Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 201 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23817
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Mar/2016 lúc 8:20am

Cô Lành Về Quảng Nam


Cô Lành ở Mỹ về Việt Nam tìm thăm bạn cũ. Xuống máy bay ở Sài Gòn, cô đón xe ra Ðà Nẵng, mấy hôm sau, cô đi Vĩnh Ðiện, một thị trấn nhỏ, cách Ðà Nẵng vài chục cây số. Thực ra, trước đó vài ngày, cô có vô Vĩnh Ðiện, hỏi han vài người ở bến xe điều gì đó rồi cô lại về Ðà Nẵng. Lần nầy, cô đi Vĩnh Ðiện sớm. Trời còn lất phất mưa nên cô Lành phải mặc áo đi mưa trước khi xuống xe. Khi xe vừa ngừng thì những người chạy xe ôm vây quanh mời mọc. Họ nhao nhao lên với cô: "Ði mô cô? Tui đưa cô về nghe! Mời lên xe". Cô Lành nói: "Tôi là khách quen của anh Hai Tí. Thấy ảnh đâu không?" Mọi người dãn ra: "Phải Tí Kế Xuyên không? Hắn ngồi quán đằng kia kìa"

Chữ "Kế Xuyên" dùng để chỉ những người nhà quê, bảo thủ, nhất là có giọng nói rặc Quảng Nam, giống như ta dùng chữ "Sịa" để chỉ dân Huế nhà quê. Tuy là Việt kiều nhưng cô Lành trông rất xập xụi. Cô mặc một bộ bà ba cũ, ngoài khoác áo đi mưa, mang đôi dép lẹp xẹp, tay cầm giỏ lác nhẹ tênh, giống các bà nội trợ, đi chợ buổi sáng về nấu ăn cho gia đình. Cô Lành theo hướng người xe thồ chỉ, đến một cái quán nhỏ, giống bất cứ quán nào ở bến xe thị trấn nghèo và vắng vẻ. Trước hiên quán là một chiếc bàn cũ với hai chiếc ghế dài. Một bình tích với bốn cái ly thủy tinh không được sạch lắm. Ngay bên trong là một cái kệ bày mấy thứ kẹo, bánh, chuối, ổi... Một người đàn ông, ngồi dựa lưng vào vách, tay cầm chiếc bánh ú, miệng nhóp nhép nhai, mắt nhìn tận đâu như đang suy nghĩ điều gì nên không thấy cô Lành bước vào.

Anh ta khoảng trên 40, người cao, ốm nhưng rắn chắc, da đen thùi, xương gò má nhô cao, hai mắt sáng trưng thụt vào hốc mắt như mắt con khỉ. Anh mặc bộ đồ nhà binh của lính Cộng Hòa cũ, đã phai thành màu xám mốc. Một chiếc xe đạp thồ tựa vào vách quán. Cô Lành hỏi: "Anh chạy xe thồ phải không?" "Dạ. Cô đi mô?" "Tôi đi nhiều chỗ lắm. Anh biết Thanh Quít không?" "Nhà tui ở đó. Răng không biết?" "Thanh Quít, nhưng vô tuốt trong xa. Anh đi nổi không?" "Ăn thua chi! Lên Di Xiên tui cũng đi tới. Cô chờ cho chút nghe. Tui en xong cái bánh ni là đi liền"

Anh xe thồ nhét phần còn lại của chiếc bánh ú vào mồm, trẹo trạo nhai rồi trợn mắt nuốt. Anh lấy cái bình tích rót một thứ nước vàng vàng vào ly, bưng uống cạn rồi lấy tay quẹt ngang miệng, coi như làm vệ sinh sau bữa ăn. Anh nói vọng vào trong quán: "Chập nữa quay lại tính tiền luôn nghe, chị Tư"

Anh đẩy xe ra, lấy chiếc áo đi mưa gài ở yên sau mặc vào. Áo đi mưa màu xám tro, dày súc, giống như áo của lính cứu hỏa. Anh mặc ngược để tránh gió lùa vào áo. Anh lấy miếng giẻ nhét dưới yên xe lau cái yên sau cho hết nước mưa. Yên sau là một miếng gỗ lớn, có bọc nệm, làm thủ công nên trông thô kịch nhưng chắc chắn. "Mời cô lên xe. Chừ đi mô đây?" Cô Lành ngồi lên yên sau: "Anh cho tôi vô chợ Vĩnh Ðiện, mua ít quà cho người quen". "Cô ngồi rứa không được mô. Phải bỏ hai chưn hai bên, ôm tui cho chẹt. Ðường đất khó chạy lắm, ngồi rứa té bể đầu, tui mang họa". "Ôm anh, vợ anh có ghen không?" "Vợ con chi tui. Mà có vợ, hén cũng không ghen được, chiện lồm en. Ghen tương, đúa trơ mỏ"

Anh xe thồ đạp ra đường cái một đoạn rồi rẽ xuống đường làng. Ðường tráng xi măng nhưng hẹp lại có người đi nên xe phải lách qua, lách lại như làm xiếc. Cô Lành thò tay vào trong áo mưa, vòng ra trước ôm bụng anh xe thồ. Chiếc xe đạp, vì bơm bánh cứng ngắt nên cứ nẩy lên từng lúc. Thỉnh thoảng xe thắng thình lình khiến ngực cô Lành ép sát vào lưng anh xe thồ. Ngực cô căng cứng. Anh xe thồ phải chạy chậm lại.

Xe ngừng ở đầu chợ. Cô Lành bước xuống: "Anh chờ tôi ít phút. Anh biết chỗ nào bán cam, sữa hộp không?" Vì bị cô Lành ép ngực vào lưng mình nên anh xe thồ cố ý nhìn mặt cô Lành, nhưng cô trùm mũ áo mưa sùm sụp, chỉ thấy được hai con mắt ướt rượt, đuôi mắt kéo dài ra, rõ ràng cô đang cười bằng mắt với anh ta. "Trong ni không có cam, quít chi mô. Sữa bò hợp ở quán tê tề"

***

Chợ Vĩnh Ðiện, gần Tết nên rộn rịp người mua, kẻ bán. Nông sản từ các làng lân cận đem đến. Khoai củ, gà vịt, rau quả. Ðặc biệt là rau và hoa, thứ hoa bình dân như vạn thọ, mào gà, phượng ta, cúc... khiến cho chợ rực rỡ, tươi mát, thơm tho. Có cả những cành mai của những nông dân đứng lóng ngóng đầu chợ, gặp ai cũng mời mua. Gà vịt cũng nhiều. Mấy chị đàn bà ngồi chò hỏ với mấy con gà, con vịt bị trói chân, nằm ngóc mỏ nhìn thiên hạ, vừa an phận vừa tuyệt vọng. Ai cũng đem hàng ra chợ để có chút tiền sắm Tết. Ðông khách nhất là mấy sạp vải, áo quần. Các bà, các cô lựa chọn, trả giá những mảnh vải nhiều màu sắc, những áo quần trẻ con đủ kiểu, lòe loẹt với hình những con thú, hoa lá... Cô Lành vào một tiệm tạp hóa mua mấy hộp sữa đặc. Cô tìm hàng cam, nho nhưng không thấy. Chợ nhà quê không có những hàng xa xỉ đó. Một lúc sau, cô Lành đi ra. Anh xe thồ đã trở đầu xe. Cô ngồi lên. "Chừ đi mô đây?" "Xong rồi. Anh đưa giùm tôi qua Thanh Quít"

Ðạp một lúc, anh xe thồ ngừng lại: "Hết mưa rồi. Ðể tui cởi áo mưa. Ðộp một chập nóng thố mồ hôi, hôi rình, cô chịu chi thấu". "Anh chở bồ, đổ mồ hôi, cô bồ có than hôi rình không?" "Bồ bịch chi mô. Chỉ có khách chịu trận thôi. Họ không núa nhưng tui biết". "Bộ thời đi học anh không chở bồ đi chơi sao? Ði ăn quà rong, đi về nhà hái ổi, hái me..." "Chiện xưa rồi cô ơi, nhớ lồm chi cho mệt óc". "Nhưng cô bồ của anh đâu có than hôi. Cô đó còn khen thơm nữa. Cô ta ngồi sau, hít hít cái lưng rồi khen, Thơm quá! Ðúng không?" "Cô tưởng tượng nghe cũng hay, giống tiểu thiết boa xu. Thôi, đi cho mau. Cô chỉ đường cho tôi". "Thì anh cứ chạy dọc bờ sông..." "Rồi tới mô?" "Gần hai chục năm, tôi cũng không nhớ rõ, nhưng trước nhà có cái máy bơm nước vô ruộng, có cái máng nước băng qua đường". "Năm bảy cái máy bơm nước, biết cái mô? Hễ thấy nhà, cô núa tui ngừng lại nghe! Cô đi thăm ai? Cô núa tên là tui biết liền. Tui sống ở đó từ nhỏ tới lớn. Ai tui không biết!" "Nói ra, sợ vừa đến là anh kêu rầm lên, Có khách đến thăm! thì đổ bể hết. Tôi muốn cho những người đó bất ngờ... cho vui"

Xe băng qua đường cái, đổ dốc, vào đường làng. Ðường đã được tráng xi măng. Một bên là sông, với hàng tre giữ bờ, một bên là đồng ruộng, đôi chỗ cất nhà, có cả nhà ngói, có quán bán lặt vặt, vừa là tiệm tạp hóa vừa làm quán ăn. Người đi đường cũng nhiều, không giống như trước đây, chỉ thấy ruộng và cây cối hoang tàn, nhà cửa xụp xệ. Chiến tranh đã chấm dứt, người dân không còn sợ bom đạn tàn phá nên đã chú tâm vào việc dựng lại nhà cửa cho khang trang. Anh Tí chăm chỉ đạp một lúc, không biết cô Lành muốn đến đâu nên nghi ngờ: "Không chỉ chỗ mô, tui đạp miết, cô phải trỏa nhiều tiền, thiệt hại cô thôi". "Ôm anh kiểu nầy, anh không thấy thích sao? Nghề của anh, khi chở các cô, coi bộ anh khoái lắm. Phải không?" "Tội nghiệp tui, cô ơi! Ðộp mệt thấy mẹ, sướng ích chi? Kiếm mấy đồng sống qua ngày". "Anh sống với ai?" "Có bòa mẹ. Mà nuôi không nổi. Bữa cơm, bữa chố!" "Anh cứ đạp từ từ. Tôi không gấp. Khi chở khách, anh có nói chuyện với khách không?" "Ðộp gần thì cũng núa mấy câu. Ði xa, thở bèng mũi, bèng miệng. Khi lên dốc phải nín thở mà độp, thố mồ hôi hột. Về nhòa chưn tay rõa rời. Có chi vui mô mà chiện trò!" "Bây giờ anh cứ tưởng tượng đang chở cô bồ sau lưng, thong thả đưa người đẹp ngắm cảnh, ăn quà rong... Anh sẽ không thấy mệt"

Anh xe thồ bỗng ngưng xe bên vệ đường, giọng nghiêm trang: "Tui chạy xe thồ kiếm mấy đồng chớ không chở bồ bịch chi hết. Chở bồ thì không lấy tiền công. Mà tui với cô có quen biết chi mô? Cô muốn bồ cô chở khỏi trả tiền thì mời cô xuống đây. Tui ăn cục núa hòn. Thà mất lòng trước được lòng sau. Ði mô cô không núa, lại ôm tui cứng ngắt, còn núa chiện bồ bịch. Lồm như tui ở không chở cô đi chơi..."

Cô Lành không giận còn đập tay lên lưng anh xe thồ một cách thân mật, cô cười mà nước mắt ứa ra, từ từ chảy xuống má. Cô móc khăn ra chùi nước mắt, khịt mũi và nói: "Tôi thuê anh từ giờ nầy đến 4 giờ chiều, anh đưa tôi ra lại bến xe về Ðà Nẵng. Anh tính bao nhiêu, tôi trả tiền trước. Anh yên tâm chưa?" Anh xe thồ dịu giọng: "Cô núa nhòa ai, tui đưa cô tới. Xin lỗi cô. Tính tui không thích núa chiện trai gái. Tui... bậy quá. Núa chộm tự ái cô"

Cô Lành ngồi im, không trả lời. Cô liếc nhìn anh xe thồ rồi ôm mặt khóc. Cô khóc ngon lành như cô bé bị mẹ mắng oan. Anh xe thồ bối rối. Anh không biết phải làm gì, đành vịn chặt chiếc xe cho cô ngồi khóc thoải mái. Cô khóc một lúc thì chùi nước mắt, giọng tỉnh rụi: "Hễ đạp gần đến nhà nào phía trước đường có cái máy bơm nước, dưới đường có máng dẫn nước vô ruộng thì anh nói tên người chủ nhà đó. Bây giờ cảnh vật thay đổi hết rồi. Ruộng nương đã thành nhà cửa... Xin lỗi anh, tôi khóc không phải vì bị anh rầy la mà tôi thương những người thân yêu của tôi quá!"

Anh xe thồ quay nhìn trộm cô Lành. Anh nhíu mày suy nghĩ rồi quả quyết: "Chừ ri. Tui chở cô đi dọc bờ sông. Ðến cuối đường, là chỗ con đường ni quẹo vô xóm trong, cua như hết con đường bờ sông, mà cô không tìm ra nhòa người thân của cô thì tui chở cô về lại bến xe để cô về Ðòa Nẻn. Tiền công thì tui tính như với người khoác. Chẻn thiệt hại tui mà cũng chẻn thiệt hại cô. Cô ngồi vịn cho chẹt nghe!" "Dọc đường anh biết được nhà ai thì nói tên chủ nhà đó. Như vậy tôi sẽ nhớ ra. Biết đâu cái máy bơm nước dời chỗ khác hoặc nhà tôi muốn tìm đã sửa sang, xây cất lại... Anh cứ đạp từ từ"

Anh xe thồ bắt đầu nói tên những nhà nào mà anh biết. Ðộ nửa giờ, khi qua một cái máy bơm nước, anh làm như không biết tên chủ nhà, đạp qua luôn. Nhưng cô Lành đã đập tay lên lưng anh xe thồ: "Anh dừng lại để tôi hỏi thăm. Nhà nầy coi bộ đúng rồi". Cô xuống xe, xăm xăm đi đến một ngôi nhà lợp tôn coi bộ nghèo khổ hơn các nhà khác. Anh xe thồ vội đạp xe chạy ngược lại, dùng chiếc xe làm rào cản, không cho cô Lành bước vào. "Cô biết nhòa ai đây mà cô dốm bước vô? Nhòa công oan. Họ bắt nhốt cô bây chừ!"

Cô Lành nhìn anh xe thồ cười: "Anh dấu em đâu có được. Em thấy là nhận ra ngay. Bộ anh không muốn em đến thăm bác sao?" Vừa lúc một người đàn bà từ trong nhà đi ra, tay cầm cái chổi, có lẽ để quét sân. Bà ta khoảng trên 60 tuổi. Cô Lành đẩy chiếc xe đạp của anh xe thồ qua một bên, bước vào sân và kêu lên: "Thưa bác. Bác còn nhớ con không?" Cô Lành kéo mũ áo đi mưa đang trùm đầu xuống, hai tay vịn lên vai người đàn bà, nhìn bà, miệng cười vui mừng và chờ đợi. Người đàn bà nhìn chăm chăm cô Lành: "Ai ri hè? Cua quen quen". "Con là con Lành đây nè. Bác nhớ ra chưa. Lâu quá! Mấy chục năm rồi..." Người đàn bà sững sờ, miệng mấp máy: "Trời đất! Lành đây hả con? Răng cua khoác quá! Nhưng boác cũng nhớ được. Con vô nhòa!" Bà ta mừng đến độ lúng túng, lập cập: "Vô nhòa, con. Trời đất ơi! Mấy chục năm mới gặp lại con. Răng, hai đứa gặp nhau ở mô mà chở nhau về đây? Ngồi đây con. Ở lại chơi, chiều về, nghe con. Hiện nay con ở mô? Chồng con ra răng? Lồm en có khá không? Núa cho boác mừng" 

Người đàn bà kéo cô Lành ngồi xuống bộ phản cũ sì, sứt mẻ, trầy trụa. Bà nói một hơi rồi nhìn cô Lành: "Choa mi! Gần hai chục năm chớ ít ỏi chi. Con ở mô mà boác bét anh Tí con roa Ðòa Nẻn tìm không thấy!" Cô Lành cúi mặt xuống, giọng giận lẫy: "Ðể đó mà ảnh tìm. Lúc nãy, gặp con ở bến xe, ảnh không thèm nhìn con. Con phải làm bộ thuê ảnh chở đi tìm người quen. Ði ngang qua nhà bác, ảnh chạy luôn. Bác nghĩ, có đáng giận ảnh không? Bác còn nhớ, lúc ảnh bị thương, nằm ở bịnh viện Duy Tân, con vô thăm ảnh, săn sóc ảnh. Vậy mà khi xuất viện về, con về đây thăm ảnh, ảnh nói đừng đến thăm nữa. Tôi sắp cưới vợ rồi. Từ đó con từ ảnh luôn, không đến đây nữa. Bác nghĩ coi. Tình nghĩa chi!"

Người đàn bà gọi "Tí! Dô biểu cua". Anh xe thồ, tên Tí, nãy giờ đứng lóng ngóng trước sân, bèn bước vô, ngồi xuống ghế, không nhìn cô Lành. "Răng con núa có vợ cho em con không đến đây nữa?" Anh Tí ngập ngừng: "Thương phế binh, nuôi cái miệng không đủ, đèo bồng vợ con cho khổ lây. Con núa rứa cho cổ không tới nữa. Mà chắc chi gioa đình cổ chấp nhận thèng thương phế binh. Phải biết thân phận mình chớ"

Cô Lành thút thít khóc: "Ảnh bỏ con đành đoạn. Trước đó ảnh viết thư nói thương con. Ảnh còn hỏi ý kiến con, bảo con thưa với ba má con, ảnh xin về phép, đưa bác ra Ðà Nẵng thăm gia đình con rồi xin làm đám hỏi, đám cưới, con có chịu không? Vậy mà chỉ mấy tháng sau, sau khi bị thương, ảnh bỏ con. Chắc có bồ rồi phản bội con. Bỏ mồi bắt bóng. Rồi bị cô bồ đá cho. Ðáng kiếp!" "Thiệt. Cái thèng! Mà xưa nay hén có bồ bịch, vợ con chi mô? Thôi bỏ qua chiện đó đi. Chừ con ở lại en cơm với gioa đình boác. Tí, ngồi núa chiện với em. Mẹ ra sau bứt mớ rau nấu miếng canh, en cho moát rụt". "Khỏi nấu nướng chi cho tốn công, bác. Lúc nãy ngang qua đằng kia, con thấy có gánh mì Quảng, nhờ anh Tí đạp xe đi mua cho tiện. Con về đây thèm mì Quảng"

Người đàn bà móc túi đưa cho anh Tí mấy tờ bạc: "Con mua boa tô, mượn luôn tô, chập nữa đem trỏa"

Cô Lành lấy mấy hộp sữa đặt trên bàn rồi đưa cái bị cói cho anh Tí đi mua mì. Mẹ anh Tí ngồi nói chuyện với cô Lành một lát thì xuống bếp nấu nước pha trà. Cô Lành ngồi ở nhà trên, vén áo mở cái túi nhỏ đeo trước bụng lấy ra một phong bì, trong đó có một xấp tiền và một lá thư. Cô đọc lá thư, ngẫm nghĩ một lúc, gạch xóa, viết thêm mấy dòng, bỏ lại vào phong bì, cô le lưỡi liếm mép phong bì, dán lại rồi đem xuống bếp, đưa cho mẹ anh Tí: "Ðây là lá thư con gửi anh Tí, khi nào con về rồi bác mới đưa cho ảnh"

Cô ôm mẹ anh Tí và khóc: "Con thấy ảnh khổ con đứt ruột. Lúc nãy ảnh chở con, con ngồi sau, ôm ảnh, thấy xương với da, lại nghe ảnh vừa đạp xe vừa thở dốc, con khóc một trận. Con biểu ảnh đạp chậm chậm, coi như chở bồ đi chơi, cho đỡ mệt, vậy mà ảnh cự con, ảnh nói chở bồ không lấy tiền công. Ảnh chạy xe thồ, chở đi thì phải trả tiền công. Không biết ảnh có nhận ra con không mà không nghe ảnh nói với con được một tiếng dịu dàng. Chắc ảnh không còn thương con, không nhìn mặt con nữa. Phải không bác?"

Mẹ anh Tí vuốt tóc cô Lành, thở dài: "Hén không thương con thì thương ai? Hén thấy mình nghèo khổ quá nên gặp boạn bè, hén cũng giỏa lơ. Con về ghé thăm gioa đình boác rứa là quí rồi. Chừ thì đường ai nấy đi. Con cũng phải lo cho gioa đình con. Con thương hén, nhưng con phải giữ cái đức hạnh của người đàn bòa, phải bổ vệ hạnh phúc gioa đình con..." "Con đâu có chồng con chi. Ðời con, chỉ thương có mình anh Tí. Nay con về tìm thăm ảnh, tưởng ảnh đã lập gia đình rồi, không ngờ ảnh chưa có chi hết, con mừng lắm. Giả dụ như ảnh không còn thương con nữa, con cũng quyết không để ảnh với bác phải khổ đâu. Con nói điều nầy, bác khoan nói cho anh Tí biết, là con hiện ở bên Mỹ, con còn độc thân, con đi làm, không gọi rằng giàu nhưng lương khá lắm. Nếu ảnh tự ái không nhận sự giúp đỡ của con thì con gửi tiền giúp bác. Trường hợp ảnh còn thương con thì nhờ bác nói giùm con với ảnh. Con không lấy chồng vì thương ảnh, nếu ảnh không chịu cưới con thì con nhất định làm gái già chứ không lập gia đình với ai hết. Nhờ bác nói giùm con nghe bác. Hay là bác nói, ảnh không thương con cũng được nhưng phải cưới con để con về phụ với ảnh săn sóc bác, bác đã lớn tuổi rồi, bác cần một người đàn bà săn sóc khi bác ốm đau, bịnh hoạn. Thỉnh thoảng bác nói một câu, lâu ngày ảnh sẽ nghĩ lại"

Mẹ anh Tí đẩy cô Lành ra, nhìn cô và trầm trồ: "Chu choa, con là Việt kiều hả? Reng en mẹc nghèo khổ rứa? Boác cũng không ngờ. Con lồm rứa là con biết ý thèng Tí. Con mà xưng Việt kiều, hén không tiếp con mô". "Bởi vậy con mới ăn mặc như thế nầy. Bác cất lá thư đi, khi con về rồi thì đưa cho ảnh nghe bác. Thấy bác còn mạnh khỏe, con mừng lắm". "Hai boác, anh chị em con, còn ai ở đây không? Hai boác có mạnh khỏe không?" "Dạ, qua hết bên Mỹ rồi. Cám ơn bác, ba mẹ con vẫn khỏe. Ba mẹ con cứ thắc mắc, tại sao, hai đứa con, con với anh Tí, tự nhiên chia tay? Con không biết trả lời sao! Bác dọ ý ảnh, khi nào ảnh xiêu lòng thì bác nói ảnh chuẩn bị cho con một số giấy tờ. Khai sinh, bản sao hộ khẩu, chứng minh nhân dân của ảnh và của bác. Qua Mỹ, con làm giấy tờ gửi về ảnh, biểu ảnh ra dịch vụ cho họ làm giấy tờ hôn thú. Bác cứ nói đại khái. Lần sau con về sẽ lo tiếp". "Nhưng con phải núa trực tiếp với hén..." "Dạ, lát nữa ảnh về con sẽ nói với ảnh"

Hai người đàn bà tâm sự với nhau một lúc thì anh Tí đem mì Quảng về. Ăn uống xong, mẹ anh Tí giành phần dọn dẹp, ra sau bếp rửa chén bát, còn lại cô Lành và anh Tí ngồi ở nhà trên. Anh Tí rót nước trà mời cô Lành: "Mời cô!" Cô Lành chống cằm nhìn anh Tí: "Anh không kêu em được hay sao? Có gì mà coi bộ anh giận em dữ lắm?" Anh Tí ngồi nhìn ra đường: "Lâu quá không gặp, thấy lọa, nên ngại, chứ chẳng có chi giận hờn". "Sao lúc chở em, anh nạt nộ em, làm em sợ anh". "Ðâu biết. Tưởng người lọa. Ðời mô tui nhìn đàn bòa, con gái"

Cô Lành mở to mắt, nhìn sát mặt anh, thì thầm hỏi: "Có phải anh bị thương rồi có chuyện gì xảy ra cho thân thể anh không mà anh không thèm nhìn đàn bà, con gái?" Anh Tí bưng ly nước uống: "Chỉ bị thương cánh tay, bất khiển dụng ở tay, chớ có chi thay đổi mô! Ai cũng thay đổi hết, chỉ mình tui. Ðời ni là rứa đó!" "Vậy là em biết tại sao anh giận em rồi. Anh tưởng em thay lòng đổi dạ. Ðã có chồng hay ít ra cũng bồ bịch tùm lum. Phải không?" "Tui đâu dốm. Ai muốn nghĩ răng thì nghĩ. Có tật giựt mình"

Cô Lành thò tay qua, đăït bàn tay mình lên cánh tay anh Tí, vừa dịu dàng vừa bạo dạn: "Em Lành của anh vẫn lành lặn như xưa. Em sẽ chứng minh cho anh thấy. Em để dành cho riêng anh thôi. Lúc nào anh muốn cũng được"

Anh Tí quay nhìn cô Lành mắt trợn lên kinh ngạc nhưng coi bộ hết giận: "En núa kiểu chi? Học mô roa?" "Bây giờ anh nói thật cho em rõ. Trước đây, vì sao anh nói anh sẽ có vợ, đừng đến nữa? Anh có biết, anh nói câu đó mà em bịnh một tháng, khóc hết nước mắt...?" "Thân trai trỏa xong nợ nước, tàn phế, nuôi thân không xong, lấy chi nuôi vợ con? Cũng may cho cô. Cô lấy tui, sau bảy lăm, làm răng nuôi chồng trong tù, nuôi con, nuôi mẹ? Ngay bây chừ, cô nhìn nhòa tui đây, trống trước, trống sau, gộ không đủ nấu. Cô ở được mấy bữa?"

Cô Lành bóp chặt cánh tay anh Tí: "Chuyện đó để em lo. Em chỉ hỏi anh. Anh còn thương em không? Mà không còn thương em, em cũng chấp nhận nữa. Miễn là anh cho em được thương anh, để em được gần anh, gần mẹ, săn sóc cho mẹ. Khi anh đi lính, em thường đến thăm mẹ. Mẹ coi em như con nên em cũng coi như mẹ ruột. Sau nầy, mẹ sẽ già yếu, anh là con trai, làm sao săn sóc cho mẹ được?" Anh Tí yên lặng, rót nước uống rồi nói: "Thôi được! Nhưng cô chờ cho tuần sau, khi tui xây lại nhòa ni thành nhòa lầu, sắm một cái TV màu, một chiếc Hon đoa mới tinh... rồi tui roa Ðòa Nẻn đón cô về". "Bộ anh hóa phép màu hay sao?" "Phép tét chi! Tui trúng độc đét, chi không có! Tuần ni không trúng thì tuần sau, tuần sau nữa. Cô cứ chờ, chớ tui đâu có phụ rảy chi cô. Chờ tới khi tui già, cô già, rồi chết là xong. Cô núa chiện trên trời! Trừ khi cô là triệu phú thì họa may. Nhưng cô giàu có, thì tui thòa chết còn hơn là nhờ cô". "Anh cũng bị tù cải tạo sao không đi diện HO?" "Tui đi tù. Bịnh sắp chết, chúng cho khiêng về chôn. Không biết răng, tự nhiên hết bịnh. Chưa đủ boa năm". "Bây giờ em lo được giấy tờ để anh và mẹ qua Mỹ. Anh nên vì em, vì mẹ mà đi Mỹ. Nghe anh!" "Lồm giấy tờ giỏa mộ chỉ có đi tù chớ đi Mỹ chi!" "Nhưng em làm giấy tờ hợp pháp, anh có đi không?" "Dại chi không đi. Nhưng tiền bọac, chi phí tính răng?" "Qua Mỹ, anh làm có tiền, trả lại em". "Nhưng có chiện chi, tui không đi tù lần nữa đâu. Tui ngán đi tù rồi". "Bảo đảm với anh không sao đâu. Miễn anh ừ một tiếng thì em lo xong ngay. Ừ đi anh!" "Tui biết cô chẻn lồm được chi mô, nhưng tui cũng ừ cho cô vui lòng". "Nhớ nghe! Hứa là phải giữ lời. Anh nhớ lúc còn đi học, mỗi khi anh và em hứa với nhau điều gì, mình thường ngoéo tay nhau. Bây giờ mình cũng ngoéo tay đi anh". "Thôi thôi, giòa đầu rồi, đừng lồm trò trẻ!"

Anh Tí lại làm nghiêm, cô Lành thì tìm cách sao cho anh ta cười. Cô biết tính anh Tí, nên không lấy đó làm buồn. Cô chợt hỏi: "Con Hạnh còn ở bên nhà không?" "Hén có đi mô! Giờ ni chéc hén về rồi. Hén lồm bánh bông loan bỏ mối ngoài chợ Vĩnh Ðiện và mấy tiệm en, quán nước. Ðể tui qua cua thử"

Khi anh Tí qua nhà cô Hạnh thì cô Lành lại kéo áo mở cái túi đeo trước bụng, móc ra một tờ trăm đô, xếp nhỏ lại bỏ vào túi. Ðây là quà cô dành cho cô bạn tên Hạnh, cũng là hàng xóm của anh Tí. Chỉ 5 phút sau, cô Hạnh theo anh Tí đi vào. Anh Tí hỏi: "Mi biết ai đây không?" Cô Hạnh nhìn cô Lành, tần ngần một lúc rồi nói: "Ai ri hè? Coi giống con Lành! Phải mi là con Lành không mi?" Cô Lành đứng lên cười cười: "Cho nói lại lần nữa. Cố nhớ coi!" Cô Hạnh la to lên: "Tổ cha mi! Mi là con Lành chớ ai vô đây?" Hai cô nhào vô, ôm nhau. Cô Hạnh ứa nước mắt: "Mấy chục năm ni mi đi mô? Tao bắt ông Tí đi tìm mi mà không biết mi đi mô?!" Rồi cô Hạnh cười: "Tính tao hay khóc. Gặp mi tao mừng quá!" "Bộ mi khóc mừng gặp lại tao không đáng mấy giọt nước mắt sao mi tiếc. Ðừng làm như ông Tí. Gặp tao không thèm nhìn, còn nạt nộ tao nữa". "Ông đó tàng tàng. Ðừng thèm để ý. Chừ mi qua nhà tao chơi. Ở lại với tao, mai về được không? Hay là sợ heo kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem mà đòi về sớm?" "Chồng con chi tao! Cầu cho có người đòi tòm tem mà người ta không thèm"

Cô Lành nói với anh Tí: "Anh Tí chờ em qua nhà Hạnh rồi về ngay nghe. Em cần nói với anh chuyện nầy"

Cô Lành qua nhà cô Hạnh. Nhà vắng người. Hai cô ngồi trên giường. Cô Hạnh thò tay bóp bóp đùi cô Lành rồi dòm quanh người cô Lành: "Coi bộ còn năng gớm. Ngực cũng ngon, đùi, mông tròn vo. Mi chưa chồng con là đúng. Mi coi tao, chỗ nào cũng nhão nhẹt!" "Bộ không có ai ở nhà sao mi ăn nói tự do quá vậy?" "Ông xã tao đi làm, hai đứa con đi học. Khỏi lo! Cứ nói cho sướng miệng. Nhớ hồi còn đi học không? Mấy đứa con gái tụi mình, tụm năm, tụm ba ở nhà tao, ăn me, ăn ổi rồi nói tầm bậy tầm bạ... Sướng thiệt! Chừ khổ quá. Bao lâu nay, gặp được mi tao mới có dịp nói bậy". " Bộ có chồng, mi không nói bậy với chồng được hay sao?" "Có nói chớ, nhưng nói chuyện khác. Chờ ổng nói trước, mình nói theo. Mi lấy chồng thì biết liền. Ủa, trước giờ mi đi đâu mà chưa chồng con chi cả? Mi lấy ông Tí đi, ổng cũng còn độc thân. Ngó rứa chớ ổng còn thương mi lắm. Mà mi chịu ổng không? Già rồi mi ơi. Tối ngủ ôm cái gối, sướng ích chi!" "Năm bảy tư, gia đình tao từ Vĩnh Ðiện dời ra Ðà Nẵng, năm bảy lăm, bỏ Ðà Nẵng đi luôn. Tao cũng thương ảnh lắm chớ! Nhưng không biết ảnh nghĩ sao? Ảnh lầm lì với tao từ sáng tới giờ". "Mi biết tính ổng rồi. Ổng cố chấp lắm. Giọng Kế Xuyên quê đặc mà ổng đâu chịu sửa. Ổng muốn làm mặt lạ vì ổng mặc cảm mình đạp xe thồ, mặc cảm nhà nghèo. Mi thấy đó, Tết nhứt đến nơi mà nhà ổng có sắm sửa, chuẩn bị chi đâu! Ổng nghĩ như thời xưa, lấy vợ là phải nuôi vợ con, ổng sợ thêm miệng ăn nữa thì chết! Hơn nữa tao nghĩ, có lẽø ổng nghi mi đã lấy chồng hay bồ bịch gì đó, ổng tức mà không biết nói răng. Nhưng tao biết, ổng thương mi lắm. Mi còn nhớ, khi ổng bị thương về nhà, mi ghé thăm, không biết mi với ổng có chuyện chi mà ổng qua nhà tao ngồi khóc ngon lành. Ổng nói mi bỏ ổng rồi. Coi bộ cứng rắn, lạnh lùng chớ ổng cũng mít ướt như tụi mình chớ chẳng hơn chi". "Mi cố nói giùm tao, sao cho ảnh chịu lấy tao, thì mi có cái đầu heo". "Mi yên tâm, để tao lo chuyện đó, ổng là của mi, chắc ăn như lấy đồ trong túi. Ngó rứa chớ tao nói là ổng nghe lời liền. Ổng coi tao như bạn thân, có gì cũng kể cho tao nghe". "Có khi nào ảnh nhắc đến tao không?" "Tao có hỏi còn nhớ Lành không? Ổng nói. Không nhớ Lành thì nhớ ai? Có lẽ bây chừ Lành đã có chồng, có con rồi"

Cô Lành móc túi lấy tờ bạc đã xếp nhỏ, bỏ vào túi cô Hạnh: "Tao gửi mấy đồng cho hai cháu. Bây giờ tao phải về". Cô Hạnh nghĩ rằng bạn cho mình tờ một tờ bạc Việt Nam nên chỉ nói cám ơn mà không quan tâm". "Ủa. Mi nói sẽ ở lại với tao mà? Ở lại, tối nay nằm nói chuyện với nhau cho đã". "Rồi chồng mi nằm đâu?" "Ðừng lo chuyện đó. Tao tống ổng ra ngoài phản. Hay là mi qua nằm với ông Tí, tâm sự trắng đêm, cho đã thèm bấy lâu nay". "Ðồ quỉ sứ, nói chuyện bậy bạ. Ðể tao về. Ở lại đây, đêm hôm, giấy tờ, trình thưa, tao không muốn phiền mi"

Hai người qua nhà anh Tí. Cô Lành xuống bếp ôm mẹ anh Tí, thì thầm: "Bác nói giùm con, nghe bác. Tuần sau con về lại đây. Bác nhớ lo cho ảnh ăn uống, ảnh ốm quá, con thương ảnh quá!" "Choa mi! Tao cũng đưa xương mà mi chỉ nghĩ đến hén, bét tao lo cho hén"

Cô Lành cười chống chế: "Thì bác cũng thương ảnh, thương con. Bác muốn con với ảnh yên tâm thì bác cũng phải ăn uống cho đầy đủ. Thôi, con về nghe bác"
Cô tựa đầu vào vai bà như cô bé làm nũng với mẹ: "Con muốn kêu bác bằng mẹ mà sợ anh Tí rầy con". "Hén quyền chi mà rầy con?"

***

Anh Tí đã đưa xe đạp ra sân, ý muốn cô Lành về sớm. Cô Lành qua chào từ giã cô Hạnh rồi bước ra, ngồi sau xe, vòng tay ôm bụng anh Tí và nói với cô Hạnh: "Mi thấy, ai đi xe thồ cũng ôm eo ảnh. Tao ôm thì ảnh cự, nói sao ôm cứng ngắc". "Ổng cự mặc kệ ổng. Cứ ôm chặt cho tao. Ôm ngày ôm đêm, ổng cự riết rồi khoái chí, bắt mi ôm nữa". "Con quỉ nói trây! Tao về nghe!" Cô Hạnh vui vẻ la to lên: "Không về thì đứng xuống, khó chi! Ê! Có phải hai anh chị hẹn hò, đưa nhau vô phòng ngủ không?" Hai cô lại cười như bị thọt lét. Cô Lành ngoái cổ lại nói "Mi thành nái xề rồi mi ơi! Nói trây không biết mắc cỡ!"

Anh Tí làm thinh, đạp xe ra đường. Cô Lành ngồi sau, ôm eo, tựa đầu vào lưng anh ta. Anh Tí bực mình: "Ðừng lồm rứa, người ta thấy tề!" "Thời đi học, anh chở em đi chơi, em cũng ôm như thế nầy, sao anh không la em?" "Ði học khoác, đi xe thồ khoác. Hồi trước là quê hương, đất nước mình, lồm chi không được. Chừ, lồm thân mất nước, vui thú chi"

Cô Lành không ôm anh Tí nữa, sụt sùi khóc: "Sao anh khó với em vậy?" Anh Tí yên lặng một lúc rồi thở dài: "Xin lỗi. Tui buồn quá! Mất nước rồi. Buồn suốt đời. Biết ngày nồ mới vui được? Tôi chỉ sống qua ngày để nuôi mẹ giòa, sướng ích chi mà nghĩ đến vợ con. Con cái ngụy lớn lên cũng chỉ để chúng ngồi lên đầu, hành họa, coi như trâu ngựa. Ði học chúng cũng không cho, đi lồm chúng cũng không cho". Cô Lành lại vòng hai tay, ôm bụng anh Tí: "Bây giờ có em, em phụ với anh nuôi mẹ. Anh hãy quên chuyện nước nhà, mà nghĩ đến em. Anh có suy nghĩ, buồn phiền bao nhiêu cũng không làm được gì. Vận nước nó như vậy nhưng cũng sẽ đến ngày tươi sáng. Anh đã chiến đấu, đã bị thương thì coi như nợ nước anh đã trả rồi, nay anh có quyền nghĩ đến tình nhà. Bây giờ em về đây tìm anh. Anh và em, trước đây, có biết bao kỷ niệm. Anh có biết khi anh bảo em về, đừng đến anh nữa vì anh sắp lấy vợ, em khóc hết nước mắt. Em giận anh nhưng quyết làm gái già chứ không thèm để mắt đến ai cả. Anh có thương em không?"

Anh Tí yên lặng, đặt bàn tay trái, bàn tay bất khiển dụng của anh lên hai tay cô Lành đang ôm bụng anh. Anh bóp tay cô Lành, nhưng bàn tay thương tật nên chỉ mấy ngón tay là cử động nhẹ. Cô Lành ép hai bàn tay mình lên bàn tay anh Tí, dụi đầu vào lưng anh Tí: "Bây giờ còn sớm, mình dừng ở quán nước đằng kia. Em nói chuyện nầy anh nghe"

Phạm Thành Châu
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 14/Mar/2016 lúc 2:07am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23817
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Mar/2016 lúc 8:27am
Chiều Vắng   <<<<<

Chiều%20vắng


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 15/Mar/2016 lúc 8:35am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23817
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Mar/2016 lúc 7:13am
Phạm Tín An Ninh



Bài%20thơ%20về%20cậu%20bé%20đánh%20giày%20xúc%20động%20cư%20dân%20mạng

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 17/Mar/2016 lúc 7:47am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 20/Mar/2016 lúc 6:52pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 21/Mar/2016 lúc 1:51pm

Bẫy Tình


Thủy bỏ tờ báo xuống, gỡ cặp kính để lên bàn, đôi mắt từ từ khép lại. Nàng vừa đọc một cái tin trên tờ San Jose Mercury News, số ra Sunday,.....
-
TEMPTATIONS AWAIT
Checklist for a trip to Vietnam: Visa, p***port, wife’s OK.
-
“Sài Gòn City, Vietnam -- The trouble for Henry Liem begins every time he prepares to return to his homeland.
Getting the required visa from the Vietnamese government is a breeze. It's the "second visa" -- from his wife worried that he will stray over there -- that requires diplomatic skills.
"My wife is always cranky every time I go," said Liem, a philosophy instructor at San Jose City College who visits Vietnam twice a year to teach at a university. "So I rarely disclose my upcoming trip until the last minute. It's pain minimization. The longer she knows, the longer I have to bear the pain."

Bài báo mở đầu bằng câu chuyện của ông Henry Liem nào đó. Ông này về Việt Nam mỗi năm hai lần để dạy triết cho một trường đại học. Không biết ông dạy triết loại gì mà khi xin visa, ông được xã hội chủ nghĩa cho nhập cảnh một cách thật dễ dàng. Tuy nhiên, ngoài cái visa do tòa lãnh sự việt cộng cấp để nhập cảnh, ông còn phải xin thêm một visa nữa để xuất cảnh: đó là cái visa chấp thuận để đi của bà vợ đầu ấp tay gối mỗi ngày.
Một điều nghịch lý là mỗi khi xuất ngoại, hầu hết mọi người đều lo xin visa sớm, để nếu có gì trục trặc, thì còn nhiều thời gian xoay trở. Trong khi cái visa thứ nhì của ông Henry Liem thì ngược lại: phải đợi đến giờ phút cuối ông mới nộp đơn, và không đợi bà vợ có đủ thời gian suy tính cản trở, ông cuốn gói dông cho lẹ!
-
Cả bài báo đại ý nói về tình trạng đàn ông Việt Nam ở ngoại quốc, khi trở về thăm quê hương, thường bị (hay được!) những cô gái tuổi còn rất trẻ tống tình một cách mãnh liệt. Cho dù là người đàn ông thuộc loại “quá đát, mỏi gối chồn chân,” cũng được các nường nhỏ bằng con cháu của mình chiếu cố một cách tận tình, lý do: tất cả chỉ vì tiền chứ không phải vì tình! Có tiền là các nường sẽ chiều chuộng tới bến. Chính vì cái đề tài “Fun for men, pain for women” nên ông ký giả người Mỹ John Boudreau bỏ công để viết và bài được đăng trên trang nhất ngày Chủ Nhật của tờ báo…
-----
Khoảng năm phút sau, để tâm tư lắng đọng, Thủy mở mắt nhìn lên trần, bài báo đã khơi lại tâm tư đau đớn của nàng…
Liếc nhanh về phòng ngủ của Xuân, người chồng của nàng gần bốn mươi năm, có lẽ ông ta còn ngủ, cũng có thể đã thức mà chưa ngồi dậy. Đã hai năm nay vợ chồng nàng ngủ riêng, mỗi người mỗi phòng, giờ giấc tùy hỉ chẳng ai để ý đến ai. Cứ tưởng sau bao năm làm lụng vất vả trên xứ người, vợ chồng nàng sẽ tận hưởng những gì do công lao hai người cực khổ xây dựng, được sống hạnh phúc bên nhau từng phút từng giây vào lúc cuối đời, nào dè…
---
Năm 1954, nhờ thấy được sự tàn ác của cộng sản, gia đình Thủy nhanh chân lên máy bay đi thẳng vào Sài Gòn và định cư tại đó. Hơn nữa Bố nàng là một người khoa bảng cho nên được chính quyền miền nam nhanh chóng chọn để nắm một chức vụ quan trọng, lúc đó nàng chỉ là “Cô bé Bắc Kỳ nho nhỏ.” Cuộc đời niên thiếu cmột ủa nàng êm ả trôi qua tại miền nam nắng ấm. Nàng là nữ sinh TV, đọc dí dỏm là Trứng Vịt thay vì Trưng Vương.
-
Năm lên đệ nhị cấp, do sự giới thiệu của bạn bè, nàng quen biết Xuân, cũng là người bắc di cư, lúc đó Xuân đang học Chu Văn An, hơn nàng hai lớp. Bố của Xuân là một thương gia tương đối thành công tại Sài Thành. Cuộc tình học trò Chu Văn An Trưng Vương (CVATV) chớm nở từ đó.
-
Sau đó Thủy và Xuân đều học luật. Năm 1972, Xuân được bổ nhiệm làm Thẩm Phán của một tỉnh lỵ nhỏ ở miền Tây. Sáu tháng sau, đám cưới của Xuân và nàng được tổ chức linh đình tại Sài Gòn để kết thúc cuộc tình năm chữ : “CVATV” (Chết Vì Ăn Trứng Vịt.)
-
Nàng theo Xuân về sống tại một tỉnh lẻ của đồng bằng miền nam. Với bằng cử nhân luật, nàng xin đi dạy tại một trường trung học để cho đỡ buồn, đồng thời có thêm lợi tức. Cũng nhờ khoảng thời gian sống gần gũi người miền nam và đám học trò thật thà chất phác, nàng cảm thấy thoải mái khi tiếp xúc với mọi người. Theo nàng nghĩ, người miền nam không có chiều sâu, cho nên không cần phải “đề phòng” như người miền bắc. Chỉ cần nói chuyện một lát, là có thể đoán được người đó nghĩ gì, nàng tự hào như vậy.

Nhờ vào chức vụ, Xuân được cấp cho một ngôi nhà xinh xắn bên cạnh một nhánh của sông Cửu Long. Cuộc sống êm ả mỗi ngày của Thủy như giòng nước trôi qua lại khi thủy triều thay đổi. Đứa con gái đầu lòng của nàng cũng sinh ra tại đây. Nhiều khi nàng ngồi im lặng hàng giờ để nhìn nước trôi mà trong đầu chẳng nghĩ ngợi gì hết. Cũng có lúc nàng cảm thấy nhàm chán vì cuộc sống quá êm đềm, nhưng bây giờ, sau bốn mươi năm cuộc đời, nàng thấy nhớ giòng sông năm xưa và thèm có lại những giây phút vô tư lự quý giá đó.
-
Cứ tưởng cuộc đời êm ả trôi qua, đầu Tháng Tư năm 1975, Bố nàng bất thần gọi điện thoại bảo vợ chồng nàng về Sài Gòn gấp, lý do theo Bố nghĩ: miền nam sẽ mất. Với kinh nghiệm hiểu biết về cộng sản, Bố hoảng hốt hối thúc mọi người chuẩn bị đi tỵ nạn thêm một lần nữa. Vợ chồng nàng không tin lắm vì lúc đó vùng đồng bằng vẫn an toàn không một thị trấn nào bị việt cộng chiếm đóng. Bố nàng phải nhiều lần thúc dục, nàng mới chịu ẵm con cùng chồng trở về Sài Gòn khi Quốc Lộ 4 được khai thông trở lại.
-
Cuộc đời đến với nàng một cách thật dễ dàng, trong khi quân dân miền nam vất vả ngăn chặn kẻ thù vào những giờ phút hấp hối, thì gia đình nàng đã tới Subic Bay ở Philippine, có thể nói là những người tỵ nạn đầu tiên đến căn cứ này. Tài sản của cả hai bên nhà nàng và chồng, coi như mang đi hết, ngoại trừ bất động sản. Sau hai lần tỵ nạn: từ bắc vô nam và từ miền nam sang Mỹ, Thủy không có cảm giác đau khổ của một người vì bất đắc dĩ phải lìa bỏ quê hương, đôi lúc nàng còn có cảm tưởng như là đi du lịch, chỉ sau khi rời khỏi trại tỵ nạn Camp Pendleton để định cư tại Orange County, thì nàng mới phải vật lộn với đời sống vật chất của xứ này. Trong những năm đầu, gia đình nàng được nhận trợ cấp của chính phủ, đứa con trai thứ nhì cũng chào đời lúc đó.

Lợi dụng thời gian được hưởng trợ cấp, vợ chồng nàng đã đi học lại. Năm 1980 Xuân ra trường với bằng kỹ sư điện và gia đình nàng dời lên San Jose vì Xuân nhận được việc làm với lương khá cao. Sau đó Thủy cũng nhận được một việc làm về accounting đúng với ngành nàng chọn học.
Thời gian trôi qua, nơi Thung Lũng Hoa Vàng, cặp vợ chồng Xuân Thủy không mấy chốc trở nên khá giả. Có lúc vợ chồng nàng làm chủ đến năm căn nhà vì biết đầu tư đúng lúc vào thị trường địa ốc.
-
Đến năm 2000, Thủy về hưu vì tài chánh không còn cần thiết để nàng phải lặn lội ra đi từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều nữa. Vả lại, với số bất động sản đã có, nàng đủ việc để ở nhà quán xuyến. Chỉ có chồng nàng là vẫn còn phải tiếp tục đi làm vì lợi tức cao nhờ lương hậu, cộng với bonus và stock hãng cho. Hơn nữa Xuân phải đi làm để có bảo hiểm sức khỏe cho cả gia đình.

Sau khi về hưu, Thủy được hưởng những giây phút thoải mái sau bao năm làm việc vất vả. Xuân, chồng nàng là một người đàn ông tốt, có trách nhiệm, yêu thương nàng và con cái một cách tuyệt đối. Cả thời gian lấy Xuân, nàng chưa bao giờ thấy chồng mình dối gạt hay làm những chuyện gì có lỗi với nàng. Đôi lúc nàng còn tự hào: nhờ “chăm sóc kỹ lưỡng,” nên Xuân không “thoát” được bàn tay phù thủy của nàng, con gái “Bắc Kỳ” mà…
-
Gia đình nàng và Xuân rất sùng đạo Phật. Sẵn có nhiều thời gian rảnh rỗi, nàng đi chùa để tô đắp niềm tin Phật pháp. Cả nàng và Xuân thường hay bỏ thời gian làm công quả cho chùa và dĩ nhiên cũng là người giúp đỡ tận tình nếu chùa bị kẹt về tài chánh. Cũng chính vì như vậy, vợ chồng Thủy là những người được kính nể đối với ban trị sự của chùa, tiếng nói của hai người rất được mọi người chú ý. Ban đầu, trong những cuộc tổ chức làm từ thiện, chùa đều mời vợ chồng nàng tham gia, sau đó với sự nhiệt tình, chùa nhờ vợ chồng nàng đảm trách tất cả.
-
Năm 2002, chùa đón tiếp một vị sư từ Việt Nam qua chơi. Sau nhiều lần tiếp xúc với vị sư này, vợ chồng nàng quyết định về Việt Nam lần đầu, hầu để nhìn tận mắt cảnh khốn khổ của những người nghèo, nhất là những trẻ mồ côi. Lần đó vợ chồng nàng quả thật động tâm khi thấy những nỗi khổ đau của người nghèo sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Sau khi trở về Mỹ, Thủy và chồng thành lập một hội từ thiện, kêu gọi lòng hảo tâm của mọi người để giúp những kẻ khốn khổ bên nhà. Nhiều lần tổ chức quyên tiền, văn nghệ gây quỹ và cả hai đã nhiều lần trở về mang lại bao nhiêu niềm hy vọng cho những người khốn cùng. Thủy và Xuân hăng say làm từ thiện vì nghĩ rằng sẽ để phước lại cho con cái.
-
Có một lần, trong một chuyến về Việt Nam, Xuân gặp lại một người bạn học cũ ở trung học. Tay bắt mặt mừng, cả hai đều thích thú kể chuyện ngày xưa lúc còn học ở Chu Văn An. Sau đó người bạn của Xuân mời vợ chồng nàng đi uống nước ở một quán, gần khách sạn nơi vợ chồng nàng đang trú ngụ. Quán nước này trông khá lịch sự, mặc dù các cô chiêu đãi ăn mặc cũng hơi…mát mẻ.

Lúc mới bước vào quán, Thủy để ý xem cảnh vật chung quanh, cảnh giác mọi hành động lẫn lời nói của mấy cô chiêu đãi. Mặc dù Xuân đáng tuổi bác của mấy cô này, nhưng Thủy không muốn cô nào có hành động lố lăng đối với ông chồng của mình. Nàng đã từng nghe rất nhiều lời bàn của mấy bà đã từng về trước… Có một bà bạn của Thủy kể lại rằng: khi vợ chồng bà vào một quán ăn, một cô chiêu đãi viên đáng tuổi cháu, gọi ông chồng đầu tóc bạc phơ của bà là anh và xưng em ngọt sớt. Bà bạn của Thủy nóng mặt lên lớp cô ta rằng: “Ông ấy đáng tuổi bác của cô mà dám gọi bằng anh xưng em?” Bà này nhận được câu trả lời của cô chiêu đãi: “Ở Việt Nam, chỉ có cha và những người già tới một trăm tuổi, mới được gọi Ba và Bác, xưng con, còn dưới một trăm tuổi thì chỉ đáng làm anh thôi.” Bà bạn của Thủy giận run lên mà chẳng nói được gì, chỉ còn biết hối chồng mình đi về!

Khi người bạn của Xuân gọi thức uống, một cô chiêu đãi buột miệng xưng em làm Thủy giật mình. Nàng trừng mắt nhìn cô ta làm cô này khựng lại, lí nhí thêm vài tiếng rồi bỏ vào bên trong.
Vài phút sau, một cô chiêu đãi khác mang thức uống ra. Cô này có gương mặt hiền lành, dáng điệu hết sức khúm núm. Cô ta mời mọi người dùng nước và gọi vợ chồng nàng bằng bác, xưng con. Thủy nghe cách xưng hô, lấy làm hả dạ và có cảm tình với cô này ngay. Dưới mắt nàng cô gái gợi lại hình ảnh những đứa học trò thật thà chất phát của nàng ngày xưa, lúc nàng đi dạy ở trung học.
-
Trong khi Xuân và người bạn đang kể lại những kỷ niệm năm xưa, thì thình lình có tiếng ồn ào chửi bới làm náo động cả quán, cùng lúc đó, một tên thanh niên hùng hổ bước vào gọi tên Mẫn. Hắn ta chửi bới đòi Mẫn phải đưa tiền cho hắn. Người con gái mặt hiền lành mang nước cho nàng lúc nãy sợ hãi bước ra, thì ra cô ta tên Mẫn.
Tên thanh niên vừa trông thấy Mẫn là tiến tới nắm áo, tát vào mặt nàng một cái nẩy lửa. Mẫn chới với không biết phải làm sao. Tên này bèn giật cái ví từ tay của Mẫn, lục soát lấy hết tiền rồi ném trả cái ví vào mặt nàng, xong xuôi hắn bỏ đi. Trước khi rời quán, hắn không quên hăm dọa là sẽ trở lại lấy thêm…
-
Cảnh tượng xảy ra làm Thủy thật bất mãn, nàng chưa bao giờ thấy một người đàn ông vũ phu đánh một người con gái yếu đuối như tên này. Nhìn vào góc nhà, Thủy thấy Mẫn đang ôm mặt khóc nức nở. Động lòng trắc ẩn, nàng đến hỏi thăm và vỗ về, đồng thời hỏi xem sự tình. Mẫn kể lể, người đàn ông đó là chồng của cô. Hai người lấy nhau bốn năm, có một đứa con gái. Vì chồng cô bị nghiện ngập lại mắc thêm tật cờ bạc, nên cả gia đình bị tan nát. Hắn ta còn lén lút đem cầm miếng đất hương hỏa trong đó có cái nhà của cha mẹ nàng ở dưới quê. Vì muốn chuộc lại miếng đất đó, nàng phải giao con cho mẹ giữ để lên Sài Gòn tìm việc làm. Đã vậy mà Mẫn cũng không được yên, thỉnh thoảng hắn tới đòi đưa tiền cho hắn. Mẫn đã nhiều lần thay đổi chỗ làm, nhưng rồi hắn vẫn tìm thấy. Nói xong Mẫn khóc sướt mướt làm Thủy cảm thấy đứt ruột, lòng xót xa thương hại cho một người con gái thật vô phước.

Sau khi biết rõ sự tình, Thủy sanh lòng hảo tâm, rút trong túi quần ra tờ một trăm đô la dúi vào tay Mẫn, coi như là làm một việc từ thiện. Khi nhìn thấy một trăm đô la Mỹ, Mẫn hoảng hốt đưa lại cho Thủy, nói là không dám nhận sự giúp đỡ của nàng. Cho dù Thủy nói cách nào Mẫn vẫn một mực từ chối và nói: con không dám nhận tiền của bác.

Vì tính thật thà của Mẫn, Thủy càng thấy mến người con gái đáng thương này nhiều hơn. Sau đó Thủy hỏi Mẫn là bây giờ cháu tính làm sao. Mẫn trả lời là không biết phải tính sao nữa, vì chồng nàng đã biết chỗ này rồi, thì nàng phải đi tìm chỗ khác để làm. Hơn nữa chỗ ở của Mẫn cũng bị người chồng vũ phu tìm thấy, cho nên cô ta cũng phải tìm nơi khác trú ngụ.

Đã lỡ mở lòng hảo tâm, Thủy không nỡ bỏ rơi Mẫn. Một ý nghĩ thoáng qua đầu, nàng chực nhớ trong chùa, nơi nàng hợp tác làm từ thiện có một phòng trống. Họ vẫn thường mời vợ chồng nàng đến ở mỗi khi về Việt Nam. Nàng hỏi Mẫn: “Nếu cháu không ngại, bác sẽ gửi cháu vào một chùa để tránh chồng của cháu?” Sau một hồi phân vân, Mẫn đồng ý theo Thủy về chùa.
Sau đó, mỗi lần vợ chồng Thủy về Việt Nam làm từ thiện, Mẫn là một trợ tá đắc lực trong mọi công tác. Cô ta hiền lành giữ đạo làm con nên vợ chồng Thủy càng tin tưởng và thương Mẫn nhiều hơn.
-
Sự việc bắt đầu xảy ra là có một lần, trước ba ngày khởi hành về Việt Nam, Thủy bị đưa vào nhà thương cấp cứu vì bị đau ruột dư. Sau hai ngày nằm bệnh viện nàng được về nhà, sức khỏe không có gì nguy hiểm, chỉ cần thời gian bình phục. Vì công việc từ thiện dính líu đến nhiều người, không thể hoãn lại được, nên Thủy bảo chồng đi một mình. Lần đó đáng lẽ chồng nàng chỉ phải ở lại có một tuần, nhưng Xuân đã ở lại đến ba tuần mới về, với lý do: chậm trễ giấy phép của chính quyền. Sau khi Xuân trở về Mỹ, Thủy thấy cử chỉ và hành động của chồng rất khác thường: Xuân như bị mất hồn, tâm trí như ở đâu đâu và dáng dấp trông thật mỏi mệt. Nàng tưởng là Xuân quá vất vả vì công việc, nên lo săn sóc chồng một cách chu đáo… Thật sự Thủy có ngờ đâu, lần vắng mặt của nàng đó, là lần người con gái hiền lành mà nàng thương mến giúp đỡ, đã ngã vào lòng người “bác” kính yêu và âu yếm xưng “em” với chồng của nàng một cách nũng nịu!

Thật ra, lần về làm từ thiện này của Xuân chỉ cần có một tuần, nhưng chỉ ba ngày sau Xuân đã ôm trọn người con gái tuổi còn nhỏ hơn con mình trong vòng tay mà chính chàng cũng không ngờ! Sự việc xảy ra quá bất ngờ nên Xuân không biết phải xử trí ra sao. Sau đó Mẫn đòi ra ở riêng, vì nếu còn ở lại chùa thì thế nào chuyện cũng đổ bễ. Hai tuần về trễ cũng vì Xuân phải ở lại sắp xếp chỗ ở cho Mẫn.
-
Sau lần đó, người chồng thân yêu của Thủy có những cử chỉ khác thường. Đôi lúc Xuân tỏ vẻ yêu thương nàng một cách nồng nàn, đôi lúc thì xa vắng như hồn về cõi khác. Xuân thường hăng say nhắc đến việc về Việt Nam làm từ thiện, chàng còn tỏ vẻ quán xuyến tất cả mọi việc để Thủy không phải lo. Hơn thế nữa, Xuân thường hay ỡm ờ là nếu Thủy không khỏe thì cứ để chàng lo cho cũng được.

Cũng vì hoạch định một chương trình từ thiện quy mô, nên hai tháng sau Xuân trở về Việt Nam, xui một điều là Thủy lại để chồng đi một mình! Lần này theo chương trình, chồng nàng sẽ ở đến ba tuần. Khi ra đi Thủy thấy mặt chồng hớn hở thì nghĩ rằng: đó là cái phúc hậu của người làm từ thiện!
Sau khi Xuân về Việt Nam được hai tuần, vào một đêm, Thủy nhận được một cú điện thoại, người gọi nàng là vị sư cô quản trị của chùa…
-
Để có yếu tố bất ngờ, Thủy tức tốc về Sài Gòn mà không báo cho chồng biết. Sau khi rời phi trường Tân Sơn Nhất, Thủy đến ngay khách sạn nàng thường hay ở để tìm Xuân. Không thấy chồng mình ở đó, Thủy bèn đến chùa ngay, cũng không gặp Xuân, đồng thời nàng mới biết là Mẫn đã dọn ra từ hai tháng trước. Đến bấy giờ nàng mới gọi điện thoại tìm Xuân, điện thoại không trả lời. Cùng đường, nàng đành trở về khách sạn nghĩ cách tìm chồng, tâm can như bị thiêu đốt.

Một ngày sau, có lẽ có người thông báo cho Xuân, chồng nàng hớt hải xách vali hành lý đến khách sạn tìm nàng. Gặp mặt chồng Thủy giận quá muốn xỉu, miệng mấp máy nói không ra lời. Sau cùng nàng cũng ráng hỏi Xuân đi đâu, Xuân ấp úng trả lời là đi phân phát quà từ thiện ở Bình Tuy. Nhìn mặt Xuân, nàng biết ngay đó là lời nói dối, bởi vì người chồng bao nhiêu năm nàng ôm ấp không có cái khuôn mặt trơ trẽn như vậy! Thủy òa lên khóc nức nở…
-
Biết là không thể dối vợ được nữa, Xuân bèn nói thật. Chàng nói là cũng không ngờ tại sao Mẫn nằm trong vòng tay của chàng mà chàng không có cách nào chống cự, để rồi chuyện nó đến và tiếp tục tiến tới. Với số tuổi sáu mươi, Xuân biết mình không còn bao nhiêu sức lực để theo kịp Mẫn, nhưng không hiểu tại sao mỗi lần gần Mẫn, cô ta không bao giờ làm cho chàng có cảm tưởng là một ông già và lúc nào cũng tỏ vẻ chân thành cảm kích Xuân đã cho cô ta những giây phút sung sướng tuyệt vời…Mặc dù là vậy, lần này trở về, Xuân có thủ sẵn một hộp Viagra để giúp chàng có đủ sự tự tin của người đàn ông khỏe mạnh. Hộp thuốc này chàng đã bí mật nhờ một người bạn làm dược sĩ mua dùm, Thủy hoàn toàn không biết…
-
Xuân rón rén mở cửa rào để Thủy bước vào nhà, ngôi nhà nho nhỏ xinh xinh nằm trong một cái hẻm không sâu lắm. Đó là cái tổ uyên ương mà Xuân vừa mới tậu cho Mẫn được một tuần. Chàng gõ nhẹ cửa, cánh cửa mở ra, vợ chồng Thủy hết sức ngạc nhiên vì người mở cửa là tên chồng vũ phu đã đánh Mẫn tại quán nước. Hắn ta tỏ vẻ là chủ nhân mời vợ chồng nàng vào nhà. Sau khi vợ chồng Thủy ngồi xuống, hắn ta chọn một cái ghế ngồi đối diện, dáng điệu trông rất xấc xược. Lúc đó Mẫn đứng phía sau của hắn, gương mặt có vẻ ngại ngùng nhưng không còn nét hiền hậu như những lần gặp trước. Trên môi cô ta, điểm nhẹ một nụ cười khó hiểu. Thủy nhìn giáp vòng rồi nhìn Mẫn hỏi:
“Mẫn, bác thương con như con ruột, sao con có thể làm nên chuyện như vậy?”
Mẫn tránh né không trả lời, tên chồng của cô ta bèn lên tiếng:
“Sẵn đây tui giới thiệu cho hai bác biết, con nhỏ này tên Mận, chứ không phải Mẫn, nó là bồ của tui đó.”
Thủy đi từ ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác. Nhưng lúc đó nàng mới khám phá ra rằng, đây là một âm mưu có tính toán từ đầu. Hắn ta tiếp lời:
“Nhân dịp này tui cám ơn hai bác đã cho tui gửi con Mận, bây giờ tui lấy nó lại.”
Thủy cứng họng, biết chẳng còn gì để nói, trong khi Xuân chồng nàng mặt mày thay đổi từ xanh qua tím, quả là một điều sỉ nhục. Thủy hậm hực đứng lên ra về, chồng nàng tiu nghỉu, tay chân run rẩy riu ríu theo sau…
-----
Kể từ lần sau cùng về làm từ thiện, Thủy đau khổ tột cùng vì sự phản bội của người chồng yêu quý. Tình cảm hai người hầu như không còn có thể hàn gắn lại. Còn Xuân thì mang một mặc cảm tội lỗi tày trời mà chàng tự nghĩ không thể nào tha thứ cho mình được. Đã nhiều lần chàng quỳ gối trước mặt Thủy khóc lóc van xin tha thứ. Đối với Thủy, người đàn ông mà nàng kính yêu trước kia, bây giờ trông sao hèn hạ quá! Nhục nhã quá!
-
Xuân đã xin nghỉ việc sau khi trở về. Chàng như một kẻ tàn phế từ thể xác đến linh hồn, không còn tâm tư để làm việc được nữa. Việc chùa chiền, làm từ thiện, vợ chồng nàng đều hoàn toàn chấm dứt.
Hai đứa con nàng thấy Bố quá tội nghiệp đều năn nỉ xin nàng tha thứ cho Bố. Vì thương con, hơn nữa chuyện xảy ra Thủy cũng có một phần trách nhiệm, nên lần lần Thủy cũng dịu lại. Xuân vì muốn chuộc lỗi lầm của mình nên lúc nào cũng chiều chuộng vợ một cách quá đáng, nhiều lúc làm Thủy bực mình, nhưng sau cùng nàng lại thấy tội nghiệp… Rồi thì vào một ngày đẹp trời, Thủy đã xiêu lòng và chuyện tình vợ chồng nàng bắt đầu nối lại. Số thuốc Viagra mà Xuân đã dùng vào việc “bất chánh” trước kia, phần còn lại, bây giờ lại có… chánh nghĩa.
-----
Đầu óc Xuân mơ hồ, tai nghe văng vẳng những tiếng xôn xao xa vắng. Đôi mắt chàng từ từ hé mở, nhưng phải nhắm lại ngay vì ánh sáng quá chói chang. Chàng không biết mình ở đâu, cũng không biết chuyện gì xảy ra. Định thần vài giây, chàng lại từ từ mở mắt, chưa kịp nhìn thấy gì thì đã nghe tiếng nói quen thuộc của vợ. Phải thêm chừng ba mươi giây nữa thì Xuân mới biết là mình đang nằm trong bệnh viện…Trong vòng hai tháng, đây là lần thứ nhì chàng bị xỉu và phải đưa vào cấp cứu.

Đã nửa năm nay, sức khỏe của Xuân không tốt. Chàng không nghĩ là mình có bệnh gì nguy hiểm, nhưng không hiểu tại sao cứ thấy mỏi mệt, nhức đầu, đau nhức, tay chân rã rời, con người không có sinh lực…
Vì thấy cái sân cỏ mọc quá cao, Xuân miễn cưỡng đi lấy máy ra cắt. Có lẽ vì nắng hơi gắt, cộng với trong người không được khỏe, nên khi làm nửa chừng chàng bị xỉu. Cũng may là Thủy đang ở gần đó, nên vội vàng gọi xe cứu cấp đưa chồng vào nhà thương. Thủy hoảng hốt sợ chồng mình bị stroke mặc dù lần trước đã không phải. Sau khi nằm ở phòng cấp cứu được năm giờ, Xuân được cho về vì không thấy gì nguy hiểm. Tuy nhiên vì đây là lần thứ nhì, nên bác sĩ cấp cứu khuyên chàng nên gặp bác sĩ riêng của mình để được theo dõi kỹ hơn…
-----
Xuân bước vô nhà, buông người ngồi phịch xuống sofa, tay ôm mặt khóc, chàng thấy cả thế giới chung quanh mình sụp đổ. Xuân tự hỏi: tại sao ông Trời lại có thể tàn nhẫn với chàng như thế được? Sau nhiều cuộc thử nghiệm, kết quả sau cùng bác sĩ có câu trả lời: chàng bị nhiễm trùng HIV, tình trạng trên đà bộc phát! Thêm một hậu quả tai hại do lỗi lầm của chàng gây ra hơn năm năm về trước! Dù có hối hận, tìm cách chuộc lỗi, nhưng đã muộn rồi! Thủy có thể tha thứ cho chàng, nhưng với cái bệnh nan y thời đại, cái giá mà Xuân phải trả thật là quá đắt!
-----
Thủy nhìn lên bàn thờ Phật, tâm tư thật hỗn loạn. Nàng không biết là mình nên cầu cứu với đấng Bồ Tát, hay là trách cứ Ngài. Cả gia đình nàng hoàn toàn bị sụp đổ khi khám phá ra rằng: nàng cũng bị nhiễm trùng HIV do chồng truyền sang! Còn gì tệ hại hơn nữa không? Chắc là không, theo nàng nghĩ!
Kể từ thời niên thiếu, cuộc đời của Thủy êm ả trôi qua, chỉ phải chịu cực đôi chút vì cuộc sống vật chất trên đất Mỹ, nhưng nói chung nàng luôn nhìn đời là màu hồng.

Cứ tưởng rằng với thành quả đạt được sau bao năm vất vả, về hưu, nàng sẽ sống phần đời còn lại một cách thoải mái trong tình yêu gắn bó của gia đình. Nào ngờ tất cả đều sụp đổ kể từ khi vợ chồng nàng bắt đầu… làm từ thiện!
Trách ai đây? Bồ Tát chăng?
Nhiều khi quẩn trí nàng có ý đó, nhưng rồi lại sợ xúc phạm tới đấng thiêng liêng mà bao năm gia đình nàng đặt hết niềm tin.
Trách con Mận và thằng bồ của nó chăng?
Đúng, nếu không có con Mận và thằng bồ của nó bày mưu lập kế, thì người chồng đi ngay về thẳng của nàng đâu có phạm phải một lỗi lầm tày trời như vậy!
Trách Xuân, chồng nàng chăng?
Cũng đúng nữa. Tại sao người chồng của nàng lại dám phản bội nàng đi ngoại tình với một đứa con gái tuổi còn nhỏ hơn con mình? Nàng không bao giờ tin chuyện đó có thể xảy ra được! Vậy mà nó xảy ra!
Trách nàng chăng?
Chuyện xảy ra quá đau khổ, nghĩ tới cái gì, nàng trách cái đó, nghĩ tới người nào nàng trách người đó, trong đó có cả nàng:
Nàng trách mình tại sao về hưu sớm, để có quá nhiều thời gian đi chùa, từ đó mới bày đặt đi làm từ thiện!
Mà muốn làm từ thiện cũng không sao, nhưng tại sao phải về Việt Nam? Xứ Mỹ này cũng lắm người cần giúp đỡ kia mà?
Nàng trách nàng quá dại dột đã để người chồng hiền lành không kinh nghiệm tình trường đi một mình! Chỉ cần một chút mánh khóe của con Mận là đã hồn bay phách tán, quên mất đường về!

Nàng trách nàng quá khờ dại tin người. Trách mình quá tự tin: nhìn bề ngoài của một người miền nam, mà tin là đoán được những gì họ nghĩ trong đầu, như nàng đã từng tự hào khi còn theo chồng dạy học ở miền tây tỉnh lẻ. Nàng không ngờ sau ba mươi năm xa quê hương, vật đổi sao dời, xã hội Việt Nam đã bị nhiễm độc nặng, trong đó, những đứa con gái thật thà miền nam cũng cùng số phận!
Nàng trách, nàng trách tất cả, trách để trút bỏ cái tức, xả bỏ cái hận, trách cho vơi nỗi niềm, trách để đổ lỗi tại cái này, vì người kia, nhưng rốt cục, càng trách nàng càng thấy đau khổ.

Lạc Long Huỳnh Quốc Phú




Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 21/Mar/2016 lúc 2:58pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23817
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Mar/2016 lúc 7:33am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23817
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Mar/2016 lúc 1:35pm

Hạnh phúc trong gương

beautiful,%20girl,%20hair,%20light,%20photography,%20pretty,%20shadow,%20sun,%20sunlight,%20sunshine,%20view

Tôi đã ngoài bốn mười tuổi không kiếm được vợ cũng bởi nhiều lẽ. Cái “tội” lớn nhất là xấu trai. Điều đó chính tôi còn thú nhận, huống chi mấy cô gái. Tôi khổ nhất là trước khi ngồi trước tấm gương soi lớn cho tay thợ cạo săn sóc mái tóc: Người nghệ sĩ này hí hoáy dao kéo, tông-đơ, khom xuống, ngước lên, xoay qua, xoay lại, tay cầm kéo xấp liên hồi tạo nên khúc nhạc hớt tóc rất vui tai. Cuối cùng, sau khi làm xong công việc. Lão ta ngắm tác phẩm của mình, lắc đầu không vừa ý, thốt: “Cái đầu của ông kỳ quá không tròn cũng chẳng dẹt, hớt thế nào trông cũng cứ méo. Bộ mặt ông lạ lắm, hớt kiểu nào cũng khó coi!”. Từ hồi ngồi lên ghế bây giờ tôi mới có can đảm nhìn vào gương. Trời ơi, lão ta cắt kiểu gì mà mặt tôi dài như mặt con ngựa kéo xe của lão Bộ!

Tôi thuộc hạng dạn dĩ, cũng có đôi lần tôi tỏ tình. Mấy cô gái thường tỏ ra vô cùng bối rối một lúc sau tìm ra lối thoát một cách tế nhị. Các cô quanh co một lúc rồi nói: “Em rất cảm động và xin cảm ơn anh. Em rất kính trọng anh, nhưng…” Tôi hiểu cái chữ “nhưng” này mang ý nghĩa gì rồi. Lại thêm chữ “kính trọng”. Mấy cô gái thường dùng mấy cái từ kính mến, kính trọng, khâm phục… đối với người quí cô không yêu. Còn đã thích, đã yêu có khi các cô lại dùng chữ nghĩa khó nghe hơn, ví như căm thù, khinh bỉ… Chỉ có một người nói lên sự thật đó là mẹ tôi. Một lần nghe tôi xin bà đi hỏi con Lài làm vợ cho tôi, bà nói: “Con gái người ta mặt hoa, da phấn. Còn mày người ngợm chẳng giống ai, nó không ưng đâu. Thôi để mẹ kiếm đứa xứng đôi, vừa lứa cho”. Tôi biết mẹ tôi muốn ám chỉ con nhỏ tên là Mi, mắt lé con lão Ba Trạo xóm trên.

Đã thế cái nghề thợ may cổ lỗ sĩ của tôi chỉ vừa đủ ăn. Tôi không có bằng cấp, không địa vị, chẳng có tài văn nghệ, đàn hát, thơ ca gì cả. Cuộc sống của tôi le lói như ngọn đèn dầu giữa phố phường đầy ánh sáng. Hỏi như thế lấy gì hấp dãn phụ nữ? Giang san sự nghiệp của tôi là cái quán may nhỏ. Khách hàng gồm toàn ông già bà cả với mấy người nhà quê. Trong quán tôi có một thứ hiện đại văn minh đó là quyển ca-ta-lô của hãng Sear in mốt quần áo và vật dụng từ mười năm trước, khách hàng của tôi chẳng mấy khi đụng đến quyển sách dầy đầy hình ảnh xanh , đỏ này… Trong tiệm có cái máy may hiệu Singer tróc cả lớp sơn. Nhiều chỗ tôi phải mua sơn về dặm lại, cái bánh xe dùng làm tay quay xi bóng loáng thì nay đã tróc hết cả rồi cón lại thứ sắt đen sì, đầy mồ hôi. Tôi cũng có cái tủ kính nhỏ đựng vài xấp vải trắng và màu, loại hoa hoè theo kiểu nhà quê. Gia tài của tiệm vải tôi, đáng kể nhất là tấm gương dành cho khách thử áo, quần soi. Tôi đặt nó quay ra hướng đường cái. Tấm gương soi này tôi mua rẻ của hiệu uốn tóc làm ăn thua lỗ dọn đi nơi khác. Vì là cái gương của hiệu uốn tóc, một mỹ viện lớn nên người ta chọn gương khá trung thực, không bị méo mó. Trên chỗ tôi ngồi đạp máy may có treo cái đồng hồ Ô-đô, mẹ tôi nói chiếc đồng hồ này có từ đời ông bà ngoại tôi, cũ lắm, có tuổi thọ cả trăm năm, mỗi lần lên dây chạy được một tuần lễ. Tôi thích nó vì mặt số to, đứng xa nhìn cũng thấy. Ngoài ra cứ mười lăm phút nghe tiếng nhạc thời gian rất vui tai.

Qua năm bốn mươi, cái già sầm sập kéo đến. Tôi vạch ra cho mình một kế hoạch “hậu chiến” nghĩa là chuẩn bị cuộc sống cô đơn suốt đời. Tôi chẳng trách số phận hẩm hiu, tôi thả lỏng, buông xuôi không thèm nghĩ ngợi về tình yêu, về gia đình, về người nối dõi tông đường. Thế mà đúng vào cái thời khắc tuyệt vọng đó, nàng đến! Số phận trêu ngươi ác thật, cứ đợi người ta tuyệt vọng mới mỉm cười!

Đó là một cô gái buổi chiều đi qua trước tiệm may của tôi. Có lẽ cô qua lại nhiều lần, đến lần thứ mấy tôi mới để ý. Lần đó như thế này. Một cô gái trẻ đẹp, về sau nàng càng đẹp hơn lên trong mắt tôi. Mỗi lần đi qua, cô bước chậm, rồi gần như đứng hẳn vài giây. Cô ấy đưa tay sửa lại mái tóc, nhìn vào trong tiệm, mỉm cười. Một nụ cười thân thiện xinh tươi. Lúc đầu tôi không tin nụ cười ấy dành cho mình. Nhưng sau sự việc cứ lặp đi lặp lại mãi, tôi cho rằng ấy không phải là ngẫu nhiên. Tôi lúc đầu còn phân vân, sau thì tin, nàng bước chậm lại là vì tôi, nàng đứng hẳn lại cũng vì tôi, sửa mái tóc và nhất là nụ cười ấy dành cho tôi.

Thế nhưng cuộc sống cũng dạy cho tôi bài học về sự cẩn thận? Có sự nhầm lẫn chăng? Hay là cười với ai? Còn ai vào đây nữa. Nếu gặp gỡ giữa đường có thể nghĩ nàng cười với kẻ nào đó đứng gần tôi hay ở sau lưng tôi. Đằng này chỉ có một mình tôi ngồi trong quán. Hay nàng lầm tôi với một người nào quen? Cũng vô lý, nếu là người quen cũ thì nàng đã chào hỏi. Nếu không chắc hoặc biết mình lầm thì nàng đã không tiếp tục đi qua và cười. Tôi nghĩ chẳng lẽ cứ dửng dưng với nụ cười thân thiện đó mãi sao? Phải đáp lễ chứ. Tôi không dám đường đột, tôi cho sự trả lễ của mình leo thang từ từ. Đầu tiên là cái nhếch mép, gợi lên hình ảnh mơ hồ về nụ cười. Lần khác tiến bộ hơn, tôi nhìn vào mặt nàng cười nhẹ v cái gật đầu. Lần khác một cái gật đầu chào kính trọng, kèm với nụ cười thân ái.

Ôi cùng với nụ cười đó lòng tôi nở như bông hoa tỏa ngát hương! Đối với một thằng đàn ông ngoài bốn mươi mạnh mẽ và đầy kinh nghiệm yêu đương thì việc đó quá thường tình. Nhưng tôi chỉ là cậu học trò mới học bài đầu tiên. Tất cả những gì vừa diễn ra đó quá sức chịu đựng của tôi. Trong những ngày ấy tôi sống không phải trên nền nhà tôi, không phải trên mặt đất mà bồng bềnh giống như là trên sóng, dập dìu, lao đao. Người ta gọi yêu là cảm. Tôi đang mắc chứng “cảm” đây. Toàn thân tôi hơi đau, mệt mỏi , rã rời. Nhưng lại là thứ đau đớn dễ chịu. Đem máu tôi ra tìm chắc nhiễm đầy vi rút “Y”.

Thời gian đó ngày nào cũng thế. Nàng đi qua, chậm dần, dứng lại, sửa mái tóc, nhìn tôi mỉm cười. Cái trình tự ấy không bao giờ thay đổi. Nó chỉ thay đổi liều lượng, rõ hơn, mạnh dạn hơn, lâu hơn. Tôi tin chắc sẽ có một ngày nàng bước chân vào quán. Và rồi nàng không sớm thì muộn cũng rụng vào vòng tay của tôi. Mới nghĩ đến đó tâm hồn tôi rung lên những tiếng chuông giáng sinh.
Tôi thầm cám ơn số phận đã đem đến cho tôi cô gái và một mối tình tuyệt vời. Trước đây tôi đã cam chịu cảnh cô đơn, bây giờ tôi thấy mình hạnh phúc. Tôi soi gương và lấy làm lạ, tại sao lâu nay mình chán ghét khuôn mặt này? Bây giờ tôi nhìn thấy rõ giá trị mình. Tôi không đẹp trai nhưng có duyên. Tôi trẻ trung, khoẻ mạnh, tôi có nghề nghiệp. Tôi còn là người tốt, người lương thiện… tóm lại tôi có nhiều thứ mà người khác không có. Tôi nghĩ, chính là tuổi này, người đàn ông mới đủ chín để mở thực to hàm răng cắn trái hôn nhân chín mọng, tươm mật ngọt lịm.
Cuối cùng tôi thấy cần làm cho sự việc trở nên dứt khoát. Không nên để nàng hoang mang và chờ đợi. Tôi quyết định viết cho nàng bức thư. Đã quyết thì phải làm. Tôi chuẩn bị xấp giấy, ly cà phê đen. Cuối cùng đêm đó gần ba giờ sáng mới được bức thư tôi tạm hài lòng sau khi tôi xé bỏ hơn mười tám lá thư khác. Thư gồm ba phần, một tỏ tình, hai cầu hôn, ba lời hứa hẹn về một cuộc sống tốt đẹp. Tôi sợ mình lưỡng lự rồi đổi ý. Tôi cho ngay bức thư vào phong bì rồi dán lại, tôi viết tên địa chỉ nàng, có được tên và địa chỉ, tôi phải hối lộ cho thằng cha Tạo làm nghề mài dao kéo để lão làm thám tử tư. Không đợi sáng, trời còn mờ tối, tôi đạp xe ra thùng thư công cộng. Tôi dồn hết can đảm nhét bức thư vào khe hở. Giống như con bạc “khát nước” liều mạng đặt hết số tiền cuối cùng.

Thời gian chờ đợi hồi âm đối với tôi chả khác gì bị tra tấn. Điều gì sẽ xảy ra tôi chơi trò tưởng tượng. Tôi vẽ ra không biết bao nhiêu cảnh, tôi viết kịch bản, tôi dàn dựng, nhiều đoạn phim mà vai chính là tôi với nàng. Tôi đóng vai người hùng giải thoát nàng khỏi tụi lưu manh ám hại, như Lục Vân Tiên cứu Nguyệt Nga khỏi tay thằng cướp Phong Lai. Lại có khi tôi đóng vai nhà thơ làm mềm lòng người đẹp. Không phải chỉ đóng vai người hùng, nhà thơ, tôi còn muốn trở thành nhà doanh nghiệp giàu có ném tiền qua cửa sổ đưa nàng vào tiệm mua tặng viên kim cương to bằng cái trứng cút! Ai có chờ thư mới thấy người phát thư ban phát phép lạ. Trước đây tôi không quan tâm đến thằng cha Lộc phát thư trong xóm tôi. Nay thì nhất cử nhất động của lão tôi đều để ý. Thế mà lần nào qua nhà lão cũng đạp xe vèo.

Hơn mười ngày sau, khi tôi tuyệt vọng thì lão Lộc tới trao thư. Tôi mừng suýt ôm hôn bộ mặt sần sùi của lão. Tôi cầm cái bì thư xanh nâng niu rồi áp vào ngực, chỗ quả tim. Tôi nghe nó đập thình thịch như giã gạo chày ba. Lấy cây kéo thợ may ra tôi cắt một đường dọc mép phong bì lôi tờ giấy màu thiên thanh, ngai ngái mi phấn son. Tôi đưa lên mũi hít một hơi rồi đọc.

“Thưa ông thợ may kính mến của em. Đọc thư ông, em rất cảm động. Em xin ông tha thứ. Tất cả lỗi lầm gây nên sự hiểu nhầm cho ông là tại em. Số là buổi chiều nào lúc năm giờ em đều đến chỗ hẹn với anh ấy. Ở nhà em trang điểm phấn son xong, nhưng trong nhà em không có tâm gương lớn cho em soi cả người mình. Vì thế mỗi khi đi qua hiệu may của ông, em mạn phép nhìn xem vóc dáng mình có tươm tất hay không? Nhờ tấm gương rất sáng và tốt của tiệm ông em sửa sang lại mái tóc, mỉm cười thử xem nụ cười có được quyến rũ hay không? Kế đó em nhìn lên cái đồng hồ treo tường xem thử sớm hay muộn. Nếu sớm thì em còn nấn ná ăn hàng. Nếu đã muộn em rảo bước cho nhanh kẻo để chàng chờ tội nghiệp. Người yêu của em rất dễ thương và đẹp trai, ông mà gặp thì cũng mê. Em sắp lên xe hoa, nếu chàng đồng ý em sẽ đến tiệm ông đặt may áo cưới. Ông mừng cho em đi! Em xin ông thông cảm. Thực tình em chưa trông thấy ông bao gi

Quý Thể



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Mar/2016 lúc 8:21am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23817
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Mar/2016 lúc 12:23pm

 

Hương xưa ngày ấy



 

 

Những cơn mưa cuối mùa ở thành phố tôi buồn hiu hắt, cái giá lạnh từ đâu bỗng về xâm chiếm tâm hồn.Tiếng mưa rơi nhẹ, đều đều trên mái nhà khiến tôi liên tưởng đến những cơn mưa của một thời áo trắng. Tôi nhớ mãi những chiều mưa ngồi bên song cửa đọc thư anh mà xót xa thương cảm cho người yêu ở một góc trời nào đó đang lặn lội dưới mưa rừng gió núi. Những nỗi nhớ nhung, mong đợi, lo lắng, bâng khuâng của một thời làm người yêu lính trận bây giờ nghĩ lại thật đẹp, thơ mộng làm sao! Tôi chợt đưa tay sờ lên mặt mình, những vết sẹo đã biến mất, không còn nữa.Thật may mắn cho tôi nếu không được đặt chân lên đất Mỹ thì không biết giờ nầy cuộc đời tôi sẽ ra sao, về đâu? Tuy những vết sẹo ngày xưa đã hủy diệt tương lai và mộng ước của cả đời tôi nhưng tôi vẫn luôn hoài niệm về khoảng thời gian đó, những ngày tháng thật êm đềm, ngọt ngào với những nỗi vui, buồn, đớn đau và nước mắt của một thời con gái…

 

Tôi là con lớn trong một gia đình gồm 8 anh chị em, Ba tôi là một công chức nhỏ nên cuộc sống gia đình có phần chật vật. Để giúp đỡ phần nào cho Ba, tôi phải đi làm thêm mỗi tối, việc làm đó là hát cho một quán café ca nhạc. Trời phú cho tôi một giọng ca truyền cảm, trầm ấm nên tiền thù lao khá hậu hỉ. Lẫn lộn trong đám người phức tạp nơi đó tôi hết sức dè dặt, giữ gìn ý tứ để khỏi mang tai tiếng vì mình còn là một nữ sinh đang cắp sách đến trường. Sau khi xong mỗi bài hát, trong khi chờ đợi hát tiếp tôi thường mở sách ra đọc để tránh nói chuyện với người khác. Nhưng một hôm có người bước vào hậu trường và đi thẳng tới trước mặt tôi, đó là một anh lính trẻ mặc đồ rằn ri với một bông mai trên cổ áo. Anh đứng nhìn tôi đang đọc sách, nhìn tựa quyển sách “ Hàn Yên Thúy” tức “Bên Bờ Quạnh Hiu” của Quỳnh Dao anh buông một câu không mấy lịch sự:

- Sao cô lại thích đọc loại sách nầy? Ủy mị lắm.

 

Tôi khó chịu vì thái độ của anh ta nên sẳng giọng:

- Anh quen với tôi sao?

 

Anh ta trả lời rất tự nhiên:

- Chưa, nhưng sẽ quen mà. Tôi xin tự giới thiệu tôi tên là Thế Phương đang phục vụ cho binh chủng Nhảy Dù, mong được làm bạn với cô.

 

Tôi chưa biết trả lời sao nên lặng thinh.

Phương giục:

- Sao rồi? Cô có chấp nhận lời tôi không?

 

Tôi nhìn anh dè dặt:

-Anh nói bạn là thế nào? Nếu anh đến đây nghe nhạc thường xuyên thì cũng coi như là bạn của tôi rồi mà.

- Không, tôi muốn nói là bạn riêng thôi.

 

Tôi thấy anh chàng nầy có vẻ sổ sàng quá nên nghiêm mặt lại:

-Xin lỗi anh, tôi chưa nghĩ đến điều đó, vì tôi chưa quen biết anh nên tôi không thể chấp nhận, mong anh hiểu cho.

 

Anh chàng vẫn lầm lì:

- Đêm nay tôi đưa cô về nhà nhé!

- Không được đâu anh, Ba tôi sẽ đến đón tôi.

 

Anh ta nhún vai nhìn tôi:

- Ông già giữ con gái kỹ thế .

 

Tiếng người nhạc sĩ điều khiển chương trình vọng vào:

- Bích Liên ơi, tới phiên cô rồi đó nghe.

 

Tôi từ giã anh lính:

- Xin phép anh, tôi phải ra sân khấu rồi.

- Hẹn gặp cô sau.

 

Tôi bước trở ra sân khấu với bản nhạc “Thuở Ấy Có Em” :

“…Thuở ấy có em anh chưa từng sầu. Chưa đi âm thầm ngoài phố đêm thâu chưa mang hoang lạnh ngoài bến vắng. Hỡi em, em về đâu cho đời còn luôn nhớ nhau…”


Tôi nhìn xuống thấy anh đứng ở một góc của quán nhạc, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía tôi, tự nhiên tôi thấy lòng có chút xúc động. Chắc anh có một nỗi niềm, một tâm sự riêng nên trông anh có nét buồn xa vắng.

 

Khi Ba tôi đến đón tôi, anh lặng lẽ nhìn theo không nói lời nào. Mấy đêm sau liên tiếp anh đều đến, đều tìm cách nói chuyện với tôi nhưng tôi cố giữ khoảng cách với anh vì tôi rất sợ mình sẽ yếu lòng, sẽ vướng vào tình yêu của lính, nhất là lính Nhảy Dù như anh.Tôi biết dù có lưu luyến, thương nhớ bao nhiêu rồi anh cũng ra đi, anh phiêu lưu trên khắp nẻo đường đất nước, khắp bốn vùng chiến thuật, bất cứ nơi nào khi chiến trường cần đến anh. Tôi phải tự thương lấy mình, thương cho thân phận của một người con gái sinh ra trong thời loạn.

 

Quả đúng như vậy, vào một ngày cuối tuần anh đến từ giã tôi để trở về đơn vị. Kỳ đi phép về thăm ông ngoại nầy đối với anh rất thú vị, rất vui. Tôi cũng có chút ngậm ngùi, lưu luyến vì những ngày qua anh thường nói chuyên với tôi, tôi cũng được hiểu về anh đôi chút.

 

Con chim xanh đã trở lại núi rừng, người đã xa rồi tôi cũng không còn gì vương vấn. Những đêm sau giờ đi hát, trên đường về tôi chợt nhận ra mình cô đơn quá, thiếu người san sẻ những ưu tư, lo lắng trong cuộc sống. Đêm bỗng buồn lê thê như những bài tình ca dang dở, và tôi trở lại với nếp sống hằng ngày tẻ nhạt.

 

Hai năm sau, vào mùa hè tôi lên Sàigòn thăm dì ruột của tôi. Dì có một người con gái tên Hồng Phượng lớn hơn tôi hai tuổi, chị em tôi rất thân với nhau.

 

Có một ngày chị Phượng khoe với tôi:

- Để hôm nào bạn trai của chị từ chiến trường trở về chị sẽ giới thiệu cho em biết mặt nhé!

 

Tôi chọc chị:

- Bạn trai thường hay là người yêu? Chị đừng giấu em, khai thật đi em sẽ ủng hộ hết mình.

 

Chị lườm tôi:

- Cái con nhỏ nầy. Ừ, thì…là người yêu. Em đã lớn chắc cũng có chàng nào trong tim rồi phải không?

 

Tôi giơ tay lên trời:

- Em xin thề, chưa có chàng nào cả.

- Vậy để chị nói với chàng giới thiệu cho em một người nhé? Bạn của ảnh đông lắm, lính Nhẩy Dù, Thiên Thần Mũ Đỏ em chịu không?

 

Tôi cười:

- Chà, ca ngợi binh chủng của chàng như vậy chắc là chị “đậm” với người ta lắm rồi, cầu mong cho chị gặp người tốt. Ngày trước em cũng có quen sơ sơ với một anh nhưng… chẳng tới đâu cả.

 

Hai chị em chúng tôi huyên thuyên tâm sự. Chị Phượng luôn nhắc đến người yêu: một Trung Úy trẻ, đẹp trai, oai dũng, can trường trên trận địa…Chị đã gặp anh ta năm trước khi đi làm dâu phụ cho một người bạn lấy chồng là một sĩ quan Nhảy Dù.


Hai tuần sau đó chị vui vẻ báo cho tôi biết người yêu của chị đã về phép, nhà anh ở cư xá Đô Thành nhưng anh hẹn gặp chị ở phòng trà Mỹ Phụng. Chị Phượng bảo tôi đi cùng, tôi từ chối vì không muốn làm “ kỳ đà cản mũi” cho hai người nh
ưng chị nói:

- Anh Tùng có một người bạn đi chung, có em trò chuyện cùng anh ấy thì chị và Tùng sẽ được nhiều thời giờ tâm sự hơn.

- Thì ra chị cần em “ đỡ đạn” cho chị.

- Được rồi, tùy em nghĩ. Em chịu đi chứ?

- Dạ, cũng được thôi.

 

Hôm ấy chị Phượng thật đẹp trong chiếc áo dài màu vàng thêu hoa kim tuyến, còn tôi thì “chìm sâu” với chiếc áo dài màu tím đơn sơ, buồn lặng lẽ. Tôi nghĩ rằng chị cần mặc đẹp, nổi bật vì có người yêu, còn tôi chỉ đi ké thôi nên chẳng quan tâm đến việc mặc đẹp hay xấu. Khi chúng tôi đến trước cửa Mỹ Phụng thì đã thấy hai anh chàng mặc quân phục Nhảy Dù đứng đợi sẵn. Chị Hồng Phượng có vẻ xúc động đưa tay chỉ về một anh:

- Anh không mang kính đen là Tùng của chị đó.

 

Tôi nhìn theo tay chị, anh chàng cao ráo, phong độ làm sao. Hèn nào chị hết lời ca tụng chàng. Còn anh kia thật …đặc biệt, trời đã tắt nắng rồi mà còn mang cặp kính râm to tướng, chiếm cả gần 1/4 khuôn mặt.


Khi chúng tôi đến trước mặt, anh Tùng chào hỏi và giới thiệu thì anh chàng kia cũng vừa gỡ cặp kính râm ra, tôi bỗng giật mình lùi lại miệng lắp bắp:

- Anh là…Thế Phương phải không?

 

Anh chàng cũng vừa nhận ra tôi:

- Ồ! Cô Bích Liên ở Cần Thơ chứ gì! Mấy năm rồi mà Liên không thay đổi lắm, còn tôi…

- Tôi nhận được anh chứng tỏ anh cũng không già thêm đâu.

 

Anh Tùng nói:

- Hay quá, không ngờ là người quen xưa.

 

Bốn người chúng tôi cùng vào trong phòng trà. Anh Tùng và chị Phượng cứ tíu tít kể lể với nhau vô tình đẩy tôi phải trò chuyện với Phương. Chuyện ngày ấy, dù có một chút bâng khuâng thoáng qua hồn nhưng tôi cũng đã quên rồi con chim xanh chỉ dừng chân chốc lát trên một nhánh cây nhỏ để ngắm trời mây rồi bay đi. Giờ gặp lại Phương trông anh phong trần dày dạn hơn, đôi mắt đăm chiêu như có chút chán nản, muộn phiền. Anh nhìn tôi:

- Gặp lại Bích Liên tôi mừng lắm. Bích Liên vẫn còn đi học chứ? Có còn đi hát thêm vào buổi tối không?

- Dạ, Liên không còn đi hát nữa để dành thì giờ học hành vì Liên đang học Đại Học Sư Phạm. Anh Phương có gì vui không?

 

Trông anh già dặn và buồn hơn trước.

- Liên nói đúng, tôi đang buồn vì người yêu vừa đi lấy chồng. Ngày trước khi tôi muốn làm bạn với Liên thì Liên lạnh nhạt hờ hững, tôi cũng không có dịp để bồi dưỡng tình cảm thêm với Liên. Sau đó tôi quen một người con gái khác ở Sàigòn và chúng tôi yêu nhau được hơn một năm rồi. Nàng học trường Régina Pacis, con nhà giàu, có lẽ vì vậy mà gia đình nàng chê lính như tôi nên cuối cùng thì tôi đành hát bài “Sayonara” để tiễn nàng về chốn cao sang. Giờ tôi chỉ còn tìm vui với máu lửa sa trường thôi.

 

Tôi nhìn anh, một chút xót xa thương cảm:

-Xin lỗi anh, ngày đó không phải Liên chê anh mà vì Liên còn nhỏ, còn bổn phận với gia đình. Hơn nữa Liên sợ làm người yêu của lính, lính cứ đi biền biệt, liệu mình có giữ nổi không? Nhưng bây giờ nhìn lại thấy chung quanh toàn là lính, bạn bè ai cũng có người yêu là lính cả nên Liên cũng… bớt sợ rồi.

 

Phương cười có chút giễu cợt:

- Thế bây giờ Liên có dám làm người yêu của lính không?

Biết Phương chọc mình tôi cúi đầu lí nhí:

- Cũng phải xem là ai, có hợp tánh tình với mình không chứ anh.

 

Phương gật gù:

- Câu trả lời thật khôn ngoan. Liên à, mình có thể làm bạn không? Tôi chưa dám nói tới chuyện xa xôi, chỉ làm bạn bình thường để an ủi, chia xẻ vui buồn với nhau thôi.

- Được chứ anh. Chúng mình chả là bạn từ ngày trước rồi sao?

- Ừ nhỉ, Liên đã xem tôi là bạn rồi mà. Liên à, tôi có thể gọi Liên bằng “ em” được không, Liên nhỏ tuổi hơn Phương nhiều.

- Dạ, cũng được. Coi như anh là anh trai của Liên vậy.

 

Phương nheo mắt:

- Cô nầy gớm thật, định gài anh vào thế kẹt phải không? Anh không sợ đâu, lính Nhảy Dù thứ thiệt đó nha!

 

Cả hai chúng tôi cùng cười lớn. Chị Phượng và anh Tùng nhìn sang ngạc nhiên vì sự thân mật của chúng tôi. Từ trên sân khấu giọng một người nam ca sĩ thật ngọt ngào, trầm ấm, nồng nàn với bản “ Love Story”.

“ Where do I begin, to tell the story, of how great a love can be.

The sweet Love Story, that is older than the sea….

….. There’d never been another love, another time.

She came into my life and made the living fine.

She fills my heart, she fills my heart.

With very special things, with angel songs, with wild imaginings, she fills my soul, with so much love…”


Phương nhìn vào mắt tôi và nói nhỏ “you fill my heart”. Tôi quay mặt chỗ khác:

- Cái anh nầy, giỡn hoài.

 

Nhưng rồi suốt những ngày đi phép của Phương, anh cứ quấn quít bên tôi. Anh đưa tôi đi xem phim ở Rex, Đại Nam hoặc vào hẻm bên hông rạp Casino ăn các món ăn miền Bắc. Có những chiều đứng trên bến Bạch Đằng nhìn những chiếc tàu Hải Quân rời bến, anh mơ ước được lướt sóng ra khơi như những chàng thủy thủ. Những lần ngồi bên nhau trong quán kem Lan Phương hay Givral anh kể cho tôi nghe về cuộc đời chinh chiến của anh, những vui, buồn , gian khổ, hiểm nguy, những trận đánh ác liệt anh đã tham dự. Anh kể về những sự hy sinh đầy dũng cảm của bạn bè ngoài sa trường, sự đau đớn, xót xa và nỗi uất hận khi nhìn đồng đội gục ngã… Nghe anh kể tôi hối hận vì ý nghĩ sai lầm về lính trước đây của tôi. Tôi không còn sợ lính nữa và cảm thấy hình như gần gủi với anh hơn. Nhà anh ở trên đường Trần Quang Khải -Tân Định, anh dẫn tôi về nhà giới thiệu với Mẹ anh, Mẹ anh có vẻ mến tôi lắm làm tôi thật ngại vì bà tưởng tôi là người yêu của anh.

 

Rồi anh trở lại với núi rừng, với những trận chiến ngoài kia còn tiếp diễn, tôi quay về nhà nối tiếp những ngày dài thầm lặng bên sách vở. Kỷ niệm của những ngày bên nhau đã làm tâm tư tôi bắt đầu thay đổi, tôi biết buồn bã bâng khuâng nhìn chiều nắng nhạt, biết thao thức thâu đêm sau những giờ miệt mài học hành, biết ưu tư lo lắng khi nghe tiếng súng vọng về từ xa xa, và cảm thấy một chút nhớ nhung ai đó. Những lá thư liên tiếp bay về từ chiến trường với những thương mến, quan tâm đã tôi làm tôi gục ngã trước tình yêu của anh, tôi không thể phủ nhận tình cảm của mình được nữa. Rồi từ đó thư đi, thư về ngày càng nhiều hơn đã khiến tình cảm chúng tôi thêm đậm đà, gắn bó. Tôi đã trở thành người yêu của lính từ đó.

 

Chuyện tình của chúng tôi kéo dài gần hai năm mà Phương vẫn chưa về phép để thăm tôi. Chiến trường sục sôi máu lửa, những tin tức về anh tôi chỉ được biết qua những cánh thư viết vội vã. Đơn vị anh được điều động đi khắp các mặt trận như: Kontum, Pleiku, Quảng Trị, Khe Sanh, Lao Bảo… Đêm từng đêm tôi âm thầm cầu nguyện cho anh được bình yên nơi tuyến đầu trận địa. Nhớ nhung, lo lắng từng ngày cho chàng nhưng tôi không biết phải làm sao. Và một lần đó, lần duy nhất trong đời, tôi đã đi đến nơi dừng quân của chàng, cũng là chuyến đi định mệnh đời tôi khi chàng báo tin cho tôi biết chàng đang đóng quân ở Tây Ninh. Tôi đã hỏi thăm và dò dẫm đường đi, tôi bất chấp dư luận, lén cha mẹ, nhất quyết phải gặp chàng cho cả hai vơi thương nhớ. Vào thời bấy giờ những con đường quốc lộ thường bị VC đắp mô, gài mìn để phá hoại làm cản trở sự lưu thông của dân chúng và những đoàn công-voa chuyển quân tiếp viện đến các mặt trận của quân đội ta. Ngày đó tôi đang đi trên chuyến xe đò từ Cần Thơ về Sàigòn, vừa đến quận Cái Bè thuộc tỉnh Định Tường ( Mỹ Tho) trên quốc lộ 4 thì chiếc xe đi trước xe tôi bỗng ngừng lại thình lình vì có các anh binh sĩ địa phương ra chận lại bảo rằng phía trước có mìn, các chiến sĩ đang lo gỡ mìn để cứu đồng bào. Bác tài xế xe tôi trong lúc hoảng sợ, hấp tấp gài thắng thế nào làm chiếc xe bị lật ngang, lăn mấy vòng rồi rơi xuống đám ruộng khô bên đường. Kính xe bị bể nát văng vào hành khách gây thương tích rất nhiều người trong số đó có tôi. Sự việc xảy ra đột ngột làm tôi kinh hoàng, hãi hùng không còn biết gì nữa, chỉ biết mặt tôi đau buốt, máu chảy đầm đìa. Người ta đem tôi ra khỏi xe và đưa các bịnh nhân chúng tôi ngược về bệnh viện Vĩnh Long vì không thể đến Mỹ Tho được. Lúc đến bệnh viện, bác sĩ khám xong tôi mới biết là mặt tôi đã bị nhiều vết thương do miểng kính xe cắt. Ôi! Một người con gái đang tuổi đôi mươi với bao ước mơ, bao mộng đẹp mà phải mang gương mặt đầy vết sẹo thì còn đau khổ nào hơn? Tôi chợt khóc lớn, khóc thật lâu với viễn ảnh hãi hùng trước mặt.

 

Khi tôi được xuất viện trở về nhà tôi đã bỏ dở học hành, trốn tránh bạn bè và cả Phương nữa, tôi sẽ không bao giờ cho anh gặp mặt. Sau một thời gian dài không được thư tôi, Phương đã hiểu lầm là tôi phụ bạc nên anh giận dữ viết cho thư tôi bằng những lời trách móc nặng nề. Tôi tan nát cõi lòng, đầm đìa nước mắt để vĩnh biệt một cuộc tình đẹp như mơ.

 

Sáu tháng sau tôi được chị Phượng báo tin, anh Tùng cho biết là Phương đã cưới vợ, một người mà anh Tùng bảo rằng Phương chưa hề quen biết, đó là con gái của người bạn mẹ Phương. Thế là hết, là mãi mãi chia phôi, là trọn đời xa cách, là muôn thuở nhớ nhung, kiếp người bạc mệnh, bất hạnh như tôi số trời đã định còn biết sao hơn? Em chúc anh hạnh phúc bên người tình mới Phương ơi! Em chưa bao giờ phụ anh. Nhiều đêm thức trắng bên chồng thư cũ, bên những tấm ảnh của người yêu tôi nghe một nỗi tái tê dâng ngập tâm hồn. Thuở ấy mình bên nhau cùng xây bao mộng ước, cùng hướng về một tương lai tươi sáng. Nhưng giờ đây trong bóng đêm lệ em tuôn chảy âm thầm anh nào hay biết. Tất cả đã xa rồi phải không anh? Em nhớ làm sao thuở ấy, thuở anh còn ngồi hằng đêm trong quán nhạc để nghe em hát:

“…Từ lúc vắng anh nên em thường buồn. Hay lang thang ngoài đường nhỏ không tên, hay ghi câu nhạc tình héo hắt với tâm tư sầu đau kể từ ngày xa cách nhau…”

Rồi thời gian cứ lạnh lùng trôi, tôi vẫn theo dõi bước chân anh trên vạn nẻo đường sương gió. Anh oai hùng, anh chiến thắng, danh vọng, tên tuổi anh càng sáng chói… còn tôi lu mờ trong bóng tối âm u.

 

Đến ngày tang thương mất nước, tôi theo người cậu di tản sang Mỹ. Tôi muốn trốn chạy những người thân quen, trốn chạy nơi đã cho tôi quá nhiều kỷ niệm để lòng vơi bớt não nề băng giá. Nơi đây tôi may mắn được quen với ông Anthony Saleno một bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ gốc người Italy, ông đã giúp đỡ chữa trị khuôn mặt của tôi. Sau cuộc giải phẩu, tôi rất ngạc nhiên và sung sướng: mặt tôi đã trở lại gần như bình thường. Tôi vui mừng viết thư báo tin cho Ba Mẹ biết để các người yên tâm, bớt đau khổ vì tôi. Nhưng có những chiều lái xe từ sở về nhà, nhìn con đường trước mặt chạy dài hun hút, nhìn dãy Big Bear Mt. mờ mờ ẩn hiện dưới chân mây, hoặc những lần lang thang một mình bên bờ Redondo Beach tôi bỗng thấy lòng nhớ anh da diết. Chính tôi đã hủy hoại tình yêu mình, chính tôi đã xô đẩy anh đến với người khác, giờ đây mọi việc đã lỡ làng, đã muộn màng làm sao tìm kiếm lại những ngày xa xưa ấy? Nước mắt tôi cứ mãi tuôn rơi trong những đêm sầu trăn trở, tôi đã sống với những ngày tháng buồn tênh và những kỷ niệm ngập tràn nhung nhớ.

 

Mười lăm năm sau, tôi đi dự lễ giỗ Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam nguyên Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Quân Khu 4. Trước đó ông từng là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, vì kính trọng, thương mến ông nên các anh trong Sư Đoàn 7 BB làm lễ giỗ cho ông hằng năm ở Nam California. Thật bất ngờ, trong số người tham dự tôi đã gặp lại người xưa như một cơn mơ. Tôi lặng người, run rẩy đứng nhìn anh từ xa, anh không thay đổi nhiều, già dặn, trầm tĩnh hơn, da dẻ hồng hào hơn ngày xưa nhưng ánh mắt vẫn buồn buồn như thuở nào tôi mới gặp, và chính nét buồn đó đã làm gục chết trái tim tôi. Tôi tiến lại gần anh và hỏi:

- Anh Phương có còn nhận ra tôi không?

 

Phương nhìn tôi, mở to đôi mắt, miệng lắp bắp:

- Trời ơi! Lẽ nào tôi nằm mơ? Bích Liên đây sao? Có thật là em không?

- Anh vẫn còn nhớ tới Liên sao? Liên cứ tưởng thời gian đã làm nhạt nhòa hình bóng Liên trong anh rồi. À, sao anh lại có mặt ở đây? Anh là dân Nhảy Dù mà, đâu phải là đệ tử của ông Tướng Nam?

- Anh theo một người bạn đến thắp nhang cho ông Tướng, người mà anh rất ngưỡng mộ.Thôi chúng ta ra ngoài kia nói chuyện tiện hơn, anh có biết bao điều muốn nói với em.

 

Chúng tôi ra ngồi ở một băng ghế sau nhà và đã cùng nhau trút cạn nỗi niềm tâm sự. Phương cho tôi biết là sau khi tưởng tôi phụ bạc anh, anh tức giận muốn trả thù tôi nên đã cưới vợ.

 

Anh buồn bã trầm giọng:

- Anh đi biền biệt suốt tháng quanh năm nên người vợ chưa từng thương yêu của anh cũng chán nản bỏ anh theo người khác. Có lần anh được anh Tùng kể rõ hoàn cảnh em cho anh nghe, anh đã hối hận và viết cho em rất nhiều thư nhưng không có sự hồi âm nào (lúc đó tôi đã dời chỗ ở). Rồi trước biến cuộc 30 tháng 4- 1975 xảy ra vài ngày, anh từ Đà Nẵng chạy về tới Nha Trang gặp một người bạn là thuyền trưởng Hải Quân đang chuẩn bị di tản, anh đã ở lại và cùng đi với các anh em Hải Quân đó. Khi đến Hoa Kỳ anh ở miền Bắc Mỹ mấy năm, sau đó anh tìm cách về California sinh sống và hy vọng gặp người quen để biết tin tức về em vì ở Cali có nhiều người Việt Nam. Anh được biết tin Tùng đã chết trong tù, còn chị Phượng thì vì quá nhớ thương chồng và nhiều gian khổ nên cũng đi theo Tùng sau một cơn bịnh nan y. Anh vẫn chờ em, vẫn luôn cầu mong có ngày gặp lại em, không ngờ chúng ta ở cùng trong một thành phố mà trời cao thật trớ trêu. Thời gian dài đăng đẳng không có tin tức gì về em cả, anh đã tuyệt vọng. Vì cần người nương tựa nhau để sống cho qua những ngày tháng buồn nơi xứ người nên hai năm trước đây anh đã kết hôn với một phụ nữ cùng làm chung sở. Anh không yêu cô ta nhiều nhưng nàng cũng là một người vợ hiền. Bây giờ gặp lại em anh hối hận sao mình quá hấp tấp….

 

Tôi ngắt lời anh:

- Thôi anh đừng nói nữa. Em biết đời em vô duyên, bất hạnh không dám mơ ước cùng anh chung bóng chung đôi.

 

Lòng tôi chợt thấy xót xa, cay đắng và đau đớn vô cùng. Bao nhiêu năm chờ đợi trong mỏi mòn tuyệt vọng, dù biết rằng chuyện tái hợp với người xưa không thể nào có nhưng khi nghe anh đã có người đàn bà khác tim tôi quặn thắt, tái tê.

 

Phương hỏi tôi:

- Anh nghe Tùng nói em bị tai nạn … anh thấy em đâu có gì khác lạ? Sự thật là thế nào?

- Anh còn tìm hiểu làm chi khi chúng ta đã không về cùng chung hướng đường. Đời đã chia hai lối rẽ, coi như một giấc mơ, tỉnh mộng rồi sẽ không còn gì tất cả.

- Em giận anh phải không? Sao không kể lại chuyện ngày đó cho anh nghe?

- Đúng thế! Em giận lắm. Anh đâu hiểu được cũng vì lặn lội đi thăm anh, em mới bị tai nạn. Anh đâu hiểu được những nỗi đắng cay, đau khổ, tuyệt vọng mà em âm thầm chịu đựng, em cô đơn trong suốt cuộc hành trình dài đăng đẳng. Em vẫn cầu mong được gặp lại anh, vẫn chờ, vẫn đợi…nhưng tất cả chỉ là bọt biển, và một cơn sóng lớn vô tình, tàn nhẫn đã vùi dập chúng không chút luyến thương…

 

Tôi cảm thấy thật tủi thân, bỗng dưng tôi oà khóc và ôm mặt chạy ra đường. Phương hốt hoảng chạy theo hết lời năn nỉ. Tôi không màng đến anh nữa, không cần nghe anh nói gì hết, tôi lên xe đóng mạnh cửa và gục xuống tay lái. Tôi cứ mặc cho nước mắt tuôn rơi, mặc cho con tim rên rỉ, đớn đau. Tôi hận anh, tôi oán hờn anh, tôi trách anh là kẻ bội tình, đã hai lần bóp chết trái tim vô tội đáng thương của tôi. Cả tuổi xuân của tôi vì ai mà phôi phai tàn tạ, vì ai mà tôi lưu lạc tha phương xa cha nhớ mẹ? Vì tình yêu khờ khạo của tôi thôi.

 

Tôi ngẩng đầu lên, lau khô nước mắt. Phương vẫn đứng bên ngoài xe miệng lẩm bẩm gì đó tôi không nghe. Tôi nổ máy cho xe chạy…hình như anh muốn chạy theo nhưng xe tôi đã rẽ qua con đường khác, một con đường rưng rưng buồn với hai hàng phượng tím giăng giăng. Hết rồi, một cuộc tình đã đi qua không bao giờ trở lại, có chăng là nước mắt và thương đau. Thôi, người ơi xin gĩa từ, bây giờ và mãi về sau trong tim tôi chỉ còn một Trần Thế Phương của ngày xưa thân ái, của hương xưa tình cũ. Nhưng Thế Phương đó đã chết rồi, chết trong ngày đất nước tan hoang, sụp đổ, và mối tình si của tôi cũng đã theo người thiên cổ…

 

Từ ngày đó tôi không bao giờ gặp lại Phương nữa. Chiều nay đứng nhìn cơn mưa ngoài trời dai dẵng, lê thê không dứt, tôi bỗng thở dài. Ngoài kia những chiếc lá vàng đang bay lả tả sau một cơn gió mạnh vừa thổi qua, không gian vẫn một màu xám ngắt… Tôi bước tới giàn máy hát đưa tay mở nhạc, những lio bai hát sao thật buồn như cuộc tình của tôi:

“Chuyện tình mười mấy năm qua, nay bỗng xót xa, những khi sầu giăng.
Còn đâu ngày quen biết nh
lời au, đã yêu anh rồi, yêu cả cuộc đời.
Khi anh đã phụ lòng em… đã phụ lòng em, đau thương anh để lại, xót xa vô vàn, chỉ là bội ước những lời hẹn thề mà lòng tái tê…” (Tình Phụ)


 

Vi Van

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23817
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Apr/2016 lúc 9:36am

Giã từ sông biển

 


** *** **

 


Tôi nghĩ, lẽ ra cái tựa đề “Giã Từ Sông, Biển” nên để dành cho những người đã từng một thời thực sự mài miệt ngược xuôi trên sông, trên biển. Tôi là vợ của một thủy thủ, dù đã đôi lần theo chồng qua lại vài vùng sông, biển, cũng không nên dùng cái tựa đề có vẻ “nhà nghề” đó.


Rạng sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi đã “hải hành” lần chót rời Việt Nam, từ đó đến nay, tôi không còn có dịp qua lại trên vùng sông nước quê hương một lần nào nữa. Tôi đã thực sự bỏ sông, bỏ biển, vì vậy tôi xin mạo muội dùng tựa đề “Giã Từ Sông, Biển” cho bài viết này.


Bài này tôi viết với sự trợ giúp “nghề nghiệp và kỹ thuật” rất nhiều của chồng tôi. Tuy tôi có đi sông đi biển đôi chút nhưng đi toàn giang đỉnh hoặc ghe duyên đoàn, sức mấy mà tôi biết tới mấy tiếng nhà nghề như tả hạm, hữu hạm, sân trước, sân sau, biển 1, biển 2, thượng dòng, hạ dòng....


Đã 34 năm rồi, tôi đã quên đi nhiều chi tiết xảy ra trong chuyến hải hành cuối cùng đó, nhưng tôi nghĩ trong đời vẫn còn có những điều không thể quên được, có lẽ đến chết cũng không quên.... Có ai quên hẳn được chuyến đi u buồn, tức tưởi rời bỏ quê hương?


Cuối năm 1973, chồng tôi đổi về làm Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 91 Trục Lôi ở Cát Lái. Gần cuối năm 1974 Giang Đoàn 91 đình động, anh được đổi qua làm CHT Giang Đoàn 93 Trục Lôi, cũng đồn trú tại Cát Lái. Căn nhà mục nát chúng tôi mua ở Sài Gòn cũng vừa sửa chữa vá víu xong vào đầu năm 1975, vừa dọn vô nhà mới thì tôi vào nhà thương đập bầu đứa con thứ hai.


Từ đầu năm 1975, tình hình chiến sự càng ngày càng sôi động, nhất là ở miền Trung và Cao nguyên. Vài ba hôm anh mới về Sài Gòn một lần, tôi thuộc loại sợ ma hạng nặng, hàng xóm lại xầm xì là căn nhà tôi đang ở có cốt chôn ở dưới, tôi sợ qúa nên đêm nào cũng phải có mẹ hay bà ngoại tôi ở lại với tôi. Vừa đầy tháng, tôi đã cuốn gói theo anh về Cát Lái. Đi đi, về về Cát Lái - Sài Gòn được vài ba tháng thì tình hình trở nên hết sức khẩn trương, nhiều đơn vị HQ ở vùng 1, vùng 2 Duyên hải rút về tạm trú tại Cát Lái trong đó có Duyên Đoàn 21 rút từ Degi về. Tôi gặp lại vài chị bạn cũ, những người tôi đã thường chuyện trò từ ngày tôi còn ở Degi, tôi thật mừng được gặp lại họ nhưng trong lúc hàn huyên thì mấy chị bạn tôi đều tỏ ra rất lo lắng cho cha, mẹ, anh chị em còn kẹt lại ở miền Trung. Riêng chồng tôi thì lại bắt đầu trông ngóng Má anh từ Nha Trang, hy vọng bà theo tàu về Sài Gòn. Một buổi tối vào đầu tháng 4 năm 1975, HQ 401, Hạm Trưởng là HQ Thiếu Tá Hoàng Tri Lễ, bạn cùng Khóa với anh từ Nha Trang về ủi bãi ở Cát Lái, khoảng 10 giờ đêm, trời đang mưa, anh vội vàng đội mưa chạy xuống tàu để mong đón Má hay ít ra cũng biết chút ít tin tức về Nha Trang. Nha Trang đã vô cùng hỗn loạn trong những ngày cuối cùng, bạn anh không ai có thể chạy ra đón Má anh vào TTHL/HQ để di tản. Anh tỏ ra bối rối và thất vọng.


Cát Lái trong những ngày đầu tháng 4 năm 1975 rất nhộn nhịp; giang đỉnh, ghe thuyền của các đơn vị từ vùng 1, vùng 2 Duyên hải rút tạm về đây hàng hàng lớp lớp, cầu tàu đông nghẹt, căn cư xá của chúng tôi lúc nào cũng chật ních, các Sĩ quan GĐ 21, các bạn cùng khóa với anh từ miền trung rút về đã dùng căn cư xá của chúng tôi làm chỗ tạm trú.


Tôi ở Cát Lái được vài hôm thì anh hối tôi về Sài Gòn để lo đăng báo bán căn nhà. Tuy cái vụ có cốt chôn dưới nền nhà đã làm cho tôi rét lắm nhưng nay anh định bán đi lại làm cho tôi cảm thấy tiêng tiếc làm sao ấy, nghĩ tới cái công vừa mang bầu vừa trông coi sửa nhà suốt mấy tháng của tôi, tôi không đành lòng. Anh thuyết phục tôi: “Tình hình càng ngày càng nghiêm trọng, có lẽ anh phải ở luôn lại Cát Lái, em với con cùng ở lại với anh, nếu ngại có con nhỏ bên cạnh chạy núp pháo khó khăn thì gởi tạm thằng Luân về Sài Gòn cho ông bà ngoại (Luân là tên đứa con thứ hai của chúng tôi)”.


Khoảng 10 tháng 4 năm 1975, tôi về Sài Gòn đăng báo bán nhà trên báo Chính Luận, suốt 1 tuần lễ không có ma nào hỏi đến cả. Tôi chạy qua nhà bố mẹ trong cư xá Sĩ Quan truyền tin, gần Tân Sơn Nhất, nhờ điện thoại gọi xuống Cát Lái cho anh biết.... Hôm sau anh về, mang theo một tấm bùa dán ngay trên cây đà ngang cửa ra vào; không đăng báo nữa. Vài ba hôm sau 5, 6 người vào hỏi mua nhà, rốt cuộc chúng tôi đã bán được căn nhà đúng với cái giá mình đã đưa ra, không bớt một xu. Anh lại hối tôi nhờ bà chị họ đưa đi mua vàng ngay, hôm đó là ngày 22 tháng 4 năm 1975, tôi mang mấy triệu tiền bán nhà, theo bà chị đi gõ cửa mấy tiệm vàng quen của chị, năn nỉ muốn hụt cả hơi mới mua được mấy lạng vàng.


Chiều ngày 23 tháng 4 năm 1975, tôi vừa về lại tới Cát Lái thì bố tôi gọi điện thoại cho hay là ông đã xin được 6, 7 chỗ máy bay đi di tản qua Mỹ vào ngày 25 tháng 4, nếu tôi mang thằng Chinh (con lớn của chúng tôi) về kịp thì cùng đi, nếu không thì mẹ và các em tôi sẽ mang thằng Luân đi, sau đó bố tôi sẽ xuống ở lại Cát Lái cùng với chồng tôi. Là quân nhân, bố và chồng tôi không thể bỏ đi trước được. Chỉ nghe nói tới mẹ định đem thằng Luân đi trước tôi đã cuống cuồng lên rồi, tôi muốn dắt Chinh về ngay nhưng anh không cho vì đã sắp chạng vạng, sợ đường không được an ninh. Suốt đêm tôi không chợp mắt được, cứ nghĩ tới việc mẹ tôi ẵm thằng Luân đi; tôi nằm trông cho trời mau sáng mà sao lâu quá vậy không biết!!!


Rạng sáng ngày 24 tháng 4 anh tự lái xe đưa tôi và con về Sài Gòn. Chúng tôi đã bàn bạc với nhau trong đêm và anh đã đồng ý cho tôi mang 2 con đi trước cùng với mẹ và 3 em của tôi, phần anh với bố thì vào giờ chót tùy cơ ứng biến, xem chừng bố tôi rất tin tưởng vào khả năng ứng biến của anh. Điểm hẹn ở Mỹ là nhà của một người bạn Mỹ của bố tôi ở tiểu bang New Jersey. Bố tôi còn cẩn thận trao cho chúng tôi mỗi người một mảnh giấy có ghi tên, địa chỉ, và số điện thoại của người bạn ở Mỹ.


Trưa ngày 25 tháng 4 anh từ Cát Lái về để đưa cả nhà vô phi trường. Đường vô phi trường Tân Sơn Nhất đông ngút ngàn, xe du lịch dân sự bỏ đầy hai bên vệ đường, cổng phi trường đầy ắp người chen chúc nhau, cảnh sát, quân cảnh đứng canh gác đầy rẫy. Chúng tôi lọt vào bên trong phi trường không mấy khó khăn, lác đác dọc đường vào khu của cố vấn Mỹ tôi nhìn thấy vài ba chiếc xe jeep có dấu hiệu mỏ neo của Hải quân bỏ lại.


Thủ tục giấy tờ xong khoảng 4 giờ chiều, anh, một tay ẵm Luân, tay kia kéo Chinh vào lòng hôn cả hai con. Không bút mực nào có thể giúp tôi diễn tả lại được cái giây phút đó, nước mắt tôi ràn rụa, anh trao lại thằng Luân cho tôi, hôn Chinh một lần nữa rồi quay lưng, cùng bố tôi lật đật rời khu tập trung để chờ máy bay Mỹ trong phi trường. Tôi ràn rụa ôm con nhìn theo anh, lòng đau như xé, không thốt được một lời.


Khu tập trung đông như kiến, tôi phải ra ngoài hiên trải khăn bông cho con nằm, mẹ tôi và các em cũng ra ngồi ngoài hiên. Đêm xuống buồn bã, chậm chạp, lòng tôi rối bời, nặng trĩu. Nhìn hai con ngủ say, vô tư trong cảnh màn trời chiếu đất, tôi vừa ngồi đuổi muỗi cho con vừa lo lắng khôn nguôi, không biết mai đây tôi sẽ đi về đâu, cả mẹ và các em tôi nữa, toàn là đàn bà con gái, cậu em trai duy nhất của tôi mới 14 tuổi, Chinh, Con đầu lòng của tôi chưa được 6 tuổi, Luân chưa tròn 3 tháng.


Càng về khuya, tôi càng cảm thấy bấn loạn, bao nhiêu câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu, sao tự nhiên mình tôi lại đem hai con đi khỏi nước trong khi chồng tôi ở lại? Đi như thế này biết có còn gặp lại nhau không? Lỡ mai mốt anh kẹt lại thì sao? Tôi một mình với hai con thơ dại nơi đất lạ quê người... trời ơi! Tôi cố không nghĩ tới nhưng sao cái ám ảnh sẽ xa nhau vĩnh viễn làm cho tôi xốn xang, sợ sệt đến độ tôi không còn chịu đựng thêm được nữa. “Không, tôi phải ẵm con quay trở về với anh dù có ra sao thì ra, tôi không thể nào xa anh được, nhất là trong lúc này”. Từ đầu hôm tôi đã cố viết cho anh đôi dòng, định bụng sẽ nhờ ai đó trao lại cho anh khi tôi lên máy bay hoặc qua đến Mỹ sẽ gởi cho anh, tôi rút trang thư ra viết thêm “em nhất định ẵm con quay về, không đi nữa, có đi đâu thì đi với anh” (bức thư ngắn ngủi này tôi vẫn còn giữ cho đến ngày nay). Tôi nhờ mẹ tôi trông hộ hai cháu, tôi vào lại trong văn phòng xin người nhân viên trực cho tôi mượn điện thoại gọi xuống Cát Lái. Đã 1 giờ sáng mà điện thoại vừa reng 1 tiếng tôi đã nghe giọng anh trả lời. Tôi vừa mở miệng: “em đây”... là anh đã nói ngay:


- Sáng sớm ngày mai anh sẽ vào đón em và con về, nếu có đi đâu thì cùng đi....”


- Em cũng muốn gọi cho anh biết là em muốn đem con trở về, có đi đâu thì đi cùng với anh, em nhất định không đi một mình đâu, sáng sớm mai anh vào đón em nghe....


- Vậy ngày mai em cứ ở lại đó chờ anh lên đón, đừng đi nữa, anh sẽ lên sớm....


Tôi gác máy, cảm ơn ông nhân viên trực điện thoại rồi quay ra ngoài hiên chỗ các con tôi. Tôi nói lại với mẹ tôi cái quyết định của tôi, mẹ tôi cũng muốn quay trở về nhưng chưa gọi nói cho bố tôi biết. Tôi lại quay vào nhờ điện thoại một lần nữa để gọi cho bố tôi. Gọi cho bố xong, lòng tôi thanh thản lại một chút, nhìn hai con say ngủ, vô tư dưới sương đêm, tôi lầm thầm tự trách mình: “rõ khùng, tự nhiên lại mang con ra đây cho muỗi đốt, ngấm sương suốt đêm”.


Hai em tôi lên máy bay sáng sớm ngày 26 tháng 4, mẹ tôi, cô em kế, tôi và hai con ở lại chờ anh vào đón. Khoảng chín giờ sáng anh với bố đã vào tới. Mới xa nhau có một đêm mà sao thấy anh vào tôi mừng quá đỗi, cứ y như là đã xa nhau từ đời thuở nào rồi! Trong đời tôi chưa có đêm nào dài và căng thẳng cùng cực như cái đêm 25 tháng 4 năm 1975! Thằng Luân ở lại Sài Gòn với ông bà ngoại, tôi và Chinh theo anh về Cát Lái. Đến tối Chinh bắt đầu lên cơn sốt rồi lên sởi, anh nhờ y tá cho uống thuốc nhưng không bớt mà coi bộ càng nặng thêm. Qua ngày 28 tháng 4, đường bộ về Sài Gòn bị cắt, nghe nói Việt cộng đang chiếm chùa Kỳ Quang gần xa lộ chỗ kho hàng Mỹ kế bên Tân cảng. Anh cho hai chiếc giang đỉnh đưa tôi về Sài Gòn để đưa Chinh đi bác sĩ, anh nhờ một ông thượng sĩ đi cùng với tôi (tôi nhớ hình như anh Hoàng Đình Thanh và anh chị Hoàng Đình Tân cùng về Sài Gòn trong chuyến này). Anh dặn đi dặn lại tôi là phải đón cả nhà vô cư xá HQ ngay.


Về đến Sài Gòn tôi đưa Chinh vô bệnh viện Hải Quân ngay, may sao lại được bác sĩ khám và cho thuốc uống liền, chừng nửa tiếng sau thằng bé đã bớt nóng, tôi mang con qua gởi nhà anh chị Khoa (khóa 13) bên cư xá HQ rồi tức tốc ra đón taxi về nhà bố mẹ tôi. Vừa bước vô nhà tôi đã hối thúc bố mẹ và cô em chuẩn bị chạy vào cư xá HQ ngay bây giờ.


Chúng tôi vào đến cư xá khoảng 4 giờ chiều. Quang, em họ anh Khoa cho biết, vì ngại pháo kích nên anh Khoa đã đưa gia đình ra nhà bà con ở ngoài. Tôi sợ qúa nhưng đã lỡ đưa cả nhà vào đây rồi, đành chịu vậy, nhớ lại cái câu “trời kêu ai nấy dạ” hồi còn ở Degi, tôi đâm lì ra. Gia đình cậu Lộc và anh Nga, bà con bên chồng tôi, cũng vào cư xá khoảng 5 giờ chiều, căn cư xá của anh chị Khoa đông ngẹt người.



Độ 6 giờ chiều Việt cộng bắt đầu pháo kích, đạn nổ nghe sát rạt. Cả nhà chui xuống căn hầm núp pháo có chút xíu trong nhà anh chị Khoa, thằng Luân ngộp thở, la khóc rùm trời, bố tôi phải bế nó lên đứng trên miệng hầm. Suốt đêm 28 tháng 4 không một ai chợp mắt được, phần sợ pháo, phần quá chật chội, chỉ có trẻ con ngủ ngon lành, người lớn ngồi dựa vách chờ sáng; suốt đêm hôm đó không bị pháo kích nữa.


Mới tảng sáng, Thiếu Úy Tính - Sĩ quan của Giang đoàn 93 đặc trách chỉ huy các giang đỉnh biệt phái rà mìn cho Ty Quân Cảng - đã ghé lại cho tôi biết là anh vừa liên lạc máy về dặn tôi là cứ ở trong cư xá chờ anh, nếu anh chưa về thì đừng đi đâu cả. Tôi cảm thấy an tâm lắm, nói lại lời nhắn của anh cho cả nhà, cả cậu Lộc và anh Nga.


Suốt ngày 29 tháng 4 tôi thấp thỏm trông anh về, mãi đến 6 giờ chiều vẫn bặt tin, tôi nóng ruột vô cùng, thêm vào đó anh Hoàng Đình Thanh lại chạy tới chạy lui hối tôi nhờ Thiếu Úy Tính cho giang đỉnh đưa cả nhà ra Nhà Bè vì “thằng Ấn đã ra Nhà Bè rồi”. Tôi chỉ biết trả lời anh Thanh là “nhà tôi đã dặn nếu ảnh chưa về thì tôi cứ ở đây chờ, không được đi đâu cả”. Trông anh Thanh như gà mắc đẻ tôi càng nóng ruột thêm.


Anh về tới cư xá khoảng 7 giờ chiều, có Thiếu Tá Qúy (khóa 14), CHT GĐ-91 và 3, 4 nhân viên cùng về với anh, anh cho biết là xa lộ đã khai thông nhưng đường đi vào Sài Gòn kẹt cứng, không nhúc nhích được, anh phải chạy ngược bừa trên đường đi ra, kho hàng Mỹ bị phá, hàng Mỹ đủ mọi thứ được bày bán đầy đường, anh đã ghé mua vài thùng beer và mấy con gà. Anh cho người tài xế đưa Th. T Qúy về nhà và dặn chờ đưa gia đình Th. T Qúy vào cư xá, anh cũng cho mấy người vừa theo anh về Sài Gòn, về nhà đem gia đình vào cư xá ngay, còn dặn nhân viên đem gà xuống giang đỉnh nấu để tối nhậu. Xong đâu đó rồi anh chạy qua nhà anh chị An (anh Nguyễn An, cùng Khóa 13, ở ngay trước nhà anh chị Khoa), chị An cho anh biết là anh An đang ở bên BTL Hạm Đội từ chiều đến giờ chưa thấy về. Anh lấy xe Honda của anh An chạy qua BTL/HĐ, hơn tiếng đồng hồ sau mới thấy anh chở anh An về. Anh cho biết là chiếc cầu từ cư xá qua BTL/HĐ đóng cả hai đầu, không cho ai qua lại cả, anh tưởng bị kẹt lại bên BTL/HĐ, may sao gặp xe của Đô Đốc Minh đi qua, anh níu theo xe Jeep của Đô Đốc Minh, xe của anh Nguyễn Quang Thái (khóa 13) cũng bám sát theo, qua lọt.


(Sau này anh nói lại tôi mới biết là anh An, anh Thái, anh Khoa, anh Sâm, và anh đã bàn bạc, chuẩn bị một kế hoạch di tản, phối hợp với Trung Tá Diệp (khóa 10), CHT Ty Quân Cảng, vào giờ chót, sẽ dùng 2 chiếc tàu dòng xuyên đại dương của Ty Quân Cảng, anh An chạy 1 chiếc, anh chạy 1 chiếc, anh Sâm làm Sĩ Quan hải hành, anh Khoa, anh Thái lo an ninh tình báo, Trung Tá Diệp chỉ huy toàn diện. Anh Nga (Thiếu Tá, TĐT/BĐQ) đã đem về 4, 5 bao bố lương khô tích trữ sẵn trên tàu. Đến giờ phút cuối, nếu sông Sài Gòn bị chận thì anh sẽ dùng giang đỉnh của GĐ-93 đánh mở đường máu để đi ra. Cũng vào giờ chót, kế hoạch bị hủy bỏ, sông Sài Gòn vẫn bình yên nhưng vì một lý do nào đó Trung Tá Diệp đã quyết định ở lại, không đi nữa. Những toan tính “lớn lao” như thế không bao giờ anh cho tôi biết, “cho em biết thì em càng lo thêm chớ có ích gì đâu?”, anh vẫn có cái lối lập luận như vậy).


Người tài xế đưa anh Qúy về nhà đã quay trở lại, cho biết gia đình Th. T Qúy không đi. Anh hỏi tài xế:


- Còn mày? Mày có muốn đi với tao không? Hay là mày muốn tan hàng bây giờ?


- Dạ em xuống giang đỉnh ngủ lại đêm nay, ngày mai kiếm xe về nhà, nhà em trên Thủ Đức.


- Tụi nó nướng gà xong rồi, mày làm vài lon bia với gà nướng rồi chạy qua nhà.


Th. T Thái chở giùm mấy cái vali của ổng qua đây.


- Dạ, em mới dứt ổ bánh mì thịt lúc đưa Th. T Qúy về nhà, em ở đây cho tới khi CHT lên tàu rồi đi kiếm chỗ ngủ cũng được, em chạy qua nhà Th. Tá Thái ngay bây giờ.


- Mày nói với Th. T Thái là tao vô Ty Quân Cảng gặp Tr. T Diệp chút xíu, khi nào xong tao sẽ gọi ổng.


Người tài xế chở 2 cái vali của anh Thái về, chị Thái còn gởi theo cho tôi một miếng phó mát lớn hơn bàn tay, nhìn ngon quá, tôi cắt ngay ra để trên bàn nhưng người lớn chẳng ai động tới, bụng dạ đâu còn nữa mà ăn với uống!


Anh từ trong Ty Quân Cảng (Ty QC cách nhà anh chị Khoa vài trăm thước) về khoảng 10:30giờ tối, có vẻ thất vọng, anh cho mọi người biết là Tr. T Diệp không đi nữa, nghĩa là phải hủy bỏ cái kế hoạch đã định trước. Anh An cũng bỏ ý định ra đi vì cháu lớn đang bệnh. Anh lái xe qua anh Thái, độ vài phút anh quay về ngay và bảo tài xế chở 2 cái vali trả lại nhà Th. T Thái. Anh lại chạy qua nhà anh Sâm, cũng chỉ vài phút anh quay về, anh Sâm cũng quyết định ở lại, anh Khoa thì đã ra khỏi cư xá từ xế chiều. Anh mở lon bia, vừa uống vừa dặn tài xế: “mày chạy xuống giang đỉnh gọi 4 nhân viên - trang bị đầy đủ - lên đây, mời Thiếu Úy Tính lên đây luôn”. Khi người tài xế đi rồi anh quay lại nói cho cả nhà biết là cái kế hoạch do anh cùng các bạn anh dự trù đã hỏng rồi nhưng anh đã có cách khác, xin mọi người cứ bình tĩnh.


Thiếu Úy Tính cùng 4 nhân viên lên trình diện, anh dặn ông Tính: “anh đưa bà già với bà xã anh xuống giang đỉnh ngay, cho nhân viên đưa gia đình xuống luôn rồi cho 2 chiếc rời cầu qua yểm trợ 2 bên đầu cầu Avalanche (cây cầu đi qua BTL/HĐ), tôi sẽ cho 2 nhân viên dùng xe tôi qua bắn khóa, mở cổng cầu, 2 nhân viên còn lại hô lớn lên là “cầu đã mở cửa”, cho dân chúng chạy qua bên kia, anh yểm trợ xong quay lại chờ tôi liên lạc máy là cho ủi bãi, ngay ngã ba trước Ty Quân Cảng để đón gia đình phe ta lên. Nếu có gì trở ngại ở 2 đầu cầu thì bắn chỉ thiên để “hù” thôi, không được bắn ẩu vào dân chúng, chờ lệnh tôi. Đúng 12 giờ, 2 giang đỉnh phải có mặt ở 2 đầu cầu, anh có thắc mắc gì không?”


- Dạ, CHT có tin tức gì của anh Trung tôi không? (HQ Thiếu Tá Trần Văn Trung, K11, cựu CHT GĐ-93, anh ruột của Thiếu Úy Tính).


- Anh Trung và gia đình đã rời Nhà Bè xuống HQ 5 rồi, tôi đã liên lạc được với anh Trung, anh cho bà già hay để cụ yên tâm.


Ông Tính đi rồi, anh quay qua hỏi mấy nhân viên: “tụi mày nghe rõ hết chưa? Có thắc mắc gì không?”


- Dạ không, một nhân viên trả lời.


- Tụi mày đưa gia đình lên giang đỉnh chưa?


- Tụi em độc thân hết, gia đình ở xa, bọn em đi với CHT.


- Được, vậy tụi mày sẵn sàng đi, đúng 12:00giờ, 2 thằng mang súng đi với thằng Hiếu (tên người tài xế), 2 thằng trà trộn vào đám đông đang tập trung trước Ty Quân Cảng, nhớ làm đúng như tao đã dặn, khi dân chúng qua hết bên BTL Hạm Đội kiếm tàu, tụi mày quay lại đây vác giùm tao mấy cái vali xuống giang đỉnh.


- Dạ, tụi em nghe rõ.


- Beer với gà nướng còn nhiều quá trời, tụi mày lai rai đi, còn hơn 20 phút nữa mới tới nửa đêm, không hết thì đem xuống giang đỉnh, tí nữa ra khỏi Nhà Bè rồi tiếp tục.


Thiệt tình tôi cũng hơi bực mình vì cho tới giờ phút này mà anh vẫn còn có thể nhậu nhoẹt được, trong khi mọi người đều thấp thỏm, bất an. Khi mấy người nhân viên vừa ra khỏi cửa, tôi cằn nhằn: “sao lúc nào anh cũng nhậu nhoẹt được hết vậy, bao nhiêu người đang lo muốn đứng tim đây anh có biết không?”. Anh cười: “anh đang cố gắng bình tĩnh được chừng nào tốt chừng nấy, đừng để cho nhân viên thấy mình bối rối, họ có thể bỏ đi hết trước khi mình leo được lên tàu”. Anh Thanh im hơi lặng tiếng từ lúc cùng đi vào Ty Quân Cảng với anh, bây giờ mới lại lên tiếng:


- Tư Lệnh HQ đã cho lệnh tàu rời bến hết rồi, chỉ còn lại mấy chiếc bất khiển dụng, mày định đi bằng giang đỉnh ra Vũng Tàu luôn hay sao?


- Anh trả lời anh Thanh: anh đừng lo, cứ bốc hết gia đình lên đã, xong chạy ngang qua Hạm Đội, có chiếc nào sắp đi thì mình lên, không thì mình chạy luôn ra sông Soài Rạp rồi chận tàu lại leo lên, vài chiến hạm còn ở Nhà Bè chờ cho tàu ra hết rồi mới đi đoạn hậu, tôi nghe chiến hạm gọi nhau ơi ới trên máy 25 để trên xe kia kìa.


- Tần số ở đâu mầy có vậy?


- Thì anh Diệp cho, bao nhiêu tàu nhờ Ty Quân Cảng đẩy, bắt buộc ảnh phải có tần số chớ, HQ-502 còn nằm trong cầu cũng đã gọi nhờ Ty QC đẩy khoảng 1, 2 giờ khuya nay, mình bốc hết gia đình lên rồi ra cập HQ-502 leo lên cũng được, anh bình tĩnh đi, tôi đã nói chuyện với anh Diệp rồi, ảnh giao cho tôi luôn cái đặc lệnh truyền tin của chiến hạm nữa.


- Vậy mà từ tối tới giờ mày làm tao lên ruột, mà chắc ai ở đây cũng lên ruột hết chứ không riêng gì tao đâu.


- Thì tại anh cứ như gà mắc đẻ, chạy lăng xăng, chỉ tổ cho lính nó cười mình nhát.

Tôi se sẽ nhìn qua mọi người một loạt thấy ai cũng có vẻ yên tâm trở lại, cả tôi cũng thế. Hai loạt đạn nổ dòn tan phía cầu qua Hạm Đội, tôi nhìn đồng hồ, đúng nửa đêm, tôi mặc thêm áo ấm cho thằng Chinh, mẹ tôi ẵm thằng Luân, cả nhà sẵn sàng. Anh đang đứng đàng trước dùng máy truyền tin trên xe để liên lạc. Chừng 10 phút sau anh hối mọi người chất hết vali lên mấy chiếc xe jeep (1 chiếc của anh Nga, 1 của cậu Lộc, 1 chiếc của bố tôi), chở xuống bờ ngã ba trước Ty Quân Cảng, mọi người đi bộ, chỉ có bố tôi ẵm thằng Chinh ngồi theo xe. Một chiếc giang đỉnh đã ủi vào bãi, chiếc kia đang bập bềnh giữa dòng. Anh dặn tài xế de xe sát vào trước mũi tàu rồi khuân vali chuyền qua. Không đầy 10 phút đã chuyển xong hết vali lên giang đỉnh, tiếp theo đó là đàn bà và trẻ con lần lượt lên tàu, sau cùng mới tới đàn ông. Nhờ hai nhân viên của giang đỉnh giúp nên chỉ một thoáng là mọi người đã lên được tàu, an toàn. Bãi vắng tênh, trong ánh sáng nhạt nhòa từ Ty Quân Cảng hắt ra, tôi loáng thoáng thấy chú Hiếu tài xế vẫy tay chào vĩnh biệt.


Chiếc giang đỉnh ì à ì ạch mãi một lúc mới ra khỏi bãi, có lẽ vì nặng qúa. Anh dặn Thiếu úy Tính gọi chiếc kia kè theo sau, còn hai chiếc đang cập cầu lập tức tháo dây ra bập bềnh giữa dòng chờ lệnh. Hai chiếc giang đỉnh từ từ ra khỏi ngã ba Ty Quân Cảng chạy về phía hạ dòng sông Sài Gòn. Bấy giờ tôi mới ghé mắt coi lại đồ đạc, tôi hơi ngạc nhiên vì không thấy cái thùng sữa quân tiếp vụ mới mua đem theo cho con ăn. Tôi hỏi anh, anh cho biết là lúc nãy lên tàu thùng sữa bị xoạt đáy lọt hết xuống sông rồi. Tôi sững sờ! Hai đứa con, một đứa 5 tuổi đang lên sởi, đứa kia vừa đầy 3 tháng, thùng sữa lọt hết xuống sông rồi! Trời đất ơi! Ngày mai con tôi khát sữa tôi biết làm sao đây? Tôi chưa hề cho con bú sữa mẹ... tôi khô rang có giọt sữa nào đâu! Nước mắt trào ra tôi cũng chẳng cần lau, anh an ủi tôi: “em đừng lo, ngày mai anh sẽ lo vụ sữa cho con, bây giờ lo chuẩn bị leo lên tàu lớn đã”.


Ra tới giữa dòng, giang đỉnh bị trở ngại, thả bập bềnh một lúc rồi cả 2 chiếc mới cập vào được HQ-502. Leo lên HQ-502 là cả một “công trình”. Tàu 502 cao nghều, giang đỉnh lại thấp lè tè sát mặt nước, cái thang dây cứ đong đưa không ngừng. Anh nhờ mấy nhân viên lên trước để kéo người và đồ lên, kế đến là bố mẹ tôi, mợ Cửu (mẹ anh Nga), sau đó đến trẻ con, đàn bà, đàn ông lên sau cùng sau khi đã chuyển hết đồ đạc lên. Nhờ đi bằng giang đỉnh cập vào tả hạm HQ-502 từ phía ngoài sông nên không bị chen lấn. Anh chờ cho đồ đạc và mọi người lên được hết trên 502 rồi móc túi lấy ra 1 gói giấy trao cho người Trung sĩ thuyền trưởng, tôi còn nghe anh dặn lớn tiếng “ngày mai tụi mày ráng kiếm đồ civil thay rồi tìm đường về quê, đừng về lại Cát Lái nữa nghe”.


- “Dạ, Chỉ Huy Trưởng đi mạnh giỏi”.


Anh leo lên tàu HQ-502, 2 chiếc giang đỉnh tháo dây tách ra, anh đứng nhìn theo, nước mắt chảy dài.


Trên boong tàu 502 đông nghẹt người. Anh “tả xung hữu đột” mới đưa được cả nhà lên khu bên trái của phòng lái, thằng Chinh đang sốt li bì nên anh ẵm con tìm 1 chỗ kín gió cho nó nằm, rốt cục anh chiếm được 1 khoảng trong phòng truyền tin, sát cửa ra vào. Tôi loay hoay lo trải khăn cho 2 con nằm, thằng Chinh nóng hầm hập lại phải nằm trong góc kín bưng vì sợ gió, bố tôi ngồi cạnh trông cháu, thằng Luân nằm ngay bên cửa ra vào cho thoáng một chút, tội nghiệp thằng bé từ tối tới giờ ngủ vùi không hề khóc một tiếng. Xong đâu đấy rồi tôi mới yên tâm lại một chút, vén tay áo xem đồng hồ, hơn 1 giờ sáng rồi, cái ý nghĩ sáng mai con sẽ đói trở lại với tôi, may mà trong cái xách tay của tôi còn 2 chai sữa tôi đã pha từ tối để phòng hờ nhỡ chưa nấu được nước sôi trên tàu.


Nhờ tàu nhỏ đẩy ra khỏi cầu, HQ-502 rời bến khoảng 2:30giờ rạng sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Vì chỉ còn có 1 máy, con tàu rời Sài Gòn chậm chạp như không muốn chia tay, anh lặng lẽ nhìn qua phía Thủ Thiêm một lúc rồi quay lại nói với anh Nga: “nếu tụi nó kích 2 bên bờ sông từ đây ra tới Nhà Bè, nã B40 thì cả tàu lãnh thẹo đủ hết, không riêng gì mình, trời kêu ai nấy dạ, anh dặn cả nhà cứ bình tĩnh, có chết thì chết chìm hết cũng mát mẻ, không sao cả, mình có lo lắng cũng không ăn thua gì, từ chiều tới giờ tàu đi ra nườm nượp mà không có chiếc nào bị bắn hết, chắc không sao đâu”. Tôi thấy anh Nga rất tỉnh táo, có lẽ là do anh đã quen với trận mạc quá rồi, riêng tôi lúc này B40 hay B50 gì cũng mặc kệ, tôi chỉ nghỉ tới cơn khát sữa của hai con tôi ngày mai thôi!


Tàu tắt đèn tối om, lầm lì, chậm chạp rời thành phố, không khí trên tàu mỗi lúc một thêm ngột ngạt khi tàu ra ngang kho 5. Lúc tôi vừa leo lên, boong tàu như một cái chợ vỡ, có lẽ hàng 3, 4 ngàn người, bây giờ im phăng phắc, tôi có cảm tưởng như nếu có một cây kim rơi xuống sàn tàu cũng nghe được nữa. Khi tàu ra khỏi khu kho hàng ở Khánh Hội, hai bên bờ sông lửa cháy sáng rực, căn cứ Nhà Bè cũng rực lửa.


Ta ra đi đêm Sài Gòn rực sáng

Dòng sông quen lửa hực cháy đôi bờ

Vĩnh biệt Thủ Thiêm, Nhà Bè, Khánh Hội

Sài Gòn ơi! Ngoảnh lại mắt hoen mờ


(Trích: 30 năm - Thơ Phạm N. Ấn)


Tàu ra đến cửa sông Soài Rạp khoảng 11:00giờ sáng, một số giang đỉnh đã nằm chờ để chuyển người lên. HQ-502 ngừng lại đón hết dù trên boong đã không còn chỗ chen chân. Tiếng loa phóng thanh vang lên từ đài chỉ huy, yêu cầu đồng bào dọn bớt xuống hầm chiến xa để có chỗ cho 2 chiếc trực thăng đáp xuống sân trước, tôi ngước mắt nhìn lên, 2 chiếc trực thăng đông nghẹt đang quần thật thấp chờ hạ cánh. Độ 10 phút sau 2 chiếc trực thăng đã đáp an toàn xuống sàn tàu. Tôi đứng bên hông phòng lái nhìn xuống sân trước, ngoài người và đồ đạc còn có cả xe Vespa từ trên trực thăng mang xuống nữa. Tội nghiệp cho chiếc vespa, vừa xuống được trên sàn tàu một lúc thì 5, 6 nhân viên đã khiêng ném luôn xuống biển.


Sĩ quan cơ hữu của chiến hạm không còn đủ để đi ca, vài Sĩ quan quá giang phải thay nhau đi ca theo yêu cầu của Hạm Trưởng. Tàu đã ra khỏi cửa Soài Rạp khá xa, anh đi ca trên đài chỉ huy, tôi đang cho con bú chai sữa cuối cùng, lòng lo lắng, rối bời vì nghĩ tới cơn đói của hai con chiều nay, chợt anh chạy xuống nói vội với tôi: “anh đã liên lạc được với Trung Úy Tư quân tiếp vụ ở căn cứ Cát Lái rồi, ông ấy đang đi trên chiếc tàu của người nhái, chừng 30 phút nữa sẽ cập vào để chuyển người qua, ổng sẽ cho mình 1 thùng sữa, tàu mình đang ngừng máy chờ ở đây”. Trời ơi! Tôi mừng qúa đỗi, tôi như chết đi sống lại, bao nỗi lo con đói, con khát phút chốc đã tan biến, tôi lầm thầm tạ ơn trời phật, tạ ơn ông Trung Úy Tư nào đó mà hình như tôi chưa hề gặp trong thời gian tôi ở Cát Lái.


Chiếc LCU cập vào tả hạm HQ-502, chúng tôi đứng chờ trên boong, trẻ con, đàn bà leo lên tàu trước, Trung Úy Tư với thùng sữa hộp còn nguyên si và 2 cây thuốc lá quân tiếp vụ lên gần sau chót. Tôi mừng qúa, mồm lí nhí cám ơn; tôi không còn nhớ tôi đã nói gì nhưng dù tôi có nói ngàn lời hôm đó cũng vẫn không bao giờ đủ để cảm ơn Trung Úy Tư. Anh Tư, nếu anh có đọc được bài này thì xin anh biết cho rằng trọn đời tôi sẽ không bao giờ quên cái ơn của anh trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975.

 


Tàu tiếp tục chạy ra khơi khoảng hơn 1 tiếng đồng thì ngừng lại, thả 1 chiếc tàu con xuống để vớt hai phi công từ 1 máy bay quan sát nhảy dù xuống biển. Hết ca, anh xuống cho biết phi công là 2 anh em ruột bay từ Cần Thơ ra, tàu chỉ vớt được người em, người anh chìm mất xác, không tìm được.


Nguyên ngày 30 tháng 4, tàu 502 không có cơm cháo gì cả, tôi cũng không hề nghe ai than đói than khát, có lẽ cái bàng hoàng, thất thần khi rời bỏ quê hương đã làm cho mọi người tê điếng, không còn nhớ tới đói khát nữa. Dù không nấu nướng, cửa bếp của chiến hạm vẫn mở, nhân viên qúa giang tình nguyện vô bếp nấu nước sôi phân phát cho những ai có con nhỏ và những người có đem theo mì gói. Nhờ những nhân viên GĐ-93 tiếp tế nước sôi đầy đủ, thùng sữa 24 lon mới được Tr. úy Tư tặng nên cả nhà tôi có thể uống sữa cầm hơi được.


Đêm xuống chậm chạp, con tàu càng có vẻ chậm chạp hơn, cơn đói hình như đã bắt đầu hành hạ nên người nào cũng có vẻ mệt mỏi, suốt từ tối qua đến giờ không có một hột cơm trong bụng, ngoại trừ trẻ con, người lớn chỉ có 1 ly sữa cầm hơi. Anh mãn ca xuống khoảng 8, 9 giờ đêm, biển êm, tàu im vắng, anh hút thuốc liên miên, 2 cây thuốc lá quân tiếp vụ của Tr. úy Tư cho anh đã đem phân phối cho nhân viên, chỉ còn lại năm ba gói, tôi cảm thấy dường như anh đang mang trong lòng một nỗi buồn bực gì đó, có lẽ vì đông người nên anh không tiện tâm sự với tôi. Anh quay qua nói chuyện với anh Nga, anh Nga là người anh bà con cô cậu mà có lẽ anh thấy gần gũi hơn cả vì dù anh Nga đi hành quân hoài nhưng anh em vẫn thỉnh thoảng có dịp gặp nhau ở Sài Gòn.


- Hồi tôi mới ra trường, sau khi đi thực tập về, đơn vị đầu đời HQ của tôi là tàu HQ-502 này, làm Sĩ Quan ẩm thực, lo chuyện ăn uống, bây giờ tôi kết thúc cuộc đời hải quân cũng trên con tàu này, mà không chừng lại đói dài, trong khi kho gạo, nhà bếp... tôi đều biết hết, tôi nghĩ có lẽ cũng do một sự sắp xếp vô hình nào đó..., đúng 10 năm…. Giọng anh xa vắng, xót xa....


- Tôi không biết HQ tính đi tới đâu nhưng nếu đói thêm một, hai ngày nữa có thể sẽ có lộn xộn, chú nên bàn với BCH của tàu để đề phòng trước.


- Anh nói đúng lắm, tôi đã nói chuyện với Hạm Trưởng, ngày mai tôi sẽ nhờ mấy thằng em giúp nấu cơm phát cho mọi người, gạo còn cả trăm bao trong kho, trong khi đó lính cơ hữu của tàu này chỉ còn lại chừng 10 người, chia phiên nhau lái tàu còn chưa đủ.... Tất cả chiến hạm của HQVN đã có lệnh tập trung tại Côn Sơn rồi sau đó sẽ quyết định đi đâu. Có lẽ qua vịnh Subic ở Phi Luật Tân, ngày mai có thể chiến hạm Mỹ sẽ tiếp tế.


Đêm trôi qua nặng nề, chậm chạp; biển phẳng lì không một gợn sóng, âm u đến rợn người. Tôi ngồi dựa lưng vào cánh cửa phòng truyền tin, không đói nhưng những căng thẳng, mệt mỏi đã làm cho mắt tôi cay sè, nặng trĩu; tôi nhắm mắt cố ngủ một chút mà vẫn không ngủ được. Đêm ngoài khơi mát rượi, biển tối om không một bóng ghe tàu qua lại, trên boong tàu 502 im vắng lạ lùng, có lẽ mọi người đều đang đói, mệt, và đang nghĩ tới Sài Gòn. Trưa nay, khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, mọi người đều sửng sốt và tuyệt vọng nhưng có lẽ đến bây giờ, đêm xuống, trên con tàu cô đơn ngoài trùng khơi không còn bến bờ để quay trở lại nữa, cái nỗi đớn đau nước mất, nhà tan mới bắt đầu thấm vào từng thớ thịt, thấm vào từng hơi thở. Hơn 4, 5 ngàn người đang rời bỏ quê hương trên con tàu này và còn biết bao nhiêu người đang bỏ nước ra đi trong đêm nay, biết bao nhiêu cặp mắt đang âm thầm rơi lệ khóc cho chuyến đi lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, biết bao nhiêu nước mắt đã đổ xuống biển Đông trong đêm nay! Đêm đen kịt, tàu lại tắt đèn, tôi không nhìn được nét mặt của bố tôi, của chồng tôi, của những người lính chiến đã một thời đổ máu để bảo vệ quê hương nhưng tôi cũng biết chắc rằng không những mắt họ đang đổ lệ, mà lòng họ cũng đang nát tan vì cuộc bỏ chạy tức tưởi này.


Tôi đang chợp mắt thiu thiu ngủ thì như có một thứ linh tính nào đó chợt đánh thức tôi dậy, như một thói quen của bất cứ người mẹ nào, tôi quơ tay thăm chừng con tôi thì cũng vừa gạc lệch đi được một bàn chân mang giày đang giẫm xuống ngực con tôi, tôi la toáng lên, anh đang ngồi bên ngoài cửa vội vàng chạy vào với cây đèn pin, tôi bù lu bù loa: “có người đạp trúng lên thằng Luân rồi!”, thằng bé lại nín thinh không la khóc gì cả làm tôi càng điếng hồn thêm, cái ý nghĩ “thằng bé tắt thở rồi nên mới im ru như vậy” làm xương sống tôi lạnh ngắt. Anh rọi đèn pin, bật điện trong phòng truyền tin, tôi ẵm con dậy, thằng bé vẫn ngủ vùi, lại thoáng nét cười trên môi, tôi muốn chắc ăn, để tay trên mũi thăm xem con còn thở không, thằng bé vẫn thở đều, tôi nhìn xuống ngực con, chiếc áo trắng in rõ cái dấu giày trên ngực, anh lại nói đùa: “thằng nhỏ mới 3 tháng mà cũng biết chịu đựng gian khổ khi chạy giặc, từ hôm qua đến nay không nghe nó khóc một tiếng”.


Sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975, biển êm đềm không một gợn sóng, trời trong vắt không một chút mây nhưng tôi chắc chắn trong lòng của những người vượt biển hôm nay đang dậy sóng. Tôi nhìn bố mẹ tôi, nhìn chồng tôi, nhìn những người thân... sao ai ai trông cũng hốc hác, ai ai trông cũng già hẳn đi cả 10 tuổi. Không, không phải tại đói, mới có 1 đêm, mà lại có uống sữa, đâu đến nỗi nào.... Cái nỗi đau mất nước đã làm cho mọi người bơ phờ, tan nát... những cặp mắt sâu hoắm còn vướng vất nước mắt đã khóc từ đêm qua, tự nhiên nước mắt tôi muốn trào ra, tôi cúi xuống đưa tay sờ trán để thăm nhiệt độ của đứa con lớn, vừa cũng để che dấu hai dòng nước mắt đang ròng ròng đổ xuống. Thấy tôi khóc anh lại tưởng bệnh tình thằng Chinh nguy ngập hơn, anh cúi xuống ôm con: “để anh đưa con xuống phòng ăn sĩ quan, sáng nay có bác sĩ khám bệnh, cho thuốc khẩn cấp tại đó”. Tôi gởi thằng Luân cho mẹ, đi theo anh xuống phòng ăn sĩ quan của tàu HQ-502. Một Đại úy bác sĩ bộ binh đang khám bệnh trong phòng ăn, chúng tôi chờ khoảng 10 phút đã được gọi vào, BS khám qua loa và dặn cứ tiếp tục cho uống thuốc cũ, không có gì nguy kịch đâu. Tôi bước ra khỏi phòng ăn sĩ quan lòng nhẹ đi được một chút vì con tôi đã qua được cơn ngặt nghèo. Anh quay qua tôi: “lúc nãy em khóc làm anh tưởng thằng Chinh qua không khỏi chuyến đi này”. Tôi nhỏ nhẹ: “em không ngờ mà cũng không tưởng tượng nổi là chỉ trong phút chốc bao nhiêu thứ đã mất hết, em nhìn bố, nhìn anh, nhìn bao nhiêu người lính... trong một buổi đã biến thành những kẻ lưu vong không còn đường về. Phần anh, em cũng không thể ngờ là anh đã bắt đầu và kết thúc đời thủy thủ của anh một cách lạ lùng, tức tưởi trên cùng con tàu này.” Tôi ngẩng lên nhìn anh, nước mắt anh lưng tròng. Anh cũng khóc chứ phải riêng gì tôi đâu!


Xế trưa ngày 1 tháng 5, toán người nhái và nhân viên các giang đoàn đi quá giang đã phối hợp nấu cơm và phân phát cho mọi người, mỗi người được 1 vắt cơm cỡ bằng ba quả trứng, ăn với chút muối bột. Nguyên ngày 30 tháng 4 và gần trọn ngày 1 tháng 5 nhịn đói nên mọi người đã hân hoan đón nhận phần cơm “cao lương mỹ vị” đó.


Chiều ngày 1 tháng 5 tàu đến ngoài khơi Côn Sơn, tôi nhìn chung quanh trên mặt biển, hàng mấy chục con tàu của HQ đang ngưng máy bập bềnh, chùm đảo Côn Sơn lờ mờ xa xa bên hữu hạm. Anh từ trên đài chỉ huy xuống hối thúc mọi người chuẩn bị để đổi tàu. Anh cho biết là anh vừa liên lạc được với HQ-228, Hạm Trưởng là bạn thân cùng quê Quảng nam, trước anh 1 khóa, chừng 20 phút nữa HQ-228 sẽ cập vào đón.


Khi HQ-228 cập vào, người quá giang trên HQ-502 nhảy qua ào ào, gia đình anh Nga, cậu Lộc cùng 5, 7 nhân viên GĐ-93 cũng qua được, riêng chúng tôi, một đứa con bị bệnh, một đứa mới 3 tháng nên chỉ có bố mẹ, em tôi và 1 con tôi qua được, chúng tôi và đứa con lớn chưa kịp qua thì HQ-228 đã tháo dây tách ra khỏi HQ-502, Hạm Trưởng HQ-228 (HQ Th. T Nguyễn Hoàng Be) đứng trên đài chỉ huy nói vọng qua với anh: “mày chờ bên đó, tao sẽ tìm cách đón mày qua sau, bây giờ người qúa giang nhảy qua đông qúa, tàu tao lo không xuể, tao phải tách ra ngay”. Tôi đâm lo, tôi với anh và 1 đứa con lại kẹt lại bên này.... Chừng 20 phút sau, một chiếc tàu nhỏ cập vào để chuyển đồ tiếp tế từ tàu Mỹ cho HQ-502, anh đã liên lạc máy trước nên sau khi tiếp tế xong, chiếc tàu này đã đưa chúng tôi qua HQ-228.


So với HQ-502, HQ-228 là 1 thiên đường nổi. Con tàu tuy nhỏ hơn nhiều nhưng cả người quá giang và thủy thủ đoàn chỉ có khoảng 150 người, tàu đang đi công tác vùng Cần Thơ, vừa tiếp tế xong là trực chỉ ra khơi, nước ngọt, gạo, thực phẩm đầy đủ, khi ra đến biển rồi HQ-228 lại còn đón ghe lưới mua thêm hơn 100,000 đồng cá tươi (những chi tiết này do HT HQ-228 cho chồng tôi biết).


Đại gia đình tôi được Hạm trưởng HQ-228 dành cho 1 khu phòng ngủ hạ sĩ quan, giường nệm hai tầng, nước non không bị giới hạn khắt khe như bên HQ-502. Bữa cơm tối hôm đó có cá chiên, rau, canh... chạy tỵ nạn kiểu này có lẽ tôi đi cả tháng cũng không sao.


Khoảng 9 giờ tối ngày 1 tháng 5 năm 1975, Hải Quân cho 1 vài chiếc tàu nhỏ quay về Sài Gòn chở theo số người không muốn đi tỵ nạn. Vì đang đi công tác rồi đi luôn, không đem được gia đình theo nên trên HQ-228 có nhiều người đã quay về, cái phút từ biệt, kẻ ở người đi của những người lính đã từng phục vụ cùng đơn vị thật đau lòng, tôi đứng chết lặng bên cạnh chồng tôi, nước mắt cứ tuôn ra.... Khi chiếc dây cuối cùng của con tàu đưa những người trở về được tháo ra, Hạm trưởng HQ-228 mắt đẫm lệ nói với chồng tôi: “mày lên đài chỉ huy với tao một chút”....


Hơn 11:00giờ đêm anh trở về cho biết là Hạm trưởng nhờ anh cho nhân viên Giang Đoàn 93 chia nhau đi ca lái tàu, anh thay thế giúp anh Be trên đài chỉ huy, anh Be sẽ lo an ninh và vận động tinh thần binh sĩ để ngăn ngừa lộn xộn và đừng có ai đòi trở về giữa đường nữa; 12:00giờ đêm nay đoàn tàu của HQ/VNCH sẽ lên đường trực chỉ vịnh Subic ở Phi Luật Tân.


Đèn trong phòng ngủ sáng trưng, tôi lặng lẽ nhìn thoáng qua từng người, từ bố tôi, chồng tôi, anh Nga, cậu Lộc... nước mắt như chực tuôn ra từ những cặp mắt nghẹn ngào tức tưởi đó. Còn ít phút nữa là nửa đêm, tôi sắp thực sự vĩnh viễn rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, rời đi trong đêm tối mịt mùng, đến nỗi hòn đảo chót của quê hương cũng mờ mịt không còn nhìn được một lần cuối cùng; vĩnh biệt Sài Gòn, vĩnh biệt quê hương, vĩnh biệt... tất cả...! Thế là hết! Sáng mai chung quanh tôi là trùng khơi, không bờ không bến, những con tàu ra đi trong đêm nay sẽ không còn có dịp tới lui trên vùng sông biển của quê hương một lần nào nữa. Lòng của những người thủy thủ, như chồng tôi, hiện giờ ra sao? Có nỗi đau nào bằng nỗi đau mất quê hương, mất sông, mất biển, mất cả bến bờ để quay về...? Anh lặng thinh nhưng tôi biết lòng anh đang chết điếng, tôi muốn an ủi anh vài câu nhưng chính tôi cũng có khá hơn gì đâu, tôi cũng đang đớn đau cùng cực, tôi biết phải nói gì đây? Nói gì để an ủi anh, để tự an ủi mình; mắt tôi mở thao láo, nhìn sững vô hồn vào tấm vải bố giường tầng trên, nước mắt cứ tuôn....

Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975, trời quang đãng không một gợn mây, biển êm ru không có chút sóng, những con tàu của HQVN sắp thành hai hàng chạy song song nhau, tôi đứng đàng sau lái nhìn ngược lại hướng tàu đang đi tới để cố mong còn nhìn được một chút gì của quê hương, một hòn đảo nhỏ, một chiếc ghe câu... một chút gì để tôi còn có thể bám víu với cái ý nghĩ “mình vẫn còn ở Việt Nam”; nhưng không! Chỉ có biển với trời và những con tàu mệt mỏi, não nề, chậm chạp tiến về phía trước, mỗi lúc một xa... quê hương đã mất hút, đã xa ngàn trùng ở phía sau rồi!!!


Trên tàu HQ-228 có một Đại úy Bác sĩ thuộc binh chủng nhảy dù qúa giang (BS Tô Phạm Liệu), ông Bác sĩ này không đem được vợ con theo mà lại đem được mấy chai rượu Pháp, HT HQ-228 cũng còn vài chai cognac, thế là đêm đêm mấy ông tụ lại trên đài chỉ huy để nhậu, HT HQ-228 nói là uống rượu để tiêu sầu vì vợ con anh ấy còn kẹt lại ở Sài Gòn, BS Liệu cũng thế. Thằng Chinh, con lớn của tôi cũng nhờ BS Liệu săn sóc mỗi ngày nên cũng đã khá ra nhiều lắm, vài ngày sau khi qua HQ-228 tôi đã có thể dắt con đi dạo ở sân sau của chiến hạm để cho con hong chút nắng buổi sáng theo lời khuyên của BS Liệu. (Thân mẫu và một người em ruột của BS Liệu sau này định cư tại Escondido, CA, một thành phố chỉ cách San Diego 12 miles, năm 1993 BS Liệu qua thăm mẹ và em, gặp lại chồng tôi, hai người đã nhậu suốt một đêm. Khi ở trên tàu 228 thì uống rượu tiêu sầu, gặp lại nhau thì uống mừng hội ngộ, mấy ông “dân nhậu” luôn luôn có 1001 lý do để nhậu).

 


Xế trưa ngày 7 tháng 5 năm 1975 đoàn tàu của HQVN đã dừng lại trước cửa vịnh Subic, bập bềnh suốt 2, 3 tiếng đồng hồ không thấy động tịnh gì cả. Hạm Trưởng HQ-228, chồng tôi, BS Liệu cùng một số Sĩ quan tụ tập trên đài chỉ huy, có lẽ để chờ một lệnh gì đó. Mãi đến gần 5:00giờ chiều anh mới xuống cho cả nhà biết là chính phủ Phi Luật Tân không đồng ý cho các chiến hạm của HQVN tiến vào vịnh Subic với quốc kỳ VN mà phải đổi qua treo cờ của Hoa Kỳ. Một buổi lễ hạ kỳ tập thể cuối cùng cho tất cả chiến hạm HQVN đang được các ông lớn của HQVN bàn thảo, đồng thời ông Trần Văn Phú (Richard Armitage) sẽ liên lạc với các giới chức của HQHK để nhờ họ chuẩn bị mọi thứ (như cầu tàu, tàu đẩy (nếu cần), cờ HK, trật tự trên bờ khi đổ người tỵ nạn lên...) cho các chiến hạm của HQVN vào cập bến Subic. ( Ông Richard Armitage là một Sĩ Quan HQHK đã phục vụ 4, 5 nhiệm kỳ cạnh HQ Việt Nam, năm 1971-1972 ông là Cố vấn của chồng tôi ở Duyên đoàn 21; Trần Văn Phú là tên VN do ông tự đặt...). Sau lễ hạ kỳ Việt Nam, chiến hạm VNCH sẽ neo bên ngoài vịnh Subic đêm nay, sáng mai thượng cờ Mỹ vào cập cầu Subic, dân tỵ nạn sẽ được sang qua tàu dân sự Mỹ ngay để đi qua đảo Guam.


Vậy là chỉ còn đêm nay thôi! Đêm cuối cùng của những người tỵ nạn trên những con tàu đã mang quốc kỳ VNCH từ bao nhiêu năm nay, bây giờ sắp sửa vĩnh viễn hạ xuống, những con tàu đã bao nhiêu năm ngang dọc trên sông nước quê hương, những con tàu đã một thời ôm ấp, nuôi nấng cuộc đời thủy thủ của chồng tôi, của bao nhiêu người thủy thủ ôm mộng hải hồ..., và cả tôi nữa trong chuyến hải hành cuối cùng vĩnh viễn xa lìa sông nước Việt Nam này. Ngày mai tôi sẽ chuyển qua tàu Mỹ, con tàu lạ hoắc sẽ đưa tôi đi qua một vùng biển cũng lạ hoắc, không còn một mảy may hơi hướm quê hương.


Sáu giờ chiều, lễ hạ kỳ tập thể cuối cùng của các chiến hạm đã đến. Tôi ôm con đứng đằng sân sau cùng với những người dân sự quá giang, tất cả quân nhân, không phân biệt binh chủng, xếp thành nhiều hàng ngang, mắt hướng về phía quốc kỳ. Khi lệnh hạ kỳ ban ra từ hệ thống phóng thanh của chiến hạm, những người lính nghiêm chỉnh chào kiểu nhà binh, quốc ca Việt Nam vang lên, tôi đã nhận ngay được giọng ca mang đầy nghẹn ngào, đầy nước mắt. Bài quốc ca chấm dứt, mắt tôi đẫm lệ, vẫn ôm con đứng chết lặng đàng sau tàu HQ-228, anh quay lại bên tôi, tháo cặp lon trên cầu vai, tháo luôn cái huy hiệu Hạm trưởng trên nắp túi bên trái, bỏ tất cả vào chiếc nón lưỡi trai, mắt đầm đìa nhìn một lần cuối cùng rồi ném nón xuống biển; tôi quay nhìn xuống biển, bao nhiêu lon, nón bập bềnh chưa chịu trôi xa, như còn luyến lưu tội nghiệp cho những đôi vai đã bao năm cưu mang nhọc nhằn, quen thuộc của những người thủy thủ. Tôi nhìn quanh, chung quanh tôi bây giờ không còn một đôi mắt nào ráo lệ.


Lon nón ngập ngừng ta giã biệt

Trả đời thủy thủ lại biển Đông

Sóng ơi xin cuốn về bến Việt

Bao dòng nước mắt khóc non sông


(Trích: Cảm Tác-Thơ Phạm N. Ấn)


Không biết những lượn sóng đêm nay ngoài vịnh Subic có cuốn về nổi bao nhiêu dòng nước mắt đang đổ xuống biển Đông khóc cho non sông Việt Nam chăng?


Phạm Thị Bích-Vân

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 201 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 1.207 seconds.