Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 101 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23148
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Nov/2020 lúc 12:40pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23148
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 18/Nov/2020 lúc 3:07am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23148
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Nov/2020 lúc 10:18am

Món Nợ Ân Tình

Image%20result%20for%20father%20and%20daughter


Tôi sang Mỹ cùng với Ba Dượng theo diện H.O - nhờ tờ khai sinh giả tôi có được qua những đồng tiền đút lót mà tôi trở thành con ruột của Ba. Cha mẹ tôi và một đứa em trai còn ở lại Việt Nam. Nhiều người rất ngạc nhiên, không hiểu vì sao mỗi khi nhắc đến gia đình ruột thịt tôi có phần lạnh nhạt trong khi tôi lại rất thương yêu và chăm sóc Ba Dượng. Thật sự, tôi thương Ba Dượng hơn cha ruột của tôi rất nhiều. Tôi không biết điều đó đúng hay sai nhưng tình cảm luôn xuất phát từ trái tim, không thể gượng ép và cũng không thể theo một khuôn mẫu đã định sẵn. Duy nhất một điều tôi có thể hiểu được là cha tôi chưa một ngày bồng ẵm tôi nhưng Ba Dượng đã nuôi nấng tôi từ thuở ấu thơ.

Khi mẹ mang thai tôi được sáu tháng thì cha đã bỏ mẹ con tôi để vào rừng, theo “Quân giải phóng”. Mẹ ở lại, một mình một thân yếu đuối với cuộc sống vất vả nghèo nàn, vừa nuôi mẹ chồng, vừa nuôi con dại. Ngay lúc ấy, Ba Dượng tôi xuất hiện. Ông là một Sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ Thành phố ông thuyên chuyển về nơi gia đình tôi đang sinh sống. Tôi không nhớ rõ những gì đã xảy ra, chỉ biết rằng đến khi bốn tuổi tôi mới có được một người mà tôi gọi bằng Ba. Ba là một người hiền lành, chân thật và rất vui tính, cởi mở. Ba chăm sóc bà nội như mẹ ruột, vì thế bà nội cũng rất thương Ba. Ngược lại, mẹ tôi không yêu Ba. Mẹ tiếp nhận Ba - một cuộc hôn nhân không giá thú - chỉ để tìm nơi nương tựa. Ba biết điều đó nhưng vẫn chấp nhận.

Năm bảy mươi lăm cha tôi bất ngờ trở về, còn Ba thì lại khăn gói vào “trại cải tạo”. Mẹ vui mừng vì sự trở về của cha bao nhiêu thì tôi lại đau lòng vì sự tù tội của Ba bấy nhiêu. Tôi không hiểu được tình cảm của mẹ. Tại sao với một người chồng hết lòng thương yêu mẹ mà trái tim bà vẫn dửng dưng? Tại sao chỉ một năm ngắn ngủi sống với cha mà tình yêu bà vẫn bền vững suốt cả chục năm hơn? Tại sao mẹ có thể chấp nhận việc cha đã có vợ khác và người vợ “đồng chí” của cha đã nghiễm nhiên trở thành vợ chính thức, còn mẹ, chỉ là một người vợ danh không chính, ngôn không thuận, để mỗi lần đến thăm, cha phải nhìn trước, ngó sau như một kẻ đang phạm tội ngoại tình. Chưa kể có lần vợ của cha còn đến nhà, mắng chửi mẹ là “dâm phụ” và cũng không cần biết bà nội tôi là ai, bà chống nạnh xỉa xói:

- Cả nhà chúng mày phải tránh xa chồng bà, không thì bà cho chết cả lũ về cái tội cấu kết với cái thằng lính ngụy đang ở tù rục xương.

Cha tôi nắm tay kéo bà vợ đi xềnh xệch trước những cặp mắt tò mò của hàng xóm. Mặt bà nội xanh như chàm, bàn tay cầm cây gậy run lên bần bật vì tức giận. Mẹ ngồi bệt xuống sàn nhà với những giọt nước mắt không ngừng tuôn chảy trên khuôn mặt lơ lơ, láo láo như người mất hồn. Tôi cũng không nhớ rõ cảm giác của mình lúc ấy ra sao nhưng hình như có một nỗi vui nào đó hiện đến rất nhanh khi tôi chợt nghĩ, đây cũng là một điều hay để giúp mẹ tôi sáng mắt ra mà nhận biết ai là người thật sự yêu thương mình. Nhưng không, mẹ tôi vẫn tối tăm quay cuồng trong mớ tình cảm hỗn độn đó dù bà nội khuyên mẹ hãy quên cha tôi đi để lo thăm nuôi Ba đang chịu tù tội, đói khát.

Phần tôi, tôi rất bất mãn trước thái độ của mẹ khi bà không có một chút quan tâm, lo lắng nào dù thật nhỏ cho cuộc sống của Ba trong cảnh khốn cùng. Mỗi lần theo cô Tư đi thăm Ba, tôi phải nói dối đủ điều về lý do tại sao mẹ vắng mặt. Dĩ nhiên, cô Tư cũng không muốn anh mình phải đau khổ - nếu biết được người vợ đầu ấp tay gối đã nhẫn tâm phủi tay, rũ bỏ tình nghĩa vợ chồng bao nhiêu năm - nên cô dặn dò tôi phải nói dối với Ba rằng mẹ đi buôn xa không về kịp, hoặc bà nội bệnh bất ngờ mẹ phải ở nhà chăm sóc.

Có lần, sau khi thăm Ba trở về, tôi hỏi mẹ bằng thái độ khó chịu:

- Ba ở tù bốn năm rồi mà sao mẹ không đi thăm Ba một lần?

Mẹ trả lời một cách thản nhiên:

- Vì mẹ không thể phản bội cha con!

Tôi tức giận:

- Mẹ không thể, nhưng mẹ đã phản bội cha rồi.

Mẹ cho rằng tôi bất hiếu vì không phân biệt ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Tôi cười chua xót:

- Con không cần biết ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Con chỉ biết Ba là người đã cực khổ nuôi nấng con từ lúc còn bé. Con chỉ biết Ba là người đã bất kể hiểm nguy, giữa đêm khuya bế con đến Bệnh viện cứu cấp khi con đau nặng. Mẹ không nói cho con biết nhưng bà nội vẫn nhắc hoài chuyện ấy.

Mẹ quay đi sau khi ném cho tôi ánh mắt giận dữ. Tôi biết mẹ không thể bỏ cha ruột của tôi, dù ông đối xử với bà tình không trọn mà nghĩa cũng chẳng tròn, nhưng ít ra bà cũng không nên rũ sạch ơn nghĩa cưu mang của Ba hơn chục năm trời.

- Mẹ hãy dẹp tình cảm qua một bên để tỉnh táo suy nghĩ xem cha đối với mẹ như thế nào. Ông đi bao nhiêu năm trời không một tin tức. Chắc trong lòng ông không hề vấn vương, thương nhớ mẹ hay nghĩ đến đứa con chưa kịp chào đời. Bằng chứng là đứa con riêng của cha nhỏ hơn con một tuổi, có nghĩa là xa mẹ chưa đầy một năm cha đã có người đàn bà khác. Rồi khi trở về đây gặp lại mẹ, đáng lẽ cha phải giải thích cho bà vợ của cha hiểu ai là người đến trước, ai là người đến sau, chứ lẽ nào cha đứng đó để chứng kiến bà ta làm hùm làm hổ với mẹ, cứ y như mẹ cướp chồng của bà ta...

Nhìn bà nội ngồi ở góc bàn sụt sùi lau nước mắt, tôi cảm thấy ân hận nên quỳ xuống cạnh bà:

- Nội à! con không muốn nói những lời làm đau lòng nội. Nhưng thật tình con không thể nào chấp nhận thái độ bạc bẽo của mẹ con. Nội thử nghĩ, nếu như ngày xưa không có Ba thì cuộc sống của gia đình mình sẽ ra sao? Nội bệnh hoạn cũng một tay Ba lo thuốc men mà không hề phân biệt rằng, đây là mẹ chồng chứ đâu phải mẹ ruột của vợ tôi. Ba nuối nấng con từ nhỏ đến lớn không rầy la một tiếng dù con có phạm lỗi lầm. Ba thương yêu con như một đứa con ruột thịt...

- Rồi sao nữa? Cái thằng Sĩ quan ngụy đó cũng giỏi thiệt... nó dụ dỗ được mày đứng về phe nó để chống lại cha mẹ.

Cha tôi bước vào nhà, quăng cặp táp lên chiếc phản gỗ, tay đập bàn rầm rầm:

- Anh đã nói với em rồi, con bé này đã bị thằng ngụy đó đầu độc mười mấy năm không thể nào tẩy não được mà.

Tôi lùi lại, đứng sau lưng bà nội. Dù trong lòng cũng có chút nao núng, nhưng khi nghe cha xúc phạm đến Ba, tôi tức giận đến độ không còn biết sợ là gì:

- Thưa cha, cha có biết cái “thằng ngụy” xấu xa đó đã dạy con điều gì không?

-...

Tôi cười chua chát tiếp lời:

- Ông ấy đã dạy con, dù đi đâu xa cũng phải nhớ ngày giỗ của cha mà về nhà đốt nén nhang cho bà nội và mẹ vui lòng. Hồi mẹ được tin cha chết, mẹ khóc lóc, đau khổ nhưng không dám lập bàn thờ, thì chính cái “thằng ngụy” mà cha luôn miệng chửi rủa đó đã mang ảnh ba ra tiệm hình để rọi lớn, rồi đem về trịnh trọng đặt lên đầu tủ với lư hương, với chân đèn để làm bàn thờ cho cha. Nếu đêm nào mẹ lỡ quên vì bận bịu thì cũng chính “thằng ngụy” đó dù đã lên giường cũng vội vàng leo xuống để đốt nhang cho cha. Chưa bao giờ con nghe “thằng ngụy” đó nói một lời thất lễ với cha, nhưng cha thì lúc nào cũng chửi bới người ta, trong khi đáng lẽ cha phải cám ơn người đã thay cha gánh vác việc gia đình. “Thằng ngụy’ đó đã cho con thấy hình ảnh một người chồng, người cha cao thượng, nhưng cha thì sao?... cha hãy suy nghĩ lại để từ nay đừng bao giờ xúc phạm đến Ba của con.

Hình như tình thương đối với Ba đã cho tôi thêm sức mạnh và sự bình tĩnh để dõng dạc nói lên suy nghĩ của mình không chút sợ hãi. Điều đó khiến mẹ tôi lo quắn quíu:

- Con này... ma nhập nó rồi hay sao mà ăn nói bậy bạ, hỗn láo!

Mặt cha tôi như xám lại, ánh mắt ông long lên sòng sọc, đôi môi mím chặt khiến khuôn mặt ông đanh lại, hung hãn không thua gì các diễn viên đang vào vai một nhân vật phản diện độc ác. Cha đưa chân đạp chiếc ghế văng vào bàn. Ông quay lại hét vào mặt mẹ tôi:

- Em dạy dỗ con cái như thế này đây hả? Nó nói chuyện với cha nó như một phường mất dạy. Anh nói rồi... ngày nào nó còn ở trong nhà này anh sẽ không bao giờ đặt chân đến đây nữa.

Tôi nghênh mặt khiêu khích:

- Cha không cần đuổi con cũng sẽ ra khỏi nhà ngay hôm nay. Con xin nói thật... con không muốn gặp mặt người cha vô trách nhiệm, bỏ vợ, bỏ con mấy mươi năm rồi bây giờ trở lại trách vợ mình không dạy dỗ con. Cha có biết trách nhiệm dạy dỗ con thuộc về ai không?

Cái tách trà bay về phía tôi, chạm vào thành ghế bà nội đang ngồi vỡ toang. Tôi không biết nếu cái tách trúng ngay đầu bà nội thì việc gì sẽ xảy ra? Có lẽ tôi lại hứng thêm một cái tội “Tại cái con mất dạy này mới ra cớ sự!”

***

Sau cuộc cãi vã đó tôi thu dọn quần áo ra đi. Bà nội chạy theo níu tay tôi mếu máo dặn dò:

- Con xuống nhà cô Tư ở, đừng đi đâu bậy bạ nghe con.

Tôi cười trong nước mắt:

- Con có tư cách đến nhà cô Tư sao bà nội? Cô Tư đâu phải ruột thịt gì của con!

Mẹ đứng ngang ngạch cửa mai mỉa:

- Biết vậy là khôn đó con. Cứ đến ở thử vài ngày để xem người ta đối xử ra sao cho biết thân.

Không hiểu sao câu nói nào của mẹ cũng châm chích, cay nghiệt. Không lẽ mẹ đã quên hết những ngày cô Tư chạy đôn chạy đáo đem hàng về cho mẹ bán kiếm lời. Chẳng những thế, cô còn nhường cả khách hàng của cô cho mẹ. Ngay từ lúc Ba đến với mẹ, đâu phải cô Tư không biết tôi là con riêng của mẹ, nhưng lúc nào cô cũng đối xử với tôi ngọt ngào, thân thương như đứa cháu ruột. Mẹ không nhớ hay cố tình chối bỏ? Tôi thất vọng não nề vì cách cư xử của mẹ nên cay đắng trả lời:

- Cô Tư đối xử với con ra sao thì cả chục năm nay con đã biết rồi không cần phải thử đâu mẹ. Con nghĩ người mà con cần thử là cha đó, cả mẹ bây giờ nữa... Mẹ à! mẹ thay đổi quá nhiều... đến độ con không còn nhận ra mẹ là người con vẫn hằng yêu quý. Trời cao, đất rộng không tha thứ cho mẹ cái tội bạc đãi Ba đâu.

Tôi quay lưng đi mà không chút luyến lưu, nuối tiếc. Tội nghiệp bà nội. Bà vừa khóc vừa gọi tên tôi rồi lúc thúc chạy theo, dúi vào tay tôi một nắm tiền:

- Cầm tiền theo mà tiêu xài đi con. Ở đâu nhớ cho nội biết để nội an tâm. Có đi thăm Ba thì lấy tiền này mua một chút đồ ăn đem theo, nói nội gửi cho Ba và xin lỗi Ba dùm... nội già yếu rồi không thăm Ba con được.

Tôi ôm chặt lấy bà nội, nước mắt chan hòa.

***

Sau sáu năm học tập Ba được thả về. Hộ khẩu của Ba là căn nhà ngày xưa gia đình tôi đã chung sống, nhưng nay mẹ không đồng ý cho Ba vào nhà. Bà nội khóc hết nước mắt cũng không lay chuyển được quyết định của mẹ - đúng hơn là mẹ đã làm theo lệnh của cha tôi. Ông Năm hàng xóm thương Ba sa cơ thất thế, giận mẹ tôi là “Phường vong ân bội nghĩa” - cụm từ này đã thay vào tên mẹ tôi mỗi khi ông nhắc đến - ông cho Ba cất cái chái nhỏ phía sân sau của ông, sát cạnh nhà mẹ trong thời gian chưa ổn định vì hàng ngày Ba phải ra Công an phường trình diện.

Ba hoàn toàn không nói một lời trách móc mẹ. Tất cả nỗi đau Ba giấu kín trong lòng. Có lần bà nội sang thăm Ba, bà ân cần nắm tay Ba nói trong nước mắt:

- Má xin lỗi con. Má không biết phải làm sao cho đúng!

Ba cười hiền từ:

- Cũng là số phận của con thôi. Má đừng buồn!

Phải hơn nửa năm sau cô Tư mới đút lót được Công an để chuyển hộ khẩu của Ba về nhà cô. Và tôi đã có những ngày tháng vui vẻ sống bên cạnh Ba và cô Tư. Một mái gia đình đâu phải thật sự là của tôi nhưng sao tình cảm tôi nhận về quá thiết tha, sâu đậm. Cha “bắn tiếng” hăm dọa sẽ từ bỏ, không nhận tôi là con nữa. Ba khuyên tôi nên trở về xin lỗi cha mẹ, tôi nhăn mặt trách Ba:

- Con đang ở thiên đàng sao Ba lại nỡ lòng đẩy con xuống hỏa ngục. Ba hết thương con rồi phải không? Ai muốn từ con thì cứ từ... con không sợ. Con chỉ sợ Ba từ con thôi.

Đôi mắt long lanh, đỏ hoe của Ba cho tôi biết rằng Ba đang rất hạnh phúc khi biết rằng, trong lòng tôi, Ba mới thật sự là người cha tôi yêu kính.

Ngày bà nội mất Ba không đến nhưng trong căn phòng hẹp của Ba, Ba đã lập một bàn thờ nhỏ và lặng lẽ quấn vành khăn tang. Nếu mẹ đã làm tôi thất vọng vì sự bạc tình, bạc nghĩa đối với Ba thì tình cảm của Ba và bà nội làm tôi cảm động rơi nước mắt. Ba nói “Ba mồ côi từ bé, bà nội lại đối xử với Ba rất tốt, nên Ba thương bà nội như chính mẹ của mình”.

***

Những năm gần đây Ba mang một chứng bệnh nan y. Có lẽ, Ba sợ khi mất đi tôi sẽ bơ vơ vì không có ai là người thân thích ruột rà nơi đất khách quê người nên cứ nhắc nhở tôi trở về Việt Nam thăm “gia đình” nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều đó. Sự oán giận và ray rứt trong lòng tôi vẫn chưa nguôi ngoai dù thỉnh thoảng tôi vẫn gửi tiền về cho mẹ theo lời khuyên nhủ, nhắc nhở của Ba. Tôi muốn được ở cạnh Ba cho đến ngày cuối cùng để đền bù món nợ ân tình quá lớn mà mẹ tôi đã nợ của Ba.
         
Ngân Bình


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23148
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Nov/2020 lúc 12:31pm

Truyện ngắn Buổi Chiều Ở Thị Trấn Sông Pha - <<<<<

Phạm Thành Châu

Buổi%20Chiều%20Ở%20Thị%20Trấn%20Sông%20Pha



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/Nov/2020 lúc 12:35pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23148
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Nov/2020 lúc 4:49am

Songkhla Dậy Sóng


Hồi%20tưởng%20thời%20tị%20nạn
Tại quán Biển Xanh của Thị Trấn Songkhla, Thi Thi một mình đứng dựa vào lan can, mắt dõi nhìn ra phía biển xa xa. Bán Ðảo Malay nhô dài ra phía biển, xanh rợp những hàng dừa trông tựa như mũi của một con cá sấu. Buổi chiều, từng đoàn ghe, tàu ra vô làm cho cửa biển thật chộn rộn nhưng Thi Thi thì cứ vẫn đứng yên như thể tâm hồn phiêu bạt nơi đâu. Với kiến thức và suy tính của nàng, nàng nghĩ rằng việc tìm kiếm tông tích mẹ dù khó khăn nhưng không phải không hy vọng. Nhưng đến nay thì nàng cảm thấy tình thế hầu như tuyệt vọng cho nên hai giọt lệ tự nhiên lăn dài trên khóe mắt. Xót xa nghĩ đến mẹ, nàng nhắm nghiền đôi mắt và… ký ức kinh hoàng của chín năm về trước một lần nữa lại hiện về.

…..Năm 1978, Thi Thi còn là một cô bé muời hai tuổi theo cha mẹ vượt biên ở cửa biển Vũng Tàu – Bà Rịa. Sau ba ngày lênh đênh trên biển, tàu của Thi Thi gặp hải tặc Thái Lan và một màn cướp bóc dã man diễn ra. Mẹ Thi Thi bị hải tặc dẫn đi cùng với mấy cô gái khác. Sau khi ăn hàng xong, bọn hải tặc bỏ đi và thuyền của Thi Thi mấy ngày sau may mắn tắp vào được Đảo Bi Ðông. Vì quá nhớ thương vợ, hơn thế nữa ông bị kiệt lực vì chuyến vượt biển đầy gian nan, sóng gió, hãi hùng, ba của Thi Thi lâm bệnh và qua đời trên đảo. Ông được đồng bào chôn ông ở trên một mỏm núi đá nhìn xuống bãi biển. Thi Thi trơ trọi một mình, hằng tuần đều đến thăm mộ ba. Thi Thi lượm lặt những hòn sỏi, những vỏ ốc nằm chơ vơ trên cát về dát lên trên mộ thành hình những đóa hoa rồi thì thầm nói chuyện với ba như những lúc ba còn sống. Thi Thi không bao giờ nghĩ rằng ba đã chết… mà ông chỉ nằm yên nghỉ ở đây để chờ một ngày gặp lại mẹ Thi Thi – người yêu quý nhất đời ông.

Trong thời gian Thi Thi còn tá túc ở trại chuyển tiếp Sungei Besi – Mã Lai thì tại một khu ngoại ô của thành phố Los Angeles – California, ông bà Brown đang chăm chú đọc một bản tin của cơ quan USCC kêu gọi các nhà hảo tâm Hoa Kỳ đứng ra bảo trợ các gia đình tỵ nạn Ðông Dương mệnh danh là Boat People. Ông Brown là kỹ sư trưởng của một hãng điện tử, còn bà Brown là giáo sư tại một Ðại Học Cộng Ðồng. Năm ấy ông bà khoảng bốn mươi tuổi. Ông bà rất chú ý đến trường hợp của Thi Thi bởi hai lý do: Ông bà lấy nhau đã mười năm nay mà không có con cái gì. Ngoài ra ông còn là một cựu chiến binh trước phục vụ tại Việt Nam. Năm 1967 phi cơ của ông bị bắn rớt ở Bình Long nhưng ông được một bé gái trạc tuổi Thi Thi chỉ đường cho ông chạy trốn ra quốc lộ cho nên ông còn sống sót tới ngày nay. Nhìn hình ảnh Thi Thi trong bản tin của cơ quan USCC, ông nhớ lại kỷ niệm xưa và có ý muốn nhận nuôi Thi Thi để đền ơn một cô bé Việt Nam nào đó mà ông không bao giờ biết tên tuổi.

Vừa nhận bảo trợ, vừa nhận làm cha mẹ nuôi Thi Thi, hai ông bà lại có hai quan niệm khác nhau về cách xây dựng cuộc đời cho Thi Thi. Bà Brown thì muốn Thi Thi sớm quên đi quá khứ đau buồn để hội nhập vào xã hội mới và dĩ nhiên tạo lập cuộc đời mới trên quê hương mới cho nên bà muốn Thi Thi trở thành một bác sĩ. Còn ông, ông lại có quan niệm và một chủ đích khác. Ông muốn Thi Thi đừng đánh mất bản sắc của mình vì Việt Nam cũng là mảnh đời khó quên của ông. Vả lại, mẹ Thi Thi dù bị hải tặc bắt đi nhưng chưa chắc đã chết… may đâu? Cho nên khi Thi Thi tốt nghiệp trung học ông đã thuyết phục bà cho Thi Thi học ngành báo chí tại U.C.LA. Khi Thi Thi được hai mươi mốt tuổi và cũng là lúc nàng tốt nghiệp bằng Cử Nhân, do sự quen biết ông xin cho Thi Thi làm phóng viên của tờ Los Angeles Tribune. Năm sau, đích thân hai ông bà đến gặp ông tổng biên tập, trình bày về trường hợp của Thi Thi, cái gì xảy đến cách đây chín năm và xin tờ Los Angeles Tribune đứng ra bảo trợ cho một cuộc tìm kiếm người đàn bà xấu số… tức mẹ của Thi Thi. Sự việc được trình lên Hội Ðồng Quản Trị và Ban Quản Trị nhận thấy đây vừa là vấn đề nhân đạo vừa là dịp điều tra sâu rộng về những hành vi tàn bạo của cướp biển Thái Lan nên đã đồng ý bảo trợ. Tuy nhiên sắp xếp cho chuyến đi không phải chuyện dễ dàng. Nếu sơ hở, sinh mạng người đi điều tra lâm nguy đã đành mà cướp biển có thể thủ tiêu người đàn bà để phi tang. Cuối cùng thì người ta đã đồng ý với nhau về một kế hoạch. Tờ Los Angeles Tribune loan tin bảo trợ cho một cuộc khảo cứu sinh vật học dưới biển ở Thái Lan và cần tuyển một người cho công tác này. Bài báo loan đi được nửa tháng thì một thanh niên tới trình diện. Chàng tên Peter, tốt nghiệp Hải Dương Học và đang phục vụ tại Ðại Học Stanford. Năm nay chàng hai mươi bốn tuổi, đẹp trai, thông minh, khoẻ mạnh, hoạt bát, thích phiêu lưu mạo hiểm nhưng chưa có dịp. Sau cuộc phỏng vấn, Peter được gặp Thi Thi để nghe nàng nhớ lại, kể lại tất cả những gì đã xảy ra cho gia đình mình cách đây chín năm. Sau hơn một tháng tập lái tàu, nghiên cứu phong tục tập quán, bờ biển các khu vực đánh cá trong Vịnh Thái Lan nhất là khu vực Songkhla. Ðể an toàn cho chuyến đi, Peter và Thi Thi được đưa qua Sydney rồi mới đáp máy bay đi Bangkok như thể một cặp tình nhân đến từ Úc Châu.

Tại Bangkok, Peter có người cậu làm tùy viên văn hóa của Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan. Peter đến thăm cậu và nói rõ mục tiêu của chuyến đi. Nghe xong câu chuyện ông cậu rất xúc động nhưng cũng khuyên cháu nên hết sức cẩn thận vì hành tung của cướp biển Thái Lan lúc ẩn lúc hiện và khi bọn chúng đã ra tay thì hết sức tàn bạo. Ông giới thiệu cho Peter một một thám tử tư người Thái Lan tên Surat trước đây vốn sinh trưởng ở vùng Songkhla cho nên không một ngõ ngách nào của Songkhla mà Surat không biết. Sau khi nghe trình bày sự thể, Surat vui vẻ nhận lời cộng tác vì theo anh bản tính dân Thái Lan vốn hiền hòa, cướp biển chỉ là thiểu số đi ngược lại bản tính đó và làm hoen ố danh dự của dân tộc Thái Lan. Surat năm nay ngoài ba mươi tuổi nói tiếng Anh rất lưu loát. Surat da nâu nâu, thân hình khỏe mạnh có bộ râu mép giống Clark Gable và lúc nào cũng vậy – do méo mó nghề nghiệp anh ta luôn luôn mang kính đen và khẩu súng lục trong người. Do tính chất nguy hiểm của chuyến đi, Surat khuyên Peter nên đem theo súng và anh ta đã dùng giấy phép của hãng thám tử tư của chính anh để cấp giấy đeo súng cho Peter.

Là người kinh nghiệm, tế nhị và cũng để thử tài Peter trong chuyến “hành hiệp”, trước tiên Surat để Peter quyết định về kế hoạch hành động. Peter bàn với Thi Thi và Surat là nên đến Hội Ngư Phủ Songkhla để dò la tin tức. Qua sự thông dịch, Surat giới thiệu với ông Chủ Tịch Hội Ngư Phủ, Peter và Thi Thi là hai nhà nghiên cứu Hải Dương Học muốn tìm hiểu về tiềm năng đánh cá của vùng Songkhla, nhất là những con tầu thường đánh cá ở Vịnh Thái Lan. Peter lý luận rằng theo tài liệu của Liên Hiệp Quốc thì các con tàu tham dự vào các chuyến cướp biển đều là tàu gỗ, có khả năng đánh cá xa bờ khoảng 100 hải lý, làm ăn theo lối gia đình, ít mướn nhân công bên ngoài. Nếu nắm được danh sách này thì ít ra cũng có tài liệu để lần ra manh mối. Còn Surat thì giới thiệu mình là thông dịch viên trước có du học ở Úc Châu. Là người hiếu khách, ngay tình, ông chủ tịch đưa ra một danh sách dài dằng dặc bao gồm tên chủ tàu và các con tàu hiện gia nhập hội của ông. Cầm bảng danh sách này trên tay Peter hỏi làm sao phân biệt được tàu gỗ hay tàu sắt? Ông chủ tịch nói cái đó cũng dễ thôi vì mỗi loại tàu đều có số mã riêng. Ðêm đó Peter ngồi một mình với bản danh sách trong phòng riêng.



Sáng hôm sau chàng thú nhận với Thi Thi rằng cái danh sách này tựa như một đám rừng chỉ làm chàng đau đầu thêm cho nên chàng đề nghị một kế hoạch khác. Theo Peter thì khi hải tặc bắt được đàn bà, con gái nếu không bán đi để làm gái điếm thì chúng cũng dấu trên các hoang đảo để làm “áp trại phu nhân”. Do đó nếu dò thám các hoang đảo may đâu chẳng tìm ra manh mối? Theo đúng đề nghị của Peter, cả ba đến gặp ông Giám Ðốc Hàng Hải Songkhla để hỏi thăm tin tức, sưu tập bản đồ của những hòn đảo nằm quanh khu vực. Ba người có lúc đi chung, có lúc đi riêng để dò la các hòn đảo, mệt nhoài cả người nhưng cũng chẳng thêm chút ánh sáng nào.

Thấy hai kế hoạch cuả Peter không đem lại kết quả – cảm thấy đã đến lúc trổ tài, Surat lý luận: Mục tiêu của đám cướp biển là cướp vàng bạc vì chúng biết rằng người tỵ nạn Việt Nam khi vượt biên đều mang theo tài sản vì họ cho rằng không bao giờ họ còn có cơ hội quay lại Tổ Quốc nữa. Một khi tóm được vàng bạc, có khi là vàng lá, kim cương, nhẫn vàng, khuyên vàng… bọn chúng có thể đem bán cho các tiệm vàng ở Thị Trấn Songkhla để lấy tiền chi dùng, ăn nhậu hoặc để bao gái nhất là để đánh bạc. Do đó Surat đề nghị hai người tạm nghỉ ở nhà để Surat đi xuống khu Trung Tâm của Songkhla. Tại đây Surat tìm đến một người bạn tên Sok, sau khi cha về hưu, anh ta hiện nối nghiệp cha làm chủ một tiệm vàng. Sau khi tốt nghiệp trung học tính ra có đến mười mấy năm hai người không gặp nhau. Tối đó Sok rủ Surat đi nhà hàng để hai bên ăn nhậu, hàn huyên cho thỏa thích. Trong lúc rượu đã ngà ngà, Surat hỏi Sok xem cách đây khoảng chín, mười năm Sok còn nhớ tên chủ tàu nào đến đổi chác vàng bạc ở tiệm không? Sok cho biết đám dân chài luới mỗi lần trúng mùa họ thường mua sắm vàng bạc, nữ trang, ăn nhậu dữ lắm còn chuyện đem vàng bạc đi bán là chuyện bất thường, chỉ khi nào họ liên tiếp thất bại một, hai mùa cá. Tuy nhiên, theo Sok thì có một trường hợp mà anh ta nhớ mãi là cách đây khoảng chín, muời năm, chủ tàu Lươn Biển đã bán cho cha anh một mớ nữ trang rất lớn mà theo anh không phải là loại làm ở Thái Lan. Bắt được tin này, Surat hí hửng về thông báo cho Peter và Thi Thi hay. Sau đó Surat quyết định để ra một tuần lễ liền, dùng ống nhòm quan sát cùng la cà khắp bến cảng nhưng chẳng thấy bóng dáng con tàu Lươn Biển đâu cả. Như thế là sau hai tuần lễ vất vả, cả ba vẫn chưa phăng ra một chút manh mối nào về hải tặc và dĩ nhiên sự việc đó đã gieo vào lòng Thi Thi nỗi niềm chua xót, hoang mang lẫn thất vọng.

Trong khi Thi Thi đang thả hồn mình về với quá khứ bi thương như thế thì Peter từ trong quán bước ra. Nhìn thấy Thi Thi, chàng dừng lại. Chàng không muốn làm kinh động, vừa để tôn trọng những giây phút riêng tư của nàng… mà cũng để ngắm nhìn. Sau gần một tháng đi chung, ăn uống chung và làm việc chung chưa bao giờ Peter thấy Thi Thi đẹp như vậy. Chưa bao giờ hình ảnh của Thi Thi lại thu hút tâm hồn chàng đến như vậy. Nắng và gió biển làm da Thi Thi đậm hơn một chút. Chiếc áo sơ-mi tay dài và chiếc quần Jean càng làm tăng thêm vẻ đẹp khỏe mạnh của nàng. Mái tóc dài bay lòa xòa truớc gió bao phủ lấy khuôn mặt Ðông Phương nhưng thanh thoát làm Peter liên tưởng đến sự thủy chung – nền tảng của hạnh phúc gia đình mà chàng đọc được nơi sách vở. Chính sự ngưỡng mộ và khát khao đó lại là động cơ thúc dục chàng nhích chân đi tới. Nghe tiếng động ở sau lưng, Thi Thi giật mình ra khỏi vùng hồi ức. Nàng quay lại và không ngạc nhiên khi thấy Peter. Tuy nhiên nàng vẫn đứng bất động và mắt như nhìn vào cõi xa xăm. Peter chầm chậm tiến đến gần, đứng yên một hồi lâu rồi mạnh dạn nắm lấy tay Thi Thi. Chàng nói:

- Anh hiểu nổi khổ đau của em. Nhưng anh linh cảm rằng chúng ta sẽ thành công. Em sẽ gặp lại mẹ em trong chuyến đi này. Ðừng để tình cảm làm suy yếu nghị lực của chúng ta. Nói xong chàng kéo tay Thi Thi và hai bước tản bộ dọc theo bến cá.

Trong khi hai nguời đang sánh bước bên nhau thì Surat ngồi rầu rĩ bên ly bia đã cạn. Anh toan lên tiếng gọi thêm chai nữa thì từ ngoài cửa hai thanh niên bước vào. Nhìn vóc dáng, cách ăn mặc, cách nói năng ai cũng phải nhận ra họ là dân chài lưới. Sau khi lớn tiếng gọi rượu và đồ nhậu, họ ăn uống rất dữ tợn. Phút chốc họ đã ngà ngà và đúng là… rượu vào lời ra. Một gã trong bọn nói:

- Mày có biết không trên đời này nhiều khi bố con giết nhau cũng chỉ vì một con đàn bà! Một con đàn bà… Việt Nam mới tức cười chứ!

Gã kia, sau khi dằn ly bia xuống bàn, lè nhè hỏi:

- Mày nói lại tao nghe. Cha con giết nhau hả? Ðứa nào ngu vậy cà? Ð.M. có nói dóc không mày?

Sau khi cầm ly bia uống ực một hơi, gã lên tiếng đầu tiên nói tiếp:

- Thì cha con thằng cha chủ tàu… chủ tàu Lươn Biển chứ ai!

Nghe đến đây thì Surat như bị điện giật. Anh ta vội vã kêu thêm một chai bia nữa uống để câu giờ và vểnh tai nghe. Khi hai gã đã dứt tiệc nhậu, lảo đảo buớc ra ngoài và chia tay ở truớc quán thì Surat theo bén gót gã lên tiếng đầu tiên mà sau này y xưng tên là Thom. Surat theo chân Thom đến tận nhà và mua chuộc Thom bằng hai lạng vàng để được biết tung tích con trai lão chủ tàu Lươn Biển.

Theo tin tức của Thom thì Uthai – con lão chủ tàu Lươn Biển, hiện y đang chỉ huy con tàu Sóng Thần. Tàu của y thường lênh đênh nửa tháng trời ngoài biển và có lẽ vài ngày nữa sẽ trở lại bến Songkhla để xuống cá. Sau khi xuống cá y có thói quen ăn nhậu và kiếm gái ở Quán Giang Hồ. Sau khi thu lượm được tin tức bằng vàng này, Surat hối hả quay trở lại khách sạn để cùng Peter và Thi Thi lập kế hoạch bắt cóc Uthai vào lúc chạng vạng tối.

Theo đúng dự trù. Thi Thi ăn mặc giả làm “cô gái bán hoa” quanh quẩn ở quán Giang Hồ. Khi Uthai mặt đỏ gay, lảo đảo buớc ra ngoài thì Thi Thi bước tới… liếc mắt đưa tình. Chính Uthai cũng hết sức ngạc nhiên không hiểu tại sao bến Songkhla hôm nay lại có một đóa hoa tươi đẹp như vậy cho nên y mê mẩn cả tâm thần và đưa tay ôm đại lấy Thi Thi. Mặc dù giận căm gan và nhiều lúc muốn nôn oẹ vì mùi rượu nồng nặc từ miệng Uthai thở ra. Thi Thi cũng phải cắn răng chịu đựng cho gã ôm ấp rồi dìu gã vào một ngõ tối là nơi mà Peter và Surat đã phục sẵn. Khi gã còn đang lảm nhảm mấy tiếng Thái có lẽ là “Anh anh…, em em” thì bằng quả đấm thôi sơn ngay cằm, Peter quất gã quay lơ trong khi đó Surat nhanh tay chụp lên mặt gã một chiếc khăn tẩm thuốc mê rồi hai nguời dìu nách gã xuống tàu như thể hai người đang đưa một người bạn ăn nhậu say về nhà.

Dưới con tàu sắt mà ba người đã thuê, có trang bị đầy đủ Radar lẫn hệ thống thông tin với Sở Cảnh Sát và Lực Lượng Duyên Phòng Songkhla, Uthai bị trói gô vào một chiếc ghế sắt. Y khoảng ngoài ba mươi tuổi có khuôn mặt vều lên như cái mâm, da mặt sần sùi như vỏ quít. Uthai mặc một bộ đồ jean, cánh tay xâm trổ. Cả con người y tỏa ra một cái gì đó hết sức thô lỗ, hiếu sắc và tục tằn. Khi tỉnh dậy, Uthai ngạc nhiên khi thấy y bị trói thúc ké. Vài giây sau, có lẽ đã nhớ lại những gì xảy ra tại Quán Giang Hồ, y trở nên vô cùng tức giận. Y quắc mắt hỏi:

- Các người là ai? Tại sao lại bắt ta?

Nói xong y gầm gầm, gừ gừ khiến bộ mặt sần sùi đen đủi của y càng thêm hung dữ. Như một tay thẩm vấn nhà nghề cần ra tay trước để thị uy, Surat xáng cho y một quả đấm ngay sống mũi khiến phải mất vài giây sau mới có thể hoàn hồn. Ðợi cho y đã tỉnh táo, Surat chìa ra trước mặt y một tấm hình bán thân cỡ 8×10 rồi gằn giọng hỏi:

- Mày có biết nguời này là ai không?

Uthai rõ ràng sửng sốt khi nhìn thấy tấm hình nhưng vẫn lắc đầu:

- Tôi không biết!

Tấm hình mà Surat đưa ra trước mắt Uthai không gì khác hơn là tấm ảnh bán thân được rọi lớn của mẹ Thi Thi – một kỷ vật mà Thi Thi lưu giữ chín năm qua. Trước cử chỉ ngang bướng của Uthai, Surat đưa mắt nhìn Peter như để xin chỉ thị. Peter khẽ gật đầu. Một chiếc thùng nước được lôi ra và Surat nhanh tay nắm lấy tóc Uthai nhận xuống. Chỉ ít giây sau thì cái đầu của Uthai quậy lên dữ dội nhưng bàn tay cứng như sắt của Surat vẫn cứ ấn xuống cho đến khi Uthai gần ngất xỉu thì Surat giật ngược đầu của y lên, quắc mắt hỏi lần nữa:

- Bây giờ mày có biết người này là ai không?

Tới mức này thì bộ mặt thiểu não của Uthai khẽ gật gật. Thấy vậy Peter hỏi và Surat thông dịch ra tiếng Thái:

- Mày có biết cha mày hiện giờ ở đâu không?

Uthai dư sức thông minh để hiểu rằng nếu y nói “không” thì chắc chắn y sẽ được cho “đi tàu thủy” một lần nữa cho nên lặng lẽ gật đầu. Thấy vậy Peter liền nói:

- Bọn tao kỳ hẹn cho mày trong hai ngày. Nếu không tìm thấy tàu của cha mày thì mày sẽ được gửi đi “thăm Hà Bá” biết chưa?

Nói xong Peter chỉ vào quả tạ bằng sắt thật lớn có sợi dây xích nằm ở một góc. Sau đó con tàu được nổ máy tiến ra cửa. Khi tàu đã ra khỏi cửa biển thì Uthai được điệu lên boong và bị trói chặt vào cột tàu. Theo lời khai của Uthai thì cha y hiện đang đánh cá tại toạ độ X. Ðánh cá xong tàu của cha y mới quay trở về bến Songkhla cho nên đó cũng là lý do tại sao Surat dò xét khắp nơi mà cũng chẳng thấy con tàu Lươn Biển đâu cả.

Kể từ khi nhúng tay vào những vụ cướp biển và bắt được mẹ Thi Thi thì Kamphaeng – cha của y đổi kế hoạch với mục đích giữ kín tung tích mẹ Thi Thi. Thay vì cùng đánh cá chung rồi cùng về, Kamphaeng đổi sang lối đánh cá xen kẽ. Khi con tàu của y sắp vào cửa thì con tàu của Uthai được lệnh ra khơi. Khi hai tàu gặp nhau ở ngoài cửa thì mẹ của Thi Thi được chuyển qua tàu của Uthai. Do đó khi tàu cặp bến với số người đông đảo lên xuống cá, hoặc nếu có thanh tra kiểm tra tàu thì cũng chẳng có ai nhìn thấy bóng dáng người đàn bà Việt Nam ấy cả. Do đó mà Kamphaeng đã sống an toàn với mẹ Thi Thi suốt chín năm qua. Kamphaeng năm nay khoảng ngoài năm mươi tuổi. Mặt mày y đen đủi, tóc quăn cháy, thân hình to lớn và tỏa ra một cái gì rất man rợ. Y thường xuyên cửi trần, quấn chiếc xà-rông màu đỏ và đeo lủng lẳng bên mình dao quắn cho nên trông y dữ tợn như một hung thần.

Nhưng cũng chính vì cách dấu người như thế cho nên Uthai đã có cơ hội gần gũi người đàn bà và dần dần trở nên say mê bà vì tính ra tới năm nay bà mới khoảng bốn mươi lăm tuổi và bà trở nên một vương hậu giữa đám thổ dân đánh cá đen đúa, xấu xí. Mới đầu thì lão hải tặc không biết. Nhưng sau thì người của lão báo cáo là “đứa con bất hiếu” đã gian díu với “phu nhân” của lão cho nên lão giận điên người và đã có lần rút dao chém Uthai đúng như câu chuyện mà Surat đã nghe lén được ở Quán Giang Hồ. Kể từ đó đến nay hai cha con trở thành hai kẻ tử thù và đều muốn tránh mặt nhau.

Cũng theo lời khai của Uthai thì đã nhiều lần mẹ Thi Thi tìm cánh trốn lên boong để lao mình xuống biển tự tử để sớm dứt cuộc sống nhục nhã nhưng đều bất thành. Kể từ đó lão già hải tặc cấm không cho bà rời khoang tàu. Và cứ như thế cuộc sống khổ đau của bà – khi thì phải “làm vợ” lão hải tặc, khi thì phải “làm vợ” Uthai kéo dài đã chín năm trời qua. Nghe Uthai kể đến đây thì Thi Thi khóc như mưa gió vì thương mẹ. Còn Peter và Surat thì nghiến răng trèo trẹo vì căm giận loài cướp biển.

Theo đúng lời khai của Uthai, con tàu ra khơi đã được một ngày và một đêm nhưng không thấy bóng dáng của con tàu đánh cá nào lảng vảng chung quanh. Ðã có lúc Surat nóng nảy đề nghị quăng tên quỷ sứ này xuống biển cho rồi nhưng Peter khuyên Surat nên kiên nhẫn thêm chút nữa.

Bây giờ thì trời đã hừng đông và mặt biển đẹp tuyệt trần. Tàu chạy khoảng hai tiếng đồng hồ nữa thì một chấm đen xuất hiện ở hướng Ðông Bắc. Uthai nói:

- Có thể đó là con tàu của cha tôi. Nếu đúng thì nó sơn màu đỏ đen và trên có lá cờ hình con lươn biển.

Nghe nói vậy tất cả đều nai nịt và ở tư thế sẵn sàng. Thi Thi trao ống nhòm cho Peter. Duới sự điều khiển của Peter, Surat gia tăng tốc độ hướng mũi tàu về phía con tàu Lươn Biển. Trong đầu Peter lúc này nảy ra một kế hoạch thật táo bạo: Uthai được chụp lên đầu một tấm vải do đó khi hai con tàu tiến đến gần nhau thì phía bên kia sẽ không nghi ngờ gì cả. Khi hai con tàu đã áp sát vào nhau thì Thi Thi có bổn phận giữ tay lái, còn Surat lanh lẹ giật giây trói và đẩy Uthai qua phía bên kia. Kế hoạch diễn ra đúng như dự liệu. Trong khi đám người trên con tàu Lươn Biển còn đang reo hò, vẫy gọi vì tưởng đó là con tàu thân thiện thì tàu của Peter áp nhanh vào cạnh sườn. Sau khi giật giây trói cho Uthai, Surat quát lớn:

- Nếu mày không chạy qua tao bắn nát óc ngay!

Trước tình thế nguy nan đó Uthai nghĩ nhảy qua con tàu Lươn Biển may đâu y còn có cơ hội sống sót vì cha y có thể không nỡ xuống tay cho nên y phóng mình qua như một con chim. Khi thấy một bóng người bất thần nhảy qua, định thần nhìn kỹ lại thì lão hải tặc nhận ra đây là “đứa con quý tử” của lão. Vả lại trong lúc sự việc xảy ra quá nhanh, lão nghĩ rằng thằng con phản phúc đã rước cảnh sát đến đây bắt lão cho nên lão gầm lên một tiếng:

- Ðồ thằng con bất hiếu!

Và lão vung con dao quắm chém xuống. Từ bên thành tàu nhảy qua, chưa kịp giữ thăng bằng thì Uthai lãnh đủ nhát dao chém vào bả vai và y gục xuống trên vũng máu.

Trong khi đó thì Peter và Surat đã phóng qua với hai khẩu súng lăm lăm trên tay và một khung cảnh hỗn loạn diễn ra trên boong. Thấy tình thế nguy cấp lão hải tặc tháo chạy xuống khoang và Peter bám sát theo lão. Vì không quen đường lối xuống khoang tàu cho nên khi Peter xuống tới bậc thang cuối cùng thì lão hải tặc đã biến mất ở cuối buồng cho nên chàng phải dừng lại, dò từng bước, súng chĩa thẳng phía trước. Nhưng khi Peter vừa mới tiến được vài bước thì một tiếng quát dữ dội vang lên:

- Bỏ súng xuống nếu không tao cắt cổ con mụ này!

Cùng với tiếng quát lão hung thần xuất hiện, một tay ôm ghì lấy người đàn bà để làm khiên che đạn, còn tay kia lăm lăm chiếc dao quắm kề sát cổ. Nguời đàn bà đang bị kềm chế đó không ai khác hơn là mẹ Thi Thi. Khi Peter còn đang lưỡng lự thì một tiếng quát thứ hai vang lên. Peter hiểu rằng nếu còn chần chừ thì sinh mạng của người đàn bà có thể lâm nguy cho nên chàng đành làm theo lời lão hải tặc. Khi thấy chàng đã quăng khẩu súng, lão hải tặc kéo sền sệt người đàn bà tiến về phía đó. Nhưng vì lão chỉ có hai tay, một tay đã cầm dao quắm, một tay bận níu chặt người đàn bà cho nên khi cúi xuống nhặt khẩu súng lão buộc lòng phải chuyển con dao qua cánh tay kia. Giữa giây phút tử sinh quyết định này – có lẽ mẹ Thi Thi quyết liều thân với tên cướp biển cho nên bà bật tung cánh tay của y ra để chạy về phía Peter. Do bản năng, lão già nhoài người ra để túm lấy mẹ Thi Thi. Quả đây là cơ hội bằng vàng cho nên Peter nhào tới đá văng khẩu súng sang một bên. Thấy tình thế bất lợi, lão già chém đại một nhát rồi phóng vội lên boong tàu. Khi Peter lượm lại được khẩu súng, leo được lên boong thì Surat đang vật lộn với một tên cướp biển còn Thi Thi cũng đã leo qua được thành tàu bên này. Nhưng khi nàng vừa đứng yên trên hai chân thì lão hải tặc đã từ xa phóng tới. Thấy lão nàng kinh hãi rú lên một tiếng rồi lao mình phóng chạy. Nhưng khi chạy tới đuôi con tàu thì nàng hoàn toàn tuyệt lộ. Thi Thi không còn đường nào khác hơn là hai tay ôm lấy mặt để chờ đợi lưỡi dao chém xuống. Nhưng khi lưỡi dao vừa dơ lên thì Peter đã xuất hiện ở sau lưng lão hải tặc. Chàng đưa súng lên và bóp cò. Nguời ta chỉ thấy lão kêu rú lên một tiếng, quăng con dao quắm lên trời rồi lảo đảo ôm lấy bả vai nhưng vẫn hung hãn lao về phía Thi Thi đang ngồi co rúm, lưng dựa vào thành tàu. Rồi do đà hụt hẫng và cũng do tình cờ một con sóng mạnh ào tới làm đuôi tàu hơi tròng trành cho nên lão già té nhào xuống biển. Khi Peter chạy tới thì Thi Thi như người chết đi sống lại, nàng ôm chầm lấy Peter. Giây phút sau nàng vừa thở hổn hển vừa hỏi:

- Có gặp mẹ em không? Mẹ em có sao không?

Peter gật đầu và lấy tay chỉ về phía cầu thang. Khi hai nguời chạy tới thì Surat cũng đã hàng phục được tên cướp biển và từ dưới khoang tàu một người đàn bà nhô lên. Ðó là một khuôn mặt Việt Nam nhưng lại quấn một chiếc xà-rông và mái tóc đã phai màu sương khói. Vừa đặt chân lên tới boong tàu bà hít một hơi dài rồi quỳ xuống, ôm mặt kêu rống lên:

- Trời Phật ôi! Bao năm qua con mới được nhìn thấy ánh mặt trời!

Trong khi người đàn bà còn đang quỳ lạy như thế thì Thi Thi nhào tới ôm chặt lấy bà rồi nghẹn ngào thốt lên:

- Mẹ ơi! Con là Thi Thi! Thi Thi là con đây!

Dường như hai tiếng Thi Thi là hai tiếng quá thân thương với bà cho nên sau vài giây ngơ ngác bà ôm chầm lấy Thi Thi rồi khóc nức nở như một đứa trẻ. Rồi bà vừa khóc vừa nói:

- Con là Thi Thi của mẹ đó hả? Tôi mơ hay tôi tỉnh đây? Thi Thi! Mẹ là mẹ của con đây! Ba của con đâu rồi Thi Thi?

Nói vừa dứt câu đó, vì quá xúc động bà ngã ra bất tỉnh.



Sau khi Surat liên lạc vô tuyến với Sở Cảnh Sát và Duyên Phòng Songkhla đến để nhận con tàu Lươn Biển và còng tay đám cướp biển đã bị hai người hàng phục, con tàu sắt trên đó có chở theo mẹ của Thi Thi rẽ sóng quay trở lại bến cảng Songkhla. Ngày hôm sau bốn người đáp máy bay trở về Bangkok và được xe của Tòa Ðại Sứ Mỹ đón tận phi trường. Ðêm đó Peter và Thi Thi gọi điện thoại báo cho ông Tổng Biên Tập tờ Los Angeles Tribune là chuyến công tác đã thành công.

Tuần lễ sau, do lời yêu cầu của mẹ Thi Thi, dưới sự giúp đỡ của Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ, ba nguời giã từ Surat rồi đáp máy bay đi Kuala Lumpur. Rồi từ Kuala Lumpur ba người lại đáp máy bay đi thị trấn Terengganu nằm ở đông bộ Mã Lai. Chờ đợi ở đây một ngày, ba người được một giới chức Mã Lai huớng dẫn xuống con tàu Blue Dart là con tàu duy nhất chở thực phẩm, tiếp tế cho đồng bào tỵ nạn trên Đảo Bi Ðông.

Trên đường trở về đảo cũ, Thi Thi không nén đuợc xúc động. Nàng luôn miệng kể cho mẹ và Peter nghe đoạn đường luân lạc mà nàng đã trải qua. Khi ba người đặt chân lên đảo thì trời đã về chiều, cơn nóng nhiệt đới đã giảm dần và bầu không khí dìu dịu. Nhìn những em bé gái mười một, mười hai tuổi tức tuổi của Thi Thi cách đây chín năm đang xếp hàng lấy nuớc, đang đứng ngơ ngác hoặc lấy tay vẫy khi có phái đoàn lạ viếng thăm đảo, Thi Thi không cầm được nước mắt vì biết đâu trong số này chẳng có những em mà cha mẹ đã bị hải tặc bắt đi. Cứ từng chặng, nàng lại chạy tới ôm hôn mấy em bé và cho các em kẹo. Sau chín năm nhà cửa trên đảo Bi Ðông đã tiều tụy đi nhiều nhưng Thi Thi vẫn còn nhớ con đường dẫn ra nghĩa trang nằm trên một mỏm núi nhìn xuống bãi biển. Khi tiến tới trước một nấm mồ, sau khi quan sát kỹ Thi Thi nói với mẹ:

- Ðây là mộ ba!

Khi Thi Thi vừa nói dứt câu thì Peter lanh lẹ đặt lên đó một bó hoa mà ba người đã mua ở chợ Terengganu, còn mẹ của Thi Thi thì quỳ xuống và bà gục mặt khóc trước nấm mồ. Không sao kiềm chế được xúc động, Thi Thi cũng vừa ôm chặt lấy mẹ vừa bật khóc. Trước giờ phút linh thiêng này Peter cũng lặng lẽ quỳ xuống bên cạnh hai người.

Không hiểu thời gian qua đi đã bao lâu. Khi cơn xúc động đã dịu dần, Thi Thi dìu mẹ đứng dậy. Giờ đây đảo Bi Ðông đã về chiều và những cơn gió mát rượi từ ngoài khơi lồng lộng thổi về. Trong khi mẹ Thi Thi đang lo nhổ mấy ngọn cỏ dại và đắp lại mấy vỏ ốc đắp trên nấm mồ đã bị mưa gió làm trôi đi, Thi Thi sau một ít phút tư lự, nàng nhìn vào đôi mắt Peter nói:

- Giờ đây bao nhiêu hiểm nguy đã qua. Anh có muốn cùng em về để phụng dưỡng mẹ già không?

Trước đề nghị quá bất ngờ của Thi Thi, mặt Peter từ từ sáng rỡ lên như một đứa trẻ rồi chàng nắm chặt lấy tay Thi Thi nói:

- Ðó là niềm khao khát, là giấc mơ của anh. Em đã làm tròn bổn phận với cha mẹ. Anh rất sung sướng được sống suốt đời bên người con gái hiếu thảo như em!

Nói xong chàng ôm chặt lấy Thi Thi. Giây lát sau chàng xoay người Thi Thi ra mé biển rồi xúc động nói tiếp:

- Anh xin cám ơn em! Qua chuyến đi này anh đã học được một bài học mà không một sách vở nào có thể nói hết đó là: chính khổ đau chứ không phải hạnh phúc đã làm cho tình cảm con người lớn lên. Chính thảm kịch Biển Ðông kia đã là một thử thách về nhân cách của con người. Cuối cùng thì nhân cách của con người đã thắng Thi Thi ạ!

Trên con đường từ khu nghĩa trang quay trở về, mẹ Thi Thi đi trước rồi Thi Thi và Peter theo sau. Gió chiều vẫn thổi lồng lộng và mặt biển lấp lánh như một hồ nước đẹp tuyệt trần. Nó trông tựa như một vòm sân khấu diễm lệ mà tất cả mọi vở kịch vui buồn có thể trình diễn trên đó. Xa xa một vài con thuyền nhỏ nổi bật trên mặt nước xanh thẳm. Có thể đó là chiếc du thuyền chở một cặp tình nhân trong thời kỳ trăng mật. Ðó cũng có thể là một con tàu đang chộn rộn đánh cá để mưu sinh. Và sau hết nó cũng có thể là con tàu tỵ nạn đang liều chết tiến vào đây để tìm nơi nương náu, để tìm chút tình thương nơi hòn đảo nhỏ bé này.



(Trích tuyển tập truyện ngắn Hương Xót Xa xb năm 1998)


Đào Văn Bình
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23148
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Dec/2020 lúc 8:40am

MẤY SÔNG CŨNG LỘI


File:Philippine%20refugee%20processing%20center%20bus.jpg%20-%20Wikimedia%20Commons

Tình yêu thì ở nơi đâu cũng có, mùa nào cũng có, nhất là trong trại tỵ nạn khi mà nỗi buồn niềm vui mong manh luôn luôn hiện hữu.

Nhưng đừng nghĩ rằng ở trại tạm dung lộn xộn thì được tự do hẹn hò yêu đương; vẫn có nhiều trường hợp bị cấm đoán, ngăn cản.
Không cách núi ngăn sông mà lòng phải nhớ nhung, gặp nhau lén lút, bí mật (vội vàng thay những lúc yêu người).

1.
Chàng và nàng là cư dân cùng lô nhà với tôi. Nàng qua trại cùng với bố mẹ, bà ngoại và hai đứa em trai. Là con gái mới lớn, con gái cưng của gia đình nên khi biết nàng quen với chàng thì cả nhà phản đối, lý do rất rõ ràng: chàng đã có một đời vợ bên Việt Nam.

Dù chàng có giải thích đã ly dị vợ cũ, đường ai nấy đi, nhưng mấy ai tin ở cái hoàn cảnh trại tỵ nạn xô bồ xô bộn này! Cho nên kể từ đó, nàng bị gia đình “kìm kẹp” sát nút, nhất cử nhất động đều có người đi theo, giám sát, cận kề.
Mà cái trại thì nhỏ xíu như cái lỗ mũi, đâu thể giữ nàng mãi trong “căn nhà” chật chội tù túng, mà hổng lẽ cả nhà cứ phải mất thời gian đi theo nàng cả ngày lẫn đêm?

Nhưng làm gì làm, nhiệm vụ “canh gác” con gái rượu vẫn được ưu tiên một. Vậy mà đùng một cái, tin đồn nàng… có bầu râm ran cả khu nhà.

Bà ngoại nàng qua nhà tôi kể lể than van: “Trời ơi là trời, nhà tui canh chừng nó không hở phút giây nào, chỉ có điều thỉnh thoảng phải cho nó đi bộ ra ngoài đi…vệ sinh, đi tắm rửa, hoặc buổi chiều cho nó đi dạo vài vòng co dãn chân cẳng, trước giờ giới nghiêm luôn có mặt ở nhà, chẳng bao giờ đi đâu qua đêm, giờ chẳng hiểu sao nó lại mang bầu?!”
Ái chà, ngoại hỏi tui, tui biết hỏi ai, nhất là cái vụ “không qua đêm mà vẫn mang bầu”- Ai biết đâu nà!

2.
Còn bác lớn tuổi kia, qua trại với cô con gái xấp xỉ tuổi băm (ba mươi). Chị ấy khá xinh nên được một anh chàng trong Ban An Ninh trại theo đuổi, nhưng chị không thích.
Tuy nhiên, bác ấy thấy chàng ăn nói ngọt ngào, lại có “chức sắc”, mỗi lần đến chơi đều mang theo những tin tức nóng bỏng về tình hình tỵ nạn, về cuộc thanh lọc khó khăn, nên bác nghĩ rằng biết đâu sẽ giúp ích được hai mẹ con trong cuộc thanh lọc và được đi định cư nước thứ ba.

Bởi vậy bác cứ ép uổng chị. Mỗi lần chàng đến chơi, chị trốn qua nhà tôi, còn bác đem trà bánh ra tiếp khách rất ân cần nồng hậu.
Chờ tối mịt, khách ra về rồi, chị mới về nhà, lần nào cũng bị bác càm ràm cả đêm, nghe nhức cái đầu.
Ông bà ta nói “nước chảy đá mòn”, “đẹp trai không bằng chai mặt” quả chẳng sai.
Một thời gian sau, chị lại cảm mến chàng. (Ủa, mà lần nào chàng đến chơi, chị cũng tránh mặt, vậy cảm mến lúc nào cà? Tôi thắc mắc lắm mà chưa có dịp hỏi!).

Nhưng đời ai biết được chữ ngờ, oái oăm thay, lúc đó mẹ chị cũng vừa nghe được tin đồn về quá khứ “lợn cợn” của chàng, nên đã trở mặt như trở bánh tráng nướng.
Hễ chàng đến nhà là bác lạnh lùng, cầm cây chổi chà đuổi thẳng tay, mà còn kèm thêm mấy câu chửi mới ghê. Thế là hai anh chị phải hẹn hò lén lút.

Vì tôi cũng có chút “chức sắc” đi làm thiện nguyện trong trại, nên được chị nhờ vả, đến rủ đi chơi là bác vui vẻ đồng ý.
Tội cho bác ấy, nào có biết đã “nuôi ong tay áo” là tôi. (bác nấu ăn rất ngon và rất quý mến tôi, hay để dành cho tôi những món mà tôi yêu thích).
Giờ tôi ở “ngã ba đường”, biết phải làm sao đây? Thôi thì “một liều ba bảy cũng liều”, thấy chàng và nàng nhớ nhau như Ngưu Lang Chức Nữ, ray rứt quá, tôi cầm lòng hổng đặng. Tôi đành phải… phản bội niềm tin tưởng của bác, đến xin cho nàng đi chơi, dẫn nàng ra điểm hẹn chàng đã đợi sẵn, rồi tôi đi về, để cho chàng và nàng tự do tâm tình “buồn vui đời tỵ nạn”.

3.
Tôi quen khá thân với anh bạn làm bên văn phòng Cao Uỷ. Anh qua trại với đứa con gái mười tuổi. Rồi “tình yêu không hẹn trước” cũng đã đến với anh giữa những chênh vênh hàng ngày của đời tạm dung.
Nhưng đứa con gái cương quyết bảo vệ ba nó, vì nó còn nhớ thương mẹ của nó, đã qua đời mấy năm trước vì bịnh tim khi còn ở Việt Nam.
Trái tim ngây thơ bé bỏng sợ ba nó san sẻ tình thương cho người phụ nữ khác mà bỏ bê nó chăng?

Ngoài giờ anh đi làm thì thôi, chớ về đến nhà là nó không rời anh nửa bước, mặt sưng mày sỉa khi cô bạn gái của ba đến chơi. Cho nên thỉnh thoảng anh cầu cứu tôi, với chút “uy tín” là cô giáo lớp Việt Ngữ tỵ nạn của nó, anh đưa tiền nhờ tôi dẫn nó đi chơi, ăn hủ tiếu, (dĩ nhiên là nó một tô, tôi cũng được một tô, chớ tôi đâu giúp miễn phí bao giờ).
Ăn xong, hai cô trò lang thang trong trại cỡ… vài ba tiếng để ba nó được thoải mái đi gặp người trong mộng cho vơi bớt nỗi nhớ nhung đợi chờ. (Yêu chi cho khổ không biết!)

Trong ba câu chuyện trên, chỉ có câu chuyện đầu tiên là tôi không dính dáng liên quan và họ đã có happy ending.
Chàng đậu thanh lọc, nàng ôm con hồi hương về Việt Nam, sau đó chàng bảo lãnh nàng và con qua Úc đoàn tụ, và câu chuyện chàng đã ly dị vợ trước khi đi vượt biên là có thật trăm phần trăm.
Thêm nữa, một thời gian sau, khi làm ăn thành công, ổn định cuộc sống, chàng còn bảo lãnh cả bố mẹ vợ, em vợ, bà ngoại vợ qua bên xứ Kangaroo, đại gia đình sum vầy hạnh phúc.

Riêng hai câu chuyện sau, tôi có “nhúng tay vào”, làm “ông tơ bà nguyệt”, làm “cây cầu Ô Thước”, âm thầm hỗ trợ hết mình “tình yêu trong gian khó” của họ, thì kết quả là họ… tan vỡ, mỗi người một phương trời, nghìn trùng xa cách.
Từ đó tôi mới biết mình là một “bà mai” vô duyên!!

Kim Loan
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23148
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Dec/2020 lúc 2:25am

Xin chân thành cám ơn nhạc sĩ Phạm Duy với sáng tác Nghìn Trùng Xa Cách, cùng tiếng đàn và hát của Phạm Ngọc Lân. Như trong câu chuyện Con Chim Biển, chúng tôi xin được trở lại với chuyện người nước Việt, nước Việt Nam mình. Câu chuyện có cùng tựa đề với tình khúc của Phạm Duy, được trích từ chương 10 của một hồi ký, chưa hoàn tất.

Và đây: Nghìn Trùng Xa Cách.
………………………………………………………………….

“Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi
Còn gì đâu nữa mà khóc với cười…”

“Nghìn Trùng Xa Cách” là một trong những tình khúc được biết đến nhiều nhất, khi nhắc đến nhạc sĩ Phạm Duy. Chuyện tình của tác giả đầy những lãng mạng; như vạt tóc nâu được nàng cắt ra từ mái tóc của mình, cùng với cánh hoa ép gởi cho chàng, để rồi tóc nâu còn mãi chút thơm tho cùng dòng nhạc thật trữ tình:

“…Vài cánh xương hoa nằm ép trong thơ
Rồi sẽ tan như bụi mờ
Vạt tóc nâu khô còn chút thơm tho
Thả gió bay đi mịt mù
Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi
Còn gì đâu nữa mà giữ cho người...”

Lời và nhạc “Nghìn Trùng Xa Cách” thật nên thơ, thật tình tứ, như cuộc tình của Phạm Duy và những người tình của mình.

Chừng như tương tư, thương nhớ, cùng những dang dở, xa cách… đã cho thơ văn và dòng nhạc thêm tình tứ. Chuyện xa cách nghìn trùng trong tình khúc của Phạm Duy, là chuyện tình. Chuyện tình ấy có lắm tình tiết lãng mạng, như chính tác giả và người tình. Con đường tình khởi từ miền Bắc, lúc chàng còn là trai trẻ ở năm 1944, sau đó xa cách, rồi 10 năm sau lại gặp nhau trong miền Nam tự do, nảy nở thêm chuyện tình, và rồi … cuộc tình mới ấy lại nghìn trùng xa cách tại Sài Gòn. Sau này, Phạm Duy có kể lại: “… Vào lúc sau Tết Mậu Thân 68… Qua một lá thư viết bằng bút chì, nàng giã từ tôi, không buồn rầu nuối tiếc, không ân hận xót xa. Xong rồi, mối tình của tôi phải chấm dứt ở đây. Tôi soạn bài “Nghìn trùng xa cách”, coi như lời tiễn biệt người yêu”. Tết Mậu Thân năm 1968, đã ghi dấu thời gian khi con đường tình lãng mạn của Phạm Duy và người tình trẻ, phải rẻ vào đoạn cuối, vì người yêu đi lấy chồng; Phạm Duy phải nghìn trùng xa cách người yêu, tiễn biệt nàng “lên xe về miền quá khứ”. Cái Tết Mậu Thân tang thương năm 68 ấy, đã có lắm xa cách nghìn trùng; những nghìn trùng xa cách, mà hàng triệu người dân miền Nam mình, sẽ còn nhớ mãi và mãi mãi vẫn xót xa đau.
. . .
Lúc chờ đợi thì tháng ngày tưởng như chậm lại. Đến ngày ra đi thì thời gian còn ở lại với quê hương, như hôm qua và hôm nay, sao quá ngắn ngủi. Phút giây cứ theo nhau vun vút bay qua. Mới đó đã hết ngày, chiều tới, rồi tối ụp xuống. Giấc ngủ còn chập chờn, chóng vánh thì đã nghe ghe xuồng khua động sông nước, chèo chống ra nhóm chợ. Bây giờ, Vũ với tôi ngồi thừ người ra với những luyến tiếc, ưu tư, lo nghĩ,.. biết bao điều chồng chất và xoáy rối trong lòng. Rời xa quê hương và người thân là mất mát xót xa tột cùng; muốn trốn đi và cũng muốn ở lại. Phần tôi, từ khi dùng giấy tờ của em mình, trốn công an quản chế, xuống ghe của Vũ ẩn thân; gia đình coi như là đã mất tôi rồi. Từ đó, tôi đã không thể trở về thăm gia đình. Hôm nay, tôi cũng sẽ trốn đi đơn độc, không vướng bận gia đình. Phận mình không may phải chết trong sông hay ngoài biển khơi, thì đành chịu vậy. Nhưng Vũ thì còn nhiều gánh nặng lắm. Nhìn Vũ cứ ngồi mồi thuốc hút liên tục, tôi biết bạn mình rất bồn chồn lo lắng cho thân quyến và gia đình mình, nhất là phải mang theo vợ cùng con thơ còn bồng bế. Tôi nghĩ là nên khuyên bạn mình đi sớm lên chợ đón anh Ba cho khuây khoả, hơn là ngồi đây chờ anh Ba đem tin xuống. Bàn tính công chuyện trên chợ vẫn kín đáo hơn là ở đây, ghe tàu đậu san sát nhau. Tôi xem giờ rồi nói với Vũ:

- Ê, chuyến xe đầu cũng sắp tới rồi đó. Tao coi ghe, mày thả lên trên bến xe, đón anh Ba với mấy cháu… đi ăn sáng cho vui, rồi… đi chợ luôn thể!

Vũ nghe vậy, hiểu ý tôi, lấy cái giỏ xách và bước vội lên bến.

Đang đứng trong lòng ghe múc nước trong thùng chứa lớn, châm vào các thùng nhỏ, để tiện chuyền nhau rót uống lúc ra khơi, chợt thấy ghe nghiêng chóng vánh, và có tiếng chân bước lên mũi ghe, tôi ngó lên, vui mừng:

- Mới tới hả anh Ba? Anh có gặp thằng Vũ ?

- Có chứ!... mấy cha con ăn sáng với nó trên quán chú Hón nãy giờ… … Nó gặp bạn bè gì đó kéo lại, còn ngồi trên quán đó …

Anh nói, rồi bảo con mình:

- Thưa "củ" Vinh đi con!

Vinh là tên trên chứng minh nhân dân của em tôi, mà tôi đang dùng. Anh Ba làm rể gia đình vợ có gốc người Tiều, nên quen miệng, thường xưng là "hia" thay vì “anh” và gọi tôi là "củ" thay vì cậu hay cậu em. Thấy anh vui vẻ, tôi an tâm ngay về việc di chuyển của nhóm đầu; hầu hết là thanh niên trai trẻ. Để tay mắt trong xóm và phường không nghi ngờ mà xét hỏi, anh Ba dẫn con đi trước. Chị Ba nán lại, chờ trưa trưa một chút, sẽ lẻn ra bến xe đò, để xuống điểm hẹn tại chợ ở dây.

Anh Ba chuyền con xuống cho tôi bồng, thả vào phía trong lòng ghe, khô ráo hơn. Trẻ con trông như lớn thật nhanh, Hiếu là đứa em, chắc cũng sắp đi học. Hiền và Hiếu đều rất ngoan hiền, càng lớn trông càng giống anh Ba, nhất là ba cha con mới hớt tóc và cùng một kiểu tóc. Anh rể của Vũ có vóc dáng khỏe mạnh như nhân vật tên Vọi của Khái Hưng, và trông rất nhà nông chất phát. Nhưng nghề may đồ "tây" của anh thì nhàn hơn chàng Vọi trong truyện Trống Mái. Anh còn có tài nấu ăn, làm đồ nhậu cũng rất nghề.

Cho con xuống ghe xong, anh quay lên cầu, đi lấy mấy cái giỏ và túi xách đựng rau cải, thức ăn, mới mua trên chợ, đưa xuống cho tôi:

- "Củ" để đại đâu đó giùm anh, rồi lên quán chú Hón kiếm cà phê uống đi… Vũ nó chờ “củ” lên tán dóc ở trển đó!

Tôi hiểu ý anh Ba, Vũ cần gặp tôi và chúng tôi không tâm trí đâu mà "tán dóc".
Trên này, chợ sáng đông đảo ồn ào, dễ bàn tính công việc hơn ở dưới bến, ghe tàu đậu sát vách nhau. Vũ kéo cái ghế ở bàn bên cạnh sang, cho tôi xen vào ngồi cùng bàn. Mừng tin nhóm đầu đến điểm hẹn đầy đũ. Nhìn qua khách trong quán, tôi thấy em của Vũ là Tài, Dân, Duy ngồi với một nhóm người trong góc quán. Hai cái bàn gần cửa cũng có vài thanh niên quen mặt, cùng trang lứa với Tài, tôi nhớ ra là con của chú Chín. Phải công nhận, anh Ba và Vũ rất khéo sắp đặt và dặn dò; nếu tôi không biết mặt thì không biết họ là người phe ta. Bàn tính xong, ba đứa em của Vũ và con của chú Chín biết về máy, sẽ là toán đi đầu, làm như thợ máy cùng bè bạn, theo chúng tôi xuống ghe chơi và giúp sửa máy.

Ghe tàu rủ ren bè bạn xuống ăn nhậu là việc rất bình thường, huống gì lúc ghe bị hư máy nằm bến như thế này. Sửa máy rồi bày ra ăn nhậu là chuyện tất nhiên phải có. Những người lạ mặt, sau khi được dẫn xuống ghe, ngồi ăn uống trên mui một lúc, sẽ rút êm xuống bên dưới ẩn thân. Anh Ba ngồi trên mui, vừa làm "chủ xị" của đám nhậu, vừa canh chừng tình hình xung quanh, để sắp xếp người lên bến và xuống trốn dưới khoang. Chốc chốc, có người thay nhau lên bến; khi thì xách chay đi mua thêm rượu, khi thì đi mua đồ nhậu, lúc trở xuống ghe sẽ dẫn thêm vài người khác. Đi lên thì ít người, trở xuống với nhiều người hơn; cứ thế mà thay và lòn người xuống ẩn mình trong lòng ghe. Người lên, ngườì xuống, làm rối mắt người chung quanh, và nếu không chú tâm theo dỏi kỹ, quanh đi ngó lại thì thấy chỉ có lố nhố sáu bảy người ăn nhậu trên mui, cũng áo quần công nhân, khó nhận ra khác thường. Phần Vũ và tôi ráp lại các bộ phận lặt vặt, đã tháo ra để nguỵ trang máy bị hư từ hôm qua. Biết máy vẫn chạy tốt, mọi thứ cần thiết cho máy vận chuyển cũng đã lo liệu xong; chúng tôi chỉ kéo dài cái cảnh: vừa sửa máy, vừa ăn nhậu, để đưa người xuống ghe.

Kiểm máy, kiểm dầu, nước, điện, coi lại xăng và hai cái máy bơm nước phụ, chèn cột chắc chắn mọi thứ; tất cả công việc cần thiết trong hầm máy đã xong hết rồi, Vũ rủ tôi lau tay, leo lên mui ngồi với anh em.

Nhìn chiếc xuồng bán xôi đang bơi cặp vào bến, Vũ đưa ly rượu cho anh Ba, nháy mắt, nói lớn:

- Dzô với tui một cái đi "hia", rồi làm… “dzài” câu cho bà con nghe!

Anh Ba mĩm cười, chúm môi cạn ly ngay, khà một hơi dài, rồi lên tiếng:

- Hò ơ... !... à… à…!

Vị rượu đế gắt quá, anh Ba phải dừng lại, à à tằng hắng. Nghe như thế này thì hò hát vụng về quá; nhưng thế đấy, có khi lại chất phát và tình cảm với người nghe lắm. Anh Ba lấy giọng, hò lại:

"Hò… ơ… ơ. . . chiếu Cà Mau nhuộm màu tươi thắm.
Công tôi cực lắm, mưa nắng dãi dầu.
Chiếu này tôi chẳng bán đâu. Tìm cô không gặp... ơ…. ờ… ờ…
Hò… ơ... ơ… ơ. . . tìm cô không gặp, tôi gối đầu mỗi… ơ… đêm!"

Bản ruột của anh Ba đấy!

Anh hay hát bài “Tình Anh Bán Chiếu” này lắm. Sông nước Cà Mau và “Tình Anh Bán Chiếu” thì thấm thía lòng người lắm. Anh cất giọng hò, thì mấy cái miệng rượu vào lời ra, ồn ào trên mui nãy giờ đều yên lặng hết. Chắc hẳn, anh hát không thể nào bằng các ca sĩ chuyên nghiệp, hay bậc thầy như Út Trà Ôn được. Tôi không biết phê bình người hát vọng cổ hay dở ra ra sao, nhưng chắc chắn một điều là anh Ba có giọng, dài hơi và hát hò với cả môi mắt, rất có duyên. Anh Ba hò ơ đến đây thì cô nàng bán xôi không còn giữ e dè được nữa, nghiêng vành nón, tò mò liếc mắt ngó tìm người hò và gặp ngay anh Ba đang nhìn cô tủm tỉm cười. Anh Ba cất cao giọng, nhịp nhàng nối theo câu hò, tiếp ngay vào câu vọng cổ:

"Ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ kinh Ngã Bảy,
Sao cô gái…. năm xưa, chẳng thấy… ra… a. . . ư. . . à. . . chào!"

Chữ "chào" anh Ba xuống cuối câu thật ngọt ngào, làn hơi âm a ngân nga chưa hết, bốn mắt lại gặp nhau. Tôi nghĩ, nếu không có cái đám người ăn uống nhậu nhẹt quanh anh Ba như thế này, thì đúng là một đoạn phim tình, rất là tình. Anh Ba sắm tuồng ăn nhậu, trêu ghẹo,… nhập vai dân đi ghe, sinh sống trên sông nước thật sống động. Vóc dáng và những bài vọng cổ mộc mạc của anh đã giúp tạo hình ảnh mấy anh em trên ghe là dân lao động, lo làm ăn mà thôi. Chúng tôi rất may mắn có anh Ba theo giúp.

Ngồi nhâm nhi rượu một lúc, thấy gần tới giờ hẹn rước người ngoài chợ, Vũ khều tôi tuột xuống hầm, chuẩn bị cho máy chạy. Nhóm người ẩn mình bên dưới, thấy Vũ và tôi xuống, nhìn chúng tôi dọ hỏi. Ai cũng nôn nao, lo lắng, không biết chuyện gì sẽ đến với chiếc ghe, với mình. Vũ nói lớn với tôi, cũng là để nhắn gởi cho bà con dưới ghe nghe, mà bớt lo âu:

- Tụi mình cho ghe chạy ra chợ một vòng!

Vũ cố ý khoá ống dẫn dầu vào máy, làm cho cái máy Fiat của chúng tôi đề ì ạch không chạy vài lần, rồi mới mở dầu cho máy chạy; làm giống như máy sửa chưa được tốt lắm. Chờ máy chạy một lúc yên ấm, tôi đi ra phía trước để tháo dây mũi, thì gặp Biên đứng trên bờ nhìn xuống ghe mình.

Biên là nhân viên giữ chiếc tàu của công ty. Chiếc tàu này đã neo cột ở bến không biết từ lúc nào, khi chúng tôi gia nhập đoàn ghe tàu vận chuyễn thì đã thấy nó nằm sát bờ. Chưa bao giờ nghe thấy chiếc tàu ấy rời bến đi đâu cả, và Biên cũng chẳng thấy làm gì khác hơn là ngày qua ngày tà tà "giữ tàu cho công ty", như anh ta bảo với mọi người. Ai cũng đoán biết là Biên "nằm vùng" để săn tin, nghe ngóng tình hình bên dưới bến, nên thường tránh đậu gần. Chúng tôi nghĩ, cáng tránh né thì Biên càng nghi, chi bằng cứ đậu sát bên, cho anh ta tin mình và dần dà sinh lơ đễnh. Cho nên, lúc nào về bến, có chỗ trống là đậu cặp ghe mình vào chiếc tàu của công ty, rồi kết thân với Biên.

Lâu ngày, biết được rồi, thì Biên không còn đáng ngại cho lắm. Ngày và giờ làm việc, hễ bày ra uống rượu ồn ào thì Biên sợ bị “kiểm điểm”, nên tránh né, không dám sáp vào. Biên có thói quen, sáng nào cũng lên chợ, kiếm tiệm quán để ăn sáng, la cà ngoài chợ mua thức ăn… cho đến sau 11 giờ mới quay về tàu. Như vậy, sáng giờ, chúng tôi ăn nhậu và xuống người lúc Biên đã lên chợ đi ăn sáng và mới về tới; đúng như chúng tôi tính toán.

Thấy tôi bước ra mũi ghe, Biên bắt chuyện thăm hỏi ngay:

- Máy sửa được rồi hả anh Vinh?

- Chưa!... Hồi nãy đề máy còn hục hặc quá! Tính chạy thử, rồi dìa… sửa tiếp luôn thể.

Nghe tôi than vậy, Biên thăm dò thêm:

- Thì dzậy mà, từ từ mình sửa tiếp…. mấy anh thợ này ở đâu tới mà coi bộ cũng biết sửa máy quá chứ?

- Ừ, mấy đứa em đó, tụi nó có nghề mà, làm cho công ty nhà nước đó,.. dìa thăm nhà, nghe nói máy hư nên xuống sửa giùm… Máy hư nằm húp cháo, sáng giờ tụi tui cho nó uống rượu trừ công… ha ha ha.

Tôi nói và cười cho câu chuyện tan loãng bớt, tay lấy gói thuốc hút, đưa mời Biên cùng đám bạn ghe tàu tò mò đứng gần bên, để cắt chuyện về ghe mình, rồi chạy đi tháo dây. Chống mũi ghe ra sông, tôi gọi lớn về phía sau:

- Chạy được rồi anh Ba ơi!

Vũ và anh Ba cũng nghe Biên la cà thăm hỏi tôi nãy giờ; hiểu ý tôi, anh Ba vẫy tay, thân mật với Biên:

- Tụi tui chạy thử cái… chút dìa nghen!

Nói rồi, anh Ba kéo cần lái, chậm chậm đưa ghe chạy ra hướng chợ.

Mới đến trưa, chợ vẫn còn đông. Lợi dụng cảnh lên xuống mua bán lu bu ở bến tàu ngoài chợ, chúng tôi bốc thêm một số thân quyến. Đây là nhóm người lớn tuổi, một số đi với cả gia đình; họ giả dạng “bạn hàng” hoặc dân đi chợ đến thăm hỏi và xin quá giang ghe.

Lúc ghe khuất bến công ty, thì đám thanh niên ăn nhậu trên mui hồi sáng đã rút hết xuống dưới khoang. Bây giờ có thêm người xuống ghe, để hợp lý, năm bảy người trông sạm nắng, trông giống dân địa phương thì cho ngồi lại trên mui với thúng rổ đựng trái cây và rau cải, cũng là lương thực cho chuyến đi, trông giống như các bạn hàng thường quá giang ghe; trẻ con và những người có vẻ dân thành phố quá, thì phải lánh nhanh xuống dưới khoang.

Tuy chợ đông người, xô bồ, nhưng công an và tay mắt cũng rất đông, nấn ná lâu rất dễ bị lộ, tôi vắn tắc hỏi thăm Vũ:

- Anh Ba? chị Ba?

Vũ lắc đầu, nói nhỏ với tôi:

- Tao không biết sao… nãy giờ ảnh mất biệt ở trển?!

Nghe vậy, tôi nói:

- Hay là mày dọt lên, tiếp ảnh kiếm chị … đậu ở đây lâu,… kẹt lắm!

- Ừ, … tao kéo ảnh xuống ngay… kiểu này, bể mẹ nó hết!

Đến lúc này, vẫn chưa đón được chị Ba như dự tính, chúng tôi lo lắm; Vũ lấy cái giỏ xách cầm tay, làm như lên chợ mua thức ăn. Trên ghe, bây giờ, đã hơn hai chục người. Nhìn qua, tôi chỉ biết mấy đứa em của Vũ và con của chú Chín mà thôi. Cũng nhờ cái mui lá để che nước đá và hải sản đông lạnh, mà công ty bắt phải làm, khi ký hợp đồng, hôm nay dễ che dấu người trong ghe.

Rồi tôi thấy chỉ có Vũ đi cùng anh Ba trở xuống ghe với dáng mệt mỏi, tôi biết mình không nên hỏi thêm điều chi về chị Ba, mà tìm cách để anh nghỉ ngơi, tôi nói với anh:

- Chắc tôi coi lái, cho anh rảnh tay xem hai cháu có cần ăn uống gì thêm, nghen anh Ba?

- Ừ, … "củ"… lái giùm anh đi!

Anh Ba nói nghe buồn hiu, lầm lũi vào trong mui. Bên dưới có tiếng Hiếu và Hiền theo anh Ba hỏi tìm mẹ. Ở một nơi nào đó, chắc chị Ba cũng rất lo sợ khi bị lạc nơi xa lạ, gia đình bị phân ly, không biết khi nào mới được gặp lại chồng và con. Từ tháng Tư năm 1975, tang thương đã tràn ngập xuống miền Nam mình, biết bao gia đình, bất chợt, phải vương vào cảnh tử biệt đớn đau, hay nghìn trùng xa cách!

Rời chợ, trong vòng chạy thử máy, chúng tôi ghé các nhà quen rước thêm người. Chúng tôi hy vọng chị Ba lạc sang các nơi này, nhưng rồi những người mới xuống ghe, cũng không ai thấy hay biết gì về chị Ba. Đứng trên mui, Vũ và tôi ngó tìm theo những chiếc xuồng bơi chèo hai bên bờ, mong sao thấy được chị.

Sắp đến công ty, tôi hạ bớt tốc độ máy, nhắc Vũ:

- Chắc phải cho bà con xuống ghe hết,… ráng giữ mấy em nhỏ yên lặng, mình sắp vào bến công ty.

Thật may, đúng như chúng tôi định, thờì điểm này có nhiều ghe tàu chở hàng về bến. Bến đang đầy ghe tàu, công nhân lên hàng chộn rộn…. Tôi cho ghe chạy thật chậm, làm như muốn tìm chỗ vào bến để đậu.

Thấy ghe về, Biên gọi hỏi ngay:

- Sao, chạy ngon chưa?

Tôi nói vọng sang trả lời, có ý để ngầm giải thích cho việc nằm ngoài chợ khá lâu, và cho các ghe tàu khác cùng nghe:

- Chưa!... Mới nằm ì ngoài chợ đây!… Ồ… coi bộ không có chỗ…. Chắc tụi tui chạy luôn qua xưởng ông Năm kiếm chỗ đậu, “dới” lại nhờ ổng có máy móc canh lại con "heo dầu" mới được!…

- Đúng rồi... chắc tại “heo dầu” đó!… ông Năm ổng canh "heo dầu" nghề lắm…

- Ừ, thiệt là hết hơi “dới” cái máy này… Sửa xong, dìa lại bến, tối nay mình nhậu bù!…. Ê, còn nồi canh chua anh Ba nấu, ngon hết xẩy,… tối qua lai rai nghen!

Biên nghe vậy, có vẻ vui lắm:

- Rồi! Lo sửa máy cho xong đi… tối tui qua chơi…

Vẫy tay chào Biên, rồi đẩy cần lái hướng mũi ra ngoài sông, tôi cho ghe chạy tiếp. Vậy là Biên cùng đám ghe tàu trong đoàn, đã thấy chúng tôi còn quay về, và có nghe là chúng tôi qua xưởng máy để sửa tiếp. Đêm nay, nếu không thấy ghe chúng tôi về bến, không ai thắc mắc; họ nghĩ là sửa máy chưa xong, phải nằm lại tại xưởng của ông Năm. Rời bến công ty, chúng tôi chạy sang xưởng sửa máy của ông Năm thật. Có ai đó trong đoàn ghe, tình cờ hay muốn tìm hiểu lúc này, cũng sẽ thấy ghe chúng tôi có ở bên xưởng máy của ông Năm.

Chiều lắm rồi. Đến lúc này, anh Ba càng chìm sâu vào trong nỗi lo sợ và bối rối; khi gia đình Vũ, mới xuống tới, cũng không có chị Ba. Anh Ba không thể bỏ chị mà đi theo ghe, khi không biết chị đang ra sao, có trở về nhà an toàn hay đã bị bắt, ai sẽ thăm nuôi và lo lót cho chị được thả về. Còn nếu anh về, Hiền và Hiếu thành hai trẻ không mẹ cha, trong chuyến vượt biển này. Mang hai con theo, thì tương lai con trẻ sẽ bị tròng cột trong những vòng khăn đỏ oan nghiệt. Đến lúc này thì không còn thời gian tìm hay chờ một mình chị Ba; ghe phải tiếp tục cuộc hành trình, để rời cửa biển trước khi trăng lên. Chỗ này còn là trạm cuối, có bến dừng ghe để anh Ba đi bộ lên chợ. Giờ này, xe về thành phố không còn bao chuyến sót lại, và đến cuối ngày thì người cần xe càng đông hơn, chen chút để lọt lên xe càng khó khăn hơn. Mỗi phút trôi qua, thêm bồn chồn lo lắng. Ngoài mũi ghe, tôi cuộn lại dây và cất neo vào hầm mũi cho an toàn, để chuẩn bị ra khơi, chạy trên sóng to ngoài biển; tôi biết, bên dưới ghe lắm chuyện buồn lo, ngột ngạt lắm…

Và rồi, quyết định sau cùng cũng phải đến; anh Ba ôm hai con, vỗ về Hiền và Hiếu rồi gởi con mình cho thân quyến còn theo ghe. Tôi đứng ngoài mũi trông chừng ghe, thấy anh lau nước mắt cho hai con mà nghe buốt nhói trong lòng.

Đi ngang tôi, anh Ba dừng lại, vỗ vai tôi ân cần:

- Anh dìa… mấy anh em đi mạnh giỏi nghen!

Dù biết trước từ ban trưa, anh không thể cùng chúng tôi trốn đi khi chị đã thất lạc và không tin tức, tôi vẫn lặng người khi nghe anh từ biệt. Chung sống với nhau trên ghe, chúng tôi như ba anh em ruột; bây giờ, tôi chỉ còn biết đứng đây mà xót xa đau nhìn theo anh đơn độc rời ghe, hối hả đi đón xe về thành phố.
. . .
Rời xưởng máy của ông Năm, cách công ty một đoạn khá xa. Đứng trên mui ghe giữ cần lái, ngoái trông về cầu tàu và bến cảng quen thuộc; tất cả, giờ đã khuất mất. Nhìn xuống ghe mình, chiếc ghe này đang mang theo bảy mươi ba người. Ngần ấy sinh mạng đang nằm trọn trong chiếc ghe, cùng định mệnh an bài. Chuyến đi tìm tự do chưa được bao xa, khắc nghiệt đã đến với gia đình anh chị Ba; thương cho hai đứa trẻ phải xa cách cha mẹ mình.

Nước đã đổi chiều, chảy ra biển. Dòng sông mờ đục màu phù sa cùng các hàng cọc đáy lùi dần phía sau ghe mình, sóng đùa vào bờ rào rạt và cuộn đau trong lòng.

Ra đi ôm ấp ước mơ.

Mơ ước xao xuyến trong lòng người đi, cùng người còn kẹt lại trên quê nhà. Mơ ước theo người vượt trốn, bấp bênh trên đại dương mênh mông; biết bao ước mơ đã bị dập vùi, tan vỡ theo bọt sóng hay ngậm ngùi nằm lại trong lòng biển. Và… tiển biệt nào cũng để lại ít nhiều những luyến tiếc, thương đau!

Chiều tối, thưa vắng ghe xuồng. Tiếng máy chậm buồn, thì thầm lời cuối tạ từ cùng dòng sông quê hương. Theo dòng nước ra biển, chúng tôi đang xa rời quê mẹ Việt Nam cùng những người thân yêu.

Một lần đi có phải chăng là xa cách nghìn trùng!

“Ɲghìn trùng xa cách đời đứt ngang rồi
Ϲòn lời trăn trối gửi đến cho người...”

Bùi Đức Tính

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23148
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Dec/2020 lúc 2:35am

 

Đạp xe tới nhà thằng Phát, thì thấy nó đứng lóng nhóng chờ tôi trước cửa tự hồi nào. Ngạc nhiên quá, tưởng mình trễ giờ hẹn, tôi xem lại đồng hồ, rồi hỏi:

- Còn sớm mà?!

- Thì sớm! Nhưng lo cất xe, rồi mình đi…

Thấy nó cứ gắp rút và hối mình, tôi chẳng hỏi han gì thêm, đem chiếc xe đạp dựng vào trong sân nhà nó, rồi tính sau. Đóng cửa xong, nó hất mặt bảo tôi:

- Mình qua kêu thằng Vũ đi liền mới được!

Thường thì bọn tôi phải chờ thằng Phát, nó lè phè lắm, bửa nay chẳng biết sao Phát lại lẹ làng sốt sắng quá; tôi trố mắt nhìn nó dọ hỏi:

- Làm gì… mà mày hối tụi tao dữ vậy?!

Phát quày quả đi như chạy, tôi sãi bước theo bạn mình; nó nói vói ra phía sau:

- Tới đó đi, rồi cho tụi mày biết!… cả đống người trước rạp rồi đó!

Thời ấy, ít nhà có điện thoại và điện thoại cầm tay chỉ có trong các phim khoa học giả tưởng hay phim như “Điệp viên 007” mà thôi. Muốn nói gì phải tới nhà, gặp mặt mà nói.

Nhà Vũ cách đây chỉ ba góc đường. Vũ cũng ngạc nhiên khi thấy tôi và có cả Phát đến nhà sớm. Vừa thấy mặt Vũ là Phát đã hối ngay:

- Đi! Tụi đi mình lẹ lên!

Vũ quay vào phía trong nhà gọi lớn:

- “Chệt’ ơi! Con đi nghen “chệt”!

Tiếng Triều Châu, “Chệt” là “Chú”. Vũ quen gọi cha bằng “Chệt”; nghe Phát hối thúc, thì nó quay vô nhà thưa trình cha, rồi chạy theo chúng tôi.

Lúc hẹn nhau, bọn trẻ chúng tôi cứ tưởng như vầy là quá sớm. Khi đến rạp chiếu phim, không ngờ, đúng như Phát báo tin; còn hơn nửa tiếng đồng hồ mới tới giờ bán vé, mà người ta đã đến, đứng tụ tập chờ mua vé rồi. Ba đứa tôi lẹ làng chạy vào hàng. Chốc sau, nghe ồn ào, quay lại nhìn, thì thấy đoàn người kéo dài đến tận góc đường. Hồi xưa, nếu không có vé mời đi xem phim, thì cứ tới rạp mà mua vé vào xem, không có vụ bán vé trước. Cho nên, gặp lúc có phim hay và là phim mới, mấy người đứng khúc sau thường gặp nạn tranh giành, vì ai cũng muốn mua cho được vé và sợ hết vé, nên sinh ra chen lấn, xô đẩy khiếp lắm. Bọn trẻ thấp nhỏ như chúng tôi, đứng được phía trước thì có phần ít bị đè ép, ít bị ngợp thở; và nếu có, thì cũng sớm lọt vào bên trong rạp để mà thở hơn. Ba đứa nắm tay, gồng người mà hợp lực bảo vệ nhau. Sau một lúc bị xô, bị đè, nếu chịu đựng được, khi đám đông đẩy mình lọt vô tới trước chỗ bán vé, và rồi nhìn thấy mấy ngón tay của mình cầm chặt tấm vé, thì nó vui cách gì đâu, thấy sướng ran, đã lắm!

Đứng gần khúc đầu và lúc này cửa bán vé chưa mở, nên chưa có gì xôn xao cho lắm. Ba đứa tôi thoải mái ngó quanh mình. Ngoái nhìn phía sau, Phát quay lại nhướng mắt với Vũ và tôi kể công:

- Không có tao, tụi bây đứng khúc phía dưới đó cho mà biết thân!

Chúng tôi gật gù công nhận, khen Phát và khoái chí cười hề hà với nhau. Gia đình Phát và Vũ có tiệm nằm ngay trong trung tâm thành phố. Phát ở khu vực có nhiều rạp chiếu phim, nên biết tin tức về phim, về rạp. Nó báo tin cho chúng tôi, khi có phim hay. Bọn trẻ và nhiều người lớn không quen biết mặt tài tử hay chuyện phim, thì thường phải dựa theo hình vẽ quảng cáo mà chọn phim. Hồi đó, các rạp hát lớn đều có họa sĩ vẽ các bích chương trên vải, để quảng cáo cho phim đang chiếu và các phim sắp chiếu. Hình vẽ lớn hay nhỏ tùy theo hạng phim và theo thị hiếu. Hễ thấy hình càng lớn, cảnh tượng hấp dẫn thì càng khoái, và cho là phim hay, nôn nóng chờ ngày phim trình chiếu để đi xem cho bằng được.

Đứng chờ mua vé coi phim như thế này cũng không chán, vì có dịp ngắm nghía, bàn tán với nhau về hình quảng cáo các phim sắp chiếu và phim mình sẽ vào xem hôm nay. Phim mới chiếu hôm nay, có tựa là Ngày Dài Nhất, chúng tôi thấy hình một tài tử quen mặt trong các phim “cao-bồi”, đó là John Wayne; vẽ ông ta cao lớn gắp ba người thật, với quân phục tác chiến, trông phong sương và thật oai hùng. Nhưng hình cái nón sắt nằm ngửa, chơi vơi, đơn độc trên bờ biển có cắm chông sắt chống tàu chiến thì trông hay hay khó tả, nhưng… trông buồn quá. Bác thợ vẽ của rạp chắc đã gởi hết lòng mình cùng từng nét cọ trên khung vải. Hình cái nón sắt vẽ sống động quá; làm bọn trẻ chúng tôi, dù chỉ biết về chiến tranh qua phim ảnh, nhưng đứa nào cũng cảm thấy cái gì đó, mất mát lớn lắm!

Bộ phim Ngày Dài Nhất kể về ngày lịch sử, với hơn 300 ngàn quân lính đã đổ bộ vào bờ biển Normandy, nước Pháp; đánh dấu điểm khởi đầu cho thảm bại của phát xít Đức. Phim Ngày Dài Nhất đứng đầu trong 50 phim chiến tranh hay nhất, qua mọi thời đại.

The Longest Day, Ngày Dài Nhất, cũng là tựa của nhạc phim chính rất hào hùng, được dùng trong các cuộc diễn hành của Canada, Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh hiện nay.

Nhạc và lời của Paul Anka. Anh là một ca sĩ và là nhạc sĩ Canada và có đóng vai người lính Biệt Kích trong lực lượng đổ bộ của Hoa Kỳ trong phim. Khúc quân hành của Paul Anka có lời nhạc thật xúc động:

“Many men won't see the sunset. When it ends, the longest day…”

Nhiều người lính sẽ không được thấy ánh hoàng hôn. Khi ngày tàn, đây là ngày dài nhất... Thật vậy, chỉ trong 24 giờ, có đến 1,465 quân nhân tử thương, hơn sáu ngàn thương binh và gần hai ngàn người mất tích!

Sau 5 ngày tham chiến, hơn 200 ngàn binh sĩ bị thương; trong đó, lực lượng của Canada có gần 19 ngàn người bị thương và hơn 5 ngàn quân nhân hy sinh!

Hồi đó, bản nhạc Ngày Dài Nhất cũng rất được ưa chuộng tại miền Nam, Việt Nam, do Jo Marcel hát bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. Thời mới lớn, được xem phim, nghe Paul Anka hát, rồi nghe Jo Marcel hát. Cả hai đều có nhịp điệu oai hùng, nhưng nghe Jo Marcel trình bày có phần thích hơn, vì có đoạn huýt gió rất là độc đáo. Đám con trai nghe nhạc, tự dưng chu mỏ, làm như huýt gió theo. Nhưng, xấu hổ lắm, không đứa nào đủ can đảm để phát ra thành tiếng cả. Khúc quân hành làm tuổi trẻ ngước nhìn màu áo trận, lòng ngưỡng mộ những người lính can trường, đã và đang bảo vệ tự do cho miền Nam của mình. Lời nhạc bằng tiếng Việt cũng rất hùng tráng, cảm động lắm:

“Đoàn quân đi, chí trai cho nhân loại
Đoàn quân đi, sử vang vang rền
Đoàn quân đi, theo nhịp đi bước dồn
Bước, bước theo ngày dài ngất ngây
Kề vai nhau, bước chân nối bao người
Ngoài biển khơi, giữa nơi phố phường
Hẹn gặp nhau khi hoàng hôn xuống dần
Những trái tim chào mừng chiến công
Bàn chân ta bước, bước đi chập chùng
Ôi chân bước, bước trong ngày dài
Bao xương máu hiến cho cuộc đời
Và ngàn sau chiến công còn dài
Ngày thành công bước chân ta tan dần
Triệu con tim vẫn đang kêu gào
Đường vinh quang, xây thành xương máu mình
Những máu xương, ôi bao nhiêu đồng đội chúng ta!

. . .

Thế Chiến Thứ Nhất! Thế Chiến Thứ Hai!

Chiến tranh nào cũng lắm bạo tàn!

Và chế độ cộng sản tàn bạo hơn tất cả!

Trong chế độ cộng sản, khởi từ tuổi thơ, tuổi trẻ bị truyền dạy và vùi dập trong hận thù. Con người với tình người, nghĩa đồng bào, bị biến thành những loại người chỉ biết phục vụ cho lý tưởng chiếm đoạt, thống trị của đảng và Nhà Nước!

Từ những đêm đấu tố, ngày thủ tiêu, đêm săn bắt cho đầy chỉ tiêu,… cuộc Cải Cách Ruộng Đất kinh hoàng,… thảm sát Tết Mậu Thân… Ngàn ngàn dải khăn sô trắng tang thương không chỉ cho Huế, cho hàng ngàn thi hài trong các mồ chôn tập thể. Trong đó, những xâu chuỗi cột thành từng chùm nạn nhân, gồm người già, phụ nữ và có cả trẻ thơ; họ đã bị “giải phóng” bằng… chày vồ, cuốc xẻng hay chôn sống. Thảm sát khắp nơi nơi, khắp tỉnh thành ở miền Nam. Tại Sài Gòn, khi quân du kích vào nhà giết trọn cả một gia đình. Cậu bé 10 tuổi bị thương nặng nằm bên xác mẹ, sau đó được cứu sống và trở thành vị sĩ quan cấp tướng của Hải Quân Hoa Kỳ hiện nay, đó là Phó Đề Đốc Nguyễn Từ Huấn. Ông không thể quên và nhắc lại thảm sát ấy như sau:

“Bố tôi là cố Đại tá Nguyễn Tuấn, lúc ông mất là Trung tá Nguyễn Tuấn, thuộc binh chủng Thiết giáp. Mẹ tôi là bà Từ Thị Như Tùng. Cả hai người và 5 anh em của tôi đã bị thảm sát vào năm 1968, trong biến cố Tết Mậu Thân. Lúc đó tôi chỉ 10 tuổi. Những ký ức đó ghi đậm vào trong đầu óc tôi hơn 50 năm nay và tôi đã phải sống lại với những sự kiện đó gần như hàng năm.”

Sau khi miền Nam mình bị cưỡng chiếm, Thiếu tá Huỳnh Túy Viên, Quận trưởng của quận Đầm Dơi, đã bị quân cộng sản tử hình bằng cách móc mắt trước công chúng, ngay tại quận lỵ, vào tháng 5 năm 1975.

Tội ác của cộng sản không chỉ trong quá khứ mà còn tiếp diễn đến ngày nay!

Trong cuộc sống đầy đủ, người ta dễ quên đi nỗi khó khăn thiếu thốn mà mình đã phải trải qua. Người ta hết nhớ, hay không muốn nhớ đến niềm hân hoan khi nhận được những gì đã từng mong ước. Tự do, quyền làm người, tưởng như chỉ là những gì tầm thường, sẵn có quanh mình. Đến khi dân tộc bị cướp đoạt những quyền căn bản làm người, người ta mới thấy khao khát và nhận ra rằng: Cái giá của Tự Do, quả thật là vô giá!

Hình ảnh cái nón sắt trong phim Ngày Dài Nhất, trên bích chương của rạp từ năm 1962, lúc còn là trẻ nhỏ, vẫn còn đậm nét mãi mãi trong tôi. Và rồi, sau này, cái nón sắt đã là rất thật, thật gần gũi với chính mình trong thời tuổi trẻ với áo trận; tôi vẫn nhớ và nhớ mãi đến ngày nay.

Có một bài viết với tựa đề ngắn gọn là “Cái Nón Sắt”, không ghi tên tác giả, chỉ ghi chú là “sưu tầm”. Nguyên văn như sau:

SÀI GÒN - Thời gian gần đây, ở Sài Gòn và nhiều tỉnh thành khác, có rất nhiều người miền Bắc, trở nên mê... nón lính. Mê nón lính ở đây là "mê nón sắt"

Người ta không mê nón lính theo kiểu thời trang nhất thời, cũng không giống như kiểu mê đồ cổ, đồ xưa. Nón lính mà họ sắm được họ đội hàng ngày, tuy là nón cũ có khi đã có tuổi đời phải đến năm, sáu mươi năm, có khi bị lãng quên ở một xó nào đó rồi tự nhiên được thích, được mê.

Kế bên nhà chúng tôi là một ông hàng xóm, tuổi đời chừng bốn mươi lăm, ông này làm nghề giao nước bình (dân Sài Gòn ngày nay hầu hết đều mua nước uống gọi là “nước tinh khiết,” đựng trong những cái bình 20 lít), ông ta có cái nón lính, thứ nón bằng cát-tông cứng lót dưới nón sắt của binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa.

Nhìn cái nón của ông mà thấy ham, vì có màu nâu gỗ, bóng ngời ngời, bóng như thoa mỡ, tới mức lộ cả từng đường vân sọc. Ông quí cái nón này lắm, hỏi cớ sự vì sao, ông không nói. Chỉ biết từ khi nhà nước bắt đội nón bảo hiểm khi sử dụng xe máy thì ông đem ra đội hàng ngày. Có lẽ ông là một trong những người đầu tiên ở Sài Gòn tạo mốt đội nón lính thay vì phải đội các loại nón bảo hiểm kém chất lượng (mà dân Sài Gòn hay gọi mỉa mai là “nón cối bộ đội”) được bày bán đầy đường, đầy tiệm.

Bẵng một thời gian, chúng tôi không thấy ông đội nữa, hỏi ra thì biết: đã bị... mất cắp. Ông nói: “Tiếc đứt ruột anh ơi! Thời giá cái nón tui lúc đó khoảng một triệu chưa chắc mua được, nhưng chuyện không phải vì tiền bạc. Tui nghèo, nhưng nếu bây giờ phải chuộc lại hai, ba triệu tui cũng ráng vay mượn mà chuộc lại cái nón đó.”

Chúng tôi không tò mò hỏi về giá trị kỷ niệm của cái nón, bởi ai cũng biết, đa phần người Sài Gòn cố cựu đều có những kỷ niệm sâu sắc với những người lính Việt Nam Cộng Hòa.

Ngày nay, chỉ cần đi một đoạn đường gần nhà thờ ngã sáu Phù Ðổng là thấy rất nhiều xe bán nón lính. Các xe này đa phần vừa bán nón vừa làm nghề bọc nhựa giấy tờ cá nhân. Người bán thường là dân nhập cư từ các tỉnh phía Bắc vào. Một hôm chúng tôi ghé vào hỏi thì họ cho biết nón lính ở đây có hai loại; loại nón của lính Việt Nam Cộng Hòa còn tốt, giá mắc hơn các nón lính mới, được đưa về từ Camphuchia và Thái. Hỏi vì sao lại mắc hơn cả đôi ba trăm ngàn, họ nói: “Tầm tuổi bác thì biết giá trị của cái nón này rồi!... thế mà còn đi hỏi làm gì?!... Nón ‘lính ngụy’ bây giờ là kỷ vật đấy nhá!... Săn tìm khó lắm mà lại cực tốt, cực đẹp nhá!”

Ở Cần Ðước-Long An, chúng tôi có quen một anh nông dân. Hôm anh lên Sài Gòn, ghé nhà chúng tôi, tay cứ cặp cái nón lính bằng sắt. Lúc xong việc, bỗng anh hỏi: “Ông có biết chỗ nào bọc vải lính, bọc lưới nón sắt thì chỉ giúp tôi với.” Và anh cho biết: “Tui đi ăn giỗ, thấy trong xó chuồng gà của nhà người bạn còn cái nón sắt thì hỏi mua. Bạn tôi nói, cái nón này có lúc nó chỉ để đâm cua đồng nấu canh, rồi anh cho luôn không lấy tiền.” Ðúng là anh nông dân này đội cái nón sắt lên trông đẹp và oai hẳn hơn. Nhưng cái nón dù được chà giấy nhám rất kỹ vẫn còn sét xẹt lại nặng trịch, đội mỏi cổ muốn chết. Anh nói: “Kệ, tui đội để nhớ ông già tui. Ổng đi lính chết hồi năm 74…. Ông cứ chỉ giùm tui chỗ nào bọc lại bao nhiêu tiền tui cũng làm hết!”

“Ngày thành công bước chân ta tan dần
Triệu con tim vẫn đang kêu gào
Đường vinh quang, xây thành xương máu mình
Những máu xương, ôi bao nhiêu đồng đội chúng ta!”

Cho ngàn sau, những người lính miền Nam cũng đã nằm xuống cho tự do, trước khi được thấy ánh hoàng hôn, ngày cũng đã thật dài; những ngày dài nhất trong lịch sử Việt Nam!

Vẫn còn đó, bao máu xương hiến cho cuộc đời!

Và… cho ngàn sau… chiến công còn dài!

Remembrance Day 2020
Bùi Đức Tính


“Cho ngàn sau” được viết để tưởng niệm những chiến sĩ đã chiến đấu và hy sinh cho Tự Do, nhân ngày Remembrance Day của Canada.

Xin cám ơn ca sĩ Jo Marcel với lời nhạc bằng tiếng Việt trong ca khúc Ngày Dài Nhất đã dùng trong bài Cho ngàn sau.
 

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23148
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Dec/2020 lúc 7:49pm
Một lát cắt của chiến tranh


lonely%20man%20walking%20on%20a%20sunset%20beach%20-%20YouTube

Nửa đêm, biển động! Hắn tỉnh dậy chậm chạp mặc quần áo rồi ra đứng trước ban thờ châm một nén hương, chỉ một nén hương cắm vào bát hương trên bàn thờ rồi cứ thế đứng lặng chăm chăm nhìn vào hai bức ảnh trên ban thờ. Một bức ảnh là một ông già, có lẽ là bố hắn. Lồng cùng bức ảnh là một tờ lịch đề ngày 18 tháng tư .Dưới bức ảnh ấy là vỏ của một chai thuốc trừ sâu được đặt trên những quyển sách chữ nho đã cũ nát cùng năm tháng. Bên trái ban thờ là ảnh một người đàn bà còn rất trẻ và cũng có một tờ lịch cùng đề ngày mười tám tháng tư . Dưới bức ảnh là một sợi dây thừng được xếp lại thành một bó dài.
Hắn cứ đứng như thế cho đến khi cái chấm đỏ cuối cùng trên cây nhang tắt hẳn , tàn của chiếc nhang không gãy rụng mà mà uốn cong về phía hắn. Đợi cho khói hương tan hết, hắn mở cửa đi ra ngoài bãi biển.
.Năm nào cũng thế, cứ đúng đêm nay hắn lại ra đứng suốt đêm bên bờ biển và hình như từ khi hắn đến ở đây năm nào vào đêm nay biển cũng động. Đêm mưa bão, bầu trời đen kịt. Những đám mây dông vần vũ che kín cả bầu trời. Xa xa phía cuối đường chân trời nhưng lằn chớp trắng lóa đang đua nhau rạch nát trời đêm . Những con sóng lừng đen ngòm cao năm sáu mét lừng lững từ ngoài khơi xa xô lại phía hắn rồi đâm sầm vào vách đã dựng đứng của một dải núi ăn ra biển để lại một cột nước trắng xóa . Những con sóng liên tiếp nhau như muốn xô đổ vách núi . Gió hú lên những tiếng hú dài điên loạn. Trời giận dữ! Biển cuồng nộ còn hắn cứ đứng lặng im bất động phóng tầm mắt hút về phía chân trời.
- Anh ơ...i
Một tiếng gọi vọng lên từ lòng biển sâu thẳm.
-Con ơ....i
Một con sóng lừng hất tung tiếng gọi con nức nở lên cao để ngọn gió điên cuống ném tiếng gọi ấy về phía hăn. Hắn nhô người vươn tay ra phía biển như muốn níu giữ, nắm bắt một cái gì. Rồi bỗng nhiên hắn nghe thấy một tiếng thì thào đứt quãng.
-Đ..ừ....tr...á...ch v..ợ c...on.

Trời bắt đầu mưa. Bỗng ai dó khoác lên vai hắn một chiếc áo mưa. Hắn quay lại. Con gái hắn. Hắn nhìn con gái một thoáng trong ánh mắt lộ ra một tia sáng cảm động rồi hỏi bằng một giọng trầm đục.
-Con về bao giờ thế?
-Con vừa về. Vào nhà không thấy bố con biết là bố lại ra đây. -Giọng cô gái bỗng trở nên cầu khẩn. -Về thôi bố! Trời bắt đầu mưa rồi.
Hắn cắn môi, nuốt khan một cái như định nói điều gì nhưng rồi hắn dừng lại chậm chạp cùng cô con gái quay lại ngôi nhà bên bờ biển.
-Năm nay bố vẫn không cho em con về giỗ mẹ hả bố?

Tiếng cô gái hỏi, hắn chỉ khẽ gật đầu. Một tia chớp bừng lên đủ giúp cho cô gái nhìn thấy hai hàm răng hắn nghiến lại. Tia chớp dội vào mắt hắn để rồi từ đấy hắt ra một tia sáng âm u, lạnh lẽo đến rợn người. Cô gái im lặng không hỏi gì nữa. Cô sợ!
*
* *
Hôm sau nhà hắn có giỗ. Không có khách khứa, chỉ độc nhất có hai bố con. Hắn châm ba cây nhang cắm lên bát hương, không chắp tay khấn vái mà chỉ đứng lặng nhìn không chớp mắt vào hai bức ảnh, một ảnh ông già bố hắn và một ảnh một người đàn bà còn rất trẻ vợ hắn. Con gái hắn đứng cạnh chắp tay lầm nhầm khấn tuy là khấn rất nhỏ nhưng vì đứng ngay nên cạnh hắn vẫn nghe thấy rất rõ.
-Ông ơi! Mẹ ơi! Xin hai người hãy phù hộ cho bố con có thể quên đi!.
Nghe con gái khấn, tự nhiên môi hắn nhếch lên một nụ cười cay đắng và từ đôi mắt già nua, nhăn nheo, một giọt nước mắt, chỉ một giọt thôi, trào ra rơi xuống làn môi đã héo quắt và nứt nẻ một giọt mặn chát.
Hương tàn, con gái hắn hạ mâm cỗ xuống còn hắn rót rượu ra chén và uống! Con gái hắn ngồi cạnh, không nói gì chỉ thỉnh thoẳng gắp thức ăn vào bát cho bố và nói với giọng nằn nì.
-Bố ăn miếng này đi .
Còn hắn , hình như hắn không dám cãi lời con gái, hắn gắp lấy miếng thức ăn mà cô vừa bỏ vào trong bát đưa lên miệng. Mắt hắn đã kè đỏ.
-Có phải con vẫn muốn biết ông và mẹ con chôn ở đâu phải không?
Hắn bỗng hỏi. Mắt cô gái sáng lên, nhưng rất nhanh chóng cô đã che dấu được tia sáng đó.
-Vâng! - Cô nói nhỏ . –Con muốn xây mộ cho ông và mẹ bố ạ. Bố nói cho con biết đi.
Hắn đặt chén rượu xuống bàn trân trân nhìn con gái. Không ai đọc nổi ánh mắt ấy nghĩ gì. Đột nhiên, hắn cầm chén rượu còn đầy nguyên lên uống ực một nhát cạn trơn rồi hất hàm ra phía biển nói bằng một giọng khê đục.
-Ở đó!
Mắt cô gái hơi nhíu lại tỏ vẻ nghi ngườ.
-Sao bố bảo ngày ấy bố chôn ông và mẹ ở quê cơ mà.
Ừ! -Hắn khẽ gật đầu thừa nhận. –Nhưng rồi sau đó bố đã quay trở về quê đào trộm mộ hai người mang cốt về đây hỏa táng. Bố đã trộn tro của hai người vào nhau và mang rắc xuống biển.
- Vào đêm hôm nay hả bố
Cô gái hỏi, hắn khẽ gật đầu. Cô gái không hỏi gì nữa. Cô biết bố đã nói thật. Năm nào cũng thế cứ đúng đêm hôm giỗ là cô lại thấy bố mình ra đứng suốt đêm bên bờ biển
Bỗng nhiên cô cảm thấy sợ! Một nỗi sợ vô hình ám ảnh cô. Đã bao nhiêu năm rồi bố cô luôn giấu kín điều này . Sao hôm nay ông lại nói ra? Cả hai im lặng ngồi ăn. Cái im lặng ngột ngạt của một cơn bão sắp kéo đến.
-Em con ….dạo này ….thế nào?
Hắn hỏi giọng ngắc ngứ khó nhọc. Hình như hắn phải dồn hết nghị lực để hỏi câu hỏi đó. Hỏi xong, hắn lại nâng chén rượu lên uống ực một nhát như để chiêu đi một cái gì vẫn còn vướng víu trong cổ họng. Cô gái nhìn bố. Cô đắn đo không biết mình nên nói với bố thế nào. Một cái gì lành lạnh chạy dọc sống lưng cô. Chưa bao giờ ông hỏi về đứa em trai của cô. Đây là lần duy nhất kể từ khi ông bỏ đi để lại toàn bộ tài sản rất lớn cho hai chị em với một mảnh giấy với duy nhất một dòng chữ ngắn ngủi.
“Con hãy chăm sóc em thay bố”
-Nó vẫn tốt bố ạ . Nó vừa nhận được học bổng nghiên cứu sinh sau tiến sĩ của trường đại học Harvard Có lẽ tháng sau nó đi Mĩ.
-Thế à!
Hắn buông hai từ gọn lỏn rồi lại nâng chén rượu lên. Cô gái đột nhiên giữa lấy tay hắn, cô quỳ sụp xuống ngước lên nhìn bố giọng run run.
- Đừng uống nữa! Con xin bố . Sao bố lại hận em con đến thế? Bố cho con biết đi. Cánh tay cầm chén rượu đang đưa lên bỗng dừng lại. Hắn cúi xuống nhìn con gái. Mặt con gái hắn ướt đẫm. Hắn không nói gì , lặng lẽ gỡ bàn tay đang níu chặt tay mình của đứa con rồi loạng choạng đi về phía trước ban thờ. Hắn nhấc tấm ảnh của bố ra khỏi giá , cầm trên tay và nhìn như đóng đinh vào tấm ảnh.
- Bố nghe rõ rồi chứ? -Hắn lẩm bẩm. –Em con đã nên người. Dòng họ Đặng của bố đã có người tiếp nối. Bố có vui không? Còn con…?
Đột nhiên hắn gầm lên một tiếng. Một tiếng gầm thê lương như xé rách cả trời xanh. Hắn nâng bức ảnh lên cao rồi thẳng cánh quật bức ảnh vào cạnh chiếc bàn thờ. Bức ảnh vỡ tan. Bàn tay gân guốc của hắn nắm lấy một miệng thủy tinh to và sắc nhọn như một mũi dao găm, thẳng cánh đâm vào cổ mình.
- Bố !
Tai hắn còn kịp thoảng nghe một tiếng kêu đầy đau đớn của cô con gái.

*
* *
-Không!
Hắn hét lên một tiếng . Tiếng hét phá tan cái yên tĩnh của cái bệnh viện tuyến huyện vắng vẻ lức nửa đêm. Cô bác sĩ trực nhảy bổ đến gường bệnh. Người hắn quằn quại trong cơn mê sảng. Con gái hắn đang cố gắng ghì chặt lấy cánh tay hắn không cho cái kim truyền máu bật ra. Hắn lại nằm im, rồi một tiếng nấc rồi tiếp theo là một tiếng lầm bầm.
-Sao em lại bỏ con, bỏ anh. Anh có trách em đâu.
Cô bác sĩ nhìn vào mặt hắn. Trong cơn mê sảng nhưng một dòng nước mắt vẫn cứ ứa ra.
-Bố em hình như gặp phải một chấn động cực lớn về tâm lí thì phải. Chuyện gì vậy?
Cô bác sĩ nhìn con gái hắn thăm dò. Con gái hắn lắc đầu.
-Em cũng không biết chị ạ. – rồi như để cho người bác sĩ tin điều mình nói là thật. Cô gái nói tiếp. –Em cũng rất muốn biết chuyện gì đã xảy ra với bố em trong quá khứ nhưng ông không chịu nói.
-Chắc phải là một điều gì đó khủng kiếp lắm .
-Vâng ! Em cũng nghĩ thế.
Nói xong, con hắn thở dài lấy khăn khẽ lau dòng nước mắt trên mặt bố. Hắn nằm im, ngực lên xuống một cách khó nhọc. Miệng hắn cứ lầm bầm một điều gì đó . Con gái hắn quỳ hẳn xuống dưới đất ghé tai vào sát miệng hắn cố gắng nghe xem bố mình đang nói điều gì. Cô chỉ nghe thấy nhưng tiếng đứt quãng.
- Đừng …..em đồng ý ?….. nối dõi……dòng họ….
Rồi đột nhiên hắn chồm lên ngồi thẳng dậy, mắt mở trừng trừng, sợi dây truyền máu đứt tung máu phun ra lênh láng cả chiếc giường bệnh. Hắn thét to, Tiếng thét như một mũi dùi khoan vào màn đêm sâu thẳm.
-Ông chết đi!
Rồi hắn lại đổ vật xuống, người hắn quằn quại. Con gái hắn và cô bác sĩ trực đêm cố gắng ghì chặt lấy người hắn nhưng không được. Hắn vung mạnh hai cánh tay xô ngã cả hai người rồi hắn bật dậy đứng sừng sững giữa căn phòng, hai cánh tay hắn vươn lên cao ngửa mặt lên trời cười cuồng loạn. Những vòng băng ở vết thương sổ tung, máu phun thành vòi lên mặt con gái hắn.
-Cháy! Cháy rồi ! Cháy hết đi !
Hắn gào lên trong tiếng cười man dại rồi đột ngột, tiếng cười tắt ngấm, hắn đổ sập xuống nền nhà.
- Bố!
Con gái hắn kêu lên một tiếng rồi cứ thế gục vào ngực bố mình ngất lịm.

*
* *

Bàn thờ nhà hắn có thêm một bức ảnh mới. Ảnh hắn. Đứng trước ban thờ là hai chị em. Người em hình như chỉ nhỏ hơn chị mình có vài tuổi và có khuôn mặt giống ông nội như tạc.
_ Chị!
Người em gọi một tiếng khe khẽ, người chị khẽ quay người nhìn sang đứa em mình chờ đợi còn người em môi mấp máy như muốn nói một điều gì đó nhưng lại không dám nói. Anh ta sợ. Người chị cũng sợ. Không một ai dám nói lên một cái điều lờ mờ trong tâm trí . Người em thu hết can đảm, anh ta khẽ nắm lấy tay chị gái mình.
- Có điều gì xảy ra với bố vậy hả chị.? Có phải là lỗi tại em không. ?
Người chị nhẹ kéo em trai lại khẽ ôm lấy đứa em trai mình .
- Chị không biết điều gì đã xảy ra với bố. Nhưng chắc chắn là em không có lỗi. Lỗĩ là của chiến tranh.
- Nhưng chiến tranh đã kết thúc mấy chục năm rồi mà chị.
Người em hỏi. Người chị khẽ lắc đầu.
- Chưa đâu em ! Chiến tranh vẫn đang hiện diện trên mảnh đất này.
Người em không hỏi gì nữa. Anh ta biết , chị mình đã nói đúng. Tiếng súng đã ngừng mấy chục năm nay nhưng tiếng nổ của chiến tranh chưa dứt. Thỉnh thoảng ở một đâu đó trên mảnh đất đầy đau thương này lại có một tiếng nổ phát ra do chiến tranh để lại.
Hai chị em rời bàn thờ, họ mang đồ đạc của hắn ra kiểm lại. Kỉ vật của hắn không có nhiều. một vốc nhưng huân chương, một tờ giấy báo tử, một tấm bằng gia đình vẻ vang và một cuốn sổ ghi chép đã vàng úa theo thời gian.
Người em cầm tờ giấy báo tử lên chăm chú đọc. Lông mày anh ta nhíu lại. Anh ta đưa cho chị mình tờ giấy báo tử.
-Chị ! chị đọc cái tờ giấy báo tử này đi !
Người chị ngạc nhiên nhìn em.
-Sao có điều gì à ?
- Bố mất trước khi em ra đời.
Người chị vội vàng giật lấy tờ giấy báo tử trong tay em trai mình . Cô gái lặng người đi mắt không rời nói tờ giấy báo tử.
-Chị ! -Người em khẽ nắm lấy tay chị mình gọi nhỏ. –Có phải là..... ?
Người chị như bừng tỉnh, cô hấp tấp dùng bàn tay nhỏ nhắn của mình bịt miệng em trai lại.
-Em đừng nói gì cả !- Giọng cô nghẹn lại - Chị xin em !
Một thoáng ngắn ngủi, ánh mắt hai chị em gặp nhau và cả hai cùng bối rối nhìn đi nơi khác. Họ tiếp tục lục tìm trong những di vật mà người bố để lại một cái gì đó mà không ai dám nói ra nhưng cả hai đều mong muốn, một cái gì có thể phủ định cái điều mà họ đã manh nha nghĩ trong đầu.
- Chị !
Người em trai thoảng thốt kêu lên. Toàn thân anh ta run bắn . Mấy tờ giấy trong tay anh ta rung bần bật. Năm ngón tay anh co quắp lại chọc thủng cả mấy tờ giấy to bản loại năm hào hai ngày xưa mà anh ta đang cầm. Người chị vội vàng nắm chặt lấy bàn tay em trai mình cố gắng gỡ những ngón tay đang co rút bấu chặt lấy mấy tờ giấy để cho nó khỏi bị rách. Cô ôm lấy mặt bật khóc. Người em quỳ xuống , anh ta ôm chặt lấy chị mình nghẹn ngào.
-Chị ơi! Đó là lỗi của em.
Người chị đã bình tĩnh lại. Cô gái nhẹ nhàng vuốt tóc đứa em trai mình khẽ nói.
-Em đừng nghĩ vậy ! Không một ai có lỗi cả. Em chính là một sự hi sinh cho tình yêu. Em đọc lại những lời của mẹ đi.
Vừa nói , người chị vừa trải rộng tờ giấy ra trước mặt em trai mình. Tờ giấy viết bằng máu. Có lẽ người mẹ đã cắn ngón tay mình để viết lên trang giấy.
ĐỪNG TRÁCH BỐ. ! EM YÊU ANH NÊN KHÔNG THỂ ĐỂ CHO DÒNG HỌ ĐẶNG CỦA ANH BỊ DỨT MẠCH
- Thế còn ông ! Sao......
Người em giận dữ nói gần như quát lên nhưng đột nhiên anh ta bắt gặp ánh mắt tức giận của người chị nên vội vàng ngừng lại. Người chị nét mặt đanh lại hắt những tia mắt giận dữ vào mặt đứa em trai mình gằn giọng.
- Ông cũng không có lỗi. Em đọc đi ! Ông đã phải lấy cái chết của mình để tạ lỗi với bố. - Người chị trải tờ giấy thứ hai ra trước mặt em mình . Cũng là một tờ giấy năm hào hai được viết bằng máu.
ĐỪNG TRÁCH VỢ CON. DÒNG HỌ TA ĐỘC ĐINH. BỐ XIN LẤY CÁI CHẾT ĐỂ TẠ LỖI VỚI CON
Giọng người chị bỗng trầm hẳn xuống đau sót - Sự trường tồn của những dòng họ cũng giống như sự trường tồn của một dân tộc. Vì sự trường tồn đó nhiều khi ta phải đau đớn bước qua cái ranh giới của đạo đức.
- Vậy là không có ai phải chịu trách nhiệm trước những nỗi đau và mất mát của gia đình ta sao ?
- Có em ạ ! Đó là chiến tranh

*
* *

Đêm ! Biển lặng ! Hình như sau một cơn bão đi qua biển êm đềm hơn và đẹp hơn. Mảnh trăng non cưỡi trên đầu những ngọn sóng lăn tăn theo gió trải ra đến vô tận. Dưới ánh trăng, dải núi hiện lên sừng sững, uy nghi như một lồng ngực vạm vỡ đang ưỡn ra thách thức với sóng gió của biển cả.
Hai chị em đi từng bước ngắn chậm rãi tiến dần ra ngoài biển, vừa đi họ vừa rắc tro cốt của bố lên trên đỉnh những ngọn sóng. Sóng ôm lấy ông, Biển ôm lấy ông
- Ông ơi ! Bố ơi ! Mẹ ơi ! Con cầu mong ba người sẽ ôm lấy nhau trong biển cả.
Cô gái thầm nghĩ. Ngoài xa, một con tàu đi qua để lại một vệt lân tinh lấp lánh làm cho cô gái có cảm giác như biển đang cười.



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/Dec/2020 lúc 7:53pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23148
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Dec/2020 lúc 2:50pm

GẶP LẠI THẰNG BẠN TÙ

Related%20image

Tao gặp mầy giữa San Francisco
Vui như đàn chim chiều bay về tổ...
Trời tự dưng mưa mấy ngày ướt phố
Gặp nhau đây, như gặp giữa Thiên đàng.



Image%20result%20for%20starbucks


Tao không giàu - Mầy cũng chẳng cao sang.
Đủ trang trải! Tao với mấy tâm sự…
Vẫn cười vang trên nỗi sầu viễn xứ
Ly cà phê Startbucks - nhớ quê nhà!




Quăng mẹ đời trai trong ngục với ma!
Dòng cuồng lưu cuốn trôi vào trầm tích.
Đôi tay run lần tìm trang sử - lịch!
Biết đến bao giờ ? Đứng ở nơi đâu ?



Image%20result%20for%20que%20huong


Mầy với tao từng ngồi suốt đêm thâu,
Trơ mắt ếch để tìm ngôi sao xẹt.
Mảnh dư đồ tranh dành ra nát bét...
Hồn quê hương phiêu bạc khắp nhân gian.


Image%20result%20for%20two%20men%20shaking%20hands


Tao với mầy gặp nhau còn hỏi han...
Còn ngất ngưỡng bên ly bia ướp lạnh!
Sao có thằng chưa gặp mà đã tránh ?
Mầy hỏi tao – thì tao biết hỏi ai ?!


Trang Y Hạ

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 101 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.367 seconds.