Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 201 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 07/Dec/2015 lúc 11:52am

Hạt Bụi Nào Trong Mắt 


Chiều thứ Hai đi làm về Bill nhận được lá thư của gia-đình từ Việt-Nam. Vừa bóc thư Bill vừa lầm bầm:
– Không biết kỳ này ông già lại ca bản gì nữa đây.
Những hàng chữ viết nắn nót trên tờ giấy mỏng như đập vào mắt Bill:

Bân con,
Bố suy nghĩ mãi rồi mới viết lá thư này trong lúc buồn buồn nhớ tới các con. Bố đặt tên con là ‘Bân’, chữ ‘Bân’ (斌) có nghĩa là ‘lịch thiệp’ và có chữ ‘Văn’ đứng cạnh vì bố hằng mong mai sau lớn lên con sẽ theo con đường văn chương, làm rạng danh dòng họ Nguyễn Hữu, một giấc mơ mà bố ôm ấp nhưng biết đời mình không thể đạt thành.

Như con biết, 17 tuổi bố bỏ học ra chiến khu, theo kháng chiến chống Pháp. Tuổi trẻ của bố là những ngày nằm gai nếm mật, tưởng là đóng góp được chút gì cho quê hương, nhưng rồi một chiều chợt thấy mình bơ vơ lạc lõng trong đám người không còn lý tưởng quốc gia. Bố trốn về thành, mang nỗi buồn ‘sinh lầm thế kỷ’, dở thầy dở thợ, vất vả với đời sống, rồi cuối cùng trở thành anh công chức quèn, lấy vợ, nuôi con, và mong cho con nối được giấc mộng không thành của đời mình.

Khi con bước chân vào đại-học, bố đã vui mừng tưởng rằng con sẽ thành người như bố ước mơ. Tiếc thay vận nước điêu linh, con cũng như bao nhiêu thanh niên đều phải thi hành nghiã vụ, và rồi trôi nổi tới phương trời xa! Bố mẹ ngày ngày chờ con về, và ngày con trở về thăm nhà lần đâu tiên bố đã để rơi giọt nước mắt mừng vui trên đôi má nhăn nheo. Nhưng rồi Bố nghe con nói về nếp sống mới, và bố ngỡ ngàng. Không, bố không còn kỳ vọng có con làm rạng danh dòng họ Nguyễn Hữu như bố từng mơ ước trước đây, nhưng có gì như hụt hẫng mỗi lần cha con chuyện trò.

Ngày xưa có lần bố đạp xe đi làm, bị một chiếc xe chở đầy lính Mỹ vượt qua mặt, những người lính cười nói ồn ào, vứt xuống lòng đường thanh kẹo cao-su như bố thí, bố đã tức tủi nghẹn ngào. Ngày con về, nói cuời hả hê với những danh từ xa lạ, bầy ngổn ngang những món quà đắt giá cũng làm bố ngỡ ngàng. Nhưng bố chỉ thật sự chua xót khi dơ tay vuốt tóc đứa con trai của con. Tên nó là gì nhỉ, Tim hay Tím gì đó. Nó lắc đầu tránh bàn tay của bố và lầu bầu cái gì đó mà bố không hiểu. Bố biết là có lẽ từ đây giòng họ Nguyễn Hữu sẽ không còn trên thế gian!
Con à, có lẽ bố già quá rồi nên không còn thích nghi với những thay đổi của cuộc sống. Bố nhìn con, nhìn cháu và lòng bố xót xa. Con bây giờ là Bill chứ không phải là Bân. Tóc con cột đuôi gà chứ không còn hớt cao như xưa, thế nhưng tóc của vợ con lại ngắn ngủn, nửa nâu nửa vàng, ôm sát khuôn mặt kiêu kỳ . Thằng Tim ‘Hey man’ chứ không “Thưa bố’ như con thủa nào. Cuối đời mà bố vẫn bơ vơ. Bố nói thế, con hiểu không Bân?

Tuy nhiên bố cũng cám ơn các con rất nhiều. Tiền các con gửi về giúp bố mẹ hàng tháng đủ cho bố mẹ sống thoải mái lúc tuổi già. Căn nhà nhỏ gần rạch Thị-Nghè khang trang hơn cũng là nhờ các con. Chiều chiều bố đứng nhìn dòng nuớc bố thấy lòng mình cũng dịu dàng như con nước trôi.

Bây giờ đã gần ngày Noel. Bên phương trời đó có lẽ các con đang bận rộn mua sắm, hội hè. Bố bây giờ ít ra khỏi nhà. Ngay cả những ngày Tết bố cũng chỉ thắp hương khấn ông bà, xin các người tha thứ, và dù sao đi nữa cũng xin phù hộ cho các con ở phương xa.


Bố chỉ cầu mong sao cho gia đình con luôn luôn đưọc hạnh phúc, thuận vợ thuận chồng. Và nếu bố được khuyên con đôi lời thì bố mong rằng con hãy nghĩ tới cội nguồn. Dù sao đi nữa con vẫn là người Việt da vàng, cố giữ lấy phần nào nếp sống của tổ tiên.

Lần tới con có về thăm nhà con cố đưa bố ra ngoài Bắc. Bố muốn về thăm lại núi Ba Vì và quê Bất Bạt một lần trước khi nhắm mắt xuôi tay. “Bên này đất nước nhớ thương nhau”. Chúng mình cùng quê với Quang Dũng đó con.
Chúc các con những ngày vui.
Bố của con,
Nguyễn Hữu Cầu.

Gấp lá thư đút vào túi Bill thở dài:
– Ông già càng ngày càng lẩn thẩn. Không biết là sống thêm được bao năm nữa.
Bỗng nhiên Bill chợt bùi ngùi nghĩ thầm:

– Ngày xưa ông chỉ mong mình đậu Cử Nhân văn chương, đi dạy học, sống đời thanh bạch, thế nhưng lưu lạc sang xứ này mình lại kiếm ra khối tiền, nhưng chỉ có mỗi cái bằng Master … Card nên ông ấy vẫn buồn. Thôi, sang năm mình về một mình, không mang theo vợ con, nhất là cái thằng Tim cà-chớn, rồi đưa ông ra Bắc thăm quê hương như ông ấy muốn!
Bill ngồi xuống bàn, cầm bút định viết vài hàng trả lời bố, nhưng một ý tưởng chợt lóe ra trong đầu, Bill vỗ bàn:
– Tại sao mình không mời ông già sang chơi với mình ít lâu. Biết đâu chừng những gì ông già thấy tận mắt ông sẽ hiểu thêm về đời sống ở Mỹ, sẽ thông cảm và thương yêu con cháu hơn.

*****
Cụ Cầu leo lên chiếc xe Van, thắc mắc:
– Sao anh lại phải đi cái ‘xe tải’ như thế này? Không đủ tiền mua xe nhỏ hả con?
Bill mỉm cười:
– Ở đây ai có ‘xe tải’ là khá đó bố, còn xe nhỏ thì ai mà chả có! Cả nhà đều muốn ra phi trường đón bố nên con phải lái chiếc xe lớn này.
– Thế hả? Bố cứ tưởng …
Cụ Cầu nhướng mắt nhìn ra ngoài. Sao chẳng có ai đi bộ nhỉ, mà toàn xe hơi không à, lâu lâu mới có chiếc xe gắn máy, mà sao xe gắn máy lại chạy nhanh hơn cả xe hơi, ăn mặc thì cứ như thằng điên, đầu còn đội cả nón sắt!
Xa lộ 101 kẹt cứng, chầm chậm nhưng rồi Bill cũng về đến nhà ở San Jose. Bill thở phào đỡ bố ra khỏi xe:
– Nhà mình đây. Bố nghỉ cho đỡ mệt rồi sẽ tính sau.
Cụ Cầu ngơ ngắc nhìn căn nhà to lớn trên sườn đồi. Thế này thì ở sao cho hết. Nhà chúng nó có bốn người. Con thì một đứa đi học xa, chỉ còn một đứa ở nhà. Cụ nhìn con:
– Này anh Bân, thế cái nhà này bao nhiêu tiền?
Bân thở ra:
– Vài trăm ngàn bố ạ.
– Vài trăm ngàn? Thế tiền đâu mà lắm thế.
– Tiền nhà băng cho muợn. Ở đây ai cũng nợ cả, bố ạ. Mình trả góp hàng tháng mà!
– Thế anh làm bao nhiêu tiền một tháng cho đủ để trả tiền lời.
– Vài ngàn thôi. Nhưng con dặn bố thế này nhé. Bố hỏi con làm bao nhiêu một tháng thì được, chứ đừng hỏi người quen. Ở đây họ kỵ những câu hỏi như vậy, không như ở VN mình.
– Thế à. Lạ nhỉ …


Phải mất đến cả tháng cụ Cầu mới quen dần, mới không còn lúng túng với vòi nước nóng lạnh trong phòng tắm, mới biết làm thế nào để hệ thống báo động không kêu ầm ĩ khi mở cửa ra vào, mới hết giật mình vì tiếng điện thọai reo, và mới dám nhấc máy nghe xem có phải Bân gọi từ sở về. Những náo nức ban đầu khi Bân đưa cụ đi thăm Little Sài-Gòn, thử thời vận ở Las Vegas, đã nhạt nhoà. Cụ bắt đầu cảm thấy hiu quạnh. Hàng ngày hai vợ chồng Bân đi làm, và Tim đi học, chỉ còn mình cụ quanh quẩn trong nhà xem mấy cuốn băng nhạc cũ, hoặc thơ thẩn ngoài sân nhìn hoa cỏ. Hàng xóm chẳng quen ai. Lâu lâu có ông Ấn Độ già đi ngang nhà nhe hàm răng móm mém cười, nhưng hai người ngôn ngữ bất đồng, chẳng nói với nhau được một câu.

Buổi chiều Tim đi học về là nó trốn biệt trong phòng, có hỏi nó câu nào thì cũng như không. Thằng bé ú ớ khoa chân múa tay, hoặc chỉ toét miệng ra cười!
Bân thương bố nên dắt cụ đi bộ ra đường lớn, chỉ cách cho cụ đi xe buýt tới khu chợ VN để cụ đi dạo, và nhặt báo chợ về đọc cho đỡ buồn. Bân ghi số điện thoại nhà, điện thoại sở, đưa cho cụ và dặn dò:
– Bố cứ leo lên xe buýt, xuống phố chơi cho vui. Có lạc thì gọi điện thoại cho con, hoặc cứ ngồi trên xe buýt, cuối cùng xe cũng về đến chỗ cũ! Đừng sợ bố ạ.
Thấy Bân dặn dò mình như con nít, cụ Cầu vừa buồn cười, vừa tức:
– Có sợ cái ‘đếch’. Núi rừng Bắc-Việt tôi còn biết đường đi. Phố xá ở đây rộng rãi, đường trải nhựa, đi dễ như bỡn. Anh cứ để mặc tôi!

Cụ Cầu nói thế nhưng rồi hai lần Bân phải lái xe tới đón cụ về. Lần thứ nhất cụ nhởn nhơ đi bộ từ nhà ra đường lớn rồi lang thang sao đó đi luôn lên xa lộ 680! Cụ bị cảnh sát giao thông chặn lại, và mặc người cảnh sát nói gì cụ cứ lắc đầu, đưa cái ID card ra như thể là bị hỏi giấy tờ ở VN. Họ đành ‘bắt’ cụ về station, tìm thông dịch viên Việt-Nam, lúc đó cụ mới đưa số điện thoại ra để cho họ gọi Bân đến đón cụ về.

Lần thứ hai cụ ngồi trên xe buýt, nhưng quên chỗ xuống xe. Xe chạy tuốt lên đến tận Menlo Park rồi ngừng lại không chạy nữa vì cuối đường, và tài xế hết phiên! Cụ xuống xe, tìm điện thoại công cộng gọi cho Bân, nhưng không hiểu operator muốn nói gì nên đành chịu đứng đó, cứ thấy người da vàng nào là lên tiếng gọi “Ông ơi cho hỏi thăm” hoặc “Bà ơi cho hỏi thăm”. Mấy tiếng đồng hồ sau mới có một cô bé Việt-Nam đi qua, cô ấy giải thích cho cụ là cụ đã sang area code 650 rồi chứ không còn ở vùng 408 nữa nên opeartor nhắc cụ bỏ thêm tiền mới gọi được. Cô gái giúp cụ gọi Bân, và về đến nhà cụ cứ tấm tắc:
– Không biết con cái nhà ai mà tử tế thế. Lại không nhận cả tiền gọi điện thoại mình đưa trả.
Bân hỏi:
– Thế bố có hỏi tên và số điện thoại của cô ấy không để con gọi cám ơn.
Cụ Cầu cười:
– Sợ vãi đái nên chẳng nhớ gì!

Sau hai tai nạn đó cụ Cầu hết muốn đi ‘giang hồ’ một mình. Bân sợ bố buồn nên xin nghỉ phép nghỉ, đưa bố lên Seatle thăm người bạn già nhiều năm không gặp. Bác Bảo nằm liệt giường trong nhà già, bật khóc nức nở khi thấy bạn vào thăm. Cụ Cầu cũng rớt nước mắt nắm tay bạn:
– Cũng đến hơn chục năm rồi mới gặp lại bác. Nghe tin bác bị bệnh mà không ngờ đến nông nỗi này.
Bác Bảo cố cầm nước mắt:
– Khổ lắm bác ạ. Chỉ muốn chết cho nhẹ nợ.
– Giời bắt sao thì đành chịu vậy thôi. Thế các anh các chị ấy có vào thăm thường không?
– Có bác ạ. Cuối tuần nào chúng nó cũng thay nhau vào thăm. Ngày thường đứa nào cũng bận đi làm, đi học, chẳng có ai ra vô, chỉ có mấy bà y tá Mỹ đen lâu lâu vào lật mình như lật con nít ấy.


Bân và Phú, người con trai bác Bảo, bỏ ra ngoài để cho hai người bạn già nói chuyện tâm tình. Phú thở dài:
– Thế nào cụ cũng cho mình là bất hiếu. Nhưng không làm được gì hơn anh ạ. Tôi đã nghĩ đến chuyện đưa ba tôi về VN, nhờ một người họ hàng xa chăm sóc để cụ có người chuyện trò hàng ngày, thế nhưng vẫn không đành lòng vì xa xôi quá, chúng tôi làm sao mà thăm viếng thường xuyên. Đằng nào cũng khổ. Ông cụ nhà anh còn khoẻ quá, thân hình thẳng băng, và bước chân còn vững trãi.
Bân gật đầu:
– Vâng. Bố tôi còn khoẻ, nhưng tuổi cũng đã cao. Chỉ là vấn đề thời gian. Trước sau gì rồi chúng ta cũng sẽ có cùng một vấn đề.
Cụ Cầu mắt đỏ hoe, câm nín trên đường về. Lâu lâu cụ thở dài. Xe chạy qua một rừng thông cụ nói với con giọng buồn buồn:
– Cảnh ở đây đẹp quá. Cứ như Đà-Lạt ở Việt-Nam mình. Thế nhưng cô đơn trong nhà già thì thật là đáng sợ. Cảnh đẹp mà làm gì, và cuộc đời đến lúc này còn có gì để tiếc thương.
Bân cũng không biết nói gì hơn, nghĩ thầm, không biết mai sau chuyện gì sẽ xảy ra cho bố mình, và cho cả chính mình!


*****

Cụ Cầu nhất định đòi về VN ngay chứ không ở hết 6 tháng như dự trù. Cụ bảo vợ chồng Bân:
– Bố nóng ruột quá. Vẫn biết mẹ các con rất khỏe mạnh nhưng đi lâu bố chẳng yên tâm. Các con lấy chỗ máy bay cho bố về. Bố cũng đã thấy nước Mỹ. Ngày xưa có bao giờ nghĩ rằng có ngày mình được đến chơi đất nước này. Bà nội con suốt đời không ra khỏi cổng làng. Bố như thế cũng là mãn nguyện lắm rồi.


Bân nài nỉ mãi nhưng cụ Cầu không thay đổi ý muốn nên đành lòng đưa bố ra phi-trường. Nhìn bố vẫy ta giã từ Bân muốn khóc vì chẳng biết bao giờ mới gặp lại. Bân hứa với bố là sẽ về thăm nhà thường hơn, nhưng không biết là có giữ được lời vì cuộc sống quay cuồng trên đất nước người. Thằng Tim sống gần ông nội ba tháng nên cũng đã quen thân chứ không còn xa lạ như lúc ban đầu. Khi cụ Cầu vuốt tóc nó giã từ, nó không còn né tránh, trái lại Tim vòng tay ôm cụ như nó thường hug bố mẹ mỗi lần đi đâu về.
– Good bye, Grand-Pa.
Tim đưa tay vẫy ông nội, và khi bóng cụ Cầu đã khuất sau cánh cửa phi trường, Tim hỏi Bân:
– Are we going to see Grand-Pa again?
Bân vuốt tóc con:
– Yes, son. We’ll to see him again. Grand-Ma too.
Một tuần sau khi cụ Cầu ra về Bân lại nhận được thư bố. Từ ngày cụ Cầu ra về Bân cứ ngơ ngẩn buồn. Những ngày qua cha con gần gũi, Bân cảm thấy mình hiểu và yêu quí cha hơn. Hình như ông cụ đã đổi tính ít nhiều, không còn khó khăn như xưa, và có cái gì mơ hồ trong tình cảm của cụ mà Bân chưa nhìn ra.

Bân chậm trãi bóc lá thư. Bao giờ cũng vẫn vậy, thư trên giấy mỏng, nét chữ nắn nót như thể người viết để cả tâm hồn vào những dòng chữ.

Các con của bố,
Bố đã về tới Sài-Gòn, nhưng hơi mệt vì đường xa nên hôm nay mới viết cho các con. Mẹ con đón bố ở phi-trường, không ôm hôn như Mỹ, không cả cầm tay, nhưng nước mắt lưng tròng, đầy ắp ân tình. Bố mới đi có 3 tháng mà thấy như là đã xa mẹ con một đoạn đời.
Mẹ con cám ơn những món quà các con gửi. Vải vóc và bánh trái mẹ con đem biếu hàng xóm láng giềng, chỉ giữ lại mấy lọ dầu gió và hộp sâm, phòng khi trái gió trở trời. Hàng xóm ở VN mình dù sao cũng thân thiết chứ không như người xa lạ ở chỗ các con.Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Sống gần các con có vài tháng ở bên đó nhưng bố đã hiểu các con nhiều hơn. Ngày xưa có lẽ bố đã quá khe khắt với các con mà không biết là mình đã lỗi thời, ôm mãi những giá trị cổ điển của những ngày tháng cũ.

Danh vọng làm khổ con người. Bố làm khổ bố, và cả con nữa Bân, vì những ước mơ hão huyền cho giòng họ Nguyễn Hữu. Nghĩ lại bố mới thấy những võng lọng vua ban cho tổ tiên cất dấu trong nhà từ đường ở quê nhà Sơn Tây không phải là những gì đáng hãnh diện trong khi đa số họ hàng nghèo đói, quanh quẩn trong mảnh đất khô cằn.
Các con tha phương, và cũng chẳng có danh vọng gì, nhưng dù sao các con cũng có đời sống vật chất đầy đủ, và yên vui. Lẽ dĩ nhiên các con cũng có những băn khoăn lo lắng về đời sống, nhưng đó không phải là những dằn vặt làm héo hon con người. Bố mừng cho các con, và cám ơn các con đã lo lắng cho bố mẹ vào lúc tuổi già.
Thấy tình cảnh bác Bảo bố cũng cảm thương, nhưng thôi, cứ cho đó là số phận. Bố mẹ chọn nơi này để sống hết cuộc đời thay vì sang ở với các con như các con đã yêu cầu. Đất nước này dù sao cũng là quê nhà, có anh có em, có hàng xóm láng giềng, và dù cho có chân yếu tay mềm thì cũng vẫn còn có người cho mình nương tựa lẫn nhau. Các con cứ yên tâm, đừng lo nghĩ cho bố mẹ lúc này.À, còn điều này nữa. Thằng Tim không phải là đứa trẻ hư hỏng như bố nghĩ trước đây. Qua bên đó bố mới biết là nó được nuôi dậy và lớn lên trong môi trường tự do nên hành động và cư xử phóng khoáng thế thôi chứ thực ra nó vẫn đầy tình cảm gia đình. Bố nghĩ lại những gì được dạy bảo như vòng tay thưa gửi, cúi đầu dạ thưa, chưa chắc đã là đường lối tốt. Bố không chắc nhưng biết đâu lối giáo dục đó đã chẳng đưa đẩy con người vào vòng quỵ luỵ, dễ trở thành tay sai cho ngoại bang!Bân con, bố chưa bao giờ khen con, cũng như ông nội không bao giờ khen bố, nhưng con cần biết là con không làm gì cho bố phải thất vọng hay buồn tủi đâu. Bố nói thế chắc là con cũng đã hiểu lòng bố lúc này.

Lúc nào rảnh, vợ chồng con về chơi với bố mẹ. Nhớ mang cả thằng Tim về, nghe con.
Bố của con,
Nguyễn Hữu-Cầu.


Bân gấp lá thư mắt mờ như muốn khóc. Bố ơi có bao giờ con oán trách bố đâu, nếu con làm gì được cho bố vui lòng thì con cũng làm hết sức mình. Thằng Tim ở trên lầu chạy xuống, nó hỏi:
– Daddy, are you crying?
Bân lắc đầu nói bằng tiếng Việt:
– Không, có hạt bụi nào bay vào mắt bố đó thôi.


Trần Quang Thiệu
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 09/Dec/2015 lúc 7:35am

Lời Nói Dối Của Ông Chủ Tiệm Mì...


Một ngày, tôi đến dùng bữa trưa ở tiệm mì quen thuộc. Phía bên bàn đối diện có hai mẹ con khiến tôi chú ý.
Cậu con trai mới khoảng 8 tuổi, dáng vẻ béo lùn và chắc nịch; còn người mẹ là một phụ nữ có làn da rất đẹp, nhưng thân thể lại có vẻ gầy gò và ốm yếu.
Hai mẹ con gọi một bát mì sợi.
“Mẹ ơi, mẹ ăn chưa?” Cậu bé hỏi.
“Mẹ ăn rồi, con tranh thủ lúc mì còn nóng hãy ăn đi!” Người mẹ mỉm cười xoa đầu con trai mình.

Chỉ một thoáng, cậu con trai đã ăn hết cả tô mì. Người mẹ nhìn chăm chú vào bát mì của con, khẽ mím môi rồi nói: “Mẹ hơi khát nước con à.”
Cậu bé trả lời mẹ: “Mẹ, vậy mẹ uống tạm nước canh mì nhé!” Người mẹ đem bát mì còn lại của con húp sạch nước, trông bà giống như vừa mới thưởng thức cả một bữa ăn thịnh soạn. Chỉ cần nhìn qua cũng có thể đoán rằng, người mẹ chưa được ăn gì từ sáng.
Khi người mẹ gọi thanh toán tiền, ông chủ tiệm vội chạy ra và nói: “Cô ơi, cô chờ một lát nhé.”
Sau đó, chủ quán bưng ra một bát mì còn nóng hổi, vui vẻ nói rằng: “Hôm nay là ngày rút thăm trúng thưởng, hai mẹ con chị đã trở thành khách hàng may mắn, được miễn phí thêm một bát mì!”
Người mẹ cảm kích không ngừng nói “Cảm ơn!” và đón nhận bát mì từ tay chủ quán.

Tôi vốn là khách quen của tiệm mì này. Cả quán hàng chỉ có 5 chiếc bàn lớn, hơn nữa, từ trước tới nay tôi chưa từng nghe có trúng thưởng bao giờ.

Khoảng một tuần sau đó, tôi lại đến ăn tại tiệm mì này.
Một lát sau, tôi nghe thấy giọng một đứa trẻ hỏi: “Ông ơi, hôm nay ông có làm rút thăm may mắn không ạ?”
Tôi ngước lên nhìn, đây chẳng phải là đứa trẻ hôm trước sao? Ông chủ suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Làm, hôm nay có làm!”
“Cảm ơn ông, như vậy thật tốt quá! Mẹ cháu muốn uống một ngụm nước súp, nhưng cháu lại không có tiền ăn mì, vậy cháu có được rút thưởng không ạ?” Ông chủ đáp: “Cứ yên chí, cháu lại đây và ngồi xuống đi nào.”

Sau đó, ông chủ đến bên cạnh tôi và nói nhỏ: “Phiền anh đi theo tôi một chút.”
“Anh là khách quen của chúng tôi, có lẽ anh cũng hiểu… Anh có thể giúp tôi giả bộ làm một người trúng thưởng, sau đó đem phần thưởng tặng cho cậu nhỏ ấy được không? Tôi không muốn cậu bé biết việc tôi nói dối này!” Tôi đã rất cảm động trước tấm lòng hảo tâm của ông chủ tiệm mà nhận lời đồng ý.

Tôi quay trở lại và ngồi ở bàn ăn của mình. Ông chủ tiệm đi tới rồi nói to:“Hôm nay bàn số 4 đã may mắn trúng thưởng!”
Ánh mắt cậu bé thể hiện nỗi thất vọng, cậu đứng dậy và định rời đi.
Tôi gọi cậu nhỏ lại và nói: “Cậu bé, ta vừa ăn xong một tô mì, bát mì trúng thưởng này ta tặng cho cháu đấy! Bụng của ta chứa không nổi 2 bát mì đâu!”

Gương mặt cậu bé bừng sáng. Cậu vô cùng vui vẻ, không ngớt nói cảm ơn.
“Mẹ của cháu hôm nay không tới đây cùng cháu sao?” Ông chủ tiệm hỏi.
“Dạ thưa, mẹ cháu mắc bệnh, không thể ra khỏi giường được nữa.” Cậu bé không giấu nổi nỗi ưu thương.
“Vậy trong nhà cháu không còn ai khác sao?” Ông chủ tiệm lại hỏi. “Dạ, ông bà cháu đều đã qua đời, còn cha cháu thì vẫn chưa về…”
“Mẹ cháu có đi làm không?”
“Dạ không, mẹ cháu lâm bệnh, rất dễ ngất xỉu… Cháu lớn rồi, cháu sẽ cố kiếm tiền và nuôi mẹ!”
Thật khó không thể tưởng tượng được rằng một đứa trẻ 7, 8 tuổi lại có thể kiếm tiền!
“Vậy cháu làm gì để kiếm tiền nuôi mẹ?”
“Dạ thưa, lúc trời tối, cháu bày hàng bán ở vỉa hè ạ!”

Tôi đột nhiên thấy xót xa. Đó vẫn còn là một đứa trẻ nhỏ, vậy mà đã sớm phải gánh vác công việc kiếm kế sinh nhai. Trong khi bằng tuổi ấy, những đứa trẻ khác vẫn còn đang tuổi ăn, tuổi chơi, và làm nũng cha mẹ.
Ông chủ tiệm nói: “Vậy thì, từ giờ cháu hãy qua đây giúp ta lau bàn, quét nhà, như vậy cả cháu và mẹ có thể cùng ăn cơm miễn phí ở đây!”
Nghe xong, cậu nhỏ vô cùng hạnh phúc và nở một nụ cười rạng rỡ.

Một ngày khác, tôi có ý đi vòng qua khu bán hàng. Ở một góc vỉa hè, tôi nhìn thấy cậu bé hôm trước, khuôn mặt đỏ bừng, trán nhễ nhại mồ hôi đang ra sức giúp mẹ bán kẹp tóc.
Từ lúc đó, tôi đã trở thành khách quen của cậu…

Nhiều khi, chỉ một hành động nhỏ cũng có thể giúp những người khó khăn có thêm nghị lực để vượt lên. Tôi viết câu chuyện này với mong muốn nhắn nhủ mọi người rằng trên đời này vẫn còn có rất nhiều người tốt.
st.
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Dec/2015 lúc 4:38am
Đất Lạnh Tình Nồng    <<<<<<
Khuyết Danh

Urakami%20Catholic%20Church%20%28Night%20view%29%20Christmas%20version


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/Dec/2015 lúc 4:41am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Dec/2015 lúc 12:27pm
Bàn tay nguyện cầu


Vào thế kỷ thứ 15, tại một ngôi làng nhỏ gần Nuremberg có một gia đình rất đông con. 18 đứa! Để kiếm đủ thức ăn đem về hằng ngày cho lũ trẻ, ông bố - một người thợ kim hoàn – đã phải làm việc vất vả gần 18 tiếng mỗi ngày và chẳng từ một bất kỳ công việc gì mà người trong làng thuê ông.

Mặc dù sống trong cảnh cùng quẫn, hai người con lớn Albrecht và Albert vẫn ấp ủ một ước mơ đẹp đẽ: cả hai đều muốn theo đuổi sự nghiệp nghệ thuật, nhưng thật đáng buồn vì người cha sẽ chẳng bao giờ kiếm đủ tiền để gửi họ đến học viện ở Nuremberg. Sau nhiều đêm dài cùng bàn bạc trên chiếc giường chật chội, hai anh em nghĩ ra được một cách: họ sẽ gieo đồng xu, người thua sẽ xuống làm việc trong hầm mỏ gần nhà kiếm tiền nuôi người kia suốt thời gian ở học viện, và sau 4 năm người được học trước sẽ phải lo tiền học cho người còn lại, cho dù đó là tiền lời bán tranh, hay nếu cần là tiền lương của công nhân hầm mỏ.

Họ cùng nhau gieo đồng xu. Albrecht thắng và lên đường đến Nuremberg. Albert bắt đầu chuỗi ngày làm việc vất vả nhọc nhằn trong hầm mỏ và suốt bốn năm đều đặn gửi cho anh khoản tiền lương ít ỏi. Tại học viện, tranh của Albrecht được đánh giá như một bước đột phá. Những bức khắc, gỗ chạm, sơn dầu của anh vượt xa các giáo sư lâu năm. Đến lúc tốt nghiệp, Albrecht đã có thể kiếm được những món tiền lớn nhờ bán tranh.

Khi Albrecht trở về làng, gia đình Durer tổ chức một bữa tiệc lớn ăn mừng sự thành công của chàng họa sĩ trẻ. Sau bữa ăn dài thịnh soạn đầy tiếng cười và tiếng nhạc, Albrecht đứng lên nâng cốc về phía người em trai ở cuối bàn bày tỏ lòng biết ơn những năm tháng hy sinh thầm lặng để anh vun đắp cho hoài bão nghệ thuật: “Và bây giờ, Albert, em trai yêu quý của anh – Albrecht trìu mến nói – đã đến lúc em biến ước mơ của mình thành hiện thực. Hãy đến Nuremberg, anh sẽ lo tiền học cho em”.

Tất cả mọi người đều quay về phía cuối bàn nơi góc phòng. Albert ngồi đó, nước mắt ràn rụa trên gương mặt gầy gò xanh xao, chỉ có thể nghẹn ngào: “Không… không… không…”.

Cuối cùng Albert lau nước mắt đứng dậy, nhìn khắp lượt những người anh yêu thương rồi đưa tay ôm mặt khẽ nói:

- Ôi không anh ơi, đã muộn mất rồi. Em không thể đến Nuremberg được nữa. Hãy nhìn xem, những tháng năm dưới hầm mỏ đã tàn phá đôi tay em. Mỗi ngón tay đều đã dập nát không dưới một lần, và gần đây tay phải em lại bị chứng thấp khớp hành hạ, đến nỗi không thể cầm ly chúc mừng anh thì làm sao có thể cầm cọ vẽ những đường nét tinh tế trên khung vải trắng. Anh ơi, đã quá muộn rồi…

Lịch sử đã lùi vào quá khứ hơn 450 năm. Giờ đây, hàng trăm tác phẩm của Albrecht Durer được trưng bày trong nhiều viện bảo tàng lớn trên thế giới, nhưng điều lạ lùng là phần lớn người ta biết đến tranh ông, thậm chí treo trong nhà bản sao của chỉ một tác phẩm duy nhất.

Người ta kể lại rằng vào một ngày nọ, để tỏ lòng biết ơn đức hy sinh cao cả của người em trai, Albrecht đã kiên trì tái hiện từng đường nét của đôi bàn tay không còn lành lặn áp vào nhau, với những ngón tay xương gầy hướng lên trời. Ông gọi bức tranh của mình đơn giản chỉ là “Hands”, nhưng cả thế giới ngay lập tức đón nhận kiệt tác nghệ thuật này và đặt tên cho món quà tình yêu ấy là “The praying hands”. Nếu có dịp bạn được thấy bản sao của tác phẩm xúc động này, hãy dành ít phút lắng hồn mình để tự nhủ rằng: tác phẩm nghệ thuật ấy được kết tinh từ bàn tay không phải chỉ của một người họa sĩ.
st.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Dec/2015 lúc 10:27am

Món Quà Giáng Sinh


Một đồng tám mươi bảy xu, đúng như vậy. Hàng ngày, cô cố gắng tiêu thật ít tiền khi đi chợ. Cô đi loanh quanh tìm mua thứ thịt và rau rẻ nhất cho bữa ăn hàng ngày, ngay cả lúc cảm thấy hết sức mệt mỏi cô vẫn cố tìm kiếm. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó.

Della đếm lại số tiền ít ỏi một lần nữa. Không hề có sự nhầm lẫn, chỉ có một đồng tám mươi bảy xu, và ngày mai sẽ là lễ Giáng Sinh.

Cô sẽ không thể làm gì hơn, chỉ còn cách ngồi xuống và khóc mà thôi. Ở đó, trong một căn phòng nhỏ, tồi tàn, cô đang nức nở.

Della sống trong căn phòng nhỏ nghèo nàn này với chồng của cô, James Dillingham Young, ở thành phố NEW YORK.

Họ có một phòng ngủ, một phòng tắm và một nhà bếp. James Dillingham Young may mắn hơn cô vì anh ấy có việc làm. Tuy vậy đó không phải là một công việc kiếm được nhiều tiền. Tiền thuê căn phòng này chiếm gần hết lương của anh ấy. Della đã cố gắng rất nhiều để tìm một công việc nhưng vận may đã không mỉm cười với cô. Tuy nhiên, cô rất hạnh phúc khi ôm Jim, James Dillingham Young, trong tay mỗi khi anh trở về. 

Della đã ngừng khóc. Cô lau khô mặt rồi đứng nhìn một chú mèo xám trên bức tường đồng màu với nó bên cạnh con đường tối ngoài cửa sổ. 

Ngày mai là Noel và cô chỉ còn một đồng tám mươi bảy xu để mua cho Jim, Jim của cô, một món quà. Cô muốn mua một món quà thật sự có ý nghĩa, một thứ có thể biểu hiện được tất cả tình yêu cô dành cho anh.

Della chợt xoay người chạy đến bên chiếc gương treo trên tuờng. Mắt cô sáng lên. 

Cho đến bây giờ, gia đình James Dillingham Young chỉ có hai vật quí giá nhất. Một thứ là chiếc đồng hồ vàng của Jim. Chiếc đồng hồ này trước đây thuộc sở hữu của cha anh ta và trước nữa là ông nội anh. Thứ còn lại là mái tóc của Della. 
Della thả nhanh mái tóc dài óng mượt xuống lưng. Thật tuyệt đẹp, không khác nào như một chiếc áo khoác đang choàng qua người cô. Della cuộn tóc lên lại. Cô đứng lặng đi rồi thút thít một lát. 

Della bước chậm rãi qua các cửa hàng dọc hai bên đường rồi dừng lại trước bảng hiệu "Madame Eloise". Tiếp cô là một phụ nữ mập mạp, bà ta chẳng có một chút vẻ "Eloise" nào cả.

Della cất tiếng hỏi: "Bà mua tóc tôi không?"

- "Tôi chuyên mua tóc mà", bà ta đáp và bảo : "Hãy bỏ nón ra cho tôi xem tóc của cô đi".

Suối tóc nâu đẹp tụyệt vời buông xuống.

- "Hai mươi đồng" - bà ta định giá, bàn tay nâng niu mái tóc óng ả.

- "Hãy cắt nhanh đi! và đưa tiền cho tôi" - Della nói. 

Hai giờ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Cô tìm mua quà cho Jim trong các cửa hiệu trong niềm vui khôn tả. Cuối cùng cô cũng chọn được một thứ. Ðó là môt sợi dây đồng hồ bằng vàng. Jim rất quí chiếc đồng hồ của mình nhưng rất tiếc là nó không có dây. Khi Della trông thấy sợi dây này cô biết rằng nó phải là của anh và cô phải mua nó. 

Cô trả hai mươi mốt đồng để mua và vội vã trở về nhà với tám mươi bảy xu còn lại. 

Ðến nhà, Della ngắm mái tóc cực ngắn của mình trong gương và nghĩ thầm :"Mình có thể làm gì với nó đây?". Nửa giờ tiếp theo cô nhanh chóng chuẩn bị mọi thứ. Xong Della lại ngắm nghía mình trong gương lần nữa. Tóc của cô bây giờ toàn những sợi quăn quăn khắp đầu. "Chúa ơi, mình trông như một con bé nữ sinh ấy!". Cô tự nhủ: "Jim sẽ nói gì khi thấy mình như thế này?"

Bảy giờ tối, bữa ăn đuợc chuẩn bị gần xong. Della hồi hộp chờ đợi, hy vọng rằng mình vẫn còn xinh đẹp trong mắt Jim. 

Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cát áo khoác mới. Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc: "Ðừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói "Giáng sinh vui vẻ", em có một món quà rất hay cho anh này!"

- Em đã cắt mất tóc rồi à? - Jim hỏi.

- Ðúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? Em vẫn là em mà! - Della nói.

Jim nhìn quanh rồi hỏi lại như một kẻ ngớ ngẩn: "Em nói là em đã bán tóc à?"

- Ðúng, em đã nói vậy, vì em yêu anh! Chúng ta có thể ăn tối được chưa, Jim?

Chợt Jim vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói: "Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy".

Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung suớng, liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống. Trong đó là một bộ kẹp tóc, những chiếc kẹp dành cho mái tóc óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa! 

Della nâng niu món quà, mắt tràn đầy hạnh phúc: "Tóc em sẽ chóng dài ra thôi Jim", nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng định tặng cho Jim và chạy đi lấy. 

- Ðẹp không anh? Em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa nó cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này.

Nhưng Jim không làm theo lời Della. Anh ngồi xuống vòng tay ra sau đầu mỉm cuời nói: "Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa tối được rồi em ạ".

O'Henry
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Dec/2015 lúc 8:14am

Một Lễ Gíáng Sinh Tuyệt Ðẹp


Lúc đó là mùa Ðông năm 1864, một mùa Ðông thật lạnh tại Hiệp chủng quốc.

Cuộc nội chiến giữa hai miền Nam – Bắc Hoa Kỳ đang ở vào thời kỳ ác liệt nhất. Những trận giao tranh giết hại hàng chục ngàn người và những tiểu bang nằm trong vùng trận địa đều chịu cảnh tàn phá đổ nát : nhà cửa bị cháy rụi, nông trại bỏ hoang, đàn bà con nít chạy trốn khỏi nơi lửa đạn, súc vật lang thang đói khát không người săn sóc…Thật là một mùa Ðông lạnh ở ngoài trời mà giá buốt cả trong lòng người.

Trong một trang trại nhỏ ở miền Nam chỉ cách Shiloh – nơi mới xảy ra một cuộc giao tranh ác liệt làm đôi bên tử thương cả chục ngàn quân sĩ – chừng 100 dặm, Sandra Johnson đứng nhìn qua cửa kính ra ngoài trời đầy tuyết bay lả tả. Nàng là một cô gái xinh xắn, dễ thương, tính tình hiền hậu và hay thương người. Sandra mới 16 tuổi nhưng đã sớm biết thế nào là cảnh chiến tranh giết chóc, cảnh gia đình tan nát chia ly, phần vì nàng được nghe người ta kể lại, phần vì nàng đã được chứng kiến ngay trong cuộc sống hàng ngày tại cái tỉnh nhỏ bé của nàng.
Cha Sandra ra đi chiến đấu bên phía Nam quân đã được gần hai năm. Trong khoảng thời gian ấy, chỉ có một lần ông ghé thăm nhà rồi biệt vô âm tín.
Có những buổi chiều khi hoàng hôn xuống, Sandra đã nhớ thật nhiều người cha thân yêu mà ngày còn ở nhà ông thường dắt nàng đi chơi cũng trong những buổi chiều đẹp như vậy.
Những lúc đó, Sandra đã không ngăn được những giọt lệ lăn tròn trên má. Thỉnh thoảng Sandra cũng bắt gặp những giọt lệ như thế trên khoé mắt mẹ nàng mặc dầu Sandra biết mẹ cố giấu những xúc động, không muốn cho Sandra thấy.

Hôm nay đứng nhìn tuyết bay, Sandra lại cảm thấy nhớ cha hơn. Ước gì ông về ngay bây giờ để Sandra sà vào lòng ông mà vòi vĩnh, nũng nịu và để được ông nhìn với ánh mắt đầy yêu thương trìu mến, được ông vuốt ve vỗ về và nhất là được ông kể chuyện chiến trường cho nghe.

Sandra càng nhớ cha khi nàng chợt nghĩ sắp đến lễ Giáng Sinh rồi. Nàng gọi mẹ:
“Má ơi! Chỉ ba ngày nữa là lễ Giáng Sinh rồi đấy má!”
Bà Johnson đang lúi húi trong phòng. Bà lục tìm trong đống đồ lộn xộn bộ tượng Giáng Sinh mà gia đình bà đã có từ lâu, mỗi mùa Giáng Sinh lại lấy ra trưng bày ở giữa nhà. Giọng bà âu yếm:
“Ừ, Sandra, má đang tìm bộ tượng Sinh Nhật đây!”
Sandra nhảy chân sáo vào phòng để đồ:
“Thế ư má? Thích quá. Ðể con tìm phụ với má.”

Hồi chưa có chiến tranh, đồ đạc của mỗi gia đình được xếp dọn đâu đó. Từ dạo xẩy ra nội chiến giữa hai miền Nam Bắc, tình trạng hỗn loạn xẩy ra thường xuyên, không biết lúc nào. Ðồ đạc được chia ra làm hai loại: thứ quí báu và thiết dụng thì lúc nào cũng sẵn sàng để mang theo lúc chạy. Thứ không cần thiết và nặng nề thì dọn cả vào căn phòng chứa đồ. Bộ tượng Sinh Nhật tuy quí nhưng không thể mang theo mỗi khi hữu sự. Ðành phải bỏ vào trong một chiếc hộp và để trong phòng đồ vậy. Phòng đồ chất đủ thứ lộn xộn, hai mẹ con tìm hoài không ra bộ tượng Sinh nhật. Sandra vừa lục lọi vừa hỏi mẹ:
“Má à, bao giờ ba về? Giáng Sinh này ba có về không?”
Bà Johnson sững sờ trong giây phút. Cổ họng bà nghẹn lại. Bà không trả lời ngay được con gái.

Người chồng yêu quí của bà ra đi đã hai mùa Giáng Sinh rồi. Không biết chàng sống chết ra sao. Trước đây ba tháng, một trận chiến khốc liệt xẩy ra làm cả đôi bên Nam quân và Bắc quân đều tổn hại hàng chục ngàn người. Vô số người bị thương. Bà mong John bị thương và về nhà để bà săn sóc, để bà mãi mãi được gần người chồng yêu quí, Sandra được gần cha. Nhưng trông hoài không thấy chồng về, bà đinh ninh có lẽ chồng bà đã chết trong trận ấy vì nhiều người chết trận quá, người ta chưa kịp báo tin cho bà. Bà vẫn giấu thầm những giọt nước mắt không muốn cho Sandra biết và mỗi khi Sandra hỏi, bà trả lời:”Ba con sắp về!”

Ừ, vài bữa nữa đã Giáng Sinh rồi, John có về không? John về thì bà vui lắm, Sandra vui lắm. Và mặc dù tình trạng chiến tranh vẫn còn, bà sẽ cố gắng sửa soạn một bữa tiệc Giáng Sinh thật ngon cho cả gia đình. Bà sẽ giết một con gà tây trong mấy con gà còn sót lại trong nông trại. Sẽ thiếu nhiều thứ lắm: không có bơ, không có phó-mát…và hình như chỉ còn một chút xíu đường và bột đủ cho một chiếc bánh. Nhưng không sao. Vậy cũng đủ rồi. Chỉ cần John về. Chỉ cần sự hiện diện của John thôi. Còn mọi thứ là phụ.

Chiến tranh đã tàn phá hết, thiêu hủy hết, ngay cả những nhu yếu phẩm cho đời sống. Và tình trạng hỗn loạn đã khiến người ta không yên tâm làm việc để sản xuất những thứ đó. Bà Johnson biết có nhiều gia đình đã ở trong tình trạng khốn quẫn: thiếu cả bánh mì để ăn hàng ngày, nói gì đến sữa và bơ, đường…là những thứ hiếm hoi lúc đó.
“Kia, sao má không trả lời con?”
Bà Johnson bừng tỉnh như ra khỏi giấc mộng. Bà chợt nhớ đến câu hỏi của Sandra:
“À, có lẽ ba con sắp về. Giáng Sinh này ba con sẽ về…”
Giọng Sandra nũng nịu:
“Lúc nào má cũng nói ba sắp về, ba sắp về…mà chẳng bao giờ ba về. Con không tin được má nữa…”
Bà Johnson thở dài. Bà biết giải thích với con làm sao? Bà chỉ còn trông cậy vào Chúa, nhất là ngày lễ Giáng Sinh sắp tới. Chúa sẽ thương gia đình bà đưa người chồng yêu quí của bà về với gia đình.
Bỗng Sandra reo lên:
“Má, bộ tượng đây rồi má!”
Hai mẹ con đưa bộ tượng Giáng Sinh ra trưng bày trên một chiếc bàn nhỏ tại phòng khách, chỗ long trọng nhất. Sandra thắp hai ngọn đèn cho bộ tượng rồi đứng ngắm một cách say mê. Căn phòng được bày biện lại và nhờ có bộ tượng Giáng Sinh, trông vui mắt và ấm cúng hẳn lên.
“Má à, còn thiếu cây thông nữa. Má với con ra góc vườn chặt một cành đi.”
Bà Johnson đáp:
“Phải đó, ra chặt lẹ kẻo sắp tối.”
Hai mẹ con đi ra vườn. Bà Johnson xách theo một con dao để chặt cây. Sandra ngắm nghía xong lựa được một cành ưng ý:
“Cành này đẹp đấy má. Má chặt cho con đi!”
Lúc bà Johnson vừa chặt xong cành cây thì có tiếng chuông reo ở cổng. Hai mẹ con ngó qua hàng rào ra ngoài. Hai người đàn ông mặc quân phục Bắc quân cỡi trên hai con ngựa.

Bà Johnson và Sandra bỗng nhiên thấy hai người lạ mặt một cách đột ngột, sợ không còn hồn vía, muốn la lên và chạy, nhưng vì sợ quá lưỡi cứng lại, chân ríu lại, không la cũng không chạy được nữa. Hai mẹ con đành cứ đứng như trời trồng ở đó. Ai còn lạ gì những cuộc tấn công của Bắc quân? Họ đốt phá và hãm hiếp đàn bà con gái. Họ làm tất cả những gì dã man không ai có thể tưởng tượng. Nhưng có lẽ đoán được tâm trạng, hai người đàn ông lên tiếng:
“Bà và cô đừng sợ. Chúng tôi không làm gì bà và cô đâu. Xin cho chúng tôi ngủ nhờ một đêm và cho nước uống, sáng mai chúng tôi sẽ đi.”

Bà Johnson định thần lại. Bà không biết tính sao. Thực sự bà ngại cho hai người lính Bắc quân này vào nhà quá. Ðêm hôm chỉ có hai mẹ con bà, nếu hai người lính “giở trò” thì làm sao? Bà đã lớn tuổi rồi có thể đối phó nhưng Sandra còn nhỏ quá… Bà đưa mắt ngó Sandra. Sandra nghĩ mẹ hỏi ý kiến mình, nàng nói không suy nghĩ:
“Sắp Giáng Sinh rồi má à. Má cứ cho họ ngủ nhờ một đêm đi!”
Hai người đàn ông nghe thế cũng phấn khởi:
“Cô bé nói phải đó. Sắp Noel rồi. Chúng tôi cũng có gia đình nhưng không về thăm nhà được, nhớ nhà quá! Cho chúng tôi ngủ nhờ trong phòng khách một đêm đi. Chúng tôi hứa không làm gì phiền bà và cô.”

Bà Johnson thấy hai người ăn nói có vẻ tử tế lại còn trẻ tuổi. Noel sắp tới, bà không làm được điều gì tốt để dâng lên Chúa sao? Bỗng nhiên bà thấy niềm thương dào dạt trong lòng. Bà liền hăng hái đi mở cổng cho hai người đàn ông.

Sau khi gài then cổng cẩn thận, bà chỉ chỗ cho hai người cột ngựa ở phía vườn sau rồi hướng dẫn họ vào phòng khách. Bà bỏ thêm củi vào lò sưởi và ân cần săn sóc họ.
Hai người lính Bắc quân gỡ súng đạn đang mang trên người ra, đem để ở một góc phòng. Sau đó họ tự giới thiệu với bà Johnson và Sandra.

Một người là Mark Wilson, 30 tuổi, có vợ và một đứa con trai 2 tuổi, đang ở Illinois. Người kia, Tom Harrison mới 21 tuổi còn độc thân và gia đình ở tại Ohio. Hai người có vẻ đói và mệt. Họ bảo bà Johnson họ đã không có gì ăn từ mấy ngày nay.

Bà Johnson cảm thấy ái ngại quá. Bà muốn đãi họ một chút gì cho ấm lòng vì họ nói sáng mai họ sẽ đi sớm.
Chỉ còn một chút đường và bột. Bà dã định khi nào chồng về bà sẽ làm một cái bánh cho chồng ăn và để gia đình mừng ngày đoàn tụ luôn thể. Nhưng nay có khách. Dù họ là những người đang có mối tử thù với chồng bà nhưng bà nghĩ đã cho họ vào ngủ nhờ thì cũng phải đối đãi tử tế với họ. Hơn nữa họ lại là những ngưòi lịch sự, lễ phép, rất kính trọng bà và vui vẻ, nhã nhặn với con gái bà.
“Thôi để John về sẽ kiếm cách khác” bà Johnson tự nhủ.

Liền đó bà bảo hai người đàn ông nằm nghỉ rồi đi lấy chỗ bột và đường cuối cùng, bà bắt đầu làm bánh. Trong lúc nướng bánh, bà nghe Sandra hỏi hai người đàn ông đủ thứ về chién trận, về đời sống vất vả nơi quân ngũ. Bà nhận thấy Sandra và anh chàng lính trẻ có vẻ hợp nhau và quyến luyến nhau lắm.

Lát sau bánh chín, bà Johnson mời mọi người vào bàn. Sandra và bà luôn tay tiếp bánh cho hai người đàn ông. Họ ăn thật ngon lành và dần dần sắc mặt họ hồng lên, tươi tắn, trái với vẻ xanh xám và mệt mỏi lúc trước. Họ tỏ ra rất vui vẻ, sung sướng.

Trời chạng vạng tối. Tiếng chuông lanh lảnh của ngôi nhà thờ gần đó làm không gian bớt tịch mịch hơn. Bà Johnson lặng lẽ làm dấu Thánh giá. Bà nghĩ đến chồng thật nhiều và cầu nguyện cho chàng sớm về.

Bỗng có tiếng chuông rộn ràng ngoài cổng. Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Hai người lính Bắc quân thì nghĩ chắc một vài người bạn của họ lại xin vào ngủ trọ nữa. Còn bà Johnson thì không đoán ra ai nhưng bà thấy tim mình đập loạn xạ trong lồng ngực. Bà thầm nghĩ: "Lạy Chúa cho John về". Nhưng liền đó bà bỏ ý nghĩ đó đi ngay. John về đang lúc có hai người lính Bắc quân trong nhà? Chúa ơi, không thể như thế. Không bao giờ có thể như thế. Tính John xưa nay nóng nảy, nghĩ sao là làm vậy liền. Ắt sẽ có những chuyện không hay xẩy ra.
Bà Johnson bảo hai người đàn ông:
“Các ông cứ tiếp tục ăn uống. Ðể tôi và Sandra ra xem ai gõ cửa giờ này.”
Khi hai mẹ con ra tới cổng thì thấy hai người đàn ông mặc binh phục Nam quân trên lưng hai con ngựa. Bà Johnson giơ cao cây đèn cầm nơi tay, chăm chú nhìn họ rồi rú lên:
“John đó hả? Anh đã về đó sao?”
Tiếng chồng bà:
“Ừ, anh đã về, em lạ lắm sao? Sao không mở cổng ngay cho anh còn đứng đó?”

Chúa ơi, điều mơ ước mong John về đã thành sư thực nhưng hai người lính đang ở trong nhà thì sao đây? Ðầu óc bà Johnson tê liệt, mụ mẫm đi khiến bà cứ đứng trơ ra đó. Lời cầu xin của bà với Chúa đã được Chúa chấp nhận nhưng Chúa không cho nó ở trong hoàn cảnh tốt một tí nào. Chồng bà đang đứng kia và cả người bạn của ảnh nữa, hai người đều có súng và có vẻ như vừa từ mặt trận về. Bà nghĩ ngay đến hai khẩu súng của hai người đàn ông trong nhà.Rồi bà tưởng tượng những gì sẽ xẩy ra khi chồng bà và người bạn bước vào nhà. Bà sẽ nghe đạn nổ dòn, sẽ thấy những thân người gục ngã và máu chảy lênh láng khắp nhà bà. Hoặc có thể, chồng bà sẽ tấn công trước và giết chết hai người lính Bắc quân trong khoảnh khắc.
“Chúa ơi,” Bà rùng mình lẩm bẩm. Những giọt mồ hôi lạnh buốt thấm lưng áo vì bà quá sợ hãi. Nhưng liền lúc đó, Sandra lay lay vai bà:
“Má à, má mở cửa cho ba và ông khách. Cứ cho ba hay sự thực. Má đừng sợ vì Noel sắp tới rồi.”
Thấy lâu quá cổng không đưọc mở, John la lên từ phía ngoài hàng rào:
“Diane, sao em không mở cửa cho anh? Có gì ở trong nhà mình vậy?”
Nhưng bà Johnson vẫn bất động. Bà không biết tính sao? Vì vậy Sandra đã lanh lẹ ra mở cổng và ôm chầm lấy cha nàng:
“Gặp lại ba con mừng lắm. Ba ở nhà luôn chứ ba?”
Người bạn của John đứng đó nhìn cảnh hai cha con John âu yếm nhau.
“Hình như có chuyện gì lạ trong nhà mình phải không Sandra?” Ông Johnson hỏi con gái.
Sandra đáp:
“Con muốn kể cho ba nghe hết nhưng trước nhất ba phải hứa với con ba không làm điều gì, nhất là giết người ta…”
John vô cùng kinh ngạc, ông nhìn con gái:
“Chuyện gì vậy Sandra? Nói mau đi!”

Sandra lúc đó mới kể cho cha nàng nghe về hai người lính Bắc quân trong nhà. Càng nghe ông ta càng tức giận:
“À, bọn đó là kẻ thù không đội trời chung của ba. Ba phải giết hai thằng đó. Bao nhiêu bạn hữu của ba đã bị bọn nó giết thảm thương. Ba phải báo thù.”
Quay về phía bà vợ, ông nói:
“Bà đã làm một lầm lỗi không thể tha thứ. Bà dám tiếp rước kẻ thù của tôi trong nhà. Tôi phải hạ chúng trước, sau sẽ hỏi tội bà.”
Nói là làm, John và người bạn của ông ta, súng trên tay, xăm xăm đi vào nhà. Nhưng bà Johnson đã lanh chân chạy theo chồng và người bạn và cố sức cản họ. Bà năn nỉ chồng:
“Em lạy anh. Ðừng làm thế. Họ là những người tử tế và dễ thương lắm.”
Người chồng càng tức giận hơn, ông ta trừng trừng nhìn vợ:
“Cô tiếp đãi kẻ thù của tôi ở trong nhà rồi bây giờ lại bênh vực chúng, phải không?Tôi không muốn nhìn mặt cô nữa. Cô không phải là vợ tôi.”

Ông ta đẩy bà vợ chúi nhủi ra một bên rồi lại tiếp tục đi về phía ngôi nhà với ý định phải giết bằng được hai người lính Bắc quân. Phải giết chúng ngay lập tức.
Nhưng bà Johnson và Sandra cố sức níu hai người lại. Sandra nói:
“Ba ơi, gần Noel rồi, ba không thể tha cho họ một lần được sao? Ba biết rõ Chúa đâu có thích giết chóc hả ba?”

Sandra đã đánh trúng nhược điểm của cha nàng và người bạn ông ta. Hai người mềm lòng trước lý lẽ vô cùng hợp lý của Sandra. Sau một hồi lưỡng lự, họ cất súng vào bao. Ông Johnson nói:
“Thôi được, vì Giáng Sinh sắp tới rồi không nên giết người. Ba bằng lòng tha cho họ lần này.”
Bà Johnson vô cùng mừng rỡ khi nghe chồng bà nói như thế. Ðược đà, bà nói tiếp:
“Không phải chỉ một lần này nhưng là mãi mãi. Có phải không bao giờ anh muốn trái giới răn của Chúa không? Giết chóc như thế quá đủ rồi anh à!”

Sau đó cả bốn người cùng vào nhà. Bà mẹ và cô con gái vô cùng sung sướng vì đã thuyết phục được chồng và cha của mình và người bạn bỏ ý định giết chóc. Nhưng khi vào tới nhà, họ chẳng thấy hai người lính Bắc quân đâu.
Ông Johnson hỏi vợ:
“Hai người kia đâu em?”

Bà Johnson đoán chừng hai người lính Bắc quân đã chứng kiến vụ “níu kéo” vừa xong, sợ quá nên trốn rồi vì hai khẩu súng của họ cũng không còn đó. Bà ra phía sau nhà gọi lớn:
“Xin anh Mark và anh Tom vô trong nhà. Không có điều gì đáng ngại cả. Ông chồng tôi và bạn ông sẽ không làm gì hai anh đâu.”

Hai người lính Bắc quân từ trong bụi cây chui ra. Họ cũng không mang súng. Bốn người lính, hai phía Bắc quân và hai phía Nam quân cùng niềm nở bắt tay và tự giới thiệu. Họ cùng ngồi vào bàn và thưởng thức nốt cái bánh lúc nãy. Bữa ăn vô cùng thanh đạm nhưng là bữa ăn nhớ đời.
Với những giọt lệ long lanh vì cảm động và nụ cười tươi trên khuôn mặt rạng rỡ, bà Johnson nói với mọi người:
“Mặc dầu chúng ta mừng lễ Giáng Sinh hơi sớm nhưng tôi rất vui sướng có sự hiện diện của mọi người hôm nay. Tôi mong chiến tranh sẽ sớm chấm dứt và mọi người đều trở nên huynh đệ bởi vì chúng ta cùng đang sống trên một lục địa. Xin Chúa xuống phúc lành cho các anh và gia đình tôi.”

Vào ngày lễ Giáng Sinh năm sau, năm 1865, vừa lúc chiến tranh Nam – Bắc kết thúc, Tom Harrison – người lính trẻ Bắc quân năm ngoái – lại trở lại nông trại của gia đình Johnson. Lần này anh ta không xin nước uống và ngủ nhờ một đêm, nhưng là để xin cưới Sandra.
Từ đó, đôi vợ chồng trẻ sống hạnh phúc mãi mãi bên nhau.

Memphis, TN Giáng Sinh 1977
Bút Xuân TRẦN ÐÌNH NGỌC
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Dec/2015 lúc 1:00pm
Người Lính Già Trên Chuyến Tàu Đêm

Winter%20photo%20train



Hơn mười năm trở lại quê nhà, lúc bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất, buổi xế trưa trời nóng bức, không khí ngột ngạt, ông Bảo lặng lẽ nối đuôi sau đám hành khách đang lục tục xếp hàng làm thủ tục hải quan, mồ hôi vã ra đầy người.
Người về lặng lẽ chờ, cảm giác có nôn nao nhưng không láo nháo bằng đám người nhà đang đứng ở phiá ngoài chờ đợi thân nhân.
Khi ngồi trên chiếc taxi chạy ra khỏi phi trường, ông Bảo mới ngỡ ngàng nhìn một Sài Gòn thay hình đổi dạng. Sài Gòn đây rồi, hơn mười năm biền biệt vắng xa, ông Bảo cố tìm lại vài nơi chốn quen ngày xưa khi chiếc xe tắc xi cố len lỏi chạy trong dòng xe đầy nghẹt trên đường phố.
Thay đổi nhiều, nhưng ông Bảo không phải về để tìm điều gì trong cái thành phố diện tích chật chội với tám triệu người dân đang chen chúc nhau gần như không có không khí để thở.
Ông chỉ lướt qua Sài Gòn, rồi về nghỉ ở nhà bà con vùng ngoại ô thành phố, chờ chuyến xe lửa ra Trung, ở đó có bà mẹ già của ông đang thoi thóp những ngày cuối đời chờ đứa con xa trở về.
Đã quen với những xa lộ thênh thang cuả nước Mỹ, những khu nhà ở cách xa nhau nằm ẩn mình sau những bóng cây xanh, phố xá cũng ít bộ hành trên đường phố, ông Bảo cảm thấy hơi ngộp thở trước cái nóng, cái bụi, cái ngột ngạt của một Sài Gòn đang chuyển mình để ngoi lên với những đô thị lớn trên thế giới.
Hồi xưa ông ít khi có dịp về Sài Gòn, bởi thế với ông sự thay đổi ấy không làm ông choáng ngợp bao nhiêu.
Mười hai năm ở quê người, mỗi lần nhớ về quê hương, trong óc ông hỗn độn nhiều hình ảnh khắp ba miền đất nước, nhưng quả đáng tội, hồi niên thiếu ông đã sống ở miền Trung, dải đất nghèo nhất trong ba miền Trung Nam Bắc, nó đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng ông, dù ông được sinh ra ở miền Bắc.Trời đã dần tối, những vị sao giờ này mới nhấp nháy trên nền trời tối thẫm như nhung
Bỏ lại Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông , thành phố ánh sáng của những người giàu và là nơi trú ẩn cho những người nghèo trong những hẻm hóc tối tăm không bình yên.
Nơi nào cũng vậy, ở Mỹ người ta vẫn có thể bắt gặp được những hình ảnh tương phản cuả sự nghèo giàu, nhưng không quá chênh lệch như ở Việt Nam.
Chẳng cần nhìn đâu xa, ngay trên chuyến tàu này, những người như ông từ nước ngoài về, những du khách ngoại quốc muốn tìm cảm giác của chuyến tàu đêm , hoặc những người thành phần khá giả ở trong nước thường vẫn kiếm một chỗ khá đầy đủ tiện nghi trên xe lửa.
Còn ở những toa tàu ngồi, ông thấy trên khoảng trống cuả hai hàng ghế ngồi, lổn nhổn những chân cẳng và hành lý ngổn ngang, người đi tàu đang thu dọn để tìm một chỗ nghỉ lưng suốt đoạn đường dài ra Trung, Bắc.
Toa ông ở có bốn người, hai anh Tây ba lô đi du lịch Việt Nam, một người Việt có vẻ thuộc hạng khấm khá về thăm nhà ngoài Trung.
Khi vào phòng, mỗi người chỉ gật đầu mỉm cười với nhau rồi tìm chỗ của mình.
Chiếc giường nệm trắng toát, có bàn để ngồi uống trà, vài cuốn quảng cáo về du lịch để trên mặt bàn, ông bỗng nghe tiếng nhạc dặt dìu vang lên , có lẽ từ lúc chuyến tàu đêm chuyển bánh mà ông không để ý.
Quái lạ! Bản nhạc " Tàu Đêm Năm Cũ" được một cô ca sĩ có giọng trầm buồn vẫn lồng lộng vang lên trên chuyến tàu đêm ra miền Trung, khiến ông bàng hoàng lặng đi một chút khi nghĩ về những cảnh chia ly trên sân ga hiu hắt ánh đèn mờ, ở những thập niên trước khi chiến tranh còn đang sôi sục.
Trời đêm dần tàn, tôi đến sân ga nơi tiễn người trai lính về ngàn, tàu cũ năm xưa mang về trả cho tôi người xưa..."
Thốt nhiên, ông nghe mắt mình nằng nặng, cảm giác những chuyến tàu đêm năm cũ hồi ông còn là một người lính bỗng ào ạt trở lại, như là ông lại một lần nữa nhìn thấy bóng dáng người lính năm xưa, bùi ngùi nắm tay người yêu trước giờ chia biệt, và tiếng còi tàu , ôi tiếng còi tàu sao lúc ấy nó não nùng như hồi kèn truy điệu.
Ông vội nhắm mắt lại để đừng nghĩ gì nữa. Chung quanh ông còn lại gì, chập chờn ảo giác cuả những hình xưa trở lại.
Không, ông vẫn đứng đây, bên khung cửa sổ cuả toa tầu hạng nhất, tóc đã bạc, đôi mắt đã xụp mí khi về già, nhìn mải miết vào bóng đêm mịt mùng để tìm lại những hình bóng cũ.
Con tàu tăng tốc độ, ông không nhìn rõ gì lắm, chỉ nghe vù vù tiếng gió đêm thổi bạt hai bên tai.
Có lẽ sau hai tiếng đồng hồ hay hơn một chút, ông lại thấy con tàu đi vào khu thành phố rực ánh đèn.
Khung cưả sổ của toa tàu khá rộng, hai người Tây ba lô đang nhai mỗi anh một ổ bánh mì thịt, vừa rù rì nói chuyện, người đàn ông Việt Nam cùng phòng cũng đứng ở đó từ bao giờ, ngắm cảnh lên xuống ở sân ga.
Ông quay sang người bạn đồng hành hỏi trỏng:
" Đây là đâu nhỉ?"
Ông ta cũng trả lời trống không, giọng miền Bắc:
" Tới Long Khánh rồi". Rồi nhìn đồng hồ ông ta tiếp:
" Hơn chín giờ. Ông về đâu?"
" Tôi ra Quảng Ngãi."
Ông trả lời vắn tắt.
Người khách tò mò hỏi thêm:
-Ông từ nườccc ngoài về à ?
Ông lắc đầu, nói " Không, không".
Có gì chứng minh được ông là người xa quê mới về thăm nhà, bộ quần áo tầm thường khiến ông trông giống một người lính già phục viên hơn là một ông Việt Kiều.
Mà ông chính là người lính già về thăm quê thật, cho là có cái lằn Nam Bắc nằm chình ình ngay chính giữa, thì ông vẫn chỉ là một người lính già không hơn không kém.
Bốn chữ "Nhà Ga Long Khánh" lộng lẫy đóng khung trong những bóng đèn xanh đỏ đập vào mắt ông, khiến ông chợt buồn rầu khi nhớ rằng có một thời vợ ông đã vất vả đi lên đi xuống cái sân ga này.
Từ đây đi thêm một cuốc xe " Lam" nữa, cách thị xã khoảng mười cây số.
Hai bên đường là những làng mạc của dân di cư miền Bắc, đi khoảng 2 cây số là đã thấy nhà thờ.
Chỗ đấy có một trại tù , ngày xưa vợ ông đã đi tìm chồng hú họa ở cái địa chỉ mang những con số đầy bí ẩn và tối tăm như đời tù tội của ông.
Gần ba mươi năm trước, vợ ông đã giả dạng thành một người bán rong bán trái cây lặn lội lên Long Giao tìm chồng.
Long Giao là căn cứ quân sự cuả sư đoàn 18 Bộ Binh để lại, một khu quân sự rộng lớn bao xung quanh những con đường đất đỏ bụi mù, sau này trồng chuối bạt ngàn xen lẫn với những vườn tiêu của dân địa phương, len lỏi vào khu vườn chuối là những con đường đất nóng bỏng.
Năm đầu ở Long Giao, vợ ông vẫn bỏ lũ con thơ ở nhà, đi tìm chồng với cái hy vọng mong manh là tìm được chồng trong đám đàn ông ngày ngày vác cuốc đi lao động xung quanh trại.
Mỗi lần đi, bà lại quảy trên vai một đôi gánh, dưới thúng đựng dăm thứ đồ ăn tiếp tế, trên chiếc mẹt ngụy trang vài thứ trái cây.Từ một khoảng xa đến hai lớp hàng rào kẽm gai, đám đàn ông thất trận ngừng tay cuốc ngóng mắt nhìn theo một đám phụ nữ dáng dấp thon thả đang lố nhố đứng ngoài khu vườn chuối ngó vào.
Kẻ nhóng ra, người ngó vào, bụi và nắng nhấp nhoá nên khó nhận ra nhau, thỉnh thoảng đám phụ nữ trẻ lại mon men xấn vào gần hàng rào kẽm gai để được gần gũi hơn đám tù đang cuốc đất, lại bị đuổi ra xa như một bầy gà nhao nhác.
Làm sao gần được em ơi, hai hàng rào kẽm gai với lại những câv súng kè kè như vậy, họ í ới gọi nhau hỏi chuyện.
Lần ấy may mắn ông đã nhận ra vợ trong chiếc áo cánh trắng, trên đôi vai nhỏ bé là đôi đòn gánh mà ông không hiểu làm sao vợ ông lại có thể gánh được, khi từ bé đến lớn bà chưa hề biết gồng gánh là gì.
" Cạn ao thì bèo xuống đất", ông thương vợ quá, nhưng cũng phải công nhận sự khéo léo và nhẫn nhục cuả vợ trong thời buổi nhiễu nhương ấy.
Chỉ lần ấy thôi vợ chồng nhìn thấy nhau để rồi ông lên đường ra Bắc.
Đêm ấy khi ngồi trong chiếc xe bịt bùng để đi xa, ông có nghe tiếng còi tàu.
Tiếng còi rúc lên lạnh lùng như tiễn biệt, lòng ông quặn đau khi nghĩ đến vợ con.
Sau này ông có nghe bà kể, nhà ở gần sân ga, chiều nào bà cũng tìm một nơi yên lặng để ngóng tiếng còi tàu, cứ hy vọng con tàu ấy sẽ là chuyến tàu đêm năm cũ trở về sân ga, có ông tàn tạ trở về với bà và lũ con. ..Mới đó mà gần ba mươi năm rồi. Mười ba năm trong tù, ông không quên.
Giờ này khi tàu ngừng trên sân ga Long Khánh, ông vẫn nhớ cái khởi đầu cuả một cuộc hành trình mười ba năm ông bị bứt ra khỏi mái ấm gia đình.
Hú viá, ông còn đây, thân hình có tiều tuỵ nhưng vẫn còn đây, ông sờ vào hai lỗ tai lạnh để biết rằng mình vẫn còn đây, người tù mười ba năm vẫn còn đây, với những vết sẹo đã lành da vẫn ngưá ngáy một cách dị kỳ khi nhớ lại. . .
Sau thời gian dừng lại để khách lên khách xuống, con tàu lại rùng rùng chuyển bánh, ông để ý hễ tàu đến tàu đi, đều có kèm theo một hồi còi rất dài,nó kêu tu tu trong đêm vắng, buồn thắt ruột.
Nhạc lại vang vang trong những cái loa gắn trên thân tàu, toàn những bản đã cũ:
"....Chiều nay có phải anh ra miền Trung, về thăm xứ mẹ cho em về cùng. Rồi ta sẽ đi chung chuyến tàu...".
Tiếng hát vang vang một âm điệu rộn rã, những bản nhạc một thời viết cho lính lại được sống lại trong chuyến tàu đêm .
Giờ này ở đây chỉ có người lính già đi tìm quá khứ , dường như những người lính sống hay chết đã đồng loạt tử trận tháng Tư năm ấy.
Ông rút một điếu thuốc phì phà trong bóng tối, đốm lửa lập loè như lại làm sống dậy một thời trẻ tuổi.
Con tàu trong đêm tối cứ băng mình lặng lẽ xập xình đi vào vùng biển mặn, hình như có mùi nước mắm biển Phan Thiết quyện trong gió.
Trong đêm tối, mắt ông không nhìn thấy gì vì cảnh vật mập mờ, nhưng ông đánh hơi được nơi chốn bằng khứu giác.
Tàu lại vào sân ga, người lên kẻ xuống, những người bán hàng rong và người đi tàu đang kỳ kèo trả giá những túi khô mực, những thùng nước mắm.
Ông nhớ những lần nhậu thâu đêm suốt sáng với bạn bè, con khô nướng vội và những chai bia 33 lăn lóc dưới gầm bàn, ngả nghiêng đi về với một vầng trăng khuya.
Vậy mà không ngã, vẫn ngất ngưởng đi về đến nơi đến chốn. Thời ấy hết rồi, Phan Thiết, Phan Rang, Nha Trang chỉ là những nơi ghé vào ngắn hạn, nhưng ông nhớ hoài mùi biển mặn.
Nhớ xa hơn một chút về biển, chuyến tàu Hải Quân cuối cùng từ bãi biển Đà Nẵng lui về phương Nam, hỗn độn, chen lấn, quan không ra quan , quân chẳng ra quân, chuyến ấy ông mất sạch sành sanh, khi về đến Vũng Tàu mỗi người chỉ còn cái túi vải đeo trên vai, vài bộ quần áo, đúng là " trên răng, dưới ...dế".
Ông nhớ ngày hôm ấy, chiếc xà lan quá tải ngả nghiêng trên mặt biển, người ta rơi lõm tõm xuống nước, chết vô số.
Ôi lại biển, kinh khủng lắm, hễ nếm phải nước biển là ônng lại nghĩ đến hương vị nước mắt, hai thứ ấy nó giống nhau lạ lùng.Nha Trang biển đêm vẫn rì rào sóng vỗ, từ xa đã nghe được tiếng sóng , ngửi được mùi biển mặn.
Chỉ tiếc là lúc ấy đã khuya, ông không nhìn thấy gì bằng cách lại đánh hơi ra những nẻo đường quê hương bằng khứu giác, bằng đôi mắt lập lờ nhìn không rõ cuả tuổi già.
Ông đi vào giường nằm, nhưng không ngủ được.
Chiếc giường nệm êm ái làm ông lại nhớ tới chuyến tàu về Nam cách đây trên hai mươi năm, ông và người bạn tù xa lạ kết tình " huynh đệ " nhờ chiếc còng gắn vào cổ tay hai người.
Đêm tối, anh bạn tù bàn tay nhỏ nhắn, rút được cái tay ra khỏi còng, vì thế mà ông được giải thoát một chặng đường dài. Kỷ niệm ấy ông nhớ mãi. . .
Bây giờ anh ta trôi dạt đâu nhỉ? Một đêm mùa hè, tôi đến sân ga đi đón người trai lính trở về. Tàu cũ đêm nay mang trả lại cho tôi người xưa. . ."
Giọng ca buồn buồn của cô ca sĩ vẫn nỉ non trên chiếc loa suốt đoạn đường dài, hình như tàu mỗi lúc một đi nhanh hơn khi ra ngoài vùng đồng quê, đã thấp thoáng những rừng dừa Tam Quan bạt ngàn để bước vào ranh giới tỉnh Bình Định.
Bây giờ thì dường như trong ký ức cuả người lính già, kỷ niệm lần lượt trở về rõ mồn một.
Khổ nỗi lại chỉ toàn những kỷ niệm thời chinh chiến, năm 72, nơi ấy những trận đánh ác liệt nhất đã diễn ra ở đây, trở ra những vùng khốc liệt như Sa Huỳnh, Đức Phổ, Mộ Đức.
Đơn vị thám sát cuả ông toàn là những người lính tiên phong cảm tử đi vào miền đất chết, trước khi quân bạn được dàn trận đi đằng sau.
Trong bóng đêm mập mờ, mỗi một bến ga ông lại thấy mình gần gũi với kỷ niệm thời quân ngũ.
Những địa danh gợi nhớ đến quay quắt từng vuông rừng, từng hốc núi, từng ngọn đồi hay những trảng cỏ tranh cao hơn đầu người.
Màu xanh cuả rừng dưà Tam Quan vẫn không là cảnh đẹp yên bình để người lính mơ mộng, nó rình rập nỗi chết trong đó. Bồng Sơn, Quế Sơn, tên đẹp chi lạ mà đầy oan khiên cuả máu và nước mắt.
Khoảng hai giờ sáng là đến Sa Huỳnh, rặng núi biếc giờ này đã tối đen khi con tàu chui qua lòng núi càng đen kịt lại như mực, giá ban ngày ông đã có thể thấy những đồi cát, những mảng rừng thưa bông cỏ lau trắng xoá tiếp giáp để đi vào ranh giới Quảng Ngãi.
Ngày xưa, ông đã mòn gót giày trên những vùng đất chỉ có những bom đạn và nỗi chết, những đồng cỏ lau trắng xoá buồn u uẩn như người goá phụ đôi mươi quấn chiếc khăn tang trên đầu.
Vẫn nghe như hơi gió biển thổi qua triền núi thấp, vẫn nghe như hằng nghìn âm thanh thì thầm của những hồn xưa sống dậy.
Những ngôi sao sáng và một mảnh trăng khuya, ở nhữnng vùng hiu quạnh hình như nền trời bỗng sáng hơn.
Ông dùng thêm ly cà phê đen để đầu óc được tỉnh táo, mắt ông cay xè vì thiếu ngủ nhiều đêm , nhưng vẫn không làm sao ngủ được.
Gần ba mươi năm mới có một đêm như đêm nay, trở về những vùng đất thân yêu đã gắn liền với ông suốt thời trai trẻ.Trong khung cưả sổ của toa tàu chỉ có mình ông đứng đó, hai gã Tây ba lô đã ngủ say, còn người đàn ông Việt Nam kia chắc quá quen với đoạn đường này, ông nghe tiếng ngáy nho nhỏ vang lên trong buồng tàu
Con tàu cứ lầm lũi băng mình trong đêm tối, thỉnh thoảng lại tu tu lên khóc.
Nhất là ban đêm, giữa cảnh huyền hoặc của một nửa vầng trăng và những ngôi sao, gió thổi vù vù khi con tàu đi vào miền núi rừng miền Trung, ông gần như sống lại hoàn toàn cảm giác cuả đời lính thám sát nơi chiến trường miền Trung trên ba mươi năm về trước.
Cảm giác lần này lạ hơn, có lẽ vì ám ảnh chuyện cũ, ông nhìn những cành cây lay động dưới ánh trăng mờ khi con tàu vùn vụt đi qua, mà cứ ngỡ là những cánh tay của bao linh hồn anh em đồng đội năm xưa, đang vẫy tay đón ông về thăm chốn cũ.
Thế giới vô hình làm sao hiểu được, nếu hiểu được người ta đã chẳng phải than khóc trước sự ra đi vĩnh viễn cuả người thân hay bè bạn.
Sa Huỳnh ơi!
Ông nhớ quá đi thôi mặt trận đêm ấy, những người lính thám sát lầm lũi đi trong bóng tối, những ụ đất ngày xưa giờ đã xanh cỏ, những vạch đạn cưá vào bóng đêm ghim vào cây cỏ, vào thân thể người lính đang di động trong đêm, tiếng rên la của người lính bị thương đòi uống nước.
" Nước, cho xin hớp nước..."
Tiếng rên rỉ đau đớn và đứt đoạn của người đàn em bị trúng đạn đòi xin hớp nước giờ này hình như cứ vọng mãi trong đầu ông.
Ông nhớ có những đêm hành quân trời mưa rét cóng, lúc hai bên im tiếng súng rút vào cố thủ, khi dừng quân ông được một người lính cần vụ đưa cho ly cà phê đựng trong chiếc ca sắt nóng hổi.
Chưa bao giờ có một thứ cà phê nào ngon bằng hôm ấy, nó làm ông tỉnh táo và lòng ngập tràn tình thương yêu đồng đội, gắn bó với nhau trong nhiều khoảnh khắc chết sống của đời người.
Ôi những ngày như thế, bạn bè ông, đồng đội cuả ông đã ra đi mà vẫn thèm rít một hơi thuốc cuối cùng, khônng biết ở cõi bên kia linh hồn họ có tìm lại được mùi cà phê, hơi thuốc lá như cõi dương gian này không?
Ở đây, khi cuộc hành quân tạm yên, ít nhiều gì đơn vị ông hay đơn vị bạn cũng bỏ lại rừng xanh những dòng máu đỏ, những bàn tay, cái chân cho cuộc chiến ấy, chưa kể có những người đã ra đi vào miền đất lạnh.
Thiếu uý Kha, trung uý Điền, trung sĩ Nghiã, những người đàn em dễ thương mà ông còn nhớ, họ chết ở đây, trong đám rừng đen đặc kia.
Ông nhớ lúc ấy đã vét tuí tìm gói thuốc " Quân tiếp Vụ", chỉ còn duy nhất một điếu cong queo, ông vuốt lại cho thẳng rồi gắn lên môi người đàn em bị thương nặng, làm món quà tiễn chân kẻ ra đi không bao giờ trở về.
Điếu thuốc cuối cùng ấy là món quà quý dành cho người sắp chết, ông thèm lắm mà không dám hút. Ông giơ tay vuốt mắt cho người lính cùng đơn vị, mắt cũng cay xè. . .
Tiếng gió giữa canh trường qua rừng cây đen thẫm như tiếng reo cuả linh hồn những ngươì đàn anh, đàn em năm cũ vọng u u trong đầu ông, ông thấy nước mắt mình trào ra ướt đẫm trên má.
Ông thò tay vào túi, gói thuốc còn nguyên, ông bóc gói thuốc rồi nâng lên trước mặt thì thầm nói một mình:
" Hút, hút đi các bạn, hút cho thoả trước khi để linh hồn tan vào cõi hư vô »Ông ném từng điếu thuốc vào cái khối đen ngòm của rừng cây ven đường, không thét ra được khỏi lồng ngực phập phồng hai lá phổi héo, nhưng trong đầu ông lồng lộng :
" Hết chiến tranh rồi. Hết lâu rồi các bạn ơi!
Thuốc đây, hút đi, hút đi rồi các bạn muốn đi đâu thì đi. Đừng ở lại đây nữa. . ."
Những điếu thuốc bay lả tả theo đường tàu, nước mắt ông cứ trào ra ướt đầm trên má, nhỏ giọt xuống trên thân áo. Vô tình hay cố ý, đêm nay ông về thăm lại chốn cũ, phong phanh chiếc áo sơ mi và chiếc quần màu ô liu, y như một người lính kỳ nghỉ phép về thăm nhà. Trong cái loa tiếng nhạc lại vang vang :
" Ngày tháng đợi chờ, tôi đến sân ga nơi tiễn người trai lính ngày nào.
Tàu cũ năm xưa có trả lại cho tôi người xưa, để đêm nay ngồi đây, viết lại tâm tình này. . ."
Ba mươi năm sau cuộc chiến, người lính năm xưa đã hy sinh còn để lại những gì cho Tổ Quốc .
Ngoài những vết sẹo kéo da non của người còn sống, ông Bảo chạnh nghĩ đến những thương binh đã lây lất sống nốt đời mình trên vỉa hè thành phố, dựa dẫm vào vợ con để thành một gánh nặng buồn tủi. Thế còn những đứa con của người tử sĩ thì sao?
Trung uý Điền xuất thân trường Đà Lạt, khi chết trận bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ, trung sĩ Nghĩa có một đứa con không biết là trai hay gái trong bụng vợ.
Gia tài người lính để lại chỉ có chiếc ba lô, đựng dăm thứ lặt vặt cho những cuộc hành quân dài ngày nơi rừng núi, khi nằm xuống họ đã kéo theo sau lưng mình sự đổ vỡ, tan tác, rách nát, thảm thương của một hệ luỵ máu thịt cùng chịu chung số phận. . .
Bình minh đã lên, ở miền nhiệt đới bình minh bao giờ cũng dậy sớm, chuyến tàu đi qua những quận lỵ cũ để vào thị xã.
Lúc tàu đi ngang Phổ Đức, Mộ Đức, lại những chiến trường xưa, những chiếc xe nhà binh năm cũ ở đâu trong đầu ông ào ào chở đầy lính đi vào vùng lửa đạn.
Tàu ghé vào ga, những người bán dạo trên bến ga mời chào í ới. Nhìn đĩa xôi gà trên tay một chú bé độ 12 tuổi, mà bé choắt vì phải ra đời sớm, ông gọi mua một đĩa xôi mà không cần trả giá.
Nhìn cậu bé sáng sớm bưng trên tay mâm xôi đi bán dạo, cái đùi gà vàng lườm được rô ti thật hấp dẫn, ông hiểu cái nghèo đè nặng trên đầu người dân.
Ông ăn mà không biết ngon, chỉ ăn cho đỡ đói, để tìm hương vị cũ, niềm đau cũ.
Chú bé bán xôi được ông cho một món tiền lớn gấp mười đĩa xôi gà, cứ đứng trân trân nhìn ông tưởng như là phép lạ đang xảy ra trên sân ga.
Nhìn làm gì em ơi, giá hơn mười năm trước tôi cũng làm gì dám ăn đĩa xôi gà trên tay em, chẳng phải thịt gà phong độc như dân địa phương thường nói, mà vì nghèo, cái nghèo là thứ quả báo lớn nhất mà ông Trời bắt con người phải chịu khi còn sống.
Lúc này đầu óc ông tỉnh táo hơn, nôn nao hơn, vì ông sắp về tới gia đình, về với bà mẹ già vừa mù, vưà điếc, chưa chắc gì đã nhận ra con.
Người ta lại tấp nập lên tàu, xuống tàu.
Ông ăn xong đĩa xôi, gọi một ly cà phê đá nhâm nhi nhìn kẻ lên người xuống, bỗng liên tưởng cuộc đời y hệt một chuyến tàu, mà những người lính già như ông còn ngồi lại với nỗi buồn chiến tranh đọng lại trong mỗi hồi tưởng.
Đêm qua khi đi ngang Sa Huỳnh lúc hai giờ sáng, hình như ông đã gặp lại bạn bè năm xưa trở về, họ là những người đã xuống tàu ba mươi năm trước.
Ba mươi năm sau trên chuyến tàu đời, những lớp người đi sau như thằng bé bán xôi, cô bé dáng học trò ngồi bán cà phê ở toa ăn uống là lớp người sau lên tàu muộn .
Bây giờ nếu ông kể chuyện cũ ba mươi năm trước, chắc hẳn chúng nó sẽ tròn mắt lên mà nghe như chuyện cổ tích. Một câu chuyện cổ tích rất buồn, chỉ còn một người lính già như ông ngồi lại trên chuyến tàu đêm, khắc khoải.
Ông đi chầm chậm, tiếng nhạc vẫn lồng lộng trên sân ga, không phải bài " Tàu đêm năm cũ", mà nghe rất lạ, như bài cầu kinh sắp tới hồi kết thúc:
Rồi tàu xa rời, xa rời kỷ niệm
Trả lại cho mình, nửa phần yêu thương
Tìm lại xót xa, tìm lại vui buồn
Đi vào nhân gian, với lòng yêu thương.
Đi đi, đi thấu kiếp người. . .
Ôi niềm đau, hỡi nỗi vui
Đi đi, đi thấu kiếp người
Đi đi, để biết khóc cười hỡi ...ơi!
Hơn mười giờ, tàu vào ga Quảng Ngãi. Ông sốc cái ba lô trên lưng, chậm rãi chờ người ta chen chúc nhau xuống sân ga, con tàu lại tu tu lên khóc.
Ông sắp về với mẹ ông, căn nhà xưa trong một ngõ nhỏ, con ngõ này hồi xưa thế nào nay vẫn vậy, nhưng nhà cửa được nâng cao, xây dựng lại khiến thoạt nhìn tưởng mọi điều đã đổi khác.
Ông về với mẹ, biết đâu không phải là lần cuối được cầm lấy tay mẹ, tay con cũng nhăn nheo huống gì tay mẹ ông chỉ còn là một rúm da bọc xương khẳng khiu.
Mẹ ông nằm đó, chả biết ai với ai, đôi mắt loà quáng lên một vùng ánh sáng mù mờ, như ngọn đèn cạn dầu leo lét chờ tắt
Bên cạnh bà mẹ già vưà loà, vừa điếc, vẫn không biết là có một đứa con đi xa vừa trở về.
Không còn cách nào khác hơn, ông cầm lấy bàn tay nhăn nheo, gầy guộc cuả mẹ, để bà sờ mặt con với những giọt nước mắt ướt đầm trên những ngón tay.Không biết trong cõi mịt mù của đời người sắp tàn ấy, bà có sờ được ra khuôn mặt cuả đứa con từ lâu rồi không gặp. . .

Nguyên Nhung
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Dec/2015 lúc 4:24pm


TRUYỆN NGẮN MÙA GIÁNG SINH

Diễn Đọc : Yến Linh


http://www.mediafire.com/download/addm647curfyqg8/MẫuTruyệnNgắnGiángSinh-YếnLinhđọc.mp3
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Dec/2015 lúc 10:41pm
Món quà.

girl,%20scarf,%20snow,%20winter

Tiếng chuông nhà thờ vọng lại từ một nơi xa xa. Tôi mân mê chiếc khăn len choàng trên cổ mình. Đêm nay là giáng sinh, mọi người ai nấy đều vui vẻ, chỉ có tôi một mình cô đơn bước đi dưới những ngọn gió mùa đông lạnh lẽo.

Tôi bước chầm chậm dọc theo con đường đến nhà thờ, bỗng nhiên có một sức mạnh nhỏ bé kéo áo tôi lại. Tôi hơi giật mình, quay đầu lại thì thấy một cậu bé khoảng chừng bảy, tám tuổi. Cậu mang một cái khay đựng móc khóa đủ hình thù, tôi chợt nhận ra đây là một cậu bé bán dạo. Em mặc một chiếc áo mỏng tanh, chân đi dép lê, tôi bỗng dưng cảm thấy có chút gì đó thương hại em.

Em muốn chị mua giúp em à?

Tôi dịu dàng hỏi, nhưng em không trả lời mà chỉ khẽ gật đầu, môi em mím chặt lại.

Tôi chọn được hai cái, rút ví ra đưa em tờ năm mươi ngàn. Xong, tôi xoay người bước đi. Một lần nữa, em kéo áo tôi lại, trả lại tiền thừa cho tôi. Tôi hơi bất ngờ, tôi đã chạm đến lòng tự trọng của em chăng? Nhìn dáng em bước đi co ro vì lạnh, tôi lập tức đuổi theo.

Hey, đợi chị với!

Em dừng lại, ánh mắt có chút tò mò. Tôi tháo chiếc khăn choàng cổ của mình, nhẹ nhàng choàng vào cổ em.

Tặng em quà giáng sinh.



Tôi thấy em hơi bất ngờ, sau đó em dùng tay nắm chặt lấy tay tôi, nhẹ nhàng mỉm cười với tôi. Bất giác, tôi hỏi:

 

Em không nói được sao?


Em lẳng lặng gật đầu, mỉm cười lần nữa với tôi rồi bước đi. Tôi bỗng thấy mình không còn cảm giác buồn bã nữa, những chuyện buồn rồi cũng sẽ qua đi, so với cậu bé, tôi thấy mình thật tệ. Biết bao nhiêu người ao ước một cuộc sống như tôi, vậy mà tôi lại để thời gian trôi đi một cách vô ích. Sống, đâu phải chỉ có tình yêu. Tôi khẽ nói một câu với chính mình:


Giáng sinh an lành!

st.
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/Dec/2015 lúc 10:15pm
HOAI NIEM MUA GIANG SINH XUA



att000041christmas.gif


Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông tuần tự trôi qua theo chu kỳ của năm tháng, trước đó mấy tuần còn nhìn thấy lá vàng rụng đầy sân, cứ mỗi sáng phải đi quét sân gom lá, thế mà sáng nay khi thức giấc nhìn ra ngoài cửa sổ,con đường, nóc nhà, cây cối đã bám đầy tuyết trắng, bên nhà hàng xóm đã có trang trí đèn, những hình ảnh tượng trưng cho ngày lễ dán trên cửa kiếng rồi bất chợt thở dài… lại thêm một “Mùa Giáng Sinh” trên xứ người!

Những kỷ niệm về Giáng Sinh ở quê nhà mà người Việt mình hay gọi theo thói quen là “Nô-en” luôn là một nỗi niềm dai dẳng trong tôi. Ngày đó, vào cái lứa tuổi chỉ biết đi học về quăng cặp vào góc nhà rồi dông một mạch đi kiếm đám bạn nhóc con trong xóm bày trò chơi hay tán dóc, tôi chưa hề có một khái niệm lo âu về tuổi đời, về cuộc sống nên cứ mong cho thời gian qua thật nhanh để chóng đến tháng 12 vì đó là thời gian giao mùa giữa năm cũ và năm mới, không khí mát mẻ, cảnh vật xanh tươi. Điều buồn cười nhất là ai cũng biết ở Sài Gòn hầu như không có ngày lạnh cho dù đang vào mùa đông, sáng sớm hay đêm về thì hơi mát nhưng cũng đủ cho tôi làm ra vẻ như đang lạnh co ro để được khoác cái áo len mới do chính tay má tôi cặm cụi ngồi đan suốt mấy ngày rồi tung tăng chạy khắp nơi đi khoe.

Tuy tôi ngoại đạo, nhưng hình như vào cái đêm Giáng Sinh không riêng gì những người đạo Thiên Chúa mà hầu như nhà nhà đều chung vui đón mừng,nhất là bọn trẻ như chúng tôi thì còn nao nức hơn. Nửa đêm gia đình tôi cũng tổ chức ăn uống, nói tổ chức nghe cho xôm chứ ngày hôm đó anh em tôi được ăn món ngon hơn mà ngày thường rất hiếm thấy. Trước đó thì được Cô, Dì, Chú, Bác chở một vòng ra Sài Gòn đi ngang qua nhà thờ Đức Bà để nhìn thấy chung quanh treo đầy đèn và những ngôi sao sáng chói, trong ngoài nhà thờ mặc dù chưa tới nửa đêm nhưng đã đông nghẹt các “Con Chiên” ngoan đạo của Chúa đang chen chúc từ trong ra tới ngoài đường để chờ đến giờ làm lễ, chỉ vậy thôi mà tôi nôn nao chờ đợi hết mấy ngày để được diện đồ mới, mặc áo len đẹp, nắm tay người lớn đi vòng vòng trố mắt nhìn người, nhìn cảnh vật một cách say mê không biết chán, chỉ thế thôi rồi quay về nhà chờ đến 12 giờ để được thưởng thức bữa ăn nửa đêm với gia đình, năm nào cũng vậy riết rồi thành như một thông lệ.

Tôi còn nhớ rất rõ vào những ngày lễ, hình như tâm lý chung ai cũng có cùng một ý nghĩ, nếu đi trễ sẽ bị kẹt xe nhất là vào đêm Nô-en nên chưa đến 11 giờ thì đường phố đã đầy ứ xe cộ, những người đi xe gắn máy chỉ nhích được từng chút, người đi bộ thì lũ lượt chen chân… Cái không khí vui vẻ ồn ào náo nhiệt hoà lẫn với sự ấm cúng tình người trong “Đêm Đông Chúa Sinh Ra Đời”, dù quen hay lạ tôi đều nhìn thấy trên nét mặt của mọi người đầy vẻ hân hoan, cử chỉ thân thương tay trong tay len lỏi giữa dòng người cười giỡn vô tư khiến tôi cũng bị lôi cuốn vào không ngoại lệ. Đến khi hiểu biết đôi khi nhớ lại những hình ảnh đó rồi tôi tự nghĩ , có phải đó là một “hiệp thông của Chúa” mang đến cho mọi người tình yêu thương đồng loại mà tôi vẫn thường nghe hay không?

Khi trưởng thành, những ngày nầy là những ngày đẹp nhất của tôi với người yêu, với bạn bè, nhưng rồi vì hoàn cảnh vì số phận mỗi người một nơi, hình như tôi chưa bao giờ cảm nhận được một Giáng Sinh trọn vẹn nơi xứ người! Cũng vào đêm Nô-en, trong phòng khách nhà tôi, mọi người quây quần ăn uống vui đùa, những bản nhạc Giáng Sinh liên tục văng vẳng bên tai nhưng tôi lại thích tìm cho mình một chỗ ngồi bên cạnh cửa sổ, thầm lặng nhìn ra ngoài trời tuyết đang rơi để tâm hồn đón nhận những cảm giác bâng khuâng không thể tả.

Khi tiếng chuông nhà thờ nửa đêm vang lên, ly rượu trên tay cũng được nâng cao chúc tụng như một cảm tính của thói quen nhưng tâm tư của tôi thì đang trở về một nơi thật xa xôi, cái nơi mà tôi đã từng có những kỷ niệm quá đẹp quá hạnh phúc bên cạnh những người đã cho tôi trọn vẹn niềm tin và tình yêu nhưng bây giờ chỉ là một hoài niệm buồn vui, mất mát!


Hình%20ảnh%20Thi%20bắn%20pháo%20hoa%20quốc%20tế%20Đà%20Nẵng%202011%20số%201


Qua Giáng Sinh rồi sẽ đến Tết, nhưng tha hương luôn là một nỗi niềm trăn trở trong tôi, nhớ nhà, nhớ bạn bè… nhớ ơi là nhớ!!!
Vinh Kim
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 201 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.473 seconds.