi Chú kể cho tôi nghe tại sao Chú có mặt ở đây mấy năm nay .
* * *
Anh biết không , con Hiếu , con gái khốn
nạn của Tôi , anh còn nhớ nó chứ ? Tôi đặt nó tên Hiếu mà nó bất hiếu ác
nhơn . Nó lấy hết tiền của tôi rồi lừa cho tôi vào đây . Hồi đấy , sau
cái lần tôi bệnh mấy anh em vào thăm , thấy chúng nó tồi tệ quá mức
rồi , tôi chịu hết nổi nên nói với vợ chồng nó trả vàng cho tôi để tôi
đi kiếm chỗ khác ở , dứt tình Cha Con . Nhưng chúng lật lọng , bảo chẳng
nợ gì tôi . Tức quá tôi thưa , tôi còn đủ giấy tờ mà . Toà xử chúng
phải trả nợ cho tôi . Chúng lần lửa mãi , và có trả tôi 1 lần 10 cây
vàng , hẹn cuối năm thanh toán hết . Rồi bỗng dưng 2 vợ chồng nó thân
thiện , săn sóc Tôi dữ lắm . Mua đồ này thức nọ cho tôi ăn , sắm áo quần
mới cho Tôi mặc , đối xử với tôi rất nhẹ nhàng . Tôi nghĩ , thôi thì
con mình đã biết suy nghĩ lại , gia đình , thân thuộc tôi chẳng còn ai ,
có đứa em trai thì bệnh ung thư chết mấy năm rồi . Làm Cha Mẹ phải biết
tha thứ cho con . Được mấy tháng thì 1 hôm nó nói mời cả nhà đi du lịch
Nhật Bản , Tôi vui lắm , hăm hở sửa soạn đồ đạc để đi đến 10 ngày .
Nhưng đến phút chót , lấy cớ có việc bất ngờ , cả nhà nó ở lại , đành bỏ
vé , nên tôi đi 1 mình . Đi du lịch cùng đoàn nên có bạn có bè cũng
vui . Hôm đầu điện thoại về , còn nghe nó trả lời , hôm sau cũng còn ,
nhưng đến hôm thứ 3 thì gọi mãi không được . Tôi sốt ruột nhưng cũng
đành chờ cho đến ngày cuối , do vậy chuyến du lịch bỗng mất vui . Nào
ngờ khi về đến nhà thì cửa đóng im ỉm , bấm chuông mãi thì có người thò
đầu ra nắng , cái mặt lạ hoắc . Hỏi anh ta là ai ? Anh ta hỏi vặn lại Tôi là ai ?
Tôi bảo tôi là chủ nhà , anh ta cười hô hố bảo tôi điên , rồi bảo anh
ta đã mua căn nhà này rồi , đừng có kiếm chuyện . Tôi như từ cung trăng
rớt xuống , mồ hôi ra lạnh cả người và nằm thẳng cẳng giữa lề đường .
Hàng xóm thấy vậy chở Tôi đi nhà thương , đến khi tỉnh , được mọi người
kể mới biết gia đình nó đi Mỹ định cư cả tuần lễ nay rồi , ai cũng tưởng
tôi đã cùng đi với chúng nó . Thế ra Nó lừa Tôi , Nó giả vờ thương yêu
Tôi để Tôi mất cảnh giác , nó lừa Tôi đi du lịch để nó giao nhà và ra
đi . Nó cướp hết số vàng mà vợ chồng Tôi cho nó vay . Nó khốn nạn thế
đấy , nó mưu mô hiểm ác vậy đấy . Thế là Tôi trở thành kẻ vô gia cư .
Còn ít vàng tôi để ở nhà , chắc nó cũng lấy đi rồi , tôi chẳng có cách
nào để sống nên khi hết bệnh ở nhà thương , nhà-cầm-quyền đưa tôi vào
đây ở mấy năm nay .
Tôi nghe mà bàng hoàng , không tin nổi nếu như không gặp Chú Tư ở đây . Tôi không ngờ trên đời lại có những đứa con như vậy . Rồi cuộc đời nó có an lành để sống không ? Con cái chúng sẽ nghĩ gì khi biết được cha mẹ chúng đã đối xử với ông chúng như thế ? Tôi thật sự khiếp hãi khi nhìn thấy con người ta vì đồng tiền mà bán cả lương tri . Tôi khuyên Chú đi bệnh viện vì thấy Chú yếu quá , nhưng Chú bảo Chú không muốn chữa bệnh , Chú chỉ mong được đi mau để khỏi phải đau khổ và dằn vặt . Chú xin tôi 1 điều là gắng đến thăm Chú và khi nào Chú mất , làm ơn đem tro cốt của Chú để vào chùa cùng nơi với Vợ Chú . Đó lại là lần cuối cùng tôi gặp Chú , Chủ Nhật sau tôi ghé Chú thì Chú đã đi rồi , trên tay tôi vẫn còn mang cặp lồng món bò kho 4 miếng thịt mà Chú ưa thích . Tôi lặng lẽ mang hủ tro cốt của Chú vào Chùa , làm thủ tục để cạnh hủ tro của Vợ Chú , từ nay 2 vợ chồng sẽ mãi gần nhau và Chú đi được vậy cũng là điều giải thoát cho 1 kiếp người . Mong Chú đến nơi không còn khổ đau , gian dối và lừa lọc . Mong Chú yên nghỉ nghe Chú Tư Mạnh .
Sài Gòn – Tháng Bảy
Đỗ Duy Ngọc
|
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
![]() |
||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23809 |
![]() ![]() ![]() |
|
45 Câu Nói Dưới Đây Của Người Do Thái, Rất Hay Cho Chính Bản Thân Và Cuộc Sống..![]()
Biết những câu nói nổi tiếng dưới đây của người Do Thái bạn sẽ hiểu được vì sao họ lại thông minh và giàu có như vậy.
1. Tài sản có thể trở về số 0 nhưng kiến thức phải càng ngày càng mở rộng.
2. Thời gian tốt nhất để trồng cây là vào 20 năm trước. Thời gian tốt thứ hai là ngay bây giờ.
3. Điếc, nhưng không phải là không biết gì bởi còn có thể đọc được sách báo.
4. Nếu không học tập, cho dù đi vạn dặm đường xa thì mãi vẫn chỉ là người đưa thư mà thôi.
5. Ai cũng than vãn thiếu tiền nhưng chả ai than thở thiếu trí khôn cả.
6. Trên đời có 3 thứ không thể bị ai cướp mất: Đầu tiên là thức ăn đã
vào trong dạ dày, hai là ước mơ đã ở trong lòng, ba là những kiến thức
đã học trong đầu.
7. Người lớn dạy trẻ con học nói, còn trẻ con dạy người lớn im lặng.
8. Một người chỉ ra sai sót của bạn chưa chắc đã là kẻ thù của bạn; một người luôn luôn ca ngợi bạn chưa hẳn đã là bạn của bạn.
9. Hãy sợ con dê húc phía trước, con ngựa đá phía sau, còn kẻ ngu thì phải đề phòng tứ phía.
10. Kinh nghiệm là cái từ mà mọi người dùng để gọi các sai lầm của mình.
11. Khi bạn khóc vì không có giày để đi, hãy nhìn những người không có chân.
12. Khi già đi người ta thị lực kém đi nhưng nhìn thấy nhiều hơn.
13. Đừng sợ đi chậm. Chỉ sợ đứng yên.
14. Ta không cầu xin cho gánh nặng sẽ nhẹ hơn. Nhưng cho đôi vai hãy vững vàng hơn.
15. Bông lúa càng nhiều hạt, đầu nó càng rủ xuống. Người giỏi thường hay khiêm tốn.
16. Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin là mất tất cả.
17. Phần lớn người ta thất bại không phải do họ không có khả năng, mà là vì ý chí không kiên định.
18. Đừng nói gì trừ khi bạn đã học được cách im lặng.
19. Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản, ki bo chỉ làm nghèo đi.
20. Một hành trình ngàn dặm cũng chỉ khởi đầu từ bước đi đầu tiên.
21. Nếu vấn đề nào giải quyết được bằng tiền, thì đó không phải là vấn đề mà là chi phí.
22. Nếu bạn bị vấp ngã, điều đó chưa chắc có nghĩa bạn đang đi sai đường.
23. Có tiền cũng không tốt lắm, cũng như thiếu tiền cũng chẳng tồi lắm.
24. Không có tình huống vô vọng, chỉ có giải pháp không chính xác.
25. Chúa trời cho con người hai tai và một miệng để nghe nhiều nói ít.
26. Luôn luôn nhìn vào mặt tươi sáng của sự vật. Nếu không thấy, hãy đánh bóng cho đến khi nó tỏa sáng.
27. Nếu cuộc sống không dần dần tốt lên thì nó sẽ kém đi.
28. Đừng sợ rằng bạn không biết một cái gì đó. Hãy sợ rằng bạn không chịu tìm hiểu về nó.
29. Con người phải sống tối thiểu là vì sự tò mò.
30. Một khi bạn mắc một sai lầm, điều tốt nhất bạn có thể làm là cười vào nó.
31. Nếu mà làm từ thiện chẳng tốn kém gì thì ai cũng làm từ thiện cả.
32. Hầu như những loại hoa có màu trắng đều rất thơm, hoa có màu sắc
đẹp đẽ thường không thơm. Người cũng vậy, càng mộc mạc giản dị, càng tỏa
hương thơm từ bên trong.
33. Chết vì cười còn hơn là chết vì hoảng sợ.
34. Một người đàn ông có thể chuyển núi bắt đầu từ việc mang đi những viên đá nhỏ.
35. Khi chúng ta đem hoa tặng cho người khác thì người ngửi được mùi
hương đầu tiên là chính chúng ta. Khi chúng ta nắm bùn ném vào người
khác, thì người bị làm bẩn đầu tiên là bàn tay chúng ta.
36. Ngủ trên gối êm không có nghĩa có giấc mơ đẹp.
37. Nếu bạn không thể xử lý những việc nhỏ thì những việc lớn của bạn sẽ trở nên vô nghĩa.
38. Khi bồ câu kết bạn với quạ, mặc dù cánh của nó vẫn còn màu trắng nhưng trái tim thì dần dần chuyển sang màu đen.
39. Lúc nào vô công rỗi nghề thì người ta sẽ làm những việc long trời lở đất.
40. Khi còn trẻ phải làm những việc bạn nên làm, thì khi về già mới có thể làm những việc bạn muốn làm.
41. Cái khuy áo đầu tiên sai, cái sau cùng khó mà chữa được.
42. Hạnh phúc chỉ đến khi cánh cửa đã được mở.
43. Một ngôi nhà nhỏ đầy ắp tiếng cười có giá trị hơn một cung điện đầy nước mắt.
44. Cười là loại mỹ phẩm rẻ nhất, vận động là loại y dược rẻ nhất, chào hỏi là loại chi phí giao tiếp rẻ nhất.
45. Kinh nghiệm giống như một chiếc lược mà cuộc đời chỉ ban tặng sau khi chúng ta đã mất hết cả tóc.
|
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
![]() |
||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23809 |
![]() ![]() ![]() |
|
Một Câu Chuyện Ơn Nghĩa Đợi cho tất cả mọi ngồi xuống quanh anh trên ba chiếc ghế nệm da mầu đen tuyền, nơi phòng khách sang trọng của căn nhà rộng thênh thang vùng ngoại ô thành phố, Hoàng mới bắt đầu kể câu chuyện đời của anh, một câu chuyện ly kỳ mà ai nấy đều muốn biết vì đã nghe nhiều người nói tới, nhưng chưa bao giờ tin. Nay họ được nghe từ chính miệng anh, vai chính trong câu chuyện. Câu chuyện như sau:
Như thế năm mười bẩy, anh đã trở lại sống trên đồn điền trà của cha mẹ anh, ngày ngày đi theo cha học chăm lo công việc sản xuất, đôn đốc công nhân, xem xét giấy tờ người thư ký già soạn thảo, tính toán lời lỗ, đặt kế hoạch này nọ. Tối đến, khi có khách đến nhà, anh cùng người cha tiếp chuyện những ông bà tai to mặt lớn trong vùng, những thương gia cùng trong nghề trồng trà như cha anh, những quan to trên tỉnh xuống chơi, và có khi cả những khách ngoại quốc đến thăm cơ sở thương mại của gia đình anh. Nhờ có vốn ngoại ngữ, anh thường đại diện cho cha anh nói chuyện làm ăn buôn bán với những kẻ lạ từ các nước khác đến nhận định tình hình, tính toán kế hoạch hợp tác kinh doanh với cha anh. Ai nấy thắc mắc tại sao vào cái thời chinh chiến khốn nạn đó, thanh niên ai cũng đều phải tòng quân nhập ngũ bảo vệ đất nước, mà riêng anh cứ sống phây phây ở nhà như thế, thì anh chỉ mỉm cười trả lời rằng số anh có hồng phúc, sanh ra làm con một trong gia đình, mà luật lệ quốc gia lại công minh, cho nên anh đã được miễn dịch. Hơn nữa cha anh là người khôn ngoan biết điều, làm ăn kinh doanh biết lẽ phải nên ông luôn có kẻ phù trở từ trên, gia đình ông quen biết lớn không ai đụng chạm đến bao giờ. Ngay cả "phiá bên kia" cũng tạm để cho ông yên thân vì ông luôn sẵn sàng thoả mãn đòi hỏi của họ một cách kín đáo, không bao giờ than phiền về những "sách nhiễu của bọn giặc." Thế rồi đến năm anh 22 tuổi thì cha anh không còn muốn lo công việc làm ăn của gia đình nữa nên đã giao hết mọi chuyện cho anh. Mới ở cái tuổi thanh niên mà anh đã bắt đầu phải giữ trọng trách điều hành một cơ sở sản xuất khá lớn có đến mấy chục nhân công, nhưng nhờ có kinh nghiệm học được từ sớm anh đã chu toàn được nhiệm vụ cha anh trao phó một cách tương đối dễ dàng. Từ từ anh phát triển thêm khả năng kinh doanh, có thêm nhiều kinh nghiệm, và với bộ óc thông minh và tháo vát, cộng thêm với lòng hăng say làm việc, anh đã trở nên một biểu hiện của sự thành công. Anh đã nghiên cứu trồng những loại cây trà có năng xuất cao, phát triển sản xuất nhiều loại sản phẩm trà khác nhau, tìm những phương pháp ướp xấy hiểu quả hơn, thay nhưng phương thức đóng chai đóng gói cũng như những nhãn hiệu phù hợp để phát triển thị trường của cơ sở. Hãng trà của anh ngày càng nổi tiếng khắp trong nước và cả ở nước ngoài, và lợi tức anh thu vào hàng năm ngày càng nhiều. Cho đến năm anh 25 tuổi, anh vẫn không giao thiệp thân thiết với một người con gái nào hết, mặc dù anh có nhiều cơ hội gặp gỡ làm quen. Trong những buổi tiếp tân, giao tiếp với bao nhiêu cô gái xinh đẹp con nhà tử tế có học nhưng sao lòng anh không thấy có một ý muốn nào hết. Những năm sau đó mẹ anh đã tỏ ý muốn kiếm vợ cho anh vì thấy anh chỉ biết chí thú làm ăn mà không nghĩ gì đến việc lập gia đình. Nhiều lần bà đã hỏi khéo anh về chuyện này và thúc dục anh đi kiếm bạn gái :
Nhưng anh chỉ cười nói đùa :
Anh quả thật là một con người lạ lùng. Ở cái thế có thể ăn chơi vung vít mà anh không biết uống rượu, không biết đi nhẩy đầm, không cặp kè trai gái. Chả bù với những thằng bạn của anh đi lính, mỗi lần chúng nó đi phép ghé nhà anh thăm hỏi, rủ anh đi Đà Lạt vui chơi! Anh cũng đi theo nhưng chỉ đi làm bù nhìn. Bọn chúng uống cognac whisky, anh chỉ uống nước ngọt. Bọn chúng phì phèo thuốc lá, anh chịu khói thuốc không nổi cứ sặc lên sặc xuống! Và bọn chúng thi nhau tán gái, ôm hết em này đến em kia hôn hít, kéo em này em nọ ra sàn nhẩy, anh chỉ ngồi yên đó trầm ngâm suy tư. Đi chơi với bạn mà không "ăn giơ" (en jeu) với chúng, có người buột miệng hỏi anh "đi chơi như vậy làm chi?" thì anh chỉ cười trả lời "bạn bè, không đi chúng nó buồn". Có lần đi nhẩy, em ca ve xinh đẹp để ý đến anh sán lại ngồi bên hỏi chuyện. Hỏi anh sao anh không ra nhẩy, anh trả lời anh không biết khiêu vũ, em đề nghị anh ra sàn nhẩy với em để em chỉ cho thì anh vội cám ơn. Lúc buồn buồn khi thèm có người nói chuyện, anh đề nghị với các em ca ve cứ ngồi chơi với anh, anh vui lòng trả cát xê như lúc nhẩy. Nhiều em có cảm tình với anh nên đồng ý. Nhiều đứa thấy hành động của anh khác thường xầm xì bàn tán:
Có khi anh đoán chừng chúng nó nói gì rồi, vì cứ thấy chúng nó thì thầm với nhau mà nhìn về phiá anh với những con mắt dọ dẫm, nhưng anh cứ tỉnh bơ. Vài cô lại nghĩ rằng chắc anh đã có người yêu thầm kín, anh đang theo đuổi, nên không màng gì đến họ. Nhưng họ không biết rằng anh chẳng có người yêu nào hết, anh chưa thấy muốn yêu ai, và chính anh cũng không biết tại sao. Còn vụ bảo anh hô mô thì chính anh hiểu rõ anh không vậy, vì anh đâu bao giờ để ý gì đến những người đồng phái? Anh đi chơi với bạn cho chúng vui chứ đâu có tình ý gì khác? Nhưng rồi cái gì phải đến cũng đã đến. Một hôm anh đi Saigon tham dự một cuộc triển lãm sản phẩm để xuất cảng và trong dịp này anh đã gặp Loan, một người con gái trong ban tổ chức. Nàng khoảng 30 tuổi, trông già dặn hơn anh, và là con gái của ông chủ tịch Phòng Thương Mãi của thành phố. Vừa thấy Loan anh đã bị thu hút bởi vẻ đẹp quyến rũ của nàng. Anh đã bị một cú sét ái tình. Đó là một sự bất ngờ xẩy ra lần đầu tiên trong cuộc đời anh. Anh không hiểu chuyện gì đã đến với anh, anh chỉ biết anh thấy say mê bởi cái đẹp khủng khiếp của người con gái đầu tiên đã hấp dẫn anh, đã đưa anh vào mê hồn trận. Nàng đứng cách xa anh chừng mươi thước, trong chiếc áo sơ mi đỏ và chiếc váy dài đen lấm tấm hoa, tay cầm ly rượu xâm banh nói chuyện với bốn năm người đàn ông tuổi cha chú nàng. Anh thấy nàng thỉnh thoảng lại hất ra phiá sau vai mớ tóc quăn dài cứ rũ xuống má, dáng điệu thật dễ thương, miệng cười nói thật xếch xi, đôi mắt đen láy thỉnh thoảng lại chớp chớp như để phô trương lớp mi cong dài đẹp tuyệt. Chiếc áo ngắn tay màu đỏ thắm, bóng như lớp xa tanh, làm nổi bật hai cánh tay dài có nước da trắng ngời của nàng. Và những ngón tay búp măng cụp tròn quanh chiếc ly pha lê lóng lánh rượu màu hồng, ôi những ngón tay dài thật dễ thương anh chỉ muốn nắm hôn, anh thấy hình ảnh ấy trông tựa như trong một bức tranh quảng cáo xâm banh tuyệt mỹ. Anh ngây ngất đứng ngắm nàng, quên tất cả mọi chuyện, không còn để ý đến bất cứ gì khác đang diễn ra xung quanh. Và như thể có một sự cảm từ xạ lạ lùng, nàng đã quay về phiá anh để thấy anh đang đứng chăm chú nhìn mình. Nàng bỗng nở một nụ cười tươi như một bông hoa hồng ban mai, làn môi đỏ thắm khẽ hé mở; rồi như xúc động, nàng chớp làn mi, cúi mặt hướng nhìn đi phiá khác. Anh thấy tim anh rộn lên một niềm hạnh phúc, rồi lại thấy mắc cở vì hành động hơi sỗ sàng của mình. Anh lẻn đi chỗ khác để tránh cảm giác bồi hồi làm cho anh khó chịu. Anh tưởng sự việc xẩy ra đến thế là hết; vì mặc dù vào lúc đó anh có muốn tìm cách làm quen nàng anh cũng chẳng biết làm thế nào, anh chưa bao giờ biết tán tỉnh và cũng chưa bao giờ làm quen một người khác phái. Nhưng đúng do duyên số đưa đẩy, lúc vào bữa tiệc anh lại được xếp ngồi ngay bên nàng. Thế là hai đứa quen biết nhau. Nói chuyện một chốc, hai đứa thấy hợp tính nên sớm thân tình.
Đôi má tuy ửng đỏ nhưng nàng vẫn điềm tĩnh hỏi lại :
Nàng càng thấy nong nóng trên mặt, đôi má hồng vốn đã đẹp lại càng đẹp hơn. Trông nàng lúc đó sao anh chỉ muốn hôn lên má nàng, chỉ muốn "bi du" (bisou), nếu nói theo lối Tây Đầm.
Sợ Loan giận vì e mình đùa quá trớn, anh vội xuống giọng :
Được khen đẹp, Loan quên hết, chẳng còn để tâm đến lời châm chọc của anh trước đó. Còn chính anh, anh cũng không hiểu tại sao vào lúc đó anh lại có cái lối nói nghịch ngợm như thế. Là dân trường Tây, đáng lẽ ra anh phải biết "ga lăng", biết nịnh đầm, như những đứa bạn anh thường dạy anh. Nhưng ngay sau đó thì anh đã chín chắn lại, anh đã đóng đúng vai của một "homme d’affaires", một người đi làm ăn. Nhìn anh lúc nghiêm nghị, ai dám bảo anh mới ở tuổi 25? Hai đứa sau đó chỉ còn nói chuyện đàng hoàng đứng đắn, chuyện làm tiền, chuyện buôn bán. Anh cho Loan biết anh hoạt động trong ngành trồng và sản xuất trà, anh mang trà đi bán, còn Loan thì cho anh hay rằng nàng giống mẹ sinh hoạt trong ngành kinh doanh. Anh ngạc nhiên nói với nàng :
Loan chỉ cười. Giống nhau! Có thể vì cái giống nhau đó mà nàng đã có cảm tình với anh. Tối ra về hôm đó, anh đã lái xe đưa Loan về nhà nàng. Mọi người nghe Hoàng kể chuyện lòng vòng đã tỏ ra sốt ruột. Họ muốn anh nói thẳng vào đề, kể cho họ nghe những gì họ đang muốn biết. Như thể anh đã đoán được sự nóng lòng của các bạn, anh cầm chai cognac rót một vòng rượu cho mọi người, rồi chậm rãi nói : "Cứ từ từ rồi tôi sẽ kể hết chuyện cho các bạn nghe ! Tôi đâu có muốn giấu làm gì ? Nói mãi cũng khản cổ, thôi mới các bạn cùng tôi nhấp chút rượu cho ấm họng." Sau đó anh kể tiếp câu chuyện. Suốt những tháng sau đó hai đứa thường hẹn hò cuối tuần gặp nhau. Loan lai xe từ Saigon lên Bảo Lộc chơi và ở lại nhà anh. Mẹ anh rất thương yêu Loan vì thấy nàng thuộc gia đình gia giáo, có học (nàng tốt nghiệp trường Chính trị Kinh Doanh Đà Lạt), khôn khéo, dễ thương, ăn nói nhỏ nhẻ lễ độ mà lại biết chiều chuộng bà, duy chỉ có tội lớn hơn Hoàng bốn tuổi. Bà mong anh quyết định lập gia đình với người con gái đó để bà được yên tâm và sớm có cháu nội bồng bế. Vả lại sức khoẻ cha Hoàng ngày một suy kém, không biết ông còn sống được bao lâu. Bà muốn cha anh được thấy anh có gia đình tử tế, sống cuộc sống qui củ đâu vào đấy trước khi ông mất, như thế chắc hẳn ông sẽ mãn nguyện. Cha anh im lìm ít nói, nhưng linh tính cho bà biết như vậy. Riêng Hoàng thì mặc dù anh có cảm tình với Loan, anh cũng thương yêu nàng, nhưng chẳng hiểu vì sao anh vẫn chưa thể quyết định.
Khi được tin Loan bị giết, Hoàng lặng người bàng hoàng, không còn biết phải làm gì. Anh có cảm tưởng như thể anh phải chịu một phần trách nhiệm trong cái chết của người bạn gái anh bắt đầu yêu. Cảm giác tôi lỗi ám ảnh anh suốt nhiều tháng sau đó, anh bị trầm cảm nặng, anh thấy cuộc đời thật vô lý, anh không thể hiểu được tại sao lại có sự bất công như vậy. Anh cứ cố tìm hiểu xem vì lý do gì mà sự thể lại xảy ra, tại sao Loan lại tự nhiên quyết định đi vào buổi chiều thứ sáu như thế, tại sao nàng lại không biết rằng làm thế là nguy hiểm, là nàng có thể chết như nàng đã chết. Anh không giải thích được cái tai nạn khốn nạn này, anh không chấp nhận rằng đó là định mệnh. Anh buồn bã không còn thiết ăn thiết ngủ nữa, cứ suốt ngày đi lang thang trong vườn trà như người mất hồn. Mẹ anh phải tạm đứng ra lo quản lý công việc thay anh. Ngoài ra bà còn phải lo chạy thầy thuốc cho con cũng như tìm cách an ủi, khuyên chồng đừng để tâm suy nghĩ, có hại cho sức khỏe vốn đã mong manh của ông. Người đàn bà bình thường chân yếu tay mềm là bà, bỗng nhiên trong hoàn cảnh bi đát, đã tỏ ra có sức mạnh phi tường. Một mình bà đã phải cáng đáng mọi việc trong gia đình thay cho cả chồng lẫn con. Rồi một hôm đi lang thang trong vườn trà, Hoàng bỗng gặp một con chó con, to bằng hai nắm tay, nằm khép mình ở một gốc trà. Thấy anh đến gần, nó kêu những tiếng rên rỉ khóc lóc như thể muốn van xin anh cứu sống nó. Trong lúc buồn bã, anh đã chẳng thèm để tâm gì đến con vật khốn nạn, anh cứ thế tiếp tục bước tới. Nhưng đi cả chục bước rồi mà anh vẫn nghe tiếng kêu thảm thiết như van lạy của con chó con. Rồi như thức tỉnh khỏi cơn mê, anh quay người lại thì thấy con chó đã lẽo đẽo theo anh phía sau. Anh bèn cúi xuống bồng nó lên, ôm nó mang về nhà. Anh chăm sóc nuôi nó và chẳng bao lâu sau nó đã khôn lớn hơn, suốt ngày quấn quít bên anh. Có con chó con làm bạn, anh chơi với nó, đừa rỡn nâng niu nó, và dần dần anh quên bớt đi nỗi buồn, quên đi sự bất hạnh, và tình trạng tâm thần của anh từ từ khả quan hơn, anh tiếp tục vừa dùng thuốc tây, vừa áp dụng phương pháp tâm lý trị liệu nhờ sự làm bạn của con chó đang sống bên anh. Một thời gian nửa năm sau, anh đã trở lại gần như bình thường, anh lại tiếp tục công việc của anh xưa kia, không còn bắt mẹ anh làm thế nữa. Con chó sau này to lớn gần bằng con bê, lông xù, đầu to lớn, khôn không tả, nói gì nó cũng hiểu và ngoan ngoãn vâng lời chủ, nói một câu là nghe liền. Anh đã dành cả thời gian nghỉ ngơi để ở bên nó, huấn luyện nó canh nhà cho anh, bào vệ anh. Cứ nghe từ xa có người tới gần là nó đã sủa hai tiếng để báo động. Anh đi đâu cũng dắt nó theo, đi công việc hay đi chơi đều có nó bên cạnh. Khi anh lái xe, anh để nó ngồi ở ghế phiá trước; khi anh đi họp thì nó nằm yên dưới chân anh không nhúc nhích cho đến lúc anh đứng dậy ra về. Ai thấy nó cũng thích vuốt đầu, vuốt lưng nhưng anh dặn mọi người chớ có đụng vào người anh vì, tưởng đánh anh, nó sẽ phóng tới tấn công cắn vào cổ. Hỏi thăm, anh kể lại cách anh đã dạy nó cắn vào cổ người ta như thế này. Ngoài vườn sau nhà anh đã cho xây một căn phòng lớn như một ga ra chứa xe làm nhà riêng cho con chó. Trong căn nhà con này anh thường ngồi chơi với nó và dạy dỗ nó bao nhiêu trò. Anh đã cho đóng một thùng gổ lớn, đổ đầy rơm rạ, rồi trên mặt trải một tấm mền dày để cho con chó nằm ngủ. Từ khi còn nhỏ, ngoài cơm và thịt nấu chín, lâu lâu anh bỏ đói nó một hôm để rồi ngày hôm sau anh nướng một con gà nửa sống nửa chín cho thơm phức rồi dạy nó chồm nhẩy lên cao trước khi cho ăn. Anh đóng một chiếc cột ngoài sân, treo con gà lủng lẳng rồi ra lệnh cho nó phóng mình lên chộp con gà. Cứ như thế, mỗi lần anh treo cao hơn, cho đến khi treo cao cả ba thước con chó vẫn phóng lên lấy được mìếng thịt. Anh còn làm một hình nộm bằng rơm to lớn, dựng nó đứng ngoài vườn. Anh cứ áp dụng phương thức kia, bỏ đói con chó một ngày, rồi mua thịt bò nướng cho thơm cột quanh cổ hình nộm, rồi anh lấy vải quấn xung quanh nhiều lượt cho kín miếng thịt. Sau đó anh đem con chó tới gần, cột thòng một sợi dây vào cổ nó rồi ra lệnh cho nó chồm tới đớp miếng thịt. Sơi dây anh cột con chó vừa đủ ngắn để không cho nó chồm tới được tận miếng thịt, nhưng đủ dài để miệng nó tới gần, làm cho nó thèm rỏ dãi. Bị cơn đói hoành hành, bị mùi thơm của miếng thịt kích thích, và nghe tiếng chủ nó ra lệnh tấn công liên tiếp, con chó cứ như điên như dại phóng mình tới. Cho đến khi chiụ không nổi sức kéo, sợi dây đứt phựt thì con chó nhẩy ngay tới cổ thằng hình nộm, quật nó ngã xuống, cắn xé lớp vải bên ngoài và ngồm ngoàm ăn miếng thịt bò còn máu đỏ be bét bên trong. Nhìn cảnh con chó tấn công thằng hình nộm ai nấy đều phải rùng mình kinh hãi. Thế rồi ngày 30 tháng Tư xẩy ra, cái ngày khốn nạn đưa tai hoạ đến cho bao nhiêu người! Như tất cả những gia đình khá giả ở miền Nam, gia đình anh cũng bị bọn sói lang đến nhà ăn cướp. Khi bọn chúng chục người mang súng ống kéo đến nhà anh, bố anh bị cơn đau tim vì quá sợ hãi nên đã qua đời. Mẹ anh đang bị chúng hạch hỏi kết tội làm giầu trên sương máu nhân dân thì anh từ vườn trà về cùng con chó. Thấy anh đi tới, một thằng ranh con tuổi chừng mười sáu, loắt choắt, anh có thể bẻ mũi dễ dàng nếu nó không có súng trong tay, thằng khốn nạn tới số chết, nó tới gần đòi còng tay anh lại. Anh vừa chống cự thì con chó phóng tới cổ thằng khốn nạn mà ngoạm, cắn đứt động mạch cảnh của nó, máu phun tung toé, lênh láng một vũng dưới đất, làm cho bọn côn đồ kinh hoảng bỏ chạy. Con chó còn phóng theo cắn chết thêm một đứa nữa khi tên này chĩa khẩu AK vào nó mà bắn. Khốn khổ thay, một viên đạn đã trúng tim con chó thương yêu của anh. Sau khi nó giết chết được thằng côn đồ đã bắn nó, con vật nằm vật xuống bên cạnh xác chết của thằng Việt Cộng, đôi mắt thẫn thờ nhìn anh như muốn chào vĩnh biệt. Anh gục xuống bên cạnh con chó yêu quí, đau đớn trong lòng, hận thù tràn ngập trong tim vì quân thù đã giết chết hai kẻ thân yêu trong gia đình là cha anh và con chó của anh. Ngay tối hôm đó anh vội ra lệnh người làm chôn cất cả cha anh lẫn con chó bên nhau, rồi anh dắt tay mẹ đi trốn ngay về Saigon vì anh biết hôm sau chúng sẽ kéo đến trở lại để trả thù. Ngày 2 tháng Năm 1975, anh đã cùng một số người trong gia đình kéo nhau đi Long Hải và may mắn thay cả nhóm đã lên được một con tàu buôn lớn bỏ nước trốn đi. Sau đó cũng như bao nhiêu kẻ khác vào được đất Mỹ, hai mẹ con anh đã đến lập nghiệp tại nơi đây. Nay anh đã khá giả vì cần cù làm ăn, anh đã không lập gia đình suốt hai mươi năm để sống với mẹ già, chăm sóc phụng dưỡng người yêu quí duy nhất anh còn lại trên đời. "Thế còn Bích Liên? Bích Liên là ai? Anh kể nhanh đi ! Chúng tôi muốn biết câu chuyện giữa anh và Bích Liên!" các bạn anh nghe đến đấy nhao nhao lên như mổ bò. Anh cứ từ tốn đứng dậy, với tay cầm chai Napoléon, đi một vòng rót rượu cho các bạn anh. Trở về ngồi vào cái chỗ của anh trong bóng tối của căn phòng tiếp khách rộng lớn, anh đưa ly rượu lên miệng hớp một ngụm rồi nói "Các bạn hay nhỉ? Sao cứ nóng ruột như thế? Chuyện đâu còn đó, cứ từ từ. Kể chuyện phải có đầu có đuôi, như Maup***ant đã nói! Câu chuyện của tôi nếu ông ta nghe được chắc chắn ông cũng sẽ kể lại trong tập Histoires Fantastiques của ông. Rất tiếc Maup***ant đã chết hai thế kỷ trước rồi !" Nói xong câu đó, Hoàng lại làm thêm một ngụm cognac. Đặt ly xuống bàn xong anh kể nốt đoạn chót của câu chuyện đời anh như sau. Năm 1994, cụ bà mẹ anh qua đời. Trước khi chết, cụ đã dặn anh thiêu xác cụ rồi đem hũ tro về quê nhà chôn bên mộ của cụ ông. Cụ còn dặn đi dặn lại là anh phải về quê xây lại mộ cụ ông cho tử tế vì kể từ ngày bỏ nước ra đi, anh chưa có dịp trở về nên chưa nghĩ đến chuyện mồ mả của người cha bất hạnh. Một điều thứ hai mà cụ bà nói đến là chuyện lấy vợ của anh. Đã bao nhiêu lần cụ cứ nhắc đến chuyện vợ con với anh, nhưng lần nào anh cũng tìm cách nói lảng sang chuyện khác. Suốt hai mươi lăm năm, kể từ sau ngày Loan chết, anh không hề nghĩ bao giờ đến chuyện có người yêu để lấy làm vợ. Năm 1995, đúng hai mươi năm sau kể từ ngày anh rời quê hương, lúc đó anh đã 50 tuổi, anh mới quyết định trở về để thực hiện lệnh mà mẹ anh đã ra mấy năm trước đó. Nói cho đúng ra nếu không vì có nguyện vọng của mẹ anh thì anh cũng chẳng có ý nghĩ về thăm quê nhà. Khi anh trở lại Bảo Lộc thì cảnh tượng vẫn gần như xưa, có thay đổi chăng thì cũng không bao nhiêu. Có điều vườn trà nhà anh nay đã biến thành một vườn trồng cà phê, căn nhà gia đình anh ở xưa kia nay là một nhà máy rang và biến chế cà phê. Hỏi thăm về những người xưa kia đã làm việc cho cha anh thì được biết một số đã qua đời, số kia đã đi sinh sống nơi khác, những người nay làm việc nơi đây toàn là những kẻ từ miền Bắc vào lập nghiệp, bây giờ họ coi nơi đó là quê hương. Vì chẳng còn ai quen biết để chỉ cho anh nơi cha anh được chôn cất nên anh vất vả đi dọ hỏi từng người. Hoàn cảnh đã buộc anh đưa mẹ cấp kíp trốn về Saigon nên anh đã không được làm đám tang cho cha anh, nay lòng anh đau sót khi nghĩ đến thân xác người cha thân yêu đã bị chôn vùi nơi nào trong sự cô quạnh, không có bóng người thân tiễn đưa.
Anh chưa biết phải làm sao để tìm cho ra ngôi mộ thì may thay sang ngày thứ ba anh được quí nhân phù trợ, có người đàn bà nghe tin anh về, đến giúp anh tìm kiếm. Khi đó đã gần chiều, anh còn quanh quẩn nơi ngọn đồi bát ngát thì có một bóng người hớt hãi chạy tới. Khi đến gần, bà vừa thở hổn hển vừa nói :
Mừng quýnh như bắt được vàng, anh vội hỏi lại :
Lúc đó anh cũng chẳng nghĩ gì đến những điều lạ lùng mà người đàn bà kể cho anh nghe. Anh đã quá xúc động khi biết có người sẽ giúp anh kiếm ngôi mộ nên chẳng còn để tâm đến gì khác. Anh muốn người đàn bà thôi kể lể để đưa anh đến gặp ngay cô Bích nào đó, con bà. Cho nên khi bà vừa chấm dứt lời nói lòng vòng thì anh vội hối ;
Về đến nhà người đàn bà thì trời đã xâm xẩm tối. Xương đêm đã bắt đầu xuống. Quán nước đã đóng cửa im lìm. Người đàn bà đẩy cửa, vừa vào vừa lớn tiếng gọi con :
Một người con gái bóng dáng gầy gò nhưng cao ráo, trông cũng không xinh đẹp nhưng cũng không xấu xí, từ nhà trong bước ra nói:
Quay sang anh, người đàn bà tươi cười nói :
Bích nhìn anh với ánh mắt trìu mến. Nàng dán mắt vào anh, nhìn anh từ đầu đến chân như thể nhìn một bóng dáng thương yêu nàng đã phải xa cách từ lâu nay mới được gặp lại. Vẻ mặt nàng tỏ rõ sự hân hoan sung sướng. Nàng chạy lại, nắm tay dắt anh vào nhà trong, miệng nói :
Hoàng thấy khó tính quá, anh không muốn làm phật lòng Bích vì nàng sẽ là người giúp anh tìm ngôi mộ. Mà gọi anh thì anh thấy thế nào ấy ! Người con gái tuổi hai mươi ấy chỉ đáng làm con anh, xưng hô như vậy nghe nó hơi chướng tai. Chẳng biết nói sao anh đành im không trả lời. Ăn xong bữa cơm tối thanh đạm, người mẹ rút lui vào phòng trong để Bích nói chuyện với anh cho tự nhiên. Lúc đấy anh mới thanh thản hỏi Bích rằng sao chưa gặp anh bao giờ mà nàng lại biết chuyện của anh về kiếm mộ cha, tại sao mẹ nàng lại nói nàng thường tới thăm và săn sóc ngôi mộ. Bích nói cách đấy tám năm khi nàng 12 tuổi, nàng gặp một bác đàn ông đã khá lớn tuổi, bác ấy kể chuyện xưa kia bác làm công cho nhà anh, bác kể lại những biến cố đã xẩy ra nơi đấy, bác nói cả về anh và mẹ anh... Chính người đàn ông này đã đưa đứa bé gái đi thăm hai ngôi mộ mỗi tháng và kể lại lý lịch của hai ngôi mộ.
Nghe Bích nói, Hoàng rút ví tính lấy tiền biếu hai mẹ con Bích nhưng vừa thấy thế, cô gái hoảng hốt nắm tay anh nói vội:
Bối rối một phút xong anh bình tĩnh hỏi nàng:
Nàng buồn buồn nhìn anh một lúc lâu rồi nói :
Sau này Bích Liên mới nói ra ước nguyện của nàng là được theo anh sang Mỹ. Mà anh lại chẳng có cách gì để đón nàng sang Mỹ cả nên anh đã thành thật nói cho nàng hay :
Nghe vậy Bích Liên nói tỉnh bơ :
Nói đến đây giọng Hoàng hơi run run, anh
em biết anh xúc động vì Bích Lìên đã chết. Mới có một năm đây, nàng còn
sống bên anh, mang lại hạnh phúc tràn trề cho người đàn ông "lớn tuổi
về nước để lấy vợ trẻ" như người ta thường mỉa mai chê trách. Lúc mới
đón nàng sang, nhiều kẻ thối mồm còn xì xầm rằng rồi ra Bích Liên sẽ bỏ
anh chồng già để đi kiếm một chàng trai trẻ hợp với tuổi nàng. Nàng đã
cho mọi người thấy rõ rằng nàng không thuộc loại con gái hám tiền hám
của hay ham sang Mỹ để được sướng thân. Nhưng tất cả vấn đề trong câu
chuyện anh kể không phải là việc vợ trẻ lấy chồng già mà cũng không
phải là chuyện tại sao anh lấy Bích Liên. Các bạn anh vẫn muốn tìm
hiểu, ngay cả khi nàng còn sống, xem tại sao Bích liên lại đòi lấy anh.
Chắc chắn không phải nàng muốn đi Mỹ để được sung sướng, được ăn chơi,
được hưởng đời. Bởi vì sau khi đến Mỹ, Bích Liên vẫn sống một cuộc
sống bình dị như thể nàng còn sống ở Việt Nam với mẹ. Nàng ít ra phố,
chỉ thường ở nhà chăm sóc cho chồng, lấy hạnh phúc gia đình làm nguồn
vui. Như thế Hoàng đã cưới Bích Liên làm vợ và anh đã làm thủ tục để nàng được sang sống bên Mỹ với anh. Bích Liên là một người con gái thông minh, có óc cởi mở nên sống ở một xã hội khác lạ như nước Mỹ nàng vẫn thích nghi được dễ dàng. Hơn nữa vì yêu anh thật tình nên nàng cư xử rất khôn khéo, không làm một điều gì để anh phải suy nghĩ, càng không muốn gây tiếng xấu cho anh và cho chính mình. Tất cả những bà con bạn bè quen thuộc gặp nàng đều phải công nhận rằng Bích Liên là người vợ lý tưởng mà trời đất ban cho anh. Họ nói: "Số anh có phúc lớn mới có được một người vợ thương yêu chiều chuộng chồng như vậy." Nghe những lời ca tụng của bạn bè, anh thấy sung sướng vô ngần. Anh cám ơn trời đất đã cho anh cái diễm phúc được gặp nàng. Nhưng đó chỉ là ý tưởng lúc ban đầu. Sau này càng sống với vợ, anh càng thấy có nhiều điều bí ẩn, nhiểu sự kiện lạ lùng mà anh chỉ chứng kiến mà không dám hỏi, mặc dù trong đầu anh cứ có nghi vấn, anh cứ thắc mắc tự hỏi mà không tìm ra câu trả lời. Chẳng hạn như khi hai đứa gần nhau thì nàng cứ muốn được liếm tay hay mặt anh một hai cái. Anh thấy điều này rất lạ vì anh chẳng nghe nói đàn bà thích liếm mặt đàn ông bao giờ. Một cái lạ khác là Bích Liên rất thính tai, thính mũi. Bạn đến nhà chơi, còn chạy xe ở xa nơi đầu đường mà nàng đã biết. Nêú anh không để ý thì nàng cứ đằng hắng hai tiếng, như thể để báo cho anh hay. Nếu là đàn bà đến chơi, còn ở tuốt xa ngoài đường, Bích Liên đã bảo anh :
Hoàng không hiểu sao vợ anh lại có thể đánh
hơi xa cả hai ba trăm thước như thế. Anh thấy lạ và thắc mắc trong lòng
nhưng chẳng dám hỏi.
Lưỡng lự thêm một lúc lâu, anh phải dỗ mãi nàng mới nói :
Mặc dù không hiểu sao nàng lại có ý muốn này, anh vẫn trả lời :
Thế là vẻ mặt nàng hớn hở sung sướng vô cùng, làm anh thấy vui lây. Sống chung với nhau được sáu năm thì bỗng nhiên Bích Liên trở bệnh. Điều lạ lùng là nàng cứ ngày càng yếu thêm, đi khám bệnh không bác sĩ nào tìm ra được căn nguyên. Cho đến một hôm cách đây gần một năm, Bích Liên biết trước nàng sắp chết, nàng gọi anh đến bên giường cố mỉm cười nói với anh:
Nghỉ môt phút cho đỡ mệt xong Bích Liên trìu mến nhìn anh nói tiếp:
Nói đến đây Bích Liên gần như lả đi. Hoàng cúi người xuống ôm vợ nhẹ nhàng nói :
Hoàng cúi sát mặt xuống để Bích Liên ôm cổ anh lần chót. Nàng kề môi vào má anh liếm hai ba cái rồi như đã thoả mãn nàng nói tiếp :
Nói đến đấy thì nàng từ giã cuộc đời. "Như thế những lời đồn rằng nàng về là
đúng thật sao anh Hoàng?" có tiếng một người hỏi anh nhưng không thấy
anh trả lời. Mọi người thấy Hoàng đứng dạy bước ra tấm cửa kính lớn
nhìn xuống vườn sau nhà. Hôm nói chuyện đúng là ngày rầm, cả một bầu
trời sáng trăng rực rỡ hiện ra trước mắt. Sau cái vẫy tay của anh, cả
đám bạn anh lẳng lặng đứng dậy khẽ bước tới phía cửa kính, đứng bên
anh. Anh nói "Còn đúng ba phút nữa là 12 giờ đêm. Xin các bạn bình tĩnh
nhìn xuống dưới kia và tuyệt nhiên giữ im lặng giùm." Hướng Dương |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
![]() |
||
<< phần trước Trang of 147 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |