![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Thơ Văn | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 201 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Người Đàn Bà Trên Tàu HQ 502 <<<<<<
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23786 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23786 |
![]() ![]() ![]() |
Little SàiGòn ![]()
Phòng locker của hãng cũng là phòng break, phòng này rộng, những chiếc
ghế dài kê giữa hai dãy locker toàn là người Việt Nam. Chỉ nghỉ có 15
phút mà sôi động đủ thứ chuyện vặt, về chồng con, hàng xóm và nói xấu
lẫn nhau.
Tôi đang ngồi say sưa hóng hớt chuyện nói xấu kẻ khác, thỉnh thoảng không quên đóng góp thêm mắm thêm muối vào vài câu cho thêm phần hấp dẫn thì có người khều vai: - Ê, nhờ chút coi! Chị Lộc xà đến, mặt nhăn nhó: - Ðau mình đau mẩy quá, cạo gió giùm tao để còn lấy sức vô làm tiếp. Dù đang bận tham gia vào câu chuyện đang đến lúc dầu sôi lửa bỏng, tôi vẫn xăng xái: - Có ngay, để em lấy đồ nghề. Locker của tôi ngay cạnh đó, bên trong luôn có sẵn một giỏ đựng đủ thứ đồ nghề cấp cứu: mấy viên thuốc nhức đầu, thuốc giảm đau, và chai dầu gió. Dần dần bà con coi tôi như bác sĩ gia đình hồi nào không hay. Ai có đau nhức gì đều hỏi xin thuốc hay nhờ cạo gió. Công việc trong hãng khá vất vả nên đau tay, mỏi vai là chuyện mỗi ngày, tụi Mỹ đen, Mỹ trắng vào làm và nghỉ làm thường xuyên như đi chợ, vì chán, không chịu nổi, nhưng hầu như chẳng người Việt Nam nào có ý định bỏ việc cả, mà ngược lại, càng ngày càng đông, họ cần cù, chịu khó, biết người biết ta, để kiếm tiền, để cuộc sống ổn định. Cho nên cứ thấy hãng xưởng nào đông người Việt Nam thì biết ngay công việc nơi đó hoặc vất vả hoặc đồng lương rẻ mạt, họ đỡ phải cạnh tranh với dân bản xứ. Ai chán thì cứ đi, Việt Nam ta vẫn ở lại, với những người tiếng Anh tiếng u nửa vời cỡ như tôi, tài cán gì mà bon chen cho mệt. Chị Lộc đã tốc áo lên, phơi cả tấm lưng ra, sẵn sàng cho tôi cạo gió. Tôi bôi dầu một cách điệu nghệ và cạo tới đâu “gió” nổi lên tới đó, mấy bà ngồi bên xuýt xoa: - Bà Lộc trúng gió rồi! - Ráng chịu đau một chút là khỏe liền. Tôi đang “hành nghề” thì một cô Mỹ đi tới, nó ngồi tuốt đằng xa, chắc thấy bọn tôi chụm lại ồn ào nên tò mò đến xem và ngạc nhiên hỏi một tràng. Tôi đoán chừng và trả lời ngay bằng tiếng Anh ESL ba chớp ba nháng của mình: - She is sick, me “cạo gió”, she no more sick. Và tôi chỉ vào tấm lưng đỏ ửng của Lộc, diễn giải thêm: - This is “cạo gió”. Thấy vẻ mặt cô Mỹ vẫn còn ngơ ngác, một chị tên Linh nói khá tiếng Anh bèn trình bày là Lộc bị cảm và tôi đang làm công việc gọi là cạo gió, sẽ làm cho Lộc thấy tốt hơn, thì cô Mỹ mới bỏ đi. Thì ra cô Mỹ tưởng tôi đang làm đau Lộc. Chắc cô Mỹ này mới vô làm, chứ những người Mỹ làm ở đây lâu, họ cũng rành chuyện người Việt Nam cạo gió cho nhau rồi. Chị Linh quay ra nói với tôi: - Tôi nghĩ rằng chúng ta nên cạo gió trong hãng kín đáo hơn một chút, tuy là thói quen của người Việt Nam, nhưng người Mỹ nhìn vào bằng cách khác, có vẻ như không tốt cho chúng ta, khi mà ở ngay nơi chốn công cộng đông người lại tốc áo hở lưng thế kia. Tôi lẩm bẩm với vẻ bực mình: - Quyền tự do dân chủ của mỗi người, tôi chỉ giúp đỡ người khác chứ có hại ai đâu. Chị Linh bỏ đi, tôi tức điên cả ruột mà không làm gì được. Hôm nay là ngày gì mà xui thế? Lúc nãy ăn "lunch" xong, tôi đang rửa bát trong bồn rửa tay, đã bị một bà Việt Nam phê bình rồi, bà ta bảo: - Ðây đâu phải chỗ nhà bếp của chị mà rửa bát với đũa? Nói xong bà ta ngoe nguẩy bỏ đi, không thèm đứng lại cho tôi cãi cố lấy một câu. Sao lại có người lắm chuyện đến thế? Tôi rửa bát trong hãng là để tiết kiệm thời gian, lát về nhà khỏi phải rửa, và nhân thể tiết kiệm nước. Thật sung sướng khi nước nóng, nước lạnh mở thoải mái để rửa bát, tráng bát năm lần bảy lượt mà không lo đến cái "bill" nước như ở nhà mình, nhưng tôi xài nước trong hãng, hao tốn nước trong hãng chứ có hao tốn nước của nhà bà ấy đâu mà bà xót ruột, xía vào? Ai bảo "sĩ diện" không chịu bắt chước bọn tôi, rồi ghen tức lên? Mà nhiều người Việt Nam khác cũng làm thế, chứ có một mình tôi đâu? Các bà rửa bát, đũa, thìa, xong còn lấy một đống giấy "napkin" của hãng, lau khô từng món một trước khi cất vào giỏ. Thỉnh thoảng có bà sơ xuất để sót lại vài hột cơm trong "sink", là đám rửa bát chúng tôi lại bị những người Việt Nam khác nhìn bằng ánh mắt nửa lên án, nửa trách móc, có người còn nói xa nói gần là làm mất thẩm mỹ nơi công cộng, làm họ xấu hổ lây vì cùng là người Việt Nam. Tôi không thèm chấp với những người nhỏ nhặt, ích kỷ đó, cứ để ý từng cử chỉ, hành động của đồng hương mà phê bình, lên mặt dạy đời. Sang Mỹ được 3 năm, nơi nào có người Việt Nam đông là nơi ấy tôi thấy thoải mái quá chừng, thí dụ như đi chợ Việt Nam, bãi đậu xe hay trước cửa chợ lúc nào chả có rác và những mảnh báo cũ bay phất phơ trong gió đến là vui mắt, nên tôi cũng cho quyền mình được thoải mái xả rác theo, chứ không như những nơi công cộng của Mỹ, cái miếng giấy nhỏ xíu bọc miếng gum, tôi cũng phải ráng giữ trong tay cho đến khi tìm được thùng rác. Ði bác sĩ Mỹ cũng vậy, phải đúng hẹn, bác sĩ Việt Nam thì có hẹn cũng như không, ai đến ghi tên trước thì được gọi vào trước, vậy mà cũng bày đặt bắt người ta phải lấy hẹn. Hẹn một đằng làm một nẻo, hình như người Việt Nam mình quen với những chuyện bất bình thường từ đời kiếp nào rồi, nên chẳng ai buồn thắc mắc. Rút kinh nghiệm, tôi luôn đi sớm hơn giờ đã hẹn và qua mặt luôn mấy ông già bà cả đến đúng hẹn đang lù khù ngồi chờ đợi dài cả cổ. Mấy ông bà già đó có thẻ bảo hiểm miễn phí, nên chỉ hơi thấy mình mẩy đau nhức, hay sổ mũi nhức đầu là thoải mái lấy hẹn đi bác sĩ cho khỏi uổng phí cái thẻ mà xã hội ban cho, thuốc uống không hết thì để dành cho con cháu dùng ké hay gom lại gởi về Việt Nam làm quà vô cùng quý hóa. Tuy đợi, nhưng họ không để hoang phí thì giờ, họ bắt chuyện để nói với nhau rổn rảng trong phòng đợi, ông ngồi ở một góc đầu phòng nói vọng tới bà đang ngồi tận cuối phòng, nên cả phòng đợi coi như đang hội họp, đề tài thường là than thở ốm đau, bệnh tật, về con cháu, về những kỷ niệm quê nhà ngày xưa. Dù bất cứ đề tài nào, bất kể tuổi tác, bất kể trình độ, tôi cũng hăng hái xía vào câu chuyện cho đến khi được gọi vào khám bệnh trước họ. Tôi lấy "vacation" đi California chơi một tuần theo lời mời của người chị họ. Vừa bước xuống phi trường John Wayne, tôi đã cảm nhận ngay bầu không khí trong lành, mát mẻ, những cây cọ, cây dừa dọc theo đường phố đã tạo nên một vẻ đẹp riêng của thành phố có biển. Cuối tháng Mười, chanh, cam chín đầy cành, lấp ló sau những bức tường thấp hay qua hàng rào thưa làm cho tôi thích thú, và càng thích thú hơn khi được chị tôi dẫn đến khu Little Sài Gòn vào buổi sáng thứ Bảy. Chúng tôi vào một cửa hàng "food to go" để mua chè và bánh trái, để tôi biết mùi quà Cali như những tin đồn. Hàng chè đông nghẹt người, đang bu quanh quầy chè và chỉ trỏ những món cần mua, ai cũng muốn mua trước, ai cũng muốn mua nhanh, chẳng xếp hàng thứ tự gì cả, cứ chen lấn mạnh được yếu thua, kẻ bán, người mua ồn ào như ong vỡ tổ, làm như sau một đêm ngủ dậy điều quan trọng nhất trong cuộc đời họ là ra chợ mua chè, hay như họ phải ăn vì chiều nay tận thế. Chị tôi ngao ngán lắc đầu định đi ra, nhưng tôi hăng hái giữ chị lại: - Ðể em. Hồi ở Việt Nam, em từng chen lấn, giành giựt mua vé xe đò, xe lửa nên quen cảnh này rồi. Nói là làm ngay, tôi xông vào đám đông, cũng xô, cũng đẩy, cũng hò hét và chẳng mấy chốc đã xách ra được một túi những hộp chè và bánh, làm chị tôi, dân Cali chánh gốc bấy lâu cũng phải ngẩn ngơ: - Ði ăn mấy nhà hàng nổi tiếng vào ngày cuối tuần cũng đông như thế, nhưng còn xếp hàng thứ tự, còn cửa hàng này họ chen lấn ghê quá, thường thì chị đợi thưa người mới vào mua. Chẳng hiểu sao đi mua chè mua bánh mà họ cũng tranh giành, chẳng biết văn minh, lịch sự là gì cả. Nếu em để ý sẽ thấy mấy nhân viên của tiệm phải đứng cả vòng ngoài để canh chừng kẻ xấu thừa lúc đám đông ra tay ăn cắp vặt những món bánh trái bày la liệt trên quầy đấy. Những người này, có thể họ cũng biết xếp hàng chờ đợi ở chợ Mỹ, lịch sự lắm, nhưng đến chợ Việt Nam, lại hiện nguyên hình người Việt Nam khi xưa còn ở quê nhà. - Gặp đồng hương với nhau nên tha hồ thoải mái mà chị. Em cũng thế. Buổi chiều hai chị em vào một chợ Việt Nam to lớn khang trang, mua đầy một xe chợ, nhãn tươi ở đây rẻ quá, chỉ có $1.99 một "pound", vừa đẩy xe ra bãi đậu, tôi vừa ăn nhãn và thoải mái vứt vỏ và hột xuống đất, làm chị tôi giẫy nẩy lên: - Kìa em, sao em lại xả rác ra đường thế? Tôi ngạc nhiên: - Chị xem, trước cửa chợ và bãi đậu xe của họ cũng toàn là rác, thì cần gì phải giữ gìn? Ðã thế rác ở đây còn nhiều hơn chợ Việt Nam chỗ em, chắc tại càng đông người thì càng lắm rác, hay Việt Nam mình có truyền thống ở dơ hả chị? Chị tôi có vẻ không hài lòng: - Ai bảo em là người Việt Nam mình ở dơ? Vô trách nhiệm thì có. Của mình thì giữ gìn, của công thì mặc xác. Em thử để ý đến những ngôi nhà của người Việt Nam xem, họ chăm sóc sân vườn trước sau, sạch sẽ, đẹp đẽ, lịch sự biết bao, họ khoe đẹp, khoe sang của chính họ, vậy mà đến nơi công cộng thì chẳng thèm ý tứ gì cả. - Nhưng mà thêm một tí rác của em vừa xả ra cũng chẳng làm trầm trọng thêm, đằng nào cũng dơ sẵn rồi. Tôi cố bào chữa cho mình nhẹ tội. - Ai cũng nghĩ như em thì đường phố sẽ biến thành núi rác mất. Chị tôi qua Mỹ đã lâu, chắc sống theo kiểu Mỹ quen rồi. Khi vừa lái xe tới một ngã tư, trong lúc đợi đèn xanh, tôi ngó quanh bốn phía chỉ toàn thấy "đầu đen' Việt Nam ta, hiếm khi thấy người Mỹ trắng. Quả đúng như lời đồn, từ ngày người Việt Nam về đây mua nhà, mua đất, lập ra khu Little Sài Gòn, dần dần Mỹ trắng thấy bơ vơ, lạc lõng, nên bán xới nhà cửa đi nơi khác hết. Vào khu Little Sài Gòn, đúng như tên gọi của nó là một Sài Gòn thu nhỏ lại, sự sinh hoạt, mua bán, ăn chơi cứ như bên quê nhà thuở nào, khối bà, khối cô còn mặc đồ bộ đi chợ hay ra quán trong khu Phước Lộc Thọ ngồi vắt vẻo ăn tô mì, tô phở, vừa ăn vừa sụt sùi vì nước lèo nóng và ớt cay. Chị tôi chỉ một bà đội nón lá đang đứng chờ xe bus ở phía xa: - Khỏi cần đến gần chị cũng biết đó là một bà Việt Nam chính gốc, chắc bà mới đi Việt Nam chơi, mang về Mỹ cái nón lá. Cũng may là bây giờ không còn mấy bà già nhai trầu bỏm bẻm, thỉnh thoảng lại nhổ toẹt một bãi đỏ lòm xuống đất làm tụi Mỹ hết hồn. Ðược dịp gặp cô em mới qua Mỹ chưa bao lâu, nên chị tôi kể thêm vài kinh nghiệm sống trên xứ Mỹ cho tôi học hỏi: - Nhiều người Việt Nam vô trách nhiệm từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, chị có một bà bạn cũng sống ở Cali gia đình khá giả, nhưng lòng tham con người vẫn vô đáy, bà ấy chẳng bệnh tật gì cả, nhưng "hợp tác' với một bác sĩ vô lương tâm, giải phẫu nhỏ ở nách, để được chia 5,000 đồng, bác sĩ ăn bao nhiêu của hãng bảo hiểm không biết, nhưng chắc chắn không phải là ít. Sau đó hãng bảo hiểm sức khỏe tại hãng của bà ta phải tăng giá đồng loạt mọi công nhân, chỉ vì bà đã làm tổn thất cho họ. Bà bạn chị đã ân hận, kể cho chị nghe như một lời thú tội cho nhẹ lòng. Dĩ nhiên dân tộc nào cũng có kẻ tốt người xấu, nhưng người Mỹ thường thì vẫn thẳng thắn và trung thực, không biết những mánh lới, láu cá vặt như một số nhỏ người mình. Tôi nhớ đến chuyện thằng con trai 8 tuổi của mình, một hôm nó mang về nhà tờ giấy của trường gởi cho cha mẹ học sinh, đọc xong và ký vào. Nhìn lá thư tiếng Anh tôi hoa cả mắt, chẳng hiểu gì, bèn làm bộ quát con: - Mẹ bận lắm, con đọc rồi ký giùm mẹ luôn đi. Cu Tí từ chối: - Cô giáo nói cha mẹ đọc thư và ký vào, chứ không phải con. - Mẹ đâu có thì giờ mà đọc cái lá thư tiếng Anh đấy. Con cứ ký vào, có gì mẹ chịu trách nhiệm. Cu Tí vẫn cương quyết: - Nếu bây giờ mẹ bận thì lát nữa mẹ đọc và ký vào. Mà nếu mẹ không hiểu được tiếng Anh thì con sẽ nói cho mẹ hiểu. Thằng con sao mà đoán đúng tim đen của mẹ nó đến thế. Tôi đành chịu thua con mình, nó được giáo dục sự trung thực, không biết nói dối, dù sự nói dối vô hại. Và có lần vợ chồng tôi và Cu Tí đi chợ, lúc về qua một bệnh viện, chồng tôi tiện thể ghé vào thăm một người bạn cùng hãng đang nằm trong đó. Mẹ con tôi ngồi ngoài xe đợi thì Cu Tí buồn đi tiểu, nằng nặc đòi về nhà. Tôi có thể dẫn con vào bệnh viện tìm một cái "rest room" không khó khăn gì, nhưng lười biếng ra lệnh cho nó. - Chỗ này vắng, con ra gốc cây kia tiểu đi. Mẹ canh chừng cho. Sợ thằng con chưa hiểu hết ý tiếng Việt Nam của mình, tôi lặp lại lần nữa: - Con cứ ra chỗ gốc cây đi tiểu, có gì mẹ chịu trách nhiệm. Cu Tí kinh hãi nhìn tôi: - Không, con không thể làm điều đó. Con tôi đâu hiểu rằng chuyện này thường tình ở Việt Nam. Nếu một ngày nào đó tôi dẫn Cu Tí về Việt Nam chơi, đi trên những đường phố Sài Gòn, giữa ban ngày ban mặt, người ta đi tiểu vào bờ tường, vào gốc cây. Không biết nó sẽ kinh hãi đến cỡ nào? Cũng may, chồng tôi ra tới và thằng Cu Tí được về nhà đi tiểu cho đúng nơi, đúng chốn. Chị tôi lại kể tiếp: - Hôm nọ chợ Wal-Mart "on sale" giấy vệ sinh, mỗi người được mua 2 bịch, chị thấy nhiều người Việt Nam hớn hở cả nhà cùng đi chợ để thay phiên nhau vào mua giấy, thậm chí họ còn quay vào đợt hai nữa chứ. Trong khi người Mỹ, họ chỉ thản nhiên lấy đúng 2 bịch, và nếu không có nhu cầu người ta cũng chẳng cần mua dù đang giá rẻ. Câu chuyện này làm tôi nhột thật sự. Không lẽ người Việt Nam có nhiều điểm giống nhau đến thế? Tôi đã từng mua đồ "on sale" kiểu đó, mỗi lần chợ Mỹ bán hạ giá đường 99 cents một bịch 4 pounds là tôi có mặt ngay, đường để lâu chẳng hư, chẳng cũ, giá rẻ tội gì không mua để dành? Họ hạn chế mặc kệ họ, chẳng ảnh hưởng gì đến tôi, vì tôi đã có cách, đi ra đi vào chợ mấy lượt để mua đường, dĩ nhiên mỗi lần ra tính tiền ở một quầy khác nhau.Vậy mà hấp ta hấp tấp, tôi đã vô lộn quầy lúc nãy, thằng tính tiền nhận ra tôi và không chịu bán, thế là tôi đành ấm ức bỏ lại bịch đường và lườm nguýt nó mấy cái trước khi rời khỏi chợ với lời thề không bao giờ thèm đến chỗ nó tính tiền cho bõ ghét. Một tuần lễ sống ở Cali với gia đình người chị, tôi đã thấy nhiều cảnh đẹp, cảnh xấu, nhiều món ngon và không ngon. Người Việt Nam ở Cali và đất Cali không phải là thần thánh, là thiên đường mà đôi khi ở những tiểu bang khác người ta bắt gặp trong những lời quảng cáo đầy tự hào và khoe khoang như... Tại đây có bán chè Cali, giò lụa Cali, và đầu bếp từ Cali mới về v.v…? Ở bất cứ nơi đâu, tiểu bang nào, thành phố nào cũng có người những Việt Nam tài giỏi, món ăn Việt Nam ngon, cứ gì phải ở Cali? Và tôi đã học được ở chị tôi một điều quan trọng hơn, đó là cách sống và xử thế, dù với người bản xứ hay với chính đồng hương của mình. Cũng giống như bà bạn thân của chị tôi đã hối hận kể cho chị nghe vụ gian lận tiền bảo hiểm sức khoẻ, tôi cũng huỵch toẹt luôn những chuyện đời tôi, chuyện thi nhau rửa bát trong hãng, chuyện tụ tập trong phòng nghỉ đè nhau ra cạo gió như cơm bữa, chuyện tôi tranh giành vào khám bác sĩ sớm hơn người khác dù họ là ông già bà cả và chuyện xả rác nơi chợ búa… Chị tôi vừa buồn cười vừa trách: - Em mới qua Mỹ mấy năm nên chưa quen hết cách sống ở Mỹ, từ giờ trở đi đừng làm thế nữa, mình hãy tôn trọng mình trước, đừng để kẻ khác bất chợt nhìn vào mà coi thường mình và cộng đồng Việt Nam của mình. Tôi tạm biệt Cali và chị tôi, trong lòng còn mang theo cả một khu Little Sài Gòn của người Việt Nam ở California. Và dù ở nơi đâu trên đất Mỹ này, có cộng đồng người Việt Nam đều có một Little Sài Gòn như thế, có những khu thương mại, chợ búa luộm thuộm, dơ bẩn hơn của Mỹ, có một số người Việt Nam láu cá, tham lam vặt vãnh, và sống thiếu văn minh lịch sự ngay tại một nước văn minh hàng đầu thế giới. Trở về hãng làm việc lại, tôi vẫn làm bác sĩ gia đình cho các bà các cô khi cần viên thuốc, lúc cần cạo gió nhưng tôi không tụ tập nói xấu kẻ khác hay thi đua rửa bát đũa nơi bồn rửa tay làm ngứa mắt những đồng hương nghiêm chỉnh của tôi và của người bản xứ. Có vài bà cùng phe với tôi trước kia lắc đầu và bĩu môi bĩu mỏ, chắc là cho tôi dở hơi sau một chuyến đi chơi xa về. Nhưng tôi chẳng cần để ý, khi nghĩ rằng rồi đây trong số những người Việt Nam sống thiếu văn minh, thiếu lịch sự sẽ bớt đi một người, và những cửa chợ hay bãi đậu xe sẽ bớt đi một tí rác nhờ tôi, là đủ vui rồi.
Nguyễn Thị Thanh Dương Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/Apr/2016 lúc 9:00am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23786 |
![]() ![]() ![]() |
Nồi Cháo Thịt
Một câu chuyện hết sức thương tâm sau cuộc đổi đời
![]()
Lão
Quới đứng chết lịm ngay trên nền đất ẩm. Cơn giận kéo đến quá nhanh đến
độ lão thấy cổ họng của mình như bị chận ngang tưởng muốn ngộp thở. Đôi
mắt của lão nóng lên dần dần. Lão cảm thấy mạch máu ở hai bên thái
dương chảy rậm rật. Trước mắt lão là lớp giậu thưa bị xé toang một mảng.
Bên dưới chỗ bị xé toang một mảng là những lốt chân trên nền đất dẫn
tới một luống khoai. Luống khoai bị xới tung ngổn ngang như vừa trải qua
một cơn tàn phá. Những lá khoai xanh mướt bị vùi giập dưới từng nhát
cuốc sâu. Đất ẩm bị bươi nát thành từng cục đè nát gí những cọng rau
tươi mơn mởn.
Cả
một khu vườn xinh đẹp với những luống khoai thẳng tắp bây giờ bị vẹt đi
một mảng trông xấu xí hẳn đi. Lão tiếc cái công trình vun bón, chăm sóc
trong bao nhiêu ngày tháng của mình. Lão càng tiếc hơn nữa khi nghĩ tới
những củ khoai đỏ au và mập ú đã không cánh mà bay mất sau một đêm sơ
hở không canh chừng. Miệng lão bắt đầu làu bàu những tiếng chửi thề mà
chỉ mình lão nghe rõ. Rồi lão nhìn ra chung quanh.
Khu
nhà tranh lụp xụp của hàng xóm vẫn nằm êm ả trong lớp sương mờ buổi
sáng. Vài đợt khói xanh lơ bắt đầu bốc lên từ những căn bếp nhỏ. Một vài
tiếng chim hót lảnh lót trong lùm cây gần đó. Có cả tiếng vó ngựa gõ
lốc cốc từ xa của mấy cái xe thổ mộ đang trên đường lên chợ.
Khung
cảnh vẫn hiền hòa quen thuộc như mọi ngàỵ Bốn bề chung quanh toàn là bà
con, thân hữu, chẳng mặt nào có thể nỡ lòng đang đêm lén vào xới từng
vuông khoai của lão lên cả. Như vậy chỉ còn khu xóm hỗn độn ở bên kia
đường lộ.
Đúng
hơn là một bãi rác hoang, ở đó là cả một đám đông nghèo nàn, hỗn tạp,
sống chui rúc với nhau như những ổ chuột. Hình ảnh thiếu thốn cực nhọc
của họ làm cơn giận của lão dịu xuống. Lão nghĩ tới những đứa trẻ xanh
xao suốt ngày lảng vảng như những bóng ma gầy ở mấy cái quán nhỏ để
tranh nhau liếm láp những cái lá bánh đầy ruồi bâu hoặc húp cho đến
những cặn cuối cùng của một bát ăn thừa.
Đó
là sản phẩm mới mọc ra ở khu vực này sau một cơn đổi đời ghê gớm. Đa số
những con người vất vưởng này bị lùa ra từ những khu trại gia binh ở
gần mé chợ. Những người đi trình diện học tập không hy vọng có ngày trở
về. Những người mẹ mỏi mòn trong chờ đợi với một bầy con thơ ốm đau,
bệnh tật và no đói thất thường.
Họ
xuất hiện ở đây từ ngày nào chẳng ai rõ, những khu đất trống cứ thấy
mọc dần lên những túp lều lụp xụp cất bằng đủ loại thứ vật liệu, những
mảnh giấy thùng, mảnh tôn, mảnh ván, những tấm nylon chắp vá đủ loại mầu
Và ở đó, những con người chui ra, chui vô, nét đói khổ in hằn lên từng
khuôn mặt xanh xao vàng vọt.
Cơn
giận tan trong lòng lão Quới cũng nhanh như lúc nó ùa đến. Trong cơn
xuống dốc của toàn thể mọi người, lão cũng mới chỉ từ nồi cơm trắng
xuống đến rổ khoai luộc. Rổ khoai cho hai vợ chồng già, đèo đẹt vài củ,
nhưng bữa nào lão cũng được ăn no. Thời buổi này dầu là ăn gì, nhưng cứ
được no đã là quý. Trọn gần một đời người, lão chưa biết đến mùi đói
khổ, tuy nhiên lão đã thấy dấu vết hãi hùng của nó in trên những khuôn
mặt trẻ thơ quanh xóm, với lớp da ngả màu xanh mét, những hàm răng nhô
ra và những hố mắt sâu như lỗ đáo.
Một
cơn xúc động chạy qua ý nghĩ của lão, bất giác làm lão buông một tiếng
thở dài. Lão trở lại với bộ điệu bình thản mọi ngày. Lão ngồi sụp xuống,
chậm rãi quơ từng sợi dây khoai đem xếp gọn ở một góc vườn rồi dùng cây
cuốc nhỏ vun lại đám đất vương vãi ở chung quanh. Làm xong ngần ấy công
việc thì vợ lão cũng đã giặt giũ xong mớ quần áo ở ngoài giếng nước. Bà
lão đem chậu đồ ra phơi ở những sợi dây mắc bên hàng rào. Tiếng động
của bà làm lão Quới quay lại. Lão thấy đôi mắt của bà nheo lại dưới
những tia nắng đầu tiên trong ngày. Lão nói:
- Đêm qua có đứa vào nhổ trộm khoai.
Bà lão hơi điếc nên ngẩng lên nhìn. Lão nhắc lại câu nói thêm một lần nữa. Bây giờ thì bà ta kêu lên:
- Ối chà! Quân bất nhân nào Giọng lão Quới vẫn tiếp tục nhỏ nhẹ:
- Chả biết ai, nhưng đói quá đấy thôi
Bà lão trợn mắt:
- Đói thì đói chớ!
Lão nhún vai:
- Thì biết vậy Nhưng.. thôi đi! Mình chưa đói mà!
Bà
lão nhìn chồng một giây lâu. Bà hơi bực dọc về thái độ bình thản của
lão. Rồi bà ngúng nguẩy xách cái chậu đi lên nhà, miệng lầu bầu cái gì
nghe không rõ.
Tới bữa ăn buổi trưa, bà lão trở lại với nỗi hậm hực của mình:
- Trẻ không tha, già không thương. Hồi xưa đâu có thế.
Lão
Quới làm ngơ ngó ra ngoài. Lão nhẩm tính phải một hai tuần nữa vườn
khoai mới tới kỳ đem rỡ được. Mối bận tâm của lão là phải làm sao đối
phó với mấy tên cán bộ bên Ủy Ban đã lấp lửng đặt vấn đề đòi thu mua.
Nhưng bà lão vẫn lôi chồng trở về đề tài câu chuyện của mình:
- Mất mà không la, rồi chúng nó sẽ còn bươi hết cả vườn cho coi.
Lão Quới bực mình trước cơn dai dẳng của vợ. Lão quay đầu lại nhìn bà ta rồi đáp:
- Mất rồi, la ích gì? Mình bị một lần thôi. Lần sau đứa nào rớ vào, bắt được quả tang rồi sẽ biết!
Bà lão nhếch miệng cười mỉa mai:
- Bộ nó rớ vào nó báo cho mà biết chắc?
- Mình dòm chừng chớ! Nếu quen mùi, nó sẽ tới. Tới lần này tui không tha đâu!
Bà
lão ngúng nguẩy đứng dậy. Những điều lão nói không làm giảm được sự hậm
hực cứ lởn vởn trong đầu óc của bà từ sáng. Nghĩ đến những củ khoai đỏ
au, bà tiếc đứt ruột. Bà ra đứng ở đầu hè, bên kia là khu xóm nhỏ. Nắng
đã quá đỉnh đầu chiếu lên những tấm mái tôn thành từng mảng trắng xóa.
Cũng như lão Quới, bà cũng không thể nghi ngờ được ai ở quanh khu vực
toàn người quen biết này. Chợt một ý nghĩ thoáng qua đầu, bà vội quay
vào nói to với chồng:
- Tôi đi trình đây.
Lão Quới đang lúi húi làm cái gì đó, chợt ngửng phắt lên, giọng xẵng lại:
- Cái gì? Bà nói cái gì?
Mặt bà lão hơi có vẻ ngỡ ngàng trước cơn giận dữ đến với chồng một cách dễ dàng. Bà ta đổi giọng lí nhí:
- Tôi đi trình...
- Trình cái gì? Trình ai?
- Thì công an nhà nước đó!
Bây giờ thì lão Quới để nổ bùng sự giận dữ của mình. Mắt lão quắc lên. Lão nói như quát:
Bà tiếc của rồi đâm khùng rồi đó chắc. Không trình báo gì hết trơn đó. Tôi đã bảo không bao giờ thèm dính dáng tới tụi nó mà.
- Mà điều, nó phải lo an ninh trật tự trong chòm xóm chớ.
- Nó lo gì mặc xác nó, không dính tới mình. Mà lo cái gì? Bà thấy nó lo cho mình cái gì?
Bị
dồn một hồi, bà lão sợ hãi len lén bước ra ngoài sân đất. Còn tiếc xót
về mớ khoai bị đào đêm hôm trước cũng hoàn toàn biến mất khỏi tâm trí
của bà. Bà có cảm giác như nếu mình còn đôi co thêm vài ba câu nữa, lão
Quới sẽ làm um sùm nhà cửa lên. Lúc này hai làn môi của lão đã mím lại.
Cặp mắt của lão long lên. Lão phải nắm chặt lấy bên mép giường để giữ
cho bàn tay bớt run rẩy. Lão không thể ngờ được rằng vợ lão lại có thể
nghĩ tới sự đi tố cáo với công an, dù chỉ là tố cáo một kẻ vô danh đã
đào trộm khoai trong vườn của lão. Mấy năm nay, lão vẫn thường nhắc nhở
với lũ con cháu xa gần:
-
Tụi bay làm chi thì làm, nhưng đừng có đứa nào đi tính cái việc bất
nhân tố cáo mọi người. Đứa nào không nghe đi tố cáo ai thì đừng có nhìn
tới tao nữa.
Ở
khu xóm này, nhờ thái độ quyết liệt đó của lão mà thấy đỡ cái vụ nhà
này báo cáo nhà kia, chòm xóm nương nhau cứ thầm lặng mà sống cho qua
ngày. Cơn giận bà lão, làm lão Quới ngủ trưa không được. Lão nằm xoay
trở một lát rồi nhỏm dậy lầm lũi đi ra bờ rào. Dưới ánh nắng chói chang
của buổi trưa mùa hạ, lão cắm cúi ngồi ráp vá chỗ hàng rào đêm trước bị
xé thủng.
Ráp
vá cho có lệ mà thôi, chứ cung cách này rồi ai cũng sẽ đói hết. Đói ăn
vụng, túng làm càn, một hàng rào chớ bao nhiêu hàng rào rồi cũng sẽ bị
xé tuốt, có trời mới can nổi những con người lang thang vất vưởng như
bóng ma ngoài chợ sẽ còn xông vào xâm phạm đến vườn khoai của lão.
Lão
bắt đầu suy tính đến công việc phải thức đêm canh chừng. Chiều tôi hôm
đó lão leo lên giường đi ngủ sớm. Tới nửa khuya thì lão bò dậy, ra ngồi
thù lù như một cây củi mục ở đầu hè. Lão thấy rõ cái kỳ cục trong hành
động rình mò của mình. Mấy luống khoai có là cái gì để lão phải khốn khổ
như thế. Nhưng ở thời buổi này, không gìn giữ để phải đói cũng chết.
Lão mở to mắt ra nhìn vào khoảng tối đen mịt mù trước mặt. Hai tai của
lão vểnh lên. Lão có thể phân biệt từ tiếng dế kêu đến tiếng sóc chạy
nhẩy trên những tàu dừa Nhưng cả đêm hôm đó lão đã toi công vì chẳng có
ma nào bén mảng đến vườn khoai của lão cả. Rồi đêm sau, đêm sau nữa.
Lão cười hề hề nói với vợ:
- Tôi đã biểu mà. Đói quá làm bậy một lần rồi thôi, đâu có phải dân chuyên nghiệp.
Bà lão thấy chồng ba đêm liền mất ngủ nên cũng ậm ừ:
- Chắc vậy rồi. Chẳng nên rình nữa làm chi cho nó mệt xác. Trời bao giờ cũng có mắt mà.
Tối
hôm đó lão Quới được ngủ thẳng một giấc ngon lành. Một ngày nữa êm ả
qua đi, nhưng vừa đúng lúc nửa đêm hôm sau, lão đang ngáy phì phò thì
thấy có ai lay nhẹ chân mình. Lão giật mình choàng dậy Trong ánh đèn tù
mù để ở xế đầu giường lão thấy vợ ghé vào tai thì thào:
- Nó tới rồi đó !
Lão tỉnh ngay ngủ và choàng dậy. Bà lão vẫn nói tiếp:
-
Tôi nghe có tiếng chó cắn ở tuốt mé bên kia đường. Tôi tỉnh dậy nằm cố ý
dòm chừng. Rồi tôi nghe thấy có tiếng bẻ rào loạt xoạt, chẳng nó thì ai
nữa.
Lão
Quới ngồi phắt ngay dậy. Lão quơ xuống gậm giường tìm con dao rựa. Lão
nắm chắc lấy con dao trong tay rồi phóng ra phía cửa. Trời tối đen. Mọi
vật chìm trong làn sương đục lờ. Lão chăm chăm nhìn về phía vườn khoai
để làm quen với bóng tối. Hai tai lão vểnh lên. Lão nghe thấy tiếng gió
rì rào, tiếng cành khô xao động và có cả tiếng cuốc đào trên nền đất.
Lão lủi thật nhanh về phía giếng nước, con dao rựa lão vẫn nắm chắc ở
trong tay.
Bây
giờ thì lão nghe thấy cả tiếng loạt xoạt của đám lá bị bứt nhổ ở phía
luống khoai. Lão lủi tới đó thật gần. Rồi bất chợt, lão chồm tới để chụp
lấy bờ vai của tên trộm, cái bờ vai gầy guộc, mảnh mai tưởng như muốn
sụm xuống dưới sức mạnh của bàn tay cứng cỏi của lão.
Lão quát lên như để trấn át kẻ gian phi:
- Hôm nay thì mày sẽ biết!
Lão
tì mạnh hơn nữa hơi sức của mình lên bờ vai mà lão vừa tóm được. Lần
này thì tên trộm ngã khụy ngay xuống làm cho lão mất đà cũng ngã chúi
xuống theo. Lão nghe thấy một tiếng rên nhỏ:
- Trời ơi là trời.
Đó
là tiếng của một người đàn bà chắc còn trẻ. Bà ta vừa rên lên, vừa cố
vùng vẫy để thoát thoát khỏi cánh tay cứng như sắt nguội đang đè lên vai
mình. Lão Quới không còn bụng dạ nào để sử dụng võ lực đối với kẻ gian
phi. Lão buông bàn tay của mình ra rồi lùi lại quát khẽ:
- Ai đó?
Có
tiếng khóc nức nở vang lên thay cho câu trả lời. Lão vội vã móc túi lấy
bao diêm rồi xòe lên. Ánh sáng bùng lên trong chớp mắt rồi teo lại.
Nhưng thời gian khoảnh khắc ấy thừa đủ để lão nhìn rõ khuôn mặt của
người đàn bà đối diện. Lão chết lặng người đi như chính lão cũng vừa bị
bắt quả tang trong một hành vi tội lỗi.
Người
đàn bà mà lão vừa nhận diện chẳng phải ai xa lạ trong khu vực này. Ngày
trước chồng bà ta là sĩ quan làm việc trong một Quân Y viện ở gần đó.
Cái Quân Y viện mà, dù không phải quân nhân, lão cũng đã được cấp tốc
đưa vào để được cấp cứu một lần. Lão Quới không bao giờ quên được khuôn
mặt khả ái của người sĩ quan trẻ tuổi, xông xáo khắp các phòng, vượt qua
mọi thủ tục để có thể giúp đỡ lão vượt qua cơn hiểm nghèo.
Sau
này khi xuất viện, lão đã dẫn vợ tới khu gia binh để cả hai cùng chắp
tay cảm ơn. Người đàn ông mỉm cười xuề xòa và không để cho lão mở miệng
nói dài dòng. Ông ta lúc nào cũng bận rộn, kể cả sự bận rộn lâu lâu lại
chở vợ con ngồi đầy nhóc trên chiếc xe jeep lùn chạy từ khu gia binh lên
phía chợ.
Dưới mắt mọi người, đó là một gia đình tràn ngập hạnh phúc với người vợ
trẻ tươi tỉnh như hoa và năm sáu đứa nhỏ kháu khỉnh như một bầy gà con
lít nhít. Nhưng rồi cơn đại họa đã ùa tới. Người chồng lên đường đi "cải
tạo", vợ bị đuổi ra khỏi khu gia binh, kéo một bầy con nheo nhóc ra bãi
hoang sống dưới túp lều lụp xụp với những người cùng chung cảnh ngộ.
Từ
một bà đại úy trở thành một kẻ xé rào đi ăn trộm, dưới ánh sáng hiu hắt
của một que diêm, tuy chỉ bị soi mặt trong khoảnh khắc nhưng cũng đủ
xấu hổ cả một đời người. Có lẽ vì thế mà bà ta khóc to hơn. Tiếng khóc
làm lão Quới bối rối. Lão không biết phải làm gì trong hoàn cảnh này.
Vừa
may lúc đó có ánh đèn tù mù của vợ lão từ trong nhà đi ra. Bà lão xăm
xăm đi xuống phía cuối vườn. Làn ánh sáng đỏ đòng đọc tỏa ra hai bên làm
héo úa lớp lá khoai xanh mướt ở những chỗ bà đi qua. Lúc tới gần, bà
giơ cao cây đèn lên nhìn về phía lão Quới. Ánh đèn bây giờ soi rõ người
đàn bà tội nghiệp với bộ quần áo rách bươm, bê bết đất bẩn. Mái tóc của
bà xổ tung che gần lấp khuôn mặt còm cõi xanh xao. Gió lùa qua cái thông
phong trên ngọn đèn làm chao đi chao lại ngọn lửa leo lét khiến cho
thân hình của bà ta trở nên chập chờn như một bóng ma vừa đội mồ sống
dậy. Có tiếng bà Quới kêu lên:
- Phải bà đại úy Sáu đó không?
Người
đàn bà bật lên khóc và chạy lại phủ phục dưới chân của bà lão. Lão Quới
không thể chịu nổi quang cảnh đó đã nghẹn ngào quay đi. Hai mắt của lão
cay xè. Lão thấy rõ những giọt nước mắt của mình đang ứa ra ở hai bên
bờ mi.
Một
lát sau, cả ba người lầm lũi đi lên phía sân đất. Bà Quới xách theo cái
sọt nhỏ của thiếu phụ, lẳng lặng đem vào phía nhà sau. Trong lúc đó lão
Quới lần ở thắt lưng lấy ra tờ giấy 50 đồng mà lão từng dắt kỹ trong
mấy lớp bọc bằng nylon. Lão dúi tờ giấy bạc vào trong tay người đàn bà,
lão định nói thêm một câu gì nhưng cổ họng của lão như tắc lại.
Lão
nhớ đến hình ảnh tươi cười đầy vẻ xuề xòa của ông đại úy. Lão nhớ đến
cả khuôn mặt xinh đẹp của bà ta vẫn thường tươi như hoa giữa bầy trẻ nhỏ
nom lít nhít như đàn gà. Nếu chẳng đổi đời thì chẳng bao giờ lão lại có
thể làm được cái công việc như ngày hôm nay.
Trong
bóng tối, mồm lão xệch đi. Lão thương cho người đứng trước mặt, thương
tất cả mọi người, thương ngay cả chính mình. Cơn sụp đổ toàn diện trên
quê hương chưa bao giờ hiện lên rõ nét trong lòng lão bằng chính lúc
này. Lão bước ra đầu hè để hỉ mũi rồi lui vào phía nhà trong.
Vừa
lúc đó, bà lão đã lại cầm cây đèn leo lét đi ra. Ở tay kia, bà xách
theo cái sọt nhỏ. Bây giờ ở trong sọt đã thấy lăn lóc hơn chục củ khoai
và một túi gạo nhỏ. Hai người đàn bà dìu nhau đi ra phía cổng. Dưới ánh
đèn vàng vọt, bóng của họ đổ xuống nom dài ngoẵng như hai cái bóng chập
chờn quái dị.
Cách
một hôm sau,vào lúc xế trưa, lão Quới đang lúi húi ở giếng nước thì gã
Tổ trưởng dân phố dẫn theo một viên công an bận đồng phục áo vàng đi
vào. Bà Quới đứng ở gần đó ngẩn mặt ra nhìn. Cả bốn người gặp nhau ở
trên thềm đất. Anh công an lên tiếng trước:
- Cách đây một ngày, phải nhà bác có kẻ đào trộm khoai không?
Lão
Quới giật mình. Quả nhiên là ghê gớm. Chẳng có cái gì qua mắt được bọn
người này. Lão lấy làm tiếc rằng đã không dặn vợ giữ kín câu chuyện xẩy
ra trong đêm hôm trước. Thay vì trả lời câu hỏi, lão quay sang vợ cằn
nhằn :
- Bà kể lể làm chi vậy?
- Nhưng bà lão đã la lên
- Tôi kể cái gì? Tôi có nói cái gì, ở đâu?
Gã
Tổ trưởng hơi nhếch môi định cười nhưng gã đã kìm ngay được trước vẻ
mặt lầm lì của người bận đồng phục. Anh ta còn quá trẻ nhưng cố làm ra
vẻ ta đây có quyền uy, liếc lão Quới một cách láo xược rồi quay lại nhìn
bà lão cũng theo một cung cách như thế. Rồi anh ta vừa khoát tay vừa
nói bằng một giọng khô khan :
- Đi theo tôi
Chẳng
đợi cho lão Quới kịp có phản ứng gì, anh ta đã quay lưng xăm xăm đi
trước. Gã Tổ trưởng lót tót chạy theo sau. Lão Quới đành rảo bước tiến
theo họ, trong lòng đầy phân vân.
Cả
toán người bước nhanh trên con đường dẫn ra mặt lộ. Bà Quới không dằn
được nỗi thắc mắc đành phải nắm lấy tay gã Tổ trưởng và cất tiếng hỏi:
- Có cái gì dính líu tới tụi tui sao, chú Bảy?
Chú Bảy gỡ bàn tay của bà cụ ra không trả lời. Gã chỉ hất hàm ra dấu về phía khu đất hoang ở bên kia mặt đường lộ.
Mọi
người bây giờ đã băng qua con đường cái để tiến vào một lối đi hẹp hai
bên có những đống rác nằm cạnh những mô, gò lổn nhổn. Một đám trẻ con
rách rưới bẩn thỉu chạy túa ra nhìn. Một vài người lớn tuổi đứng ở gần
đó lô nhô chỉ trỏ. Có lúc họ đã phải dạt ra để lấy chỗ cho toán bốn
người đi vào.
Mọi
người dừng lại ở trước một túp lều nhỏ, mái đụp đơn sơ, tường vách xộc
xệch. Đứng ở ngoài, lão Quới có thể dòm qua những khoảng trống tuênh
toang để thấy một quang cảnh bầy ra trước mắt. Trên một tấm ván mỏng,
một người đàn bà đang nằm dài. Bên cạnh đó là một loạt năm đứa nhỏ nằm
xếp song song. Tất cả đều mang một vẻ nhăn nhúm dễ sợ. Lão Quới bấu chặt
lấy mảnh gỗ ở trên vách ngoài để cố giữ cho mình khỏi khuỵu xuống. Lão
không tin ở mắt mình, không thể tin ngay cả chính cái điều đang bầy ra ở
trước mắt là một quang cảnh thực. Bàn tay của anh công an khẽ đặt lên
vai lão. Anh ta nói:
- Có thư gởi bác đây.
Lão Quới run rẩy đón lấy mảnh giấy vừa được trao cho. Lá thư không dài và được viết bằng một nét chữ mềm mại:
“
Xin hai bác tha thứ cho cháu. Cháu không còn đường nào khác để giúp cho
bầy con tội nghiệp của cháu khỏi phải trầm luân trong cái xã hội đầy
dẫy cơ cực này. Năm mươi đồng và gói gạo mà bác cho, cháu đã nấu đủ một
nồi cháo thịt, nồi cháo mà bầy con của cháu vẫn thường mơ ước hằng ngày.
Nhưng kể từ nay, hẳn chúng nó sẽ không bao giờ còn phải ước mơ những
điều nhỏ nhoi, tầm thường như thế nữa ”.
Lá thư chưa chấm dứt ở đó. Nhưng mầu mực tím đã trở nên nhạt nhòa bởi vì khuôn mặt của lão Quới đã đầm đìa nước mắt.
Trại tỵ nạn Songkhla, Thái Lan ngày 22-1-1980 Nhật Tiến |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Vượt biển <<<<< |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23786 |
![]() ![]() ![]() |
Thuở ấy, Chị tôi
Gia đình tôi đến phi trường San Francisco đón bà chị ruột từ Việt Nam sang
du lịch Hoa Kỳ. Cháu Út đã chuẩn bị banner dán đầy đủ họ tên của chị, vừa
chào mừng vừa là dấu hiệu cho chị tôi nhận biết có người nhà đang đón, đỡ
phần bối rối. Khu chờ đợi đã chật ních người. Các phi công và tiếp viên chuyến bay 124 của hãng hàng không Eva đã lần lượt đi ra. Dăm ba tấm bảng chào đón người từ bên kia Thái Bình Dương sang bắt đầu trưng lên, đám con tôi cũng vội vàng làm theo. Tôi đã dặn dò cặn kẽ tấm bảng viết bằng tiếng Việt: Chào Mừng bà Nguyễn Thị Lưu Luyến, nhưng vì hiệu Office Depots chỉ có bán mẫu tự không dấu lại quen cách viết ở Mỹ, con tôi đã dán dòng chữ hoàn toàn khác với ý tôi, do vậy, khi giương bảng lên tôi thật sự ngỡ ngàng. Mọi việc đã lỡ, đành chịu vậy.
Chúng tôi đứng cách cửa quá xa nên lúc chị đi ra không ai nhìn thấy. Giữa lượng sóng người, một bà Việt Nam vóc người đầy đặn, mặc áo dài xanh đậm, vai choàng chiếc khăn voan, đầu tóc búi cao đi tới đi lui lức láo trong đám đông đang chen chúc. Chợt tôi nhận ra chị tôi thì nước mắt lo âu của chị đã lưng tròng. Cả nhà ùa tới vây quanh mừng rỡ.
Câu đầu tiên của chị là trách chúng tôi không có tấm bảng đề tên chị như đã thông báo qua điên thọai. Ðể chứng minh là chúng tôi đã lo đầy đủ, cháu Út vội vàng căng tấm vải nhựa ra trước mặt chị. Nhìn dòng chữ Welcome MRS. LUYEN THI LUU NGUYEN, chị nói:
- Cô đã nhìn thấy tấm bảng nầy rồi, nhưng đâu phải tên họ của cô. Bộ tụi bay đổi tên cô thành tên Mỹ rồi sao?
- Thưa cô, vẫn là tên Nguyễn thị Lưu Luyến nhưng ở Mỹ viết không bỏ dấu lại đảo ngược tên họ thế đấy, con tôi giải thích.
Vào mùa Halloween, trẻ con ở Hoa Kỳ thường xem phim ma, phim quỷ hút máu người, Vampire, Dracula hoặc đi coi nhà ma có cả đầu lâu nhe răng trắng nhởn. Hôm nay, trước mặt nó là người phàm mắt thịt lại mang hàm răng đen, hỏi làm sao không sợ! Chị tôi không biết cái sợ đích thực của thằng nhóc mà ngỡ rằng bà cô còn xa lạ.
Trong lúc ngồi đợi các con tôi đi lấy xe ngoài parking lot, chị moi trong bọc ny-lông lấy ra một miếng trầu tươi đã têm sẵn cùng miếng cau bỏ vào miệng nhai rào rạo. Ðứa cháu ngọai dù sợ nhưng lúc nào cũng hé mắt nhìn bà cô lạ lùng. Nó hỏi:
- Mommy, what’s she eating?
- Bà ăn kẹo gum Việt Nam!
Lát sau, chị tôi thò tay vào túi xách lấy ra một cái chai trống không, có nắp vặn hẳn hoi. Chị mở nắp nhổ vào đó phần nước trầu dư. Thằng nhóc con hoảng hốt ôm chặt cổ mẹ. Con gái tôi vội hỏi:
Bé hớt hãi:
- Blood, blood!
- Chị nhổ nước trầu mà cháu nhỏ tưởng chị ói ra máu.
Lúc tôi vừa lên tám, Mẹ lâm trọng binh qua đời. Thế là chị đóng vai người mẹ chăm sóc và nuôi nấng tôi suốt thời thơ ấu.
Ngày anh Ðỉnh cho người mai mối đến dạm hỏi thì cha tôi đã hứa gã chị cho
con trai ông Tú Bang, bạn học của cha từ thời niên thiếu. Người chồng
tương lai của chị là một thầy giáo. Trước ngày chị tôi lên xe hoa, anh
Ðỉnh đến nhà từ biệt chị ra đi. Ðể tránh đau khổ, anh quyết định bỏ quê
vào Sài gòn tiếp tục con đường học vấn. Chị khóc trên vai anh và nước mắt
anh cũng đầm đìa. Ngày đó tôi chưa hiểu gì về tình yêu nhưng tôi cảm thấy
tội nghiệp cho hai người. Ngày lễ Vu quy của chị, cha tôi tổ chức hai ngày nhóm họ đãi đằng bà con, bạn bè và khách hàng buôn bán với gia đình tôi từ xưa đến nay. Ðám rước dâu khá linh đình, với hai chiếc xe hơi màu đen bóng được trang trí hoa và dải lụa hồng rực rỡ. Bà con láng giềng trầm trồ khen cô dâu chú rể đẹp đôi.
Chồng chị dạy học ở một trường khá xa, lâu lâu mới về thăm nhà. Chị nại cớ đứa em út còn nhỏ dại cần người chăm sóc và dạy dỗ, nên xin phép bên chồng được về nhà cha thường ngày.
* * *
Thời gian thấm thoát trôi qua một năm rồi hai năm chẳng có tin tức gì về anh Ðỉnh, đến một buổi sáng nọ có người mang đến trao cho chị tôi một bao thơ. Không biết thư nói gì, bỗng dưng chị òa khóc. Tôi chạy sà vào lòng chị. Chị ôm chặt lấy tôi thổn thức: “Anh Ðỉnh của em không còn nữa. Anh ấy bị thương trên chiến trường về đến bệnh viện mới tắt thở. Anh gởi lại chiếc khăn tay của chị tặng ngày trước.Vừa nói chị vừa mở khăn ra, một dòng chữ viết nguệch ngoạc bằng máu: “Yêu Em trọn đời”. Chị đưa chiếc khăn lên môi hôn mà nước mắt tuôn trào.
Ba tháng sau, chồng chị bị tử nạn trên đường đến trường khai giảng mùa học mới. Chưa đầy nửa năm chị tôi đã chịu hai cái tang đau đớn. Hình như nước mắt cạn nguồn và con tim tê dại, chị vùi đầu trong công việc và tập ăn trầu để lãng quên nỗi đau đang vò xé. Hai má chị ửng hồng và chân đi chếnh choáng vì say trầu.
Chị tôi nổi tiếng có hàm răng đẹp nhất làng. Răng chị trắng đều như những hạt ngọc. Nụ cười rạng rỡ, thu hút cảm tình của người xung quanh. Những ngày mới quen nhau, anh Ðỉnh thường nói với chị: “Mỗi khi em cười là mang nguồn hạnh phúc cho người đối diện”. Một hôm, tôi vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện hàm răng chị trở thành màu đen nhánh. Tôi hỏi vì sao, chị bảo ăn trầu phải nhuộm răng đen. Lòng buồn vô hạn, tôi tiếc rẻ hàm răng trắng và giận chị suốt mấy ngày.
Chị tôi không còn yêu ai mà cũng chẳng chịu bước thêm bước nữa. Cha tôi nhiều lần khuyên nhủ, chị bảo: “Con dành phần đời còn lại để lo cho cha và cho em. Xin cha đừng ép uổng con nữa.” Từ ngày mẹ tôi mất, sức khoẻ cha tôi xuống một cách thê thảm. Ông không còn đủ sức vượt đường xa trên sóng nước bồng bềnh nên quyết định bỏ nghề. Nhiều người xin mua lại chiếc thuyền nhưng cha tôi nhất định không bán, ông cho người kéo chiếc ghe đồ sộ lên bờ giữ lại làm vật kỷ niệm và cho tiền đám trai bạn làm công về quê tìm công việc làm ăn khác. Ba năm sau cha tôi qua đời. Ngôi nhà chỉ còn lại hai chị em tôi.
* * *
Tôi lấy hai tuần lễ vacation đưa chị đi viếng những thắng cảnh nổi tiếng ở miền Tây Hoa Kỳ. Trước những kiến trúc tân kỳ, công trình xây dựng vĩ đại, tôi thấy chị không háo hức, thán phục hay xúc cảm. Hình như điều đó đối với chị chỉ là thứ yếu. Chị sang Mỹ với một niềm thiết tha là thăm tôi, gần gũi tôi để vơi đi niềm thương nhớ. Xa tôi đã mười hai năm, như người mẹ xa con, chị cô đơn, mong chờ và lo lắng.
- Sao răng bà màu đen? Chị tôi chỉ cười rồi hôn lên má nó. Thế là nó dùng tay chùi lên vết trầu dính, nó chà xát làm nổi đỏ cả vùng da trên mặt nó. Cháu bé thích được bà cô dắt tay đi dạo bộ trong khu công viên cạnh nhà, nhưng lại sợ bà hôn làm vấy nước trầu lên má.
Con tôi đề nghị chị tẩy trắng hàm răng. Chị phản đối, lấy lý do không thể bỏ trầu. Chúng cam đoan ăn trầu vẫn giữ được màu răng trắng, chỉ cần chịu khó đánh răng thường xuyên. Ngày này qua ngày nọ, mỗi đứa cháu một lời khuyên khiến chị tôi xiêu lòng. Con tôi vô cùng ngạc nhiên trước đôi hàm răng vẫn còn nguyên vẹn dù tuổi đời của chị đã ngoài bảy mươi.
Răng được tẩy trắng, dầu không bằng màu trắng óng ánh như thuở còn thanh xuân, nhưng đã trả lại cho chị nụ cười sáng sủa. Chị cười khoe đôi hàm răng trắng trông chị tươi mát như trẻ lại mười tuổi, thế nhưng lòng chị lại không vui. Nụ cười của chị bây giờ không còn tự nhiên nữa, gượng gạo và héo hắt. Tôi bắt gặp bất chợt lúc chị đang soi gương mà mắt còn ngấn lệ. Ngỡ là chị nhớ nhà nên tôi không lưu tâm lắm.
Ðêm đã về khuya, ngoài trời đổ mưa do ảnh hưởng cơn bão từ biển thổi vào, tôi đi kiểm soát các cửa sổ chợt nghe tiếng khóc thút thít trong phòng chị, tôi vội vàng gõ cửa vào. Ðèn bật sáng, chị đang ngồi khóc, tôi hỏi:
- Ngày Ðỉnh yêu chị, anh ấy đã hết mình bảo vệ đôi hàm răng đẹp của chị. Anh đã nhờ người mua kem và bàn chải đánh răng loại ngoại nhập cho chị dùng. Anh luôn nhắc nhở chị không được dùng răng cắn móng tay và cắn bất cứ vật gì có độ cứng. Có lần anh bảo: “Anh quý đôi hàm răng em như quý sinh mạng của anh vậy”. Anh Ðỉnh chết là lỗi ở chị. Nếu chị cưỡng lời cha không chịu về làm vợ người ta thì anh ấy đâu có bỏ quê vào Nam. Chị lại ôm mặt khóc.
Tôi khuyên chị nên quên đi, đã mấy chục năm rồi còn gì nữa mà lưu luyến, mà tự trách mình. Chị lau nước mắt rồi tiếp:
- Em đâu biết, mỗi lần bắt gặp nụ cười trong gương là lòng chị tái tê và ân hận bởi hình ảnh của Ðỉnh hiện ra với đôi mắt chan chứa tình yêu xen lẫn trách hờn. Hồi đó, chị muốn vào chùa xuống tóc đi tu, sau nghĩ lại mình còn cha già, em dại ai nuôi nấng, thuốc thang. Vì vậy, chị quyết định nhuộm răng đen để chuộc lỗi đã không vẹn lời thề với Ðỉnh, đồng thời giấu đi những kỷ niệm đau buồn. Chị ngừng nói, lấy khăn thấm dòng lệ ướt nhòa trên má:
- Chị thương các em và các cháu nên chiều theo ý muốn tẩy bộ răng đen làm vui lòng mọi người. Nhưng có ngờ đâu, khi nhìn hàm răng trắng trở lại, lòng chị lại cảm thấy bứt rứt, bồn chồn. Những hình ảnh xa xưa lại hiện về khiến chị xót xa không cầm được nước mắt.
Ngày hôm sau, chị yêu cầu chúng tôi lấy vé máy bay tuần tới chị trở về Việt Nam. Cả nhà sửng sốt. Visa cho đi sáu tháng, ở Mỹ chưa đầy bốn tháng chị lại đòi về. Các cháu năn nỉ cô ở lại và xin bỏ qua những gì thiếu sót. Chị ôm vai từng đứa rồi chậm rãi nói:
- Các con có lỗi lầm gì đâu, ngược lại, càng thương yêu và chăm sóc cô rất chu đáo. Như cả nhà đều rõ, hàng năm, cô phải lo bốn cái giỗ. Một, giỗ ông Nội ngày 17 thángTư, hai, giỗ bà Nội ngày Rằm Tháng Chín, ba, giỗ chồng cô 12 tháng Tám và bốn... Ðến đây, bỗng dưng chị khựng lại, trước mấy đứa cháu chẳng biết gọi thế nào cho ổn. Tôi bèn đỡ lời chị:
- Ðó là ngày kỵ bác Ðỉnh, người yêu của cô trước khi lấy chồng đã hy sinh ngoài chiến trường. Bác Ðỉnh chết trước chồng cô ba tháng, như vậy chỉ còn hai tuần lễ nữa là đến ngày giỗ Bác ấy 14 tháng Năm. Tôi nhìn chị mà lòng bùi ngùi. Mối tình đầu của chị là anh Ðỉnh. Hai người đã dệt bao nhiêu mộng đẹp trong tương lai. Cũng bởi lễ giáo khắt khe mà cha tôi đã vô tình “chia uyên rẽ thúy”. Người không thấu được tình cảm riêng tư của con gái mình mà đinh ninh rằng: “Môn đăng hộ đối là cơ sở bền vững cho hạnh phúc lứa đôi”.
* * *
Chị tôi về lại quê nhà được một năm thì có điện thoại của cháu tôi báo chị lâm trọng bịnh đang hấp hối. Tôi lấy vé khẩn cấp bay về Việt Nam.
Gia đình của hai bà chị lớn đã có mặt đầy đủ. Chị tôi nằm thoi thóp trên giường bệnh. Khuôn mặt chị gầy đi khá nhiều nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả là hàm răng chị được nhuộm đen trở lại và hai chiếc răng cửa đã rụng từ bao giờ. Trực nhìn trên đầu giường chị nằm, có một chiếc hộp màu nâu đặt cạnh gối, tôi vội mở ra, hai chiếc răng cửa màu trắng bóng láng gói trong chiếc khăn tay có bốn chữ “Yêu Em trọn đời” của anh Ðỉnh viết bằng máu lúc anh bị thương ngoài mặt trận. Dưới đáy hộp là một mảnh giấy nhỏ của chị ghi lời yêu cầu: “Xin được đặt hộp nầy trên bàn thờ anh Vương văn Ðỉnh.”
Chị tôi qua đời lúc trời vừa rạng sáng. Sau khi chôn cất và xây mộ hoàn tất, tôi mang hộp răng của chị đến nhà cháu anh Ðỉnh và xin được đặt bên di ảnh của người quá cố để trọn lời ước thệ năm xưa của anh chị.
Trên chiếc Boeing 747 đưa tôi trở về Hoa Kỳ sum họp với gia đình mà lòng tôi lại cảm thấy cô đơn trống vắng vô hạn. Chị tôi mất rồi, miên viễn xa tôi rồi. Hình ảnh tươi mát của chị ngày nào, ân cần và chiều chuộng giờ đã thay vào ký ức tôi một bà già khô héo nằm bất động trên chiếc giường gỗ lim cũ kỹ của bảy mươi năm về trước trong ngôi nhà xưa mênh mông hiu quạnh. Chị bị bệnh mà tôi chẳng hề hay biết. Bỗng dưng tim tôi quặn thắt, nước mắt trào ra. Tôi ấm ức khóc và tự trách mình. Tôi muốn gào lên:
“Chị ơi, trái tim chị bao la quá, vĩ đại quá. Trọn cuộc đời chị đã dành cho em, mà em thì chưa có một ngày nào đền đáp công ơn.”
Chị tôi đã trải qua bao tháng năm âm thầm ôm nỗi đau tình đầu dang dở, âm thầm chịu đựng trước những nghiệt ngã của cuộc đời. Và tình yêu của chị cũng âm thầm nhưng bền vững như dòng nước ngầm dưới đáy đại dương cuồn cuộn chảy năm nầy qua năm khác...
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23786 |
![]() ![]() ![]() |
Chuyện di tản 1975
Sau đây là vài cảnh đã làm tôi xúc động, xin kể lại để cùng chia xẻ… Chuyện 1 Ở bến tàu, thiên hạ bồng bế nhau, tay xách nách mang, kêu réo nhau ầm ĩ, hớt hơ hớt hải chạy về phía chiếc cầu thang dẫn lên bong một chiếc tàu cao nghều nghệu. Cầu thang đầy người, xô đẩy chen lấn nhau, kêu gọi nhau, gây gổ nhau… ồn ào. Trên bong tàu cũng đầy người lố nhố, giành nhau chồm lên be tàu để gọi người nhà còn kẹt dưới bến, miệng la tay quơ ra dấu chỉ trỏ… cũng ồn ào như dòng người trên cầu thang ! Giữa cầu thang, một bà già. Máy quay phim zoom ngay bà nên nhìn thấy rõ : bà mặc quần đen áo túi trắng đầu cột khăn rằn, không mang bao bị gì hết, bà đang bò nặng nhọc lên từng nấc thang. Bà không dáo dác nhìn trước ngó sau hay có cử chi tìm kiếm ai, có nghĩa là bà già đó đi một mình. Phía sau bà thiên hạ dồn lên, bị cản trở nên la ó ! Thấy vậy, một thanh niên tự động lòn lưng dưới người bà già cõng bà lên, xóc vài cái cho thăng bằng rồi trèo tiếp. Chuyện chỉ có vậy, nhưng sao hình ảnh đó cứ đeo theo tôi từ bao nhiêu năm, để tôi cứ phải thắc mắc : bà già đó sợ gì mà phải đi di tản ? con cháu bà đâu mà để bà đi một mình ? rồi cuộc đời của bà trong chuỗi ngày còn lại trên xứ định cư ra sao ? còn cậu thanh niên đã làm môt cử chỉ đẹp – quá đẹp – bây giờ ở đâu ?... Tôi muốn gởi đến người đó lời cám ơn chân thành của tôi, bởi vì anh ta đã cho tôi thấy cái tình người trên quê hương tôi nó vẫn là như vậy đó, cho dù ở trong một hoàn cảnh xô bồ hỗn loạn như những ngày cuối cùng của tháng tư 1975…
Chuyện 2
Cũng trên chiếc cầu thang dẫn lên tàu, một người đàn ông tay ôm bao đồ to trước ngực, cõng một bà già tóc bạc phếu lất phất bay theo từng cơn gió sông. Bà già ốm nhom, mặc quần đen áo bà ba màu cốt trầu, tay trái ôm cổ người đàn ông, tay mặt cầm cái nón lá. Bà nép má trái lên vai người đàn ông, mặt quay ra ngoài về phía máy quay phim. Nhờ máy zoom vào bà nên nhìn rõ nét mặt rất bình thản của bà, trái ngược hẳn với sự thất thanh sợ hãi ở chung quanh ! Lên gần đến bong tàu, bỗng bà già vuột tay làm rơi cái nón lá. Bà chồm người ra, hốt hoảng nhìn theo cái nón đang lộn qua chao lại trước khi mất hút về phía dưới. Rồi bà bật khóc thảm thiết… Bà già đó chắc đã quyết định bỏ hết để ra đi, yên chí ra đi, vì bà mang theo một vật mà bà xem là quí giá nhứt, bởi nó quá gần gũi với cuộc đời của bà : cái nón lá ! Đến khi mất nó, có lẽ bà mới cảm nhận được rằng bà thật sự mất tất cả. Cái nón lá đã chứa đựng cả bầu trời quê hương của bà, hỏi sao bà không xót xa đau khổ ? Nghĩ như vậy nên tôi thấy thương bà già đó vô cùng. Tôi hy vọng, về sau trên xứ sở tạm dung, bà mua được một cái nón lá để mỗi lần đội lên bà sống lại với vài ba kỷ niệm nào đó, ở một góc trời nào đó của quê hương…
Chuyện 3 Cũng trên bến tàu nầy. Trong luồng người đi như chạy, một người đàn bà còn trẻ mang hai cái xắc trên vai, tay bồng một đứa nhỏ. Chắc đuối sức nên cô ta quị xuống. Thiên hạ quay đầu nhìn nhưng vẫn hối hả đi qua, còn tránh xa cô ta như tránh một chướng ngại vật nguy hiểm ! Trong sự ồn ào hỗn tạp đó, bỗng nghe tiếng được tiếng mất của người đàn bà vừa khóc la vừa làm cử chỉ cầu cứu. Đứa nhỏ trong tay cô ta ốm nhom, đầu chờ vờ mắt sâu hõm, đang lả người về một bên, tay chân xụi lơ. Người mẹ - chắc là người mẹ, bởi vì chỉ có người mẹ mới ôm đứa con quặt quẹo xấu xí như vậy để cùng đi di tản, và chỉ có người mẹ mới bất chấp cái nhìn bàng quan của thiên hạ mà khóc than thống thiết như vậy - người mẹ đó quýnh quáng ngước nhìn lên luồng người, tiếp tục van lạy cầu khẩn. Bỗng, có hai thanh niên mang ba lô đi tới, nhìn thấy. Họ dừng lại, khom xuống hỏi. Rồi họ ngồi thụp xuống, một anh rờ đầu rờ tay vạch mắt đứa nhỏ, họ nói gì với nhau rồi nói gì với người đàn bà. Thấy cô ta trao đứa bé cho một anh thanh niên. Anh nầy bồng đứa nhỏ úp vào ngực mình rồi vén áo đưa lưng đứa nhỏ cho anh kia xem. Thằng nhỏ ốm đến nỗi cái xương sống lồi lên một đường dài… Anh thứ hai đã lấy trong túi ra chai dầu từ lúc nào, bắt đầu thoa dầu rồi cạo gió bằng miếng thẻ bài của quân đội. Thiên hạ vẫn rần rần hối hả đi qua. Hai thanh niên nhìn về hướng cái cầu thang, có vẻ hốt hoảng. Họ quay qua người đàn bà, nói gì đó rồi đứng lên, bồng đứa nhỏ, vừa chạy về phía cầu thang vừa cạo gió ! Người mẹ cố sức đứng lên, xiêu xiêu muốn quị xuống, vừa khóc vừa đưa tay vẫy về hướng đứa con. Một anh lính Mỹ chợt đi qua, dừng lại nhìn, rồi như hiểu ra, vội vã chạy lại đỡ người mẹ, bồng xóc lên đi nhanh nhanh theo hai chàng thanh niên, cây súng anh mang chéo trên lưng lắc la lắc lư theo từng nhịp bước…. Viết lại chuyện nầy, mặc dù đã hơn ba mươi năm, nhưng tôi vẫn cầu nguyện cho mẹ con thằng nhỏ được tai qua nạn khỏi, cầu nguyện cho hai anh thanh niên có một cuộc sống an vui tương xứng với nghĩa cử cao đẹp mà hai anh đã làm. Và dĩ nhiên, bây giờ, tôi nhìn mấy anh lính Mỹ với cái nhìn có thiện cảm !
Chuyện 4 Cũng trên bến tàu. Cầu thang đã được kéo lên. Trên tàu đầy người, ồn ào. Dưới bến vẫn còn đầy người và cũng ồn ào. Ở dưới nói vói lên, ở trên nói vọng xuống, và vì thấy tàu sắp rời bến nên càng quýnh quáng tranh nhau vừa ra dấu vừa la lớn, mạnh ai nấy la nên không nghe được gì rõ rệt hết ! Máy quay phim zoom vào một người đàn ông đứng tuổi đang hướng lên trên ra dấu nói gì đó. Bên cạnh ông là một thằng nhỏ cỡ chín mười tuổi, nép vào chân của ông, mặt mày ngơ ngác. Một lúc sau, người đàn ông chắp tay hướng lên trên xá xá nhiều lần như van lạy người trên tàu, gương mặt sạm nắng của ông ta có vẻ rất thành khẩn. Bỗng trên tàu thòng xuống một sợi thừng cỡ nửa cườm tay, đầu dây đong đưa. Mấy người bên dưới tranh nhau chụp. Người đàn ông nắm được, mỉm cười sung sướng, vội vã cột ngang eo ếch thằng nhỏ. Xong, ông đưa tay ra dấu cho bên trên. Thằng nhỏ được từ từ kéo lên, tòn ten dọc theo hông tàu. Nó không la không khóc, hai tay nắm chặt sợi dây, ráng nghiêng người qua một bên để cúi đầu nhìn xuống. Người đàn ông ngước nhìn theo, đưa tay ra dấu như muốn nói : « Đi, đi ! Đi, đi ! ». Rồi, mặt ông bỗng nhăn nhúm lại, ông úp mặt vào hai tay khóc ngất ! Bấy giờ, tôi đoán ông ta là cha của thằng nhỏ đang tòn ten trên kia… Không có tiếng còi tàu hụ buồn thê thiết khi lìa bến, nhưng sao tôi cũng nghe ứa nước mắt ! Không biết thằng nhỏ đó – bây giờ cũng đã trên bốn mươi tuổi -- ở đâu ? Cha con nó có gặp lại nhau không ? Nếu nó còn mạnh giỏi, tôi xin Ơn Trên xui khiến cho nó đọc được mấy dòng nầy… Tiểu Tử
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 11/Apr/2016 lúc 8:07am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23786 |
![]() ![]() ![]() |
SỐ MẠNG ![]() Chú Trứ có tin con người ta sống hay chết đều do số mạng Tiếng gió rít từng hồi trên ngọn dương liễu bên ngoài cùng với cơn mưa rã rích giữa khuya, trong biệt giam tối và lạnh làm cho câu hỏi của Tưởng như có gì huyển hoặc xa vời. Tưởng lớn hơn Trứ chừng sáu tuổi, bị tội buôn, trộm và mổ bò lậu, lãnh án ba năm, ở trong Trại giam Phan Thiết hai năm nay rồi. Gần đây, bắt được một vụ trộm bò ở Ninh Thuận, khai ra có lên can với Tưởng trong những vụ trước. Anh lại bị đưa về Ninh Thuận để làm việc. Tưởng không hề trộm bò, anh chỉ chuyên mổ bò và là bò của Hợp Tác Xã. Trong căn phòng nhỏ cỡ bốn mét vuông, một đêm anh có thể mổ sáu con, các mối chở xương và thịt đi, sáng ra là đã được dọn sạch phi tang. Tưởng ở chung phòng biệt giam với Trứ cả tháng nay. - Ý anh là sao? - Nghĩa là khi cái số mình chưa tận, thì cho dù có bỏ trong lu, lấy búa tạ mà đập thì cũng không chết! Trứ cười, anh cũng thường nghe nói đến số mệnh, không riêng gì chuyện sống, chết, mà giàu nghèo, sang hèn, sướng khổ…đều có số định sẵn. Nghe thì nghe thế nhưng do tuổi tác còn trẻ, anh ít quan tâm. Giờ đột nhiên nghe hỏi, chẳng biết sao mà trả lời: - Tôi có nghe nói nhiều nhưng vu vơ, mơ mơ hồ hồ, bản thân thì mới hai sáu tuổi đầu chưa có gì gọi là kinh nghiệm về chuyện này nên nói không tin thì không phải, mà tin một cách chắc chắn cũng không! - Tôi thì tôi tin vì ngay chính bản thân tôi, mấy lần tưởng tiêu đời rồi nhưng cuối cùng vẫn cứ sống nhăn! - Có ai đó bỏ anh vô lu mà đập bằng búa tạ à?! - Hà hà, bỏ vô lu thì chưa, nhưng bắn và bỏ cho chết đói thì có rồi! - Anh Tưởng kể đi. - Ừ, thì kể. oOo - Chừng hai mươi ngày sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi mới hai mươi hai tuổi. Hồi tới tuổi lính, tôi vào Địa Phương Quân, binh nhì, bốn năm lính, tôi trình diện ủy ban quân quản với cấp bậc hạ sĩ. Không biết chọn lựa theo công tội thế nào mà có một số cho học tập tại nhà, một số phải đi tới trại. Hôm tập trung trình diện, cán bộ quân quản thông báo đi cải tạo, học tập chính sách và đi ngay, ai cũng hoảng và lo. Cán bộ nói là trại gần, thân nhân sẽ đem đồ dùng đến sau. Hai bộ đội chính quy cùng hai thằng du kích, người trong xã, dẫn đám ngụy quân, ngụy quyền chúng tôi chừng ba mươi lăm người lên trại, cách nhà chừng mười cây số, đi hàng một. Lính gồm những thằng tre trẻ như tôi, một vài người hơi lớn chừng bốn mươi, bốn lăm. Các bác được gọi là ngụy quyền thì lớn hơn, già không hà, gồm trưởng thôn, mấy ông trong ban đại diện xã… Đi được chừng năm cây số thì bác trưởng thôn quay lại xin nước uống. Anh lính đi sau bác không có, tôi may có cái bình hai lít mẹ tôi đưa cho hồi sáng, tôi đưa cho anh lính chuyền cho bác. Uống thì phải dừng lại, bác ấy đang dốc cái bình lên miệng thì thằng du kích, nó cũng là người trong xã nhưng thoát ly đâu từ lâu nên lạ, tống một báng súng ngay bụng làm bác ấy gập người xuống, cái bình rơi ra xa, tôi bước tới cúi xuống định nhặt thì bị nó cho một đá ngay mông chúi người tới trước. Tuy là lính Địa Phương Quân, một binh chủng thuộc loại hiền nhưng tôi ba gai cũng chẳng thua ai. Máu bốc lên đầu, định chụp cây súng của nó nhưng Bác trưởng thôn và mấy anh em ôm tôi lại…Tụi tôi đi tiếp nhưng nó cứ hầm hè, còn tôi thì chẳng ngán, lườm lại nó. Một bộ đội chính quy đi lên ngang nó rồi bảo nó đi lùi ra sau, anh ta đi vào vị trí của nó. Chiều thì đến trại. Rất đông người đến trước đã dựng lều lán lúc nào rồi, vùng này mất an ninh từ lâu, thỉnh thoảng đơn vị tôi có vào hành quân và choảng nhau nơi này. Chúng tôi được chia ra, chiều tối, khi các tổ đến trước đi lao động về, sắp hàng điểm danh rồi chúng tôi cùng theo họ vào lán trại, tôi cùng hai người nữa, vào một tổ mới mà tổ trưởng là một người cao to, da đen, có vẻ là sĩ quan chế độ cũ. Mấy người mới chúng tôi được nằm gần nhau, Bác thôn trưởng cũng được chia ở cùng tôi. Lán vẫn còn rộng rinh, chắc là còn nhiều người sẽ đến. Sáng ra, tôi cùng những người mới đi làm việc với những anh em đến trước. Chiều về, lúc sắp hàng điểm danh trước khi vào lán, tôi thấy thằng du kích hôm trước đi nhìn từng người, hắn thấy tôi và bác trưởng thôn đúng gần nhau, mắt hắn trừng trừng nhìn tôi rồi lặng lẽ đi về cuối trại. Tối lại, nằm bên tôi, bác thôn trưởng, lúc này tôi đã biết tên bác vì khi điểm danh nghe hô Trương Quang Cần. nghiêng qua thì thầm: - Cháu nên tách xa bác ra, bác sợ cháu bị liên lụy! - Sao vậy bác? - Thằng du kích đó, nó thù bác, sẽ kiếm cách trả thù. - Vì sao nó thù bác? - Nó là cháu bên vợ bác, cha nó chết sớm, lêu lỏng ăn chơi chẳng chịu học hành làm ăn gì. Cách nay chừng hai năm, cảnh sát bắt nó vì tội đánh lộn, phá phách trong quán bida. Mẹ nó đến khóc lóc nhờ bác, bác đến Cuộc cảnh sát khuyên lơn nó, cũng hăm he cho nó sợ rối bảo lãnh cho nó về. Mấy ngày sau, nó cùng hai thằng bạn giữa đêm vào nhà đánh bác rồi phá phách lung tung. Bác chưa làm gì thì cả ba thằng biến mất. Nó nghỉ là bác đã cho cảnh sát bắt nó! Cuộc cảnh sát cho biết là chúng vào rừng theo Việt Cộng. Tính tôi ngang, đã vậy tôi cũng không ngán, cứ ở gần bác Cần. Gia đình thăm nuôi có gì chúng tôi gom lại ăn chung. Bác nhắc lại hoài chuyện tách xa bác nhưng tôi gạt ngang: - Ngán gì bác, chẳng lẽ nó bắn chết mình! Tưởng đâu chừng một tháng hay tháng rưỡi chi là được về, ai dè hơn hai tháng vẫn chưa nghe động tỉnh gì. Vài ngày lại có một số lên xe đi đâu đó, phần nhiều là sĩ quan, công chức cấp cao. Bác Cần nghe nói là những người đó bị đưa ra Bắc. Một hôm đi lao động về, bác Cần ham hái rau sam nên tụt lại sau, tôi ngờ ngợ có chuyện nên quay lại tìm, đúng lúc thằng du kích chận bác lại, nó ngó trước ngó sau rồi thoi vào bụng bác làm bác gập người xuống, mớ rau văng tung tóe. Tôi chạy nhanh đến, không thấy nó cầm súng nên lao vào đạp nó một đạp từ sau lưng, nó ngã chúi lên người bác Cần, thì ra nó bỏ cây súng xuống gần đó để đánh bác Cần bằng tay, nó lăn qua chụp cây súng nhưng bác Cần kịp ôm chân nó hét: - Chạy lên ban chỉ huy trại đi. Tôi chạy nhưng nó vùng dậy được, vừa bắn nó vừa hô: - Trốn trại, trốn trại… Chỉ cách không đầy mười lăm mét, nó vừa chạy vừa nhắm thẳng vào tôi mà bắn, tôi cắm đầu chạy về phía trại chỉ huy. Cả tràng đạn AK đi đâu mất tiêu, tôi chẳng bị gì cả. Trong lán chỉ huy chạy ra mấy bộ đội chính quy, gọi là cán bộ quản giáo, người có súng, người tay không. Tôi đưa hai tay lên trời, dừng lại trước họ. Bác Cần cũng vừa chạy đến, bác cũng đưa hai tay lên đầu. Thằng Du kích chạy đến chỉ vào tôi - Báo cáo thằng này trốn trại. Trại trưởng, một bộ đội lớn tuổi, lệnh đưa hai chúng tôi và cả thằng du kích vào trại chỉ huy. Mấy bản tường thuật, kiểm điểm của tôi và bác Cần giống nhau. Chúng tôi được cho về trại. Nhưng ba ngày sau, tôi được gọi lên rồi bị dẫn ra ruộng dưa, ở đó có một cái chòi trơ trọi. Tôi hơi lo, không biết họ định làm gì! Một thằng du kích và một bộ đội, cả hai đều có súng, không có thằng du kích thù tôi nên cũng hơi yên tâm. Chờ một lúc lâu, có hai thằng du kích nữa, vác đến một cái gì bằng gỗ, lần này thì có thằng du kích đó. Tôi được đưa vào lều, bên trong tối om. Một tên du kích bảo tôi nằm xuống, tôi nằm sấp úp mặt xuống thì nghe bảo nằm ngửa ra. Tôi nằm ngửa ra, một thằng kéo khúc gỗ tới bỏ hai chân tôi vào hai lỗ hai bên, thằng kia bỏ một khúc gỗ khác chồng lên hai chân tôi khít vào hai lỗ, một thanh sắt thọc ngang bên trên rồi khóa lại bằng ổ khóa to. Tôi đoán đây là cái mà các anh em ở trại thường gọi là cùm. Trước khi đi, tên bộ đội nói: -Anh bị kỷ luật, bỏ ý định trốn trại đi, cứ chấp hành cho tốt sẽ được tha. Tôi hoang mang, băn khoăn, lo đủ điều. Tôi không mang theo được gì kể cả tấm chăn! Tôi thử uốn người ngồi dậy nhưng hai lỗ cùm cao quá, hổng hai chân lên nên chỉ gồng người được một lát là phải nằm lại. Sau này tôi biết là cái cùm, mới được toán thợ mộc làm và tôi là người đầu tiên bị cùm! Trưa hôm đó, không có ai cho tôi cơm nước gì, chiều tối, có người đem một túm cơm gói trong bịch nilon, miếng cá khô và một chai đựng nước đến. Tôi đói, ăn hết túm cơm mà vẫn còn đói. Ngày sau, khoảng trưa thì người đó mang cơm đến, anh ta bỏ túi nilon cơm và một can chừng hai lít nước xuống sát bên hông tôi rồi nói: - Ông Cần chuyển trại đi nơi khác rồi! - Đi đâu? - Không biết! Vốc cơm ăn, lòng băn khoăn không biết bác Cần chuyển đi đâu, có bị như mình không?! Ngày sau, không có ai đem cơm đến cho tôi và những ngày sau nữa, tôi đói lả người, mắt tôi hoa lên, chập chờn nhiều ý nghĩ và hình ảnh trong đầu. Tôi thấy mẹ tôi, chị tôi vừa chạy vừa la “ Tưởng ơi Tưởng, con đâu rồi, con đâu rồi!!!”. Thỉnh thoảng tôi tỉnh lại, với lấy cái chai nước dốc vào miệng, cái chai không còn giọt nào, cái can nhựa còn một ít, tôi uống cầm chừng, không nhớ được là mấy ngày như thế. Đến khi cái can cũng hết nước, tôi đái vào can rồi uống từng ngụm nhỏ, không hề thấy khai, cứ ngậm cho thấm từ từ… Tôi không còn phân biệt được ngày hay đêm và không ăn mấy ngày rồi. Có lần tôi tỉnh dậy vì như có ai cào vào chân tôi, ngay giữa háng. Nằm một lát tôi nghe tiếng gà gáy rồi tục tác. Trong đầu tôi thoáng qua ý nghĩ là con gà hoang nào vào đẻ ?!. Con gà bươi một hồi rồi nằm im, đúng là con gà đẻ, ngay giữa háng tôi. Khi nó bay đi rồi, tôi sờ xuống, một cái trứng mềm còn nóng. Muốn lấy ăn ngay nhưng tôi nhớ lại, người ta nói là con gà khi vào đẻ lại, thấy trong ổ không có trứng thì đi tìm ổ khác hoặc không đẻ nữa. Người nuôi gà khi nào cũng chừa một hoặc hai cái trong ổ, tôi cố nhịn không dám ăn, rồi mê đi… Con gà lại vào đẻ, khi sờ xuống thấy hai cái trứng tôi biết mình mê đi một ngày. Tôi thò tay lấy một cái trứng đưa lên miệng, gỏ vào răng rồi hút, cả cái trứng tót vào họng, chỉ còn chút nhầy nhầy tanh tanh ở lưỡi! Con gà đều đặn đẻ như thế, tôi không đếm được là bao nhiêu ngày. Cho đến một hôm, tôi mơ hồ nghe tiếng người xôn xao, hình như nhiều người, đỡ tôi dậy, tháo cùm rồi khiêng tôi đi…Tôi phải vào trạm xá vì lưng tôi đã bị lầy, da tróc từng đám! Tưởng kể đến đây thì ngồi dậy, anh lấy cái ráy tai tự chế mà trong tù ai cũng có, xoáy tai mình kêu rồn rột. Trứ hỏi: - Anh có biết vì sao họ bỏ đói anh không? - Họ không bỏ đói mà là họ quên ! Tôi bị kỷ luật, phần cơm của tôi vẫn chia về toán, bác Cần lấy cơm rồi nhờ người đưa đến cho tôi, khi bác chuyển đi, không còn ai nhớ đến tôi! Lúc mẹ và chị tôi lên thăm, trại mới nhớ lại. Nếu mẹ và chị tôi không lên thăm hoặc thăm trễ đi vài ngày, chắc là tôi tiêu rồi vì con gà đã ngưng đẻ hai ba ngày trước! Sau này mới biết tôi không ăn cơm mười một ngày, trong thời gian đó, con gà cho tôi tám cái trứng! Tôi tin vào số mạng là vậy, nếu con gà không vào đẻ, hay đẻ xa tôi chừng mét rưỡi thì tôi không sống nổi tới ngày mẹ tôi vào thăm. Số tôi chưa tận! oOo Ngoài biệt giam vẫn mưa, gió vẫn thổi, thỉnh thoảng lùa vào phòng từ ô cửa trên cao, Trứ nằm ngẫm nghĩ về sự trùng hợp lạ kỳ của chuyện con gà đẻ. Tưởng lên tiếng hỏi: - Chú ngủ rồi à? Trạch An - Trần Hữu Hội
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 13/Apr/2016 lúc 12:23pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23786 |
![]() ![]() ![]() |
THĂM ANH Z30C.
Xong phần rán mỡ chờ cho mỡ nguội chị Bông đổ cả tóp mỡ và mỡ nước vào lon "guigoz", chị Bông để yên chảo trên bếp để rang thịt. Đây là món thịt ba rọi rang mặn. Thế là xong hai món sau cùng để mang đi thăm anh Bông đang tù cải tạo. Món mỡ nước dùng để xào nấu thì ít mà chủ yếu là món để anh Bông ăn dần. Chỉ cần chút mỡ nước với vài miếng tóp mỡ rắc vào chút muối là trở thành món mặn ngon lành dù ăn với cơm độn hay mì sợi luộc, khoai mì luộc. Thịt ba rọi ướp đủ gia vị tiêu hành muối đường rang mặn thì "cao cấp" hơn lon mỡ nước, trước đó chị Bông đã làm một lọ ruốc to rang rất kỹ để khó bị hư hỏng và một lo muối mè, muối tiêu.. Thằng Bi ngồi xem mẹ làm, nó thèm thuồng đòi ăn thịt, chị Bông đã bảo con: - Lúc khác nhà mình ăn, thịt này để dành đi thăm bố ngày mai.… Bí vùng vằng trách mẹ: - Con mình không cho mà cho người ta. Chị Bông bật cười trước câu nói của con, bố nó chỉ là "người ta" xa lạ. Chị đành chịu thua con, lấy cho nó bát cơm với thịt ba rọi rang mặn còn nóng trên bếp dù củi lửa đã tắt. Chị Bông sinh Bi ngày 13 tháng 8 năm 1975, bố nó không có nhà cho đến ngày hôm nay thì trách gì đứa trẻ lên 5 chẳng thân tình với người cha vắng mặt.mặc dù chị Bông đã nhiều lần kể cho nó nghe về bố, cho nó nhìn những tấm hình cũ của bố nó, nhưng trong đầu óc trẻ thơ thì những hình ảnh ấy cũng xa vời như truyện cố tích. Ngày 22 tháng 9 năm 1975 cả miền Nam Việt Nam đổi tiền, tiền Việt Nam Cộng Hòa sẽ đổi lấy tiền do ngân hàng Việt Nam phát hành. Thằng Bí mới được một tháng chín ngày tuổi, nó còn bé bỏng qúa chị Bông không thể bế nó theo, phải nhờ một bác hàng xóm trông nó để chị đi đổi tiền. Chị Bông sống chung với đại gia đình nhà mình, mẹ mất, nhà toàn đàn ông con trai, bố và các cậu em, còn mấy đứa em gái thì nhỏ chẳng biết gì., chẳng ai có thể trông Bí được . Địa điểm gởi tiền là trụ sở phường gần nhà nên bà hàng xóm đã hai ba lần chạy đến tìm chị Bông và lo lắng: - Thằng Bi cứ gào khóc tôi dỗ mãi không nín. chỉ sợ nó khóc nhiều qúa…. hết hơi chết mất. Chị về nhà cho nó bú một tí được không? … Chị Bông vẫn đứng xếp hàng và phải năn nỉ bà hàng xóm một hơi dài : - Bác ơi, thời gian đổi tiền nhà nước cho có hạn, tiền mình đã ít mà không đổi kịp thì coi như trắng tay lấy gì mà sống. Trẻ con càng khóc càng…nở phổi bác đừng lo, nó lạ người nên khóc chứ không đói sữa đâu., cháu cho nó bú no rồi mới đi mà. Khi chị Bông đổi tiền xong về đến nhà thằng Bí vẫn còn thỉnh thonảg khóc tức tưởi y như đứa bé bị mẹ bỏ rơi, chị Bông ôm ấp con vào lòng một lát là nó im ngay. Bà hàng xóm phải khen: - Gớm, thằng con chị Bông mới một tháng tuổi mà khôn lanh qúa. Đúng như chị nói thì ra nó lạ hơi mẹ nên gào khóc phản đối tôi đấy. Chị Bông vừa nghĩ về con vừa làm tiếp công việc của mình, món thịt rang mặn cũng bỏ vào lon "Guigoz" như món mỡ nước, cái lon "Guigoz" thật tiện lợi, nắp đây kín khó đổ thức ăn ra ngoài. Ấy thế mà có lần chị đã làm. đổ khi đi thăm chồng. lần đầu tiên. Thời gian đầu sau khi các sĩ quan đi trình diện, nhà nước cho gởi qùa bằng đường bưu điện về một địa chỉ chẳng biết ở nơi đâu ngoài số hòm thư. Ngày hôm ấy khi ra bưu điện gởi qùa chị Bông đã khóc vì tủi thân, miền Nam thất thủ chồng chị và bao nhiêu người khác thành kẻ tù tội đáng thương, vợ con, cha mẹ, anh em của họ ở cái xã hội chủ nghĩa này bỗng bị mang bản án lý lịch đen tối như đêm ba mươi khó mà ngóc đầu lên nổi. Sau này chị Bông được biết anh đã ở Long Khánh, rồi đổi về Thành Ông Năm, Hốc Môn thì chị Bông nhận được giấy đi thăm nuôi chồng lần đầu tiên. Ôi, ngày vui mừng cũng là ngày nước mắt. Khi gặp anh, ngồi cùng anh nơi dãy ghế dài giữa đám đông người cũng thăm nuôi như mình chị Bông đã khóc ngon lành, qúa cảm xúc chị đã luống cuống đánh đổ cả lon "guigoz" mỡ nước, mỡ dây bẩn ra cả quần áo chồng và vợ nhưng chả ai kịp lau chùi kỹ, chỉ lau sơ sơ rồi hối hả nói chuyện tiếp vì sợ hết giờ. Về đến nhà chị mới tiếc lon mỡ, tự trách mình vụng về làm chồng mất một món ăn Chị Bông chỉ được thăm chồng một lần ở Thành Ông Năm thì anh lại chuyển trại về Hàm Tân Thuận Hải . Cứ khỏang chừng một năm chị lại nhận giấy thăm nuôi chồng ở Hàm Tân Thuận Hải. Thế nên dù chưa nhận được giấy phép đi thăm nuôi lần sau chị Bông đã sắm sửa dần dần, chứ mua sắm một lúc thì tiền đâu ra, chị dặn chị Hai Pháo hàng xóm, người chuyên buôn hàng từ Tây Ninh về, khi thì mua ký đường thẻ, đường Thốt Nốt, lúc thì mua cân nếp, đậu xanh, Mì sợi, bánh mì thì chị Bông phơi khô ở nhà và để dành sẵn nên khi nhận được giấy thăm nuôi là chị Bông đã có đủ cả chưa kể các món hàng từ bên phía nhà chồng gởi cho nên lần nào đi thăm nuôi anh Bông cũng là hai bao tải.như ngươi đi buôn lậu.thời buổi khó khăn. Ngày mai chị Bông sẽ đi thăm chồng tại trại cải tạo Z30C, Hàm Tân Thuận Hải Ngày mai chị Bông sẽ cho hai con đi thăm bố, đây là lần đầu tiên Bi được đi. Tờ mờ sáng 3 mẹ con đã có mặt ở điểm hẹn tại ngã ba Hàng Xanh, nơi chuyến xe than sẽ đón khách toàn là những vợ tù cải tạo đi thăm chồng tại địa điểm Hàm Tân. Chiếc xe than chạy đi trong sương mờ gió sớm, thằng con lớn ngồi bên cạnh còn thằng Bi ngồi trong lòng mẹ ngủ tiếp. Gió thốc qua lưng chị Bông cảm giác lạnh lùng, nhất là khi xe chạy qua những cánh rừng cao su thăm thẳm. .. Chị Bông nhìn cảnh bên đường, thỉnh thoảng có những cục than đỏ hồng từ thùng than của xe rơi xuống lăn trên đường như những đốm mắt đỏ trên nẻo đường đi, những đốm mắt đỏ vì thương nhớ và mòn mỏi chờ mong của những người vợ tù đi thăm chồng, của những đứa con thơ ngơ ngác mong người cha trở về... Trời sáng dần, đến Long Khánh có những vườn chôm chôm chín đỏ bên đường, xe than dừng bánh tại một vườn chôm chôm cho mọi người xuống nghỉ và mua trái cây. Hành khách xúm xít vào vườn hái chôm chôm hay mua chôm chôm đã hái sẵn bày ngoài bàn bên lề đường. Hai đứa con chị Bông lần đầu tiên được thấy cây chôm chôm có trái chúng nó thích qúa, thằng anh bảo thằng em: - Đi thăm bố vui nhỉ Bi Bi hí hửng nói với mẹ: - Con thích đi thăm bố để hái chôm chôm mẹ ơi… Ba mẹ con ôm ba bịch chôm chôm đầy ắp lên xe để tiếp tục cuộc hành trình. Khi xe đến Hàm Tân tất cả hành khách xuống xe với hành lý của mình. Xe than đi tiếp đến Phan Thiết và sẽ quay lại đón khách vào buổi chiều, đưa khách trả về thành phố Sài Gòn. Chị Bông đã đi thăm chồng vài lần tại Z30C nên có nhiều kinh nghiệm, chị đã quen con đường từ đây đi bộ vào trại nhưng sẽ gian nan cho hai đứa con, con đường đầy cát bụi , mỗi bước đi là bàn chân chìm trong cát.. Thương con qúa.. Chị trả gía kỳ kèo từng đồng một với đám xe thồ để thuê họ thồ hai bao tải qùa. Người thồ xe buộc hai bao tải vào hai bên chiếc xe đạp và dắt xe đi theo chị Bông vào trại. Thằng lớn vừa đi vừa thỉnh thoảng túm áo mẹ vì sợ ngã, chị Bông bế thằng Bi trên tay, mỏi cả tay nhưng chẳng nỡ để thằng bé 5 tuổi phải đi bộ, chỉ thỉnh thoảng cho nó đứng xuống để chị nghỉ tay.. .. Cổng lán trại hiện ra như cổng thiên đường vì nơi ấy sẽ có niềm vui gặp gỡ cho bao người chờ mong, người trong tù và người đi thăm tù.… Chị Bông nhìn cây Phượng non nơi cổng trại, cây Phượng cao mới hơn đầu người, lá xòe ra xinh đẹp xanh tươi đu đưa thật hồn nhiên trong gió. . Sau khi trình giấy tờ nơi cổng trại mẹ con chị Bông lê lết kéo mang hai bao đồ vào lán gần ngay đó. Hai con chị Bông gặp trẻ con nhà khác thế là chúng chơi chung với nhau nhanh chóng cũng như các phụ nữ cũng nhanh chóng làm quen chuyện trò với nhau trong khi chờ đợi gặp gỡ người thân. Chị Bông đi rảo một vòng quanh lán, lán là dãy nhà hình chữ L làm bằng tre nứa mái lợp lá, nền đất nện chắc, dĩ nhiên là công sức của những người tù cải tạo. Nơi sau lán có mấy hố xí, nơi đầu lán có cái giếng bên cạnh nhà bếp để cho thân nhân tù có thể rửa ráy và nấu nướng. Những người giàu có hay người cầu kỳ họ mang theo nồi niêu bát đũa và những thức ăn tươi ngon để nấu tại bếp này, chốc nữa người tù của họ sẽ được ăn một món ăn ngon đặc biệt nào đó. Người ta xầm xì vì phái đoàn thăm nuôi ông giám đốc ngân hàng Việt Nam Thương Tín, họ đi thăm nuôi mang nhiều đồ ăn thực phẩm đắt tiền, ngoài vợ con ông còn có người giúp việc đi theo để khuân đồ và nấu nướng .. Một tiếng sau mọi người trong lán nhốn nháo mừng rỡ bảo nhau người tù đang ra, họ đổ xô ra ngoài cửa lán chờ vì từ xa đang có đoàn người đi đến, dòng người xám xịt trong buổi trưa trời quang mây tạnh. Chị Bông gọi hai con và ba mẹ con cũng chen chân lóng ngóng bên thềm lán. Chị dặn dò con: - Lát nữa gặp bố hai con ôm bố, chào bố nhé. Thằng anh hứa: - Vâng ạ. Còn thằng em thì nghi ngại: - Nhưng bố có quen con không? Chị Bông phải dỗ dành: - Bố quen và thương Bi lắm đó.. Chị Bông căng mắt ra tìm chồng trong đám đông khi họ đã dừng lại trước sân lán, ông nào cũng xơ xác như nhau từ mặt muĩ, vóc dáng đến áo quần. Khó mà hình dung ra trước kia họ là ai. Nhiều người tù nhận ra thân nhân trước khi thân nhân nhận ra họ. Anh Bông đang đứng trước mặt vợ con, thằng con lớn đã được đi thăm bố vài lần, quen mặt bố, nó ôm chầm lấy bố vui mừng. Chị Bông bế Bi lên đưa cho anh Bông, nó lạ lẫm mắc cở nhưng không dám phản đối,.cả nhà kéo nhau vào lán thăm nuôi cùng với hai bao đồ. Trong lán thăm nuôi kê một dãy bàn dài, gia đình chị Bông được bố trí ngồi ngay đầu bàn mà nơi đầu bàn có công an đứng canh nên vợ chồng trao đổi câu chuyện hết sức cẩn thận, Chị Bông không lãng phí thời gian vào đề ngay, chị nói nhỏ bên tai chồng "Họ đến nhà khuyên em đi kinh tế mới thì chồng sẽ mau về anh ạ". Anh Bông vội vàng đáp lại:" Không, em đừng bao giờ đi kinh tế mới mà khổ thân, hai việc chẳng có liên quan đến nhau. Vợ một thằng tù bạn anh đã đi kinh tế mới cả năm nay mà có thấy ai cho nó về đâu. " Thằng Bi nãy giờ vẫn ngồi im thin thít trong lòng bố. Chị Bông muốn con tự nhiên và thân thiện hơn với bố nên bảo nó:: - Bí hát cho bố nghe một bài đi. Bí thích hát và hay hát, nghe thế nó tụt ngay ra khỏi lòng bố, đứng xuống đất và hồn nhiên nói: - Con hát bài đêm qua em mơ gặp bác Hồ cho bố nghe mẹ nhé.. Ôi, Bi biết gì về bác Hồ mà mơ gặp "bác" ttrong khi nó chưa bao giờ ước ao mơ gặp bố nó. Vì có anh công an đứng gần nên chị Bông chẳng biết nói gì hơn. . Bi hát xong được bố mẹ khen nó sung sướng lắm. Vợ chồng chị Bông tiếp tục nói chuyện, bao nhiêu điều muốn nói dịp này cứ tuôn ra không kịp… Bỗng có tiếng khóc thất thanh của thằng Bi ở đâu đó: "Mẹ ơi, mẹ ơi…" thì ra hai anh em Bí đã chạy đi chỗ khác chơi mà vợ chồng chị Bông mải xúm đầu vào nhau nói chuyện không ai để ý.. Thằng anh đã về đúng chỗ cũ với bố mẹ, thằng em đang bị lạc nên khóc ầm lên như thế. Chị Bông phải vội vàng đứng dậy đi tìm con theo tiếng khóc của nó, thằng bé đã đi sang lán thăm nuôi bên kia và quên đường trở về vì cách bài trí đều giống nhau, cũng cái bàn dài, cũng đầy người ngồi nói chuyện mà không thấy bố mẹ đâu cả.. Nó làm phí mất của bố mẹ mấy phút giây vàng ngọc. Mười lăm phút thăm nuôi ngắn ngủi, mười lăm phút phù du đã bay vèo. Anh công an dõng dạc tuyên bố đã hết giờ, các thân nhân ra về để cải tạo viên còn thu xếp hành trang về trại. Mọi người lại nhốn nháo đứng lên, nắm níu tay nhau, nước mắt và nụ cười lẫn lộn. Anh Bông nhân lúc lộn xộn này vội duí vào tay chị Bông một mẩu giấy cuộn tròn và nói nhỏ:" em đứa thư anh Đức về cho người nhà theo địa chỉ trong thư" Chị Bông cũng vội cất mẩu giấy vào trong giỏ xách và hỏi lại cho chắc ăn "Anh Đức ở Phú Nhuận hả anh?" Anh Bông chỉ kịp chớp mắt trả lời vì anh công an đã đến gần. Anh Bông cột dây vào hai miệng bao tải và xỏ vào hai đầu cái đòn tre để chuẩn bị gánh quà về trại. Anh lại đi bộ gần hai cây số đường rừng để về trại.cũng như chị lại đi bộ hai cây số đường cát nóng để rời lán.. Giữa hai vợ chồng là con đường ngược chiều, càng đi càng xa nhau vời.vợi. Chị Bông dắt tay hai con đứng nhìn đám tù nhân cải tạo trước khi rời lán: - Hai con nhìn kỹ bố đi. Lâu lắm chúng ta mới được đi thăm lần nữa. Thằng Bi chê: - Mẹ ơi, con thấy bố và các bạn của bố ai cũng nghèo và xấu qúa. - Tại họ đi học tập xa nhà con ạ. Thằng anh thì hỏi một câu thực tế: - Bao giờ bố về? - Bao giờ bố học tập tốt thì sẽ về. Ra đến cổng trại chị Bông nhìn cây Phượng non vẫn đang rung rinh trong nắng gío, lòng chị bỗng ngậm ngùi, hoa Phượng mai này còn được nở hoa, được tự do khoe nhan sắc với đời, Những người tù cải tạo thì đang lầm lũi bước trở lại trại tù và không biết được ngày mai, không biết được ngày về cho nên chị Bông đã không thể trả lời được câu hỏi của thằng con lớn.. Đi bộ trên con đường đầy cát lần trở về hình như chị Bông bước chậm hơn lần đến, cát níu kéo từng bước chân chị Bông. Hành lý không còn mà lòng chị mang nặng nỗi buồn. Chuyến xe than đã đợi sẵn, chủ xe kết hợp buôn nước mắm từ Phan Thiết về Sài Gòn vì chuyến về xe rộng, hành khách không còn hành lý cồng kềnh nữa. Chị Bông nhìn lại con đường đầy cát dẫn vào lán trại, con đường đã đưa chị gặp chồng và cũng đã đưa chị rời xa., con đường đã cho chị niềm vui nao nức và cũng đã cho chị nỗi niềm thất vọng. xót xa. Tạm biệt anh, tạm biệt Z30C Hàm Tân Thuận Hải. Hẹn anh một ngày tao ngộ nhưng không phải tại nơi này… Ngồi trên xe hai con chị thấm mệt lim dim ngủ. Trẻ con thật vô tư. Chị Bông ôn lại từng phút giây gặp gỡ chồng, tất cả đến rồi đi như một giấc mơ. Chị nhớ đến mẩu giấy nhờ chuyển của người tù tên Đức. Chị đã một lần mang thư đến nhà này rồi, chị đạp xe từ Gò Vấp lò mò tìm đúng địa chỉ, là một căn nhà to đẹp kín cổng cao tường, khi chị bấm chuông cửa một người hé cổng thò đầu ra nghe chị nói, họ cám ơn và nhận thư xong lạnh lùng khép cánh cổng lại. Lần này anh Đức lại nhờ chuyển thư nữa, chị cũng vì bạn chồng, vì sự tin cậy chờ mong của người trong tù gởi gấm mà đến nhà này lần nữa dù thái độ khi nhận thư người thân của họ chẳng mấy mặn mà.. Không biết người trong ngôi nhà to đẹp ấy là người thân thế nào với anh Đức mà để anh thiếu thốn cứ phải gởi thư xin thêm đồ tiếp tế và dặn dò nhớ đi thăm anh... Có lần chị Bông cũng chuyển thư cho vợ một bạn tù cùng với anh Bông, nhà này ở cư xá Lữ Gia, chị Thành vợ anh Thân cảm động khi nhận được thư chồng . Chị Bông quen chị Thành từ đó. Thỉnh thoảng chị Thành đạp xe đến nhà chị Bông chơi., cả hai cùng tuổi, cùng cảnh nên dễ thân nhau. Trong tù hai ông thân nhau thế nào thì chị Bông và chị Thành cũng thân nhau thế đấy. Nhà chị Thành ở cạnh nhà cha mẹ ruột, cùng làm nghề sản xuất miến. Khi anh Thân đi tù cải tạo chị Thành không làm miến nữa, ba mẹ con chị sống trong sự đùm bọc của gia đình bên ngoại. Chiếc xe than vẫn chạy đều đều trên đường., càng lúc càng xa Z30C Hàm Tân Thuận Hải. Chị Bông thẫn thờ nhìn con đường dài đang chạy lùi phía sau, những cục than đỏ hồng trong thùng xe than vẫn thỉnh thoảng rơi trên đường, lần này những cục than cháy đỏ ấy như những ánh mắt lưu luyến thiết tha của những người chồng người cha từ trong trại tù cải tạo Z30C Hàm Tân Thuận Hải đang lưu luyến dõi theo vợ con họ trên đường về nhà. Nguyễn Thị Thanh Dương Tháng Tư 2016 |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() Tên tôi là Nguyễn thị Di Tản. Cái họ Nguyễn của tôi đã chứng tỏ tôi là người Việt Nam chính hiệu con nai vàng. Song có điều tôi là đứa bé Việt Nam chào đời ở một miền đất lạ xa – đảo Guam – một nơi chốn thật lạ lẫm với quê hương tôi. Theo lời mẹ tôi kể tôi chào đời vào những tháng ngày buồn thảm nhất của miền Nam Việt Nam. Tôi đã nằm trong bụng mẹ, theo mẹ trên con đường di tản của dân tộc tôi. Tôi đã là một chứng nhân của lịch sử. Tiếng khóc chào đời của tôi ở một quần đảo nơi quê người đã giúp mẹ tôi nhiều can đảm vượt qua những thử thách, gian truân của cuộc đời. Tôi đã là Nguyễn Thị Di Tản từ ngày ấy. Thế mà đã hơn một phần tư thế kỷ kể từ 30 tháng 4 năm ấy. Thế mà đã 35 năm qua… Đã 35 năm qua. Tôi đã lớn. Đã trưởng thành nơi miền đất tạm dung của một tỉnh lỵ miền Tây Canada. Thành phố Winnipeg buồn hắt hiu như tâm sự “Người di tản buồn” của mẹ. Mẹ rất yêu bản nhạc “Người di tản buồn” của Nam Lộc. Ngày còn bé, bằng bài hát ấy mẹ đã ru tôi ngủ. Riết rồi tôi quen với từng lời ca tiếng nhạc. Mẹ bảo đêm nào không nghe bài hát ấy tôi không ngủ. Đến lúc tôi bập bẹ biết nói mẹ dạy tôi hát. Tôi vừa quấn quít bên mẹ vừa đỏ đẻ hát: Chiều nay có một người đôi mắt buồn Nhìn xa xăm về quê hương rất xa Chợt nghe tên Việt Nam ôi thiết tha Và rưng rưng lệ vương mắt nhạt nhòa Bạn ơi đó là người di tản buồn Ngày ra đi lặng câm trong đớn đau. Rồi đêm đêm hằn lên đôi mắt sâu Thời gian đâu còn những phút nhiệm mầu Cho tôi xin lại một ngày, ở nơi nơi thành phố cũ Cho tôi xin lại một đời, một đời sống với quê hương Cho tôi đi lại đoạn đường, hàng cây vươn dài bóng mát Cho tôi yêu lại từ đầu, bên người yêu dấu ngày xưa Chiều nay có một người di tản buồn Nhìn quê hương còn ai, hay mất ai ? Còn bao nhiêu thằng xông pha chiến khu ? Và bao nhiêu nằm trong những lao tù ? Ở đây có những chiều mưa rất nhiều ! Nhiều hơn khi hành quân trong tháng mưa Buồn hơn khi rừng khuya vang tiếng bom Ngày vui ơi giờ đâu nước không còn Cho tôi xin lại một lần, ở nơi tôi dừng quân cũ Cho tôi xin lại bìa rừng, nơi từng chiến đấu bên nhau Cho tôi xin một lời chào, chào bao nhiêungười đã khuất Cho tôi xin một mộ phần, bên ngàn chiến hữu của tôi ! Tôi hát như sáo. Mẹ hát sao tôi hát theo vậy. Mẹ bằng lòng lắm. Dần dà tôi có thể hát được cả bài. Bạn bè của mẹ đến nhà chơi mẹ, đem con sáo của mẹ ra khoe. Mẹ bắt tôi hát. Mỗi lần hát xong các bác các cô, bạn của mẹ ai cũng đều rươm rướm nước mắt. Có lần tôi thỏ thẻ hỏi mẹ “Sao con hát hay mà mẹ với các bác lại khóc”. Mẹ ôm tôi vào lòng và nói “Bao giờ con lớn con sẽ hiểu tại sao”. Cái trí óc non nớt ngày ấy của tôi mơ hồ cảm nhận có một điều gì khác thường ở mẹ, một cái gì mất mát lớn lao trong đời mẹ. Những lúc rảnh rỗi, sau giờ cơm chiều mẹ dạy tôi nói, tôi đọc: -Con là người gì ? -Dạ thưa con là người Việt nam -Con tên gì ? -Con tên là Di Tản -Con có yêu nước Việt Nam không ? -Con yêu Việt Nam lắm ! Tôi đã thuộc nằm lòng những câu mẹ dạy. Tôi đã quen thuộc với cái tên Di Tản. Tôi thấy tên tôi nó ngồ ngộ, dễ thương làm sao. Đến lúc tôi lên năm, mẹ dắt tôi đến một ngôi trường tiểu học ở gần nhà để ghi tên đi học. Từ ngày còn bé tôi chỉ loanh quanh ở cái apartment mẹ ở mà thôi. Chung cư nầy đa số là người Việt nam. Lần đầu tiên đến trường, một khung cảnh mới, người mới. Các học sinh cùng lớp với tôi hoàn toàn là những khuôn mặt lạ xa. Cô giáo cũng thế. Không giống mẹ. Không giống các bác, các cô đến chơi nhà mẹ. Lúc mẹ chào cô giáo ra về. Tôi ở lại trường với tâm trạng thật lạc lõng, bơ vơ. Tôi muốn khóc. Tôi muốn theo mẹ ra về làm sao. Tôi ngồi cô đơn một góc lớp. Cô giáo rất trẻ, đến bên tôi nhỏ nhẹ hỏi – “What is your name ?”. Tôi cúi mặt, bặm môi chừng như rướm máu, lí nhí đáp bằng cái giọng Việt Nam đặc sệt “Dạ .. Di Tản”. Cô giáo chừng như không hiểu, cô xem lại quyển sổ và hỏi lại tôi “your name is Đaithen”. Tôi lắc đầu và lập lại “Di Tản”. Cả lớp rộ lên cười. Tôi bật khóc. Tôi khóc ngon lành như bị ai ức hiếp. Sau buổi học, mẹ đến đón tôi về. Trên suốt quãng đường từ trường về nhà Tôi lặng thinh, không nói một điều gì cả với mẹ. Mẹ âu yếm hỏi tôi “Con đi học có vui không”. Chừng như tôi chỉ chờ mẹ hỏi, Tôi òa lên khóc và bảo: – Sao mẹ không đặt cho con một cái tên nào dễ kêu như Helen, như Cindy hay Linda như tụi nó mà mẹ đặt tên con là Di Tản. Cô giáo đọc không được tên con, mấy đứa cùng lớp tụi nó chọc ghẹo con. Mẹ tôi dịu dàng, từ tốn bảo: – Con có biết cả nước Canada nầy có biết bao nhiêu là Helen, là Cindy không con. Còn tên Di Tản chỉ có mỗi một mình con. Con không thấy con đặc biệt sao con. Con phải hãnh diện vì cái tên rất là Việt Nam của con mới phải. Tôi nũng nịu pha một chút hờn dỗi: – Mà cô giáo đọc là Đaithen mẹ thấy có kỳ không ? Mẹ trìu mến đưa tay vuốt tóc tôi, hiền hòa khẽ bảo: – Tại cô giáo không biết cách phát âm của ngươì Việt Nam mình đó thôi. Con phải đọc lại cho cô biết rồi từ từ cô sẽ đọc đúng. Giọng mẹ thiết tha hơn, chùng xuống, sũng đầy nước mắt. – Mẹ đã mất tất cả rồi con ơi. Mẹ chỉ còn cái tên Việtnam mẹ gửi cho con. Con có biết như thế không ? Đầu óc của một đứa bé lên năm làm sao tôi hiểu đuợc hết những gì mẹ nói, song tôi biết mẹ buồn lắm. Có một cái gì làm cho mẹ khổ tâm lắm. Tôi cảm thấy ân hận. Tôi ôm mẹ, hôn me, và bảo: – Con xin lỗi mẹ. Con làm mẹ buồn lắm phải không mẹ. Tôi thấy mắt mẹ long lanh ngấn lệ. – Không phải đâu con, con của mẹ ngoan lắm. Đó là câu chuyện ngày lên năm của tôi. Mãi cho đến những năm sau nầy tên tôi vẫn là một đề tài cho lũ bạn chọc ghẹo. Cái chọc ghẹo cho vui chứ không có một ác ý nào cả. Lúc tôi vào Highschool tôi đã lớn lắm rồi. Tôi đã hiểu những u uất của đời me. Tôi thương mẹ hơn bao giờ hết. Thấm thoát mà tôi đã là cô gái 18. Soi gương tôi cũng biết mình đẹp lắm. Mẹ không cho tôi cắt tóc ngắn. Cả trường con gái mái tóc dài chấm lưng với khuôn mặt Á Đông của tôi vẫn là một đề tài nổi bật nhất. Lại thêm cái tên Di Tản nữa. Lúc nầy tôi không còn buồn mỗi lần bị giáo sư đọc trật tên. Bạn bè tôi, những đứa quen nhau từ lớp mẫu giáo đến giờ được tôi huấn luyện cách phát âm nên đọc tên tôi đúng lắm. Tụi nó bỏ dấu còn lơ lớ nhưng tạm được. Nhưng mỗi lần bắt đầu một niên học mới, tên tôi lại là một tràng cười cho lũ bạn cùng lớp mỗi khi các giáo sư mới gọi tên tôi. Giáo sư nào cũng thế. Ngập ngừng một hồi lâu rồi mới đọc. Tôi cũng không nín cười được cái giọng như ngọng nghịu của một giáo sư người Canada đọc một cái tên lạ quơ lạ huắc chưa bao giờ thấy và gặp trong lịch sử dân tộc. Trên tay cầm bài Test của tôi, ngập ngừng rồi vị thầy gọi “Đai then”. Cả lớp ồ lên một loạt “Oh, my god”. Vị giáo sư lúng túng, đảo mắt nhìn quanh lớp. Cả lớp nhao nhao lên như bầy ong vỡ tổ. Chừng như tụi nó thích những dịp như thế để câu giờ, “nhứt quỉ, nhì ma, thứ ba học trò” mà. Con Linhda ngồi cạnh, hích nhẹ cùi chỏ vào tôi và khẽ bảo: – Ditan, ổng đọc sai tên mầy rồi kìa, mầy sửa cho ổng đi. Tôi đỏ mặt. Tôi chưa kịp nói gì cả thì tụi con trai ngồi sau lưng tôi ào ào lên như chợ nhóm “Ditản, Ditản not Đai then”. Vị giáo sư lúc đó mới vỡ lẽ ra, mới biết là mình phát âm sai, ông gục gặt đầu nói lời xin lỗi và lập lại “Ditản Ditản”. Lúc nầy tôi không còn nhút nhát như ngày xưa nữa. Bạn bè tôi Tây Tàu, Canadian nữa đều “cứu bồ” tôi mỗi lần có tình trạng như trên vừa xảy ra. Dần dà mọi người gọi tên tôi rất ư là dễ thương. Đến bây giờ nhớ lại những lời mẹ nói với tôi ngày nào, tôi hãnh diện vô cùng về cái tên mẹ đã cho tôi. Tôi thương mẹ vô cùng. Cái đất nước Việt Nam khổ đau muôn chiều đã gắn liền với mẹ tôi như hình với bóng trong cuộc đời lưu lạc xứ người hơn một phần tư thế kỷ. Một điều mà tôi có thể khẳng định rằng “dù hoàn cảnh có thể tách rời mẹ ra khỏi quê hương, nhưng không có một hoàn cảnh nào tách rời quê hương ra khỏi tâm hồn mẹ được”. Mẹ sống như chờ đợi, như mong mỏi một điều gì sẽ đến. Có lần tôi bắt gặp mẹ ngồi một mình trong đêm, tay mân mê, vuốt ve bức ảnh bán thân của bố tôi. Mẹ vẫn nuôi hy vọng Bố còn sống và sẽ có lần gia đình tôi laị đoàn tụ như xưa. Nhưng định mệnh đã an bài. Sau khi nhờ một người bạn làm ở Usaid đưa mẹ con tôi di tản. Bố hứa Bố sẽ gặp lại mẹ sau. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng Bố bảo sao, mẹ nghe vậy. Một mình mẹ bụng mang dạ chửa mẹ đã lên phi cơ, theo đoàn người di tản và mong có ngày gặp lại Bố. Nhưng niềm hy vọng đó đã vơi dần theo năm tháng cho đến một ngày mẹ được tin Bố đã nằm xuống nơi trại cải tạo. Mẹ như điên loạn. Rồi mẹ tỉnh lại. Mẹ biếng cười, biếng nói. Cuộc sống của Mẹ đã thầm lặng bây giờ càng thầm lặng hơn xưa. Ngoài giờ ở sở. Về nhà cơm nước xong, trò chuyện với tôi đôi lát rồi Mẹ vào phòng. Cái khoảng đời quá khứ ngày xưa. Những kỷ niệm ngọc ngà ngày nào của Bố và Mẹ như chút dấu yêu còn sót lại. Thời gian không làm nhạt nhòa mà ở Mẹ không một hình ảnh nào mà Mẹ không nhớ. Mỗi lần nhắc tới Bố, Mẹ như trẻ lại. Mắt Mẹ long lanh ngời sáng. Mẹ kể cho tôi nghe chuyện tình của cô sinh viên Văn khoa với chàng thủy thủ Hải Quân. Tôi thuộc nhiều bài hát Việt Nam lắm nên tôi ghẹo Mẹ “Mẹ và Bố giống em hậu phương còn anh nơi tiền tuyến quá”. Ngoài tình mẹ con ra, tôi như một người bạn nhỏ để Mẹ tâm sự, để Mẹ trang trải nỗi niềm nào là “con biết không Bố hào hoa và đẹp trai lắm .. v.v… và v.v… Tôi nịnh Mẹ: – Bố không đẹp trai làm sao cua được Mẹ. Mẹ cười thật dễ thương. Một điều mà tôi biết chắc chắn rằng không ai có thể thay thế hình bóng Bố tôi trong tim Mẹ. Tôi không ích kỷ. Song điều đó làm tôi yên tâm hơn. Tôi muốn cùng Mẹ nâng niu, giữ gìn những kỷ niệm dấu yêu, ngọc ngà của Mẹ và Bố cho đến suốt cuộc đời. Hôm nay nhân ngày giỗ lần thứ 35 của Bố. Con muốn thưa với Bố một điều. Con cám ơn Bố Mẹ đã tạo cho con nên hình, nên vóc. Dù chưa một lần gặp mặt Bố. Dù bây giờ Bố đã nằm xuống. Bố đã đi thật xa, không có lần trở lại với Mẹ, với con. Song với con Bố vẫn là một hiện hữu bên con từng giờ, từng phút. Con nghĩ Bố đã che chở Mẹ con con hơn một phần tư thế kỷ nay. Xin Bố hãy giữ gìn, che chở Mẹ, con trong suốt quãng đời còn lại. Con mong làm sao ngày nào đất nước thật sự thanh bình Mẹ sẽ đưa con trở về thăm lại quê hương. Con sông xưa sẽ trở về bờ bến cũ. Ngày ấy ở một phía trời nào đó của quê hương con thấy bố mỉm cười và Bố nói với con .. Bố sung sướng lắm, con biết không ? Con yêu dấu ! Hoàng thị Tố Lang |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 201 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |