Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Lịch Sử - Nhân Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Lịch Sử - Nhân Văn |
Chủ đề: SÀI GÒN NGÀY XA XƯA | |
<< phần trước Trang of 11 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 30/Jun/2017 lúc 7:33am |
VÌ SAO NGƯỜI SAIGON GỌI BỆNH VIỆN LÀ NHÀ THƯƠNG?Dân miền SAIGON chắc hẳn còn nhớ các tên nhà thương như nhà thương Chợ Rẩy, nhà thương Chợ Quán, Bình Dân, Nguyễn Văn Học, Từ Dũ, Hùng Vương hay nhà thương Hồng Bàng…Trên bảng hiệu thường dùng từ “bệnh viện” nhưng
người dân miền Nam ít khi gọi nhà thương là bệnh viện. Ở Sài Gòn đôi
lúc cũng có nghe người ta gọi nhà thương là bệnh viện nhưng những người
đó không phải là dân gốc cố cựu miền Nam, thường là dân di cư năm 54.
Tiếng “nhà thương”
bắt nguồn từ ý nghĩa nhà chữa trị cho người thương tật bịnh hoạn. Nhưng
dân miền Nam gắn liền nhà thương với tình thương và chánh phủ đã giúp
vun bồi ý nghĩa, niềm tin đó.
Ở những nhà thương công bệnh nhân đi khám
bịnh, điều trị thì miễn phí, không tốn đồng xu nào. Vì vậy nó còn được
gọi là nhà thương thí, (bố thí) cho người nghèo. Ở Sài gòn lúc trước
người có tiền thì người ta đi nhà thương Đồn Đất, hay mấy nhà thương của
bang hội người Hoa như Triều Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến, Sùng Chính…
Đương nhiên nhà thương công thì chật
chội, không thoải mái tiện nghi, nhưng bù lại các ca bệnh nặng ngặt
nghèo thì phải vô nhà thương công, sanh con so thì phải vô Từ Dũ hay
Hùng Vương, vì đó là mấy nhà thương thực tập của trường y Saì Gòn, tập
trung các thầy, các cô, giáo sư, bác sĩ ưu tú của miền Nam. Thỉnh thoảng
có người thân bịnh nhân la bài hải lên “đây là nhà thương chớ đâu phải nhà ghét” khi họ thấy y tá hằn hằn học nặng tay.
Ngày nay tiếng “nhà thương” không còn thích hợp nữa.
Một số “nhà thương” của SAIGON xưa.
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 30/Jun/2017 lúc 7:38am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 30/Oct/2017 lúc 3:59pm |
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 22/May/2018 lúc 7:44am |
Tôi và Saigon
Kinh Nhiêu Lộc xưa.
Tôi vốn không phải là dân Sài Gòn. Tôi là thằng con trai miền Trung
vô Sài Gòn kiếm cái chữ từ những năm cuối của thập niên sáu mươi, đầu
bảy mươi của thế kỷ trước. Là thằng sinh viên nghèo tự lập chẳng ai nuôi
nên tôi chỉ quanh quẩn ở những xóm lao động của Sài Gòn hoa lệ thời ấy.
Để tiện việc học hành, và vì lúc đấy cũng chẳng có phương tiện di
chuyển, tôi bám trụ khu Trương Minh Giảng suốt quãng đời đi học. Cho đến
khi đi làm mua nhà, tôi vẫn quanh quẩn khu vực ấy. Thế nên Sài Gòn
trong tôi là những xóm nghèo, Sài Gòn với tôi là những người lao động
nghèo, những căn nhà nho nhỏ, lụp xụp bên bờ kinh Nhiêu Lộc mà bây giờ
không còn nữa. Ngay đống rác ngay chân cầu Trương Minh Giảng thuở xưa
cũng là nơi ghi dấu nhiều ký ức cùa tôi một thời đã đi qua không trở
lại.
Lúc mới vào Sài Gòn, tôi mê những hàng cây. Những cây me đường Nguyễn
Du với những quán cà phê ven vỉa hè. Tôi và bè bạn rong chơi ở đấy suốt
đời sinh viên để ngắm những hàng me, để đón những lá me nhỏ xíu rớt
trên vai mình, để nhìn những hạt mưa bay bay trên những vòm lá xanh biếc
màu ngọc bích và để yêu một thành phố. Tôi cũng mê những buổi chiều đi
lang thang sau giờ học ở Đại Học Văn Khoa, đến cuối đường Gia Long, ở
gần nhà thương Grall để ngắm hai hàng cây giao nhau và cuối con đường là
chủng viện Công Giáo với tường màu gạch đỏ. Cảnh đó giống như một tác
phẩm nghệ thuật và lúc đó tôi nghĩ đây là con đường đẹp nhất Sài Gòn. Đi
thêm một đoạn nữa, ta ngỡ ngàng với hàng cây cổ thụ vươn cao từ khu Ba
Son chạy ra Đinh Tiên Hoàng, những hàng cây thẳng tắp luôn khiến con
đường nhiều bóng mát điểm những bóng nắng loang lổ như một bức ảnh đẹp
được chụp bởi một tay máy nghệ sĩ.
Tôi cũng thích bách bộ lang thang đến đường Đoàn Thị Điểm (bây giờ là
Trương Định) để ngắm những ngôi nhà sang trọng nhưng rất thanh lịch
thấp thoáng sau hàng rào đầy hoa và con đường nhiều bóng râm.
Nhiều lần đi kiếm cơm ăn ké bạn bè ở đại học xá Minh Mạng, tôi cũng
ngắm nhìn những hàng cây cao vút cạnh ngôi nhà thờ màu đỏ như gợi nhớ
một bức tranh nào đó đầy màu sắc của hoạ sĩ Đinh Cường.
Có nhiều đêm, đi qua ngôi nhà lớn ở đầu đường Trương Minh Giảng tôi
nghe tiếng dế gáy ở bụi cỏ và hương ngọc lan thơm ngát từ ngững cây ngọc
lan cổ thụ trong sân tòa nhà dưới ánh đèn đường mờ đục. Tiếng dế và
hương thơm ngọc lan vẫn nằm trong ký ức của tôi đến tận bây giờ bởi con
đường đó gắn với tôi biết bao kỷ niệm không thể quên.
Kể nhiều vòm cây khóm lá để thấy ấn tượng đầu tiên của một chàng học
trò tỉnh lẻ đến Sài Gòn chính là những con đường với những hàng cây rợp
bóng.
Đến bây giờ, tôi đã ở Sài Gòn được gần nửa thế kỷ. Chưa bao giờ có ai
hỏi tôi là người gốc Sài Gòn hay là dân Sài Gòn xịn, dù đã ở lâu xứ
này, tôi vẫn nói giọng Quảng dù đã nhẹ hơn người chánh gồc Quảng. Ở đất
này, ai đã đến và sinh sống ở đây đều là người Sài Gòn. Sài Gòn có nhiều
người Bắc di cư năm 1954. Sài Gòn cũng có nhiều người miền Trung từ
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy nhơn, Bình Định. Sài Gòn còn có rất nhiều
người miền Tây lên, từ miền Đông Nam Bộ đến.Nhưng dù họ đến từ đâu, họ ở
đây đã là dân Sài Gòn, chẳng có ai phân biệt, chẳng có ai thắc mắc. Và
đó cũng là đặc điểm đặc biệt của người Sài Gòn khác với Hà Nội.
Đêm đầu tiên khi đặt chân đến Sài Gòn, tôi ngủ trên ghế đá chỗ vườn
hoa Tao Đàn. Nửa đêm tôi bị đánh thức bởi hai người cảnh sát. Bởi thời
đó thiết quân luật từ nửa đêm, không ai được ra đường. Sau khi đưa giấy
tờ và kể lể hoàn cảnh vừa mới từ miền Trung vào đi học, chưa kiếm được
người quen. Một anh cảnh sát bảo: “Miền Trung à? Ái chà chà, mấy ông
sinh viên quê ngoài ấy khoái theo Việt Cộng lắm.” Tui chẳng biết nói sao
đành chịu bị giải về cái bót cảnh sát ở ngay góc chợ Bến Thành. Tui nằm
ở đó một đêm, sáng ra có một ông sĩ quan cảnh sát đến, bảo tôi đi học
thì gắng mà học hành, đừng nghe lời mấy tay Việt Cộng mà tiêu đời. Ông
ta móc bóp, cho tôi tiền ăn sáng và uống cà phê. Đó là cái tình của
ngưởi Sài Gòn đầu tiên trong đời tôi và gây cho tôi ấn tượng về con
người ở xứ này.
Trong những ngày đói rách, khó khăn của cuộc đời, những người Sài
Gòn, những người nghèo Sài Gòn đã bảo bọc, giúp đỡ tôi qua cơn khốn khó.
Tôi không quên được cô gái bán cơm ở chợ Trương Minh Giảng. Thuở đó,
tôi thất nghiệp, chẳng kiếm ra tiền, chắt bóp, vơ vét túi chỉ đủ gọi dĩa
cơm trắng rồi xin miếng xì dầu ăn qua bữa. Ăn được ba hôm như thế thì
cô bán cơm hỏi sao không thấy anh ăn thức ăn, đành nói dối tôi ăn chay.
Cô ấy chỉ cười, không nói. Nhưng mấy hôm sau, dĩa cơm xì dầu của tôi
luôn có dưới lớp cơm trắng khi thì miếng đậu hủ, lúc thì miếng thịt hoặc
cái hột vịt kho. Được mấy hôm, tôi mắc cỡ, không dám ra ăn nữa. Sau đó
lại kiếm được việc bán báo ở tận đường Phạm Ngũ Lão, tôi không ăn cơm ở
đó. Thời gian sau tìm lại thì quán đã đổi chủ rồi, tôi chẳng tìm được
lại cô gái bán cơm có nụ cười rất tươi và tấm lòng nhân hậu.
Ăn uống thiếu thốn lại tạng người không khoẻ, tôi hay bệnh vặt. Chính
những người hàng xóm rất nghèo của tôi đã giúp tôi qua được những cơn
bệnh, giúp tôi có chén cháo, viên thuốc. Cái tình đó tôi làm sao quên.
Sau này ở lâu, tôi mới hiểu ra đó là bản chất của người Sài Gòn. Là cái
tính ưa giúp người hoạn nạn, giúp kẻ sa cơ, tính ưa làm việc thiện của
người Sài Gòn.
Mỗi lần rời xa Sài Gòn lâu, nhớ về Sài Gòn tôi chỉ nhớ những hàng cây
và những người Sài Gòn tôi đã gặp, đã sống chung với họ một quãng đời.
Người ta hay khen Sài Gòn với những cao ốc, những dinh thự, những khu ăn
chơi bốc trời, những hàng quán xa hoa, những chiếc xe đắt tiền, những
thú vui hoan lạc. Riêng tôi, trong tôi, Sài Gòn là vòm cây xanh lá, là
những ngôi nhà bên dòng nước đen và ở đó tôi tìm thấy tình người.
Bây giờ, Sài Gòn đã đổi tên. Thế nhưng tôi vẫn gọi là Sài Gòn như một
thói quen, cái tên của ký ức không thể nhạt phai. Người ta đang tìm đủ
cách để thành phố này không còn ký ức của Sài Gòn. Nhưng với người Sài
Gòn, Sài Gòn mãi mãi là Sài Gòn mà không có một cái tên nào khác có thể
thay thế được.
15.4.2018
Đỗ Duy Ngọc
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 29/May/2018 lúc 8:17am |
HÌNH ẢNH SÀI GÒN XƯA Đường Lê Lợi. Đường Trần Hưng Đạo. Đường phố Sài Gòn. Bãi để xe của rạp chiếu phim Đại Nam trên đường Trần Hưng Đạo Nhà thờ Đức Bà. Tòa Đô chính. Xích lô Sài Gòn xưa. Kênh Nước Đen. Hàng chục chiếc xô tập trung tại một vòi nước máy công cộng. Quảng cáo cho một bộ phim Ấn Độ chiếu tại rạp Thành Chung. Khu vực bán gà vịt. Quầy bán nước mía.. Các bà bán rau.. Cửa hàng đồ sứ. Trò ảo thuật của gánh thuốc Sơn Đông. Quầy thuốc lá trên vỉa hè. Một góc phố mùa hạ. Chùa Ngọc Hoàng ở Đa Kao. Những vòng hương trong chùa. Bên trong Lăng Ông / Bà Chiểu Một thầy đồ chuyên đoán mệnh, giải quẻ. Kênh rạch ở Sài Gòn. Sông Sài Gòn. Bến Bạch Đằng. Khu vực quận 5 nhìn từ máy bayKhu vực quận 5 nhìn từ máy bay./. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 11/Jul/2018 lúc 1:29pm |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 16/Jul/2018 lúc 9:44am |
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 21/Aug/2018 lúc 10:44am |
Sài Gòn Xưa: Chuyện Thành Ngữ “Bỏ Qua Đi Tám!”
Người Sài Gòn xưa có cách xưng hô
thứ bậc thú vị: công chức, người có học là thầy Hai, người Hoa buôn bán
là chú Ba, đại ca giang hồ là anh Tư, lưu manh là anh Năm… người lao
động nghèo xếp thứ Tám. Sao lại xưng hô vậy?
Chiều
muộn hôm qua có cậu bạn đi công việc ghé ngang nhà rủ làm ly cà phê tán
dóc. Nói chuyện lan man một hồi, tự nhiên anh chàng kể công ty em có
ông già gác cửa rất hay nói câu “bỏ qua đi Tám”…
“Em
không hiểu, có lần hỏi thì ổng nói đại khái là dùng khi can ngăn ai bỏ
qua chuyện gì đó, nhưng sao không phải là Sáu hay Chín mà lại là Tám thì
ổng cũng không biết”, cậu bạn thắc mắc.
Dựa vào những câu chuyện xưa cũ, những giai thoại, nên kể ra đây chút nguyên cớ của câu thành ngữ có lẽ sắp “thất truyền” này…
Trước
hết, phải biết là câu này phát sinh ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn từ thời
Pháp thuộc, khoảng đầu thế kỷ 20. Thời đó, cách xưng hô thứ bậc trong
xã hội rất phổ biến và phần nào phản ánh vị trí xã hội, giai cấp… một
cách khá suồng sã và dễ chấp nhận.
Thứ Nhất: Đứng trên hết
là các “Quan Lớn” người Pháp hoặc các quan triều nhà Nguyễn, thành phần
này thì không “được” xếp thứ bậc vì giới bình dân hầu như không có cơ
hội tiếp xúc đặng xưng hô hay bàn luận thường xuyên.
Thứ Hai:
Kế đến là các công chức làm việc cho chính quyền, họ ít nhiều là dân có
học và dân thường hay có dịp tiếp xúc ngoài đời, là cầu nối giữa họ với
các thủ tục với chính quyền, hoặc đó là thành phần trí thức, đó là các
“thầy Hai thông ngôn”, hay “thầy Hai thơ ký”…
Thứ Ba:
Là các thương gia Hoa Kiều, với tiềm lực tài chính hùng hậu và truyền
thống “bang hội” tương trợ, liên kết chặt chẽ trong kinh doanh, các “chú
Ba Tàu” nghiễm nhiên là thế lực đáng vị nể trong mắt xã hội bình dân
Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó.
Thứ Tư:
Là các “đại ca” giang hồ, những tay chuyên sống bằng nghề đâm chém và
hành xử theo luật riêng, tuy tàn khốc và “vô thiên vô pháp” nhưng khá
“tôn ti trật tự (riêng)” và “có đạo nghĩa” chứ không tạp nhạp và thiếu
nghĩa khí như các băng nhóm “trẻ trâu” hiện đại. Các “anh Tư dao búa”
vừa là hung thần, vừa ít nhiều lấy được sự ngưỡng mộ của giới bình dân
(và cũng không ít tiểu thư khuê các) thời đó.
Thứ Năm: Là vị trí của giới lưu manh hạ cấp hơn: các anh Năm đá cá lăn dưa, móc túi giật giỏ, hay làm cò mồi mại dâm…
Thứ Sáu:
Bị giới bình dân ghét hơn đám lưu manh côn đồ là các “thầy Sáu phú-lít
(police)”, “thầy Sáu mã tà”, “thầy Sáu lèo”. Chức trách là giữ an ninh
trật tự, chuyên thổi còi đánh đuổi giới buôn gánh bán bưng bình dân,
nhưng các “thầy Sáu” này cũng không từ cơ hội vơ vét ít tiền mọn “hối
lộ” của họ để “nhẩm xà” (uống trà).
Thứ Bảy:
Và trong giới buôn bán thì không thể thiếu chuyện vay vốn làm ăn, mặc
dù Tàu hay Việt cũng đều có tổ chức cho vay. Nhưng phổ biến và “quy củ”
nhất ở cấp độ trung – cao khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó là các “anh
Bảy Chà và”, các anh này là các nhà tài phiệt người Ấn, vừa giàu vừa ít
bị “ghét”, vừa ít nhiều có quan hệ qua lại với giới chức người Pháp, lại
làm ăn đúng luật lệ, ít thừa cơ bắt chẹt lãi suất nên khá được giới
kinh doanh tín nhiệm.
Thứ Tám:
Xếp thứ Tám chính là lực lượng đông đảo nhất xã hội bình dân bấy giờ:
họ là giới lao động nghèo chỉ có sức lực làm vốn nuôi miệng, từ bốc vác,
gánh nước bồng em, đến “sang” hơn chút xíu là phu xe kéo…
Tuy
đông nhưng lại yếu thế nhất vì thất học, không có tiền như thầy Hai,
anh Ba, cũng hiền lành chứ không bặm trợn phản kháng bạt mạng như các
anh Tư anh Năm nên họ thường xuyên chịu sự áp bức, bắt nạt từ mọi phía.
Cách để yên thân khả dĩ nhất với họ là khuyên nhau cắn răng nhẫn nhịn,
quên đi để sống: “Bỏ qua đi Tám”, bây giờ chắc là đã dễ hiểu rồi.
Thứ Chín: Không còn liên
quan nữa, nhưng nhân tiện sẵn nói luôn về thứ bậc chót cùng trong xã
hội thời đó: các cô, các chị Chín xóm Bình Khang chuyên “kinh doanh”
bằng “vốn tự có”.
Dài dòng tí để trình
bày chút kiến giải về một câu thành ngữ đang dần bị quên lãng dùng để
bày tỏ thái độ khuyên người hoặc tự an ủi mình hãy đừng để ý những
chuyện không vui, hay bị ai đó “chơi không đẹp”. Nếu lỡ đọc thấy không
có gì thú vị thì thôi, “bỏ qua đi Tám”.
“Anh
Hai Sài Gòn” thì là cách gọi vui, thân mật, nhưng cũng thể hiện tính
cách phóng khoáng, dám làm dám chịu của dân Sài Gòn nói riêng và miền
Nam nói chung. Vì sao lại là “Anh Hai” chứ không là “Anh Cả”?
Năm
1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, bắt đầu gây dựng chính quyền
Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đây là cái mốc quan trọng của quá trình “Nam
tiến” trong lịch sử Việt Nam, cũng là quá trình hình thành văn hóa vùng
đất phía Nam trong xu thế mang theo và gìn giữ văn hóa cội nguồn, đồng
thời tiếp nhận những yếu tố văn hóa của cư dân vùng đất mới.
Đến
năm 1698, Phủ Gia Định được thành lập, Sài Gòn – Gia Định hình thành từ
đó. Chỉ hơn 300 năm nhưng người Sài Gòn đã kịp định hình một bản sắc
riêng dễ nhận biết giữa những người của vùng miền khác. Điều này hình
thành từ nguồn gốc lưu dân và hoàn cảnh lịch sử xã hội của miền Nam /Sài
Gòn.
Lưu dân người Việt vào Nam trước
hết và đông nhất là những người “Tha phương cầu thực” vì không có đất
đai, không có phương kế sinh sống ở quê hương. Thành phần thứ hai là
những người chống đối triều đình, quan lại địa phương bị truy bức nên
phải tìm đường trốn tránh. Thứ ba là những tội đồ bị buộc phải ly hương
(một hình phạt nặng của thời phong kiến). Ngoài ra, còn có số ít người
tương đối giàu có, muốn mở rộng và phát triển việc làm ăn trên vùng đất
mới nên nhập vào hàng ngũ lưu dân tới miền Nam…
Khi
Sài Gòn được hình thành như một trung tâm của vùng đất phía Nam thời
chúa Nguyễn, một đô thị lớn thời thuộc Pháp thì nơi đây cũng là nơi dân
tứ xứ tiếp tục đổ về. Người nhập cư là thành phần hữu cơ của bất cứ đô
thị nào, Sài Gòn vốn hình thành từ những lớp “người nhập cư” rồi trở
thành “người Sài Gòn”, rồi lại tiếp tục thu nhận và chia sẻ cho những
lớp người nhập cư mới.
Sống trong
những điều kiện lịch sử luôn biến động, người dân miền Nam /Sài Gòn đã
tạo dựng một nếp sống tinh thần ấm áp, bình đẳng, lấy tình nghĩa, nghĩa
khí làm trọng…
Người Sài Gòn không phân biệt “quê”, “tỉnh”, “đồng hương” hay không…
Có
thể nói, tính cách người Sài Gòn bắt nguồn từ yếu tố, điều kiện thực tế
nhất ở Sài Gòn là “Làm”: “Làm ăn”, “Làm chơi ăn thiệt”, “Làm đại”, “Dám
làm dám chịu”… được thể hiện một cách giản dị, thiết thực, “liều lĩnh”
nhưng cũng đầy trách nhiệm
Ở Sài Gòn,
“dư luận xã hội” không nặng nề khe khắt với những cái khác, cái mới.
Người Nam khá dân chủ trong các mối quan hệ xã hội và cả
trong gia đình, từ cách xưng hô (người Nam thường xưng “tui”) đến việc
cá nhân ít lệ thuộc, phụ thuộc vào cộng đồng.
Chỉ
vậy thôi, bất kể người tỉnh nào vùng miền nào, miễn là sống ở Sài Gòn,
rồi có tính cách như vậy, thì đó là Người Sài Gòn… Có lẽ vì vậy mà người
ta thường gọi người Sài Gòn một cách trìu mến là “Anh Hai Sài Gòn”.
Ở
miền Bắc con trai trưởng trong nhà gọi là Anh Cả nhưng miền Nam lại gọi
Anh Hai. Vì sao là Anh Hai mà không phải là Anh Cả? Có thể từ vài giả
thuyết sau: Chúa Nguyễn Hoàng là người con trai thứ hai của Nguyễn Kim,
mở đường vào Nam khai phá nên để tôn trọng ông, người dân gọi người con
lớn của mình, trai hay gái, cũng chỉ là (thứ) Hai.
Hoặc,
có ý kiến cho rằng, khi có phong trào lưu dân vào Nam khai khẩn, trong
gia đình thường để con trai thứ ra đi vì người con trai trưởng có vai
trò ở lại quê nhà phụng dưỡng cha mẹ và thờ cúng tổ tiên. Cũng có người
cho rằng, trong làng quê miền Nam xưa có ông Cả (Hương Cả) là người đứng
đầu, vì vậy trong các gia đình chỉ có người thứ Hai…
Tuy
khác nhau về nguồn gốc “thứ Hai” của “anh Hai Sài Gòn” hay “anh Hai Nam
Kỳ” nhưng có thể nhận thấy có chung một điểm: Đó là người con thứ không
bị ràng buộc trách nhiệm nặng nề “giữ hương hỏa, nền nếp” như người con
trưởng nên có thể “rộng chân” ra đi, tự do hơn khi tiếp nhận cái mới,
thay đổi cái cũ lạc hậu, dễ thích nghi, có khi thử, liều. Nhưng vì không
có gia đình họ hàng bên cạnh để mà dựa dẫm “tại, vì, bởi…” nên phải có
trách nhiệm “dám chịu” nếu lỡ sai lầm.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 27/Aug/2018 lúc 6:55am |
Nhớ Xích Lô Máy Sài Gòn Xưa
Ngày xưa mỗi lần tôi theo má đi
về Bến Tre thăm ngoại và trở lên Sài Gòn, má luôn dùng xe xích lô máy
đi ra bến xe Miền Tây và bận trở về nhà cũng vậy. Tôi rất thích ngồi xe
xích lô máy, lúc nào cũng ngồi dưới sàn xe. Má và hai em nhỏ ngồi trên
nệm xe. Má tôi đem lên Sài Gòn rất nhiều đồ ăn như: gạo, trái cây đủ
loại và bánh đủ loại, vậy nên chỉ có xe xích lô máy mới chở được.
Đối với tôi và các ông bạn già, xe xích lô máy có rất nhiều kỷ niệm ngày xưa. Một người bạn trung niên của tôi kể:
“Tôi
nhớ lúc nhỏ từ Chợ Lớn đi Sài Gòn, mỗi lần đi không ham taxi, không ham
xe bus… mà chỉ đòi cha mẹ ngoắc tay kêu xích lô máy. Gia đình đông bốn
năm người, con nít thì ngồi dưới sàn xe, người lớn ngồi trên nệm như ghế
salon, xe chạy ù ù, qua mặt xe khác vù vù, cả nhà đưa mặt ra hứng gió,
tai nghe máy mô tô, tiếng pô xe nổ phình – phịch – bình – bình oai phong
hết sẩy.”
Một người bạn già khác lại nói:
“Tài
tình nhất là cảnh xe xích lô máy đút đít xe phía trước. Má ơi, cứ tưởng
là cái cản xe thế nào cũng đụng vào xe hơi, xe gắn máy, nhưng hổng sao
hết bởi dân lái xích lô máy thiện nghệ vô cùng.”
Một người
lớn tuổi hơn kể, trước năm 1975, người Mỹ cả dân sự lẫn quân sự đều
thích đi xe xích lô máy, một phần vì lạ, phần nữa là ngồi xe xích lô máy
có chút mạo hiểm:
“Tôi nhớ hoài cái cảnh mấy ông Mỹ hứng thú la hét khi xe xích lô máy chạy nhanh chồm tới thiếu điều muốn đụng đít xe hàng.”
Trong dòng thời gian một ngày của Sài Gòn trước đây, tiếng xe xích lô
máy thức giấc sớm nhất. Từ các ngả đường của đô thị, xích lô máy chở
những người bạn hàng tỏa đi khắp các chợ với đủ loại thực phẩm, hàng hóa
hoặc khách tỉnh lên Sài Gòn, tấp vào tiệm nước làm ly cà phê xây –
chừng, cái bánh bao, tô hủ tíu… Tiếng xích lô máy vang lên giữa cảnh
phố khuya thanh vắng.
Sáng, hành khách đủ loại lên xe: một bà
bầu nào đó, một đứa trẻ hoặc người già trở bệnh, một kỹ nữ hay một
người lính Việt Nam Cộng hòa nào đó say mèm… Tất cả đều đang trên
đường với xe xích lô máy.
Tiếng xe xích lô máy nổ như tiếng ồn ồn của một người đàn ông thân
thiện. Người ta nhớ rằng thời đó, mỗi góc chúng cư, mỗi ngõ hẻm, bệnh
viện, bến xe đều có những bác ba, chú tư, anh hai xích lô máy túc trực.
Người ta cũng không quên rằng những bác tài xích lô máy đáng được tôn
trọng như một biểu tượng về sự an toàn và sự kịp thời trong những tình
huống cần kíp của người Sài Gòn.
Xích lô máy xuất hiện ở Sài Gòn vào những năm 1940-1950. Xe do hãng xe
Peugeot của Pháp chế tạo. Xích lô máy ngày xưa mang nhiều màu sơn sặc
sỡ, có thể chở với trọng lượng vài trăm ký lô là bình thường. Người chạy
xe xích lô máy thời đó rất cao bồi và tất nhiên được trọng nể hơn người
chạy xe xích lô đạp, bởi vì sở hữu được một chiếc xe xích lô máy khoảng
gần chục lượng vàng là coi như có một gia tài khấm khá. Thành ra bác
tài chạy xe xích lô máy đội nón nỉ, nón cối, đeo kính mát, trông lúc nào
cũng phong độ. Ngày xưa xe xích lô máy có bến riêng hẳn hoi. Người
người còn nhớ ở cầu Hậu Giang, ở khu Bà Chiểu… có những hãng chuyên cho
thuê xe xích lô máy.
Thế rồi xuất hiện chủ trương cấm lưu thông xe cũ, xe ba-gác Trung
Quốc vào chiếm lĩnh thị trường, xe xích lô máy coi như đã chết hẳn. Lúc
chúng tôi phát hiện mấy chiếc xe xích lô máy tan nát còn đậu chở hàng ở
bến chợ Kim Biên, thiệt tình mà nói trong lòng thấy ngậm ngùi quá.
Chúng tôi nhớ đến một người bạn thi sĩ nghèo, ông này tâm sự:
“Tôi
ngày nào cũng mua vé số, cầu cho trúng, chỉ cần trúng đủ mua một chiếc
xe xích lô máy còn zin là được. Cha ơi! Chiều chiều cuối tuần mình chạy
xích lô máy chở bạn bè làm vài vòng Sài Gòn để thiên hạ ngày nay biết
dân Sài Gòn xưa bảnh như thế nào, sướng phải biết!”
Tất
nhiên, nhiều người chia sẻ cái sự sướng với anh thi sĩ về chiếc xe đặc
biệt – đặc trưng của một thời Sài Gòn hoa lệ này. Trước những giá trị
sống của dân tộc và đất nước đang trên đà thay đổi hiện nay, thôi thì
níu kéo làm sao được cuộc mưu sinh và vẻ đẹp trên đường phố của xe xích
lô máy.
Nhưng đã
là người Sài Gòn thì sao không nhớ xe xích lô máy cho được, sao không
nghe tiếng xe xích lô máy vang lên trong ký ức thao thức mỗi đêm? st.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 07/Sep/2018 lúc 12:29pm |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 16/Nov/2018 lúc 8:28am |
Nhớ Bánh Tây Của Thời Sài Gòn Xưa
Một sạp bán bánh Tây cũ còn cố gắng tồn tại lại trong chợ Bến Thành, Sài Gòn. (Hình: Trần Tiến Dũng)
Ngày nay, dù Sài Gòn đã trở thành đô thị quốc tế với các món ngon vật
lạ, nhưng đôi khi, thế hệ người miền Nam sinh trước biến cố năm 1975
vẫn nhớ đến các món ăn, đồ uống, thứ bánh một thời gắn bó với tuổi thơ.
Trong nỗi thèm nhớ không gian ẩm thực một thời hạnh phúc, no ấm của
các thị dân miền Nam, kỳ diệu thay các món bánh Tây ngoài hệ truyền
thống bánh Việt vẫn luôn là một phần ký ức văn minh ẩm thực của từng
người.
Tôi ngồi nghe nhà văn nữ, chị Ngọc Tuyết, ở Cần Thơ, kể về các món
bánh Tây từng hiện hữu trong đời sống của các gia đình công chức trung
lưu Nam Kỳ Lục Tỉnh.
Chị kể, má chị học trường Nữ Trung Học Gia Long, học đủ các môn nữ
công gia chánh, trong đó có dạy nấu nướng các món Tây, mà đặc biệt là
các loại bánh Tây. Khi về Cần Thơ sinh sống, mỗi Chủ Nhật bà vừa làm
bánh cho cả nhà ăn, vừa dạy con cháu làm các loại bánh Tây mà bà đã học.
Chị không thể quên mùi vị thơm ngon của bánh cake đúng kiểu Pháp với
mứt có vị trái thơm, vị rượu rhum hòa quyện với bơ, sữa thơm ngon kể sao
cho xiết. Rồi lại có bánh quy (biscuit) đổ trong khuôn có hình các con
thú như thỏ, mèo, gà… khiến đám con nít rất thích.
Hẳn nhiên, thế hệ học sinh các trường danh tiếng ở Sài Gòn ngày xưa
đưa nhau vô khu trung tâm, vào các hiệu bánh nổi tiếng như Givral,
Brodard… để ăn bánh Tây là chuyện bình thường. Giữa không khí sang trọng
của nhà phố kiến trúc Pháp, giữa nhịp sống thượng lưu, trung lưu, các
cô cậu học trò dù chọn ăn cái bánh sừng bò (croissant) rẻ tiền ướt bơ
thơm, vẫn cảm thấy phảng phất hương vị quý phái.
Ngày nay, vẫn có thể tìm thấy bánh sừng bò, bánh quy bán ở tiệm lớn,
tiệm nhỏ hay siêu thị, nhưng chắc chắn không ai có thể tìm lại được
phong vị ẩm thực một thời làm nên gu ẩm thực chuẩn mực mà người dân miền
Nam ai cũng biết là, đi Sài Gòn ăn đồ Tây, vô Chợ Lớn ăn đồ Tàu.
Tous Les Jours, một trong các thương hiệu bán bánh Tây nhưng của Nam Hàn, mới du nhập vào Sài Gòn. (Hình: Trần Tiến Dũng)
Thật ra bánh Tây đối với người xứ Nam Kỳ vốn quen thuộc và không phân
biệt dân sang hay dân nghèo. Ai cũng biết là mỗi khi mình cảm sốt hay
phải nằm nhà thương vì bệnh tật, thì lời khuyên của bác sĩ hay thân nhân
là nên tạm thời bỏ qua các món mắm muối thịt cá vào buổi sáng, buổi
khuya, mà ăn vài cái bánh Tây lạt chấm sữa nước sôi cho nhẹ bụng, dễ
tiêu hóa.
Bánh Tây ngày trước đâu có khó kiếm, dù ở thị trấn nhỏ, các tiệm tạp
hóa cũng có bán. Bánh Tây có loại bánh lạt, bánh Tây phủ lớp đường cát
trắng và có cả bánh Tây mặn áo một chút muối. Có thời đám con nít tỉnh
lẻ giả đò bệnh cảm hoặc bệnh ít xít ra nhiều để được cha mẹ mua cho bánh
Tây và chai nước ngọt xá xị.
Không có gì quá đáng khi cho rằng bánh mì cứng mà người Pháp đem vô
xứ Việt là vua của các loại bánh làm bằng bột mì. Nhưng nếu bỏ qua các
thứ bánh Tây khác đã từng làm khoái khẩu người Việt thì đúng là thiếu
sót lắm.
Thật thà mà nói, đâu ai có thể chê được bánh pâté chaud nhưn thịt
heo, bánh su kem, và nhứt là bánh bông lan, bánh Tây, bánh flan,…
Người miền Nam thưởng thức các loại bánh Tây, có một điểm thú vị là
nếu không được ai đó rành lịch sử các loại bánh Tây nhắc nhớ, thì họ cứ
đinh ninh là bánh của người Việt mình chế ra. Thí dụ như với nhiều
người, cái bánh mà các ông Tàu đẩy xe đi bán, bánh được đổ bằng cái
khuôn giống tàn ong, vậy là người ta quen miệng gọi là bánh kẹp tàn ong;
thực ra nó là thứ bánh có tên Tây hẳn hoi nhưng lâu ngày không còn ai
nhớ nữa.
Các biến thể mới bánh Tây đúng là khó kể hết, thí dụ như bánh bông
lan đã có cả chục loại biến thể bánh bông lan khác nhau như kiểu bánh
bông lan gồm cả vị Tây, Tàu, Việt với nhưn phô mai, thịt chà bông, hột
vịt muối…
Người Sài Gòn nhớ các loại bánh Tây xưa là nhớ cả không gian đô thị
mang phong cách Pháp đã thấm đẫm vào nếp ăn, nếp sống văn minh của từng
thị dân, từng gia đình. Và điều đó là thứ mà ngày nay người Sài Gòn
không còn tìm thấy nữa, dù đô thị này tràn ngập các thương hiệu ẩm thực
danh tiếng hay tầm thường của nước ngoài.
Ngày nay, ai đó dù ăn một miếng bánh Tây với nguyên liệu thượng hạng
nhập cảng, chắc rằng sẽ không bao giờ còn được thấy trên nguồn khẩu vị
tinh tế của mình cả một không gian Sài Gòn, một Paris của phương Đông
từng một thời sang trọng danh giá.
Trần Tiến Dũng
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 11 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |