Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Tâm Tình | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình |
Chủ đề: Vườn TÂM LINH | |
<< phần trước Trang of 9 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 15/Dec/2013 lúc 8:03pm | |
Chỉ trăm bước nữa là thành công THEO Ý CAO TÌNH ĐẸP - Nguyễn Hiến Lê dịch. Hồi đó tôi hai mươi lăm tuổi, thất nghiệp và đói. Đã nhiều lần tôi ở trong tình trạng như vậy tại Constantinople, tại Paris, tại Rome. Nhưng tại New York, ngay cái không khí người ta thở cũng có cái vị của hạnh thông mà thất nghiệp thì thật là tủi nhục. Tôi hoàn toàn không biết xoay xở ra sao, điều đó chẳng có gì lạ. Tôi muốn kiếm ăn bằng ngòi bút nhưng lại không viết được bằng tiếng Anh, nên suốt ngày tôi lang thang ngoài phố, không phải vì thích sinh hoạt mà để bà chủ nhà khỏi bận mắt. Một hôm, trên con đường 42, tôi đụng đầu với một người to lớn tóc hung hung. Tôi nhận ra liền: Féodoe Chaliapine, diễn viên Nga nổi tiếng. Hồi thiếu niên, đã nhiều lần tôi sắp hàng mua giấy hạng bét để nghe ông hát ở rạp Đế Quốc Hí Viện Moscow. Hồi làm báo ở Paris, có lần tôi đến phỏng vấn ông, tôi tưởng ông không nhận ra tôi, không ngờ ông nhận ra. Ông hỏi tôi: Bận lắm không? Tôi đáp lí nhí một câu mơ hồ. Có lẽ ông đoán được tình cảnh của tôi. - Theo tôi về khách sạn ở góc đường Broadway và đường 103 nhé? Chúng mình cùng đi bộ. Lúc đó đã giữa trưa và tôi đi lang thang đã năm giờ rồi. - Nhưng ông Chaliapine ạ, từ đây tới đó năm sáu cây số lận. Ông ta ngắt lời tôi: Điên nào, chưa đầy trăm thước. Tôi ngạc nhiên hỏi : Trăm thước? - Thì vậy chứ sao! Tôi không nói là tới khách sạn, dĩ nhiên. Là tới gian bắn ở đại lộ 6 ấy. Tôi chẳng hiểu gì cả, nhưng cũng đi theo. Một lát chúng tôi tới trước gian hàng đó, đứng ngó hai chú lính thủy bắn vào một cái bia, đều đều, không biết bao nhiêu lần. Rồi chúng tôi lại tiếp tục đi. Ông Chaliapine vui vẻ bảo tôi: Bây giờ còn hơn một cây số nữa. Tôi gật đầu. Một lát sau tới Carnegie Hall, ông Chaliapine bảo ông thích nhìn vẻ mặt của những người tới mua vé nghe hòa nhạc ở Viện Âm Nhạc. Chúng tôi ngừng lại vài phút rồi tiếp tục đi. Lần này ông nhanh nhẩu bảo: Chỉ còn tám trăm thước nữa là tới vườn thú Công Viên Trung Ương. Ở đó có một con đười ươi mặt giống như một ca sĩ có giọng cao mà tôi quen. Chúng tôi lại thăm con đười ươi. Cách đó một ngàn hai trăm thước, về đường Broadway, chúng tôi ngừng trước một tiệm tạp hóa. Trước cửa tiệm có bày một thùng dưa leo, Chaliapine trố mắt ngó dưa leo một lúc: bác sĩ cấm ông ăn dưa leo. - Chà, coi ngon quá. Trông thấy mà nhớ tuổi trẻ của tôi. Còn tôi, tôi tự hỏi vì sao ông chưa ngất ngư chứ, mà lại thấy khỏe mạnh hơn bao giờ. Chúng tôi ngừng một lần cuối cùng nữa ở đường 90 để ngắm những hàng trái cây tại ngôi chợ trước trạm xe điện mới sơn lại, góc đường 96 và sau cùng là tới khách sạn. Chaliapine cười bảo tôi: - Đường đâu có xa, phải không? Bây giờ tụi mình đi ăn. Sau bữa ăn thịnh soạn, ông mới cho tôi hiểu tại sao ông bắt tôi đi bộ sáu cây số đó. Giọng ông nghiêm trang: Anh sẽ không bao giờ quên lần đi bộ ngày hôm nay đâu. Tôi đã cho anh một bài học nhỏ đó. Đừng bao giờ lo lắng, buồn rầu vì đích còn xa. Chỉ nghĩ tới cái gì ở cách ta một trăm thước thôi. Đừng lo ngại về một tương lai bấp bênh. Chỉ nghĩ tới những cái vui ngày hôm sau thôi, dù nó tầm thường tới mức nào đi nữa. o O o Nhiều năm đã trôi qua. Ông Chaliapine đã quy tiên nhưng hầu hết những chỗ làm mục tiêu để đi trong lần đi bộ không sao quên được đó nay đã không còn, cảnh vật đã biến thiên. Nhưng trong bao nhiêu năm đó, triết lý thực tế của ông đã giúp tôi rất nhiều. Nó đã giúp tôi khi tôi quyết định học tiếng Anh. Không khi nào tôi tự hỏi: "Phải học bao năm nữa mới viết được thứ tiếng đó?". Trái lại tôi tự nhủ: "Hôm nay trên tờ báo Times có hai mươi tám tiếng mình chưa biết. Ngày mai sẽ còn không tới hai mươi tiếng." Triết lý đó cũng giúp tôi giữ vững được tinh thần khi vì lầm lỡ của các người hùn vốn, tôi buộc phải trả cho chủ nợ nửa số tiền mà tôi hy vọng kiếm được trong bốn năm sau. Nếu trong hai trăm lẻ tám tuần lễ đó, tôi cứ nghĩ bụng rằng phải sống cực khổ thì chắc chắn tôi đã nản chí mà không kiếm được một đồng nào cả. Nhưng tôi chỉ tự nhủ: "Thứ hai, thứ tư và thứ sáu, mình sẽ làm cho mình." Nghĩ vậy thì mọi sự sẽ thay đổi hết. Tôi trả được hết nợ và kiếm được đủ sống, không đến nỗi thiếu thốn. Qui tắc trăm bước của Chaliapine là quy tắc vàng. Ai cũng thấy được điều hữu ích mà đi theo. Có thể rằng cái đích ta nhắm còn xa thăm thẳm, nhưng không đầy trăm bước là "tới đại lộ 6". Như vậy cứ từng chặng từng chặng một, chúng ta chẳng những sẽ tới đích, mà trên đường đi còn được hưởng nhiều cái vui nữa. |
||
mk
|
||
IP Logged | ||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 16/Dec/2013 lúc 5:21pm | |
Cảnh giới từ bên kia cửa tử. Life after life *** LTS : Hiện
nay, luân hồi tái sinh là một đề tài nóng bỏng ở xã hội phương Tây nói
chung và Mỹ nói riêng. Chương trình "60 minutes" ngày 30.10 cách đây vài
năm có đề cập đến vấn đề luân hồi tái sinh và báo cáo hiện có đến 78%
người
Mỹ (vào khoảng 195.000.000) tin có kiếp trước kiếp sau. Raymond Moody,
giáo sư triết học, bác sĩ y khoa, là một nhà nghiên cứu người Mỹ tiền
phong về vấn đề luân hồi tái sinh, nói rằng, sự hiểu biết về hiện tượng
có đời sống khác sau đời sống này (life after life) đã được giấu nhẹm
rất kỹ cho đến bây giờ. Nếu ai muốn tìm hiểu xem người Mỹ nghĩ thế nào
về luân hồi chỉ việc vào thăm Google, gõ chữ "book on reincarnation" thì
sẽ thấy một con số khổng lồ, hơn 2.000.000 tài liệu gồm sách và các bài
luận giải về nhân quả và luân hồi... * Cách
đây 31 năm, khi cho in cuốn sách đầu tiên "Life After Life" sau nhiều
năm tiếp xúc với những bệnh nhân chết đi sống lại, bác sĩ Moody nói, ông
chỉ ghi lại trung thực những câu chuyện này mà không cố ý chứng minh là
có một đời sống khác sau khi chết. Ông cũng nói thêm rằng, hiện nay
chưa có ai có
thể đưa ra một bằng chứng cụ thể để chứng minh có 1 cảnh giới bên kia
cửa tử, nhưng người ta cũng không thể phủ nhận kinh nghiệm của hơn 8
triệu người lớn ở Mỹ và mấy triệu trẻ con nữa, những người sống lại sau
cái chết lâm sàng đã kể những gì họ thấy được sau khi rời khỏi xác thân
vật lý. Bác
sĩ Moody kể, lần đầu tiên ông được nghe tả về cảnh giới bên kia cửa tử
do người chết hồi dương kể lại (kinh nghiệm cận tử) là khi ông còn là
một sinh viên y khoa triết học ở đại học Virginia. Một giáo sư dạy môn
tâm thần học kể lại cho sinh viên nghe chính ông đã "chết" đi rồi sống
lại 2 lần, cách nhau 10 phút. Ông kể lại những chuyện ly kỳ ông được
chứng kiến trong thời gian ông "chết". Thoạt nghe thì anh sinh viên
Moody cũng lấy làm lạ nhưng không có ý kiến gì. Anh chỉ giữ cái băng thu
âm câu chuyện này để làm tài liệu thôi. Mấy năm sau, ông Moody bây giờ
là giáo sư triết ở 1 trường đại học ở Bắc Carolina. Trong 1 buổi giảng
dạy về thuyết bất tử (Phaedo) của Plato, nhà hiền triết nổi tiếng của Hy
Lạp thời cổ đại, một sinh viên xin gặp riêng để hỏi thêm về vấn đề sống
chết, vì bà của chàng ta đã "chết" trên bàn mổ, sau đó hồi sinh và kể
những câu chuyện bà đã chứng kiến rất hấp dẫn. Giáo sư Moody yêu cầu anh
sinh viên này kể lại từng chi tiết và ông rất đỗi ngạc nhiên khi thấy
những chuyện xảy ra cho bà già này gần giống với những mẩu chuyện ông
được nghe từ thầy của ông mấy năm về trước. Từ đó, ông cố ý thu thập tài
liệu về hiện tượng chết đi sống lại. Ông cũng đưa vấn đề này vào trong
các bài giảng của ông, nhưng không đề cập gì đến 2 trường hợp ông được
nghe. Ông nghĩ rằng, nếu có nhiều người chết đi sống lại thì thế nào
sinh viên cũng sẽ nói ra trong các giờ triết. Quả vậy, trong mỗi một lớp
học
chừng 30 sinh viên, khi nào cũng có một anh xin gặp riêng sau giờ học
để kể cho ông nghe một câu chuyện chết đi sống lại. Có điều lạ là, những
mẩu chuyện này có nhiều tình tiết giống nhau, tuy người có kinh nghiệm
chết đi sống lại gồm nhiều thành phần khác nhau, khác về tôn giáo, về
học vấn, và địa vị xã hội. Khi
Moody theo học y khoa năm 1972 thì ông đã có một hồ sơ dày cộm về những
trường hợp chết đi sống lại. Ông bắt đầu nói đến công cuộc nghiên cứu
của ông với những người ông gặp ở trường y. Sau đó, theo lời yêu cầu của
một người bạn, ông nhận lời thuyết trình về hiện tượng chết đi sống lại
tại 1 Hiệp hội Y sĩ và nhiều hội đoàn khác. Và sau mỗi buổi thuyết
trình, thế nào cũng có người đứng lên kể lại kinh nghiệm chết đi sống
lại của chính mình. Dần dà ai cũng biết tiếng ông, nên nhiều bác sĩ đã
giới thiệu những bệnh nhân họ cứu sống được mà có những kinh nghiệm lạ
lùng trong thời gian họ "chết". Sau khi vài tờ báo đăng tải tin tức về
công cuộc nghiên cứu của ông thì nhiều
người tự động gửi những mẩu chuyện tương tự xảy ra với họ. Ông quyết
định chỉ chú ý đến trường hợp những người do bác sĩ chứng thực là đã
chết lâm sàng (tim ngừng đập, thần kinh não ngưng hoạt động) rồi được
cứu sống lại, và trường hợp những người bị tai nạn, hồn lìa khỏi xác
ngay nhưng sau đó lại hoàn hồn, đã kể những sự việc họ chứng kiến. Trong
mấy trăm câu chuyện chết đi sống lại mà tác giả trực
tiếp được nghe, Moody nhận thấy, tuy kinh nghiệm của mỗi người có điểm
khác nhau nhưng tựu trung thì có thể nói có chừng 15 điểm mà ông thấy
người ta hay nhắc nhở : 1. Ngôn ngữ bất đồng. Người
nào cũng tỏ vẻ bực bội rằng, ngôn ngữ ở cõi trần không thể diễn tả đúng
những sự việc xảy ra ở cõi giới bên kia. Một người trong số đó nói :
"Tôi biết, thế giới mà tôi được thấy là một thế giới có hơn 3 chiều, nên
không thể nào diễn tả được hết những điều tôi muốn nói với thứ ngôn ngữ
3 chiều của chúng ta". 2. Nghe tin mình đã chết. Nhiều
người kể rằng, họ được nghe chính bác sĩ hay những người ở bên cạnh nói
rằng họ đã chết. Bà Martin kể : "Tôi vào bệnh viện nhưng họ không tìm
ra bệnh. Bác sĩ James đưa tôi sang phòng X quang để chụp ảnh gan tìm
bệnh. Vì tôi bị dị ứng với nhiều thứ thuốc nên họ thử trên cánh tay tôi
trước. Thấy tôi không có phản ứng gì, họ liền tiêm cho tôi thứ thuốc ấy.
Nhưng lần này tôi bị phát
dị ứng liền và chết ngay sau đó. Tôi thấy bác sĩ ở phòng X quang vừa
chích thuốc cho tôi, bước đến nhấc máy điện thoại. Tôi nghe rõ ông quay
từng con số và giọng nói của ông : "Thưa bác sĩ James, tôi đã giết bệnh
nhân của ông. Bà Martin chết rồi". Nhưng tôi biết tôi không chết. Tôi cố
cử động, cố tìm cách nói cho họ biết là tôi chưa chết nhưng tôi không
thể làm gì được. Rồi thấy họ làm thủ tục cấp cứu. Tôi nghe họ nói cần
bao nhiêu "cc" thuốc chích cho tôi, nhưng tôi không có cảm giác gì khi
mũi kim chích vào da. Tôi cũng không có cảm giác gì khi họ chạm vào
người". 3. Tâm an bình và tịch tịnh. Số
đông kể rằng, họ tận hưởng được một cảm giác rất an lạc, thật khoan
khoái khi mới thoát ra khỏi cái xác của mình. Một người bị bất tỉnh ngay
sau khi bị thương nặng ở đầu kể rằng, khi mới bị chấn thương thì anh
cảm thấy đau
nhói, nhưng chỉ một thoáng thôi, rồi sau đó anh có cảm tưởng như mình
đang bềnh bồng trôi trong 1 phòng tối. Mặc dù hôm ấy trời lạnh lắm mà
anh cảm thấy rất ấm áp trong khoảng không gian âm u này. Anh thấy tâm
thần mình bình an thoải mái lạ lùng và anh chợt nghĩ "chắc là mình đã
chết rồi". Một
bà vật vã, đau đớn và ngất đi sau một cơn đau tim. Khi được cứu tỉnh bà
kể : "Tôi bắt đầu thấy sung sướng lạ, mọi lo âu buồn phiền biến mất,
chỉ còn lại một cảm giác bình an, thoải mái, thanh tịnh. Tôi không còn
cảm thấy đau đớn nữa". 4. Âm
thanh. Nhiều
âm thanh lạ được tả lại, hoặc khi sắp chết hoặc khi vừa tắt thở. Một
người đàn ông "chết" trong vòng 20 phút trên bàn mổ kể lại, rằng ông đã
nghe một tiếng kêu ù ù rất khó chịu. Tiếng kêu như phát ra từ trong đầu
mình chứ không phải từ bên ngoài. Một người đàn bà kể, khi vừa ngất đi
thì bà nghe một tiếng rì rì lớn và bà cảm thấy đang chơi vơi bay lộn
lòng vòng trong không gian. Bà còn nghe một thứ tiếng khác cũng khó chịu
lắm, như tiếng động lạch cạch, tiếng va chạm hay tiếng rống mà cũng như
tiếng gió hú. Những người khác thì nghe một âm thanh dễ chịu như âm
nhạc, như trường hợp một bệnh nhân "chết" trên đường đi đến bệnh viện,
khi được cứu tỉnh lại ông kể : Ông đã nghe 1 âm thanh như âm ba của
nhiều cái chuông nhỏ từ đằng xa theo gió vọng lại, làm ông nghĩ đến mấy
cái chuông gió của Nhật, và ông chỉ nghe 1 âm thanh này thôi. 5. Đường hầm tối. Ngay
vừa khi nghe tiếng động thì người ta cảm thấy như bị hút mạnh vào một
khoảng không gian tối. Người thì nói giống như một hang động; người thì
bảo sâu hút như một cái giếng; người khác thì mô tả như một khoảng
không, một đường hầm, một ống xoắn, một cái chuồng, thung lũng, ống
cống, hoặc khoảng không của một hình vật thể hình trụ. Tuy được diễn tả
khác nhau nhưng điều này cho thấy, người nào cũng trải qua kinh nghiệm
này. Một bệnh nhân kể : Khi tim anh ngừng đập vì bị dị ứng với thuốc mê
thì anh thấy mình như bay qua một khoảng không tối tăm
như một đường hầm, với tốc độ cực nhanh như một con tàu đang lao đầu
bay xuống ở 1 công trường giải trí. 6. Giây
phút bước ra khỏi xác. Tuy
ai cũng biết rằng, cái "Ta" gồm 2 phần : thân và thức, nhưng ít ai hiểu
biết được phần Thức vì cho rằng, có thân xác vật lý thì trí óc mới hoạt
động được, không thể nào có 1 đời sống nào khác ngoài đời sống với tấm
thân vật lý này. Cho nên, trong quá trình chết đi sống lại, ai cũng bị
ngạc nhiên quá mức khi họ được ngắm nghía thân xác bất động của họ. Thực
khó tưởng tượng được tâm trạng của những người này, khi họ thấy mình
đứng đây mà sao lại còn có thân hình mình nằm bất động ở đằng kia ! Khi
hồn vừa lìa khỏi xác, họ chưa ý thức được mình đã chết nên ngẩn ngơ
không hiểu được hiện tượng này. Nhiều người muốn nhập vào xác mình lại
nhưng không biết làm sao. Có người rất hoảng sợ nhưng cũng có người
không sợ hãi. Một bệnh nhân nói : "Bệnh tôi trở nặng, bác sĩ buộc phải
vào nhà
thương. Sáng hôm ấy tôi thấy một lớp như sương mù bao phủ quanh tôi và
cùng lúc ấy tôi thấy mình bước ra khỏi xác. Tôi thấy mình bềnh bồng bay
lên phía trên và nhìn xuống cái xác mình nằm ở giường. Tôi không thấy sợ
hãi chút nào, chỉ thấy một cảm giác bình yên trong một khung cảnh êm ả
thanh bình. Và tôi nghĩ, có lẽ tôi đang đi về cõi chết. Tôi tự nhủ, rằng
nếu tôi không nhập trở lại được vào cái xác kia thì tôi chết thật rồi,
và như vậy cũng không sao". Nhiều
người nói rằng sau giây phút hoang mang lúc đầu, dần dà họ thấy giác
quan mới của thể hồn bén nhạy hơn. Họ có thể nhìn thật xa, nghe thật rõ,
đọc được ý nghĩ của người khác, và chỉ cần nghĩ đến chỗ nào họ muốn đi
thì đã thấy mình ở đó rồi. Nhưng vì họ không trao đổi gì được với những
người xung quanh nên họ thấy cô đơn buồn tủi. 7. Gặp những thể hồn khác. Nhiều
người kể lại, họ chỉ cảm thấy cô đơn trong chốc lát thôi, sau đó họ
được gặp gỡ và chuyện trò với những người thân, bạn bè quá cố. Một người
phụ nữ kể lại cuộc vượt cạn khó khăn, bà bị mất máu rất nhiều trong khi
sinh. Lúc đó bà nghe bác sĩ nói là bà không sống được
nhưng bà thấy mình vẫn tỉnh táo và ngay khi ấy bà thấy nhiều người vây
quanh bà nhưng chỉ thấy mặt thôi. Họ đông người lắm, lơ lửng ở trên trần
nhà. Bà nhận ra đó là những người thân và quen đã qua đời, bà thấy bà
ngoại của mình và một cô bé bạn học hồi nhỏ cùng nhiều người bà con quen
biết khác. Ai cũng có vẻ tươi cười như chào đón bà ở xa về. Một
người khác kể rằng sau khi người bạn thân tên Bob chết vài tuần thì ông
cũng suýt chết. Ông thấy mình bước ra khỏi thể xác vật chất và có cảm
tưởng như Bob đang đứng cạnh mình. Ông biết đó là Bob nhưng lại trông
không giống như hồi còn sống. Tuy nhìn thấy Bob, nhưng không phải nhìn
bằng mắt vì chính ông cũng không có mắt ! Nhưng lúc ấy ông không nghĩ
đến điều này là lạ vì ông không cần có mắt mà vẫn thấy. Ông hỏi Bob :
"Bây giờ tôi phải đi đâu, chuyện gì đang xảy ra ? Có phải tôi chết rồi
không ? Nhưng Bob không nói gì cả. Suốt mấy ngày tôi ở bệnh viện, Bob
luôn ở bên cạnh tôi nhưng vẫn không trả lời những câu hỏi của tôi cho
đến ngày bác sĩ
tuyên bố là tôi đã thoát chết thì Bob bỏ đi". 8. Đối diện với người ánh sáng. Tuy
tình tiết về kinh nghiệm "chết" của mọi người khác nhau nhưng ai cũng
nói đến cuộc gặp gỡ một vị thân toàn ánh sáng. Đây có lẽ một chi tiết lạ
lùng nhất đã làm thay đổi cuộc đời của những người chết đi sống lại.
Lúc đầu, vị này hiện ra trong thứ ánh sáng lờ mờ, rồi ánh sáng trở nên
rõ dần và sau cùng thì hiện toàn thân trong một thứ ánh sáng rực rỡ. Có
điều lạ là, tuy rực rỡ nhưng không làm chói mắt. Tuy vị này hiện ra như
một tòa ánh sáng mà ai cũng hiểu đây là một người với đầy đủ cá tính
nhân phẩm của một cá nhân. Vị này đã ban phát cho họ một tình thương yêu
không thể dùng
lời nói mà diễn tả được và ai cũng quyến luyến muốn kề cận vị này. Có
một điều lý thú là hầu hết mọi người đều tả dung mạo, phong cách của
người ánh sáng này giống nhau nhưng khi được hỏi người ấy là ai thì mỗi
người nói một cách khác, tùy theo niềm tin tôn giáo của họ. 9. Nhìn lui quãng đời mình. "Người
ánh sáng" nhắc nhở người chết tự kiểm thảo đời mình, và cho người chết
xem lại quãng đời của mình rõ ràng như được chiếu trên màn ảnh lớn, từ
lúc còn nhỏ ở với cha mẹ, lớn lên đi học, đỗ đạt, công danh sự nghiệp
...đều hiện lên rất rõ. "Người ánh sáng" nhắc nhở rằng, ở trên đời không
có gì quan trọng ngoài tình thương. Một người kể rằng, khi ông được xem
quãng đời niên thiếu của ông với cô em gái, người mà ông rất thương
yêu; "người ánh sáng" cho ông xem những lúc ông hành động một cách ích
kỷ hay tỏ lòng trìu
mến săn sóc em mình. "Người ánh sáng" nhấn mạnh đến việc nên giúp đỡ
người khác. Dường như vị này rất chú tâm đến sự học hỏi, cứ nhắc nhở ông
phải lo trau dồi sự hiểu biết của mình và nói rằng, sau khi thật sự giả
từ thế gian để sang cõi này ông cũng vẫn phải tiếp tục học hỏi, vì đó
là một qui trình không gián đoạn. 10. Ranh giới giữa hai cõi. Nhiều
người nhớ rằng, họ đi dần đến một chỗ giống như một bờ ranh, một bờ
sông, một cánh cửa, một vùng sương mù màu xám, một hàng rào, hay chỉ như
một đường vẽ dưới đất. Một người bệnh tim kể : "Sau khi lìa khỏi xác,
tôi thấy mình đang đi trên một cánh đồng thật đẹp, toàn một màu lục,
nhưng khác hẳn màu lục của thế gian và chung quanh tôi tràn ngập một thứ
ánh sáng kỳ diệu. Xa xa đằng trước là một cái hàng rào, tôi vội rảo
bước sang về phía đó thì thấy một người phía bên
kia đang tiến về hàng rào như để gặp tôi, nhưng bỗng nhiên tôi có cảm
tưởng bị kéo thụt lùi, và người phía bên kia thì ngoảnh lưng lại đi về
hướng xa hàng rào". 11. Trở lại cõi trần. Dĩ
nhiên, tất cả những người có kinh nghiệm chết này đều sống lại. Và điều
đáng nói là tất cả đều đổi khác sau khi nhìn thấy thế giới bên kia.
Phần đông nói rằng, khi vừa tắt thở, họ tiếc nuối thân vật lý lắm, và cố
tìm cách trở lại. Nhưng dần dà khi thấy nhiều điều mới lạ ở cảnh giới
bên kia thì họ không muốn trở về nữa, nhất là những người đã được gặp gỡ
"người ánh sáng" và được vị này ban cho một thứ tình thương bao la vô
điều kiện. Nhưng có người thì muốn trở về để tiếp nối một công việc đang
dở dang, hay vì các con đang còn nhỏ. Có người
nghĩ rằng vì người thân của họ níu kéo, cầu nguyện nên họ không "đi"
được như câu chuyện sau đây : "Tôi săn sóc một người cô già. Cô bệnh lần
này khá lâu. Đã mấy lần cô tắt thở, nhưng lại được cứu sống, có lẽ vì
mọi người trong gia đình ai cũng thương cô và cầu nguyện cho cô bình an.
Một hôm cô nhìn tôi và bảo : "Joan, cô đã thấy cõi giới bên kia đẹp
lắm. Cô muốn ở lại bên đó nhưng con và mọi người cứ cầu nguyện cố giữ cô
lại bên này nên cô không đi được. Thôi, con nói mọi người đừng cầu
nguyện cho cô nữa". Và chúng tôi ngưng cầu nguyện thì cô mất một cách
bình yên sau đó". Phần
đông nói rằng, họ không nhớ đã "trở về" như thế nào. Họ nói, họ chỉ
thấy buồn ngủ, rồi mê đi và khi tỉnh dậy thì thấy mình nằm trên giường
bệnh như trước khi được sang thế giới bên kia. Nhưng cũng có người nhớ
rõ chi tiết khi được trở về. Một người kể, khi hồn vừa lìa khỏi xác, ông
thấy mình bị cuốn đi nhanh qua con đường hầm tối. Khi sắp sửa ra khỏi
đường hầm thì ông nghe ai gọi giật tên mình ở
phía sau, và bất thần ông bị lôi tuột trở lại. Một ông khác kể là, hồn
ông bay lên trần nhà nhìn xuống thấy bác sĩ, y tá đang cuống quýt cứu
chữa. Khi bàn sốc đặt vào ngực, toàn thân ông giật nẩy lên và đúng lúc
đó ông bị rớt xuống thẳng đứng như một tảng đá và chui tuột vào thân thể
trên giường. Một người khác thì thấy hồn thoát ra từ đỉnh đầu, như được
tả trong cuốn "Tử Thư Tây Tạng". 12. Kể lại kinh nghiệm "chết". Những
người đã trải qua kinh nghiệm này nhớ rất rõ là, họ đã ngạc nhiên sửng
sốt khi chứng kiến những sự việc đang xảy ra cho họ. Họ bảo chúng đã
thật sự xảy ra chứ không phải do trí tưởng tượng hay ảo giác. Tuy thế,
nhiều người không dám kể hoặc chỉ kể cho một vài người thân mà thôi, vì
họ biết ở xã hội này không ai tin những chuyện như thế, và còn cho là họ
bị bệnh tâm thần. Một cậu bé kể cho
mẹ nghe, nhưng vì em còn nhỏ nên bà mẹ không để ý đến những lời em kể,
từ đó em không kể cho ai nghe nữa. Người thì cố kể cho mục sư của mình
nghe nhưng bị vị này phê bình là mình bị ảo giác. Một cô học trò trung
học muốn kể cho bạn nghe kinh nghiệm lạ lùng của mình nhưng bị cho là
tâm thần nên đành nín lặng. Vì vậy, ai cũng cứ tưởng chuyện này chỉ xảy
ra cho một mình mình thôi. Khi bác sĩ Moody nói với họ rằng, có nhiều
người đã có kinh nghiệm tương tự thì họ có vẻ mừng, vì thấy không phải
mình "điên", không phải chỉ một mình mình thấy những chuyện lạ lùng của
cõi giới bên kia. 13. Thay đổi tâm tư. Như
đã trình bày trên, những người trải qua kinh nghiệm này thường thường
không muốn kể với ai, nhưng họ cảm thấy những gì họ kinh nghiệm đã để
lại một dấu ấn sâu xa trong đời họ, đã mở rộng tầm mắt của họ, đã thay
đổi hẳn lối
nhìn của họ về cuộc đời. Một ông tâm sự : "kể từ ngày ấy, tôi thường tự
hỏi, tôi đã làm gì với cuộc đời của tôi, và khoảng đời còn lại này tôi
sẽ phải sống như thế nào. Ngày trước muốn gì là tôi làm liền, không suy
nghĩ đắn đo. Nay thì tôi thận trọng lắm. Trước khi hành động tôi thường
tự hỏi lòng mình xem việc này có đáng làm hay không hay chỉ có lợi cho
bản thân thôi ? Nó có ý nghĩa gì, có ích lợi gì cho đời sống tâm linh
không ? Tôi không phê phán người khác, không thành kiến, không tranh
cãi. Và tôi thấy hình như mình hiểu rõ mọi sự việc chung quanh một cách
đúng đắn hơn, dễ dàng hơn". Nói
chung, những người chết hồi sinh đều thấy đời mình có một mục đích rõ
ràng hơn, tâm tư thoải mái hơn, đầu óc rộng rãi cởi mở hơn, tình thương
yêu nhiều hơn, và nhấn mạnh đến đời sống tâm linh, cũng như một đời sống
khác sau khi chết. Họ như sực tỉnh khi thấy xưa nay mình chỉ "mãi
sống", và lúc nào tâm tư cũng lo lắng, mưu cầu, sắp đặt cho ngày mai,
hay luyến tiếc quá khứ mà quên sống với giây phút hiện
tại. Họ khám phá rằng, đời sống tinh thần thật sự quí báu hơn đời sống
vật chất nhiều; rằng thân xác vật lý chỉ là nơi tạm trú cho phần tâm
linh. Và họ đều nói đến bài học từ "người ánh sáng" : Ở trên đời, tiền
tài, danh vọng hay bằng cấp cao cũng không đáng gì, chỉ có tình thương, ý
tưởng phụng sự người khác mới đáng kể. Thông điệp thứ hai từ "người ánh
sáng" là : Mọi người nên trau dồi trí tuệ và tình thương, vì sống và
chết là một quá trình được tiếp nối không ngừng. Một
anh chàng trẻ tuổi đang học làm tu sĩ Tin Lành kể, trước kia anh nghĩ
chỉ có những người theo giáo phái của anh mới được cứu rỗi, còn ngoài ra
tất cả đều là tà đạo và sẽ phải xuống hỏa ngục hết. Sau khi gặp "người
ánh sáng" thì anh thay đổi hoàn toàn. Anh thấy vị này hiền hòa, nhân từ
chứ không như niềm tin về sự trừng phạt những người không tin mình như
Thánh Kinh miêu tả. Vị này không hề hỏi han gì về giáo phái của anh đang
theo mà chỉ hỏi anh có biết yêu thương người khác không. 14. Quan niệm mới về cái chết. Sau
khi được thấy cảnh giới đẹp đẽ bên kia, không còn ai sợ chết nữa. Nói
như thế không phải là họ chán sống và muốn đi tìm cái chết. Trái lại, họ
thấy quý đời
sống hơn và hiểu rằng đời sống này là một môi trường tốt cho họ học
hỏi. Họ cho rằng, vì còn nhiều việc cần phải làm nên họ mới "bị" trả về
và làm cho xong, để sau này được ra đi 1 cách nhẹ nhàng. Một
người kể : "Kinh nghiệm này đã thay đổi hẳn cả cuộc đời của tôi mặc dù
chuyện này đã xảy ra lúc tôi mới 10 tuổi. Từ đấy tôi tin tưởng hoàn toàn
rằng, có một đời khác sau đời sống này và tôi không hề sợ chết.
Tôi thường tự cười thầm mỗi khi nghe có người cho rằng chết là hết". Có
người thì ví cái chết như là một sự di chuyển từ một nơi này sang một
nơi khác, hay từ một con người vật chất sang một thể tâm linh cao hơn.
Có một bà, sau khi thấy có nhiều người thân đến chào, có cảm tưởng như
mình được đón tiếp về nhà sau một thời
gian đi chơi xa. Người khác thì nói rằng, dùng từ "chết" để tả lại cảnh
tượng này là không đúng, vì đây giống như một sự thay đổi chỗ ở. Một
người khác nữa thì ví thân thể mình như là nhà tù, và khi chết thì được
thoát ra khỏi cái ngục tù đó ! 15. Chứng cớ cụ thể. Dĩ
nhiên, có nhiều người đặt câu hỏi, những chuyện do người chết hồi sinh
kể lại có thể tin được không, có chứng cớ gì không ? Câu trả lời là có.
Thứ nhất, các bác sĩ thấy các bệnh nhân đã tắt thở, tim đã ngừng đập,
nên họ mới dùng phương pháp cấp cứu, vậy mà sau khi hồi sinh, bệnh nhân
đã dùng danh từ y khoa kể lại đầy đủ chi tiết những gì xảy ra trong khi
họ nằm bất động trên giường ! Một
cô gái sau khi lìa khỏi xác đã đi qua phòng bên cạnh và thấy chị mình
đang ngồi khóc và kêu thầm "Kathy, đừng chết, em ơi đừng chết". Sau khi
hồi tỉnh, cô kể lại chi tiết này và chị cô không hiểu sao cô lại biết rõ
như vậy. Một nạn nhân kể lại đầy đủ tình tiết về những người chung
quanh, họ đã nói những gì, ăn mặc ra sao..v..v... Một bà kể, khi hồn lơ
lửng trên trần nhà, bà thấy một chùm chìa khóa trên một nóc
tủ. Chùm chìa khóa này của một bác sĩ, trong lúc vội vàng đã vứt lên đó
đã mấy ngày trước và quên bẵng đi... Đó
là toàn bộ những câu chuyện được bác sĩ Raymond Moody viết lại. Những
ai muốn tìm hiểu chi tiết về cảnh giới bên kia cửa tử có thể tìm đọc tài
liệu nghiên cứu của nhiều tác giả người Mỹ. Chỉ cần vào Google và ghi
"the life beyond" thì sẽ thấy vô số tài liệu. Khi đọc cuốn "Tử Thư Tây
Tạng" (Tibetan Book of The
Death), tôi thấy có nhiều điểm tương đồng với cảnh giới được diễn tả
trong cuốn "Life After Life" của bác sĩ Raymond Moody. Có một điều lạ
là, những người chết đi sống lại đều nói đến một luồng ánh sáng, hay 1
người sáng, mà họ cho là thiên thần, tùy vào lòng tin tôn giáo. Người
ánh sáng được diễn tả trong cuốn sách của bác sĩ Moody không nói mình
là ai. Vị này dường như thương mến tất cả mọi người và dạy mọi người
rằng làm người phải biết thương thân mình và thương người khác; rằng
hành trang mà người chết có thể mang theo chỉ là tình thương thôi, một
thứ tình thương vô vị kỷ. Nguyên Ngọc biên soạn |
||
mk
|
||
IP Logged | ||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 25/Dec/2013 lúc 9:17pm | |
Chúa Giê Su từng đến Ấn Độ để học Phật pháp?
(PGVN)
Giê-Su đã viếng thăm A Phú Hản, “Nơi ngài đã gặp những người Do Thái” những người đã trú ngụ ở đấy để trốn tránh sự bạo ngược của hoàng đế Do Thái Nebuchadnezzar và rồi thì đến Thung Lũng Kashmir, nơi ngài đã sống nhiều năm.
Có những sự nhắc đến rằng gia đình
Giê-Su (cha mẹ) cư ngụ tại Nazareth, nhưng ngài xuất hiện lần kế ở
Nazareth, khi Giê-Su 30 tuổi. Ngài được nói đã từng lớn lên trong tuệ
giác và phát triển trong những năm vắng bóng, “nhà sản xuất phim Anh
quốc Kent Walwin nói với IANS(1).
Ở đây để nhận phần thưởng Dayawati
Modi vì nghệ thuật, văn hóa , và giáo dục năm 2009, dự án mới nhất của
Walwin, “Tuổi trẻ của Giê-Su: Những Năm Vắng Bóng”, sẽ khám phá những
năm đầu của chúa cứu thế, những điều không được diễn tả trong Thánh
Kinh.
Theo Walwin, bộ phim của ông là “trên
Phúc Âm Tông Đồ, nói rằng Giê-Su được thấy lần cuối cùng ở Tây Á khi
ngài khoảng 13 – 14 tuổi”.
Phần thứ nhất của bộ phim sẽ căn cứ
trên Phúc Âm và phần thứ hai của phim sẽ là “thuần phỏng đoán căn cứ
trên dữ liệu lưu trử”, nhà làm phim nói thế.
Có một vài sự nhắc đến sự liên kết ở
Ấn Độ. Vào năm 1894, một bác sĩ Nga, Nicolas Notovitch, xuất bản một
quyển sách tựa để là “Cuộc đời không được biết của Giê-Su” căn cứ trên
hành trình bao quát của ngài ở A Phú Hản, Ấn Độ, và Tây Tạng.
Trong một trong những chuyến du hành
của mình, ông đã viếng Leh, thủ phủ của Ladakh và ở trong tu viện Phật
Giáo, Hemis, một thời gian khi ngài bị gảy chân.
Tại tu viện, ngài được thấy hai tập
tài liệu lớn màu vàng bằng Tạng ngữ, “Cuộc đời của Thánh Issa”. Giê-Su
được liên hệ như Issa – hay con trai của thượng đế - bởi một nhà học giả
Vệ Đà, người dạy kèm ngài trong thánh kinh Vệ Đà.
Notovitch ghi xuống 200 đoạn kệ từ
văn kiện ở phía sau nhật ký của ông mà ông giữ trong suốt chuyến du
hành. Tài liệu sau này tạo thành một cơn giông bảo ở phương Tây.
Tu sĩ ở tu viện Hemis, tọa lạc khoảng
40 cây số bên ngoài Leh trên đỉnh một ngọn đồi, làm vững thêm huyền
thoại của Giê-Su ở Ấn Độ.
Giê-Su được nói đã từng thăm viếng đất
nước chúng ta và Kashmir để học hỏi Phật Pháp. Ngài được truyền cảm
hứng bởi giới luật và tuệ giác của Đức Phật,” một lạt ma lão thành của
tu viện Hemis đã nói với IANS. Thượng thủ của trường phái Phật Giáo
Drukpa, Gwalyang Drukpa, tu viện trưởng tu viện Hemis, cũng tin tưởng
vào huyền thoại.
Swami Abhedananda, một học giả tâm
linh và nhà tiên tri của Bengal, đã từng du hành đến Hy Mã Lạp Sơn để
khảo sát huyền thoại Giê-Su thăm viếng Ân Độ”. Buổi nói chuyện của ông
về một quyển sách mang tựa đề “Kashmir O Tibetti”, nói về một cuộc viếng
thăm tu viện Hemis ở Ladakh. Nó bao gồm một bản dịch bằng tiếng Bengal
hai trăm đoạn kệ về “Huyền thoại Issa” mà Notovitch đã sao chép lại.
“Mọi người yêu mến ông bởi vì Issa
sống trong hòa bình với những người Vaishyas và Shudras, là những người
ông đã chỉ dẫn và giúp đở,” Roerich nói trong sự trường thuật của ông.
Sự giảng dạy của Giê-Su ở những thành
phố thiêng liêng cổ truyền của Jagannath (Puri), Banares (ở Uttar
Pradesh), và Rajagriha (Bihar) và làm những người Bà La Môn phẩn nộ, họ
làm áp lực ngài phải lẫn tránh khỏi Hy Mã Lạp Sơn sau sáu năm, những nhà
sử học và tác giả nói thế. Giê-Su, nói trong những tài liệu lưu trử, đã
dành sáu năm khác nữa để học hỏi Phật Pháp ở Hy Mã Lạp Sơn.
Quyển sách của học giả Đức, Holger
Kersten, “Giê-Su Đã Sống ở Ấn Độ”, cũng đã kể về câu chuyện những năm
đầu của Giê-Su ở Ấn Độ.
“Người trai trẻ đến vùng Sindh (dọc
theo sông Ấn Hà) cùng với những người buôn bán. Cư ngụ trong những
người Arya với mục tiêu hoàn thiện chính mình và học hỏi những giới luật
của Đức Phật vĩ đại. Người trai trẻ du hành rộng rãi qua những vùng
đất của năm con sông (Punjab), ở lại một thời gian ngắn ngủi với những
người Kỳ Na Giáo (2) trước khi tiến tới Jagannath,” Kersten nói trong
quyển sách của ông.
Trong phiên bản tiếng Anh của Luận
thuyết bằng tiếng Urdu được viêt bởi nhà sáng lập phong trào Hồi Giáo
Ahmaddiya, Hazrat Mirza Ghulam Ahmad (1835-1908), cũng kể về một “chuyến
viếng thăm lần thứ hai của Giê-Su đến tiểu lục địa” (3) sau khi ngài
“được báo cáo thoát khỏi Thánh Giá”.
Giê-Su đã viếng thăm A Phú Hản, “Nơi
ngài đã gặp những người Do Thái” những người đã trú ngụ ở đấy để trốn
tránh sự bạo ngược của hoàng đế Do Thái Nebuchadnezzar và rồi thì đến
Thung Lũng Kashmir, nơi ngài đã sống nhiều năm.
Phụ giải: (1) · Indo-Asian News Servicehttp://www.ians.inhttp: (2) Jain (3) Ấn Độ Did Christ come to India to study Buddhism, Vedas? http://www.buddhistchannel.tv/ TuệUyểnchuyển ngữ/www.daophatngaynay.com
Link gốc: http://www.daophatngaynay.com/ |
||
mk
|
||
IP Logged | ||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 16/Jan/2014 lúc 4:20am | |
Đền tháp Borobudur Borobudur Temple *** Borobudur, a UNESCO World Heritage Site, view from the northwest Borobudur – Wikipedia tiếng ViệtBorobudur - Wikipedia, the free encyclopediaBình đồ toàn thể đền Borobudur, biểu hiện Tam giới: Dục giới kāmadhātu, Sắc giớirūpadhātu, và Vô sắc giới arūpadhātu VIDEO Nằm ở miền Trung đảo
Java của Indonesia, Borobudur là một ngôi đền tháp Phật giáo khổng lồ nổi lên đột
ngột giữa vùng lòng chảo, xung quanh là rừng rậm. Vào năm 2012, Tổ chức Kỷ lục
thế Giới Guinness đã công nhận đây là công trình đền tháp Phật giáo lớn nhất thế
giới. Tên gọi Borobudur có gốc
từ Vihara Buddha Ur trong tiếng Phạn, có nghĩa là "ngôi Phật tự trên ngọn
đồi". Từ chân đồi khách phải leo hơn 15m mới lên tới nền đền tháp. |
||
mk
|
||
IP Logged | ||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 19/Jan/2014 lúc 10:22pm | |
Hành Trình Về Phương Đông (Life and Teaching of the Masters of the Far East) Tac giả: Baird T.Spalding Dịch giả: Nguyen Phong http://www.youtube.com/watch?v=cH4yFPTggtI Jan2014 Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 19/Jan/2014 lúc 10:24pm |
||
mk
|
||
IP Logged | ||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 10/Feb/2014 lúc 9:40pm | |
THIỀN VÀ BỆNH VIỆN
(Meditation & Hospital) Hồng Quang Thế giới đang sử dụng Thiền như thức ăn như nguồn sống, mà con người không thể thiếu trong cuộc đời thường. Bài liên hệ phần lớn đến nước Mỹ, nhưng đây là một quốc gia, được xem như, tân tiến bậc nhất về khoa học kỷ thuật và ngay cả kinh tế nữa. Bài cung cấp thêm thông tin, vì lợi ích của con người, của bệnh nhân nên lằn ranh tôn giáo được giảm thiểu. Một số bệnh viện của Cơ đốc giáo và Do thái giáo cũng áp dụng Thiền hoặc một số phương thức tương tự. Theo đài TV ABC7, mục Tin Thế giới tối ngày 10.5.2011, ông Dan Harris trình bày lợi ích của Thiền dưới dạng như một “talk show”. Bà Diane Sawyer dẫn chương trình cho biết, nhiều bệnh viện và trung tâm y tế sử dụng Thiền để bổ sung cho thuốc (Hospitals, Medical Centers Offering Meditation, Integrative Medicine). Changing Your Life Through Meditation Theo ông Harris, thiền làm giảm căng thẳng, gia tăng hệ miễn nhiểm và người đẹp hơn. Có nhiều loại, nhưng y giới khuyên sử dụng loại thiền không cần phải thay áo, không thắp nhang hoặc theo nhóm tôn giáo. Trái lại chỉ cần ba động tác đơn giản:
“Talk show” cho biết, thiền 30 phút mỗi ngày, sẽ làm thay đổi não bộ, hai vùng chứa sự tĩnh thức, từ bi và an lạc được gia tăng. Vùng chứa căng thẳng bị giảm. Nhờ vậy mà bệnh tật có thể được chữa trị, nhất là bệnh liên hệ đến tim mạch, bao tử, gan… Bà Diane Sawyer cho biết, tại Mỹ, 1 trong 3 người lớn tuổi, thường bị bệnh tim mà nguyên nhân chính là do áp huyết cao (high blood pressure). Thiền thở (breathing meditation) là một trong những phương pháp làm giảm huyết áp công hiệu nhất. Phí tổn việc chữa trị bệnh tim mạch toàn nước Mỹ là 76 tỉ MK mỗi năm. Quân nhân, Giám đốc Điều hành Xí nghiệp, movie stars, học sinh…hành thiền khắp cả nước (all over America), ông Harris nói như thế. (Nguồn: Google) Có đến ba triệu bệnh nhân được bác sĩ khuyên nên hành thiền. Bà Diane Sawyer dẫn thông tin của Đại học Harvard Medical School và cho biết, có 40 % dân Mỹ tìm phương pháp thay đổi và bổ sung cách chữa trị (40% of Americans use alternative and complementary treatment). Nếu tính đến ngày hôm nay (2014), sau gần 3 năm, con số có thể là 150 triệu người tìm một phương pháp chữa trị khác như Thiền hoặc các môn như yoga, tai chi…** Buổi “talk show” tuy ngắn, chỉ hơn 5 phút, nhưng ảnh hưởng rất sâu rộng đến các trung tâm y tế và bệnh viện khắp nước Mỹ. Bản tin của Đại học Harvard có đăng mẫu tin quan trọng nầy, được gởi đến nhiều cơ quan y tế, với hàm ý, đề nghị các nơi nầy sử dụng Thiền vì lợi ích của bệnh nhân. Nhưng thực tế, theo tin trên mạng, nhân viên các nơi nầy có theo dỏi tin của đài ABC. Họ đã và đang dùng thiền song hành với thuốc để điều trị. Danh sách dưới đây cho thấy, sau khi đài TVABC7 trình bày về lợi ích của thiền, có thêm rất nhiều trung tâm y tế đã sử dụng Thiền hoặc các môn tương tự. Trong đó có một số bệnh viện thuộc các tín ngưỡng khác nhau. 1. Trung tâm ung thư bang Arizona thiết lập chương trình 12 tuần lễ “Mind-Body Medicine Skills Group program” (Đây cũng là một loại thiền với tên gọi khác). 2. Cơ sở ung thư Roy and Patricia Disney thuộc Trung tâm y tế Cơ đốc, TP. Burbank, California áp dụng Thiền, Yoga và các cách chữa trị khác cho bệnh nhân. 3. Trung tâm California Pacific Medical Center hướng dẫn bệnh nhân về tiến trình của việc giải phẫu, đồng thời hướng dẫn Yoga, Thiền, tai chi (Thái cực quyền) để bệnh nhân hồi phục sức khỏe mau chóng sau khi mổ. 4. Tại Los Angeles, Trung tâm the Mindful Awareness Research Center (MARC) hướng dẫn thiền qua mạng (guided meditations on its website). 5. Đại học California Sciences, San Diego, cung cấp Thiền chánh niệm giảm căng thẳng cho các bệnh nhân ung thư (provides mindfulness-based stress relief for cancer patients). 6. Trung tâm ung thư “The Dorcy Cancer Center” tại St. Mary-Corwin Medical Center, Pueblo, bang Colorado, mở lớp dạy cho bệnh nhân Thiền, Yoga và Tai chi. 7. Trung tâm Cơ đốc Christiana Care Health System, New Castle, Del., Cũng có lớp Yoga (Thiền yoga) cho người sắp sinh. 8. Bệnh viện Northwestern Memorial Hospital, Chicago, Ill. Chuyên bệnh Parkinson cũng hướng dẫn thiền cho những bệnh nhân mất ngủ (provides meditation services for those with insomnia). 9. Trung tâm bệnh viện Do thái (The Jewish Hospital Medical Center) cung cấp chương trình “Tâm / Thể” và bổ sung những phương thức chữa trị thành một thể thống nhất (offers a variety of mind / body and integrative treatment modalities). 10. Trung tâm y tế Do Thái Beth Israel Deaconess Medical Center, Boston, M***achusettes, cũng có những lớp Thiền cho bệnh nhân. 11. Trung tâm ung thư trẻ em tại Đại học H***enfeld Children's Cancer Center, NY. 12. Trung tâm tạo sinh Đại học NY. 13. Trung tâm Tin lành Wake Forest Baptist Medical Center, Winston-Salem, N. C. 14. Bệnh viện Giê-su (Christ Hospital), bang Ohio. 15. Trung tâm ung thư Đại học Texas MD, TP. Houston (danh sách còn dài). Qua đó, chúng ta thấy, thiền sức khỏe đã tràn ngập vào, không những chỉ có các cơ sở y tế mà khắp mọi nơi vì lợi ích của thiền đối với cuộc sống. Con người càng văn minh, khoa học càng tiến bộ thì thiền càng được sử dụng như một dược liệu bổ ích cho tất cả mọi người, mọi tầng lớp và không thể thiếu cho kiếp nhân sinh. Các bài viết trước tôi đã đề cập trên 10 thứ bệnh quan trọng có thể chữa bằng thiền như tim, gan, tì, phế, thận, ung thư, tiểu đường, sida, nhức mỏi, cao huyết áp…Bài nầy, sẽ trình bày thêm hai chứng bệnh khác được chữa bằng thiền. a. Thiền đi (Walking Meditation). Thiền đi (thiền hành) được chia làm hai loại: Đi bộ theo lối thông thường (traditional walking exercise (TWE), và thiền đi trong tĩnh thức theo cách Phật Giáo (Buddhism Walking Meditation). Đối tượng của cuộc nghiên cứu là tìm xem ảnh hưởng của thiền hành chánh niệm theo Phật Giáo và lối đi bộ thông thường, trên các chứng bệnh trầm cảm, sức khỏe và mạch máu bị co lại. Ban thí nghiệm, chọn 45 người cao niên, tuổi từ 60-90 có bệnh trầm cảm nhẹ hoặc trung bình. Số người được chia thành hai nhóm. Một nhóm đi bộ theo lối truyền thống. Nhóm kia đi bộ theo phương pháp chánh niệm thiền Phật giáo (Buddhism-based walking meditation, viết tắt BWM). Thời gian thí nghiệm là 3 lần một tuần và liên tục 12 tuần. Kết quả, bắp thịt mạnh khỏe, linh hoạt đàn hồi uyển chuyể hơn, tim phổi điều hòa (cardiorespiratory) được gia tăng trong cả hai nhóm (chỉ số y khoa, p>0.05). Cả hai cách đi bộ đều cho thấy sự giảm thiểu đáng kể những loại hóa chất acid đặc ở trong máu (triglyceride). Nhưng chứng trầm cảm, các chất hóa học trong cơ thể như cholesterol (mỡ trong máu), cortisol và interleukin chỉ giảm trong nhóm thực hành thiền chánh niệm mà thôi (decreased only in the BWM group). Nhóm nghiên cứu kết luận: Thiền đi bộ trong tĩnh thức của Phật giáo có khả năng làm giảm trầm cảm, gia tăng những hoạt chất cho sức khỏe, tiểu mạch (vascular) tái hoạt động, và cho thấy, những tiến triển tổng quát về mọi mặt được cải thiện hơn là lối đi bộ thông thường (and appears to confer greater overall improvements than the traditional walking program). (Nguồn: 24372522. PubMed - as supplied by publisher). b. Một thế kỷ mới cho những cuộc nghiên cứu tâm (A new era for mind studies) (Nguồn: Google) Trước lúc bàn đến cuộc thí nghiệm, chúng ta nên biết qua bệnh Parkinson là gì? (What Is Parkinson's Disease?)Đó là một thứ bệnh liên hệ đến tế bào não bị rối loạn, ảnh hưởng đến việc di chuyển, không kiểm soát được các cơ bắp, và mất thăng bằng. Triệu chứng thường thấy là tay chân bị run, khó cầm giữ bất cứ một vật gì nếu bệnh nặng. (Parkinson's disease is a fairly common age-related and progressive disease of brain cells (brain disorder) that affect movement, loss of muscle control, and balance. Usually, the first symptoms include a tremor (hand, foot, or leg), also termed a "shaking palsy". Phương pháp chữa trị là nên theo các chỉ dẫn của Bác sĩ chuyên khoa, thiền tập mỗi ngày 20 phút / hai lần, và thiền hành như thí nghiệm dưới đây cho thấy. Đối tượng cuộc nghiên cứu là tìm hiểu sự thay đổi cấu trúc của não qua việc sử dụng thiền trên người có bệnh run tay (Parkinson's Disease (PD). 27 bệnh nhân trong tổng số 30 người được chọn, và chia làm 2 nhóm. Nhóm 14 người tham gia 8 tuần lễ chương trình thiền Chánh niệm (Mindfulness based intervention, viết tắt MBI). Nhóm 13 người chỉ được chữa trị theo thuốc men (usual care). Kết quả cho thấy vùng chất xám bên phải của hạch hạnh nhân trong não bộ của nhóm thực hành Thiền chánh niệm, trở nên dày hơn so với nhóm kia. (Nguồn: Google) HÌNH NÃO BỘ: Bình thường Bị bệnh Parkinson Kết luận của nhóm nghiên cứu (CONCLUSIONS): - Đây là một số phân tích bước đầu trên khoa niệu học cho thấy Thiền MBI có ảnh hưởng đến bệnh PD. - Vùng chất xám GMD (gray matter density) trong bộ não của nhóm MBI được gia tăng. Đây là điểm then chốt đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm phương pháp chữa trị bệnh run tay PD. - Những vùng (biến đổi) nầy nói lên sự chuyển biến gián tiếp do ảnh hưởng của thiền MBI. Nguồn: (2013 Dec;115(12):2419-25. doi: 10.1016/j.clineuro.2013.10.002) TÓM LƯỢC Thiền không còn bị đóng khung trong các tu viện, mà Thiền đã tung cánh bay vào hang cùng ngõ hẻm toàn khắp thế giới. Chỗ nào có con người, những ai có bệnh tật hay muốn đẹp hơn, thông minh hơn, sống thọ hơn và sống có hạnh phúc hơn thì Thiền là người bạn đời tốt và trung thành nhất. Phật Thích Ca thường dạy, ta ra đời vì lợi ích của chúng sanh, chứ không phải riêng cho một ai. Do đó việc hành thiền không nên có màu sắc tôn giáo, để con người từ tất cả các tín ngưỡng khác có thể gần, thân thiện và yêu thương nhau hơn. Mỹ, một trong những nước văn minh nhất thế giới, ước lượng có khoảng 150 triệu người hành thiền vì sức khỏe. Nhiều cơ sở y tế đã sử dụng thiền song hành với thuốc để trị liệu như đã trình bày ở trên. Phải chăng đó là một bài học mà Việt Nam chúng ta nên tìm hiểu. Đất nước, sau những năm dài chinh chiến, đang trên đà từng bước khắc phục để
dân giàu nước mạnh xã hội văn minh phú cường, thì Thiền có lẽ không nên thiếu
trong tất cả các bộ các ngành, các cơ sở, nhất là nhiều bệnh viện đang bị quá tải, bệnh nhân
không đủ tiền chữa trị. Tình trạng quá tải ở một bệnh viện ở TP. HCM
Thiền có thể góp phần giải quyết những vấn nạn nầy một cách có hiệu quả mà không tốn tiền.. Mỗi ngày chỉ tốn vài chục phút ngồi thiền là sẽ thấy hiệu nghiệm ngay. Chư Tăng Ni Giáo hội Phật Giáo và những người am tường Thiền cũng sẽ sẵn sàng tiếp tay với các cơ quan y tế để giảm bớt vấn nạn bệnh viện quá tải và, giúp bệnh nhân chóng lành bằng phương thức Thiền Thuốc song hành. Phải chăng nên như thế? Vâng. Đó là giải pháp mà nhiều quốc gia tân tiến đã và đang áp dụng. () (Nguồn: Google) Chấp tay nguyện cầu cho dân tộc và nhân loại xem thiền như một lương thực không thể thiếu trong cuộc đời nầy. Hồng Quang 25.1.2014 GHI CHÚ *ABCNEWS.COM, Health, ngày 10.5.2011. ABC World News: Hospitals, Medical Centers Offering Meditation, Integrative Medicine. http://www.balancedlivingnews.com/articles/share/4255/. ** Con số 40% của thời điểm tháng 5.2011. Hôm nay là tháng 2. 20014 (gần 3 năm). Ta có thể ước lượng khoảng 150 triệu người, tức là 1/2 dân số toàn nước Mỹ (316 triệu người, năm 2013). http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-98_4-19844/thien-va-benh-vien.html |
||
mk
|
||
IP Logged | ||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 12/Feb/2014 lúc 9:14pm | |
Ngôi Chùa SHWEDAGON :
Một kiệt tác nghệ thuật của nhân loại
Bọc 60 tấn vàng và trang trí bằng
hàng nghìn viên kim cương, hồng ngọc, chùa Shwedagon được đánh giá là
một kiệt tác nghệ thuật khổng lồ của nhân
loại.
Nằm trên đồi Singuttara, chùa
Shwedagon hay Chùa Vàng ở Yangoon được coi là ngôi chùa linh thiêng nhất
của đất nước Myanmar.
Từ chân đồi có 4 lối leo lên chùa. Mỗi lối
lên có một cặp chinthe (sư tử thần) hết sức bề thế canh
gác.
Chùa Shwedagon bao gồm 1.000 đơn thể chùa
bao quanh tòa tháp trung tâm. Tòa tháp vàng khổng lồ này cao tới 99m
chính là tâm điểm của ngôi chùa, gồm 3 phần chính: đáy tháp, thân tháp
và đỉnh tháp. Quanh bảo tháp còn có 64 ngôi tháp nhỏ.
Tòa bảo tháp này được bao bọc bằng 60 tấn
vàng lá. Đó là những tấm vàng cực mỏng được các thợ thủ công chế tác
bằng kỹ thuật truyền thống. Các tín đồ mua các tấm vàng dâng nhà chùa để
dát vào tháp. Việc dát này bắt đầu có từ thời Hoàng hậu Shin
Sawbu.
Phần đỉnh tháp được nạm 5.448 viên kim
cương và 2.317 viên hồng ngọc. Trên cùng là cánh hình cờ và ở vị trí
cao nhất là búp kim cương gắn một viên kim cương 76 carat (15g
g).
Bên trong và các bức tượng bên trong
chùa cũng được dát vàng lộng
lẫy.
Các chi tiết kiến trúc của chùa được
chế tác rất tinh xảo.
Theo truyền thuyết và theo ghi chép
của các nhà sư, ngôi chùa có từ trước khi Phật qua đời, nghĩa là có cách
đây 2.500 năm. Tuy nhiên các nhà khảo cổ học cho rằng công trình được
xây lần đầu vào khoảng thời gian từ thế kỷ 6 đến thế kỷ
10.
Ban đầu, tòa tháp chính của chùa chỉ cao
khoảng hơn 20m nhưng sau đó liên tục được xây bổ sung và đến thế kỷ 18
đã đạt chiều cao 99m như hiện tại.
Trong quá trình tồn tại, chùa
Shwedagon đã phải trải qua nhiều thời khắc lịch sử đen tối. Năm 1608,
một toán quân Bồ Đào Nha đã cướp phá chùa. Tháng 5/1824, quân Anh xâm
lược Myanmar đã chiếm đóng và biến ngôi chùa thành một pháo đài, tới hai
năm sau mới rút đi.
Trong chiến tranh Anh-Miến thứ hai, quân
Anh lại chiếm đóng chùa và lần chiếm đóng này kéo dài tới 77 năm, đến
tận năm 1929. Trong khoảng thời gian này, người dân vẫn được vào lễ
chùa.
Những trận động đất cũng nhiều lần gây
thiệt hại lớn cho chùa. Hai trận động đất vào năm 1768 và 1970 đã khiến
đỉnh tháp bị rơi, khiến chính quyền phải tiến hành sửa
chữa.
Từ lâu chùa Shwedagon trở thành nơi hành
hương của các tín đồ Phật giáo Myanmar. Theo quy định, khi vào chùa phải
cởi giày dép. Người Myanmar thường đi vòng quanh tháp theo chiều quay
của kim đồng hồ.
Trong chùa có 7 bồn nước tương ứng với 7
hành tinh và với 7 ngày trong tuần. Đó là nơi những người có sinh nhật
trùng vào ngày đó tới tưới nước tắm cho tượng
Phật.
Ngày nay, chùa Shwedagon đã trở thành địa điểm du khách quốc tế không thể bỏ qua mỗi khi đến thành phố Yangoon của Myanmar. Ngôi chùa bọc 60 tấn vàng kiệt tác nghệ thuật của nhân loại ...https://www.facebook.com/media/set/?set=a.438604286266455...3Ngôi chùa bọc 60 tấn vàng kiệt tác nghệ thuật của nhân loại.ptdvo.blogspot.com/2014/.../ngoi-chua-boc-60-tan-vang-kiet-tac-nghe.h... |
||
mk
|
||
IP Logged | ||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 04/Mar/2014 lúc 7:33pm | |
5 điều tu học căn bản
Trong
sự tu tập, ta hãy thực tập với những gì đang xảy ra với chính ta ngay
trong giây phút này, với tư tưởng, cảm xúc của mình, với ngay cả những
bất an của mình. Nó có nghĩa là ta hãy thực
tập bằng con người thật của chính mình, ngay nơi đây, trong giây phút
này. Và đó mới thật sự là một công phu chân thật.
Và năm điều sau đây có thể giúp chúng ta thực hiện được việc ấy:
1. Thời gian hoàn hảo nhất để thực tập là ngay bây giờ –
chứ không phải là ngày mai hay tuần tới, cũng không phải là khi nào ta
ít bận rộn hơn, nhưng phải là ngay lúc này. Trong giây phút này ta đâu
có thiếu thốn điều kiện nào đâu? Phương pháp thực tập lúc nào cũng có
mặt. Tất cả những “nhưng mà”, “tại vì” trên cuộc đời này chỉ là những
sự bào chữa, ngăn cản không cho ta gặp gỡ và tiếp xúc được với giờ phút
hiện tại.
2. Nơi chốn hoàn hảo nhất để thực tập là chính ngay nơi ta đang có mặt –
chứ không phải là trong một thiền viện nào ở Miến điện, Thái Lan hay
Nhật Bản, cũng không phải ở một trung tâm tu học, hay khi ngồi xuống
trên tọa cụ của mình. Lúc nào ta cũng muốn so sánh nơi này với lại điều
kiện ở nơi khác. Nhưng thay vì đòi hỏi hay tìm kiếm, ta hãy thực tập
ngay ở đây, nơi ta đang đứng, đang đi, hay đang ngồi. Hãy bắt đầu thực
tập.
3. Lời dạy hoàn hảo nhất là những gì đang có mặt ngay trước ta.
Thiền sư Richard Baker Roshi có lần kể lại một giấc mơ. Trong mơ ông
thấy mình đang suy nghĩ cố tìm kiếm câu trả lời cho một vấn đề nào đó,
và ngay lúc ấy điện thoại reo vang. Ông làm ngơ đi, không trả lời, và
tiếp tục cố gắng tập trung tìm cho ra câu trả lời. Đến khi tiếng chuông
reo thứ ba mươi thì ông nhấc điện thoại lên, bên kia đầu
dây có người nói cho ông biết câu trả lời mà ông đang bận rộn, mê mải
tìm kiếm. Rất nhiều khi cái có mặt ngay trước mắt, mà ta cho rằng không
cần thiết, lại chính là điều mà mình đang tìm kiếm.
4. Vị thầy hoàn hảo nhất là người đang có mặt với ta. Vì
đó là một mối tương quan có thật, chứ không phải một sự so sánh, hơn
thua. Chúng ta vẫn có thể học được rất nhiều từ những vị thầy, hay
những người bạn vẫn còn có những lầm lỗi.
5. Người học trò hoàn hảo nhất chính là ta. Trong
ta có đủ tất cả những điều kiện và yếu tố cần thiết cho sự thực
tập. Bạn là một người hoàn toàn có đầy đủ khả năng, và khi bạn ý thức
được điều này, bạn sẽ tìm thấy được những hỗ trợ cần thiết cho sự thực
tập của mình. Và đây là điều quan trọng nhất trong năm điều.
Sự
sống của chúng ta bao giờ cũng có những liên hệ rất mật thiết với tất
cả, và những gì cần thiết cho sự thực tập của mình bao giờ cũng đang
hiện hữu ngay trước mắt trong giờ phút này. Ta bao giờ cũng rộng lớn hơn
mình vẫn nghĩ.
Giác ngộ là một sự cố gắng
nhưng không hề có chút gì tham ái
Mặt nước trong xanh đến tận đáy hồ
một con cá bơi lội thong dong như cá
Bầu trời trong xanh mênh mông vô cùng tận
một con chim bay ngang tự tại như chim
− Đạo Nguyên
Trích từ “Đức Phật bên trong” – nguyễn duy nhiên Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 04/Mar/2014 lúc 7:35pm |
||
mk
|
||
IP Logged | ||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 04/Mar/2014 lúc 7:41pm | |
|
||
mk
|
||
IP Logged | ||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 06/Mar/2014 lúc 7:14pm | |
Ý Nghĩa về Trực Quán, Kiến Thức và Trí Tuệ trong Đạo Phật
Lama Anagarika Govinda
Tổ dịch thuật Trúc Lâm chuyển ngữ
Bài này là chương II "The Meaning of Insight, Khowledge, and Wisdom in
Buddhism" trích từ quyển Living Buddhism for the West do Maurice Walshe
dịch từ tiếng Đức (Buddhismus fur das Abendland), NXB Shambala, Mỹ,
1991, trang 30-53.
Lời giới thiệu: Tác giả Lama Anagarika Govinda
Lama
Anagarika Govinda là tu sĩ Phật giáo, học giả, giáo sư Phật học, và họa
sĩ người Đức. Thế danh của ông là Ernst Hoffmann. Ông sinh năm 1898 ở
Waldheim (Đức) và mất 1985 ở California (Mỹ). Ông tu theo đạo Phật lúc
18 tuổi. Năm 30 tuổi ông sang Tích Lan và Miến Điện học đạo rồi sau đó
thực hành Mật giáo Tây tạng. Ông sống ở Darjeeling, dưới chân dãy núi Hy
Mã Lạp Sơn trong nhiều năm, dạy ở Đại học Patna và Shantiniketan, vùng
Tây Bengal, Ấn Độ (Đại học do văn hào Ấn Độ Rabindranath Tagore thành
lập), dạy Phật học tại nhiều đại học ở châu Âu, Á, Phi, và Mỷ, và thành
lập đạo tràng Arya Maitreya Mandala tại Ấn Độ, Đức và Mỹ. Ông sang Mỹ
hành đạo từ năm 1967. Ông được xem như một trong những người có công lớn
đưa Phật giáo vào phương Tây và là nhịp cầu hiện đại nối liền văn hóa
Đông Tây.
Ông để lại nhiều tác phẩm Phật học có giá trị và đựơc dịch ra nhiều thứ
tiếng. Tác phẩm chính của ông là Nền tảng Mật giáo Tây Tạng (Foundations
of Tibetan Mysticism, NXB Samuel Weiser, Mỹ, 1969), Thái độ tâm lý
trong triêt học Phật giáo nguyên thuỷ (The Psychological Attitude of
Early Buddhist Pholosophy, NXB Rider,Anh, 1969), Con đường mây trắng
(The Way of the White Clouds, NXB Shambala, Mỹ, 1988, được Tiến sĩ
Nguyễn Tường Bách dịch từ tiếng Đức sang tiếng Việt, NXB Trẻ, TP Hồ Chí
Minh, 1999), Cấu trúc nội tại của Kinh Dịch (The Inner Structure of The I
Ching, NXB Weatherhill, Mỹ, 1981), Biểu tượng tâm lý và vũ trụ của các
bảo tháp Phật giáo (Psycho-cosmic Symbolism of the Buddhist Stupa, NXB
Dharma, Mỹ, 1976), Thiền định sáng tạo và tâm thức đa diện (Creative
Meditation and Multi-Dimensional Consciousness, NXB Quest, Mỹ, 1979),
Suy tưởng Phật giáo (Buddhist Reflections, NXB Samuel Weiser, Mỹ, 1991),
Đạo Phật đi vào cuộc sống phương Tây (Living Buddhism for the West, NXB
Shambala, Mỹ, 1990).
Khác với những tôn giáo mà cơ sở niềm tin không thể minh xác được, niềm
tin trong đạo Phật dựa trên sự hiểu biết. Điều này làm một số nhà quan
sát phương Tây hiểu lầm rằng đạo Phật là một giáo thuyết thuần túy dựa
trên lý trí và người ta có thể dùng những nguyên lý thuần trí thức để
hiểu được hoàn toàn giáo thuyết nầy. Tuy nhiên, trong đạo Phật, từ hiểu
biết khác với nghĩa thông thường được hiểu. Nó có nghĩa là cái nhìn trực
tiếp và xuyên suốt vào bản chất của thực tại và luôn là kết quả của
kinh nghiệm thể nhập thực tại, tại đây và ngay bây giờ.
Bắt đầu với kinh nghiệm khổ đau như tiền đề căn bản và phổ biến, Đạo
Phật quan niệm là chỉ có những gì được chứng ngộ bằng kinh nghiệm, chứ
không phải những gì được lý luận bằng tư duy trừu tượng, mới có giá trị
thực tế. Với quan niệm nầy, Phật Pháp tự nó là một tôn giáo thật sự mặc
dù đạo Phật không hề kêu gọi người ta tin vào những điều không có cơ sở
xuất phát từ một cảnh giới siêu nhiên nào đó mà tín đồ của một tôn giáo
dựa chỉ trên niềm tin thường phải chấp nhận.
Vào đầu thế kỷ này, các nhà Ấn độ học đã cố gắng trình bày đạo Phật như
một hệ thống triết học và đạo đức thuần túy, dựa chủ yếu trên cơ sở tâm
lý học. Nhưng tầm vóc của đạo Phật cao hơn triết học vì Đạo Phật không
hề xem thường tư duy trừu tượng hoặc lô gích. Trái lại, Đạo Phật chủ
trương sử dụng tư duy trừu tượng và lô gích theo đúng chức năng và lãnh
vực của nó. Đạo Phật cũng vượt xa ranh giới của bất cứ khoa tâm lý học
nào vì đạo Phật không tự giới hạn ở việc phân tích và xếp loại những
năng lực và hiện tượng tâm lý mà con người có thể nhận biết được. Đạo
Phật còn dạy con người biết cách sử dụng, chuyển hóa, và vượt lên trên
những năng lực và hiện tượng tâm lý nầy. Chúng ta cũng không thể xem đạo
Phật như một hệ thống giá trị đạo đức mà thời nào cũng có thể áp dụng
được hay như một "loại sách học làm người", vì đạo Phật vượt qua lãnh
vực thiện và ác, đi xa hơn thế giới nhị nguyên và đặt nền tảng đạo lý
trên sự hiểu biết và cái nhìn sâu sắc nhất từ trong nội tâm của con
người.
Như vậy có thể nói rằng, nếu chúng ta nhìn Phật Pháp như một kinh nghiệm
tự chứng và một cách thức hành trì trong cuộc sống thì đạo Phật là một
tôn giáo; nếu chúng ta nhìn Phật Pháp như một hệ thống tư duy lý luận
đúc kết từ kinh nghiệm tự chứng nầy thì Đạo Phật là một triết học; và
nếu chúng ta nhìn Phật Pháp như là một quá trình tự quán sát và phân
tích nội tâm con người một cách hệ thống, thì đạo Phật là một khoa tâm
lý học. Bất cứ ai đi trên con đường hành trì Phật pháp sẽ có một phong
thái đặc thù--một phong thái không bị chỉ định và ép buộc từ bên ngoài
mà là kết quả của một quá trình trưởng thành và thuần thục nội tâm. Nhìn
từ bên ngoài, chúng ta gọi phong thái này là đạo đức. Nhưng trong đạo
Phật, khác với những tôn giáo khác, cái mà chúng ta gọi là đạo đức này
không phải là điểm bắt đầu mà lại là kết quả của một kinh nghiệm tôn
giáo tạo nên những thay đổi có tính quyết định đến nhân sinh quan của
chúng ta. Đó là khi chúng ta nhìn đời bằng đôi mắt khác hẳn.
Vì lý do này mà trong Bát Thánh Đạo, Đức Phật đã không nêu việc thay đổi
nếp sống và phong cách của người Phật tử thành vấn đề hàng đầu. Trái
lại, vấn đề đầu tiên trong Bát Thánh Đaọ là làm sao có được cái nhìn như
thật --cái nhìn không bị sự đam mê chấp thủ chi phối-- về thế giới nội
tâm và thế giới chung quanh chúng ta; vì chỉ bằng cách này, chúng ta mới
có được cái nhìn như thật và không bị ràng buộc bởi thành kiến về bản
chất của cuộc sống và vạn thể. Và từ đó, qua sự thay đổi trong cách nhìn
nầy, chúng ta định hướng lại toàn bộ sinh lực của mình. Trong kinh tạng
Pali, cách nhìn và quán sát về vạn hữu này có tên là samma ditthi (Phạn
ngữ là samyak drsti) mà các nhà Ấn độ học dịch là "cái nhìn đúng" hay
"quan điểm đúng". Và trong ngôn ngữ đạo Phật Việt Nam, chúng ta gọi là
"chánh kiến."
Nhưng chánh kiến (samma ditthi) không chỉ có nghĩa là sự đồng ý với một
số tư tưởng đạo đức hay giáo lý đã được chế đặt sẳn. Chánh kiến là cái
nhìn vượt lên trên những cặp đối lập thành hình từ cái nhìn nhị nguyên
và quan điểm một chiều của tư duy hữu ngã. Chánh hay Samma (Phạn ngữ là
Samyak) có nghĩa là toàn thiện, hoàn chĩnh, hay viên mãn, nghĩa là không
bị chia cắt cũng không nghiêng về một bên; nói đúng hơn, chánh kiến là
cái nhìn thấu đáo và đầy đủ ở bất cứ trình độ nhận thức nào.
Do đó, người có chánh kiến (samma ditthi) là người không nhìn sự vật một
chiều mà nhìn sự vật một cách vô tư và không định kiến. Và trong mục
tiêu, hành động và lời nói, vị âý có khả năng nhìn thấy được và trân
trọng quan điểm của người khác cũng như của mình. Vì đức Phật đã ý thức
rất rõ tính duyên sinh hay tính tương đối của tất cả loại hình tư duy
trừu tượng nên Ngài không quan tâm đến việc công bố một chân lý trừu
tượng nào đó; trái lại, Ngài chỉ quan tâm đến việc trình bày một phương
pháp có thể giúp con người tự tìm thấy chân lý, hay nói khác đi, tự mình
thể nghiệm thực tại. Và như thế, Đức Phật không hề tuyên bố một đức tin
mới mẽ nào mà chỉ cố gắng giải phóng tư duy con người ra khỏi những
định kiến của tư tưởng giáo điều, và qua đó, có thể có cái nhìn như thật
về cuộc sống hiện tại.
Rõ ràng Đức Phật là người đầu tiên trong số các nhà lãnh đạo tôn giáo và
tư tưởng vĩ đại nhất của loài người đã khám phá ra rằng những kết quả
được đúc kết từ quá trình tư duy trừu tượng của con người, nói khác đi,
những kiến thức được trình bày dưới dạng những ý kiến, tín điều, những
"chân lý đời đời bất diệt" hay dưới hình thức những "dữ kiện" và những
công thức khoa học không phải là điều quan trọng. Trái lại, điều quan
trọng chính là yếu tố giúp thành hình những loại tri thức nầy--nói khác
đi, điều quan trọng là cái phương pháp suy nghĩ và hành động của con
người. Khi chúng ta mù quáng tiếp thu thành quả tư duy của người khác,
cho dù thành quả nầy chỉ là những ‘dữ kiện đơn thuần’, điều này vẫn là
chướng ngại hơn là thuận lợi vì nó ngăn chặn quá trình thể nghiệm trực
tiếp cuộc sống, và qua đó có ảnh hưởng nguy hại đến sự tìm cầu hiểu biết
của chúng ta. Do đó, một nền giáo dục mà chỉ biết tích lũy những kiến
thức thuần túy dựa trên dữ kiện hay những mô hình tư duy có sẵn sẽ dẫn
đến sự cằn cỗi và khô héo về tâm linh. Khi bị tách rời khỏi cuộc sống
sinh động, kiến thức và niềm tin sẽ trở thành sự ngu muội và mê tín.
Điều quan trọng và cơ bản nhất đối với con người trong sự tìm cầu hiểu
biết là khả năng tập trung và tư duy sáng tạo. Thay vì nhắm đến sự uyên
bác về học thức, chúng ta cần bảo tồn năng lực tìm cầu hiểu biết, nghĩa
là cần giử tâm trí chúng ta luôn cởi mở và tiếp nhận cuộc đời.
Mặt khác, đức Phật không bao giờ phủ nhận tầm quan trọng của tư duy trừu
tượng và lô gích. Nhưng ngài đặt tư duy trừu tượng và lô gích vào đúng
vị trí của nó và chỉ cho các đệ tử của ngài thấy được tính duyên sinh
của chúng: Đó là việc tư duy trừu tượng và lô gích bị trói buộc trong
một hệ thống tương quan và sinh khởi không thể nào tháo gở được.
Có quan niệm thầm kín cho rằng thế giới mà chúng ta xây dựng trong tư
tưởng giống hệt với thế giới mà chúng ta đang thể nghiệm trong cuộc
sống, hay cái thế giới "như nó đang thật sự hiện hữu." Nhưng đây là một
trong những nguyên nhân chính dẩn đến cái nhìn sai lầm về cái mà chúng
ta gọi là "cuộc đời", "cuộc sống" hay "thế giới" nầy. Thật ra cái thế
giới mà chúng ta đang thể nghiệm hay đang "sống" bao gồm cả cái thế giới
trong tư tưởng của chúng ta. Nhưng cái thế giới trong tư tưởng của
chúng ta thì không thể nào và không bao giờ có thể hiểu được trọn vẹn
cái thế giới mà chúng ta đang thể nghiệm vì trong cùng một khoãnh khắc
thời gian, chúng ta thể nghiệm cuộc sống nầy ở nhiều mặt, nhiều chiều,
nhiều tầng lớp, và nhiều mức độ khác nhau mà trong đó, thế giới tư duy
trừu tượng (hay những tư tưởng tạp loạn và vẩn vơ) chỉ là một.
Khi chúng ta dùng tư duy trừu tượng để tái tạo lại những kinh nghiệm mà
về bản chất nằm ở những chiều, mức độ, và tầng lớp khác nhau trong cuộc
sống, chúng ta đang làm một việc giống như một họa sĩ cố gắng đưa không
gian ba chiều của cuộc sống vào không gian hai chiều của bản vẽ. Khi làm
việc nầy, người họa sĩ phải bỏ bớt đi những gì mà ông ta đã thể nghiệm ở
những chiều và tầng lớp cao hơn và khó thể hiện hơn trong cuộc sống và
đưa vào đó một hệ thống trật tự mới với những gam màu, tỷ lệ đối xứng,
và cái nhìn theo quy luật phối cảnh hội họa. Và giá trị của hệ thống
trật tự mới này tùy thuộc vào sự hài hòa và thống nhất về thẩm mỹ của
bức tranh và góc độ nhìn của nhà họa sĩ về cuộc sống. Quy luật phối cảnh
trong hội họa nầy về cơ bản giống như quy luật tư duy trừu tượng: Cả
hai người--nhà họa sĩ và nhà tư duy trừu tượng đều hy sinh những điều
được thể nghiệm ở những chiều và tầng lớp cao hơn của cuộc sống và tự
giới hạn họ vào một cái nhìn nào đó, để rồi từ đó, đối tượng của họ luôn
được xem xét, phối cảnh và đặt trong một tỷ lệ tương xứng sao cho thích
hợp với cái nhìn mà họ đã chọn lựa.
Nhưng khi người họa sĩ cố ý đưa những cảm nhận của mình từ một kích
thước và góc độ nào đó trong kinh nghiệm sống sang một kích thước và góc
độ khác trên bản vẽ, ông ta không có ý định sao chép lại nguyên si cái
thực tế khách quan mà ông đã thể nghiệm mà chỉ muốn diễn tả lại sự hồi
đáp hay phản ứng của mình với thực tế khách quan đó. Nhưng đối với nhà
tư duy trừu tượng thì khác. Ông ta thường bị rơi vào cái bẩy cho là mình
đã nắm bắt được thực tế khách quan bằng tư duy trừu tượng của mình vì
ông đã nhầm lẩn đồng hóa quy luật "phối cảnh thu nhỏ" của tư duy lô gích
một chiều với quy luật phổ biến và phủ trùm vạn pháp.
Vận dụng lô gích trong quá trình tư duy chắc chắn là cần thiết và đúng
đắn, giống như việc sử dụng kỷ thuật phối cảnh trong hội họa vậy. Nhưng
chúng ta chỉ nên xem nó như một phương tiện diễn đạt tư tưởng chứ không
phải như một tiêu chuẩn mẩu mực để thể hiện thực tại. Trong ý nghiã nầy,
Đức Phật đã sử dụng tư duy trừu tượng của mình trong tất cả các bài
giảng pháp nhưng Ngài rất cẩn thận để ý đến những giới hạn của loại tư
duy nầy, và từ đó, Ngài đã dạy các đệ tử của mình về cái nhìn đi vượt
lên trên tư duy trưù tượng: đó là chính kiến (samma ditthi) hay trực
quán--cái nhìn trực tiếp vào cuộc sống thực tại.
Đức Phật không tìm cầu các đệ tử đến với đạo bằng niềm tin mù quáng và
chỉ biết hành trì giáo lý Ngài một cách máy móc mà không hiểu lý do cũng
như sự cần thiết của Phật Pháp. Đối với Ngài, giá trị hành động của con
người không nằm ở tác động bên ngoài của hành động nầy, mà ở cái động
cơ bên trong, ở thái độ xuất phát từ tâm thức của người đó. Ngài mong
muốn các đệ tử chọn đi theo con đường của Ngài vì bản thân họ hiểu được
cái thực tại nằm phía sau những lời dạy của Ngài, chứ không phải chỉ vì
lòng tin vào trí tuệ và nhân cách ưu việt của Ngài. Niềm tin duy nhất mà
Ngài mong mỏi từ các đệ tử là niềm tin vào chính sức mạnh nội tâm của
họ. Do đó, cái mà Ngài kêu gọi và mong đợi ở các đệ tử không phải là
việc đặt nặng tinh thần duy lý khách quan và một chiều, mà là biết kết
hợp hài hòa tất cả năng lực của tâm thức, trong đó lý trí hay tư duy
trừu tượng chỉ là môt nguyên tắc hướng dẩn và giúp con người phát huy
kiến thức sai biệt của mình.
Giáo lý của Đức Phật bắt đầu với bài giảng về Tứ diệu đế. Nhưng do những
giới hạn của nhận thức cá nhân, chúng ta không thể cảm nhận được trọn
vẹn ý nghĩa của lời giảng này khi mới bắt đầu vào đạo. Nếu chúng ta thấu
triệt ngay lời giảng của đức Phật về Tứ diệu đế thì chúng ta đã được
giải thoát rồi và những bước đường tu tập còn lại sẽ không cần thiết
nữa. Nhưng sự thật giản đơn về nỗi đau khổ và những nguyên nhân đưa đến
đau khổ là những gì mà chúng ta ai ai cũng có thể cảm nhận được rất rõ
trong suốt cuộc đời mình. Do đó, chĩ một quá trình quán chiếu giản đơn
về sự khổ đau và phân tích kinh nghiệm khổ đau của chúng ta, dù rất là
giới hạn, cũng đủ để thuyết phục một người có chút ít suy nghĩ rằng
những luận điểm của Đức Phật là hợp lý và có thể chấp nhận được. Do đó,
nếu chúng ta bắt đầu đi vào đạo để tìm cầu "một cái nhìn hoàn thiện",
điều này không có nghĩa là chúng ta đã chấp nhận đạo Phật như một giáo
lý có thể đời đời áp dụng, hay một tín điều tuyệt đối. Trái lại, điều
nầy có nghĩa là chúng ta đang tìm cầu một cái nhìn không định kiến và vô
tư vào bản chất sự vật và tất cả những gì đang xảy ra trong cuộc sống,
như nó thật sự đang là và đang xãy ra.
Do đó, chính kiến không phải chỉ là chấp nhận tin tưởng vào những ý
tưởng đạo đức và tôn giáo đã có sẵn. Chính kiến là một cái nhìn không
thiên lệch và ngày càng hoàn thiện hơn về vạn pháp. Và phải chăng thế
giới này có quá nhiều phiền não chỉ vì mỗi người chỉ biết nhìn cuộc đời
từ góc độ của riêng mình mà thôi? Do đó, thay vì nhắm mắt và quay lưng
lại với tất cả những khó chịu và đau đớn trên cuộc đời nầy, có nên chăng
chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự khổ đau và tìm ra nguyên nhân của
nó--cái nguyên nhân mà thật ra nằm ngay trong chính chúng ta và chỉ có
chúng ta mới có thể khắc phục và vượt qua nó mà thôi?
Nếu tiến hành việc tu tập theo cách này, dần dần trong chúng ta sẽ xuất
hiện nhận thức về một lý tưởng cao đẹp--lý tưởng của sự giác ngộ và giải
thoát-- và nhận thức về con đường thực hiện lý tưởng này. Do đó chính
kiến là sự thể nghiệm, chứ không phải chỉ là sự chấp nhận thuần trí thức
lời giảng của Thế Tôn về Tứ Diệu Đế. Chỉ với thái độ nầy chúng ta mới
có sự quyết tâm đúng đắng hay chính tư duy (samma sankappa). Và khi
chính tư duy đã thấm nhuần toàn bộ nhân cách chúng ta, nó sẽ kêu gọi
chúng ta hiến dâng toàn bộ tư tưởng, lời nói, và hành động của mình cho
đạo Pháp, thúc đẩy chúng ta đi xuyên suốt con đường tu tập và chuyển hóa
nội tâm, và để cuối cùng giúp chúng ta đạt đến quả vị toàn giác.
Như đã đề cập ở trên, khi mới bưóc vào Đạo, chúng ta không thể hiểu ngay
và nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của giáo lý Tứ Diệu Đế. Trong ý nghĩa
nầy và trong chừng mực nào đó, lời giảng của Đức Phật cũng mang tính蠳iêu
hình, và do đó, đòi hỏi người thiết tha đến với đạo phải tin tưởng
(Phạn ngữ la 輩>sraddha, Pali là saddha) đến một mức độ nào đó rằng
lời Phật dạy là đúng đắn mặc dù người nầy còn sơ cơ và chưa có đủ kinh
nghiệm tu tập để hiểu hết được giáo lý Phật. Nói khác đi, Đạo Phật cũng
đòi hỏi trước tiên người Phật tử phải chấp nhận tin tưởng vào một số
giáo lý vượﴠquá kinh nghiệm tu tập ban đầu của họ, giống như mọi khoa
học, và nhiều tôn giáo đã làm.
Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa một bên là những tôn giáo thần bí, các
ngành khoa học và một bên là Đạo Phật. Sự khác biệt nầy bắt nguồn từ
cách vận dụng tâm lý con người. Các tôn giáo thần bí và khoa học nhấn
mạnh vào lãnh vực nằm ngoài kinh nghiệm của cá nhân vì cả hai đều dựa
vào sức mạnh, hoặc của truyền thống tôn giáo, hoặc của những thí nghiệm
khoa học, hay những giả thiết liên quan đến những truyền thống tôn giáo
và thí nghiệm khoa học nầy. Đạo Phật trái lại nhấn mạnh vào thế giới nội
tâm của con người, trong đo,頱ua kinh nghiệm cá nhân của chính họ, con
người phải hiểu rằng những gì mà lúc đầu họ chấp nhận như một niềm tin
nay đã trở thành sự thật. Đây không phải là để biện minh cho một niềm
tin tôn giáo (niềm tin tôn giáo ở đây có nghĩa là chấp nhận tuân theo
một giáo điều chưa được minh xác), mà là một quá trình nhận biết về cái
thực tại mà ngày nào chúng ta vẫn không tự mình chứng nghiệm, sẽ mãi mãi
là một cái gì siêu hình và không thể nào hiểu được.
Do đó, từ bên ngoài nhìn vào, Đạo Phật là một hệ thống tư tưởng siêu
hình (bên cạnh những hệ thống tư tưởng khác), nhưng từ bên trong nhìn
ra, Đạo Phật là sự thể hiện của những gì đã được chứng nghiệm -- Đạo
Phật là duy nghiệm. Đức Phật không hề bát bỏ những gì siêu hình mà con
người có thể khám phá và cảm nhận được trong quá trình chứng nghiệm nội
tại nhưng ngài không bao giờ sử dụng những suy đóan thuần túy triết học
siêu hình. Tuy nhiên, Đức Phật đã vượt lên trên vấn nạn siêu hình cùng
với những vấn đề của nó bằng cách không chỉ dừng lại ở việc phản bác nó
mà còn tích cực mở rộng những gì con người có thể chứng nghiệm được qua
việc rèn luyện, phát huy, và nâng cao nhận thức của mình để những gì
siêu hình đều có thể trở thành thực nghiệm.
Do đó, việc rè讠luyện tâm thức là điều kiện tiên quyết không thể trốn
tránh được trong việc nâng cao sự hiểu biết của con người. Tâm thức là
chiếc xe chuyên chở mà con người phải dựa vào để tiếp thu thực tế và
chính nhờ vào những năng lực nhận thức có sẵn mà con người có thể tiếp
nhận những dữ liệu cần thiết và xác định phương hướng thể nhập thực tại
của mình. Tỉnh thức, chú tâm, và chánh niệm (Phạn ngữ là smrti, Pali là
sati) là tối quan trọng để giúp con người tránh được những cái bẩy vọng
tưởng đến từ bên trong hoặc bên ngoài chúng ta.
Ngoài việc tu tập và rèn luyên tâm ý, sự có mặt của truyền thống tín
ngưỡng với những kinh nghiệm và nhận thức của các thế hệ đi trước là rất
cần thiết, bởi vì nếu không mỗi cá nhân hành trì bắt buộc phải thể
nghiệm và khám phá lại từ đầu tất cả kinh nghiệm tâm linh cần thiết, và
vì thế, chỉ một số ít cá nhân có căn cơ đặc biệt mới có thể thành tựu
quả vị toàn giác. Nhưng sự lĩnh hội kiến thức hay những thành quả trí
thức (thường được thể hiện dưới dạng tư tưởng triết học) của các vị
thánh hiền vẫn không đủ. Ngay cả giáo lý tuyệt hảo của Đức Phật cũng cần
được các đệ tử kế thừà sắp xếp lại. Bởi vì dù rằng Đức Phật thiết lập
giáo lý của ngài một cách hoàn hảo nhưng người tiếp thu giáo lý của ngài
thường lại chưa được toàn thiện. Kết quả là những gì họ hiểu và truyền
đạt cho thế hệ đi sau phải được điều chỉnh lại cho tương xứng với trình
độ phát triển tâm linh của họ.
Chúng ta cũng cần nhớ là để cho quảng đại quần chúng hiểu được lời dạy
của mình, Đức Phật đã phải dùng ngôn ngữ và các khái niệm phổ thông
đương thời. Và ngay cả nếu tất cả các đại đệ tử của Phật đã nghe, ghi
chép lại lời dạy của ngài và thật sự trở thành những bậc toàn giác như
được ghi lại trong các kinh điển Phật giáo Nguyên thủy, điều nầy vẫn
không làm thay đổi một sự kiện: Đó là hình thức ngôn ngữ và tri thức mà
họ dùng để truyền đạt lời dạy của Đức Phật luôn bị điều kiện hóa bởi xã
hội đương thời. Do đó, họ không thể thấy trước được những vấn đề sẽ xảy
ra. Và ngay cả nếu họ thấy trước được những vấn đề sẽ xảy ra, hình thức
ngôn ngữ mà họ phải dùng để diễn tả những vấn đề nầy cùng với các giải
pháp cho nó vẫn chưa được thiết lập. Và ngay trong trường hợp họ tự ý
chế đặt ra ngôn ngữ mới để diễn tả, cũng không ai có thể hiểu được những
vấn đề này.
Nếu Đức Phật sống trong thế kỷ thứ XX nầy, thay vì sống trong thế kỷ thứ
VI trước Công nguyên, chắc chắn Ngài sẽ thuyết giảng giáo pháp của ngài
khác đi. Nhưng điều nầy không có nghĩa là chân lý hay nội dung giáo
Pháp của ngài sẽ thay đổi. Chỉ có khác là đối tượng mà Ngài thuyết giảng
có thêm 25 thế kỷ kinh nghiệm lịch sử, tu tập, và tâm linh trong nhận
thức của họ. Do đó, nhận thức mới nầy (với chiều dày lịch sử hơn 2,500
năm) không những đòi hỏi chúng ta phải sử dụng nhiều phương cách và khái
niệm khác nhau và mới mẻ hơn để diễn tả nó. Nó còn có một thái độ tinh
thần, những cách nhìn và những vấn đề khác hẳn với thời đức Phật, cùng
với những khả năng giải quyết các vần đề sao cho thích hợp với tinh thần
mới này.
Dĩ nhiên, những người tin tưởng mù quáng vào ngôn từ của kinh điển cũng
như những người xem các giá trị được lưu giử lâu đời trong lịch sử hay
tính chất thiêng liêng của truyền thống tín ngưỡng là quan trọng hơn
chân lý sẽ không chấp nhận điều nầy. Vì làm như thế cái thế giới quan
được quy định thành một hệ thống tinh vi và có thể sẵn sàng áp dụng ngay
tại chỗ của họ sẽ mất đi giá trị tuyệt đối cùng với sự chắc chắn rõ
ràng của nó. Từ đó, họ nghĩ rằng những trường phái Phật giáo về sau nầy
đã thay đổi lời Phật dạy bằng cách cố ý vượt quá giới hạn của những điều
Thế Tôn thuyết giảng.
Tuy nhiên, những người kế thừa đức Phật theo cách này thật ra chỉ lưu
lại cho hậu thế những khái niệm giới hạn và bị điều kiện hóa bởi thời
gian của các đệ tử đương thời của Đức Phật--những đệ tử đã tìm cách tập
hợp và ghi chép lại những lời Phật dạy trong lần cuối cùng đó mà thôi.
Nhưng tư tưởng cũng giống như cuộc đời, nó không thể đứng yên một chỗ.
Và khi sự phát triển bị ngưng trệ, hình thức còn lại chỉ là một cái xác
không hồn. Những gì còn lại với chúng ta sẽ chỉ là một kho báo lịch sử
được ướp giữ và bảo quản kỷ lưỡng, nhưng sức sống một thời của nó đã
không còn nữa. Những người xem trọng giá trị xác thực của hình thức nên
tự hỏi xem có thể nào chúng ta mang và đưa y nguyên những hình thức ngôn
ngữ va tu tập cách đây hàng ngàn năm vào cuộc sống hiện tại. Ngay cả
thức ăn, nếu giữ quá lâu, chúng sẽ tở thành chất độc. Và những thức ăn
tinh thần cũng thế--giữ quá lâu, chân lý sẽ thành giáo điều và niềm tin
sẽ trở thành mê tín mù quáng. Cả hai thứ này--chủ nghĩa giáo điều và sự
mê tín mù quáng--đều không có sức sống, và do đó, là những chướng ngại
cho tư tưởng và quá trình thể nghiệm cuộc sống, và do đó trở thành chất
độc hại người.
Chân lý không thể dựa trên niềm tin. Chân lý cần phải được liên tục phát
hiện và tái lập lại nếu chúng ta muốn duy trì nội dung tinh thần, sức
sống và giá trị bồi dưỡng của nó. Quy luật phát triển của đới sống tâm
linh là chân lý phải được liên tục kinh qua và tư duy lại dưới những
hình thức mới mẻ. Những thành tựu của các thế hệ đi trước không quan
trọng bằng những phương pháp nằm phía sau và dẩn đến những thành tựu
nầy, mà như những người đi sau, chúng ta phải không ngừng tìm hiểu những
phương pháp nầy, và đây chính là điều mà chúng ta phải trao dồi và
truyền đạt cho các thế hệ tương lai.
Qua cách sống luôn luôn thể nghiệm mới mẻ này, mỗi cá nhân trở thành cái
gạch nối liền quá khứ và hiện tại, hoàn chỉnh quá khứ bằng kinh nghiệm
hiện tại, và qua đó, chuẩn bị những hạt giống sáng tạo cho tương lai.
Chỉ với thái độ sống như thế, quá khứ mới có giá trị cho hiện tại và trở
thành một phần kiến thức của chúng ta, thay vì chỉ là một đối tượng để
nghiên cứu--một đối tượng bị tách rời khỏi quá trình phát triển hữu cơ
của cuộc sống, và do đo, đã mất hết nội dung thực tại.
Khi đã hiểu được ý nghĩa quá trình phát triển hữu cơ nầy của cuộc sống,
chúng ta sẽ không cho những giai đoạn phát triển riêng rẽ của nó là
"đúng" hay "sai", "giá trị" hay "vô dụng" nữa mà trái lại, chúng ta sẽ
khám phá ra rằng trong cùng một bản nhạc chủ đề, những biến tấu có thể
khác nhau về trọng âm và ngân nga, nhưng nó vẫn toát ra một cái gì tiềm
tàng, cơ bản và giống nhau. Khám phá nầy sẽ giúp chúng ta hiểu biết và
khuyến khích chúng ta vượt qua thái độ hẹp hòi và cố chấp, có được cái
nhìn vượt lên trên mọi khác biệt, và từ đó tiến đến một thái độ tinh
thần đầy cởi mở và bao dung.
Điều nầy không loại bỏ khả năng, như là những cá nhân, chúng ta có thể
cảm thấy gần gũi giới trào lưu nầy hoặc trào lưu khác trong dòng phát
triển của đạo Phật, hoặc những đặc điểm của trường phái nầy có thể thu
hút chúng ta nhiều hơn đặc điểm của các trường phái khác, tùy vào tính
khí, căn cơ, sự hiểu biết và trình độ phát triển tâm linh hiện tại của
chúng ta. Nhưng chúng ta không nên bao giờ để sở thích riêng tư này thúc
đẩy chúng ta đã phá những gì không thích hợp với ý đồ riêng của chúng
ta, và chúng ta càng không có quyền tuyên bố là truyền thống của trường
phái mà chúng ta lựa chọn là duy nhất thật sự thể hiện chân lý.
Vì thế, ở phương Tây Đạo Phật có trách nhiệm làm cho loài người hiểu
được toàn bộ sự phát triển của đạo Phật, và từ đó, có một cái nhìn tổng
thể về quá trình phát triển hửu cơ của những tư tưởng nền tảng hay những
hạt giống mà Đức Phật đã một thời gieo vào trong tâm đệ tử của ngài.
Trong những điều kiện khí hậu và bối cảnh văn hóa thật khác biệt, và đễ
thích ứng với tinh thần của các dân tộc và các nền văn hóa khác nhau,
những tư tưởng Phật giáo nền tảng nầy đã phát triển dưới nhiều hình thức
phong phú, mà vẫn không mất đi nội dung cơ bản của Phật tâm, và trong
quá trình phát triển, đã không mất đi "hương vị" đặc biệt của nó--đó là
hương vị của sự giải thoát, giác ngộ, và tính thống nhất phổ biến.
Trong một ngàn năm đầu của đạo Phật ở Ấn Độ đã xuất hiện ba trường phái
lớn. Mỗi trường phái nhấn mạnh đặc biệt vào một trong ba khía cạnh vừa
nêu trên của đạo Phật--giải thoát, giác ngộ, và tính thống nhất phổ
biến. Trường phái chú trọng vào "việc thoát khổ" thì chối bỏ thế giới
nầy vì thế giới nầy là vô thường. Quan niệm nầy đưa con người đến nếp
sống phần nào ẩn dật. Nhiều người tìm cách thoát khổ bằng cách xa lánh
cuộc đời trần tục. Chính từ quan niệm nầy mà hệ thống tổ chức các tu
viện được thành hình.
Trường phái thứ hai nhấn mạnh vào sự giác ngộ. Theo trường phái này,
giác ngộ là mục tiêu cao cả duy nhất của người Phật tử, cho dù điều này
có nghĩa là chúng ta phải chia xẻ và gánh vác nỗi đau khổ của toàn thế
giới, bởi vì nỗi khổ của chúng ta và nỗi khổ của tất cả chúng sanh là
một. Bằng cách này, cả thế giới đi vào một tiến trình giải thoát, và
lòng từ bi sẽ giúp con người vượt qua sự đau khổ--lòng từ bi nầy vô biên
và bao dung đến nỗi, dưới tác dụng của nó, tất cả những phiền muộn cá
nhân đều trở thành vô nghĩa, trừ khi nó trở thành niềm thôi thúc chúng
ta tiến bước trên đường đi đến quả vị giác ngộ tối thượng.
Tâm đại bi nầy (Phạn ngữ là mahakaruna) là sự thể hiện trực tiếp của
tinh thần giác ngộ (bồ đề tâm hay bodicitta) đang lớn dần trong tâm thức
của con người. Nó không dựa trên trên bất kỳ đợt sóng tình cảm phù du
nào mà thực chất là sự hướng tâm về tất cả chúng sanh được nuôi dưỡng
bởi từ tâm (maitri) và trí tuệ bát nhã (prajna婬 trong đó người hành trì
thấy nỗi khổ đau của chúng sanh cũng chính là nỗi khổ đau của họ. Từ tâm
làm cho họ cảm thấy một cách tự nhiên là "tất cả chúng sanh đều bình
bẳng" mà không thấy khởi lên bất cứ tình cảm tự tôn nào cho là mình trội
hơn người khác về mặt đạo đức hay tâm linh. Và trí tuệ bát nhã giúp
chúng ta thấy được tính duyên khởi và tùy thuộc lẫn nhau của các pháp,
và từ đó, thể nghiệm được tính "vô ngã" (anatman) của tất cả các yếu tố
cấu thành thực tại; Nó sẽ giúp chúng ta hiểu về tính không của mọi hiện
tượng, ý thức về tính tùy thuộc lẩn nhau của tất cả hiện hữu, và qua đó,
mở rộng con đường của lý tưởng Bồ Tát trước mắt chúng ta--con đường mà
cư sĩ tại gia và tu sĩ, ai cũng có thể hành trì.
Trường phái thứ ba của Phật giáo, qua việc nhấn mạnh tính thống nhất phổ
biến của đạo Phật, quan tâm nhiều đến những hệ quả tâm lý xuất phát từ
tính thống nhất và phổ biến tiềm tàng và cơ bản trong tâm lý con người.
Hơn thế nữa, trường phái này cho là họ có thể chuyển bất cứ đặc điểm nào
trong nhân cách con người thành một công cụ giải thoát, ngay cả những
đặc điểm mà lúc đầu dường như là những chướng ngại của sự giải hoát.
Theo cách nhìn này, mỗi biểu hiện của cuộc sống trở thành biểu hiện sự
thống nhất cơ bản của Luân hồi (samsàra) và Niết bàn (nirvàna), soi sáng
mối tương quan giữa thế giới vật lý và thế giới tâm lý, giữa thế giới
cảm giác và thế giới siêu nghiệm, giữa thế giới cá thể đặc thù và thế
giới phổ biến siêu việt.
Ba mặt khác nhau nầy của đạo Phật, trong quá trình phát triển lịch sử
của nó, đã thể hiện dưới những những mức độ nhấn mạnh khác nhau, tương
ứng với truyền thống tam thừa hay3 cỗ xe (yànas) đưa chúng sanh đến bờ
giải thoát, mà trong lịch sử Phật giáo được gọi là "Tiểu thừa"
(Hìnayàna), "Đại thừa" (Mahàyàna), và "Kim cang thừa" (Vajrayàna).
Từ cỗ xe nhỏ, con người bước sang cỗ xe lớn khi có sự thay đổi trong nội
tâm của họ, trong đó ước mong được giải thoát cho riêng họ khỏi thế
giới vô thường nầy được thay thế bởi ý niệm là thế giới nầy có thể
chuyển hóa được (y٠niệm này đến từ sự nhận biết rằng ở trình độ phát
triển tâm thức cao nhất và về bản chất, tất cả chúng sanh đêù bình
đẳng.) Từ ‘cỗ xe lớn’, con người bước sang ‘cỗ xe kim cang’ vì không
những họ nhận biết rằng thế giới nầy có thể chuyển hóa được, mà còn hiểu
được tính duyên sinh của luân hồi và niết bàn mà về thực chất là 2 mặt
của cùng một thực tại. Vì thế trong Kim Cang Thừa, người ta đã thiết lập
nhiều phương pháp hành trì tinh tế và khác nhau nhằm chuyễn hóa tất cả
các loại năng lực tâm lý trong con người--đặc biệt là những khả năng vô
hạn của tâm thức con người, qua đó, người hành trì sẽ nhận ra được tính
thống nhất phổ biến của họ với tất cả chúng sanh và cuối cùng sẽ làm
hiển lộ tâm thức toàn thiện sẵn có trong con người của họ.
Do đó, Tiểu thừa, Đại thừa và Kim cang thừa là sự đại diện cho ba mặt
khác nhau của tâm thức, trong đó mặt đến sau không loại trừ mặt có trước
mà trái lại, hàm chứa và kết hợp những đặc tính của mặt có trước ở một
bình diện cao hơn hay tạo thành một hệ thống sâu rộng hơn. Trong ý nghĩa
nầy, những quy tắc Giới luật (Pali là sila, Phạn ngữ là s'ila), cùng
với giáo lý Tứ diệu đế (Pali là cattàri ariya saccàni, Phạn ngữ là
catvari arya-satyani) của Tiểu thừa là nền tảng trên đó Phật giáo Đại
thừa xây dựng các học thuyết triết học về Trí tuệ Ba la mật
(Prajnaparamitavada), Tánh Không (Sunyavada), Duy Thức (Vijnanavada,,
vân vân). Và rồi sau đó, Kim cang thừa kết hợp triết học Trí tuệ Bát Nhã
(Prajna) của Đại thừa và nguyên tắc Giới luật (Sila) của Tiểu Thừa và
biến nó thành một hệ thống thiền định và thực hành yoga đặc biệt giúp
người hành trì chuyển hóa và thống nhất năng lực nội tâm, thành tựu đại
định (Samadhi).
Giới (Sila), Tuệ (Prjana) và Định (Samadhi)--Ba nguyên tắc của Bát thánh
Đạo đưa con người đến giải thoát-- có thể xem là những nét đặc trưng
của tam thừa: Tiểu thừa, Đại thừa và Kim Cang thừa. Mỗi thừa đều bao gồm
tất cả nguyên tắc trên, nhưng mỗi thừa có nét độc đáo của nó vì nó nhấn
mạnh vào một trong ba nguyên tắc lớn nầy, từ đó nhấn mạnh ý nghĩa đặc
biệt và có cách diễn giãi mới tùy theo sự lựa chọn của mình. Một cách
khái quát, chúng ta có thể nói rằng thái độ của Tiểu thừa mang tính hiện
thực và thiên về phân tích, thái độ của Đại thừa là duy tâm và nhất
nguyên, trong khi Kim cang thừa phát triển một hệ thống chặt chẽ những
quan hệ dựa trên tâm lý học và vũ trụ học, và từ đó, phát triển những
phương pháp thiền định có khả năng đi vào chiều sâu của tâm thức và tạo
một sự chuyển hóa sâu sắc trong nhân cách con người.
Tiểu thừa dạy chúng ta hãy nhìn thế giới như nó đang là (yathàbhùtam) mà
không cần tìm hiểu thực tại khách quan và thực chất của cuộc đời. Mặt
khác, nó dạy chúng ta rằng cuộc đời, trong bối cảnh mà chúng ta thể
nghiệm được gói ghém trong "tấm thân dài một mét sáu nầy." Nhưng cả tấm
thân nầy và thế giới nầy đều đau khổ. Trong Phật giáo Đại thừa, " thực
tại khách quan" của thế giời nầy được thế bằng một định lượng có sẵn
trừu tượng và siêu nhiên, không có đặc tính cũng không có tên gọi, và
chỉ có thể biểu thị bằng từ "Không" (Sunyata), mà chúng ta không thể nào
hiểu được bằng lý trí, nhưng đồng thời có tiềm năng vô tận. Trong Kim
cang thừa, chủ nghĩa hiện thực mang tính phân tích của Phật giáo nguyên
thủy và chủ nghĩa duy tâm trừu tượng và siêu hình của triết học Đại thừa
được quân bình bằng những hình tượng sáng tạo và tưởng tượng từ nội
tâm, qua đó toàn bộ nhân cách con người được chuyển hóa bằng một quá
trình dung nạp và hội nhập liên tục giữa con người và những hình tượng
sáng tạo và tưởng tượng nội tâm này.
Kim Cang thừa đại diện cho giai đoạn cuối trong lịch sử phát triển Phật
giáo ở Ấn Độ-- nước bả讠địa của đạo Phật. Trong chừng mực nào đó, nó là
sự kết hợp của tất cả những yếu tố đã được phát triển từ trước trong đạo
Phật. Do đó, trong Kim Cương Thừa Sunyata--hay "Tính Không" vô biên
vượt thoát mọi định nghĩa--được xem như bản tính uyên nguyên của tâm
thức, tự nó là sự thể hiện sau cùng của mọi tri kiến và quá trình chứng
ngộ sáng tạo. Chúng ta không thể vượt qua tâm thức bằng con đường tư duy
hay kinh nghiệm nên ngay cái mà chúng ta gọi là "giác ngộ" cũng chỉ là
một hiện tượng của tâm thức. Từ đó, chúng ta thấy rỏ rằng "thực tại"
không phải là một "chân như" trừu tượng cũng như không phải là một
nguyên lý cố định tuyệt đối mà là sự vận hành của tâm thức thể hiện
thành sức sống sáng tạo và phủ trùm vạn hữu. Chỉ khi nào tâm thức con
người nhận biết được tiềm năng và tính phổ quát uyên nguyên của nó, con
người mới có thể mở rộng kinh nghiệm thể nhập thực tại, nâng cao trình
độ nhận thức, và có được năng lực vũ trụ để xây dựng thế giới một cách
sáng tạo, chuyển hóa thế giới, dung nạp tất cả và đạt đến quả vị toàn
thiện.
Khi những trường phái Tiểu thừa đầu tiên ra đời xem thân thể như một cái
gì ác nghiệt mà con người không thể trốn tránh được--giống như vết
thương mà con người phải điều trị và chăm sóc để sớm ngày thoát ra khỏi
nó, Kim Cang thừa chỉ cho chúng ta thấy thân xác là một thế giới thu
nhỏ, một tiểu vũ trụ, và một bộ máy chuyên chở sự chuyển hóa, trong đó
tất cả những năng lực cao cấp đã có sẵn và chỉ chờ đợi được đánh thức.
Đó là một Mạn đà la vĩ đại, một "vòng tròn kỳ diệu" trong đó sự chuyển
hóa vĩ đại đang vận hành.
Do đó, Tiểu thừa dạy chúng ta quan sát sự thay đổi và biến dạng liên tục
của thế giới hiện tượng. Đại thừa giúp chúng ta nhận biết rằng thế giới
nầy có thể chuyển hóa được, trong khi Kim Cang thừa dạy chúng ta thực
hiện sự chuyển hóa nầy từ bên trong với tất cả những gì mà cuộc sống cho
phép. Do đó, con đường phát triển của đạo Phật, qua ba trường phái lớn
này, dẩn chúng ta đi từ sự khổ đau của cuộc đời vô thường nầy, xuyên qua
tấm lòng từ bi dành cho tất cả chúng sanh, và đến việc chấp nhận khổ
đau như phương tiện để thanh lọc và giải thoát chúng ta khỏi những sợi
dây ràng buộc của tự ngã. Để được tự thân thể nghiệm toàn bộ giáo lý đạo
Phật, mỗi cá nhân hành trì nên đi qua tất cả những chặn đường trên bằng
chính sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình. Vì mục đích nầy mà sự hướng
dẫn thân tình của một thiện tri thức cùng với sự hiến dâng tất cả năng
lực trí thức và tình cảm của bản thân người tu tập là rất cần thiết.
Chúng ta đã nói qua về nguy hiểm của việc bị giới hạn và kiềm hãm bởi
chủ nghĩa lịch sử thuần túy, chủ nghĩa giáo điều, và chủ nghĩa duy lý
thuần trí thức. Chỉ bằng cách phát huy chính kiến (samyag-drsti) chúng
ta mới tránh được nguy hiểm này; nhưng chính kiến ở đây không phải là ý
kiến hay quan điểm "đúng" hay "sai" về mặt tri thức mà là cái nhìn trực
tiếp và bằng trực giác vào bản chất thật của các sự vật và đặc biệt là
vào bản chất của cái mà chúng ta gọi là "cái tôi". Tuy nhiên, nếu cái
thấy biết dựa trên trực giác hay trực quán nầy vẫn không tạo được một
thay đổi tương xứng nào trong tư tưởng của chúng ta, nó sẽ không bao giờ
có ảnh hưởng thật sự trên cuộc sống chúng ta, bởi vì bất cứ sức mạnh
tâm lý nào, dù mãnh liệt đến đâu, vẫn sẽ không phát huy được tác dụng
trừ khi nó được hình thành và hướng về một mục tiêu nào đó.
Mặc khác, để có được sức mạnh và khả năng thay đổi đời sống và nội tâm
sâu thẳm của chúng ta, những tư tưởng và quán sát được phát triển một
chiều trên bình diện trí thức phải được xác nhận bởi kinh nghiệm trực
giác. Những ai chỉ biết an trú trong tư duy trừu tượng sẽ mãi bị tù hãm
trong tư tưởng của chính họ, cũng như người chỉ biết bám díu vào những
trực giác mơ hồ hay những cơn sóng tình cảm sẽ bị giam cầm trong những
tâm trạng và tình cảm mong manh ngắn ngũi của họﮠVì thế鬠chúng ta phải
biết phối hợp và kết hợp hài hòa giữa tư tưỏng và tình cảm. Chỉ khi nào
thành tựu được việc này, chúng ta mới hưởng được hương vị tự do của tinh
thần trực giác, và làm việc mà không bị thành kiến và định kiến chi
phối. Lúc đó, chúng ta mới tự mình có được niềm vui sáng tạo và hài
lòng, có được cái nhìn phủ trùm cuộc đời nầy dựa trên những yếu tố của
trực quán, và liên tục mở rộng kinh nghiệm nầy mãi đến lúc bừng ngộ và
chứng được quả vị toàn giác.
Do đó, chúng ta không cần phải chối bỏ năng lực trí thức, hay ức chế
dòng chảy tự do của tư tưởng và khả năng nghiên cứu suy luận của mình
(vitarka-vicara), miễn là chúng ta ý thức về những giới hạn của những tư
tưởng tản mạn và sử dụng năng lực trí thức của chúng ta trong giới hạn
thích hợp của nó. Trong lãnh vực nầy, khả năng suy nghĩ có hệ thống và
nhất quán là một chức năng có giá trị của não bộ con người. Nếu không có
sự hướng dẫn, soi sáng, và ổn định của tư duy lý luận, cuộc sống của
chúng ta chắc sẽ là một giấc mộng hỗn loạn. Nhưng nếu chúng ta chỉ biết
tư duy lý luận trừu tượng và cho nó một vai trò độc lập, nó sẽ tạo ra
một thế giới hoang tưởng và thế giới nầy sẽ đóng chặt mọi cánh cửa dẫn
đến sự chứng nghiệm bằng trực giác và ngăn chặn mọi hiển lộ của đời sống
tâm linh.
Khi bắt đầu nghiên cứu Phật pháp, chúng ta nên nhớ rằng giáo lý nầy được
xây dựng trên tri kiến và kinh nghiệm chứng ngộ thực tại. Mục đích duy
nhất của Phật pháp là kêu gọi và khuyến khích tất cả những ai tiếp cận
với nó phải tự mình thể nghiệm thực tại. Bởi vì trong khi người làm công
việc tư duy lý luận dựa trên các hệ thống lý thuyết, cùng với sự hỗ trợ
của các khái niệm và phương pháp lô gích quy nạp, để gián tiếp hiểu
được thế giới nầy, người thễ nghiệm thực tại theo tinh thần đạo Phật
dùng trực giác đễ thấy và biết một cách trực tiếp và toàn bộ về thế giới
nầy. Rồi sau đó họ mới dùng tư duy lô gích để diễn đạt lại tri kiến
nầy.
Nhiều nhà lô gích phương Tây thường sử dụng những khái niệm trừu tượng
mà không ý thức rằng lô gích của ngôn ngữ chỉ là một trong những khả
năng giúp con người suy nghĩ một cách hợp lý và nhất quán. Con người
thường sử dụng ngôn ngữ và khái niệm như thể ngôn ngữ và khái niệm là
những thể hiện trực tiếp của thực tại. Chính từ quan điểm sai lầm này mà
nhà triết học Đức Emmanuel Kant đả đưa ra khái niệm "sự vật tự nó"
(Thing in itself hay Ding an sich) hay khái niệm về thực tại đang diễn
ra trong thế giới cảm giác của chúng ta. Nhưng giống như tất cả những
khái niệm tuyệt đối độc lập "sự vật tự nó" chỉ là một khái niệm và chỉ
tồn tại trong tư tưởng con người mà thôi.
Do đó, như là một tư tưỏng mang tính cách lý luận và phân tích, khái
niệm "sự vật tự nó" có giá trị rất giới hạn. Nó không tồn tại trong thực
tế, hay nói khác đi, nó không có trong cái thế giới tồn tại bên ngoài
người suy nghĩ ra nó. Bởi vì không có "một vật gì" mà "tự nó" có thể tồn
tại được. Mọi vật khởi lên và nằm trong quan hệ tùy thuộc với những sự
vật khác và tất cả đều nằm trong những quan hệ thay đổi không ngừng. Và
chỉ trong ý nghĩa nầy, chúng ta mới nói đến "lý duyên sinh" trong Đạo
Phật, mà không hề đồng hóa khái niệm "duyên sinh" với khái niệm "không
có thật"; Lý duyên sinh trong đạo Phật nhằm để chỉ thẳng vào bản chất
của tất cả các pháp không ngừng khởi lên, vận hành, và diệt tận trong
quan hệ hỗ tương và tùy thuộc lẩn nhau.
Thí dụ như nói thời gian là duyên sinh không có nghĩa là nói thơì gian
không có thật mà để nói là thơì gian có rất nhiều mặt và kích thước
trong cuộc đời. Do đó, cùng một sự vật, nhưng nếu chúng ta nhìn nó từ
những quan điểm khác nhau, nó sẽ thể hiện rất khác nhau. Và do đó, cái
gọi là "sự vật tự nó" không thể tồn tại được, vì mọi vật chỉ có thể tồn
tại trong bối cảnh và tùy thuộc vào những sự vật khác, nghĩa là trong
môi trường biến đổi không ngừng của những quan hệ cũng thay đổi không
ngừng trong pháp giới muôn màu muôn vẻ này.
Từ quan điểm của đạo Phật, chúng ta không thể chấp nhận khái niệm "lý
trí thuần túy" (lý thanh tịnh hay pure reason) vì khái niệm này mâu
thuẫn với thực tại được thể nghiệm. Với cùng nguyên tắc nầy, chúng ta
cũng bác bỏ hệ thống lô gích trừu tượng mà người đời thưòng gán cho nó
một giá trị tuyệt đối. Trong lịch sử nhân loại, đã có nhiều hệ thống lô
gích khác nhau, thí dụ như lô gích ở phương Tây, Ấn độ, Trung quốc và
Nhật bản. Mỗi hệ thống lô gích đều có tính nhất quán riêng của nó. Chúng
ta có thể chọn bất cứ hệ thống nào để bắt đầu, miễn là chúng ta nhất
quán trong cách sử dụng nó, chúng ta đều có thể gọi cách thức tiến hành
của mình là hợp lý hoặc lô gích.
Lô gích ở phương Tây dựa vào tính nhị nguyên hay nhị phân, như chúng ta
thấy trong ‘quy luật mâu thuẫn’. Lô gích Ấn Độ căn cứ trên mệnh đề bốn
mặt: "là", "không là", "không là và nhưng là", "là và nhưng không là."
Lô gích Trung quốc không bị giới hạn bởi ngôn từ nhưng bởi những hình
tượng hay biểu tượng diễn đạt những ý nghĩa phức tạp. Trong khi đó, lô
gích Nhật bản ra đời từ sự tiếp xúc gần gũi của con người với thiên
nhiên và sử dụng những hình ảnh tương quan đối chiếu thu nhận từ quan hệ
nầy .
Tuy nhiên, trong cùng môi trường văn hóa, luôn có những trường hợp ngoại
lệ, luôn có những người suy nghĩ và hiểu biết khác với đa số còn lại. Ở
phương Tây, trong khi các triết gia và các nhà tư tưởng phần lớn sống
trong thế giới của các khái niệm trừu tượng hay những ‘tư tưởng thuần
túy’, vẫn có một số nhà khoa học và nghệ sĩ thật sự vĩ đại chuyên tâm
tìm hiểu toàn bộ cuộc sống bằng cách quan sát và tư duy. Nhưng sự hiểu
biết của các nhà khoa học và nghệ sĩ nầy bao hàm ý nghĩa là họ đã đồng
hóa với đối tượng, có khả năng đặt mình vào vị trí của đối tượng, hay
nói khác đi, có khả năng chuyển hóa không những đối tượng nghiên cứu mà
còn chính bản thân của họ nữa.
Dưới mắt chúng ta, thế giới hiện ra như một môi trường gồm những cặp
thái cực mà mới thoạt nhìn có vẽ đối nghịch nhau chẳng hạn như ánh sáng
và bóng tối, gần và xa, lạnh và nóng, ồn ào và yên tĩnh, tốt và xấu. Đây
là những điều mà chúng ta không thể nào giải thích một cách đơn giản
được. Chúng ta cũng không nên xóa bỏ thái cực nầy và thiên về thái cực
kia, hay ra sức cải đổi toàn bộ thế giới này theo hướng nầy hoặc theo
hướng đối nghịch lại. Trái lại, điều quan trọng chúng ta cần làm là tìm
ra được một trung tâm sáng tạo nằm giữa các thế lực đối lập nầy để đưa
đến sự hợp tác hài hòa giửa chúng với nhau. Đây là điều có thể làm được
vì thực chất các lực đối lập này luôn cùng tồn tại trong những quan hệ
hỗ tương và tùy thuộc lẫn nhau.
Chúng ta hãy mượn một ví dụ để làm sáng tỏ vấn đề này. Một sợi dây đàn
vi-ô-lông nối hai điểm đối lập ở hai đầu của cây đàn. Nếu chúng ta kéo
quá căng, tiếng đàn sẽ rít lên như tiếng thét. Nhưng nếu sợi dây quá
chùn, cây đàn sẽ không phát ra một âm thanh nào cả. Tuy nhiên, ở độ căng
vừa phải, không quá căng cũng không quá chùn, sợi dây sẽ phát ra một âm
thanh hài hòa và rõ ràng. Trong lãnh vực tâm linh cũng thế, chúng ta
cần tìm một quan hệ với độ căng thẳng vừa phải để tránh những cực đoan,
một bên là sự đình trệ, uể oải và bên kia là sự căng thẳng tột độ.
Tính năng động của vũ trụ tùy thuộc phần lớn vào sự tác động qua lại của
một bên là lực bám díu và một bên là lực buông thả. Lực bám díu thể
hiện ở sức đề kháng lại sự thay đổi mà chúng ta có thể gọi là "lực bất
biến" hay " ỳ lực". Ngoài ra, ở thế giới nhìn từ góc độ vi mô hoặc vĩ
mô, lực bám díu vận hành theo hướng quy tâm nhằm thu hút mọi vật về phía
nó. Trái lại, lực buông thả hình như luôn luôn hướng về những vị trí và
điều kiện liên tục thay đổi, còn được gọi là sự biến thiên, thay đổi và
hoán chuyển không ngừng, và trong thế giới nhìn từ góc độ vi mô hoặc vĩ
mô, chúng ta nhận ra lực buông thả nhờ sức ly tâm của nó. Sự đấu tranh
giữa hai lực đối lập bám díu và buông thả nầy tạo thành một dòng vận
động không ngừng kết hợp những thay đổi và bất biến, hay nói khác đi,
một dòng vận động theo hình tròn xoắn ốc luôn trở về khởi điểm của nó,
rất rõ nét và có thể dự đoán được. Nó phô bày sự bất biến trong thay
đổi, và do đó, hàm chứa không phải sự hủy diệt mà là sự chuyển hóa, hay
nói khác đi, sự thay đổi theo quy luật nội tại của nó.
Dựa trên quy luật vận động kết hợp lực bám díu và buông thả nầy, tất cả
thiên thể đều tự quay chung quanh cái trục của chính nó và di chuyển
theo một quỹ đạo ở những vị trí khác nhau nhưng khoảng cách giữa những
thiên thể nầy và quỹ đạo của nó thì luôn cố định (nguyên lý tĩnh lược
hay ellipse). Các thiên thể không bao giờ di động theo một đường thẳng.
Tất cả sự di động theo đường thẳng chỉ là hư cấu của tư duy trừu tượng.
Chỉ có tư duy trừu tượng mới chế đặt ra những khái niệm "thường còn,"
"vĩnh hằng'" và nâng chúng lên thành những lý tưởng tuyệt đối. Nhưng gần
như mọi tôn giáo đều bắt nguồn từ loại tư duy trừu tượng này. Chúng dựa
trên những tư tưởng mơ mộng, lừa dối con người bằng những lời hứa hảo
huyền hoàn toàn đi ngược với thế giới tự nhiên và những gì có thể quan
sát được. Cái tệ hại nhất là chúng làm con người tin rằng chỉ có con
người mới thoát được khỏi sự chi phối của quy luật tự nhiên và con người
có một linh hồn ‘bất tử’ có thể trường tồn vượt qua tất cả sự thay đổi
và chuyển hóa mà không một chúng sanh nào khác có được.
Trái lại, tư tưởng Ấn độ xem mọi vật, hữu tình hay vô tình, là một thể
hiện độc đáo của một bản thể toàn thiện được cấu tạo bằng vô số quan hệ
chằng chịt. Đây chính là "thuyết duyên sinh"mà Đức Phật đã dạy. Tất cả
những gì nằm ngoài những quan hệ này, và tất cả những gì không có quan
hệ sinh khởi với nhau, đều là không thật vì nó chỉ tồn tại trong tư
tưởng con người chứ không có liên hệ gì đến thực tế cuộc sống. Do đó,
thật là phi lý khi có người đưa ra một khái niệm về một đấng "tuyệt
đối". Vì thực chất đây là một suy đoán hoàn toàn trừu tượng và chỉ được
sử dụng bởi những người tránh không dám xác định nó là cái gì vì bản
thân họ không thể đưa ra một lời giải thích trung thực nào.
Vì thế, Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna) đã nhất quán khi áp dụng cái nhìn cơ
bản của Đức Phật về vạn pháp--đó là tất cả các Pháp (tất cả các nhân tố
cấu thành thực tại) là "vô ngã" (anatman) để tìm hiểu về thực tại khách
quan của cuộc sống. Ngài Long Thọ làm việc này không phải là để "Ấn hóa"
đạo Phật một lần nữa như một số nhà văn thuộc trường phái Radhakrishnan
đã lên án, mà chỉ để phản bát ý kiến của Nhất thiết Hữu bộ
(Savàstivàdin) cho là các pháp đều có "bản chất tồn tại của riêng nó"
(sarva asti hay mọi vật là như nó đang tồn tại). Điều nầy (ý kiến của
Nhất thiết Hữu bộ) dường như mâu thuẫn với lời Phật dạy là "tất cả các
pháp là vô ngã’ (sabbe dhammà anattà). Tôi nói "dường như’" bởi vì mọi
vật mà chúng ta nhận biết được chỉ tồn tại thuần túy như một nhận biết
mà không có một thực chất nào gắn liền với nó. Nó tồn tại như một hiện
tượng tự nó liên tục tái diễn. Nhưng nếu chúng ta bắt đầu với khái niệm
thực chất thì chúng ta phải đồng ý về mặt lô gích rằng không có gì tồn
tại ‘tuyệt đối’ (nghĩa là tự nó tồn tại ngoài lãnh vực nhận biết của
chúng ta), và vì thế về bản chất mọi thứ đều trống không (sunya) nghĩa
là không có bản ngã đơn lẻ tự nó như được nói trong lý thuyết của Ấn độ
giáo về linh hồn (atman).
Về sau nầy có sự kiện các nhà tư tưởng theo Ấn độ giáo bổ sung của học
thuyết tính không trong kinh Vệ Đà (sunyavada)ﬠbằng cách lấy triết học
của Ngài Long Thọ làm cơ sở cho thuyết Vô nhị (Advaita) của họﬠvà biến
tính không (sunyata) thành một lý tưởng tuyệt đối. Đây không phải là lỗi
của Ngài Long Tho mà là lỗi của Sankaràcàrya, người đã cố ý bóp méo lời
dạy của Ngài Long Thọ để đưa nó vào thuyết Vô nhị của mình. Rồi sau đó,
ông dùng lý thuyết này để diễn giải kinh Vệ đà mà không nhận rằng mình
đã ăn cắp học thuyết ti鮨 không (sunyavada) của ngài Long Thọ. Để phủ lấp
vấn đề này, Sankaràcàrya đã nói nói xấu Phật giáo và thô bạo tấn công
đức Phật, và qua việc làm nầy, ông ta đã tự mình đứng ngoài truyền thống
bao dung vốn rất được tôn trọng ở Ấn độ. Sankaracarya chắc chắn là một
học giả vĩ đại, nhưng ông còn "vĩ đại hơn" trong việc ăn trộm văn chương
và tư tưởng của người khác. Người nào tìm cách vu khống Ngài Long Thọ
là một "người mạo danh đạo Phật để Ấn hóa đạo Phật," và cho khái niệm
tính không của ngài Long Tho là tuyệt đối (nghĩa là tồn tại ngoài thực
tại thể nghiệm của chúng ta) quả thật người nầy không hiểu chút nào về
sự khác biệt giữa học thuyết vô nhị trong trong đạo Phật và học thuyết
vô nhị của Ấn giaó. (Footnote: Ngài Long Tho luôn cho sự thành hình của
khái niệm tính không là "không..." và khuyên chúng ta nên xem khái niệm
tính không cũng là không hay không-không hay sunyata-sunyata)
Khi nói đến tánh không (sunyata), ngài Long Thọ muốn chứng minh rằng
chúng ta không thể nào dùng những khái niệm trừu tượng và không thể nào
dùng triết học đễ hiểu được cái chân lý tuyệt đối (chân đế), vì trong
cảnh giới của chân lý tuyệt đối, chỉ có kinh nghiệm phủ trùm và sự cảm
nhận về những quan hệ vô cùng tận: do đó, "tính không" thoát ra khỏi mọi
định nghĩa bằng khái niệm và hàm ý về một cảnh giới "trùng trùng duyên
khởi."
Chìa khóa để hiểu giáo lý Trung Luận và Tính Không
(madhyamaka-sunyavada) của ngài Long Thọ nằm trong thuyết Thập nhị nhân
duyên (pratitya-samutpada), một công thức nổi tiếng về duyên khởi đồng
thời, nhân quả nghiệp báo, và tính tương tác và tương nhập của tất cả
các pháp. Về cơ bản, giáo lý Trung Luận và Tính Không chủ trương lọai bỏ
bất cứ niềm tin nào vào khái niệm tuyệt đối cũng như mọi tư duy suy
đoán trừu tượng, bởi vì khái niệm tuyệt đối và tư duy trừu tượng luôn
vận hành ngoài lãnh vực của sự thể nghiệm. Thái độ đó chứng minh rằng
Phật giáo là một hệ thống giáo lý thành hình từ kinh nghiệm chứng ngộ,
chỉ quan tâm đến những gì xảy ra trong thực tại, và trong ý nghĩa đó,
chỉ quan tâm đến những gì đang vận động và không để ý đến thành quả của
những tư tưởng suy đoán. Việc tự bác bỏ mọi tư duy suy đóan trừu tượng
nầy làm cho Phật giaó có một giá trị phổ biến cho tất cả mọi người và
giúp đạo Phật thoát khỏi chủ nghĩa giáo điều thần học mà thật ra chỉ
xuất phát từ lòng tin mù quáng và những mơ ước ảo huyền.
Phật giáo không hề bác bỏ khả năng có thể đạt đến những trình độ tâm
thức hay những cảnh giới tâm linh cao cấp. Nhưng Phật giáo chỉ quan tâm
đến những điều mà con người có thể chứng ngộ và đạt đến trong khả năng
của họ, không phải bằng những học thuyết hoàn toàn mang tính suy đoán về
thế giới thần thánh, hay về một đấng toàn năng sáng tạo ra vũ trụ mà
thật ra chỉ là một hình ảnh con người được lý tưởng hóa và chỉ khác ở
chỗ là hình ảnh con người lý tưởng nầy được thổi phòng lên thành vô hạn.
Mặt khác đức Phật không bao giờ phản đối bất cứ niềm tin vào nhất thần
hay đa thần miễn là niềm tin nầy giúp con người trở렮ên tốt hơn. Và Đức
Phật cũng không bao giờ bàn cãi về những vấn đề thần học. Ngài là người
vô thần không phải theo nghĩa của chủ nghĩa hư vô hay duy vật, và ngài
cũng không phải là người theo thuyết nhất thần. Ngài cũng không thuyết
về thuyết nhất thần duy tâm hay duy vật, nhưng ngài trân trọng niềm tin
của mọi ngườiﬠbởi vì ngài biết rằng điều quan trọng không phải là những
gì con người tin tưởng-- mà trái lại, những gì con người làm (hành động)
mới là điều quyết định. Nhưng những gì con người làm phải đi đôi với
những gì họ tin tưởng, nói khác đi, vơí những gì họ thuyết giảng và thể
hiện qua cách sống.
Nhưng ý nghĩa của chữ "hành động" trong Phật giáo là gì? Chính đức Phật
đã cho chúng ta một định nghĩa. Theo định nghĩa nầy, hành động không có
nghĩa là một hành vi được thể hiện ra bên ngoài mà luôn luôn là những gì
chúng ta làm vơi頣hủ tâm và hoàn toàn ý thức về việc nầy. Cái khác biệt
giữa hành động (trong nghĩa nầy) và hành vi thể hiện ra bên ngoài là cái
ý chí nằm phía sau đó. Chỉ khi nào hành động có ý thức, nó mới là một
hành động có tác dụng thật sự, hay nghiệp (karma), sinh khởi từ quyết
định có chủ tâm (cetana hay tác ý) như đọ⮧ cơ của hành động. Chỉ trong ý
nghĩa này chúng ta có thể hiểu những gì mà Tỳ kheo Na Tiên (Nàgasena),
trong quyển Những câu hỏi của vua Milinda, muốn nói khi ông cho rằng một
người sát hại với tâm không cố ý không phải là kẻ sát nhân, nhưng nếu
ai đó dùng gươm đâm xuyên qua một tổ ong vì cho rằng tổ ong là một con
người thì, với sự cố tâm này và về mặt nghiệp báo, người đó mang tội cố
sát. Chính vì thế mà chủ tâm là cái quyết định về cái nghiệp trung tính
(không thiện không ác), hoặc thiện hay bất thiện của một hành động.
Thế giới quan của Phật giáo dựa trên nhận thức rằng mọi tồn tại đều vô
thường (thay đổi liên tục) và tính vô thường này tiến hành theo một quy
luật vận hành phổ biến trong vũ trụ. Chúng ta có thể thấy rõ ràng sự vận
hành của quy luật vô thường này trong giáo lý Thập nhị nhân duyên
(pratitya-samutpada), trong giáo thuyết về Nghiệp và tái sanh, trong
trách nhiệm đạo đức của con người và trong sự tự do quyết định của cá
nhân mà quy luật này đề cập đến.
Khái niệm về vô thường (anicca) trong kinh tạng Pali (Phạn ngữ là
anitya), mà ở đây chúng ta dịch là "sự thay đổi," thường được đồng nghĩa
với "sự chóng qua" hoặc "tạm thời." Thật ra, nghĩa thật của nó là
"không kéo dài" hay "không mãi mãi." Vì thế, từ vô thường (anicca) không
chỉ bao gồm khái niệm "tạm thời và mau qua" với ít nhiều ý phủ định và
tiêu cực mà còn chứ đựng khái niệm "đang trở thành" một cái gì mới mẻ và
khác lạ đầy sáng tạo tích cực và hướng về phía trước. Do đó, nếu chúng
ta đau khổ vì không thể giữ lại, nắm bắt, và bám díu vào những gì vượt
khỏi tầm tay chúng ta, đó không phải là lỗi của cuộc đời mà là kết quả
của thái độ sai lầm, bị sai sử bởi lòng ích kỷ của chúng ta đối với cuộc
sống hiện tại. Mục tiêu của Đức Phật là làm cho chúng ta thấy rõ thực
tại như nó đang hiện hữu, để mà chúng ta nhận thức được và chấp nhận nó.
Vì thế, Đức Phật đã bác bỏ tất cả những niềm tin dựa trên những mơ
tưởng ảo huyền và không đúng chút nào với chân lý được thể nghiệm một
cách vô tư và không định kiến.
Như chúng ta đã thấy, thực tại là một tiến trình thay đổi và chuyển hóa
liên tục. Không gì có thể thoát khỏi tiến trình nầy, ngay cả cái mà
chúng ta gọi là cái ‘tôi’, ‘linh hồn’ hay ‘tự ngã’ của chúng ta. Vì thế,
thật là phi lý và ngớ ngẩn nếu có những ai đó muốn bàn cải về sự đầu
thai và luân hồi (Seelenwanderung) của một linh hồn bất tử trong Phật
giáo. Nếu bị bắt buộc phải dùng những từ ngữ đại loại như thế, thì có lẽ
tốt nhất, chúng ta nên dùng từ "chuyển hóa của linh hồn"
(seelenwandlung). Nhưng ‘linh hồn’ trong nội dung nầy không có nghĩa là
một cái gì sống rày đây mai đó, bất tử, trường tồn, bất biến, mà là một
tổng thể, hay đúng hơn, là toàn bộ những năng lực tâm lý hay xung lực
tâm lý mà đạo Phật đã đề cập và thuyết giảng trong hàng ngàn năm và ngày
hôm nay, cũng đã được công nhận bởi khoa tâm lý học hiện đại.
Trong thế giới tâm linh đa dạng và phong phú của thời đức Phật còn tại
thế, sở dĩ Phật Pháp có được vị trí cao hơn tất cả các trường phái tôn
giáo khác là nhờ đức Phật đã nhận ra được tính chất năng động của cuộc
sống bằng chính kinh nghiệm chứng ngộ của ngài. Nhìn lại quá khứ, chúng
ta thấy rằng Đức Phật đã nhìn cuộc đời hoàn toàn trái ngược lại với cái
nhìn của người đời thường. Đó là cái nhìn bắt nguồn từ nhân sinh quan
"vô ngã", trong đó cuộc sống là một dòng chảy liên tục sinh sinh diệt
diệt của các Pháp hay của tất cả các yếu tố cấu tạo thành sự hiện hữu
(Dharmas). Trong thế giới nầy, không có chỗ cho những khái niệm như "có"
và "không". Khi Đức Phật biến học thuyết vô ngã (anatman) thành trung
tâm giáo lý của mình, ngài đã làm một cuộc chuyển đổi từ cái nhìn tĩnh
hay bất động (như được trình bày trong Áo Nghĩa Thư, Upanisads) sang cái
nhìn động hay năng động về thế giới nầy, từ việc nhấn mạnh vào sự tồn
tại (Sat) sang việc nhấn mạnh vào tiến trình trở thành (bhava), từ khái
niệm về một cái ngã bất biến thường hằng sang việc công nhận sự tùy
thuộc và điều kiện hóa lẫn nhau của tất cả các hiện tượng đời sống trong
quá trình sinh diệt của nó (học thuyết duyên sinh vô ngã)--từ quan niệm
về một quá trình phát triển hoàn toàn máy móc sang khả năng phát triển
và tự vượt lên chính mình của con người.
Do đó, từ niềm tin vào sự tái sinh và luân hồi của linh hồn bất tử trong
Áo Nghĩa Thư , ở đây, chúng ta tìm thấy sự khẳng định chắc chắn bằng
kinh nghiệm thực chứng về sự chuyển hóa của linh hồn. Nhưng chính ở điểm
nầy mà nhiều Phật tử phương Tây gặp khó khăn. Họ muốn nói về thuyết
‘tái sanh không có linh hồn’. Nhưng điều này là vô lý giống như khi
chúng ta nói về "tâm lý học mà không đề cập đến thế giới tâm linh của
con người." Đã đến lúc chúng ta hãy chấm dứt thành kiến của những Phật
tử đầu tiên ở Âu châu đã đồng hóa khái niệm ‘linh hồn’ với khái niệm về
cái tôi hoặc cái ngã biệt lập và thường hằng. Làm như thế, họ đã lấy mất
đi khỏi văn minh phương Tây một từ ngữ rất đẹp và sâu sắc--như từ
Psyche trong tiếng Hy lạp (tạm dịch là Tâm linh hay Tâm thức) hàm ý
nghĩa về một tổng thể toàn vẹn và mang tính hữu cơ bao gồm tất cả năng
lực tâm linh đang vận hành và phát triển bên trong mỗi người chúng ta.
Có quan niệm cho rằng đối với đa số các Phật tử phương Tây, thuyết tái
sanh chỉ là một giả thiết cần được minh chứng. Những người theo quan
niệm nầy đã không thấy rằng phần lớn những người đến với Phật giáo chính
là vì họ tin tái sanh là có thật và tin ở tác động của quy luật nghiệp
báo. Vì nếu không tin ở tái sinh và nghiệp báo, lời dạy của đức Phật sẽ
thành phi lý vì điều này hàm ý là cái chết sẽ tự động hủy diệt và chấm
dứt tất ca, và điều nầy sẽ làm cho tất cả sự phấn đấu của con người trên
đường tu tập là hoàn toàn vô nghĩa.
Từ vô ngã (anatman) chiếm một vị trí then chốt trong giáo lý nhà Phật.
Trong đạo Phật, Vô ngã có nghĩa là không tuyệt đối hoàn hảo, là tất cả
các yếu tố cấu tạo thành thực tại và tất cả các hiện tượng tự nó không
có thực chất, và do đó, bao hàm ý nghĩa là, tất cả những yếu tố cấu
thành thực tại và các hiện tượng là vô biên, tùy thuộc lẫn nhau, và luôn
tiềm tàng khả năng thay đổi và chuyển hóa. Khả năng biến đổi, chuyển
hóa, và luân lưu nầy chính là sự sống; trái lại, bất động và cứng nhắc
là đặc tính của sự chết chóc và hủy diệt. Ngày nào chúng ta càng bám díu
vào "sự hiện hữu của chính chúng ta", ngày đó chúng ta càng tự đưa mình
đến gần với cái chết. Bởi vì cái mà chúng ta gọi là "sự hiện hữu" thật
ra là một tiến trình sinh diệt liên tục bị điều kiện hóa, một tiến trình
chuyển hóa trong đó không có cái đứng yên cũng không có cái đổi khác,
không có cái nào hoàn toàn mới mẻ và củng không có nào bị tuyệt đối tận
diệt.
Thuyết duyên khởi trong đạo Phật nên được hiểu theo nghĩa khả năng nhân
duyên là vô tận, chứ không phải là tương đối, và qua đó, chúng ta sẽ
không làm suy giảm hay hạ thấp các giá trị hay hiện tượng đang tồn tại.
Chúng ta có thể giải thích thuyết duyên khởi về cả hai mặt không gian và
thời gian, hay nói khác đi, thuyết duyên khởi có thể vận hành vừa trong
khuôn khổ thời gian và không gian vừa vượt qua mọi không gian và thời
gian, nghĩa là nó vận hành một cách đồng bộ. Trong quá khứ, nhiều học
giả đã không hiểu được nghĩa lý thâm sâu của giáo lý duyên khởi và những
người diễn giaỉ Phật pháp từ nhiều gốc độ khác nhau nhưng hơì hợt đã
luôn giải thích thuyết duyên khởi như là một công thức dựa trên "nhân
quả". Họ nghĩ rằng giải thích như thế, họ sẽ biến đạo Phật thành một tôn
giáo "khoa học." Nhưng họ không thể hiểu rằ讧 quan hệ nhân quả và quan
hệ đồng thời không loại trừ lẫn nhau--đây là điểm mà chính Đức Phật trở
lại khi ngài tuyên bố là lý Duyên khởi (pratitya-samutpada) phải được
hiểu sâu sắc hơn và không thể chỉ hiểu như một chuỗi tương quan nhân quả
trên bình diện không gian và thời gian, nói khác đi, phải được hiểu như
là sự tuỳ thuộc nội tại của tât頣ả mọi hiện tượng vào tất cả mọi hiện
tượng khác. Trong Trường bộ kinh (Digha Nikaya15), khi tôn giả Ànanda
tuyên bố rằng giáo lý duyên khởi là dễ hiểu và thỏa đáng về mặt lý
thuyết, và từ đó, diễn giải nó thuần túy theo quan hệ nhân quả dựa trên
thời gian, Đức Phật đã phản bác và khuyên tôn giả nên chú ý đến sự thâm
sâu và khó hiểu của giáo lý này.
Thuyết Duyên khởi (pratitya-samutpada) luôn được xem là một trong những
giáo lý trung tâm của Đạo Phật. Như chúng ta có thể thấy được trong phần
bình luận giới thiệu (karikas) về Trung Đạo của Ngài Long Thọ, thuyết
Duyên Khởi chính là nền tảng của giáo lý nầy. Trong triết học Trung đạo,
ngài Long Thọ phản bác cách diễn giải một chiều về giáo lý Duyên khởi
dựa trên thời gian và không gian và phục hồi lại ý nghĩa sâu sắc hơn của
từ sam-utpada, tạm dịch là sinh khởi như Đức Phật đã dùng để thuyết
giảng lúc đầu. (Foot note Samutpada (Phạn ngữ) và Samuppada (Pali) có
nghĩa là "sinh khởi": sam- là tiền tố có nghĩa là viên mãn và thống
nhất; utpada có nghĩa là "nảy sinh và xuất hiện.") Theo nghĩa nầy, duyên
khởi bao hàm ý nghĩa vừa quan hệ nhân quả vừa quan hệ điều kiện đồng
thời. Điều nầy giải thích tại sao đức Phật không luôn khe khắt giữ cho
được theo thứ tự thời gian từ chi phần thứ nhất (vô minh) đến chi phần
cuối cùng (sanh lão tử sầu bi khổ ưu não) trong giáo lý Thập nhị nhân
duyên (pratitya-samutpada). Làm như thế, Ngài chỉ rỏ tính tương đối của
yếu tố thơì gian trong giáo lý duyên khởi. Và cũng vì thế mà Ngài Long
Thọ đã xưng tán một cách chính xác như sau:
Không khởi cũng không diệt.
Không thường cũng không đoạn.
Không cùng cũng không khác.
Không đến cũng không đi.
Do vậy Ngài dạy mọi vật có quan hệ và xảy ra đồng thời,
Hãy yên lặng dập tắt mọi hý luận, tranh cãi,
Trước Đấng Giác Ngộ, bậc tối thắng trong các đại đạo sư,
Con quy phục tự thân.
Khi đã chấp nhận những tiền đề nầy, chúng ta đã bắt đầu đi đúng hướng
trên đường tu học. Chúng ta sẽ nắm bắt cái căn bản then chốt của Phật
Pháp, và chúng ta có thể vững tâm đi trên con đường thiền định. Đạo Phật
luôn xem tư duy trừu tượng (ý căn) như căn thứ sáu trong sáu căn của
chúng ta và dạy chúng ta sử dụng nó một cách đứng đắn. Nhựng tư duy con
người ngày nay đã bị nứt vở ra và đi lạc hướng. Tư duy của con người đã
trở thành "tư duy về tư duy," và bị cuốn hút trong nhiều tầng lớp tư duy
về tư duy về tư duy về tư duy.... Vì thế nó đã mất hết sự gần gũi và
trực tiếp với cuộc đời và như vậy cũng mất đi khả năng chuyển tải những
biểu tượng thể hiện trực tiếp từ cuộc sống.
Vì thế, bây giờ chúng ta phải trở về với việc sử dụng tối đa khả năng tư
duy trừu tượng bằng cách áp dụng nó một cách đúng đắn, vì trí thức mà
chỉ phát huy một nửa là một chướng ngại lớn nhất cho con đường phát
triển tâm linh. Chỉ khi nào chúng ta vượt qua được giới hạn của tư tưởng
bằng chính tư tưởng, và khi tri thức có thể nhận định và phê phán chính
nó, lúc đó, tri thức mới hỗ trợ thật sự cho đới sống tâm linh. Rồi nó
sẽ vận hành như bánh lái của một con tàu, chỉ hoạt động khi con tàu
chuyển động để đi tới và hoàn toàn bất lực nếu con tàu đứng yên một chỗ.
Nói khác đi, tri thức và tư tưởng chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy
bởi một động lực tâm lý sinh khởi từ kinh nghiệm chứng ngộ nội tại,
nghĩa là khi con người đang có những tiến bộ trong tu tập nội tâm và
đang tìm cách vượt lên trên chính mình. Chỉ với sự vận công tu tập như
thế, tư duy trừu tượng mới hoàn thành đúng những nhiệm vụ của nó, đó là
việc sắp xếp thứ tự, so sánh và phân biệt, lựa chọn với tinh thần phê
phán, và duy trì đúng hướng đi đã chọn.
Một người chỉ biết hành động vì tình cảm thì giống chiếc tàu không lái.
Còn người chỉ biết có tư duy trừu tượng thì giống như con tàu không có
nhiên liệu, và vì thế, bánh lái của nó không thể làm gì khác hơn là tạo
ra những chuyển động đi tới đi lui không định hướng cho đến lúc kiệt quệ
như một bánh xe răng cưa bị sút khỏi guồng máy mà thôi. Và nếu chúng ta
tiếp tục sử dụng hình ảnh nầy, một người suy nghĩ nửa chừng giống như
một vị thuyền trưởng chỉ biết bẻ tay lái về một phía và vì thế chiếc tàu
cứ xoay vòng vòng. Nhưng tư duy nửa vời chính là khả năng tư duy của
một người bình thường ở đời. Để vượt qua vấn nạn này, chúng ta không
được quăng bỏ đi tri thức của mình mà phải làm cho nó hoàn chỉnh hơn,
nghĩa là, không một chiều bằng cách giải phóng tư duy chúng ta ra khỏi
những lối mòn và tìm cách sử dụng tối đa những khả năng sẵn có của nó.
Chỉ với cách tu tập này, chúng ta mới có thể phá vở được vòng luân hồi
đơn điệu nghiệt ngã, liên hệ và tiếp xúc được với tất cả những gì đang
hiện hữu, để rồi khi đạt đến giới hạn cuối cùng của khả năng tư duy và
tưởng tượng, chúng ta sẽ can đảm bước vào cảnh giới viên mãn và toàn
thiện ngay chính trong con người của chúng ta.
Nếu chúng ta muốn khắc phục thái độ trí thức giới hạn của mình, trước
hết, chúng ta phải phát huy tối đa năng lực tư duy và khả năng phân
biệt. Con người không thể nào vượt lên trên tri thức nếu người đó chưa
có được tri thức hoặc chưa bao giờ kiểm soát được tri thức. Tư tưởng rất
cần để giúp con người vượt qua trạng thái đa cảm hay tâm thần rối loạn
giống như trực giác rất cần để giúp con người vượt lên trên những giới
hạn của tri thức và sự trói buộc của các khái niệm trừu tượng.
Thoạt nhìn thì dường như là một nghịch lý khi Thiền tông, một trường
phái Phật giáo ở Viễn Đông đặc biệt xem thường vai trò của tri thức, lại
được sự hưởng ứng của giới trí thức nhiều hơn là của giới bình dân. Tuy
nhiên, cũng như tất cả các trường phái khác trong Đạo Phật, Thiền tông
có cơ sở hợp lý của nó. Nó không dựa trên niềm tin hay trên những giáo
điều cứng nhắc, mà chỉ dựa trên kinh nghiệm trực tiếp (thực chứng) và sự
quán sát vô tư không bị định kiến ràng buộc. Tuy nhiên, như là một
trường phái Phật giáo, Thiền tông lấy trực quán làm nền tảng như tất cả
các trường phái Phật giáo khác. Nếu không có trực quán, Thiền tông sẽ
không phải là "Thiền tông." Cái nền tảng chung nầy dựa trên sự thể
nghiệm, mà sự thể nghiệm là nơi mà khoa học và sự huyền bí gặp gỡ. Sự
khác biệt duy nhất giữa khoa học và sự huyền bí là chân lý khoa học,
nhắm vào đối tượng bên ngoài và có thể chứng minh một cách "khách quan",
trong khi sự huyền bí hướng về bên trong chủ thể và dựa trên kinh
nghiệm "chủ quan" của người đó mà thôi.
Như tất cả các trường phái Phật giáo, Thiền tông tránh xa những định
kiến, giáo điều, tín điều, cùng với tất cả những gì thường mệnh danh
là"tôn giáo". Thái độ nầy hấp dẫn nhiều người có khuynh hướng khoa học
và chống lại các hình thức tôn giáo hiện nay. Việc đặt nặng tính cách cá
nhân trong phương pháp tu tập--điểm nổi bật nhất của Thiền tông Á Đông
so với các tông phái Phật giáo khác, tạo ấn tượng lớn trên giới trí thức
cũng như việc nuôi dưỡng và vung trồng nét đẹp và tình cảm gần gũi với
thiên nhiên của Thiền tông cũng đã thu hút các nhà mỹ học hiện đại.
Nhưng vì Thiền tông chỉ có thể thỏa mãn phần nào thị hiếu khoa học và mỹ
học của con người hiện đại, có nguy cơ là người ta sẽ hiểu và đánh giá
Thiền tông một cách hời hợt, chỉ vay mượn những hình thức thể hiện bên
ngoài, và không thể hiểu đúng đắn nội dung sâu sắc của giáo lý Thiền.
Ngay từ thời kỳ đầu của lịch sử Phật giáo, các luận sư cũng dùng nguyên
tắc nghịch lý để phá vở và đánh đổ những giới hạn và ràng buộc của tư
duy trừu tượng. Toàn bộ văn chương kinh điển Đại Thừa có rất nhiều thí
dụ về hiện tượng nầy, như trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Chuyện về các vị
du tăng Mật giáo (Siddhas), và các bài chú niệm trong Mật giáo. Nhưng
tất cả những nghịch lý nầy đều nhằm mục đích gây chấn động trong tư duy
con người và tháo nó ra khỏi những mô hình tư tưởng củ rích dựa trên
những suy nghĩ ước lệ và giáo điều xơ cứng. Đó là ý nghĩa, công dụng, và
giá trị tâm linh của phương pháp nghịch lý. Nhưng nếu việc sử dụng
nghịch lý trở thành một trò chơi trí thức, nó sẽ thất bại trong mục tiêu
và chỉ dẫn đến sự hoài nghi yếm thế và hủy diệt mọi giá trị tốt đẹp
trong đạo Phật.
Đây là chỗ mà các bộ phái Phật giáo Nguyên thủy khác với thái độ tự hào
của các nhà trí thức hiện đại luôn cho là mình không còn bị ràng buộc
bởi các giá trị truyền thống và tín ngưỡng. Tất cả trường phái Phật giáo
dù là Thiền tông Trung quốc hay Thiền tông Nhật bản bao giờ cũng đề cao
phẩm cách và giá trị của con người và tất cả chúng sanh khác dù những
chúng sanh nầy nhỏ nhoi và thấp bé đến độ nào, bởi vì họ đã nhận ra rằng
bất cứ hình thái nào của cuộc sống, với những nét độc đáo của nó, đều
là tụ điểm của tất cả sức sống tiềm tàng trong vũ trụ. Đây là đặc điểm
giống nhau của tất cả trường phái Phật giáo--không theo thuyết bất khả
tri và cũng không theo chủ nghĩa tự do tuyệt đối như con người của thời
hiện đại--những người mà thực chất đã mất niềm tin ở chính họ và cuộc
sống chung quanh họ. Do đó, Phật giáo cho ngày hôm nay và hướng về tương
lai phải luôn luôn khơi dậy những niềm tin sâu sắc và lâu đời nầy trong
nhận thức của nhân loại--niềm tin đến từ sự thể nghiệm sức sống của vạn
pháp (dharma) và cái nghỉa lý xuyên suốt và phũ trùm vạn pháp trong đó,
kinh nghiệm tự chứng của một cá nhân cũng quan trọng như bất cứ quy
luật trừu tượng nào. Điều nên nhớ là chúng ta không nên lầm lẫn vạn pháp
và nghĩa lý xuyên suốt của nó với khái niệm "mục đích" trong chủ thuyết
cho rằng thế giới nầy được tạo ra và sẽ hoại diệt theo một kế hoạch và
mục đích được định sẳn (Teteology).
Đã đến lúc phương Tây nhận ra rằng muốn biết tại sao các trường phái Đại
thừa thường hay phá ước lệ, chúng ta phải hiểu rằng Đại thừa là một hệ
thống tư tưởng siêu hình sâu sắc và đầy sức sống đến mức độ nó có khả
năng phá bỏ đi những khái niệm ước lệ. Các vị du tăng Mật giáo (Siddhas)
bác bỏ những lý thuyết giáo điều và hình thức tôn giáo xưa cũ không
phải vì họ là người theo chủ nghĩa hoài nghi hay thích thú làm kinh động
người khác bằng những lời nói và hành động có tính xúc phạm, nhưng vì
nội tâm của họ đã thuần thục và vững vàng sau khi kinh qua một quá trình
thể nhập thực tại sâu sắc. Người ta chỉ "tin" vào những điều khi người
ta chưa chắc về nó. Không ai cần phải "tin" ở mặt trời, vì ai cũng thấy
mặt trời, cảm nhận được sức ấm của nó, và được sống trong ánh sáng của
nó. Cũng thế, người Phật tử sẽ không hoài nghi về giá trị của sự chứng
ngộ cho dù họ có thể hoài nghi về nhiều pháp môn đã được vận dụng trong
lịch sử phát triển của đạo Phật.
Như vậy trách nhiệmủa các trường phái Phật giáo trong thời đại chúng ta
là mở ra và giúp cho loài người hiện đại tiếp cận trực tiếp với các giá
trị và sức mạnh đã tạo nên nền tảng văn hóa, tôn giáo, và các phương
pháp hành thiền Phật giáo. Nhưng những ai không thể tiếp cận và liên hệ
với những sức mạnh và giá trị Phật giáo nầy mà vẫn ra sức áp dụng những
phương pháp tu tập của Thiền Trung Quốc, Thiền Nhật Bản, và Kim Cương
Thừa trong sự trống vắng tâm linh, họ sẽ không thể nào tiến xa hơn ngoài
việc lẩn quẩn với những trò chơi lý luận mang tính tôn giáo của người
trí thức hay những màn kịch tôn giáo màu mè mang tính thẩm mỹ hời hợt.
Trong trường hợp nầy, Thiền Trung Quốc, Thiền Nhật Bản, hay những lời
dạy của các vị du tăng Mật giáo chỉ được dùng để biện minh cho nếp sống
mà họ đã chọn, họ chỉ mặc áo mới cho thái độ sống cũ rích của mìnhà
thôi. Trong lối sống tôn giáo hời hợt nầy, sự mất tự chủ hay thất niệm
được gán cho cái tên mới là tính hồn nhiên và tinh thần tự phát, sự yếu
đuối về tâm linh mang tên là tinh thần bất bạo động, sự lười biếng giải
đãi được ca ngợi là nếp sống vô vi, và sự phi lý và không lô gích được
xem là sự thành tựu sâu sắc về tâm linh và có khả năng "vượt qua nhận
thức tư duy trừu tượng", sự đa cảm và tưởng tượng vu vơ, ngông cuồng và
rồ dại được ca ngợi như là " nguồn cảm hứng bất tận.
Do đó, việc đưa Thiền Trung Quốc, Thiền Nhật Bản, và giáo lý của các vị
du tăng Mật giáo vào toàn bộ truyền thống tín ngưỡng Phật giáo cho người
phương Tây làm cơ sở giáo lý cho việc tu tập phát triển tâm linh sẽ chỉ
thành công nếu chúng ta thực hiện điều này với một thái độ tín ngưỡng
chân thành, xem đây là cơ sở của truyền thống Phật giáo vẫn đang âm thầm
vận hành trong cuộc đời nầy, rồi từ đó xác định hướng đi của chúng ta,
đi vào tận chiều sâu của tâm thức và qua đó, chuyển hóa cuộc đời của
chúng ta. Chỉ bằng cách nầy thôi, chúng ta mới mong ngày càng mở rộng
kinh nghiệm chứng ngộ, có cái nhìn trực quán vào bản thể thực tại, để
rồi cuối cùng chứng đắc tri kiến như thật mang tên là Trí Tuệ Bát nhã Ba
la mật đa(Prajĩàpàramità).
Tổ dịch thuật Trúc Lâm
Tổ dịch thuật Trúc Lâm (TDTTL) là nhóm dịch thuật gồm một số tăng, ni,
và cư sĩ Phật giáo. Mục đích chính của TDTTL là giới thiệu những tác
phẩm Phật học có giá trị về kinh nghiệm tu tập cũng như về giáo lý Phật
pháp của các tu sĩ Phật giáo và tác giả Phật học phương Tây với đọc giả
Việt Nam. TDTTL rất mong nhận được sự góp ý và chỉ giáo của quý bạn đọc.
Địa chỉ email: lotus@colba.net Xin chân thành cám ơn. |
||
mk
|
||
IP Logged | ||
<< phần trước Trang of 9 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |