Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Tâm Tình | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình |
Chủ đề: NIỀM TIN & HY VỌNG&GƯƠNG TỐT&CHIA SẼ | |
<< phần trước Trang of 141 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 26/Jun/2018 lúc 3:13pm |
CON CÒN NỢ BA“Tưởng nhớ ba tôi trong mùa báo hiếu từ phụ” Con biết ba sẽ cười hiền lành, mà bảo với con gái của mình rằng: - Con bé nầy nhiều chuyện và rườm rà quá đi… Bởi ở xứ mình cha mẹ hàng ngày chạy gạo cho cả nhà mở con mắt không lên… thì còn có tâm tình gì mà nghĩ đến ngày báo hiếu, báo ơn cha mẹ con ơi. Công ơn cha mẹ với bổn phận làm con không chỉ có ngày đó thôi đâu con à, mà nó suốt cả cuộc đời. Nhớ lúc đi tu nghiệp ở Mỹ, ba cũng biết ngày lễ báo hiếu từ mẫu hay từ phụ chớ. Bên dó, tới ngày lễ nếu con cái ở gần thì đưa cha mẹ đi ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều… ở xa thì mua gởi cho cái áo, cái khăn, hay gởi cho mấy chục đồng... nếu con cái khá có tiền thì được một trăm, hay nhiều hơn tùy hoàn cảnh gia đình của họ. Theo ba nghĩ thì công ơn cha mẹ sanh thành dưỡng dục như núi Thái, như đại dương vô bờ vô tận… chớ đâu chỉ có mấy ngày vậy thôi đâu con… Ba à, con sẽ vùi đầu vào ngực, ôm chầm lấy vai ba mà nhỏng nhẻo, mà nũng nịu và thỏ thẻ nói với ba rằng: - Ba ơi, theo con biết, mỗi năm xứ người có ngày
báo hiếu là để gợi nhớ, để hâm nóng, để nhắc nhở lòng tôn kính,
thương yêu, hiếu thảo của con đối với cha mẹ. Đó cũng còn tùy thuộc
vào tâm tình và hoàn cảnh của mỗi gia đình và mỗi người nữa ba. Còn
con thì ba đừng có lo nghe! Con nhớ thương và kính yêu ba dài dài,
nhớ đều đều, nhớ cho đến ngày lìa bỏ cõi đời nầy... trong lòng con
sẽ không hề lạt phai thương kính ba chút nào hết đó ba! Cho đến bây giờ thật sự tôi cũng chưa biết mẹ mình là ai? Có thể mẹ tôi đã qua đời rồi chăng? Cũng có thể vì hoàn cảnh nào đó bà không nhận con? Có thể, có thể, và có thể lắm… Bao nhiêu nguyên nhân khiến tôi nghĩ và đặt câu hỏi trong đầu? Nhưng từ nhỏ đến giờ tôi vẫn không có câu giải đáp! Vì chưa bao giờ tôi được gặp và biết mặt mẹ mình! Cho đến khi tôi biết đánh vần chữ “Mẹ, Má” và khi tôi biết nhận xét, khi tôi hiểu, khi tôi biết nghĩ suy, và biết tủi than... khi thấy và biết mọi người, mọi sinh vật cho đến cỏ cây hoa lá... sống trên thế gian nầy đều có mẹ! Bởi mẹ bỏ Nghĩa (tôi) cho nội, khi con bà chưa tròn 2 tuổi! Ngôi nhà cũ trống không của ông bà để lại, là di vật cuối cùng của gia đình cũng bị giặc tịch thu lấy làm chỗ hội họp cho đám thanh niên trong phường. Họ bảo đó là nhà của“Ngụy quân” cho nên bà cháu tôi bao nhiêu năm ở trong căn nhà đó, dù là chủ nhà và mọi thành viên đều có tên trong sổ gia đình, nhưng vẫn bị đuổi đi kinh tế mới! Trong khi cha tôi còn bị họ nhốt trong tù cải tạo, từ khi miền Nam rơi vào tay Việt cộng và nước Việt Nam hoàn toàn nhuộm đỏ trong chế độ Cộng sản. Bà nội già cả mà đùm túm cháu lang thang sống hẩm hiu lây lất bữa khoai, bữa cháo ở xó chợ, gầm cầu! Bởi bà cháu tôi giờ đây không còn nhà để ở nữa, bà già yếu lại bịnh tật liên miên nữa… Cho đến ngày giặc thả ba tôi về, ông bị bịnh phù thủng trầm kha không lao dịch được nữa. Tôi nghĩ vì thế nên chúng mới cho ba tôi về vì lý do đơn giản là: “...Ông ở trong cải tạo chỉ tốn phần ăn, chớ không có lợi lộc chi cả. Và nếu ông bị chết trong tù, thì chúng sẽ thêm một cái tội với thế nhân nữa, là: “Nhốt người vô tội, bịnh hoạn không thuốc men... và bị hành hạ đến chết…” Tội nghiệp ba của tôi, sau bao nhiêu năm bị đày
đọa trong tù ngục cải tạo. Thân thể ông đầy thương tật, yếu đuối,
gầy còm như cái xác biết đi! Khi được giặc thả về, ba của tôi đã mất
tất cả, cái gì cũng không có, chỉ có nhiều thứ bịnh! - Ông Trời có bất công không? Hay kiếp trước tôi đã gây nhiều oan khiên cay nghiệt nên bây giờ nhận lãnh bao nhiêu đau khổ buồn thương lần lượt chụp phủ xuống cha con tôi! Tội nghiệp con tôi còn nhỏ quá, xin cho tôi nhận lãnh tất cả mọi sự việc đã vay... Mong Ơn Trên linh thiêng giúp cho cháu có cuộc sống an ổn, cuộc sống thật sự của kiếp một con người bình thường trên cõi đời nầy… Khốn khổ chất chồng, và thương đau khóc mẹ, đôi mắt ba tôi đã bị mù lòa! Tội nghiệp ông tôi sống không bằng chết trong tăm tối, không được ánh sáng mặt trời chiếu rọi, cùng nỗi đau đớn xâu xé, Không còn lối thoát, ba tôi phải đi xin ăn! Đó là việc làm duy nhứt để kiếm sống cho hai cha con tôi... trong xấu hổ ngửa tay xin tiền, mong nhờ vào từ tâm của thế nhân! Tuy đôi mắt bị mù lòa, nhưng tâm hồn ba tôi trong sáng như nhật nguyệt. Ông thường dạy dỗ và nhắc nhở cho con biết ai là bạn, ai là kẻ thù… Ông cũng không vì bịnh tật và hoàn cảnh hiện tại của mình mà thất chí, rồi làm những chuyện không nên, hay nói năng xàm xỡ với những người chung quanh. Ông luôn giữ câu của người xưa: “Lành cho sạch/ Rách cho thơm” và luôn lấy đức báo oán, trước những cảnh trái ngang nhiều hệ lụy đã qua của đời ông. Ngày ngày ba tôi đi xin ăn từ sáng sớm tới chiều tối mới về. Nhưng không bao giờ ông cho tôi đi theo. Tôi được ba gởi trong chùa để sư cụ sai vặt, và dạy cho biết chữ. Nhớ lại ngày đó, sư cụ cũng thấy cha con tôi hàng ngày gội nắng, dầm mưa lang thang đi qua chùa. Sư thương tình gọi lại hỏi thăm và cho cha con tôi tá túc ở mé hiên sau của chùa, vách nhiều chỗ bị hư, mái có nhiều chổ dột... bởi qua năm tháng trơ gan cùng tuế nguyệt... không được tu sửa. Tôi không sao quên, đó là ngôi chùa nghèo nằm sát
bên bờ sông Bảo Định (Thành phố Mỹ Tho) nước rồng, nước lớn lửng lờ
xuôi chảy. Với trí hiểu biết non nớt của mình, tôi không
biết ba tôi đang nghĩ suy gì? Nhưng tôi biết chắc chắn một điều: “Ý
chí mãnh liệt để ông sinh tồn vì ba tôi không muốn con mình côi cút,
bơ vơ…” Kể từ sau đó, ba tôi không còn đi xin ăn nữa, và
gánh nặng xót xa trong lòng ba có phần nào được nhẹ đi. Và cứ mỗi
sáng sớm, khi vầng thái dương còn e ấp ở phương đông, chim chốc gọi
đàn bay đi tìm mồi… Thành phố Mỹ Tho rộn tiếng còi, tiếng động cơ xe
cộ, tiếng nguời bán hàng, tiếng trẻ con cười nói trên đường đến
trường… Thấy chúng ôm tập sách, mặc áo quần lành lẽ… lòng tôi se
thắt, với những ước mơ thầm kín nở lớn trong lòng thơ dại của
mình... Khi vui, ba thường kể cho con gái mình nghe những
chuyện ngày xưa lúc còn là lính chiến… Ba kể trong say sưa, với niềm
tin lẫn niềm xúc động nghẹn ngào, và niềm hy vọng thầm kín dâng lên…
Dần dà ba tôi đã lấy lại được mức sống bình thường trong tâm hồn, và
thỉnh thoảng tôi còn bắt gặp niềm vui trong giọng nói, hoặc nụ cười
nhẹ trên môi ông... Ngồi tán dóc với mấy bà trong xóm, bà Tám y tá (chích thuốc theo toa bác sĩ) lên tiếng trước: - Mấy chị biết con bà Hai bán bánh bò, bánh da lợn ngoài chợ, là cậu Nhân chớ? Tôi thấy cậu mặc bộ đồ lính “Dù”, cùng một số quân nhân đại diện đơn vị về diễn hành “Ngày Quân lực 19 tháng 6” Ôi trông cậu ấy đẹp trai thì thôi, và thật oai phong quá chừng chừng đi! Bà Tư bán gạo, góp chuyện: - Thế cho nên, sau mùa Quân lực đó, khi thấy bóng dáng thấp thoáng chàng về phép, thì các em trong xóm lượn qua lượn lại nườm nượp hà! Họ mong coi có được lọt vào giếng mắt xanh của chàng, để làm người yêu lính chiến miền xa không... Chị Tám Dung thợ uốn tóc mở to mắt ngạc nhiên, lên tiếng: - Mấy chị nói chơi hay nói giỡn, bộ có vậy thiệt hả, sao tôi không biết vậy cà? Chị Út Nga vợ ông Sáu Hiến, tài xế xe đò đường Long An, Sài Gòn. Chị là phụ nữ trẻ nhất trong nhóm đang bàn chuyện thiên hạ sự. Tánh tình chị trẻ trung và hay nói tiếu. Ngồi kế bà Tư chị cười khè khè chêm vào những lời lẽ vui nhộn… Tiếng cười chưa dứt, thì chị gống gân cổ trỗi giọng: - Có chớ, sao không thật! Mấy bà nghĩ xem: “Bạn ơi quan hà xin cạn chén ly bôi/ Ngày mai tôi đã đã đi xa rồi… Giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu/ Trở về là khi nước non vui bình yên…” Rồi chị bắc qua bài khác, hát câu đầu nầy nhảy qua câu giữa bài kia vừa hát vừa lắt đầu nhịp chân, than mình ẹo qua ẹo lại: “Đừng chê anh lính đám cưới nhà binh em ơi/ Em sẽ là cô dâu đẹp tuyệt vời …/ Đám cưới bọn ta tưng bừng biết mấy…/… Tám xe lội nước theo sau/ Chín xe đại bác đi đầu… Cưới em nhỏ lắm em ơi/ cưới em mời mấy trăm người… Có ai bằng đôi ta đâu…” Mèn ơi, mấy em nghe đến đó quýnh đít thiếu điều năn nỉ ỉ ôi, xin được sửa túi nâng khăn cho chàng ta là đàng khác… Coi bộ chưa đã, chị hứng chí lớn tiếng: - Nhưng“Sức mấy! Bỏ qua đi tám...” Bây giờ thì hai bông mai vàng trên ve áo cậu Nhân, đã làm các em cho mình là kiều nữ trong xóm nín khe… Bởi lúc chàng còn đi học, các nàng chê là thằng con bà bán bánh nghèo mạt rệp… Chê cho đã thiệt là mấy nường không biết nhìn xa, hiểu rộng, chớ có biết đâu anh chàng lính chiến Nhân “Con nhà nghèo, nhưng học giỏi, và đẹp giai...” để giờ đây anh ta tảng lờ làm ngơ các cô nàng trong xóm… Khiến các em vừa tức vừa tiếc hùi hụi, bởi ngày xưa lỡ dại chê nhằm người ta... đó mà! Các bà phá lên cười rộ vui vẻ rồi trở về nhà ai phận nấy của mình. Họ là những người phụ nữ lam lũ ở xóm nghèo, bình dân, vui vẻ, tốt bụng giúp đỡ chòm xóm khi nhà ai có người đau bịnh, tối lửa tắt đèn… Họ hay chọc ghẹo đối phương nhưng để vui cười chung, rồi qua đi chớ không nói xấu, nói hành nói tỏi, hay ức hiếp hoặc có ác ý với ai… Cho đến một ngày kia, chàng Nhân dắt về giới thiệu với mẹ, cô Hồng Thủy làm ở sở Mỹ nơi chàng thường theo mấy người bạn ngoại quốc ghé mua hàng “PX” (PX, chữ viết tắt của Post Exchange, là những cửa hàng bán lẻ cho Mỹ... không có thuế) Bà Hai má Nhân là người mẹ hiền, thương yêu và luôn chiều chuộng con. Bà nghĩ giờ con bà cũng đã lớn rồi, có thương cô nào thì bà cưới cô ấy cho anh. Thế là đám cưới nhà binh được tổ chức đơn sơ nhưng đầy đủ lục lễ cho con mình. Dù là cảnh nhà mẹ góa con côi, nhưng bà Hai cũng đi đủ lễ, chớ không nói đơn sơ mà giảm quà lễ để thiên hạ cười chê mẹ con bà... Sau ngày cưới, Hồng Thủy về sống với mẹ chồng.
Còn Nhân thì luôn bôn ba ngoài chiến trận, đôi ba tháng mới về thăm
gia đình một lần. Khi dâu sanh đứa con gái, bà nội đặt cho tên:
Nguyễn Thị Nhân Nghĩa, con của ông Nguyễn Vĩnh Nhân và bà Trương
Hồng Thủy… Thuở đó, ở góc nhỏ của phương trời miền Nam tự do dưới Chánh thể Cộng Hòa, có gia đình bà Hai bán bánh bò, không giàu sang nhung lụa, nhưng cơm no, áo ấm cuộc sống êm đềm và hạnh phúc dâng đầy bên dâu con và tiếng cười khóc vô tư của trẻ thơ... Sau ngày Nghĩa ra đời không bao lâu thì thời thế
đổi thay, “Ngày 30 tháng 4 năm 1975” giặc phương Bắc ào át tràn vào
cưỡng chíếm miền Nam. Gia đình bà Hai tan nát, Nhân bị giặc bắt cầm
tù trong cải tạo. Hồng Thủy ra buôn bán hàng ở chợ trời, nhưng không
bao lâu nàng đi luôn không về nữa! Bà Hai già yếu phải đi bươi rác,
lượm lon… khổ cực biết chừng nào để chắt chiu nuôi cháu, và bám víu
cuộc sống nghèo nàn chờ ngày con trai trở về… “Một chỗ ngồi nhỏ xíu dưới hầm tàu, nhưng to lớn vô cùng, to lớn như một thế giới cho những kẻ nghèo đi tìm tự do! Và đó đã thể hiện một tấm lòng thương người, một tấm lòng Bồ Tát bao la như đại dương của bà chủ tiệm Cao Thăng (chủ tàu vượt biên…) đối với cha con chúng tôi...” Lúc đầu bà chủ tàu chỉ cho một người đi. Nhân nhường cho con gái đi, còn ông thì ở lại! Nghĩa biết tâm ý của cha, khóc sướt mướt... Cô vùi đầu vào ngực Nhân tức tưởi bệu bạo: - Con không đi, con không đi đâu! Con không thể xa ba… Con nhứt định không đi... chết sống chúng ta có nhau ba ơi! Cặp mắt sâu hõm hàng ngày như hai cái hố nhỏ của ba tôi... càng sâu thăm thẳm hơn! Mặt đanh lại, ông lạnh lùng bảo tôi: - Nầy Nghĩa, hãy thành thật trả lời ba: “Con có thương, và muốn trả hiếu cho ba không...?” Giọng sũng đầy nước mắt thương đau: - Dạ có, dạ có… trên cõi đời nầy người con kính yêu nhứt là bà nội và ba… Giờ chỉ còn hai cha con mình, ba chết con sẽ chết theo, ba ở đâu con sẽ ở đó… Xin ba đừng bắt con phải xa ba… cho dù nơi con sắp đến giàu sang, nhung lụa, hay chốn Bồng lai tiên giới cũng vậy... nếu không có ba thì còn có ý nghĩa gì nữa... con sẽ không đi đâu ba ơi… Nhân ôm chầm lấy đầu con mình, vuốt tóc nghẹn lời thổn thức: - Ba cũng không muốn xa con gái ba, nhưng vì tương lai của con… Qua bên đó may ra con còn gặp được tấm lòng nhân của người khác xứ, sẽ được đi học, và tiến thân… Con ở lại là gánh nặng cho ba, vì ba không lo cho con được! Dù muốn lo nhưng tình cảnh ba mù lòa, lại là một người thất bại bị kẻ thù trù dập cố tình hủy diệt thì làm sao lo? Ở đây chúng ta ăn không no, lạnh không áo, vô gia cư, không nghề nghiệp, thì tương lai của con sẽ về đâu? Và con còn chuyện quan trọng phải thay ba đang làm dang dở… Con ơi, trả hiếu cho ba, thì con hãy nghe lời ba! Nghe lời ba tức là đã trả hiếu cho ba rồi đó con… Nghe cha nói xong, tôi ôm chặc lấy người vừa khóc vừa gật đầu: - Dạ con nghe ba… Con sẽ quyết làm những gì ba muốn, ba dặn dò… Con nghe ba, con nghe ba! Con thương ba lắm ba ơi! Bên ngoài gió lành lạnh hắt hiu, mưa trong suốt
rào rạc rơi mau và long lanh trong ánh nắng hoàng hôn le lói ở
phương tây chiếu rọi. Trời gầm gừ,sấm nổ ầm ầm vang dội... những tia
sáng lòe chớp nhanh rồi tắt ngấm như những ý nghĩ chợt đến rồi chợt
đi... trong tâm hồn thơ ngây của Nghĩa. Số là sáng hôm đó trời trong mây tạnh và nắng hồng rạng rỡ chiếu lung linh trên cành cây so đũa. Lác đác trên những cành ẻo lả, bông so đũa trắng như mây trời, và điểm những trái dài xanh như ngọc bích, mong manh treo tòn ten trên cành ở hiên sau chùa. Tôi vẫn không quên, nên tôi vẫn nhớ, nhớ rất rõ, nhớ mấy hôm trước khi phải theo đoàn người vượt biên. Tôi buồn rầu vì phải sắp xa người cha tật nguyền bịnh hoạn của mình. Ngồi bẹp dưới góc cây trắc bá diệp ngoài sân chùa, nghe sư tụng kinh có ca có kệ bên trong, khi lòng đang ngổn ngang trăm mối đau buồn, khiến tôi càng thêm sầu thúi ruột! Ngồi dựa gốc cây tôi nhìn trời xanh cao vòi vọi bao la bát ngát thút thít khóc một mình! Tôi lơ đãng trước không gian trong suốt, màu nắng lụa trãi dài trên cỏ cây hoa lá với bầy bươm bướm chớp, chớp đôi cánh màu sắc rực rỡ cạnh đám huỳnh trúc hơn hớn lá tươi non trước sân chùa... Cảnh sắc nhẹ nhàn êm ả như vậy nhưng trong tâm tư tôi trời như đang tối sầm, tưởng chừng như mây khói đèn đang kín trên cao… Và tôi cũng nghĩ dại, là mong trời sập xuống chết hết cho rồi! Từ trong Chánh điện bước ra, dáng sư cao gầy. Mặt sư lúc nào cũng trang nghiêm, trầm tĩnh. Thấy tôi sư bảo: - Nghĩa cha con đâu, ông đi bán vé số rồi à? Chừng nào ba con về, dắt lên gặp sư nghe… Con đang khóc đó hả? Tôi mau lẹ lấy tay quẹt nhanh những giọt nước mắt còn đọng trên mi: - Dạ, con khóc vì không muốn xa ba con! Tội nghiệp ông mù lòa, con đi rồi không ai đưa ba con ra chỗ bán vé số, không ai rót nước, đút cơm khi bịnh hoạn… Con thương ba con lắm sư cụ ơi… Nhịn không được, tôi khóc ồ lên! Sư vuốt tóc tôi chép miệng nhẹ thở dài rồi trở vào chùa… Tiếng cầu kinh hòa cùng tiếng mõ chuông lại ngân nga, êm êm rền vọng xa đưa… Mùi khói, nhang, trầm hương theo gió nhè nhẹ thoảng bay… Chiều đó tôi dắt ba đến gặp sư, như sư đã dặn dò. Tôi thấy sư đang tỉa nhành chết, lá úa của những cây kiểng trước sân chùa. Sư vẫn điềm đạm, nét mặt suy tư, và chầm chậm bảo với chúng tôi: - Nghe thấy hoàn cảnh của cha con anh, ông chủ Cao Thăng bảo vợ cho cả hai cha con cùng đi luôn một thể… Cha con tôi quì xuống lạy sư! Không nói gì, tay lần chuỗi, mắt u buồn nhìn trời cao vòi vọi... hiền lành, từ tốn sư khẽ bảo: - Cầu xin Phật Tổ phù hộ cho cha con anh! Tôi chẳng giúp gì được, có lẽ do lòng thương con của một người cha như anh, đã làm động lòng người đời và động lòng Trời khiến xui như vậy… Anh phải luôn ăn hiền ở lành, bởi Ơn Trên không bao giờ phụ kẻ có lòng… Tôi sẽ cầu an cho cha con anh… Sư quay qua vuốt tóc tôi: - Nghĩa, sư biết con là đứa trẻ ngoan! Qua tới bờ
bến tự do con ráng học hành… làm người tốt, để trả hiếu cho cha con
và trả ơn đời… Mười mấy ngày trên đường vượt biên sóng gió nộ cuồn của biển khơi. Rồi tàu cũng được cặp một bến ở Nam Dương Quần Đảo. Trên Hành trình vượt biên của tàu bán chánh thức (Người đi trả chủ tàu bằng vàng. Chủ tàu đóng cho Việt cộng để được rời nước) mang số “Mỹ Tho 2736” Tàu vượt biên chúng tôi chết gần cả trăm người
vừa già vừa trẻ em, vì sóng gió dập dồn và yếu sức… “Huyệt mộ người
cha kính yêu của tôi, cũng ở lòng đại dương trong chuyến bôn đào
bằng đường biển nầy!” Nhìn trời nước bao la, nhìn thành phố San Fransico nhà cái cao, cái thấp… chập chùng san sát như dính liền nhau. Cả thành phố dưới bầu trời trong nắng mai rực rỡ, và như nằm lững lờ trên mặt nước trong xanh lao xao sóng bủa chập chùng. “...Ba kính yêu của con ơi, con gái ba giờ đã lớn đang ở trên một nước tự do, ngắm nhìn trời xanh, in những vầng mây trắng cuồn cuộn nhẹ trôi. Nắng mai chiếu lung linh, gió mát thổi bồng mái tóc con... và gió là là trên mặt nước biển xanh, trong vắt thấy cả cá lội nhởn nhơ… Con nhớ ba lắm, con thương ba vô cùng… con gái không phụ lòng ba, giờ con đã thành tài như ba ước mong… Ngoài những giờ làm việc ở bịnh viện chuyên khoa về mắt… Thời gian còn lại, con ghi danh hành nghề trong các đoàn y tế thiện nguyện. Con đã đi Thái Lan, Cam-Bô-Chia, các nước vùng dân nghèo… cả ở Ép-Phi-Ca, Ai-Rắc nữa đó ba. Nhưng con chưa trở về cố quốc, vì nơi đó vẫn còn chế độ Cộng sản vô thần, tàng bạo... biết bao người dân bị trù dập, khổ đau tột cùng... Sư cụ giúp chúng ta đã viên tịch… Gia đình ông Cao Thăng chủ tàu cho cha con mình vượt biên đang ở Canada (bà chủ qua đời từ mấy năm trước) các con ông đã thành nhân. Lời dạy dỗ của ba là kim chỉ Nam đã và sẽ làm hành trình cho con suốt cuộc đời nầy! Ngày xưa ba đi lính vì an nguy cho gia đình và dân tộc. Không kể đến thân mình, ba cùng đồng đội bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải quê hương đất nước, cho một miền Nam Cộng Hòa Tự Do của chúng ta. Hôm nay con gái ba làm những gì con có thể làm được như ba dạy bảo là giúp người, giúp đời, và… Ba ơi, mặc dù ba nay đã ra người thiên cổ, nhưng con biết ba lúc nào cũng quanh quẩn bên con, nhắc nhở con, giúp đỡ con gái ba. Con thấy tủi thân không có ba như các bạn bè. Ai còn cha thì xôn xao mua quà nầy quà kia cho cha, trong ngày lễ báo hiếu, vinh danh cha… Thưa ba, mỗi năm ngày báo hiếu từ phụ, lại cận kề ngày Quân Lực của Việt Nam Cộng Hòa. Con xin gởi ba tấm lòng thành ghi nhớ ơn tiền nhân, nhớ ơn ba trong ngày báo hiếu từ phụ. Ba đã cho con dáng dấp hình hài lành lặn nầy. Ba cho con tâm hồn tươi vui, khỏe mạnh nầy. Ba đã cho con tất cả, tất cả những gì con hiện có… Con đã làm những việc thiện, và những việc... ba dặn dò chỉ dạy. Nhưng con vẫn còn nợ ba! Ba đã trăn trối: “...Trước khi qua đời ba còn nhắc nhở/ …Hoàn cảnh nào cũng phải giữ sắt son/ Cha ấu lo nhân nghĩa sẽ không còn/ Trên đất nước mấy nghìn năm Văn Hiến…” Thưa ba, những người trẻ Việt Nam lưu vong, ở
quốc nội... sẽ hoàn tất trong ngày không xa… Con sẽ dong ruỗi đường
ba đi còn dang dở…” Ba ơi “Con còn nợ ba”! Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Jun/2018 lúc 3:19pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 30/Jun/2018 lúc 2:34pm |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 02/Jul/2018 lúc 7:32am |
Sau
khi ông bác họ tôi chết được ít lâu, gia đình muốn lợp lại mái nhà. Khi
người ta gỡ mái tranh cũ mang đi, họ tìm thấy ba lượng vàng được gói
cẩn thận trong một miếng vải đỏ, nhét trong mái tranh. Người con trưởng,
bỗng nhớ những giờ phút sắp ra đi của ông cụ thân sinh, lúc không còn
cử động và nói năng được, nhưng đôi mắt ông cứ đăm đăm nhìn lên mái nhà,
nơi mà ông giấu mấy lượng vàng.
Tôi cũng nhớ lại, sau năm 1975, hồi đi tù Cộng Sản, ngày được lệnh
đổi tiền, nhiều anh sĩ quan đang bị tập trung, đã xin phép quản giáo cho
về nhà, vì những người này lỡ giấu tiền trong bộ salon ở phòng khách
hay ở một góc hẻm nào trong nhà, mà không cho vợ biết, và cứ nghĩ rằng
mình đi tù một hai tuần rồi sẽ được về nhà.
Đến tuổi này rồi, bạn có giấu của cải, tiền bạc ở chỗ nào, con rơi
con rớt ở đâu, xin “thành thật khai báo” kẻo không còn kịp nữa.
Quả tình là không ai biết mình sẽ giã từ cuộc đời này vào lúc nào, kể
cả những bệnh nhân ung thư đến thời kỳ cuối, đã được bác sĩ thông báo
ngày chết. Mới vài ngày trước đây thôi, người bạn trẻ của tôi đang khỏe
mạnh, nói nói cười cười, thế mà hôm nay, qua một cuộc phẫu thuật tim,
thông thường sau vài ba tiếng đồng hồ sẽ tỉnh lại, anh đã không bao giờ
mở mắt ra để nhìn cuộc đời này nữa. Cũng trong lúc này tôi có những
người bạn nằm trong “nursing home” đã trên 10 năm dài, có người phải
dùng thức ăn lỏng bơm thẳng vào dạ dày, có người đôi mắt đã hư, chỉ còn
nhận ra người quen qua tiếng nói.
Nghĩ cho cùng, cái chết là tất yếu, nhưng ai biết được bao giờ mình
sẽ chết? Và cũng vì không ai biết trước được ngày mình chết, nên mỗi
người đều đi tìm cho mình một cách sống.
Ví như loài người trên trái đất này đến tuổi 60 tất cả đều phải chết,
thì không còn ai phải sửa soạn hay dành dụm cho mình để lo cho những
ngày chưa chết. Chính vì cái điều mà người ta thường gọi là số mệnh,
cuộc sống lâu mau của mỗi người đã làm nên, mỗi người một hoàn cảnh,
không ai giống ai. Khoa tử vi cũng không giải thích được cuộc đời của
hai người song sinh, cùng cha mẹ, chào đời trong một giờ, một ngày, một
năm, một tháng giống nhau.
Có ai bỏ lại được mọi sự lo lắng lại cho cuộc đời này để thanh thản ra đi.
Phải chăng vì sự lo, sợ cung tần mỹ nữ sẽ không trung thành với mình
hay ích kỷ muốn mang theo những vật sở hữu của mình, mà vua Khang Hy
(1654-1722) đã “chôn theo” mình toàn bộ 48 phi tần của ông.
Có người chết đi, “yêu mình” đến nỗi lo sợ sự nghiệp của mình không
ai nhớ đến, nên lo đúc tượng mình khi còn sống. Nhà thơ Hàn Mặc Tử lãng
mạn than khóc vì cuộc đời vốn đã bất hạnh của mình, sợ rồi khi mình nằm
xuống, “không có nàng tiên mô đến khóc, đến hôn anh và rửa vết thương
tâm!”
Nguyễn Du cũng ngậm ngùi “bất tri tam bách dư niên hậu, thiện hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Làm chính trị cũng lo lắng chuyện dở dang, bất thành: -“Tôi chết thì trả thù cho tôi!”
Nhà văn Võ Phiến trước khi qua đời cũng băn khoăn: – “Anh nghĩ ở
trong nước bây giờ người ta có đọc tôi không, hả anh?” (Nguyễn Hưng
Quốc, 1 Tháng Mười, 2015)
Thì ra, trước khi qua đời, ai cũng có cái lo, mỗi người lo một cách.
Chết rồi, có người chẳng muốn thiêu vì sợ nóng, nhưng cũng có người
không muốn chôn, vì nằm đó, mà chẳng có đứa con nào viếng thăm, “thì
buồn chết được!” Chết thì hẳn đã chết rồi, mà người chết rồi làm sao
biết buồn nữa! Có người đã lớn tuổi, đau ốm quanh năm, muốn về Việt Nam
thăm bà con một chuyến, nhưng bắt các con hứa, nếu lỡ có mệnh hệ nào,
thì các con nhớ mang cha trở lại Mỹ. Có người ở tù Cộng Sản năm bảy năm,
sang được Mỹ, bây giờ chết lại đòi mang quan tài về Việt Nam. Như vậy,
chết vẫn chưa là hết, chết cũng còn nằm trong kế hoạch, chương trình,
sau khi nắp quan tài được đậy lại.
Có những cái chết mang lại thương tiếc cho tất cả mọi người, có những
tấm lòng và công việc của những người chết mà không ai có, không ai
thay thế được, nhưng trái lại, có những người sống lâu, bị người đời
nguyền rủa. Trong những cái “chẳng khoái ư!” của ông Lâm Ngữ Đường, tác
giả kể chuyện ông Kim Thánh Thán, sáng sớm thức giấc, nghe đêm qua con
người giảo quyệt, mưu mô nhất trong làng vừa chết, ông bèn “chẳng khoái
ư?” Thoạt đầu, tôi trộm nghĩ, đã là con người với nhau, thằng xảo quyệt
ấy chết, mình không buồn thì cũng dửng dưng, có đâu lòng dạ lại cảm thấy
sung sướng được, như thế chẳng hóa ra bất nhân! Nhưng nghĩ lại, nếu
mình không là nạn nhân, không là người chịu đựng những nỗi khổ đau trầm
luân của người trong cuộc, thì không thể thông cảm với cái “vui” khi
thấy người khác chết! Một con người hay một chế độ cũng vậy!
Sống bao lâu là đủ, chết lúc nào là vừa?
Phải chăng câu trả lời còn tùy theo sự sống của mỗi người.
Lợi ích của cây đa, cây đề là còn cho con người bóng mát, chứ không
phải là nơi người ta gửi những cái ông bình vôi sứt mẻ để tạo ra một
hình ảnh tôn kính quá đáng. Chúng ta chọn hình ảnh người tướng lãnh chết
giữa trận tiền hay sống tàn tạ, chết già nua trong sự quên lãng của mọi
người. Đối với một người lính, chúng ta chọn giữa cái chết hay sự sống
dần dần phai nhạt?
Chưa có ai từ cõi chết trở lại cõi sống để mô tả cho con người biết
cái chết, cũng không có bằng chứng khoa học về ý thức sự sống sau cái
chết của một sinh vật, nhưng hầu hết tôn giáo đều cho rằng nếu chúng ta
hình dung cái chết như là một sự biến mất, một sự chấm dứt, không còn
lưu lại gì cả thì nhất định đó là một sự sai lầm.
Nhưng có một điều chúng ta ai cũng phải nghĩ đến là có sinh thì có diệt, có sống tất phải có cái chết!
“Chẳng ai sống đời đời, kiếp kiếp, chẳng cái gì vĩnh viễn không phai.
Này, anh em nhớ kỹ điều đó và vui lên mà sống…” “Thi nhân, riêng mình,
nào phải viết bài thơ trường cửu. Hoa nở rồi tàn. Và, ai đó đã cài hoa
lên áo, cũng chẳng cần khóc thương mãi mãi làm gì. Đấy, anh em, nhớ kỹ
điều đó, và vui lên mà sống.” (Rabindranath Tagore – Đỗ Khánh Hoan dịch)
Alan Phan là một doanh nhân nổi tiếng, từng tổ chức và hoàn tất
chuyển giao 18,000 xe lăn tại Việt Nam và Indonesia, vừa qua đời, tạm
khép lại giấc mơ ông đang ấp ủ cho quê nhà: “20 triệu máy tính cho trẻ
em Việt Nam.” Tuy vậy, chỉ ba tháng trước khi ra đi, cảm nhận được những
bất trắc của cuộc đời, Alan Phan đã bình thản nhận mình “rất bình an
với những gì mình đã có, đã mất, đã thua, đã thắng, nghĩa là cái chuyện
nó đã xảy ra rồi, thế thôi.”
Trên mọi sự, ông đã không những “forget” mà còn “forgive!”
Huy Phương
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 02/Jul/2018 lúc 8:17am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 09/Jul/2018 lúc 7:12am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 09/Jul/2018 lúc 8:00am |
Xem Tướng Không Bằng Xem Tâm: 36 Tướng Tâm Tốt Của Con Người
Người xưa có câu rằng: “Có tâm
mà không có tướng, tướng sẽ theo tâm ấy mà sinh ra; có tướng mà không có
tâm, tướng ấy sẽ theo tâm kia mà tiêu mất”. Những lời này nói rõ rằng:
tướng mạo của một người tùy theo tâm của người đó là thiện hay ác mà
biến hóa theo.
Trước đây có một vị thư sinh tên là Tiêu Hùng, cùng vài người bạn học đón thuyền đi vào kinh thành dự thi.
Có một ngày, thuyền của họ dừng lại ở
một bến nọ, vừa lúc gặp một ông thầy tướng số. Thầy tướng số nói với
Tiêu Hùng rằng: “Ánh mắt các hạ có thần khí thất tán, mũi ửng màu đỏ,
sắc mặt cùng làn da có màu xám như gan heo, đây đều là dấu hiệu không
tốt. Các hạ lần này vào kinh chẳng những thi không trúng, mà e là còn có
thể gặp họa sát thân, không bằng các hạ quay về quê là tốt nhất”.
Tiêu Hùng nghe xong, tuy rằng trong lòng
có chút không vui, nhưng vì bản thân là người đọc sách Thánh hiền, nên
tâm tính tương đối hiền lành, vì vậy vội vàng nói cảm ơn thầy tướng số,
rồi sau đó cũng chẳng để bụng những lời kia nữa.
Ngày hôm sau, ở tầng trên của thuyền có
một vị tỳ nữ, khi đem nước hắt xuống sông, không cẩn thận đánh rơi mất
một chiếc vòng đeo tay bằng vàng. Vòng tay rơi xuống kẹt ở khe hở mép
thuyền bị một người thủy thủ trên thuyền nhặt được rồi cất giấu ở trong
áo.
Một lúc sau, tầng trên thuyền phát ra
một tiếng động rất lớn, thì ra nữ chủ nhân phát hiện vòng tay bị mất nên
cho rằng người tỳ nữ kia ăn cắp, lớn tiếng trách mắng tỳ nữ, người tỳ
nữ không thể minh oan được nên uất ức nhảy qua cửa sổ lao mình xuống
sông tự vẫn.
Tiêu Hùng vốn rất giỏi bơi lội, khi thấy
người tỳ nữ nhảy xuống sông thì cũng vội vàng nhảy xuống, cứu được tỳ
nữ đưa lên thuyền, lại còn âm thầm đi tìm người thủy thủ kia khuyên trả
lại chiếc vòng tay. Hành động của Tiêu Hùng không chỉ giải oan cho người
tỳ nữ, mà còn làm cho người thủy thủ không mang tiếng xấu nhặt của rơi
không trả lại, thực sự là một hành động toàn vẹn đôi bên.
Bởi vì gặp sóng gió quá lớn nên thuyền
phải dừng lại bến hơn mười ngày. Thật trùng hợp, vị thầy tướng số kia
cũng lại xuất hiện. Nhìn thấy Tiêu Hùng, ông nhìn chăm chú một lúc rồi
sau đó chắp tay nói với Tiêu Hùng rằng: “Công tử làm việc thiện, gặp dữ
hóa lành, đã đem hung tướng hóa thành thiện lành, thật là đáng mừng!”
Tiêu Hùng ngạc nhiên hỏi: “Vì sao ngài lại nói như vậy?”
Thầy tướng số nói: “Thần sắc trên mũi
của công tử trước đây có màu đỏ, nhưng nay biến thành màu vàng nhạt. Hai
lông mày có màu tím mà bóng mượt, hai mắt phát ra ánh sáng sáng trong
như mắt rồng, mắt lân, trên khuôn mặt tỏa ra ánh sáng ngũ sắc, đây là
dấu hiệu của sao Văn Tinh hiện ra, như vậy công tử nhất định sẽ trúng
khoa thi đợt này!”
Tiêu Hùng nghe vậy lắc đầu nói: “Thuyền
này vì sóng gió mà đã trì hoãn ở đây nhiều ngày rồi, coi như hôm nay lại
khởi hành, tính lại thời gian, thì cũng không đến kịp ngày thi, thì làm
sao có thể nói đến công danh đây?”.
Thầy tướng số lại nhìn kỹ khuôn mặt của
Tiêu Hùng thêm lần nữa rồi quả quyết nói: “Ta quan sát thần sắc của công
tử, thấy đã chuyển từ họa dữ sang phúc lành. Công tử chuyến này nhất
định là thi đậu, tiền đồ rộng lớn. Cho dù có đến trễ kỳ thi, cũng có thể
sẽ gặp được hoàng ân đặc biệt, công tử không thể không đi!”.
Nghe vậy, Tiêu Hùng lại quyết tâm vào
kinh thành. Khi vào đến kinh thành thì đột nhiên nghe tin trường thi bị
cháy, các bài thi của thí sinh bị hỏa hoạn cháy sạch. Hoàng đế hạ lệnh
tổ chức cho các sĩ tử thi lại lần nữa, vì vậy Tiêu Hùng vẫn còn có cơ
hội tham gia trường thi. Quả nhiên, Tiêu Hùng được sao Văn Tinh soi
chiếu, đỗ đầu trạng nguyên. Trước ngày yết bảng, bỗng có mấy đứa trẻ ca
hát rằng: “Trường thi không bốc cháy, sao có Tiêu trạng nguyên?”, ý là
nếu ngày đó trường thi không bị cháy thì nay làm sao có thể có được
trạng nguyên họ Tiêu đây?
Người có 36 loại “tâm tướng”
Câu chuyện trên cho thấy, một người cho
dù hiện tại có tướng mạo hung dữ, thế nhưng trong cuộc sống ngày thường
trong tâm luôn chứa thiện niệm, luôn làm việc thiện, thì tướng mạo hung
dữ kia chẳng mấy chốc mà thay đổi thành tướng mạo hiền lành phúc hậu.
Ngược lại, cho dù hiện tại người này có vẻ mặt phúc hậu, nhưng nếu không
biết làm việc thiện tích đức, ngày thường trong đầu luôn nổi lên ý niệm
tham lam cùng oán hận, thì tướng phúc hậu kia cũng sẽ dần biến mất. Tâm
mới là điều then chốt quyết định tướng mạo của một người, vậy nên mới
có câu: xem tướng không bằng xem tâm.
Người có 36 loại “tâm tướng” như sau, một người có càng nhiều những tâm tướng này, thì sớm muộn cũng được hưởng phúc báo:
1. Biết rõ làm quan sẽ vất vả cực nhọc, nhưng lại nguyện ý vì dân mà làm quan để phục vụ nhân dân.
2. Làm việc có tình có lý, cẩn thận
3. Yêu thích làm việc thiện, gần gũi người quân tử
4. Có đồ ăn ngon đều chia cho mọi người
5. Xa lánh kẻ tiểu nhân
6. Thường xuyên tích âm đức, giúp đỡ người khốn khó
Thường xuyên tích âm đức, giúp đỡ người khốn khó. (Ảnh: youtube.com)
7. Từ nhỏ đã có thể xử lý, giúp đỡ làm việc nhà
8. Gặp người ăn xin không sinh lòng chán ghét
9. Khắc chế bản thân, nhường ích lợi cho người khác
10. Không thích sát sinh, không xúi giục làm việc xấu
11. Khi gặp chuyện tâm luôn an tĩnh, không rối loạn
12. Cùng người hứa hẹn, không mất chữ tín
13. Không dễ dàng thay đổi hành vi và phẩm hạnh
14. Trước khi đi ngủ thường tĩnh tâm tự xét những sai lầm của mình
15. Dũng cảm tiến lên, không bận tâm chuyện đã qua, cũng không vì chuyện đã qua mà đắc chí
16. Không khiến cho người khác sinh ra lòng oán hận
17. Không che đậy sai trái, không giấu diếm thiếu sót của mình
18. Thái độ làm việc chu toàn, cẩn thận
19. Luôn ghi nhớ ơn nghĩa, sự giúp đỡ của người khác
20. Có tấm lòng rộng lớn
Có tấm lòng rộng lớn. (Ảnh: pixabay.com)
21. Không ức hiếp người hiền, không run sợ trước cái ác
22. Thương xót, giúp đỡ những người bơ vơ, nghèo khó
23. Không trợ giúp những kẻ ỷ mạnh bắt nạt kẻ yếu
24. Không quên bạn cũ tình xưa
25. Làm những việc có ích cho dân chúng, xã hội
26. Lời nói chân thành, ngay thẳng
27. Cảm thấy hổ thẹn khi được người khác khen ngợi
28. Nói năng nhã nhặn, âm thanh nhẹ nhàng dễ nghe
29. Khi những người khác đang nói, không ngắt lời
30. Thường nói về những điều tốt đẹp và khen ngợi ưu điểm của người khác
31. Không chê áo thô cơm dở
32. Lúc nào, ở đâu cũng cử xử thỏa đáng, đúng mực
Cư xử đúng mực mọi lúc, mọi nơi… (Ảnh: tiin.vn)
33. Thích nghe điều thiện, nói việc thiện, không ngại làm việc thiện
34. Hiểu và đồng cảm với sự cực khổ, đói khát của người khác, thường xuyên tiến hành cứu tế, trợ giúp
35. Không ghi nhớ lỗi lầm và hiềm khích trước đây của người khác
36. Hết sức giúp đỡ khi bạn cũ gặp khó khăn.
Bạn thử đếm xem mình có bao nhiêu trong số 36 tâm tướng này? st
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 11/Jul/2018 lúc 10:17am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 16/Jul/2018 lúc 9:22am |
Đường Xưa Lối CũỞ trại tỵ nạn sao mà dễ buồn! Mưa cũng
buồn, nắng cũng không vui! Nhìn ra ngoài bầu trời chói chang, tôi tính
bỏ văn phòng đi về nhà nghỉ trưa thì bà Pimpa, người Thái, là nhân viên
Cao Ủy Xã Hội đến hỏi: Hai ngày sau, cũng trong giờ nghỉ trưa ở
phòng Cao Ủy, có người mang đến cho tôi tờ giấy ghi bài “Đường Xưa Lối
Cũ”. Tôi ngắm nhìn với niềm thích thú bất ngờ, vì tựa đề bài hát được
viết theo lối thư pháp mới, bay bướm lãng mạn, nét chữ bút chì trong
toàn bài nhạc rất đẹp, đều đặn, có chút lả lơi trên từng con chữ, mà đặc
biệt nhất là bài hát được viết trên một bức tranh, cũng vẽ bằng bút
chì, trong đó có đủ ánh trăng treo trên đồi, có lũy tre xa mờ, và bóng
mái tranh nghèo bên đồng lúa chin. Ở góc phải cuối bức tranh ký tên “Anh
Vân” rất điệu nghệ, chứng tỏ người vẽ phải có một tâm hồn nghệ sỹ mới
trau chuốt tác phẩm của mình đến như vậy. Tôi vui sướng nghĩ thầm, Vân
Đại Bàng có một trái tim nghệ sỹ, mà tôi luôn tin rằng, những người có
tâm hồn nghệ sỹ thường là người tốt. Chẳng hiểu sao hôm nay tôi lại nhớ đến
cái tên Vân Đại Bàng dù bao nhiêu năm đã trôi qua? Có phải vì bài Đường
Xưa Lối Cũ vừa tình cờ nghe được, hay cái tin từ người quen cũ cho biết
trong chuyến về Việt Nam thăm nhà, họ có ghé qua Thailand chơi và gặp
Anh Vân ngồi vẽ tranh chân dung trên đường phố phục vụ khách du lịch ở
thành phố biển Pattaya? Còn một người khác thì khẳng định với tôi rằng
đã thấy Anh Vân hành nghề chạy xe tuk tuk ở thủ đô Bangkok. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 18/Jul/2018 lúc 7:54am |
Ly Hương, Sự Chọn Lựa Nghiệt Ngã! -
Cuối cùng cũng đến ngày em gái út cùng chồng và con sang Mỹ định cư.
Thế là lại thêm một gia đình người thân nữa của tôi rời bỏ đất nước này.
43 tuổi, em đang có việc làm ổn định ở một doanh nghiệp nhà nước với
mức thu nhập vài chục triệu đồng mỗi tháng. Hai vợ chồng có biệt thự,
xe hơi và chồng còn sở hữu một cơ ngơi làm ăn riêng, tuy nhỏ nhưng cũng
đáng để cho nhiều người phải mơ ước. Vậy mà điều gì đã khiến các em bỏ
hết mọi thứ và dắt díu ba đứa con nhỏ dại từ giã quê hương để bắt đầu
làm lại cuộc sống nơi xứ người cách đây nửa vòng trái đất? Câu trả lời
nghe vẫn quen thuộc như nhiều lần tôi đã từng nghe: “Vì tương lai con
cái!”.
Vâng! Đó là lý do mà rất nhiều người Việt trong dòng chảy nhập cư nước
ngoài những năm gần đây thường nêu lên để giải thích cho việc ra đi của
mình. Thật chua chát khi hơn 40 năm sau ngày 30-4-1975, ký ức “thuyền
nhân” lại trở về dưới một dạng thức khác. Lần này, các “thuyền nhân” ra
đi không phải trong tâm thế trốn chạy hoảng loạn, vội vã mà là được cân
nhắc, chuẩn bị cẩn thận. Không phải trên những chiếc thuyền lênh đênh
đầy bất trắc mà là trên những chuyến bay tiện nghi, an toàn. Không phải
lén lút, vô định mà là công khai và được chuẩn bị sẵn mọi thứ cho đến
khi cầm visa trong tay mới lên đường. Các công ty tư vấn nhập cư dạo này
nhan nhản khắp nơi với những chương trình mời gọi đi định cư châu Âu,
Mỹ, Canada, Úc…
Giờ gặp nhau, người ta hỏi thăm đã có PR (permanent resident) của
nước nọ nước kia chưa, như một điều bình thường! Người có tài tìm đường
đi theo dạng skill worker hoặc doanh nhân khởi nghiệp. Người có tiền thì
bỏ tiền ra mua quốc tịch hoặc “thẻ xanh” cho nhanh. Người ít cả tiền và
tài thì hy vọng kiếm được một suất đi lao động nước ngoài rồi tìm đường
ở lại bằng đủ cách. Lớp trẻ đi du học hầu hết cũng không muốn trở về.
Năm 2014, báo chí thông tin có 12/13 quán quân của cuộc thi “Đường lên
đỉnh Olympia” không trở về nước sau khi kết thúc thời gian du học ở Úc
với học bổng toàn phần cho người chiến thắng chung cuộc. Con số đó đến
nay chắc đã tăng thêm sau bốn năm.
Tháng 7-2017, Hiệp hội Quốc gia chuyên viên địa ốc Hoa Kỳ công bố
báo cáo hằng năm cho thấy Việt Nam đứng trong top 10 nước hàng đầu mua
nhà tại Mỹ. Trả lời BBC, tổ chức này cho biết chỉ trong thời gian từ
tháng 4-2016 đến tháng 3-2017, công dân Việt Nam đã mua bất động sản tại
Mỹ trị giá lên tới 3,06 tỷ USD. Đó là mới tính số tiền chuyển đi để mua
nhà tại Mỹ chứ chưa tính ở các nước khác và tất nhiên, đó cũng chỉ là
phần nổi của tảng băng! Đất nước như một bao gạo bị thủng để trí lực,
tài lực cứ chảy dần ra nước ngoài cho đến khi rỗng ruột. Quê hương chôn
rau cắt rốn ở đây mà dường như chỉ là chốn dừng chân tạm bợ với rất
nhiều người Việt bây giờ…
Làm sao có thể trách em tôi cũng như hàng triệu người dân khác đã và
đang tính bỏ nước ra đi? Bởi cái lý do “vì tương lai con cái” nghe nhẹ
bâng vậy mà trĩu nặng quá chừng! Sự lo toan và hy sinh vô bờ cho con cái
vốn là nét văn hoá đặc trưng của người Việt. Những bậc cha mẹ thuộc
nhiều thế hệ đã trải qua các cuộc chiến tranh trên đất nước nhỏ bé này,
càng khổ cực nhiều ở đời mình lại càng thấm thía sâu sắc ước mơ về một
cuộc sống bình yên và hạnh phúc cho đời con cháu. Nhưng nỗi lo bây giờ
không còn là chuyện cơm ăn áo mặc hàng ngày cho phần “con”, như trong
thời kỳ phải thắt lưng buộc bụng vì chiến tranh và sự mông muội. Nỗi lo
bây giờ là về chất lượng cuộc sống cho nhu cầu của phần “người”. Có thể
nào sống an yên khi môi trường bị phá hoại tàn khốc, tài nguyên đất nước
bị khai thác tới cạn kiệt, thực phẩm bẩn tràn lan khắp nơi và tham
nhũng thì như ổ dịch bệnh hoành hành từ trên xuống dưới, từ trong ra
ngoài? Có thể nào sống hạnh phúc khi nền giáo dục và y tế ngày càng
xuống cấp, các phúc lợi xã hội không chỉ kém chất lượng mà còn tiếp tục
giảm sút, các giá trị văn hoá – đạo đức bị tha hoá và đảo lộn?…
Bây giờ, bước ra đường là thấy lo: Lo nạn cướp giật, móc túi; lo tai
nạn giao thông; lo ăn uống bị ngộ độc thực phẩm; lo hít khói bụi bị ung
thư; lo bọn trẻ bị dụ dỗ sa vào ma túy hoặc bị xâm hại, bắt cóc… Cứ thế
mà ngút ngàn triền miên lo. Thà chỉ phải lo cơm áo như ngày xưa còn dễ
hơn bội phần! Xã hội càng bất ổn, lòng người càng bất an. Làm sao có thể
yên tâm để con cái lớn lên trong một môi trường sống như vậy? Chưa kể,
những lời đồn đoán về một tương lai xám xịt của đất nước gắn với những
thỏa thuận của Việt Nam và Trung Quốc trong Hội nghị Thành Đô năm 1990
cũng là một trong những nguyên nhân gây hoang mang khiến cho nhiều người
phải tính đường tháo chạy trước. 28 năm qua, Đảng cộng sản và Nhà nước
Việt Nam vẫn giữ bí mật, nhất quyết không công khai những nội dung đã ký
kết với Đảng cộng sản và Nhà nước Trung Quốc trong Hội nghị Thành Đô.
Vì thế, những đồn đãi càng ngày càng lan rộng, bất chấp mọi nỗ lực trấn
an dân chúng của chính quyền. Và dù đã bước sang thế kỷ 21, thế nhưng
nhà nước Việt Nam vẫn chủ trương quản lý, định hướng về tư tưởng và bưng
bít thông tin không khác gì ở trong thế kỷ trước.
Hôm biết tin Quốc hội đã thông qua Luật An ninh mạng, một người quen
của tôi là tiến sĩ trong lĩnh vực tài chính từng hăm hở từ Mỹ trở về
nước cách đây 10 năm ngậm ngùi chia sẻ: “Em đã hoàn tất thủ tục cho cả
gia đình trở lại Mỹ cách đây mấy tháng, nhưng vẫn còn cố nấn ná… Giờ thì
phải ra đi thôi chị ạ, không thể để bọn trẻ lớn lên trong bầu không khí
ngày càng ngột ngạt thế này…”. Bao nhiêu người trẻ có tri thức và nặng
tình với quê hương đã “vội vã trở về, vội vã ra đi” như thế?
***
Hồi đi thăm Israel, tôi thường đứng lặng thật lâu trước hình ảnh
những con tàu hồi hương hiện diện khắp mọi nơi, như một niềm kiêu hãnh
trong lịch sử lập quốc của đất nước này. Đó là những chuyến tàu từ châu
Âu, châu Mỹ… đưa hàng triệu người Do Thái ở khắp nơi trên thế giới trở
về xây dựng quê hương sau khi Israel chính thức được thành lập vào năm
1948. Những gương mặt người Do Thái hồi hương khi ấy còn vương nét nhọc
nhằn sau Thế chiến, nhưng vẫn bừng sáng niềm hy vọng vào tương lai và ý
chí quyết tâm kiến thiết quốc gia. 70 năm sau khi lập quốc, ngày nay
Israel đã trở thành một trong số các quốc gia phát triển hàng đầu và là
nền kinh tế lớn thứ 34 thế giới (tính theo GDP danh nghĩa năm 2016).
Những chuyến tàu hồi hương ngày đó đã mang về cho quốc gia này vốn liếng
quý nhất là những con người tinh hoa để xây dựng thành công một đất
nước đã từng không có tên trên bản đồ thế giới.
Còn chúng ta? Sau 73 năm thành lập và thống nhất đất nước (dài hơn
thời gian lập quốc của Israel), những chuyến tàu (cả tàu thuỷ và tàu
bay) sao lại chỉ mang dân ta ra đi mà không có trở về? Lịch sử dân tộc
Việt Nam dường như gắn liền với các cuộc di dân, nhưng chua xót hơn là
cho tới tận bây giờ, những cuộc di dân ra nước ngoài vẫn chưa biết bao
giờ mới dừng lại? Bao câu hỏi cứ quay quắt trong tôi khi nghĩ đến em
gái. Ngoài kia, trời Sài Gòn vẫn vần vũ mưa. Tiếng hát Thái Thanh vọng
từ nhà ai đó nghe nức nở: “Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn
vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi…”.
Và trong tôi, không hiểu sao cứ thấp thoáng khôn nguôi hình ảnh những
con tàu hồi hương về Israel cùng những con tàu ly hương rời Việt Nam…
Nguyễn Thị Oanh
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 26/Jul/2018 lúc 10:51am |
Những Mảnh Hồn Phiêu Bạt...Tôi gặp và quen với chị Trâm trong một tiệm phở hiếm hoi của thành phố Columbus thuộc tiểu bang Ohio, vào một ngày hè năm 2010.
Thấy
tôi có vẻ giống một người Việt, chị tự ý đến bàn tôi trước để làm
quen. Chị than là ở cái tỉnh bơ vơ giữa lòng nước Mỹ này, thật không
phải là dễ khi kiếm được một người đồng hương
để nói chuyện!
Tôi đồng ý với chị, mời chị ngồi và ngỏ lời khen, vì chị đã biết
tìm đúng chỗ: một tiệm phở!
Quả
thật tình đồng hương
đã gắn kết chúng tôi thân mật với nhau thật dễ dàng. Qua những câu
chuyện và lời tự giới thiệu, tôi biết chị sinh trưởng trong một gia
đình "có-công-với-cách-mạng". Năm 1977, khi chị mới 2 tuổi,
cha chị đã hy sinh
tại mặt trận Tây-Nam (Campuchia). Mẹ chị là đảng viên, có chức, có quyền tại tỉnh
nhà. Ngay từ những ngày còn rất trẻ, chị đã được gửi đi du học tại
Úc . Và khi trưởng thành, chị nhanh chóng trở thành một giáo sư ngoại ngữ, căn bản là Anh Văn, môn học mà chị có năng khiếu
nhiều nhất.
Bình
thường, tôi không thấy hào hứng lắm khi phải nói chuyện với một
người có một lý lịch
như của chị Trâm. Nhưng với vẻ hồn nhiên
của chị ngày hôm đó, nhất là sự thành thực, cởi mở, và vô tư của một người sinh ra sau
chiến-tranh - một cuộc chiến mà chị không biết gì nhiều - đã làm
thay đổi cảm nghĩ của tôi, và tôi đã phải nhìn chị như là một, trong
những người trẻ tương lai của đất nước .
Là
một giáo sư xuất sắc trong thành phố, chị còn góp
phần không nhỏ trong việc truy tìm hài cốt
các liệt sĩ. Nhờ vậy,
cộng thêm sự vận động
của bà mẹ, một lần nữa chị lại nhận được một học bổng du học, lần này tại Hoa-Kỳ.
Chị rất phấn khởi, để hết tâm theo học và cho đến hôm nay, chị đã
qua được gần hết 2 năm đầu cho chặng đường tiến đến một psychology
degree.
Tôi
có hỏi đùa tại sao chị lại chọn một môn học "bí-hiểm" tại một tiểu bang
xa xôi này ? Chị cho biết phải chọn Ohio University là vì ở đây, học
phí tương đối thấp so với các tiểu bang
khác. Chị lại tình cờ có một người bà con ở ngay đây, không xa khu
học xá của chị là bao. Còn chị
chọn psychology, vì nó có liên hệ đến cái công việc tay
trái của chị. Tại Việt Nam, người ta qúi mến chị,̣ vì chị không chỉ đơn thuần là một giáo sư Anh ngữ,
mà chị còn là một "nhà
ngoại-cảm".
"Nhà-ngoại-cảm" ! Chà ! Tôi có quen một vài nhà báo, một vài nhà giáo, nhiều nhất là ... nhà binh, nhưng tôi phải
thú thực với chị Trâm là tôi rất mơ hồ với cái "nhà ngoại-cảm" này của chị, và mong chị giải thích. Chị Trâm vui vẻ cắt nghĩa
cho tôi, một cách rất khái quát:
Vũ trụ như ta thấy, là tổng hợp bởi
những eidos, tạm gọi là những thực thể.
Thực thể có hai loại: thực thể tinh tế hay
còn gọi là linh hồn,
không nhìn thấy được và có trước thực thể vật lý, còn
được gọi là thể xác,
có thể nhìn thấy và cảm nhận được. Con người là kết hợp bởi hai
thực thể nói trên. Khi chết đi, linh
hồn rời bỏ thể xác, nhưng vẫn tiếp tục sống trong một thế giới
không nhìn thấy, tồn tại song song với thế giới chúng ta. Tuy sang thế
giới khác, linh hồn
vẫn còn ít nhiều liên hệ với con người trên thế gian, và chỉ có một
số rất ... rất ít người có khả năng tiếp xúc được với những linh hồn. Những người này, hoặc vì
có "duyên nợ",
hoặc là được trao một
"sứ mệnh" nào
đó, có thể trò chuyện, giao tiếp
được với những linh hồn, thường là trong giấc ngủ ... Người ta gọi
những người như vậy là "nhà ngoại-cảm" . Ở Việt Nam sau năm
1975, nhu cầu tìm kiếm hài cốt của các thân nhân có con em bị hy sinh
trong chiến tranh lên rất cao, nhất là tại miền Bắc. Công việc truy
tìm này thường dẫn
đến
những vụ lên đồng lên bóng, gọi hồn, cầu cơ ... và cũng từ đó, phát sinh ra những nhà
ngoại-cảm giả mạo; lợi dụng lòng khao khát và sự mê tín của những thân nhân nhẹ dạ,
họ đã dùng đủ mọi mánh khóe để làm giầu một cách rất vô lương tâm !
Chị
Trâm tự hào chị là một nhà ngoại-cảm,
một nhà "ngoại-cảm chân-chính",
vì tất cả những công việc chị làm, đều thực sự có sự giao tiếp và giúp đỡ của những linh hồn, hiệu qủa chính xác và đều là bất vị lợi
. Chị chỉ làm để giúp người, không hề nhận của ai một đồng một cắc
nào. Chị đã tìm được cho vợ chồng một ông xã đội trưởng
ở Đức-Hòa hài cốt
người con du kích của họ, đã
hy sinh hồi Tết Mậu-Thân. Chị đã
tìm được một mồ chôn tập thể 17 liệt sĩ tại Nam Lào... Gần đây
nhất, trước khi sang Mỹ du học, chị đã góp phần tìm được cho hai vợ chồng người
chủ căn nhà trọ của chị, hài cốt
người con trai đã hy sinh
tại chiến trường Quảng-Trị năm 1972.
Cơ
duyên nào đã khiến chị trở thành một nhà ngoại-cảm là một chuyện
khá dài dòng - chị nói - Riêng về chuyện tìm kiếm hài cốt người bộ đội đã hy sinh trong trận Quảng-Trị,
biết tôi là một cựu quân nhân của
quân đội VNCH, chị muốn kể lại cho tôi nghe, vì chị nghĩ nó có thể có ý nghĩa hơn, là kể lại cho những
người xung quanh chị, ở trong nước. Chị hẹn tôi Thứ Bẩy tuần sau, chị
được nghỉ cả ngày, có nhiều thì giờ hơn.
Tôi
đến thành phố Columbus lạ hoắc này để thăm một bà chị họ bị đau
nặng. Bà đã hồi phục, mạnh khỏe trở lại và tôi có thể ra về, nhưng
tôi đã quyết định ở lại thêm
một tuần
nữa,
vì không hiểu sao, câu
chuyện
tìm hài cốt
một
người
bộ đội này của chị, nó đã khích thích sự tò mò
của tôi khá nhiều!
Đó
là một buổi sáng Thứ Bẩy thật đẹp! Tôi đến chỗ hẹn đúng giờ, chị
Trâm cũng đến rất đúng giờ. Sau những trao đổi xã giao thường tình,
chúng tôi ngồi nhâm nhi hai ly cà-phê, và đây, là câu chuyện của chị
...
o o o
Sau
một vài thành công về việc tìm kiếm và thâu hồi hài cốt liệt sĩ,
các báo chí trong nước
đua nhau tường thuật, nhiều đài truyền hình xin được phỏng vấn ... Tôi
bỗng dưng nổi tiếng!
Có rất nhiều người tìm đến nhà cậy cục, nhờ vả ... Tuy vậy, tôi
không dám nhận lời giúp bất cứ một ai, nếu như tôi không nhận được
những tín hiệu, hoặc là sự giúp đỡ của linh hồn những người quá
cố. Trong số những người nhờ vả, gần nhất có Dì An. An là tên vợ
chồng người chủ căn nhà tôi đã mướn tại quận 12, để tiện việc dậy
học. Hai vợ chồng Dì An - tôi thân mật gọi là Dì - đều đã lớn tuổi,
người miền Bắc. Ông chồng làm công an, thuyên chuyển vào Sàigòn sau
năm 75 và trở nên rất giầu có, làm chủ một dẫy nhà trọ. Dì An tâm
sự với tôi, là vào khoảng đầu tháng Sáu năm 1972, khi đứa con
trai thứ
nhì của vợ chồng dì vừa
được
16 tuổi
, nó đã được nhà nước "mượn tuổi" trước để gia nhập bộ đội, tăng cường cho mặt trận Quảng-Trị lúc đó đang trong giai
đoạn
cực
kỳ
sôi động.
Vào khoảng
cuối
tháng 9 năm 1972, có tin là Cổ
Thành Đinh-Công-Tráng cũng
như toàn thể
thị xã Quảng-Trị đã bị quân đội miền Nam tái chiếm, mà đứa con thì vẫn bặt vô âm tín, vợ chồng chị hết sức hoang mang, lo sợ ... Và cuối cùng thì điều lo sợ đó đã tàn nhẫn trở thành sự thực: đích thân Chính ủy Trung-Đoàn đến gặp vợ chồng chị, trao tặng rất nhiều huân chương cùng những lời động viên, ủy lạo ... Tất cả, chỉ là để đổi lại sự vĩnh viễn ra đi của đứa con 16 tuổi, mà xác của nó vẫn chưa ai biết là nằm ở nơi đâu, xung quanh khu Thành Cổ! ... Cho đến ngày gia đình
dì vào Nam, dì vẫn không nhận được thêm một tin tức nào! Dì An đã khóc khi cho tôi xem những hình ảnh, và các vật dụng
hàng ngày của đứa con bạc mệnh...
Mặc
dù trong lòng tha thiết muốn giúp, nhưng tôi không dám hứa hẹn gì
nhiều, mà chỉ mượn dì vài hình ảnh và vật dụng của người qúa cố,
hy vọng với sự cầu nguyện chân thành của tôi, sẽ có một sự đáp ứng
nào chăng ? ...
Và
... hơn cả
điều ước nguyện, khoảng hai tháng trước khi đi du
học, trong một
giấc
mộng,
tôi đã
nhìn thấy
và nhận
được đầy
đủ tất cả các địa danh, địa hình, các con đường mòn, cây cỏ, các mô đất ... Tóm lại là tất cả các chi tiết cần thiết cho một cuộc truy tìm mà tôi và Dì An đã bao ngày mong đợi !
Biết được chuyện này, Dì An hối hả giục tôi lên đường ngay, nhưng vì còn kẹt một vài giấy tờ cần thiết phải hoàn tất cho việc du học sắp tới, nên hơn một tuần sau chúng tôi mới khởi hành được.
Dì
An và tôi đến thị xã Quảng-Trị thì đã tối hẳn. Trời lại mưa dai
dẳng suốt mấy ngày liền...Chúng tôi phải tìm nhà trọ nghỉ ngơi, để
ngày hôm sau sẽ tiếp tục cuộc tìm kiếm sớm. Sáng hôm sau, từ nhà
trọ gần khu nhà thờ làng Trí-Bưu, Dì An đã phải mượn cuốc xẻng của
nhà thờ, mua một vài vật dụng cần thiết, và thuê hai anh xe ôm nguyên
ngày để chuyên chở và phụ giúp chúng tôi trong những việc cần đến
bắp thịt !
Chúng tôi phải đi trên những con đường làng quê nhỏ hẹp, rồi băng qua
một cánh đồng lớn, theo hướng tây bắc để tìm đến một làng có tên
là Triệu-Thành, nằm ngay sát bờ Nam sông Thạch-Hãn. Hai anh xe ôm cho
biết làng này xưa kia nghèo lắm, cả làng lèo tèo chỉ có độ vài mươi
căn nhà lá. Sau trận chiến kinh hoàng năm 1972, người ta đồn là các
làng quanh khu Thành Cổ này đều có rất nhiều ma! Vào những đêm mưa cuồng gió lạnh, các oan hồn tử sĩ đã tụ tập về quanh đây, tiếng khóc than hòa lẫn trong mưa gió, nghe thật rợn người ... Ngày nay, nhiều nhà gạch,
mái ngói đỏ đã được dựng lên, làm đẹp cho làng, nhưng chủ nhân những
ngôi nhà gạch này, hầu hết đã phải lên phường, xã để khai báo là
trong khi đào móng xây nền nhà, họ đã gặp rất nhiều bộ xương người
...
Theo
lối đường mòn nhỏ và rất trơn trượt, chúng tôi phải đi một quãng
khá xa đến cuối làng về hướng cực bắc. Khu này không có người ở,
và con đường mòn bị chắn bởi một con lạch nhỏ, có lẽ chảy vào từ
sông Thạch-Hãn. Nhìn quanh quất, tôi đã tìm thấy bụi chuối dại và
cây trứng cá. Tất cả cảnh vật đều đúng y như những gì tôi đã thấy
trong giấc mộng! Thật là huyền diệu ...
Chúng
tôi căng một tấm bạt che mưa gió, lập một hương án nhỏ để thắp mấy
nén nhang cầu nguyện ... Sau đó chúng tôi bốn người, hì hục đào,
xới, xúc đất ... Được cái đất ở đây cũng mềm, dễ đào, như là đã
có người dọn dẹp và xới lên từ trước, có lẽ bởi trời mưa mấy ngày
nay. Khi đã đào được khá sâu, hai anh xe ôm bỗng reo lên mừng rỡ ...
Những ống xương người bắt đầu hiện ra, xương chân, tay, xương chậu, rồi
thì hộp sọ ... Dì An đã bắt đầu mếu máo, rồi khóc lên thành tiếng,
trông thật tội !
Chúng tôi làm việc như những nhà khảo cổ, nưng niu từng lóng xương,
vuốt ve, chải chuốt rồi
được
rửa
sạch bằng
rượu
trắng
trước khi đặt nhẹ vào một chậu lớn bằng nhựa.
Trong
lúc mọi người đang phấn khởi thì bỗng nhiên, tôi có một cảm giác
thật lạ, có lẽ giác quan thứ sáu đã cho tôi biết: có một cái gì không ổn!? Tôi bắt đầu nhìn thấy dấu vết
của một đôi bottes de saut bên cạnh những lóng xương chân. Chỉ mềm nhũn
như bùn, nhưng cái đế giày bằng loại cao xu thật tốt, thân giày bằng
da và vải nylon còn nhận ra được ... có một cái ví cũng bằng da, nhưng
không một hình ảnh, giấy tờ nào còn tồn tại, tất cả đều nát ra như
bùn, đất ... Ngang bộ xương chậu, là dấu tích của một ceinturon, một
hộp quẹt zippo đã nham nhở rỉ sét. Không thấy có súng ống, mà chỉ thấy một vài qủa lựu đạn đã hoen
rỉ mà chúng tôi phải tránh xa . Ngang phía xương cổ, một miếng kim
loại nhỏ hình chữ nhật, bằng hai ngón tay, ố rỉ mầu nâu xậm, đụng
vào là gẫy nát ra từng miếng nhỏ rớt lả tả xuống mặt đất. Xa hơn
một chút là một cái nón sắt, cũng đã hoen rỉ, một nửa vẫn còn
ngập trong lòng đất, không ai muốn đào tiếp ... Dì An đã ngừng mếu
máo, dì cũng đã nhìn thấy những gì tôi thấy ... Ngoài một bộ xương
ra, không một dấu vết gì chứng tỏ đây là đứa con thân yêu của bà ! Chúng tôi hoàn toàn thất vọng
... Không lẽ tôi đã được chỉ dẫn ... sai ?!
Trước
những chứng cớ khá rõ rệt, Dì An và tôi đành phải chấp nhận là
mình đã tìm lầm phải hài cốt của một người lính phía bên kia ! Nhưng phải làm gì với bộ hài
cốt này đây ? Hai anh xe ôm cho chúng tôi biết là gần đây có một ngôi
chùa, phía sau chùa là một khu đất hoang, đã có đâu chừng gần chục
ngôi mộ vô danh đã được hòa thượng trụ trì cho phép chôn ở đó. Thật
là một giải pháp tuyệt hảo, và đã làm thì làm cho chót. Chúng tôi
cho tất cả bộ hài cốt vào một cái tiểu sành mà Dì An đã mang theo
và tìm đến ngôi chùa. Cúng dường cho nhà chùa một số tiền, sau đó
tôi và Dì An ra sức đắp lên một nấm mộ nhỏ ... Xong suôi, chúng tôi
thắp ba nén nhang, khấn vái ... Và sau cùng là một tấm bia nhỏ, cắt
ra từ một miếng tole do hai anh xe ôm làm giúp, trên đề: "Người
lính Vô Danh - VNCH" ...
Đêm
hôm ấy tại nhà trọ, qúa mệt mỏi sau một ngày quanh co tìm kiếm, đào
xới, đắp mộ ... vừa nằm xuống là tôi mơ màng vào giấc ngủ ngay.
Trong lúc còn nửa mê nửa tỉnh, tôi chợt thấy thấp thoáng có một
bóng người đang bước tới gần chỗ tôi nằm. Trong phòng chỉ có Dì An
và tôi, tôi cất tiếng hỏi:
--
Dì An chưa ngủ được sao ?
Bóng
đen đứng dừng lại, một giọng đàn ông còn trẻ, hơi bối rối :
--
Dạ ... không, là ... tôi đây ... xin chị đừng sợ ! Tôi không thể làm hại được ai,
chị cứ an tâm. Tôi ... tôi chỉ muốn đến để cám ơn hai chị đã cho tôi
một mái nhà. Một mái nhà tuy sơ xài, tạm bợ, nhưng vẫn còn hơn là ... cứ mãi mãi nằm sâu dưới lòng
đất lạnh !
Tôi
ngồi bật dậy, tối qúa, không thể nhìn rõ mặt người lạ ! Hơi sợ sợ, nhưng tôi vẫn giữ
được bình tĩnh:
--
Vậy anh là ... là ...
--
Vâng, tôi chính là người ... lính
vô danh mà hôm nay đã được hai chị đắp cho một ngôi mộ !
Đến
đây thì tôi hiểu ra rồi. Chỉ chiếc
ghế gần đó, tôi mời anh:
--
Anh ngồi đi, và ... anh có thể cho tôi biết một chút về anh được không
?
Anh ta không ngồi lên chiếc ghế,
mà ngồi bệt xuống nền nhà, hai tay ôm đầu gối, dựa lưng vào tường:
--
Dạ ! ...
Mà ... phải bắt đầu từ đâu nhỉ ? ...
À, tôi nhớ ra rồi ... chắc chị đã biết tôi là một người lính
miền Nam, lính gì thì tôi cũng không nhớ nữa, Nhẩy Dù hoặc Thủy Quân
Lục Chiến gì đó ... Chỉ nhớ là
khi vẫn còn đang trong tuổi đi học, một hôm tôi bỗng nổi khùng, tự
động đăng vào lính, một thứ lính mặc quần áo mầu hoa rừng ... Thế
rồi được huấn luyện và ra mặt trận ! Mấy trận đầu, cũng khủng khiếp
lắm, nhưng không sao, còn được thăng dần đến chức Hạ-sĩ nữa, nhưng từ khi được chuyển lên đến vùng Quảng-Trị này thì căng
thẳng thấy rõ, ngày đêm chỉ toàn bom và đạn, máu với lửa ...
--
Thế còn gia-đình anh thì sao, anh tên chi ?
--
Tên hả ? Nói ra chị đừng cười nhé, tôi quên cả ... tên của chính mình
rồi !
Sáng nay, các chị đã đề trên nấm mộ của tôi là "Vô Danh"
thật quá đúng ! Tôi còn độc thân, và vẫn nhớ là tôi
còn một bà mẹ và hai đứa em. Nhà gia đình chúng tôi ở đâu đó trong Sàigòn,
không nhớ rõ chính xác là ở đâu, hoàn toàn không nhớ nổi ... Đến
mặt mũi của mẹ và hai em của tôi, tôi cũng còn không nhớ là như thế
nào ... Chỉ hình dung là một khuôn mặt thật đẹp, thật dịu hiền ...
Nếu như có một phép lạ nào đó, cho mẹ và em tôi xuất hiện ngay tại
đây, thì lập tức tôi sẽ nhận ra ngay ! ... Nhưng bảo tả lại hình dáng của
bà thì tôi đành chịu, không thể ...
--
Anh bị mất trí nhớ từ hồi nào ?
--
Từ hồi tôi bị ... chết chị ạ !
Ngay khi vừa chết, tôi hoàn toàn không nhớ, không biết gì hết, lơ lơ lửng lửng, trí óc như một tờ giấy trắng
... Thời gian qua đi, ký ức dần dần phục hồi lại, từng mảnh, từng
mảnh ... không theo một thứ tự nào ! Tôi đã phải bận rộn suốt ngày,
để sắp xếp nó lại theo đúng với qúa trình của đời mình ... nhưng
việc này coi vậy mà thật không dễ dàng chút nào ! Một bức tranh mà tổng quát đã không rõ ràng, thì một vài chi tiết cũng chẳng biết phải để vào đâu! ... Nhưng sao lạ quá chị ạ, có những cái thật quan trọng,
thật riêng tư thì tôi vẫn ... quên, mà những gì không cần thiết, thật
... vớ vẩn thì lại hiện lên, rõ mồn một! Tôi có thể đọc lại những bài
"học-thuộc-lòng" từ hồi còn nhỏ, không sai một chữ! ...
Ngừng
một phút, anh buồn rầu nói tiếp:
-- Chị coi, hồn phách nào mà chịu nổi,
bom đạn từ bốn phương tám hướng cứ dồn dập đổ xuống như mưa, ngày
này qua ngày khác. Hết pháo từ Cao-Hy, từ Tân-Vĩnh, Ái-Tử ... của
Bắc-Việt dập xuống, rồi pháo của TQLC, của SĐDù từ La Vang bắn lên, của QĐI, của Hạm Đội 7 Hoa-Kỳ ngoài
khơi câu vào ... B-52 thì trải thảm bất cứ lúc nào, dữ dội nhất là
ở hành-lang từ
Nhan Biều lên đến
Ái tử, mặt đất cứ rung lên như động đất ! Ngày này qua ngày khác chị ạ,
cả ngày lẫn đêm, toàn những loại bom đạn giết người tối tân nhất,
hiệu lực nhất ... Lại còn phi pháo, bom xăng đặc, bom lửa lân tinh từ
những phản lực cơ nữa chứ ! Thật
tình là ngay cả những linh hồn như chúng tôi, cũng không thể nào kham
nổi ...
--
Các anh chịu đựng như vậy, trong bao lâu ?
--
Cho đến khi tàn cuộc chiến ... riêng tôi thì khoảng hơn hai tháng! Hơn hai tháng với trên một triệu
viên đại
pháo: hải pháo, phi pháo, sơn pháo ... Hơn 328 ngàn tấn bom đạn đủ
loại ... một khối lượng bằng 7 lần qủa bom nguyên tử thả xuống
Hiroshima đã dội xuống, từ
ngoài vào trong, có khi lại
từ
trong ra ngoài khu Cổ-Thành này, nó chỉ rộng khoảng hơn 3 cây số vuông
thôi !...
Vâng, trận tái chiếm Quảng-Trị này là trận chiến ác liệt nhất, làm thiệt hại cho phía Bắc-Việt nhiều nhất, trong lịch sử chiến tranh của
cả vùng Đông-Nam-Á đấy chị ạ !
--
Làm sao các anh biết được những điều này ?
--
Thế
chị tưởng chúng tôi không biết những gì đang xẩy ra trên thế gian ư ?
Chúng tôi biết hết chị ạ !
Nhưng biết chỉ
để biết thôi, nhất là không thể và không được phép làm bất cứ điều gì
xâm phạm đến dương thế ... À, mà đáng lẽ tôi phải nói ngay với hai
chị, là khu đất mà các chị khai quật sáng nay là đúng chỗ rồi đấy ! Anh
ấy là lính thông tin, thuộc Trung-Đoàn Triệu-Hải, E27 - SĐ 320B. Chẳng hiểu đi nối dây điện thoại
thế nào, lại lò mò lạc vào đúng tổ kích của tụi tui, bị bắt ! Lúc đó bất chợt bom đạn rơi xuống như mưa, tôi phải vội
đẩy
anh ấy chạy vào cùng núp chung trong một
cái hầm. Đó là một
loại
hầm
chữ A
đã cũ, do Việt-Cộng đào từ trước và bỏ lại khi đã xâm nhập vào sâu hơn trong nội địa. Loại hầm này khá an toàn với loại đạn bắn thẳng, nhưng xui là đúng lúc đó, một
qủa pháo không biết của bên nào, đã đổ xập xuống ngay cửa hầm, và
chỉ nội sức ép công phá của nó thôi, cũng đủ kết liễu cuộc đời
của cả hai đứa!
... Chưa hết, rồi bom, pháo cứ tiếp tục cầy lên, cầy lên mãi ... cuối
cùng là hai đứa nằm dưới mặt đất đến vài ba thước! .
Ngừng
lại một vài giây, anh tiếp:
-- Rồi cuộc chiến cũng qua đi ... trên
mặt đất chỗ chúng tôi nằm, cỏ hoang lan cùng khắp, các bụi cây dại
mọc lên chằng chịt, thêm vào là mấy ụ mối ... Thế gian lại chìm vào
sự thinh lặng dễ sợ !
Chỉ riêng trong đầu óc chúng tôi, những tiếng rít của đầu đạn xé
không gian, những tiếng bom nổ long trời lở đất ... vẫn không bao giờ
ngừng nghỉ !
...
--
... Anh làm tôi cảm động qúa !
... À, anh nói cả hai anh cùng núp chung một
chỗ, mà sao sáng nay chúng tôi lại chỉ tìm thấy có một mình anh ?
--
Dạ đúng vậy !
Trước các chị gần một tuần, có một nhóm chừng 8, 9 người đã đến
khu chúng tôi ở . Đó là một đội Quy-Tập của nhà nước, họ khai quang,
đào xới một khoảng chừng 50 mét vuông. Là những người khá chuyên
nghiệp, với đầy đủ dụng cụ, máy dò ... Chỉ cần quan sát thật kỹ
thôi, là họ biết phải thâu gom
những gì, và để lại những gì ... Cuối cùng, 4 bộ hài cốt trong đó
có anh ấy, đã được tìm thấy và mang đi ... Chỉ còn mình tôi thì nằm
ở lại ...
-- Có phải họ biết anh là người lính
miền Nam, nên để lại ?
--
Dạ, hai bộ xương nằm gần nhau, xương cốt người Việt thì cũng sàn sàn
một cỡ, giống nhau cả, nhưng những vật dụng cá nhân nằm kề hai bộ
cốt thì lại hoàn toàn khác hẳn. Dưới những lóng xương bàn chân anh
ấy là tàn tích của một đôi dép râu, ngang chỗ xương chậu là dấu vết
của một võng bộ-đội bằng nylon ... Ngoài ra, có những vật dụng mà
thời gian chưa tiêu hủy được, như là một nanh heo rừng mà anh ấy đã
đeo làm bùa hộ mệnh, một lọ thủy tinh nhỏ đựng thuốc trị thương (?) mà các bộ đội thường có ... Và
thuyết phục nhất là một bi-đông nước làm tại Trung Quốc, tuy cũng đã hoen rỉ nhiều, nhưng
trên đó vẫn nhận ra được dấu khắc tên và nơi sinh quán của anh ấy
tại Hà-Tây, miền Bắc ... Còn những hình ảnh hoặc giấy tờ cá nhân,
nếu có thì cũng đều biến thành tro bụi hết ...
--
Sao họ lại đang tâm để anh ở lại một mình như thế nhỉ !? Anh có buồn không ?
--
Cũng phải thông cảm cho họ thôi, họ cũng đã qúa bận rộn với mấy
trăm ngàn bộ hài cốt trên toàn quốc. Hơn nữa, công việc chính của họ
không phải là lo cho chúng tôi, mà là lo cho các liệt sĩ của họ ! Còn có vì thế mà buồn không ư ?
Không chị ạ, có cả hàng ngàn những linh hồn khác, vẫn còn đang chập
chờn, phiêu bạt khắp quanh đây ...
--
Vậy chứ dưới đó, có sự ... kỳ thị, phân biệt gì giữa các anh với nhau không ?
Nhìn
về phía xa xôi, hình như anh ta hơi mỉm cười :
--
Chị làm tôi nhớ lại hai câu thơ cổ của thi hào Hoàng đình Kiên đời
nhà Tống: Hiền ngu thiên tải tri thùy thị, Mãn nhãn bồng cao cộng
nhất khâu!
... Hoàn toàn không chị ạ !
Đã là người chết, cùng chung một gò hoang đầy cỏ bồng dại, biết ai là người hiền, ai là người ngu; ai sai, ai đúng làm gì nữa
? Vâng, chỉ có những người trên dương thế, đời sống còn phải lệ thuộc rất nhiều vào vật chất, nên mới
sinh ra tranh giành, phân biệt nhau thôi. Dưới này, chỉ là những linh hồn, chúng tôi đều coi nhau như anh
em, bình đẳng, không hận thù ... Và tất cả cùng có chung một nuối tiếc, đó là: chỉ vì
áp lực của những siêu cường trên thế giới, mà Việt Nam mình đã trở thành một con
cờ thí, đất nước phải trải qua một cuộc chinh chiến tương tàn, nồi
da xáo thịt, để biết bao nhiêu triệu người phải hy sinh một cách rất
oan uổng!
...
--
Vậy là ở dưới đó, anh có rất nhiều bạn ?
--
Rất nhiều chị ạ ! Hồi
trước thì ... thật là nhiều !
Ngoài đám thường dân vô tội, chết vì bom rơi đạn lạc, còn thì đều
là lính tráng thuộc cả hai phía: Nhẩy Dù có, Thủy Quân Lục Chiến
có, rồi Biệt động Quân, Sư-Đoàn1BB, SĐ3BB, Liên-Đoàn 81 Biệt-kích Dù,
Kỵ-Binh Thiết-Giáp ... Bộ đội Bắc-Việt thì đông hơn nhiều, chủ lực
có Sư-Đoàn 304, SĐ 308, 312, 320, 324, 325, K3-Tam-Đảo, một vài
Trung-đoàn địa phương và tiểu-đoàn đặc công ... Có đến cả chục ngàn
đứa chúng tôi, vẫn còn ngơ ngẩn vì bom đạn, cứ lang thang vật vờ trên
những ngọn cỏ bụi cây, rừng hoang đồi trọc vài cây số vuông xung quanh
khu Thành Cổ, hoặc hai bên bờ sông Thạch-Hãn này ... Đứa nào cũng
mong ước một ngày nào đó, được về lại với gia đình, với cố hương ! ... Sau này thì cứ bớt dần, bớt
dần ...
--
Sao lại như vậy, họ đi về đâu ?
--
Nhà nước bây giờ là "bên thắng cuộc", đầy quyền lực, tiền
bạc và phương tiện. Họ muốn trả ơn những người đã
chết, để cho họ và gia đình họ có được cuộc sống trên nhung lụa ngày hôm nay,
nên tổ chức rất nhiều đội Quy-Tập. Các đội này, chuyên đi khai quật những nơi
đã từng là chiến địa đẫm máu
ngày xưa, trên toàn quốc
kể
luôn cả
Miên, Lào ... để
thâu gom những
hài cốt mà khi xưa đã được vùi lấp một cách rất sơ xài, qua quít bởi các đồng chí của họ, đang rất vội vã trên con đường bôn tẩu ... Và cũng nhờ những nhà
ngoại-cảm chân chính như chị, đã có biết bao nhiêu nấm mồ hoang, mồ
chôn tập thể đã được khám phá. Một số hài cốt có lẫn hình ảnh,
giấy tờ hoặc những vật dụng cá nhân mà thân nhân nhận diện được,
thì về đoàn tụ với gia đình; nếu không, phải về nằm tạm trong các
lô đã được xắp xếp trước theo quê quán, đơn vị ... tại những nghĩa
trang liệt sĩ địa phương, chờ !
...
--
Chắc là nhiều lắm ?
--
Nghe nói có đến hơn 300 ngàn bộ
hài cốt thuộc tất cả các mặt trận, đang trong tình trạng chờ đợi như
vậy, vì chưa tìm ra lý lịch. Rồi tự nhiên phát sinh ra một lô những
nhà ngoại-cảm "dổm", họ còn dám lấy cả xương
xúc vật,
ngụy
tạo
là xương người
để lừa đảo, trục lợi ... Mọi việc từ đó cứ loạn cả
lên, giờ thì chẳng còn phân biệt được ai là thực, ai là giả nữa !
--
Giờ này họ có còn tìm kiếm nữa không anh ?
--
Vẫn tiếp tục chị ạ !
Họ ước tính là phải còn hơn 200 ngàn bộ nữa !
Đây là chỉ riêng liệt sĩ của họ thôi nhé, còn lính miền Nam
hoặc là dân đen thì chị biết đấy: tự lo ! ...
Ngừng
một giây, anh tiếp:
--
Chị tính đi, chỉ
riêng cái tỉnh Quảng-Trị này cũng có đến 72 nghĩa trang liệt sĩ ! Trên toàn quốc tỉnh nào cũng
có, lớn nhỏ ít nhất cũng phải từ dăm bẩy đến vài chục cái. Đáng kể nhất, là cái
nghĩa trang vĩ đại, "hoành-tráng" nhất nước, là nghĩa trang
liệt sĩ Trường-Sơn. Nghe đâu nó rộng
đến hơn 140 ngàn mét vuông, nằm trên ba ngọn đồi lớn cạnh thượng
nguồn sông Bến-Hải. Cho đến bây giờ, đã là nơi an nghỉ của những
10,333 liệt sĩ của họ ... Biết bao nhiêu là linh hồn đã tìm được về
nhà, hoặc một nơi ổn định, để rồi sẽ được giải thoát ? ... Chỉ
riêng chúng tôi, những người lính miền Nam ...
Câu
cuối cùng anh nói nhỏ qúa, như lẫn với tiếng khóc, cố gắng lắm tôi mới nghe được ! Biết anh đang qúa xúc động, tôi
giữ im lặng ... Phải mấy phút sau, anh mới lấy lại được một giọng
nói bình thường:
--
Mà nói thực ra, nhiều anh em như chúng tôi, cũng chẳng biết là nếu
về được, thì về đâu ? Gia đình ly tán hết sau chiến tranh, người thì
buộc phải rời bỏ nơi tổ ấm từ bao đời, để đi vào chốn rừng thiêng
nước độc "kinh-tế-mới", người thì vào tù cải tạo, nhà cửa
bị chiếm đoạt, vợ con nheo nhóc bị đuổi
ra sống nơi đầu đường xó chợ ... Lại còn một số không ít, dắt díu
nhau đi vượt biên, vượt biển ... để rồi
phải
bỏ
thây nơi rừng
sâu nước
độc
đầy
thú dữ,
hoặc
làm mồi
cho cả
cá biển
lẫn
hải
tặc
... Người
nào may mắn
thoát đi được
thì cũng
lâm vào cảnh
ruột thịt chia lìa, ngàn trùng xa cách ... Về đâu bây giờ ? Ngay cả
cái nghĩa trang quân
đội
của miền Nam ở Biên-Hòa đó, bây giờ chỉ còn là một bãi đất đầy cỏ
hoang với nhấp nhô những nấm mồ vô chủ, bia mộ, tượng đài bị đập phá ... chẳng còn ai được phép
ngó ngàng tới ! Nói chung là chỉ vì những người trên dương
thế vẫn còn đắm chìm trong thù hận, phân biệt, nên chúng tôi vẫn còn
bị lạc lõng, bơ vơ ...
Lúc
này, tôi chẳng còn biết nói gì hơn là một câu an ủi thật ... vô duyên:
--
Thời nào cũng thế anh nhỉ, đầy những bất công !
Anh
ta mỉm cười, rồi nhìn xa vời về phía trước:
--
Cũng đúng thôi chị ạ, vì chẳng nơi nào tự nhiên mà có sự công bình
hết. Để trái đất này và loài người tồn tại được, Thượng đế chỉ
cho chúng ta sự quân bình thôi, còn công bình thì không ! Con người phải tự tranh đấu dành sự công-bình cho
chính mình, tùy theo trình độ văn minh của họ ! Những câu như "ở hiền gặp
lành" hoặc "ác giả ác báo" chỉ có giá trị cho việc
răn dậy con trẻ mà thôi...
--
À này, vậy chứ ở dưới đó, anh có thấy thiên đàng hay địa
ngục gì không ?
--
Thiên đàng, địa ngục hả ? Tôi không thấy, hoặc là chưa thấy gì chị ạ! Những danh từ ấy, nó thật là
trừu tượng !
Theo tôi nghĩ: thiên đàng, địa ngục, thánh thần hay ác qủi gì, thì
cũng đều ở cả trên mặt đất mà thôi.
Nơi nào người ta sống thật sự tự do, hạnh phúc ... thì nơi đó
là thiên đường, mà trái lại thì là địa ngục! Cũng ngay trên mặt đất, thiếu gì
người cả một đời hiến thân làm việc từ thiện, cứu nhân độ thế, họ
đều là tiên là thánh cả. Lại có nhiều người khác, buôn dân bán
nước, sống trên xương máu của lương dân, giết hại cả triệu đồng bào ... không gọi họ là ác
qủy thì phải gọi là cái gì ?
-- Vâng, anh nghĩ như vậy cũng không
có gì là sai lắm đâu !
... Nhưng thôi, trở về thực tại ... Hôm nay, đắp cho anh được một nấm
mộ nhỏ, hai đứa chúng tôi cứ thắc mắc, không hiểu là như vậy có
giúp được gì cho anh hay không ?
--
Tốt lắm chị ạ !
Chị quên là tôi đang phải lần mò đến đây để cám ơn hai chị rồi sao
?... Nấm mồ tuy nhỏ, nhưng nó cũng đủ để làm một dấu hiệu cho những
người trên dương thế biết rằng, ở dưới đó có tàn tích của một con
người, dù chỉ là một người ... "vô danh" !
-- Vâng ... nhưng ý tôi muốn nói là:
nó có giúp gì cho anh trong cái gọi là ... là "siêu thoát"
hay không ?
--
Đáng tiếc là không chị ạ !
Sớm muộn gì thì tất cả mọi linh hồn cũng đều được giải thoát thôi.
Sớm, hoặc muộn. Cũng như trên dương gian, tuổi thọ của con người không
ai giống ai, có người thọ, đại thọ... Ngược lại, có người lại bị
chết yểu, chết non ... Đều là số mệnh cả, vẫn còn nằm trong sự
huyền bí của Thượng-Đế mà chúng ta không thể biết được. Ngay cả ở
dưới này, lâu lâu chúng tôi lại thấy có một số anh em ... biến mất ! ... Chúng tôi ngờ rằng họ đã
được siêu thoát, giải thoát, hoặc là "đầu thai" gì đó, không
ai biết !
... Chắc là phải ... chết thêm một lần nữa mới biết được chị ạ ?! ...
Suy
nghĩ một lúc, anh tiếp:
--
Vấn đề là phải kiên nhẫn chờ, chờ đến ngày mình được giải-thoát! ... Mà trong khi chờ đợi như vậy, còn gì
đẹp hơn là được nằm trong một nghĩa trang gia đình, nghĩa trang làng
mình, hoặc thành phố mình ... Được nhìn thấy những người thân yêu đi
lại ở xung quanh, được nhìn thấy những hàng cau, lũy tre làng, những
cánh diều của tuổi thơ ... Lại còn mùi trầm hương, nhang khói nữa chứ ...
Những câu kinh, tiếng mõ, tiếng chuông chùa ... Tất cả đã hòa quyện vào nhau, tạo thành một chất
xúc tác rất mơ hồ, rất huyền ảo, làm cho âm và dương gần gũi nhau hơn
... Người công giáo thì họ ao ước được nghe lại những tiếng kinh cầu,
những bản thánh ca, hồi chuông giáo đường ... đều là những gì rất
cần thiết để làm ấm lại, những linh hồn giá lạnh ... Vâng!
chúng tôi sợ lắm, sợ phải lang thang vất vưởng ở những nơi đồng không
mông quạnh, núi non bạt ngàn như chỗ chúng tôi đã bị gục ngã ...
Đến
đây, anh từ từ đứng dậy, cố gắng đứng thẳng người, làm như đang sửa
soạn để chào một vị thượng cấp:
--
Biết là hai chị vừa trải qua một ngày thật mệt nhọc, nhưng tôi không
thể không đến đây, để nói một lời cảm tạ chân thành tự đáy hồn của
tôi. Không tìm được người thân, hai chị có thể lặng lẽ bước đi, như bao người khác ... Nhưng hai
chị đã không làm thế, ngay cả với một người vô danh như tôi đây ! Tôi chắc chắn sẽ không bao giờ quên ơn hai chị... Và bây giờ ... chị có thể
tiếp tục giấc ngủ của chị, tôi xin phép ...
Nói
xong, anh ta lặng lẽ quay lưng bước ra cửa, đầu như hơi cúi
xuống ...
Một
làn gió lạnh tràn vào, tôi giật mình bừng tỉnh dậy! Biết là mình vừa mới qua một
giấc mơ... Có phải
một giấc mơ không, mà sao tôi vẫn
còn nhớ rất rõ, từng chi tiết ?... Nhìn vội ra phía cửa, hình như
tôi còn thấy thấp thoáng cái bóng của anh, đang nhạt nhòa lẫn vào
một màn sương càng lúc càng dầy đặc ...
o o o
Đầu
năm 2011, vào một
ngày Xuân trong tiết
Thanh-Minh, tôi nhận được một lá thư của chị Trâm từ Việt Nam . Lá thư
khá dài, ngoài một vài thông tin, còn có cả những lời như "tâm sự" của chị nữa. Chị cho
biết là gia đình Dì An đã chính thức nhận được đầy đủ bộ hài cốt
của người con, có DNA xác nhận và
đã được mai táng tại nghĩa trang của dòng họ tại Hà-Tây, Bắc-Việt.
Còn về phần chị, chị đã có được mảnh bằng mà chị mơ ước, tuy nó
chỉ là một ***ociate degree, nhưng ở Việt Nam, nó là qúi lắm ! Chị dự định sẽ chỉ dùng sự
hiểu biết của mình cho việc giáo dục thôi, vì chị đã tạm ngưng công
việc của một "nhà ngoại-cảm" rồi. Nhiều lúc chị bâng khuâng
tự hỏi: không biết là vì có "duyên nợ", hay là vì được trao
một "sứ mệnh", mà bỗng dưng chị lại có khả năng của một
nhà ngoại-cảm,
sau một trận ốm liệt giường? ... Cho dù vì bất cứ một lý do gì,
chị cũng nghĩ là mình phải dùng năng khiếu thiên phú này để giúp
người. Mà người đây có nghĩa là tất cả mọi người, chứ
không phải chỉ riêng cho một nhóm cùng chung một phe, một đảng ! Những người "ngã ngựa" thì đã
nhận lãnh đầy đủ các kiểu đòn thù rồi, có cần phải tiếp tục với
những bộ hài cốt nữa hay không ? Thực tế đã khiến chị phải tạm
dừng lại, để chờ ! Chờ
và hy-vọng ... Đã từng du học ở những nước tiền tiến, chị thất
vọng khi thấy những người lãnh đạo trong nước, lòng nhân bản của họ hầu như là không có, mà tiến trình văn minh của họ thì lại đi qúa chậm ! Tệ hơn nữa, nhiều khi họ còn đi
cả ... giật lùi !
Ngược dòng lịch sử, chúng ta đã từng chê trách hành động qúa đáng,
không quân tử của vua Gia-Long, là
trả thù cả với hài cốt của vị anh hùng áo vải Quang-Trung. Thế mà
ở thế kỷ thứ 21 này, chuyện tương tự xấu xa đó cũng đã đang được
tái diễn, trên toàn thể nước Việt ! ... Cuối thư, chị có viết là :
Để tránh khỏi phải đau lòng, nhiều khi thà không làm gì hết, còn hơn
là chỉ được làm có phân nửa công việc !
Gấp lá thư của chị và để trong túi áo, tôi nhìn ra nghĩa trang mênh mông ngoài kia; có những ngôi mộ thật là đẹp, và trên đó, có những bó hoa cũng thật là đẹp, cho những linh hồn may mắn. Tôi chợt nghĩ đến, ở nhiều nơi xa xôi, hoang vắng cuối một vùng trời nào đó, có biết bao nhiêu là mảnh hồn khác, vẫn đang còn âm thầm phiêu bạt, lạc lõng, bơ vơ ... vì vẫn chưa tìm được con đường về với mái ấm gia đình!
Virginia, ngày lễ ThanhMinh 2015
Bùi Thượng Phong
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 02/Aug/2018 lúc 9:21am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 141 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |