Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: Đập gương xưa tìm... chút dư hương cũ. | |
<< phần trước Trang of 9 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | ||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 20/Feb/2013 lúc 9:44pm | ||||||||
SAIGON -
DÁNG CHỢ NĂM XƯA TAM THÁI Sài
Gòn hai trăm năm mươi chợ, kể sao cho vừa. Trong thời khó khăn, kinh tế
lạm phát, siêu thị, trung tâm thương mại đại diện cho phái "chợ ngoại"
tràn lan, thì chợ Việt truyền thống với những món hàng để nấu cơm ba
bữa, cây nhà lá vườn, tự sản tự tiêu đang bị co cụm. Trào lưu đưa hàng
Việt về chợ đang được chú ý.
Tết ta, dạo chợ Việt, sắm món ngon truyền thống, nhớ chuyện đất lề quê thói, như một việc tất yếu.
TAM THÁINhững ngôi chợ Sài Gòn xưa dưới đây có cái còn, nhưng cũng có cái đã đi vào dĩ vãng. Ngoài chợ Bến Thành ở khu trung tâm quen thuộc, chúng ta hãy "dạo qua" và ngắm lại một số chợ nổi tiếng khác, có cách nay trên nửa thế kỷ. 1. Chợ Cầu Ông Lãnh: Từ bến ghe chành trở thành ngôi chợ vào năm 1872, đầu mối hàng thủy sản. Năm 1946, dẹp lò mổ heo, phát triển thêm chợ Cầu Muối, đầu ngành nông sản, biến đường Lò heo (đường Nguyễn Thái Học) thành bến xe. Tháng 4/1999, chợ Cầu Ông Lãnh cháy rụi. Đến năm 2004, cả hai chợ bị giải tỏa để làm đại lộ bờ sông. Ông Lãnh có lẽ là Lãnh Binh Thăng, còn Cầu Muối là cầu chuyển muối từ ghe miền Trung chở vào. 2. Chợ Lớn cũ: Ra đời sau khi người Hoa từ Cù Lao Phố về đây lánh giặc Tây Sơn (1776). Ảnh này chụp đầu thập niên 1920. Địa danh Chợ Lớn phát xuất từ đây: ngôi chợ lớn nhất vùng... "Chợ Lớn". Sau khi lập Chợ Lớn mới (Bình Tây) thì chợ này bị dẹp bỏ vì quá tải. 3. Chợ Bình Tây: Biết chính quyền Chợ Lớn có ý định xây ngôi chợ mới để thay thế Chợ Lớn cũ đã quá chật chội, năm 1928, ông Quách Đàm, thương gia người Hoa, liền bỏ tiền ra mua một cuộc đất rộng nằm giữa kênh Tàu Hủ và rạch Bàng (đường Hậu Giang - Tháp Mười ngày nay), xây nên ngôi chợ Bình Tây đồ sộ (26.000m2, gấp đôi chợ Bến Thành), cấu trúc trệt - lầu, kiến trúc Đông phương nhưng thoáng đãng, tân kỳ. Ông Quách Đàm hiến tặng ngôi chợ cho tỉnh, chỉ với điều kiện sở hữu dãy phố tự xây hai bên tả, hữu chợ, cũng trên đất mình mua, làm kinh doanh. Ông được đặt tượng trong chợ sau khi qua đời. Dĩ nhiên, chính quyền đồng ý cái rụp, vì đâu phải bỏ ra xu nào, lại được thu thêm tiền thuế. Phần Quách Đàm, đã giàu lại giàu thêm, nhờ cho thuê phố chợ, vừa thơm danh làm nghĩa, lại được tiểu thương đội ơn (nên gọi là Chợ Quách Đàm). Sau 1975, tượng đồng Quách Đàm bị hạ bệ, nhốt vào nhà kho. Sau đó, được đặc cách về Bảo tàng Mỹ thuật ở 67 Phó Đức Chính. Tiểu thương chợ Bình Tây góp tiền, làm lại tượng khác, đặt lại ở sân giữa tầng trệt, đêm ngày nhang khói. Bình Tây, tên làng cũ. Trước 1990 là chợ đầu mối cho cả nước. Đã gần một thế kỷ trôi qua, Sài Gòn vẫn chưa có ngôi chợ nào to đẹp hơn. Ta thấy bài toán "đi chợ" của Quách Đàm ngày xưa thật kinh... tế, đâu có "đa dại" như một số "đại gia" làm ăn kiểu chụp giựt, rơi vào ngõ cụt, đi từ teo tóp tới tiêu tùng, phá sản. 4. Chợ Cá: Chợ này không còn, ngày xưa, nằm ngay trên con đường Tổng Đốc Phương (nay là Châu Văn Liêm), ở vị trí vòng xoay tượng Phan Đình Phùng bây giờ. Năm 1954, Sài Gòn xây lại một chợ tôm cá, nhưng kiến trúc khá văn hóa, đó là chợ Hòa Bình (tên làng cũ). Về sau có thêm chợ cá Trần Quốc Toản (đường 3/2, gần Nguyễn Tri Phương), chợ đã bị giải thể sau thời bao cấp. 5. Chợ Tân Định: Xây năm 1926. là chợ nhà giàu thời đó. Hai bên có bãi xe hơi, phía sau là bến xe ngựa (đường Mã Lộ). Rau. thịt tươi ngon sản xuất phía Gia Định đều chở về đây. Kiến trúc chợ đến nay không thay đổi nhiều, nhưng ngày xưa thoáng đẹp. Chung quanh là những nhà vườn, đất còn thênh thang của làng cũ Tân Định. Bây giờ bí lối, sạp hàng, ki-ốt, quảng cáo tứ bề. Đi bên đường Hai Bà Trưng, chẳng ai còn nhìn thấy mặt tiền kiến trúc, đường nét tịnh tiến đặc thù của nó. 6. Chợ Bà Chiểu: Chợ trung tâm của tỉnh Gia Định xưa, đã có từ đầu thế kỷ XIX. Kiến trúc chợ thuộc hạng bình dân, xây năm 1942. Thập niên 1900, vùng đất này nên thơ như bức tranh thôn dã: vườn cây, mái tranh, nhà ngói, ao sen đan xen giữa những lũy tre, khóm chuối, đường làng. Tên chợ từ tên vùng đất, chưa rõ nguồn gốc Bà Chiểu. Có người cho rằng bà là một trong năm bà vợ của một lãnh binh thuộc triều Nguyễn, đã có sáng kiến chia vùng quản chợ. Bốn chợ còn lại là Bà Hạt, Bà Hom, Bà Quẹo, Bà Điểm. Còn theo Sơn Nam, "chiểu" là ao. Bà là nữ thần được thờ bên ao. 7. Chợ Gò Vấp: Chợ đã có từ lâu, thuở dân cư còn thưa thớt. Sau 1954, người Bắc di cư vào ở vùng này thì chợ mới phát triển, cùng thời với các chợ hương vị Bắc khác, như Xóm Mới, Ông Tạ, Bùi Phát... 8. Chợ Thủ Đức: Chợ Thủ Đức có sau hành trình xuôi về phương Nam của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào thế kỷ XVII. Người lập ra chợ này vốn là một thương gia người Hoa bỏ nước ra đi sau khi phong trào "phản Thanh phục Minh" thất bại. Về nhân vật lịch sử có liên quan, ông Tạ Dương Minh (Tạ Huy), hiệu Thủ Đức, đã góp phần khai khẩn lập ấp vùng Linh Chiểu xưa và xây dựng ngôi chợ đầu tiên tại đây mang tên hiệu của ông là chợ Thủ Đức. Tạ Dương Minh là tiền hiền họ Tạ, hiệu Thủ Đức. Tản Đà thích thú khi đến ăn nem Thủ Đức và tắm suối Xuân Trường (thập niên 1930). Ông về Bắc, gởi thơ vào Sài Gòn: "Thủ Đức - Xuân Trường khách vắng đông/Ngồi nhớ người xa thêm nhớ cảnh/ Xa xôi ai có nhớ nhau cùng..." 9. Chợ Bà Điểm: Vùng này xưa nhiều rừng, cọp dữ. Canh ba, canh tư, dân gánh nông sản về Bến Nghé bán phải đi thành đoàn, đốt đuốc chống cọp. Đây là vùng canh tác cau, trầu cuối cùng của 18 Thôn Vườn Trầu. Bà Điểm là chợ đầu mối trầu, cau cho Lục tỉnh từ thế kỷ XIX cho đến cuối thập niên 1980. Giữa thập niên 1990 vẫn còn bến xe ngựa. Theo một nhà nghiên cứu, Bà Điểm là vợ của một lãnh binh. Một tư liệu khác thì bảo là người đã giúp Trương Định đánh Pháp (1861), còn theo TS. Lê Trung Hoa, bà là chủ quán bán nước chè ở vùng này. Thập niên 1990, đã có dự án bảo tồn khu nhà vườn Bà Điểm. Tiếc rằng nói mà không làm, nay vườn trầu bán đất phân lô, chia ô hết rồi! Bức ảnh này cho ta thấy cảnh chợ Bà Điểm trăm năm trước (1910). Đường trước chợ đã quy hoạch cốt lề. Có đèn đường nhưng còn là trụ đèn thắp dầu (nay là góc Phan Văn Hớn - Phan Văn Đối). Hai bên đường nhiều nhà ngói, đi lại chỉ có xe bò và ngựa... |
|||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 21/Feb/2013 lúc 7:06pm | ||||||||
NHỮNG TẤM HÌNH TÀI LIỆU RẤT QUÝ VỀ
Vu Van Chuong Phan Cao Tri
=========================== |
|||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 22/Feb/2013 lúc 12:46am | ||||||||
Xe hơi xưa Cars You've Probably Never Seen Before 1921 Farman A6B Super Sport Torpedo 1922 Marmon Model 34B Speedster 1927 Isotta-Fraschini Tipo 8A Fleetwood Roadster 1929 duPont Model G Speedster 1930 Isotta-Fraschini 8A SS Castagna Torpedo Sport 1930 Minerva Van Den Plas Cabriolet 1930 Ruxton Model C Raunch and Lang Roadster 1931 Alfa Romeo 6C 1750 GS Touring Flying Star Spyder 1931 duPont Model H Merrimac Sport Phaeton 1932 REO Royale Convertible Coupe 1933 Hispano Siuza J12 Deletren Freres Cabriolet 1936 Delahaye 135 Competition Court Figoni et Falaschi Coupe 1936 Delahaye 135 Figoni et Falaschi Torpedo Cabriolet 1937 Delahaye 135 Figoni et Falaschi Torpedo Cabriolet 1937 Talbot Lago T150 SS Figoni Et Falaschi Coupe 1937 Delahaye 145 Chapron Coupe 1938 Delage D8-120 VanVooren Cabriolet 1938 Delahaye 135 M Figoni et Falaschi Cabriolet 1938 Horch 853A Erdmann & Rossi Sport Cabriolet 1938 Talbot Figoni & Falaschi 7/23 Faux Cabriolet 1939 BMW 328 1939 Delage D8 120S Letourneur Et Marchand Aerosport Coupe 1939 Delahaye 165 Figoni et Falaschi Cabriolet 1947 Rolls-Royce Phantom III Labourdette Vutotal Cabriolet 1947 Rolls-Royce Phantom III Labourdette Vutotal Cabriolet, rear 1947 Talbot-Lago T26 Figoni et Falaschi Cabriolet 1948 Delahaye 135 M Figoni et Falaschi Cabriolet 1948 Delahaye 135 M Figoni et Falaschi Cabriolet Narval 1949 Delahaye 175 S Saoutchik Roadster 1949 Kurtis Kraft Sport 1949 Lancia Aprilia Pinin Farina Cabriolet 1951 Riley Dhc 1952 Maverick Sportster 1953 Allard K3 Roadster 1953 Kurtis 500S Roadster 1953 Siata 208S Bertone
Spyder 1954 Chrysler Ghia Special G1 1964 Bizzarrini 5300 Corsa 1966 Finch Phoenix 1947 Morgan F Super 3 Wheel Roadster 1925 Rolls Royce Phantom I Aerodynamic Coupe 1925 Rolls Royce Phantom I Aerodynamic Coupe, rear 1938 Phantom Corsair 1953 Alfa Romeo BAT 5 Concept Car 1953 Alfa Romeo BAT 5 Concept Car, rear 1937 Delahaye 135MS Figoni et Falashi Roadster 1938 Peugeot 402 Pourtout Dar'Lmat Roadster 1951 Bugatti Type 101 Ghia Roadster 1953 Chrysler GS-1 Ghia Coupe 1954 Buick Wildcat II 1954 Siata 208S Vignale Coupe 1934 Voisin C15 Saloit Roadster *** |
|||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 05/Mar/2013 lúc 9:46pm | ||||||||
BÁNH MÌ SAIGON Bánh
mì là bánh làm bằng bột mì ủ men, nướng chín trong lò, món ăn chính của
nhiều nước trên khắp năm châu; Từ châu Âu, châu Mỹ, châu Úc đến châu Á,
châu Phi. Bánh mì được phân chia thành nhiều loại khác nhau, tùy theo
nguyên liệu, thành phẩm của các xứ sở, các địa phương. Tiếng Anh gọi
bánh mì là bread, tiếng Pháp gọi bánh mì là (le) pain. Bánh mì đầu tiên
ra đời khoảng ba ngàn năm trước Công Nguyên, nhờ điều kiện khí hậu ấm áp
của vùng đất Lưỡng Hà và kỹ thuật ủ men bia của người Ai Cập.
"Có
lẽ, bánh mì đã xuất hiện ở xứ ta trước cái mốc 1859, nhưng được biết đến
nhiều là sau khi đội quân viễn chinh chiếm thành Gia Định. Ngoài người
Pháp, cách làm bánh mì đầu tiên được người Hoa tiếp thu, sản xuất bán ra
thị trường và trong số khách hàng mua bánh mì thời kỳ đó có cả người
Việt: Bồi bàn, thông ngôn, thầy ký có lẽ là những người nếm bánh mì đầu
tiên; Kế đó là công chức tân trào, rồi đến tầng lớp Tây học, thị dân và
lần lần tỏa rộng phổ biến cả thành thị lẫn nông thôn" – Huỳnh Ngọc Trảng
Trong bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc của cụ Nguyễn Đình Chiểu năm 1861, ta thấy có hai câu như sau:
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ. Bánh
mì theo chân người Pháp đến Saigon đầu tiên, xuống Nam Kỳ lục tỉnh, ra
miền Bắc, sau đó mới phổ biến trên toàn quốc, cho nên khi đề cập đến
bánh mì, người ta đề cập đến Saigon: bánh mì Saigon. Ta thấy những thực
phẩm, những vật dụng hàng ngày mà người Pháp mang đến Việt Nam, đều được
gọi kèm theo chữ tây như: khoai tây, hành tây, dâu tây, rượu tây, thuốc
tây, giày tây … Trong khi ngoài Bắc gọi bánh mì là bánh tây, thì miền
Nam lúc đó đã gọi nó là bánh mì ổ (ổ như chữ ổ của bánh bông lan). Có lẽ
một trong các loại bánh mì mà người Pháp du nhập sang đầu tiên là pain
de champagne (bánh mì đồng quê) ổ bự, to bè, nhiều ruột, để được vài
ngày hay các loại bánh mì hình tròn, hình
bầu dục gọi tên là le pain rond, le complet, le bâtard...
“Nhìn
lại bối cảnh lịch sử văn hóa của việc hội nhập bánh mì vào xứ mình,
chúng ta thấy rằng đó là một quá trình tiêu biểu cho cuộc đụng đầu lịch
sử: tập trung những xung đột và giao lựu những áp đặt và giải trừ ,
những áp bức và đấu tranh, những thất bại đau thương và những thắng lợi
hào hùng...
Ở
đấy, Sài Gòn tự nó đã là một thành phố ngã ba đường, vì nó đã nối được
những luồng thông thương chủ yếu với thế giới rộng lớn hơn bên ngoài, sự
giao lưu không ngừng của con người, tư tưởng, luồng tư bản, hàng hóa … “
- Huỳnh Ngọc Trảng
Ai bảo bánh mì Paris ngon Chắc gì hơn bánh mì Sài Gòn! Bánh mì Sài Gòn Năm bờ Uon Nóng, thơm, bùi, béo, lại vàng ròn Công Tử Hà Đông Những ổ bánh mì Saigon mới ra lò còn nóng, dậy mùi thơm của bột mì nướng, vỏ giòn rụm, vàng ươm, láng lẩy bơ, nở tròn bụng, ruột trắng mịn và xốp này từ những năm 30 cho mãi đến bây giờ, vẫn là một thứ quà Saigon, mà những người dân ở miền Tây đi Saigon về lại nhà mua làm quà cho con cháu. Dù bánh mì khắp nơi đều có, ở các tỉnh đều có lò làm bánh mì, nhưng danh tiếng bánh mì Saigon đã đi vào ký ức người ta từ lâu lắm rồi. Ở cửa ngõ thành phố đi các tỉnh đầy những chỗ bán bánh mì. Bến xe xa cảng miền Đông, miền Tây, lúc nào cũng có những người đội các cần xé đựng bánh mì đến tận cửa xe bán cho khách mua. “ Hồi
còn nhỏ học Tiểu học, mỗi lần bãi trường, nghỉ hè là ba anh em tôi được
ba tôi dẫn đi Sài Gòn chơi, thăm bà dì ở ngã Bảy gần rạp Long Vân... và
nhứt là khi về lại Mỹ Tho, trên tay luôn luôn xách tòn ten một xâu
chừng chục ổ bánh mì cột dây lác có quai. Quà Sài gòn à nhen. Má tôi đem
chia cho bà con chòm xóm ăn lấy thảo. Còn mấy đứa bạn hàng ngày chơi
tạc lon, vít hình, bắn đạn, đá cá, đá gà, đá banh, tắm sông... cho ngoạm
(cắn) một miếng thôi là đủ rồi! Bánh mì Sài gòn mà! Bánh mì ở đâu cũng
có nhưng phải nói "Bánh mì Sài gòn" có đẳng cấp và phong độ ghê gớm
lắm!.Một thứ quà bình dân đem về xa lắm ở tận trên ... Sài gòn! Sài gòn
cho dù có đủ món ngon vật lạ, đủ thứ
trên đời do người ở tứ xứ mang về, nhưng theo đầu óc suy nghĩ non nớt
của một học sinh tỉnh lẻ (đêm buồn), chỉ có "Bánh mì Sài gòn" mới tượng
trưng cho "thủ đô" Sài gòn. Theo thời gian có lúc ngon lúc dở, tùy chỗ
pha thêm bột gạo nhiều ít khác nhau: chợ Cũ, xa cảng miền Tây, xa cảng
miền Đông, ngã ba Hàng Xanh ....”- Dương Quang Bổn
Đáp tàu khói, về quê ăn Tết Gió bấc đầu mùa gợn sóng đêm Ôm ổ bánh mì làm gối nhỏ Đem về cho mẹ với cho em Kiên Giang Sau khi mấy ông Tây thuộc địa về nước, bánh mì ở lại, vẫn tồn tại, và lần hồi mọc rễ vững vàng, được tiếp nhận rất nồng nhiệt, ở mọi nơi, trong mọi giới. Ổ bánh mì thông dụng và tiện lợi cho việc vừa đi vừa gặm (như thơ cụ Đồ Chiểu nêu trên) ngày nay là ổ bánh mì theo hình dáng như baguette của Pháp, nhưng ngắn hơn, chỉ khoảng 30-40 cm. Baguette là loại bánh mì đặc biệt của thủ đô Paris, hình trụ thon, dài cỡ một mét, bề ngang nhỏ, đường kính khoảng 5- 6 cm, nặng chừng 250 gam, vỏ giòn, ít ruột, phía trên mặt có cắt rãnh, thường để ăn liền trong ngày, không giữ được lâu. Ở Saigon, nhiều đợt bánh mì được ra lò trong ngày. Bánh mì nóng được phân phối khắp đường phố, khắp ngõ hẻm Saigon sáng sáng, chiều chiều nhờ đội ngũ bán bánh mì dạo. Hoặc là những em nhỏ quảy trên lưng các túi vải bồng bột, màu mỡ gà, bên trong lồng thêm vài lớp bao bằng giấy dầu để giữ cho bánh mì nóng lâu, vừa chạy lúp xúp vừa rao:” Bánh mì nóng đê ê ê ê …”. Hoặc những ông bán bánh mì bằng xe đạp, sau yên xe chở một giỏ cần xé, phủ kín bằng bao bố. “
Nhiều lúc đứng chờ bánh mì ra lò, tôi đã có dịp chứng kiến quy trình làm
bánh: Bánh mì trước khi nướng là bột lấy trong những bao bột mì, được
thợ nhồi cho dẻo, để cho nở rồi kéo thành từng thỏi bột nhỏ, dài. Họ
khéo léo ngắt từng đoạn cho vừa với cân lượng rồi dùng dao nhỏ rạch
những đường dài dọc theo ổ bánh, để khi nướng bánh mau nở. Xong, họ sắp
những ổ bánh còn là bột đó thành hàng lên những chiếc "băng" giống như
"băng-ca", kê vào miệng lò nướng rồi kéo một cái tức thì bánh trên cái
"băng-ca" đó đều nằm gọn trong lò nướng. Thợ đóng cửa lò nướng lại,
tăng, chỉnh độ nóng của điện sao cho bánh nướng chín vàng mà không bị
khét. Khi đủ thời gian, ổ bánh đang
nướng trong lò sẽ được những người thợ dùng những cái dầm nhỏ như cái
mái chèo, xúc ra một ổ để xem độ chín. Khi bánh đã chín đều người ta
dùng những dụng cụ giống như cái xẻng to mà xúc bánh ra, đổ thành đống
trên bàn, mỗi lần xúc chừng chục ổ bánh nóng hôi hổi, sờ vào phỏng tay
như chơi!”- Hoàng Đức
Bánh mì ăn không cũng ngon
Ta đi trăm núi, ngàn sông biển Không đâu bánh mì ngon Bằng bánh mì Saigon Công Tử Hà Đông Những
lò bánh mì ở Saigon lúc nào cũng có đông người chờ lấy bánh mới: hoặc
là những người bán lẻ cần một số lượng lớn, hoặc là những người chỉ cần
mua một vài ổ, nhưng muốn mua thẳng từ lò. Cầm ổ bánh mì nóng hổi mới ra
lò, người ta hay bẻ cái đầu giòn giòn ăn liền tại chỗ. Bánh mì nóng
giòn ăn không cũng ngon, nhưng bánh mì không cũng có nhiều cách để ăn
lắm.
Ăn
bánh mì theo ông Tây, bà đầm từ thời thuộc địa là ăn bánh mì với
fromage, trứng (omelette, oeufs au plat), thịt nguội (paté, jambon,
saucisse à), beurre, mứt trái cây(confiture) như dâu, cam, nho àhay chấm
sữa nóng cho bữa ăn sáng. Dùng bánh mì ăn kèm với súp (soupe), bí tết
(bifteck), ra gu (ragout)à trong bữa ăn tối. Tuy cũng ăn giống như vậy,
nhưng người Saigon đã dần dà cải tiến cho hợp với khẩu vị của mình như:
Ăn bánh mì với những miếng phô mai “ Đầu con bò cười (La vache qui
rit)”, phối hợp thêm chuối già. Ăn sáng bằng bánh mì trét bơ mặn Bretel,
rắc chút đường cát trắng; Bánh mì chấm sữa nóng, pha thêm một chút cà
phê cho có mùi thơm hay ăn bánh mì trét bơ chấm cà phê sữa nóng; Bánh mì
chấm sữa
đặc có đường hiệu Ông Thọ hay Con chim (hiệu Ông Thọ- Hiệu sữa
Longevity, trước đây thuộc hãng Foremost, Mỹ, hình “ Ông Thọ chống gậy”,
nói lên tuổi thọ của người dùng. Hiệu Con chim của hãng Nestlé, Thụy
Sỹ, đúng ra là hình một tổ chim, gồm một chim mẹ và hai chim con)...
Bánh
mì gốc Tây, đến Saigon được cho kết duyên với các món ăn, gốc gác từ các
nước khác, đã được Việt Nam hóa như: Cà ri gà nấu bằng nước cốt dừa và
sả, trong khi các loại cà ri Ấn Độ nấu bằng sữa chua (yaourt); Bò kho
cách hầm giống như bò nấu xốt vang của Tây (boeuf bourguignon), nhưng có
thêm mùi ngũ vị hương; Hay ăn bánh mì với các món Tàu là phá lấu, lạp
xưởng, xá xíu, thịt quay, xíu mại...
Vân Tiên ngồi dựa gốc dừa
Tay cầm chai rượu miệng nhai bánh mì Nguyệt Nga mới hỏi ăn gì ? Vân Tiên mới nói bánh mì thịt quay! NQB Cách
ăn bánh mì còn được Saigon hóa, phong phú thêm một bậc ở cách chế biến
là kẹp vào trong bánh mì phần “ nhân “ kiểu cách rất Saigon, gọi là bánh
mì kẹp thịt Saigon hay bánh mì thịt Saigon. Bánh mì thịt Saigon xác
định được nét đặc biệt và hương vị riêng của mình, phản ảnh thị hiếu ăn
uống và sự sáng tạo của dân chúng: “ Bánh mì với đặc tính xốp, thẩm thấu
nước nên ngon khi kẹp bánh mì thịt, pa tê hay thậm chí kẹp miếng ốpla ở
giữa vẫn ngon hơn khi ăn kiểu Tây, bánh ra bánh và thịt ra thịt “ -
Phạm Công Luận
Phần nhân của bánh mì thịt Saigon gồm ba nhóm:
1-Loại
thịt kẹp (bỏ, nhét) vào bên trong quyết định tên gọi của bánh mì. Gọi
chung là thịt nhưng có thể là thịt heo, thịt gà, thịt bò, cá hay trứng.
Trứng thường làm kiểu ốp la chiên sẵn. Cá là cá hộp xốt cà chua (ở VN
ngày xưa có hiệu cá mòi Sumaco của Maroc, ngày nay có hiệu cá nục Ba cô
Gái của Thái Lan). Thịt bò xay trộn sả ớt bằm nhuyễn xiên que nướng.
Thịt gà thường làm kiểu chà bông hay quay. Thịt heo được sử dụng nhiều
nhất, với nhiều cách chế biến khác nhau: Từ thịt heo nướng, thịt xá xíu,
thịt quay, thịt ba chỉ buộc dây bó khoanh, da nhuộm màu đỏ cam, thịt
thăn heo chà bông...qua xíu mại (thịt heo bằm xốt cà chua), nem nướng,
chả lụa, giò thủ... qua ba tê gan, phá lấu (lòng heo
khìa), bì (da heo trộn thịt heo chiên xắt sợi)...
2-
Các loại rau: Dưa leo thái mỏng, ngò (rau mùi), đồ chua, hành tây, cọng
hành lá, ớt... Bà Nguyễn Thị Tịnh, chủ nhân bánh mì Hòa Mã nói: “ Người
miền Nam thường thích cái gì cũng có tí rau. Vì vậy ổ bánh mì được cho
thêm vài lát dưa leo, củ cải trắng, cà rốt cắt sợi ngâm chua, thêm vài
cọng hành, ngò để có hương thơm, vài khoanh ớt cay vừa ăn vừa hít hà mới
khoái “
3-Gia vị như: Sốt mayonnaise, xì dầu, nước mắm pha, tương đen, tương ớt, muối tiêu...
Ở các
chỗ bán bánh mì, các nguyên liệu kể trên được bày biện sẵn sàng phục vụ
thực khách. Bánh mì thường được nướng giòn từ trước. Khi có khách hỏi
mua một ổ bánh mì đặc biệt chẳng hạn, người bán hàng lẹ tay lấy ổ bánh
mì, xẻ đôi, một bên quệt qua quệt lại chút sốt mayonnaise hay bơ, một
bên trét ba tê gan, rồi nhét chả lụa, thịt nguội à cho đều, rồi cho thêm
miếng dưa leo xắt mỏng, chút đồ chua, vài cọng ngò, vài khúc hành lá
chẻ nhỏ, vài miếng ớt, chan chút xì dầu, rắc miếng muối tiêu lên trên,
kẹp lại, đặt trên tờ giấy cắt vuông, gói lại, giao cho khách đang đợi.
Các động tác của họ rất nhịp nhàng, thành thạo. Nhìn thấy dễ như vậy,
nhưng cách xắt thịt, chả dày hay
mỏng vừa đủ, sự gia giảm số lượng bơ, sốt, ba tê, ớt... Rắc bao nhiêu
muối tiêu, xì dầu thì vừa ăn sẽ quyết định “ phẩm chất “ của từng hàng
bánh mì.
Cắn
một miếng bánh mì giòn rụm, vỏ bánh mì rớt xuống, đủ mùi: mằn mặn của
thịt, chả, ba tê , ngọt ngọt, chua chua của đồ chua, mát mát của dưa
leo, hành ngò à lan khắp vị giác- Đầy đủ chất bột, chất đạm, rau củ, gia
vị: Bánh mì thịt Saigon là món ăn có hết các điều kiện đó!
Ngồi buồn gặm ổ bánh mì
Mùi thơm chả quế thầm thì bên tai Bánh mì hương vị mặn mà Bỏ tình anh gặm mì gà ba-tê Bánh mì xá xíu ai chê Lại thêm xíu mại cho “phê” cõi người ”Xì dầu” anh xịt đã đời Thừa thiên “ớt hiểm” cho vừa xót xa Bánh mì thịt nguội có hành Mua năm tặng một cả làng anh quơ Cho dù người có thị phi Yêu đời anh “xực” bánh mì mà thôi...??? Đủ
chất bột, chất đạm, rau củ; gia vị. Đủ năng lượng cho một bữa ăn, dù là
sáng, trưa , chiều hay tối. Bánh mì thịt Saigon phục vụ đủ mọi giai cấp,
mọi tầng lớp trong xã hội. Nó lại thích hợp với hầu bao hạn chế của
người bình dân. Tô phở, dĩa cơm, hộp xôi đều mắc tiền hơn một ổ bánh mì
thịt. Nhưng cũng có những người lúc túi tiền quá eo hẹp, họ ăn bánh mì
không xịt xì dầu hay rắc muối tiêu cho qua bữa. Thành ra, cũng có người
lâu lâu lại thèm ăn bánh mì nướng giòn chấm xì dầu pha loãng với nước,
đường, chanh, xắn chút ớt cay cay. Còn những người lao động nghèo, muốn
cho chắc bụng thì mua bánh mì chấm hay bẻ thành miếng nhỏ bỏ vào nước
lèo của tô phở, tô mì, tô hủ tíu
… để ăn no luôn.
Nhớ
lai mấy năm ngay sau biến cố 1975, thời kỳ “ bao cấp “, thời kỳ mà khẩu
phần lương thực là gạo mốc ăn độn với khoai lang, bo bo và bột mì (bột
mì du nhập từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em có mùi mối mọt, mùi cứt
chuột...), người ta “ xếp hàng cả ngày “ để đổi bột mì này với mì vắt
vụn hay bánh mì chai cứng “ chọi chó cũng lỗ đầu “ do các lò bánh mì
công tư hợp doanh cung cấp. Thời kỳ kinh tế tư nhân bị tiêu diệt, thời
kỳ mà Saigon lâm vào tình cảnh “ đói “, kiệt quệ, khủng hoảng tinh thần,
thiếu thốn đủ thứ, có được chút đường thẻ (đường tán) người ta ăn với
thứ bánh mì trên một cách ngon lành cho đỡ thèm chất ngọt, chất bột.
Loại
bánh mì hợp tác xã này để chừng nửa ngày là khô queo, không nhá nổi, các
bà nội trợ Saigon bèn cắt ổ bánh mì ra nhiều lát đem hấp trong xửng như
hấp xôi. Bánh mì mới hấp ra phải ăn liền mới ngon, lúc còn nóng bánh
dai nhưng mềm, trét mỡ hành, cuốn xà lách và rau thơm, chấm nước mắm ớt
chua ngọt, thả lưa thưa vài cọng đồ chua. Chính ra món bánh mì hấp có từ
lâu, là món ăn chơi người ta bán ở mấy chợ. Một dĩa bánh mì hấp gồm vài
lát bánh mì, trên mặt có thể là nhân thịt heo bằm trộn củ sắn, hành tây
hay nhân bì trộn thính và thịt heo xắt chỉ, trét mỡ hành. Bì có trộn
thịt là sang rồi. Bánh mì bì rẻ tiền bán cho nhà nghèo chỉ có da heo
trộn thính nên ăn dai dai, cho chút mỡ hành, chan
nhiều nước mắm pha cho thấm vào ổ bánh mì.
Sống cho đàng hoàng tôi không cần nhiều lắm
Một lát bánh mì – một hớp nước cũng xong Một khoảng trời xanh Và một lời âu yếm yêu thương Là đủ Bánh mì và nước Không hiếm ở mọi nơi Piper Trước
năm 1975, những học sinh tiểu học của nhiều trường công lập, đến giờ ra
chơi, được phát cho một khúc bánh mì không và một ly sữa bột, theo
chương trình tài trợ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Ăn bánh mì chấm
sữa riết cũng ngán, đám học trò nhỏ vo ruột bánh mì thành cục bột nhỏ
chọi nhau chơi!
Giới
học sinh, sinh viên thường dùng những chữ: “ cơm tay cầm “,” thổi kèn “
hay gặm để ám chỉ chuyện ăn bánh mì. Cơm tay cầm cho thấy bánh mì rất
phổ thông. Động tác nhai bánh mì khá giống động tác của người thổi kèn
harmonica. Còn động từ gặm để tả việc ăn một món ăn nào không lấy gì làm
khoái khẩu cho lắm (Bánh mì ở đây không phải là bánh mì nóng giòn mới
ra lò, có thể đã để lâu, ỉu mềm hay khô khốc, ăn xong phải uống nhiều
nước, thành ra no lâu!).Có những lúc cạn tiền, nhẵn túi, đói meo, thường
là cuối tháng, các cô cậu sinh viên chỉ có khả năng mua bánh mì chan
nước xíu mại, người bán thương tình cho thêm miếng dưa leo hay cọng ngò
hoặc là mua bánh mì trét tương đen, thứ
tương ăn phở, thêm chút đồ chua, thế cũng ngon chán! Còn những lúc trốn
học với đám bạn, mỗi đứa thủ sẵn một ổ bánh mì thịt gói trong giấy nhựt
trình, một bịch trà đá có ống hút, vô rạp xi nê vừa ăn, vừa xem phim,
rồi tán dóc, dzui không gì sánh bằng! Nếu nói bánh mì đi theo ta suốt
quãng đời đi học cũng không phải là nói quá!
Còn bây giờ anh khác thằng nhóc lắm
Ngồi xổm lan can và gặm bánh mì Chờ áo trắng tan trường ơi áo trắng Anh trải thơ tình để lót bước em đi Bùi Chí Vinh Saigon
là nơi khai sinh ra bánh mì thịt: một món ăn của đường phố, một món ăn
của vỉa hè với nét độc đáo riêng biệt, không phải nơi nào cũng có thể có
được! Sáng, trưa, chiều hay tối, ngồi lề đường, nhai ổ bánh mì, uống ly
cà phê, ngắm dòng người và xe cộ qua lại là một thói quen của người
Saigon. Bởi vậy, một trong những đặc điểm của Saigon là có vô số kể các
xe bánh mì lề đường hiện diện ở bất cứ đầu con hẻm nào, ở bất cứ đầu con
đường nào, ở bất cứ giờ nào trong ngày, ở bất cứ địa điểm nào trong
thành phố: trường học, nhà thương, công sở, bến xe à Ta đọc bốn đoạn văn
sau đây nói về những xe bán bánh mì ở
Saigon:
“ Như
bánh cuốn, phở, xôi, bún, bánh mì là thức ăn không thể thiếu của nhân
dân Sài Gòn. Bánh mì là thứ người ta có thể ăn mọi lúc, ở mọi chỗ, có
thể dễ mang theo. Bánh mì có mặt suốt ngày, từ sáng tinh sương đến đêm
khuya, và dễ dàng tìm thấy ở bất cứ đầu đường, góc phố nào của Sài Gòn.
Đêm khuya khi những tiệm ăn đã đóng cửa, không còn hủ tíu, phở, chè thì
xe bánh mì với ngọn đèn leo lét vẫn một mình thức trên vỉa hè đón đợi
những khách cần ăn khuya.
Việt
Nam không trồng lúa mì, nhưng dân Việt Nam lại thích ăn bánh mì, nên
Việt Nam phải nhập cảng bột mì để làm bánh mì và mì sợi “ – Nguyễn Thị
Hàm Anh
“ Tôi
có anh bạn nhà văn từ Hà Nội vào Sài Gòn chơi. Được dăm ngày, một buổi
sáng, khi đang ngồi cà phê vỉa hè, anh chợt đưa ra nhận xét: “Sài Gòn có
cái bánh mì là lạ nhất”. Tôi chưa hiểu. Anh giải thích: “ Ở Hà Nội,
người ta cũng bán bánh mì nhưng là để trong cái thúng, bưng đi dạo khắp
nơi, ai kêu thì ghé lại. Còn ở Sài Gòn, một người bán bánh mì, mỗi bữa
dẫu chỉ bán chục cái bánh cũng có một cái xe lắp kính hẳn hoi...”. À,
thì ra cái lạ là ở chỗ “cái xe có kính” rất ư đàng hoàng tử tế ấy. Chưa
hết, bánh mì Sài Gòn còn rất ngon và có nhiều sự lựa chọn. Ngán thịt, sợ
phì thì kêu bánh mì bì. Muốn bụng nhẹ, mau tiêu thì gọi bánh mì cá.
Thích bồi dưỡng một chút thì
“đủ thứ”. Còn chỉ cần đủ dinh dưỡng thì “trứng ốp-la” – Trần Nhã Thụy
“ Xe
bánh mì truyền thống thường bao giờ cũng có chiều ngang chừng tám tấc
đến một thước, rộng chừng năm - sáu tấc. Nửa trên ba phía là kiếng,
trưng nào bánh, nào thịt, nào gia vị để nhận vào ổ bánh. Nửa dưới đóng
kín thường có một bếp than. Bánh lúc nào cũng nóng. Bánh nhận đủ sắc màu
ẩm thực quốc tế bên trong: Xíu mại, thịt quay, pâté, xá xíu, lòng heo,
lòng bò khìa, phô mai, thịt ba rọi,...Nhiều xe bánh mì trông đơn sơ vậy,
nhưng nổi tiếng cả vài chục năm, ngay một góc đường, hoặc trước một căn
nhà.” – Ngữ Yên
“ Còn
bánh mì thịt Bưu Điện Sài Gòn thì từ lâu đã là một thương hiêu của Việt
Nam. Ổ bánh nhỏ vừa một người ăn hình như làm ra chỉ để bán bánh mì
thịt. Mấy xe bánh mì thịt ở đây hình thức trang trí chiếc xe trông như
nhau. Nội dung và chất lượng ổ bánh mì đến giá cả không có gì khác,
chẳng qua ai quen đâu mua đó mà thôi. Khách đi đường, các bác taxi, các
thầy cô làm trong bưu điện, các công chức tòa Đô Chánh... là thực khách
trung thành của bánh mì ở đây.
Bánh
mì Bưu Điện Sài Gòn một thời tạo ra kiểu ăn bánh mì thịt của người Việt,
khiến nhiều ông Tây bà Đầm về nước mà còn nhắc còn thèm. Nên nay còn có
nhiều ông Tây du lịch đến Sài Gòn tìm ăn bánh mì thịt, gọi là kiểu Sài
Gòn, như là món ăn có “truyền thống Saigòn” vậy.Xe bánh mì thịt với kiểu
cách Bưu Điện Sài Gòn sau nầy trở thành mô típ chung cho xe bán bánh mì
thịt ở miền Nam. Đi về tỉnh bạn sẽ bắt gặp trước nhà lồng chợ, cửa
trường học, bên hông nhà thương, tại bến xe đò... hình ảnh những chiếc
xe bánh mì thịt kiểu Bưu Điện Sài Gòn quen thuộc.” – Trần Văn Chi
Thèm ổ bánh mì, ớt cay hít hà
Cháy đỏ phần da thịt trần va chạm Như lũ song thét gầm khô khốc Sinh sôi tràn lớp sinh sôi Caphesuotngay Hồi
đó, trước cửa Bưu Điện Sàigòn có hai quầy bán bánh mì mà người ta quen
gọi là bánh mì Bưu điện, quầy nằm bên phải hình như có tên là Hương Lan
(Nguyễn Văn Ngãi), bán những ổ bánh mì con cóc nhỏ trét sốt mayonnaise,
kẹp jambon, xúc xích, thêm vài lát dưa leo ngâm giấm ( cornichon của
Tây, pickled cucumber của Mỹ),và đặc biệt là thịt gà quay xé nhỏ.
Nhắc
tới ổ bánh mì được làm ngắn, nhỏ lại và tròn như con cóc, kẹp nhân thịt
gà quay xé nhỏ của bánh mì Bưu Điện, thì ta cũng không quên nhớ lại tiệm
bánh mì con cóc và thịt gà chà bông, có vị ngọt ngọt, mặn mặn rất ngon,
nổi tiếng thời đó là Nguyễn Ngọ trên đường Trần Hưng Đạo, quận Nhứt,
thời phong trào nuôi gà Mỹ (gà công nghiệp) rộ lên ở các trại chăn nuôi
ngoại ô, khoảng sau 1965.
Nói về các tiệm bánh mì lâu năm ở Saigon, phải nói đến tiệm bánh mì Hòa Mã. Năm 1954, vợ chồng thi sỹ Lê Minh Ngọc (tác giả tập thơ hoa Thề, được Giải Thưởng Văn Chương Việt Nam Cộng Hòa, bộ môn Thơ, trước năm 1963) và bà Nguyễn Thị Tịnh di cư vào Nam. Trước đó, bà Tịnh đã làm cho hãng thịt nguội chuyên cung cấp cho các nhà hàng Pháp ở Hà Nội. Khi vào Sài Gòn, hai ông bà đã có sẵn ý tưởng mở cửa hàng bán bánh mì, thịt nguội để phục vụ cho người Việt trong khu vực. Năm 1958, cửa hàng bánh mì thịt nguội mang tên Hòa Mã (tên một làng ở ngoại ô Hà Nội) ra đời tại số 511 Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu, Q.3). Sau đó hai năm, tiệm dời về số 53 Cao Thắng, cho đến nay vẫn là tiệm bán bánh mì nhỏ với bảng hiệu cũ kỹ, phai màu theo năm tháng, trông giống như một tiệm nước trong Cholon. Tiệm tồn tại trên nửa thế kỷ kể từ ngày thành lập. Ban
đầu, tiệm cũng bán bánh mì riêng, thịt nguội riêng, ăn tại chỗ hoặc mang
về. Nhưng người mua thường là công chức, thợ thuyền, sinh viên, học
sinh không có nhiều thời gian vào buổi sáng để nhẩn nha ngồi ăn ở tiệm.
Thế là Hòa Mã làm ổ bánh mì vừa đủ cho suất ăn sáng dài hơn gang tay,
nhét thịt, chả lụa, pa-tê vào giữa để người mua tiện mang theo vào nơi
làm việc, lớp học. Cho nên nhiều người cho Hòa Mã là tiệm đầu tiên bán
những ổ bánh mì thịt kiểu Sài Gòn.
Trong
khu vực Bàn Cờ, ngoài tiệm bánh mì Hòa Mã, còn phải kể đến tiệm bánh mì
Hà Nội cũng thuộc loại nổi tiếng thâm niên, với cơ sở khang trang, sạch
sẽ, ngày nay tọa lạc tại 83-85 đường Nguyễn Thiện Thuật, phường 8, quận
3. Cũng như chủ nhân bánh mì Hòa Mã, với nghề làm thịt nguội, gia đình
ông Lê Văn Đối từ Hà Nội di cư vào Nam, quyết định mở cửa hiệu bánh mì
đồ nguội trên đất Sài Gòn, đặt tên là bánh mì Hà Nội để làm kế mưu sinh.
Lúc đầu quán nhỏ, vài bàn ghế lụp xụp nhưng bánh mì nóng giòn, dọn bên
cạnh dĩa jambon, chả lụa, patê , dưa leo, cà chua, ớt đỏ và sốt
mayonnaise tiệm tự làm để riêng. Món đặc biệt của tiệm ngày trước là gà
rút xương dồn thịt, jambon và nấm
hương. Bánh mì Hà Nội bây giờ trở thành một cửa hàng ăn uống rộng lớn,
bán thêm bánh mì kẹp thịt mang đi, bánh ngọt, xôi chè...
Bàn tay bỏ quên túi áo
mân mê cây bút chì (không có mẫu bánh mì) tìm nghĩa của từ chẳng thấy Phan Huyền Thư Có lẽ
không nơi nào có nhiều chỗ bán bánh mì thịt như Saigon! Đại loại cũng
chừng đó nguyên liệu, nhưng mỗi tiệm, mỗi xe bánh mì có một tính cách,
một gout riêng, không nơi nào giống nơi nào, hầu như dân Saigon ai cũng
có một chỗ “ ruột “ để mua bánh mì mà mình cho là ngon, người ta ăn chỗ
nào thì quen chỗ đó, vì lâu lâu mua đại một chỗ nào đó, xui xui gặp bánh
mì dở, nhá không trôi, nhưng cũng có khi hên, bất ngờ khám phá ra một
chỗ bán bánh mì ngon mới, không biết trước được. Có những xe bánh mì lúc
nào cũng có đông người xếp hàng chờ mua, khi đã “ kết “ rồi thì người
ta không ngại công chờ ( Chỗ ruột của tôi hồi còn ở Saigon là xe bánh mì
Tám Cầu, ở trước rạp xi nê Việt Long,
đổi một lần là Văn Hoa Saigon, hai lần là Capitol, sau 1975 thành Thăng
Long, nằm trên đường Cao Thắng, quận 3, ngay ngã ba đường Trần Quý Cáp,
nay là Võ Văn Tần. Đặc biệt của bánh mì Tám Cầu là quét một chút bơ mặn
ở một đầu giòn bên ngoài ổ bánh mì thịt).
Hồi trước, các xe bánh mì đậu ở một chỗ như đầu hẻm, hông chợ, gốc cây, trước cửa trường học... Còn bây giờ, chẳng biết từ lúc nào, các xe bánh mì trở thành hàng rong, đi bán dạo khắp nơi, mà nghe đâu họ lại không rao mới kỳ!!! Các xe bánh mì đẩy lưu động này là một trong những phương tiện mưu sinh, cho không biết bao nhiêu người nghèo ở Saigon. Chỉ cần chút vốn để sắm chiếc xe bánh mì đẩy có tủ kính, còn bánh mì không, thịt nguội, chả lụa... được chủ lò cho thiếu gối đầu: bán xong rồi mới trả tiền thì phải! Họ tảo tần, chắt chiu, góp nhặt từng đồng để lo cho gia đình mình. Bánh mì, nước hay- bầu trời Coi như tôi chưa có trên này Dù thời gian qua tôi đã sử dụng rất nhiều Bánh mì và nước Piper Bánh mì ở Saigon hiện nay phải nói là phát triển đến chóng mặt: thiên hình, vạn trạng về “hình thức “ cũng như “ nội dung “. Ngoài vô số kể những xe bánh mì đẩy rong ruổi khắp nẻo Saigon, những xe bánh mì ngon nổi tiếng, tọa lạc tại một vị trí cố định cũng rất nhiều như: Ba Lẹ (Tân Định), Sáu Minh (Võ Văn Tần), Lan Huệ (Lê Văn Sỹ)à Ta còn phải nói đến số lượng các tiệm bánh mì mọc lên như nấm! Các
tiệm bánh mì có tiếng tăm lâu năm, nhiều người biết đến như: Ngọc Sáng
(Lý Tự Trọng - Gia Long, Q1), Anh Phán (Cống Quỳnh, Q1) , Hà Nội (Nguyễn
Thiện Thuật, Q3), Như Lan ( Hàm Nghi, Q1). Như Lan trước đây là một
tiệm nhỏ, sau vài chục năm, đã chiếm một miếng đất bề thế ở mặt tiền
đường Hàm Nghi, gồm ba cửa hàng ăn uống, ngày đêm tấp nập khách, ngoài
bánh mì thịt họ còn bán đủ thứ, như một mini restaurant: heo vịt quay,
xôi chè, bánh ngọt... và các món nước gồm cháo, miến, phở...
Các
tiệm chuyên môn bánh mì bí tết (bifteck) như :Nam Sơn (Nam Kỳ Khởi
Nghĩa- Công Lý, Q1), Hỏa Diệm Sơn (Võ Văn Tần - Trần Quý Cáp, Q3)...
Bánh mì giờ bán trong các tủ kiếng sáng choang, của các tiệm bánh mì trang trí lịch sự, bắt mắt, có máy lạnh, có wifi miễn phí, nhân viên mặc đồng phục, phong cách phục vụ chuyên nghiệp. thích hợp cho các dịch vụ gặp gỡ làm ăn hay hẹn hò à Các tiệm trang bị đầy đủ lò nướng, quầy bếp, tủ trữ lạnh... bảo đảm vệ sinh, sạch sẽ. Mỗi phần bánh mì được đựng trong túi giấy, có khăn giấy và tăm. Bánh mì thịt giờ được bán theo hình thức món ăn nhanh (fastfood) trong các tiệm bánh mì hiện đại như: bánh mì Ta (Lê thánh Tôn), King Baguettera (Trần Hưng Đạo), Bamizon(Nguyền Văn Chiêm) và các hệ thống nhiều tiệm là bánh mì Góc Phố (Bread Corner), bánh mì Onoré, bánh mì Kinh Đô, bánh mì ABC... Bánh
mì “ ngoại “ du nhập, được giới trẻ Saigon tiếp đón nồng nhiệt. Đầu tiên
là bánh mì baguette thực thụ bán ở siêu thị Cora, với hệ thống Le Bon
hương vị Pháp, bánh mì Chop Chop phong cách Tây nguyên bản, bánh mì bát
Bistro, bánh mì Tous les Jours (Hàn quốc), bánh mì Love Bread
(Singapore), bánh mì Schneider(Đức). Le Tokyo Baum (Nhật)à Hàng loạt cửa
hàng gọi tên là bakery& café với phong cách trẻ trung, hiện đại
được ồ ạt mở ra, cạnh tranh nhau khá khốc liệt, tạo cho khách hàng có
nhiều lựa chọn. Phần lớn các cửa hàng bakery&café này nằm trong quận
1 và quận 3, là khu dân cư có thu nhập cao, khách vãng lai nhiều, tập
trung nhiều cao ốc văn phòng.
Phải
nói thêm loại bánh mì thịnh hành của Saigon bây giờ là “ bánh mì tươi “.
Bánh mì làm tại chỗ, khi khách gọi, thợ mới nướng trong lò điện nhỏ,
mỗi mẻ chỉ chừng chục ổ, để bảo đảm sự tươi mới của bánh. Bánh bưng ra
còn nóng hổi, đặc ruột, không giòn như bánh mì thường, thơm mùi bơ phưng
phức. Để sản xuất loại bánh mì tươi này, tiệm có công thức riêng và
nguyên liệu đặc biệt nhập cảng từ Pháp
Nếu mỗi bài thơ tôi đổi được một khúc bánh mì
Hoặc một gói xôi mặn, lơ thơ vài lát chả mỏng, nhúm ruốc gà, tí mỡ hành... Tôi sẽ chịu khó hì hục đánh vật nhiều hơn trên keyboard Gieo cho bằng được một vần thơ tuyệt hảo Đào Công Điền Khu
vực Little Saigon (Tiểu Saigon) lâu đời nhất, nổi tiếng nhất và lớn nhất
nằm trong vùng Orange County (Quận Cam), của miền Nam California nắng
ấm, được mệnh danh là thủ đô của người Việt tỵ nạn - Những ai đã và đang
sống ở nơi này sẽ cảm nhận sâu sắc câu:” Chúng ta đi mang theo quê
hương “.Đó là tên một bức tranh vẽ cảnh một ngày hội Tết ở miền Bắc,
theo kiểu tranh dân gian Đông Hồ của cố họa sỹ Tạ Tỵ, vẽ sau năm 1954
khi ông đã vào Nam. Sau biến cố 1975, chúng ta đi mang theo rất nhiều di
sản về tinh thần, không phải là vật chất, nhưng trong phạm vi bài viết
này, chỉ xin đề cập đến bánh mì mà thôi. Người Việt lưu lạc khắp bốn
phương trời, mang theo qua Mỹ, Canada, Úc, Pháp... Bánh
mì Tây kiểu Saigon!
Chữ bánh mì hồi chúng ta còn học English for Today ở Saigon được dịch ra là bread. Ngày nay, cũng giống như phở, bánh mì thịt của người Việt tha hương đã bắt đầu chinh phục các thị trường năm châu bốn bể và vinh dự mới nhất là nó đã chễm chệ trong bộ tự điển trứ danh The Oxford English Dictionary (OED). Trong ấn bản ngày 24 tháng 3 năm 2011, tự điển OED có thêm 900 từ ngữ mới,” banh mi”/ ba:n mi:/, danh từ (số nhiều không đổi) chính thức góp mặt cùng với các “ anh hào ăn uống” khác là “taquinos” (kiểu bánh snack giòn của người Mễ) và “ kleftiko” (món thịt cừu hầm của Hy Lạp). Trên web site chính thức của OED có đoạn: “ Vì hiện nay thế giới ăn uống của cộng đồng nói tiếng Anh trên thế giới ngày càng đa dạng, những từ vựng mới phản ảnh nguồn gốc lâu đời của các truyền thống ẩm thực này”. “ ”
Banh mi” được thế giới hiểu là một loại bánh (snack) Việt Nam, gồm một ổ
bánh dài baguette (làm theo truyền thống gồm bột mì và bột gạo) được
nhét một số thức, chủ yếu là thịt, đồ chua, dưa leo, sốt mayonnaise,
ớt... Khái niệm bánh mì ngày càng quen thuộc với dân bản xứ, và không có
gì ngạc nhiên khi họ vào các quán ăn VN, gọi loại bánh mì thịt mà họ ưa
thích bằng tiếng Việt “ banh mi “, dù trong các tiệm bánh mì của người
Việt, luôn có tên gọi bằng tiếng Anh tương ứng.
Em kêu tiếng Mẹ, Cha trên vành môi ngọng nghịu
Ăn bánh mì thay thế phở với cơm Ấy mà phía sau tà áo dài lễ hội Chiếc eo thon dịu dàng còn rất đỗi Việt Nam Lã Thế Phong Nếu
chỉ bán một món bánh mì thịt thì không sống được, người ta phải bán kèm
những thức ăn khác thì mới đủ sở hụi, nên các tiệm bán bánh mì ở Quận
Cam đại loại có thể chia ra làm vài hình thức chính:
Các
quán cà phê có bán thêm bánh ngọt, các món điểm tâm, trong đó có bánh mì
thịt như: Le Croissant Doré (Bolsa, gần thương xá Phước Lộc Thọ),
Coffee Factory (Brookhurst, góc Mcfadden), TipTop Sandwiches
(Brookhurst, gần Wesminster)à
Các
tiệm bánh ngọt có bán thêm bánh mì, cà phê như:Lily Bakery (Bolsa, gần
Brookhurst), Boulangerie Pierre & Patisserie (Brookhurst, gần
Hazard)à
Nhà
hàng có bán bánh mì và thịt nguội dọn riêng trên dĩa là Tài Bửu và Uyên
Thi (Uyên Thi nằm trên Bolsa, góc Magnolia, lúc trước là tiệm Tài Bửu,
nay Tài Bửu dọn qua Wesminster, bên cạnh Thanh Sơn Tofu).
Các tiệm bánh mì thường đặt một số bàn ghế cho khách ngồi ăn bánh mì, uống nước, nhâm nhi cà phê chiếm đa số. Bước vào các tiệm bánh mì này, ta thấy ngay một bảng lớn chụp hình đủ loại bánh mì với số thứ tự để gọi, sau lưng chỗ tính tiền. Tiệm nào cũng có lò nướng bánh mì bên trong, quầy bánh mì, quầy bán các thức uống đủ loại:cà phê, boba, nước mía, rau má, sinh tố... đủ loại bánh VN, xôi chè, cơm, cháo, bún à Khách đặt mua và trả tiền xong, sẽ nhận được một số thứ tự trên hóa đơn, chờ kêu số (nhiều tiệm ngày nay đã trang bị màn ảnh treo trên trần nhấp nháy số) sẽ đến lãnh thức ăn ở một chỗ kế cận. Nếu khách chưa ăn liền có thể yêu cầu để đồ chua, dưa leo, ớt riêng. Một số tiệm bánh mì được ưa thích là: Top Baguette (Bolsa, góc Magnolia, đối diện quán Uyên Thi), Bánh mì Chợ Cũ ( Magnolia, góc Hazard), Bánh mì & Chè Cali (có nhiều chi nhánh), Bánh mì Tân Hoàng Hương (Euclid, góc Edinger), Bánh mì Gala (Brookhurst, khu Bò 7 món Pagolac), Bánh mì Saigon ( góc Wesminster và Magnolia, trong khu chợ Mỹ Thuận) à Theo anh Kevin Trần, điều hành tiệm Bánh mì Saigon thì:”
Khách muốn giữ bánh mì cho lâu hư, thì mua về nên để bánh trong bao
nylon cột lại, cho vào ngăn đá tủ lạnh. Mỗi khi muốn dùng để ra ngoài
chừng 5 phút, rồi đặt vào lò có sẵn hơi nóng trong vòng 3 phút, đủ để
bánh mì tươi giòn lại. Tuyệt đối không nên nướng lại vì độ nóng sẽ làm
bánh mì bị cứng, và đưa vào miệng nhai thì bánh bị bể, rơi ra “.
Một trong các hệ thống bánh mì thịt kiểu Saigon lớn nhất nước Mỹ là Lee' Sandwiches, chủ nhân là ông Chiêu Lê, với trên 50 cửa tiệm, hơn 900 người làm, tại nhiều tiểu bang: California, Arizona, Texas, Nevada và Oklahoma. Tiệm đầu tiên của gia đình họ mở ở đường Santa Clara, gần khu Tully, San Jose, năm 1983. Lee' Sandwiches “ bám theo sát nút “ các hiệu bánh tân kỳ của Mỹ, khách có thể vào internet, xem email, màn ảnh truyền hình lớn giới thiệu thực đơn, giá cả, các món đồ giảm giá đặc biệt... Tại một chi nhánh ở thành phố Garden Grove, khách có thể lái xe (drive- thru) mua bánh mì. Điều
quan trọng bậc nhất của các tiệm bánh mì thịt kiểu Saigon ở Mỹ là phải
làm sao cho các loại thịt, đồ chua à giữ được trong vòng 3 tiếng đồng
hồ, theo đúng luật quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm.
… Dừng chân trên phố một chút nhé em
Anh vào Lee kiếm ổ bánh mì thịt nguội Phong phanh ở đây, nghe nhiều chuyện lạ Gã giàu ngút trời hình như lobby êm ả à muốn giàu thÊm Đấm mặc bọn chúng cho quen Bởi mình sẽ không bao giờ hết một niềm tin Nhưng triết lý cuộc đời hình như bắt nguồn từ ngu ngốc Hừm …! Ổ bánh mì anh đã dặn cho nhiều ớt Môi khô cằn mà chưa thấy vị nồng cay Caphesuotngay Một
di sản tinh thần lớn mà người Việt tỵ nạn ra đi mang theo là ngày Tết
VN. Hàng năm, dù sống ở bất cứ nơi nào, hễ năm cũ (ta) hết, là chúng ta
chuẩn bị đón mừng năm mới, tạo chút hương vị Tết trong gia đình, để nhớ
lại những ngày xuân ngày xưa ở quê nhà. Chúng ta cũng dọn dẹp nhà cửa,
sắm sửa vài chậu cúc đại đóa, địa lan... một hai cành đào, bánh chưng,
bánh tét, mứt, trái cây... bày bàn thờ, làm mâm cơm cúng gia tiên. Ở
Little Saigon còn có hội chợ Tết, có múa lân, có đốt pháo. Nhưng mấy
ngày đầu năm âm lịch, dù rơi vào ngày nào trong tuần, hội Tết cũng phải
tổ chức vào ngày cuối tuần, để thuận tiện cho mọi người, mọi giới.
Sống ở
các quốc gia trên thế giới, người Việt cũng tham gia tổ chức và ăn mừng
các ngày lễ Tết của các quốc gia đó. Sống trên quê hương thứ hai của
mình, chúng ta có những quyền lợi, những trách nhiệm, những vấn đề để
suy nghĩ và chia xẻ với người bản xứ... Chúng ta dần dần hội nhập vào
một nền văn hóa mới, bên cạnh nền văn hóa cổ truyền VN của mình.
Người
Âu Mỹ có danh từ” Sandwiches Generation “ để chỉ thế hệ vừa phải nuôi
con nhỏ, vừa phải chăm sóc cho cha mẹ già. Danh từ này chúng ta tạm dịch
là “ Thế hệ bánh mì kẹp “.Người Âu Mỹ bị kẹp kiểu bánh sandwich, vấn đề
vất vả với việc nuôi dạy con nhỏ và giúp đỡ cha mẹ già cùng một lúc
phần lớn là nhu cầu tài chánh - Chúng ta là thế hệ người Việt thứ nhất
định cư ở quê hương thứ hai của mình, chúng ta vẫn là người Việt, vẫn
thích nghe nhạc Việt, vẫn hàng ngày ăn món Việt là cơm, phở, bún, bánh
mì Tây nhân thịt kiểu Saigon... Ở lứa tuổi 40, 50 và cả 60, chúng ta trở
thành một thế hệ bánh mì kẹp, không phải bằng bánh sandwich, mà bằng
bánh mì Tây kiểu Saigon, nên chúng ta
có thêm nhiều vấn đề khác: Chúng ta bị kẹp giữa hai quê hương, giữa hai
nền văn hóa Đông và Tây. Đọc đoạn văn sau đây của tác giả Yên Hà (Trần
Phú), chúng ta mới càng thấm thía hơn:
Vướng
mắc giữa hai quê hương, giữa hai nền văn hóa, giữa hai thế hệ, chúng
tôi là một thế hệ “bánh mì kẹp” (đôi khi còn là“bánh bao” nữa). Ngoảnh
nhìn lại chỉ còn kỷ niệm, nhìn về đàng trước thì tương lai đã bít kín.
Nhưng thôi, đã biết là mình vướng mắc,là mình “chấp ngã” (như lời Phật
dậy) thì chỉ còn có nước “phá chấp,” nghĩa là “buông,” là chấp nhận.
Vả
lại, cha mẹ chúng tôi không có vấn đề này, con cháu chúng tôi không có
vấn đề này, chỉ có chúng tôi mới có vấn đề này. Ngày nào cái thế hệ
chúng tôi đi hết rồi thì vấn đề này sẽ không còn ai bàn đến nữa. Chúng
tôi chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp, một thế hệ bị mất mát, bị hy sinh
để dân tộc di dân chúng tôi có thể lật qua một trang sử mới. Để đời sau,
con cháu chúng tôi có hy vọng thành công trên đất người, đi tiếp con
đường mà chúng tôi đã không đi hết. Được như vậy, chúng tôi cũng sẽ mãn
nguyện lắm rồi. Xin cảm ơn Trời Phật, xin cảm ơn phúc đức ông bà “.
Xuân Phương
http://vanhoaviet.us/banh-mi-sai-gon.html * Bánh mì Canada- Bánh mì Saigon - Dương Quang Bổn - webphutho74.com Mỹ tho và những lò bánh mì xưa - Hoàng Đức - web vntiengiang.com Gặm bánh mì ở Saigon - Phạm Công Luận - web bepgiadinh. Com Bánh mì 2008 ở Saigon - Nguyễn thị Hàm Anh - web hoanghaithuy. wordpress. com Bánh mì Saigon: Muôn thuở như tình yêu ban đầu - Trần Nhã Thụy - web ngoinhaamthuc.vn Bánh mì tàu ngầm Saigon nức tiếng thế giới - Ngữ Yên - web vietnamnet. Vn Bánh mì xưa và nay - Trần Văn Chi - forums. chotnho.com Bánh mì: Món ăn truyền thống của người Việt khắp nơi - web viendongaily. com Thế hệ bánh mì kẹp - Yên Hà - web nguoiviet.com Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 05/Mar/2013 lúc 10:44pm |
|||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 08/Mar/2013 lúc 8:23pm | ||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 12/Mar/2013 lúc 10:00pm | ||||||||
1/ HÌNH ẢNH XƯA SƯU TẦM CÔNG PHU ! ------------ 2/ HÒA TẤU GUITAR HAY NHẤT THẾ GIỚI 01 ------------------------ 3/ 50 bản nhạc không lời được xếp dạng kinh điển mọi thời đại..... Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 12/Mar/2013 lúc 10:12pm |
|||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 10/May/2013 lúc 5:08am | ||||||||
ĐÊM SAIGON NGỌC NGÀ DĨ VÃNGMột thời để nhớ
Hồi xửa hồi xưa… có một Sàigòn
người ta gọi cà phê là “cà phe”, đi uống cà phê là đi uống “cà phe” với
giọng điệu rất là ngộ nghĩnh. .Tiếng Tây gọi cà phê là Café, tiếng Anh
là Coffee nhưng mấy xì thẩu Chợ Lớn thì gọi là “cá phé”. Vậy thì café,
coffee, cà phê, cà phe hay là cá phé muốn gọi sao thì gọi nhưng ai cũng
hiểu đó là món thức uống màu đen có hương vị thơm ngon, uống vào có thể
tỉnh người nếu uống quá đậm có thể thức ba ngày không nhắm mắt. . . .TRỞ VỀ THẬP KỶ 50 : CÀ PHÊ VỚ
Năm một ngàn chín trăm… hồi đó người Sàigòn chưa ai biết kinh doanh với
nghề bán cà phê cả. “Xếp sòng” của ngành kinh doanh… có khói này là do
các xếnh xáng A Hoành. A Coón. chú Xường, chú Cảo… chủ các tiệm hủ tíu,
bánh bao, há cảo, xíu mại. Vô bất cứ tiệm hủ tíu nào vào buổi sáng cũng
có bán món cá phé, cà phê, cà phe đi kèm để khách có thể ngồi đó hàng
giờ nhăm nhi bàn chuyện trên trời dưới đất.
Hồi đó chẳng ai biết món cà phê phin là gì đâu ? Các chú Xường, chú
Cảo, A Xứng, A Hía chỉ pha độc một loại cà phê vớ. Một chiếc túi vải
hình phểu được may cặp với một cọng kẻm làm vành túi và cán. Cà phê bột
đổ vào túi vải (gọi là bít tất, hay vớ đều được). Vì chiếc vợt cà phê
nầy hơi giống như chiếc vớ dùng để mang giày nên “dân chơi” gọi đại là
cà phê vớ cho vui. Chiếc vớ chứa cà phê này sau đó được nhúng vào siêu
nước đang sôi, lấy đũa khuấy khuấy vài dạo xong đậy nắp siêu lại rồi…
kho” độ năm mười phút mới có thể rót ra ly mang ra cho khách. Chính cái
“quy trình” pha chế thủ công đầy phong cách Tàu này mà dân ghiền cà phê
còn gọi nó là cà phê kho bởi chỉ ngon lúc mới vừa “kho nước đầu”. Nếu ai
đến
chậm bị kho một hồi cà phê sẽ đắng như thuốc Bắc. Có mấy khu vực có
những con đường qui tụ rất nhiều tiệm cà phê hủ tíu. Ở Chợ Cũ có đường
MacMahon (đọc là đường Mạc Má Hồng, nay là đường Nguyễn Công Trứ) có rất
nhiều tiệm cà phê kho từ sáng đến khuya. Khu Verdun – Chợ Đuổi cũng
đáng nể bởi cà phê cà pháo huyên náo suốt ngày. Ở bùng binh Ngã Bảy (góc
Điện Biên Phủ và Lê Hồng Phong bây giờ) có một tiệm cà phê hủ tíu đỏ
lửa từ 4giờ sáng cho đến tận 12 giờ đêm..
Còn nếu ai đi lạc vào khu Chợ lớn còn “đã” hơn nhiều bởi giữa khuya
vẫn còn có thể ngồi nhăm nhi cà phê, bánh bao, bánh tiêu, dò-chả-quải
đến tận sáng hôm sau. .Trang trí chung của các tiệm cà phê hủ tíu tàu
Sách phong thủy Tàu thường khuyên không nên cất nhà ở ngã ba, ngã tư
đường vì dễ bị nạn xui xẻo nhưng các chú Xường, chú Hía. A Hoành. A
Koón…. thì đều chọn các nơi này làm chỗ kinh doanh. Tuy Sàigòn, Chợ lớn,
Gia Định. Phú Nhuận, Đa Kao hàng trăm tiệm cà phê hủ tíu Tàu nhưng nhìn
chung chúng đều có một “mô-típ – made in China” khá giống nhau tức là
quán nào ở phía trước cửa cũng có một xe nấu hủ tíu được làm bằng gỗ
thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên của xe được trang trí bằng những tấm
kính tráng thủy vẽ những nhân vật Quan Công, Lưu Bị, Triệu Tử Long,
Trương Phi trong truyện Tam Quốc Chí khá vui mắt. Bên trong quán hoặc
xếp bàn tròn hoặc vuông. Khách vừa vào trong gọi “cá phé”, song mấy tay
phổ ky vẫn bưng ra một mâm nào bánh bao, xíu mại, há cảo, dà chá quải
đặt trên bàn. Khách dùng hay không cũng chẳng sao “pà – con – mà !”
Uống cà phê phải biết cách Như đã nói ớ trên, hồi đó không
có cà phê ta mà chỉ có cà phê Tàu. Vì thế uống cà phê Tàu phải có một
phong cách riêng. Cà phê được mang ra dân “sành điệu”, hồi đó ngồi chân
dưới chân trên, sau khi khuấy nhẹ cho tan đường bèn đổ ly cà phê ra cái
đĩa đặt phía dưới. Chưa uống vội, khách chậm rãi mồi điếu thuốc rít vài
hơi để chờ cà phê nguội. Ông Sáu “trường đua” nay đã 80 kể rằng hồi ông
còn là một chú nhóc nài ngựa ở trường đua Phú Thọ ông cũng uống cà phê
theo phong cách này, tức uống bằng đĩa chớ không uống bằng ly. Bàn tay
phải nhón lấy cái đĩa đưa lên miệng và húp sì sụp: “Uống vậy mới khoái,
mới đúng kiểu của dân từng trải “, ông Sáu “trường đua” nói với
vẻ tự hào. Ông còn kể cho tôi nghe chuyện ông từng ăn mảnh ở mấy tiệm
hủ tíu bánh bao hồi năm sáu chục năm về trước với giọng khoái trá : “Hồi
đó tao làm nài ngựa. Hôm nào ngựa thắng độ thì nài được chủ ngựa thưởng
cho bộn tiền. Hôm nào ngựa thua thì coi như đói. Không sao, 73 gần
trường đua có một tiệm hủ tíu cà phê. Vào búng tay chóc chóc gọi cà phê.
Cứ cho mấy thằng phổ-ky mang bánh bao xíu mại ra bày trên bàn. Đợi đến
khi nó mang cà phê ra rồi bỏ chạy sang bàn khác thì nhanh tay gở miếng
giấy phía dưới cái bánh bao ra và khoắng ngay cái nhân phía trong tọng
vào miệng rồi đậy bánh lại như cũ. Thế là chỉ tốn ly cà phê vài xu mà đã
có cái nhân bánh bao to đùng ngon lành trong bụng rồi”. Theo ông Sáu
“trường đua” thì các chủ
tiệm cà phê hủ tíu hồi đó rất chìu khách. Sì sụp húp cà phê bằng đĩa
xong muốn ngồi bao lâu cứ ngồi, hết trà con hô lên “xà lẵm” là có người
mang ra bình trà mới, uống chừng nào chán thì đi. Khi được hỏi tại sao
dân “sành điệu lại không uống bằng ly mà đi húp cà phê bằng đĩa, ông Sáu
“trường đua” lắc đầu nói không biết chỉ biết dân “sành điệư” chơi vậy
mình cũng bắt chước chơi vậy thôi vậy mới là. . . sành điệu !
CÀ PHÊ PHIN Dòng cà phê… với cà phê kho lững lờ trôi như thế
hằng thế kỷ của thiên kỷ trước là như thế, cứ vào tiệm hủ tíu mà uống
cà phê đổ ra đĩa rồi sì sụp húp thì được xem như đó là phong cách của
dân chơi sành điệu.
Một người tên ông Chín “cù lủ” một tay bạc bịp nay đã hoàn lương
cho rằng dân cờ bạc, dân giang hồ hồi đó chẳng đời nào bưng ly mà uống
như ngày nay. Kẻ ngồi nghiêm túc, nâng ly lên uống như uống rượu bị các
đàn anh “húp” đĩa xem khinh bằng nửa con mắt, coi như hạng… “bột” lục
hục thường tình không đáng kết giao. Nhưng rồi cái quan điểm húp cà phê
trên đĩa mới … “sang” cũng đến lúc phải lụi tàn, vì bị chê là kiểu uống
bẩn, uống thô vụng khi trào lưu cái phin “filtre” bắt đầu xuất hiện và
đã làm biến dạng cái kiểu uống cà phê trong tiệm hủ tíu. Vào thập niên
60 Nhà hàng Kim Sơn (nằm trên góc Lê Lợi-Nguyễn Trung Trực) mở cú đột
phá ngoạn mục bằng cách bày bàn ghế ra hàng hiên dành cho các văn nghệ
sĩ
trẻ chiều chiều ra đó bàn chuyện.văn chương và. . . rửa con mắt. Hồi đó
cà phê Kim Sơn chỉ có một đồng một cốc bằng giá vé xe buýt dành cho học
sinh. Mặc dù chủ quán Kim Sơn lúc đó vẫn là người Hoa nhưng đã tiếp thu
phong cách cà phê hè phố của dân Paris (Pháp). Theo lý thuyết, những
giờ uống cà phê là những giờ thư giản hoàn toàn vừa nhăm nhi từng ngụm
nhỏ cà phê đặc sánh vừa ngắm quang cảnh sôi động đông vui của đường phố.
Thuở ấy con đường Lê Lợi vẫn còn những hàng me. Vào những ngày me thay
lá, dưới ánh nắng chiều phớt nhẹ, lá me vàng khô rơi tản mạn như hoa
“com-phét-ti” lấp lánh làm cho đường phố trở nên… “mộng mị” và thơ… Kim
Sơn biết tận dụng ưu thế chiếm lĩnh một góc ngã tư, tầm nhìn rộng bao
quát
để khai thác dịch vụ cà phê hè phố. Cái phin đã trở nên quen thuộc, cao
cấp hơn cái vợt cái vớ của cà phê kho trên cái siêu đất “phản cảm” xưa.
Thời điểm này những nhà văn, nhà báo. các nhà doanh nghiệp tên tuổi
cũng có những quán cà phê sang trọng xứng tầm với địa vị của họ. Những
La Pagode, Brodard, Givral, Continental là nơi gặp gỡ giao lưu cửa giới
thượng lưu Sàigòn.CÀ PHÊ TÂY Cà phê La Pagode khách không ngồi
ghế sắt ghê gỗ mà ngồi trên những salon bọc da để phóng tầm mắt nhìn ra
con đường Catinat (nay là Đồng khởi) con đường đẹp và sang nhất của
Sàigòn. Cách La Pagode độ trăm mét Nhà hàng Continental cùng mở một
không gian cà phê sang trọng ,đúng phong cách “Phăng-se”. Đối diện
Continental là tiệm cà phê Givral nơi nổi tiếng với những món bánh ngọt
tuyệt hảo. Tiệm tràn ngập ánh sáng bởi những khung cửa kính nhìn ra Nhà
Hát Lớn (nay là Nhà Hát TP) với một bầu
trời khoáng đãng. Những nhà báo, văn nghệ sĩ thường ghé đây uống cà phê
trước khi tỏa đi khắp nơi cho công việc riêng của họ. Còn một quán cà
phê với một phong cách phương Tây như bàn ghế trang trí nội thất sang
trọng cũng nằm trên con đường này là quán cà phê Brodard. Với một phong
cách cũng gần giống với La Pagode, không gian Brodard yên tĩnh, ánh sáng
thật nhạt để khách có thế thả hồn êm ả bên tách cà phê nóng hổi quyện
hương thơm. Có thể nói từ giai đoạn này người Việt Nam ở Sàigòn “thức
tĩnh” trước thị trường buôn bán cà phê mà từ lâu họ đã bỏ bê và đã để
cho các chú Hoành, chú Koón, chú Xường… tự do khai thác. Khi qua tay
người Việt quán cà phê không còn luộm thuộm những cái “đuôi” mì, hủ tíu,
hoành thánh, xíu
mại, há cảo, bánh bao ... nữa mà nó thuần túy chi có cà phê nhưng được
chăm chút một cách tỉ mỉ hơn, biết tạo ra một không gian tao nhã hơn,
thu hút hơn…
CAFÉTÉRIA CA NHẠC Để gần gũi hơn, thu hút khách hơn và cũng
mang tính giải trí hơn, một số nơi đã ổ chức hình thức phòng trà ca nhạc
theo dạng Cafétéria. Cafétéria rộng thoáng hơn những “Tháp ngà” La
Pagode, Brodard, Givral, Continental… nơi đây không phải chỗ để trầm tư,
bàn luận chuyện đời mà hoàn toàn là chỗ vui chơi giải trí. Trên đường
Bùi Viện đầu những năm 60 mọc ra một cái quán với tên là Phòng trà Anh
Vũ. Tuy là phòng trà nhưng có thiết kế một sân khấu nhỏ vừa cho một ban
nhạc bỏ túi đệm đàn cho những ca sĩ tiếng tăm được mời đến trình diễn
như Bạch Yến, Mai Hương, Duy Trác, Cao Thái… Lúc đó phòng trà Anh Vũ là
điểm hẹn của nhiều người dân Sàigòn cũng như những văn nghệ sĩ sinh sống
tại đây. Con
đường chật hẹp Bùi Viện bỗng đêm đêm sáng lên rực rỡ ánh đèn Anh Vũ,
người xe tấp nập đông vui. Một Cafétéria khác theo cách của Anh Vũ cũng
đã mọc lên bên cạnh rạp Ciné Việt Long (trên đường Cao Thắng) với tên
Phòng trà Đức Quỳnh.
Ca sĩ kiêm nhạc sĩ tóc dài Đức Quỳnh là chủ nhân của cái Cafétéria
này. Đức Quỳnh với cây Piano và giọng ca trầm ấm của ông và những ca sĩ
Minh Hiếu – Thanh Thúy, Phương Dung đã thu hút một số đông người yêu
nhạc đêm đêm đến đây vừa giải khát vừa giải trí một cách tao nhã. Rồi
tiếp theo là Cafétéria Jo Marcel, trên đường Hai Bà Trưng, Đêm Màu Hồng
trên đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi) thi nhau mọc lên đầy “Nền văn
hóa ẩm thực” cà phê lên một tầm cao hơn, tức vừa uống cà phê vừa được
thưởng thức những ca khúc do các ca sĩ, nhạc sĩ có tiếng trình bày. Một
Phòng trà ca nhạc khác cũng khó quên chính là phòng trà Bồng Lai nằm
trên sân thượng của Nhà hàng Kim Sơn mở cửa hàng đêm từ 9 giờ tối. Ở đây
khách
thường xuyên được nghe giọng ca vàng đương thời, ấy là ca sĩ Anh Tuyết
với bài hát “Ánh đèn màu”. Cũng như ca sĩ Cao Thái nổi tiếng với bài
“Mexico” , ca sĩ Ánh Tuyết mỗi lần trình diễn “Ánh đèn màu” là bà hát
với những dòng nước mắt. Nội dung ca khúc là nói về tâm trạng của người
nghệ sĩ là ca hát để người mua vui để rồi khi ánh đèn màu tắt người nghệ
sĩ lại một mình giữa cô đơn…
Có lẽ do cái nội dung u buồn ấy đụng chạm vào nỗi lòng của bà nên
bà rất ít khi chịu hát nhạc phẩm ấy. Nhưng hầu như đêm nào cũng có người
yêu cầu, trừ những người thân quen bắt buộc phải đáp ứng còn thì Ánh
Tuyết xin lỗi từ chối khéo.LẠI QUAY VỀ CÀ PHÊ VỚ ĐÔNG VUI Những
quán cốc che tạm tấm bạt bên lề đường với những chiếc ghế gỗ lùn làm chỗ
tụ họp của các thanh niên vui đón những ngày hạnh phúc mới. Vòng quanh
Hồ con Rùa, xuống đến Phạm Ngọc Thạch, quẹo qua Nguyễn Đình Chiểu có
hàng mấy chục “túp lều” cà phê như thế mọc lên san sát bên nhau. Chỉ có
ai ở tuổi thanh niên vào thời điểm lịch sử có một không hai đó mới thấy
được cái thú ngồi quán cà phê bụi lụp xụp mà hầu như
đường nào cũng có. Có người còn có thuốc Ruby, Con Mèo để phì phà bên
ly cà phê vớ nhưng để phiêu bồng hơn một số lớn thanh niên chơi… “bốc –
lăn – se” tức thuốc vấn. Anh nào cũng thu sẵn một bọc trong túi xách để
sẵn sàng bày ra cho bạn bè tha hồ vừa bốc vừa lăn vừa se vừa liếm vừa
dán rồi phì phèo nhả khói. Cà phê quán cóc (nhảy nay chỗ nay mai chỗ
khác như cóc nhảy ấy mà) thời ấy được coi như thời huy hoàng lãng mạn
nhất của nền… văn hóa ẩm thực cà phê cóc Sàigòn.
Ban ngày đã rộn ràng như thế đến đêm bên những ngọn đèn dầu lù mù
loanh quanh những con đường trong thành phố cũng có những quán cóc để
dân mê cà phê, mê hòa bình được tận hưởng những giờ phút, sảng khoái,
thanh bình, yên ả nhất của đời mình.SÀIGÒN DĨ VÃNG VÀ SÀIGÒN BOLSA
Sàigòn một thuở là Hòn ngọc Viễn Đông, một Paris lấp lánh khắp cõi Châu
Á, tới hôm nay, lại mang một cái tên khác lạ, chẳng đẹp đẽ chi, nếu
không muốn nói là vô nghĩa. Bởi thế nên người ta vẫn gọi tên cũ chính
danh là Sàigòn. Một thành phố mãi mãi vẫn mang tên là Sàigòn. Sàigòn của
muôn đời. Sàigòn trong trái tim người đang sống ở thành phố đó hay lưu
lạc khắp năm châu thế giới.. Người Sàigòn không nhất thiết phải sinh ra
tại đó,
có bao nhiêu đời Ông Bà Cha Mẹ từng lập nghiệp lâu năm bền vững. Một
người, bất cứ ai, cũng có thể nhận chính mình là dân Sàigòn, dù chỉ ở
đây một ngày, một tuần hay một tháng, một năm. Chỉ sống một ngày ở
Sàigòn, nhưng yêu Sàigòn mãi mãi, và mang Sàigòn ở trong tim, như một
phần của thân xác, linh hồn mình. Chỉ như vậy thôi, người ta có thể
ngẩng cao đầu, tự hào vỗ ngực tuyên xưng, tôi chính là dân Sài gòn. Tóm
lại, Sàigòn là của tất cả mọi người suốt giải giang sơn, từ Bắc qua
Trung tới Nam. Sàigòn như một hiền mẫu, giang vòng tay ôm thương yêu
quảng đại tới con người tứ xứ, không phân biệt Bắc, Trung, Nam và ngay
cả người ngoại quốc nữa. Một người Pháp sinh ra ở Paris, bỗng dưng một
hôm tuyên bố, từ nay tôi không
còn là một Parisien, cư dân ở Paris nữa. Tôi là người Sàigòn và sẽ ở
lại đây cho tới cuối đời. Thế là dân Sàigòn bèn gọi chàng Tây là anh
Hai, hoặc anh Tư gì đó. Tinh thần người Sàigòn là như vậy đó, thiệt là
cởi mở và phóng khoáng.
Một nhạc sỹ sáng tác nhạc gửi : “Sàigòn ơi ! Ta hứa rằng ta sẽ trở
về” . Rồi chàng cũng đã trở về thật, sau hơn chục năm xa cách. Nhưng
chàng khám phá ra mình thực sự mất Sàigòn trong thực tại. Thế nên, nếu
có sự trở lại, thì chỉ còn một hành hương về Sàigòn trong quá khứ với
ngọc ngà dĩ vãng..
Hãy cùng trở về Sàigòn từ một ký ức xa tắp mù khơi. Sàigòn của
những thập niên 1950 từ hơn nửa thế kỷ trước. Sàigòn với các hộp đêm,
sòng bài Đại Thế Giới, Chợ Lớn, một Las Vegas thu nhỏ. Tại đây có đủ
loại sòng bài và cách chơi khác nhau, lại có chỗ giải trí như xe nhỏ
chạy bằng điện húc nhau đùa rỡn, hiện nay Las Vegas vẫn còn trò chơi
này. Khu văn nghệ khác như phòng trà vũ trường. Con đường Trần Hưng Đạo
Galliéni, Đồng Khánh chạy dài từ Sàigòn tới Chợ Lớn dài vun vút dẫn
khách tới sòng bài, lưu thông hàng ngàn chiếc xe hơi nối đuôi nhau, đèn
pha sáng chói, chẳng khác gì đại lộ Champs Elyseé tại Paris.
Đường Richaud Phan Đình Phùng quả thật văn nghệ với quán cà phê Gió Nam nỗi tiếng vì cô hàng café tuyệt sắc giai nhân. Nàng có nước da trắng xanh liêu trai với mái tóc thề ngây thơ nữ sinh. Nhân vật đã đi vào truyện Duyên Anh, qua bao chàng trai say đắm, tranh đua nàng, từ trí thức đến du đãng yên hùng. Cũng tại đường Phan Đình Phùng với quán phở Con Gà sống thiến cùng hai kiều nữ con chủ quán, nổi danh tài sắc. Yến Vỹ cùng chị, cả hai để mái tóc bồng rối như minh tinh Brigitte Bardot. Bao thực khách đến chẳng phải phở ngon, nhưng vì Yến Vỹ đẹp lại hát hay. Thì ra ngoài quán café, nhà hàng phở giai nhân cũng khiến một chàng Cử Văn Khoa phải vào nhà thương điên vì tình si. Phan Đình Phùng còn thêm café quán Luật Khoa và cơm gà Xing Xing, với những giai nhân lai Pháp, càng làm thêm Sàigòn có một chút Paris. Sàigòn by night đã là những phòng trà ca nhạc và vũ trường khiến
màn đêm Thành Đô trở nên lung linh ảo huyền, như một ngàn lẻ đêm huyền
thoại. Nổi bật nhất từ cuối thập niên 50 là phòng trà ca nhạc Anh Vũ.
Nơi đây khởi đi cho nhiều danh ca sau này. Thanh Thúy ở tuổi mượt mà
thanh xuân đôi tám đã hát từ Anh Vũ, làm mê say bao tao nhân mặc khách.
Người ta mê Thanh Thúy vì có lối trình diễn độc đáo bên giọng ca trầm
buồn. Thanh Thúy vừa hát vừa đưa tay vuốt làn tóc buông rơi, sau đó gây
chú ý là tự vuốt đôi chân ngọc tuổi dậy thì, có lúc nàng lại vưốt cây
micro nữa, khiến các chàng trai sởn da gà vì sốt nóng lạnh. Ban CBC thuở
Anh Vũ đã là ban nhạc kích động nhỏ nhất thế giới, với tuổi khoảng sáu,
bảy mà thôi. Thảm kịch cũng xảy ra
cho phòng trà Kim Điệp Sàigòn, khi một chàng Tây lai bị giết. vì dám
cặp kè với người đẹp Tuyết Không Quân. Tuyết là một giai nhân nổi tiếng
sát phu qua hai đời chồng bị tử nạn trong chiến tranh. Phòng trà Kim
Điệp sau vụ ấu đả vì ghen tuông. bị đóng cửa để trở thành Nhà sách. Quán
café trà thất đẹp nhất Sàigòn phải kể là Quán Gió, sau thành “Hầm Gió”,
thiết trí sâu dưới đất, như một hầm rượu bên Âu châu. Người đẹp ngồi
cash, bên một thùng rượu làm thành cái bàn khá ngoạn mục. Ca sỹ Thanh
Lan thường có buổi trình diễn tại đây . Chính những phòng trà đêm Sàigòn
đã đưa nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn lên đỉnh cao. Nhiều ca khúc
phản chiến cấm hát ở Đài phát thanh nhưng tại phòng trà thì vẫn được
trình diễn
tự do. Vũ trường, phòng trà Sàigòn còn ghi lại một thiên tình sử đẫm
lệ, khi nữ ca sỹ Diệu Anh kiều diễm hát hay, đã tự tử vì… bị một nam ca
sỹ bỏ rơi. Chàng trai bạc tình sau đó vì buồn và hối hận đã bỏ hát vài
năm. Đêm Sàigòn trà thất vũ trường còn ghi đậm cây si thường xuyên Mai
Thảo và Hồng Dương, để viết thêm những tình sử lâm ly với hai nữ danh ca
khác. Đêm Sàigòn bạc vàng, bạc triệu với Lệ Thu và Khánh Ly, những
tiếng hát vàng ròng cả nghĩa trắng lẫn nghĩa đen, vì lương tháng hai nữ
danh ca này lên tới một triệu.
Trong khi đó, lương một Đốc sự, Phó Quận trưởng tới năm 1975 chỉ có
33 ngàn đồng một tháng. Vũ trường thơ mộng nhất Sàigòn là Mỹ Phụng ngay
tại bến Bạch Đằng. Thuở đó cuối thập niên 50 đầu 60, người ta thích đi
Mỹ Phụng vì ban đêm có gió sông Sàigòn mát dịu lại thêm nữ danh ca Lệ
Thanh. Nàng chuyên hát những tinh khúc ướt át, trong điệu slow tắt đèn,
mờ ảo như “Dang dở ” “Nỗi Lòng”. Tiếng hát mê đắm Lệ Thanh đã thu hồn
một Bác Sỹ trở thành phu quân của nàng. Đêm Sàigòn ngọc ngà dĩ vãng
khiến người ta khó quên được vì những dạ vũ Bal Famille có khi kéo dài
từ đêm suốt sáng. Ai có ngờ cô bé Mai đen 16 tuổi, thường đi với bé Phú,
sau này lại trở thành ca sỹ Khánh Ly nổi danh cho tới nay. Phú mệnh
danh là Phú chuột,
trắng trẻo, mũm mĩm xinh như thỏ con, thường nhảy cùng Mai với đám bạn
trai. Mai nhảy có khi bỏ cả giày cao gót giữa đêm vui đã gần rạng sáng.
Thuở ấy, người đi dạ vũ phải trầm trồ khen ngợi tài nhảy của Tony Khánh,
thường nhảy cặp với vợ. Mỗi lần Khánh cùng phu nhân ra sàn nhảy, mọi
người đều ngừng khiêu vũ để thưởng thức tài nghệ bậc sư biểu diễn. Sau
đó là pháo tay nổ ròn như ngày Tết. Hòn ngọc Viễn Đông Sàigòn từ thập
niên 50 nay đã trên nửa thế kỷ, Sàigòn đổi tên và Sàigòn ngọc nát châu
chìm. Những cột đèn tuy không biết đi, nhưng đã chắp cánh bay xa, thành
bao nhiêu Little Sàigòn rải rác khắp hải ngoại.
Và dân Sàigòn năm xưa, những chàng trai hào hoa phong nhã, bao giai
nhân ca sỹ lừng danh, nay đã thất thập cổ lai hy, hay gần mấp mé tuổi
hạc. Thế nhưng trái tim chằng bao giờ già. Bởi vậy nói như Thi sỹ Thanh
Tâm Tuyền ta gọi tên ta, Sàigòn cho đỡ nhớ. Hỡi những Đêm Mầu Hồng,
Queen Bee, Arc En Ciel, Mỹ Phụng, Tự Do… Những đêm vui thắp sáng kỷ
niệm, những ngày xuân mãi mãi xanh tươi, để làm thành một Thủ Đô Sàigòn
bất tử, ta yêu lắm và yêu mãi mãi. Sàigòn trong lời nhạc của Ngô Thụy
Miên, thì dù Em của ta có đi khắp thế giới Paris, Vienne, cũng chẳng thể
tìm đâu đẹp hơn Sàigòn của ta ngày hôm qua dĩ vãng cũng như Sàigòn mai
sau, khi hết Cộng sản. Bây giờ tuy chưa có Sàigòn mai sau, nhưng ta tạm
có Little Sài gon Bolsa tại Nam Cali, Thủ đô
tỵ nạn của người Việt hải ngoại – chỉ tại Little Sàigòn mới giống
Sàigòn năm xưa được. Sàigòn Bolsa mùa xuân pháo nổ tưng bừng qua phố
phường Westminster, Bolsa, Brookhurst, Euclid… trong khi ấy nay Sàigòn ở
Việt Nam làm sao có pháo ?
Tâm Triều |
|||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 30/May/2013 lúc 11:11am | ||||||||
Rạp Casino Đa Kao, sau năm 75 đổi tên thành rạp Cầu Bông. Hình có lẽ chụp vào thập niên 60. Rạp Cao Đồng Hưng Rạp Casino Sài Gòn và afiche của một bộ phim kiếm hiệp. Mặt tiền của rạp REX, khánh thành năm 1962 và là rạp chiếu phim hiện đại nhất Đông Nam Á vào thời điểm đó. Góc bên phải hình chụp này chính là rạp EDEN, một trong những rạp cinéma có thâm niên lâu nhất. Rạp EDEN hoạt động từ thời pháp thuộc cho đến tận năm 1975. Rạp REX chụp vào ban ngày, thời điểm đang công chiếu phim: James Bond chống lại Dr. NO. |
|||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 29/Jul/2013 lúc 9:49pm | ||||||||
Cuộc sống và nghệ thuật
Thứ tư
|
24/07/2013 00:43 Hãng tin NBC Mỹ: Một lần cắt tóc vỉa hè ở Việt Nam có giá vài đôlaTheo NBC, giá một lần cắt tóc vỉa hè Hà Nội dao động dưới 60.000 VND, tùy thuộc vào tên tuổi của thợ cắt và bạn là khách lạ hay khách quen.Bác
Thuận, một thợ cắt tóc vỉa hè trên phố Hà Nội, 78 tuổi, rít một hơi
thuốc trong khi đợi khách đến cắt tóc. Ảnh chụp ngày 20/7, dọc đường phố
Hà Nội. Bác Thuận làm nghề cắt tóc vỉa hè hơn 30 năm qua, sau khi xuất
ngũ. Ảnh của nhiếp ảnh gia Chris McGrath / Getty Images. Đầu tuần này, hãng tin NBC của Mỹ mới đăng tải chùm ảnh về những người thợ cắt tóc vỉa hè Hà Nội, đi kèm chú thích rằng cả thợ cắt tóc già lẫn trẻ Hà Nội đều sẽ tiếp tục truyền thống làm nghề này. Nghề làm thợ cắt tóc/thợ cạo vỉa hè ở Hà Nội có nguồn gốc từ thế kỉ 18. Trung bình một lần cắt tóc vỉa hè có giá từ 15.000 VND đến 60.000 VND. Giá cả dao động còn phụ thuộc vào ông thợ cắt có nổi danh hay không hoặc anh là khách quen hay khách lạ. Đa phần thợ cắt tóc vỉa hè là cựu quân nhân, nghỉ hưu nhưng làm thợ cạo để bản thân họ "luôn chân luôn tay" hoặc để kiếm thêm tiền hỗ trợ gia đình. Một
thợ cắt tóc vỉa hè 22 tuổi, tên Quân, chụp ảnh khi đang đợi khách tại
tiệm cắt tóc vỉa hè của mình. Ảnh chụp ngày 20/7 tại Hà Nội. Quân làm
nghề này đã được 1 năm, sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
Chân dung anh Qúy, một thợ cắt tóc vỉa hè 34 tuổi. Ảnh chụp khi anh thợ
này đang đợi khách tại tiệm cắt tóc bên đường phố Hà Nội vào ngày 20/7.
Anh Quý làm nghề này đã được hơn 14 năm.
Giang, một thợ cắt tóc vỉa hè 29 tuổi. Sau khi nghỉ học, Giang chuyển
qua nghề cắt tóc vỉa hè. Tới nay, Giang đã có hơn 6 năm tuổi nghề. Ông Minh, 47 tuổi, đã làm thợ cắt tóc vỉa hè hơn 10 qua, sau khi bỏ việc tại một khách sạn. Ông Mận, 80 tuổi, đã có hơn 30 năm làm nghề thợ cắt tóc vỉa hè. Anh Tuấn, 33 tuổi, anh làm thợ cắt tóc vỉa hè Hà Nội đã được hơn 7 năm. Ông Toàn, 55 tuổi, đã làm nghề thợ cạo được hơn 30 năm. Ông Tuấn, 42 tuổi, là thợ cắt tóc vỉa hè trong khoảng 18 năm qua. Ông
Kiệm, 58 tuổi. Trước đây ông Kiệm là giáo viên. Ông đi làm thợ cắt tóc
vỉa hè sau khi nghỉ hưu, và mới trong nghề này được vài năm nay. Ông Vôi, 43 tuổi, là thợ cắt tóc trong khoảng hơn 20 năm qua. Ông bắt đầu làm thợ cắt tóc sau khi giải ngũ. Ông Khôi, 49 tuổi, làm nghề này đã được hơn 20 năm. |
|||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 01/Aug/2013 lúc 7:13pm | ||||||||
mk
|
|||||||||
IP Logged | |||||||||
<< phần trước Trang of 9 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |