Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 95 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22313 |
Gởi ngày: 10/Apr/2020 lúc 7:36am |
Tâm Tư Của Một Thằng Lính "Ngụy"
Hình minh họa
Có
vài điều tao thắc mắc từ lâu, tao muốn hỏi những người tự cho là yêu nước, yêu
đảng, yêu dân đang ngày đêm bảo vệ Đảng, bảo vệ cho chính phủ mà hầu như đặt nó
trên cả dân tộc, trên cả tổ quốc.
1.
Mày chữi VNCH bán nước, tay sai, vậy cho hỏi Quốc Gia VNCH tồn tại 20 năm đã ký
văn bản nào, hợp đồng nào bán, dâng đất cho ngoại bang rồi.?
Hãy kể tên 1 địa danh, hay 1 mét đất mà VNCH đã bán.? Ngược lại chứng minh Mỹ
đã chiếm được 1 tấc đất, tấc vàng nào.? Hay là ngày nay khi tụi bây cầm quyền,
Đảo thì mất dần, tổ quốc ngày càng thu hẹp.? Rụt rè trước kẻ ngoại xâm phương Bắc.?
2. Cho thằng Ngụy này hỏi: cái lá cờ đỏ sao vàng và lá cờ vàng 3 sọc đỏ cái nào có trước.? Nên nhớ nguồn gốc lá cờ vàng 3 sọc đỏ đã tồn tại trên tổ Quốc Việt Nam có nguồn gốc và ý nghĩa lịch sử hết nhé.
3.
Cho tao hỏi Dân tộc ta có lịch sử 4 ngàn năm dựng nước và giữ nước nhưng tại
sao phải đến thế kỷ 20 mới có 1 người được cho là "đẻ ra cả dân tộc".!
4.
Cho thằng Ngụy này hỏi tại sao VNCH ác, Mỹ Ngụy ác nhưng khi xảy ra giao tranh,
hay biến cố dân lại lũ lượt xuôi Nam.? Tại sao không đi về phía Giải Phóng để
có cuộc sống tốt hơn mà phải chạy về phía Quốc Gia để bị kìm kẹp.?
5.
Cho thằng Ngụy này hỏi tại sao Có 1 tổ chức tự phong cho mình là tổ chức duy nhất
có thể lãnh đạo được đất nước và bất kỳ ai không tin vào điều đó đều bị cho là
"thế lực thù địch".
6.
Cho thằng Ngụy này hỏi tại sao tụi bây luôn nói rằng giai cấp công nhân là giai
cấp giữ vai trò lãnh đạo nhưng thực ra giai cấp công nhân ở Việt Nam đang lo đi
làm tăng ca kiếm ăn từng bữa khó khăn nói gì đến lãnh đạo ai.?
7.
Tại sao tụi bây luôn tự hào khi nhận mình là đầy tớ của nhân dân, chỉ tiếc là ở
xã hội này ông chủ thì đi wave tàu và ở nhà cấp 4 còn đầy tớ thì ở biệt thự và
đi xe hơi. Mỗi lần ông chủ cần đầy tớ giúp việc gì thì phải làm đơn xin xỏ, đút
lót tiền bạc...
8.
Sao tao nghe nói lương công chức nhà nước ba cọc ba đồng nhưng người ta lại đua
nhau bỏ ra cả trăm triệu đồng để xin vào biên chế.? Còn người dân thì còng
lưng nộp thuế nuôi cán bộ nhưng mỗi khi cần cán bộ giúp việc gì thì họ phải đi
xin xỏ, nài nỉ, bôi trơn và họ coi đó là chuyện bình thường.?
9.
Tại sao Nhà nước của dân, do dân và vì dân nhưng người dân thì chẳng được quyền
lựa chọn người lãnh đạo.? Công an thì ngày càng đông nhưng tội phạm thì ngày
càng tăng, người dân bị mất trộm mà lên báo công an thì bị coi như kẻ đi ăn trộm
vậy. Muốn được giải quyết thì đừng nói nhiều nhé, tiền đâu đưa mau. Nhưng ngạc
nhiên là dân họ ngoan lắm, đưa tiền xong còn cảm ơn, giống như họ vừa được ban
phát đặc ân vậy.?
10.
Pháp luật thì khắt khe nhưng khi dân phạm luật thì họ bỏ tiền ra để chạy tội, vậy
thì tội gì mà không ban hành thật nhiều thứ luật khắt khe.? Suốt ngày tuyên bố
chống tham nhũng nhưng càng chống tham nhũng lại càng tăng, càng tinh giản biên
chế thì công chức lại càng đông.?
11.
Tại sao Bệnh viện, trường học thiếu thì không chịu xây mà suốt ngày đổ tiền vào
xây tượng đài, bảo tàng để làm cảnh. Công ty nhà nước nào cũng báo lỗ nhưng
lương lãnh đạo thì ở trên trời và đặc biệt chẳng bao giờ thấy phá sản.? Tụi bây
nhìn thời VNCH tụi bây thấy thiếu gì ko.? Bịnh viện miễn phí, trường học miễn
phí.? Tụi bây giải thích đi.!
12.
Cứ chửi thời Pháp thuộc sưu cao thuế nặng nhưng thời nay thuế má đâu có kém, ví
dụ như mua 1 lít xăng là đóng hơn 10 ngàn tiền thuế đó, mua 1 chiếc xe mà phải
bỏ tiền ra gấp 3 đến 4 lần so với các nước khu vực.? Suốt ngày chê bai các nước
tư sản nhưng động tý là lại đi ngửa tay xin tiền viện trợ.? Tại sao vậy.?
13.
Miệng mở ra là VNCH giàu nhờ Mỹ viện trợ, do có thế lực ngoại bang giúp đỡ,
phải tự lực tự cường.? nhưng Năm xưa tụi bây thì lại nhận viện trợ lương thực,
vũ khí từ Liên Sô, Trung Cộng, và khối Cộng Sản.??? Ngày nay chẳng khác gì.?
Ngửa tay xin tiền viện trợ hầu như khắp năm châu.? Nợ công ngập đầu.? Tại sao vậy.?
Tự Lực Tự cường là thế nào.?
14.
Tại sao Giải Phóng đất nước rồi, Miền Nam thoát khỏi kiềm kẹp rồi.? Mà tụi bây
thì cứ lũ lượt xuống Nam ở.? Ôm của cải ra Bắc.? Thống Nhất rồi tại sao dân vẫn
cứ lũ lượt chạy trốn vượt biên.? Mãi đến thập niên 90 mới chấm dứt.? Ngày nay
cũng chẳng khác gì đó là vượt biên hợp pháp thôi.? Năm nào cũng hàng trăm người
định cư nước ngoài.? Cũng từ bỏ quốc tịch Việt Nam.?
15.Tại
sao đất nước đói nghèo lạc hậu nhưng Đảng thì lại quang vinh muôn năm.? Tụi bây
có thấy nghịch lý không.???
Nếu
việt cộng tụi bây có ba xạo để lừa bịp nhân dân, hoặc là tráo trở
mị dân thì cũng phải biết ngại ngùng xấu hổ khi bị đồng bào khắp
nơi cùng nhau chửi rủa, khinh tởm và thù hận bọn bây gian manh khốn
nạn nhé.!!!
Nguồn Việt Nam Sử Liệu.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22313 |
Gởi ngày: 10/Apr/2020 lúc 7:43am |
Một Câu Chuyện Thương Tâm
Tôi
Nguyễn Văn Đề, sinh ra là một ngôi sao xấu trong những ngôi sao xấu nhất của bầu
trời đất Việt. Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống trong một miền quê hẻo lánh
gần một vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất cày lên sỏi đá.
Tôi
chưa bao giờ được cắp sách đến trường. Do đó, từ lúc mới lên bảy, tôi được một
nhà phú hộ mướn chăn dê.
Với
đàn dê 40 con, hằng ngày tôi phải lùa chúng vào các triền núi đá từ sáng sớm
tinh sương đến chạng vạng tối mới về. Cả ngày chăn đàn dê gặm cỏ. Chiều đến tôi
phải gom dẫn chúng về nhà phú hộ. Công việc chỉ đơn thuần như thế. Còn việc trả
công, tôi không hề hay biết. Đó là việc của người lớn: – Của cha mẹ tôi và nhà
phú hộ.
Sáng
sớm được mẹ đánh thức, tôi rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh dẫn đàn dê vào
núi cho chúng tự tìm thức ăn.
Sáng
nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi một nắm cơm vắt, đựng trong mo cau với một ít muối
ớt, gói trong miếng lá chuối khô. Đó là bữa cơm trưa hàng ngày của tôi.
Tôi
chưa bao giờ biết ăn sáng hay lót lòng bao giờ. Ngay cả buổi cơm cũng chỉ có muối
ớt. Họa hoằn lắm mới được thay đổi bữa cơm với một con cá lép khô muối mặn bằng
hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá thịnh soạn, ngon miệng nhất đời chăn dê mà tôi
đã hoan hỉ lắm rồi.
Ngồi
ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên cổ của bầy dê cũng vui tai quá đỗi.
Đời
tôi thăng hoa hơn, năm 1973, vừa đúng 18 tuổi, tôi xin đăng vào Nghĩa Quân, được
tuyển mộ và thăng chức ngay là Nghĩa Quân Viên-một cấp bậc nhỏ nhoi nhất trong
hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hãnh diện được xúng xính trong quân phục ‘lính áo
đen’.
Đời
tôi bắt đầu sáng lạn hơn thằng chăn dê rồi đó! Tôi được dạy cho biết cách sử dụng
súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em Một” (Carbin M1) là ‘người tình’ đi
theo tôi trong suốt quãng đời lính tráng này.
Tôi
được phục vụ ngay tại địa phương nơi tôi chào đời và lớn lên trong đói nghèo,
cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi là ‘tiểu đội thám báo’.
Nói
‘thám báo’ cho oai, chứ thực ra, nhiệm vụ chính của tiểu đội là ban ngày canh
gác trụ sở Xã, ban đêm tiểu đội thường xuyên di chuyển từ địa điểm này đến địa
hình khác với mục đích tránh sự dòm ngó, quan sát theo dõi của địch, để khỏi bị
tấn công sát hại.
Tuy
tránh giao tranh với địch song anh tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó là ‘phục
kích đêm’ để phá vỡ đường dây liên lạc của Việt Cộng.
Vào
đầu tháng tư năm 1975, tiểu đội di chuyển đến một bờ ruộng. Tuy nói là ẩn núp,
ngụy trang, che dấu để tránh sự quan sát của địch, song chúng tôi cũng phải
chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát hiện địch, chúng tôi cố ý ẩn nấp để
tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ báo cáo để thỉnh thị quyết định của thượng
cấp.
Nào
ngờ đêm hôm đó, cái đêm định mệnh của đời tôi và cũng là một đêm tận cùng của
tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi rình mò về thôn xóm để nhận tiếp tế. Đêm hôm
đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào ổ phục kích của chúng tôi. Lúc
đó là phiên gác của anh Cường nhưng anh ta ngủ gà ngủ gật, mắt nhắm mắt mở, khi
tỉnh giấc anh thấy một bóng đen xuất hiện quá gần chỗ anh đang gác. Giật mình,
anh Cường nổ súng bắn một băng tiểu liên và tên du kích ngã gục sau phát đạn
khai hỏa đầu tiên của anh ta.
Sáng
hôm sau, chúng tôi lật xác tử thi địch để nhận dạng và biết rõ tên du kích là một
người dân trong xã vừa thoát ly gia đình theo Việt Cộng, khoảng vài tháng trước.
Hắn ta theo du kích vào rừng và làm liên lạc viên cho đám du kích.
Sau
đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du kích về Xã để cho thân nhân anh ta nhận
xác về chôn cất.
Đây
là một chiến thắng đầu tiên kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên ‘thám báo’ của
chúng tôi.
Lẽ
dĩ nhiên một tiểu đội ‘áo đen’ làm gì có phương tiện tải thương để chuyên chở tử
thi địch như các đơn vị Chủ Lực Quân hay Địa Phương Quân.Vì thế, hôm ấy chúng
tôi phải dùng 2 cây sào tre, rồi lấy áo đi mưa cá nhân, kết hợp làm băng ca,
khiêng tử thi tên du kích về xã.
Chúng
tôi thay phiên nhau, hai người một, kẻ trước người sau, ì ạch khiêng cái xác từ
bờ ruộng này đến bờ đê khác. Gần đến trụ sở Xã, chúng tôi được lệnh của anh
trung đội trưởng cho đặt tử thi trước trụ sở Xã.
Rủi
ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần đến nơi, người bạn khiêng phía sau vừa bảo
tôi vừa thả buông băng ca xuống:
–
Đặt xác nó tại đây đi!
Anh
bạn vừa thả băng ca thì trời bất chợt đổ cơn mưa rào. Tôi đem lòng thương hại kẻ
xấu số nên cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi xác tử thi vào thẳng trong chợ để
xác khỏi bị…mưa ướt.
Đó
là lòng nhân từ của bất cứ ai cũng phải cư xử với người chết như thế. Tôi vừa đặt
tử thi xuống, bất ngờ một người đàn bà đập thình thịch vào lưng tôi, nhục mạ,
chửi rủa om sòm:
–
“Cái quân trời đánh! Chồng tao đi thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết chồng
tao!!” rồi lôi xác xềnh xệch như lôi kéo một con chó. “Trời ơi là trời!”
Tôi
định giải thích nhưng nghĩ lại bà ta cũng có cái đau khổ của người vợ bị mất chồng,
nên tôi đành cắn răng chịu đựng, bỏ đi mà không cần giải thích cặn kẽ cho bà ấy.
Một
tháng sau, tháng tư đen năm 1975, đổ sụp về, tất cả các sĩ quan từ thiếu úy trở
lên phải trình diện học tập cải tạo tại các trại tập trung lao động khổ sai.
Các
anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và Nghĩa Quân được học tập tại địa phương 20 ngày
thì được cho về sinh hoạt với gia đình. Riêng tôi lại bị vợ của tên du kích,
nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm Ủy Viên Chính Trị Xã, ra lệnh chuyển tôi
từ địa phương ra trại cải tạo Lam Sơn với tội danh: Thành phần ác ôn, nguy hiểm,
có nợ máu với nhân dân…
Những
ngày đầu ở Lam Sơn, tôi cố tìm các anh em nghĩa quân khác mà tôi quen biết. Tôi
đã không tìm thấy bất cứ ai, kể cả anh Cường, người Nghĩa Quân đã bắn chết anh
du kích. Các ông trung đội trưởng, tiểu đội trưởng, tôi cũng chẳng thấy ông
nào. Thậm chí ngay cả các anh ‘linh áo đen’ đã đi phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng
có ai!
Tôi
bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu úy, chỉ có một mình tôi là Nghĩa Quân
Viên.
Những
ngày đầu, các ông thiếu úy cũng quá đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:
–
Mày là thằng nghĩa quân quèn, sao lại trình diện vào đây để ngồi tù?! Ủa, mày
muốn tình nguyện học tập hả?
Có
người thì nói ôn tồn, thương hại. Có ông thì nhìn tôi sòng sọc, gặng hỏi:
–
Chứ bộ mày muốn mấy ổng trả lại cấp bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?
Tuy
bị hạch hỏi nhưng lúc nào tôi cũng ôn tồn, nhã nhặn trả lời:
–
Dạ em đâu dám mơ ước như thế đâu thiếu úy!
Dù
sao đi nữa, đời tôi cũng đã thăng hoa lắm rồi.
Ngày
xưa, có bao giờ tôi được ăn chung, ngủ chung với các vị sĩ quan trẻ này đâu.
Thiếu úy, ít ra các ông ấy cũng là trưởng ban, trưởng phòng, cuộc trưởng … gì
đó trong chi khu, nên lúc nào tôi cũng kính nể, tôn trọng các vị sĩ quan ấy.
Lao
động trong trại tù chừng gần hai năm, các ông thiếu úy lần lượt ra về.
Tôi
lại bị dồn vào ở tù chung với trung úy và đại úy. Đời tôi sao được thăng cấp
nhanh quá. Không bao lâu, chúng tôi bị chuyển ra trại Củng Sơn, Phú Yên. Khoảng
3 năm có rất nhiều trung úy và đại úy lần lượt ra về. Trại lại nhốt chung tôi với
các ông thiếu tá mà ngày xưa tôi chưa bao giờ dám xuất hiện gần các vị ấy vì
các ông này ít ra cũng là các cấp chỉ huy của đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu
Trưởng của tôi. Đời tôi lại thăng hoa, thăng cấp nhanh như chớp. Càng được sống
gần các vị thiếu tá, tôi càng kính phục họ nhiều hơn. Các ông ấy hiền, đạo đức,
xem tôi như em út trong trại tù.
Sau
đó, chúng tôi lại bị dời về A.30. Ở tù hơn 5 năm, hầu hết ai ai cũng được
về đoàn tụ với gia đình. Cá nhân tôi lại được thăng cấp ở chung với một đại tá
và 12 người tù chính trị khác mà trại gọi là ác ôn, có nhiều nợ máu với nhân
dân. Đời tôi tuy thăng hoa, thăng cấp nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu
thì ngày về lại càng xa tít mù khơi bấy nhiêu. Tôi hết trông mong có ngày trở về
gặp lại vợ con.
À,
mà tôi quên kể cho quý vị nghe về gia đình, sự nghiệp, thân thế của tôi…
Năm
18 tuổi tôi cũng đã lập gia đình với con Nại. Cô gái này nhà cũng nghèo, cũng
được phú hộ mướn chăn dê như tôi. Cả hai chúng tôi thường xuyên gặp nhau ở chỗ
thả dê gặm cỏ. Không biết trời xuôi đất khiến thế nào khi tôi gia nhập ‘quân áo
đen’ dưới ‘cờ vàng ba sọc đỏ’ thì Nại cũng vừa lớn, nó mắc cỡ không chịu chăn
dê nữa. Mẹ tôi thấy nó siêng năng, hiền lành như búp măng bụ bẫm nên mẹ tôi đem
Nại về và nó trở thành vợ tôi hồi nào tôi cũng chẳng hay biết gì!
Vợ
chồng quê rất đơn giản, khỏi cần học những câu văn chương lãng mạn để trao cho
nhau làm gì cho mất thì giờ.
Tôi
cũng không nhớ rõ, cái đêm động phòng hoa chúc ấy … ra làm sao..Tôi đã nói với
Nại những gì… âu yếm Nại như thế nào..nhưng sáng ra, tôi thấy Nại nằm trọn
trong vòng tay tôi. Tôi biết ngay, bây giờ tôi đã có vợ. Gần một năm sau, Nại
cho tôi hai đứa con trai sinh đôi rất khoẻ mạnh. Một năm sau, Nại lại sinh đôi
nữa. Đứa con gái chăn dê, nay là người mẹ 4 con. Hồi đó, ‘quân áo đen’ không được
hưởng phụ cấp gia đình như anh em Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân. Bản thân
tôi, chỉ được lãnh lương 1.200 đồng mà phải nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù, Nại
một mình nuôi cha mẹ già tôi và bốn đứa con thật vất vả.
Suốt
thời gian tôi bị tù, Nại thăm nuôi tôi được 3 lần: lần đầu khi tôi mới bước
chân vào trại Lam Sơn, lần thứ nhì tại trại A.30. Hồi đó, trại cho tôi được ngủ
đêm với Nại trong nhà ‘thăm nuôi” và Nại sinh thêm đứa thứ năm. Lần thứ ba, khi
được báo có người nhà thăm nuôi, tôi vội vàng ra cổng trại thì được biết một thảm
kịch đã xảy ra lôi thôi cho gia đình tôi. Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi
thăm nuôi chồng bị
lật và có hai người chết, trong đó có Nại. Xác Nại vì không có thân nhân nhận
nên địa phương nơi xảy ra tai nạn đã chôn xác Nại ven rừng.
Và
năm đứa con tôi đưọc một người quen biết sinh sống cùng địa phương của Nại cũng
đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa nhỏ vào trại giao cho tôi.
Nại
chết để lại 5 đứa con với một ràng bánh tráng, một ít mắm ruốc kho…
Năm
đứa con, ngồi khóc vì không có mẹ, nên trại cho tôi dẫn chúng vào trại để ở tù
chung với tôi. Đời tôi bắt đầu rẽ một khúc quanh.
Nại
chết, để lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa chưa đầy hai tuổi. Lúc đầu
sáu cha con tôi được anh em cùng tù giúp đỡ. Anh em bớt phần ăn ít ỏi của chính
mình, chia sớt cho tôi để nuôi năm đứa nhỏ. Sau đó trại thấy bất tiện nên cho
tôi một cái lều tranh cũng trong khuôn viên của trại tù và cấp ba tháng thực phẩm
đầu tiên để tôi tự túc nuôi con sau này.
Cảnh
gà trống nuôi con. Tình cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc đời dở khóc dở
cười.
Một
thời gian sau, nỗi sầu cũng đã lắng xuống nhiều, song hình ảnh của Nại vẫn còn
lắng đọng trong tâm trí tôi. Ngày ngày tôi cuốc đất trồng khoai, trồng mì. Ba đứa
con đầu cũng lẳng lặng theo sau tôi để phụ giúp công việc lắt nhắt. Còn lại một
đứa sáu tuổi ở nhà trông em hai tuổi.
Tối đến tôi bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đã mất hẳn sự trầm tĩnh và muốn bỏ cuộc.
Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong một cái mềm rách trùm kín đầu ở một xó lều
như muốn tránh những âm thanh dị kỳ, thét gào của gió mưa bên ngoài. Tuy làm lụng
rất vất vả nhưng hoa màu thu hoạch
cũng không đủ ăn. Thỉnh thoảng vào ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi đào
mì và hái bắp trộm của trại về cho bầy con ăn thêm để tránh cái đói đang hành hạ
chúng.
Nào
ngờ một đêm, tôi giật mình thức giấc thì thấy vắng mặt con Thanh - đứa con gái
đầu lòng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi hái trộm bắp.
Tôi
nhìn ra ngoài, bầu trời đen nnư mực. Mưa gió đang gào thét…
Tôi
nghi ngờ là con Thanh đang đi bẻ bắp trộm. Tôi vội vã lách mưa đi tìm Thanh.
Sau
một hồi tìm kiếm khắp các ruộng bắp, tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.
Trời
tối thui như mực. Mưa rơi xào xạc, át hẳn tiếng kêu của tôi:
“Thanh!
Thanh! Con ở đâu?” Nhưng tiếng kêu của tôi bị mưa gào, gió cuốn mất hút trong
không gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ chắc giờ này con Thanh cũng đã về
nhà rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc, nhưng con Thanh vẫn chưa về nhà.
Đánh
thức bốn đứa con, tôi gặng hỏi, mắng chửi cho một mẻ nhưng các con chỉ ngơ ngác
không biết chuyện gì đang xảy ra.
Tôi
bảo các con đi ngủ tiếp và một mình ngồi chờ con Thanh về.
Một
chặp lâu sau, tôi nghe tiếng súng bắn inh tai… Không biết chuyện gì đã xảy ra
thì khoảng nửa giờ sau, có tiếng la hét, hối hả của các ông cán bộ đang đứng giữa
nhà.
–
Đêm hôm khuya khoắt mà mày sai con đi bẻ trộm bắp… Anh em công an đi tuần tra,
tưởng nhầm con mày là tù trốn trại nên đã bắn chết nó rồi… Khẩn trương theo tụi
tao nhận xác nó về.
Điếng
cả người, ruột gan tôi rối bời. Rụng rời tay chân, tôi vội chạy theo họ. Đến
nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết thê thảm bên vũng máu.
Quanh
bụng nó cột một sợi giây và nhét quanh mình chừng mười trái bắp và hai củ khoai
mì mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng nó còn đang nhai mấy hột bắp non. Do đó,
tôi biết ban đêm vì đói, con Thanh ngủ không được nên lén tôi đi bẻ bắp về cho
các em nhai, không ngờ bị bắn chết thê thảm như vậy.
Sáng
hôm sau, tôi chôn Thanh mà lòng buồn rũ rượi. Tôi không còn một chỗ nào trong
tâm trí để căm thù. Ngôi mộ của Thanh nằm ngay trong mảnh đất do cha con tôi
khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở cửa mả cho Thanh bằng hai trái bắp và hai củ
khoai mì đã đổi sinh mạng của nó.
Suốt
đời Thanh là một chuỗi ngày dài bất hạnh vì thiếu tình thương của cha, trong
đói nghèo cơ cực của mẹ, và chết trong đói khát của cảnh tù đày mà trẻ thơ mới
có bảy tuổi đã phải nằm tù, gỡ lịch từng ngày với cha. Thanh chỉ mong được ăn
no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh xã hội đã hất hủi, không thương yêu nó.
Ngay
cả trước 1975, vợ con của anh em lính Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân được lãnh
phụ cấp gia đình, nên vợ con lính ai ai cũng đủ cơm ăn, áo mặc. Còn vợ con của
‘quân áo đen’ thì đi chân đất, đầu trần, quần áo tả tơi không một cấp lãnh đạo
nào thèm quan tâm đến.
Hồi
đó, anh em Nghĩa Quân chúng tôi cũng thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại phân biệt đối
xử với anh em chúng tôi như thế?!
Sau
1975, tôi cũng bị ghép vào ‘ngụy quân’, cũng bị tù, bị hành hạ như các anh em
khác. Sao các ông ‘đỉnh cao của nhân loại’ không biết phân biệt hành xử để
‘quân áo đen’ như tôi không bị dẫn con vào trại tù và bị chết thảm như vậy?!
Bảy
ngày sau, đúng vào ‘thất thứ nhất’, vào khoảng một giờ khuya, khi tôi đang ngồi
buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia đình và cái chết thê thảm của con Thanh …
Mưa
đang rơi từng giọt như tiếng ai đang rên rỉ và sau đó tôi nghe tiếng khóc của
con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, não nuột. Tôi mở cánh cửa sổ bằng liếp tre
nhìn ra ngoài. Mưa càng lúc càng to. Gió thổi ào ạt. Dưới gốc một thân cây chồi,
ngay chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng hiện
lên…Tôi toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nhìn kỹ thì ra đó là hình dáng
của con Thanh.. Nó đang đứng trước mộ, khóc sướt mướt. Quanh lưng cũng đang buột
một sợi dây và treo tòn ten vài trái bắp như lúc tôi nhận xác nó về. Tôi mất
bình tĩnh và khóc nấc lên từng cơn. Có bàn
tay ai đó đang bám vào vai tôi. Con Nhàn, đứa con gái sanh đôi với con Thanh,
hai chị em giống như hai giọt nước. Con Nhàn đã đứng sau lưng tôi tự hồi nào.
Nó khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất cả các con tôi đều thức dậy đang ở chung
quanh tôi. Ngoài trời đang mưa. Con Thanh vẫn còn đứng đó, nó khóc ngậm ngùi.
Tôi hoảng hốt vừa nói với các con tôi :”Để cha ra bồng con Thanh vào nhà” tôi vừa
đẩy tấm liếp;
con
Nhàn cũng chạy theo.
Nhưng
khi ra đến mả thì hình dáng con Thanh không còn nữa. Tôi ngơ ngác không biết
chuyện gì đã xảy ra nhưng tôi vẫn còn bình tĩnh và biết ngay rằng con Thanh
đang bị chết oan, chết lạnh và chết đói trong nỗi oan ức mà linh hồn của nó
cũng chẳng có nơi nương tựa. Không biết nghĩ sao tôi vừa khóc vừa vái trước mộ
nó: “Ba đưa con vào nhà. Ba sẽ luộc
bắp cho con ăn.”
Sau
đó tôi bồng con Nhàn vào nhà như thể tôi đã bồng con Thanh.
Vào
nhà, tôi lấy một miếng gỗ nhỏ, tựa vào vách, rồi dùng bốn thanh tre, chôn dưới
đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn thờ cho con Thanh.
Trong
khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc hai trái bắp đẹt làm thức ăn cúng cho con Thanh.
Tôi
thấy trên bàn không có nước, tôi bảo con Nhàn lấy ly rót nước cúng con Thanh.
Nhàn
đi qua đi lại trong cái nhà tranh như đang tìm kiếm vật gì? Sau đó nó lấy một
cái gáo dừa đưa lên hỏi tôi: “Ba ơi! Nhà không có ly, mình dùng cái chén này
rót nước cúng chị Thanh được không ba?”
Nước
mắt lưng tròng, tôi khẽ gật đầu.
Thế
cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái. Các em của Thanh vừa lạy vừa khóc nức nở
với tất cả lòng yêu thương người chị.
Tôi
nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi thăm nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức tưởi để lại
năm đứa con cho tôi.. Kể từ ngày ấy đến giờ tôi cũng chưa có cơ hội lập một cái
bàn thờ cho Nại. Tôi vội tìm trong mớ giấy tờ có cái chứng minh nhân dân của Nại.
Tôi trang trọng vuốt hình vợ mình trong Chứng Minh Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng đặt
hình của Nại lên miếng gỗ mỏng làm bàn thờ. Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và
Thanh trên một manh gỗ mỏng của thời phồn vinh giả tạo còn sót lại.
Từ
hôm đó, Thanh cũng không về khóc nữa. Nó cũng biết an phận trong cảnh lưu đày của
một chế độ mà người bóc lột người… Thỉnh thoảng tôi vẫn có những đêm ác mộng:
“Nại bị chết kẹt dưới những đống hàng chồng chất, máu me lênh láng còn Thanh
thì đang nằm sóng soài trên một vũng máu mà miệng vẫn còn nhai ngấu nghiến chưa
nuốt xong mấy hạt bắp sống.
Duy
Xuyên
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22313 |
Gởi ngày: 10/Apr/2020 lúc 8:25am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22313 |
Gởi ngày: 13/Apr/2020 lúc 8:33am |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22313 |
Gởi ngày: 14/Apr/2020 lúc 1:13pm |
Quá đau thương và thảm khốc trong Tháng Tư Đen 1975 !
1. Tại Tuy Hòa , Vạn Ninh (Tỉnh Phú Yên, Tỉnh Khánh Hòa)
Ngày 23-3-1975 phần đuôi đoàn xe di tản bị mắc kẹt trên Tỉnh Lộ 7 gần quận Phú Túc, cách Thành Phố Tuy Hòa khoảng 40 km về phía tây, vì pháo cộng sản bắn vào đoàn xe ở phía trước Bà mẹ mất con tại Tuy Hòa. Ngày 25 - 3 – 1975 Ngày 26 tháng 3 năm 1975 tại Vạn Ninh, Ninh Hòa. Những người dân chỉ có vài món đồ trên lưng , tức tưởi dẫn gia đình trốn chạy cộng sản Tại Nha Trang Ngày 31 - 3- 1975 tại phi trường Nha Trang Trên chuyến bay cuối cùng rời khỏi phi trường Nha Trang ngày 31 - 3- 1975 Trong cuộc hổn loạn những người Lính VNCH không chỉ lo cho riêng bản thân mình mà còn giúp đở bảo vệ sự sinh tồn của người dân nhất là những em bé Phi trường Nha Trang Ngày 1 - 4- 1975 Ngày 2 - 4- 1975. Trong cảnh di tản ra khỏi Nha Trang 3 giờ sáng Ngày 30 - 3 - 1975. Chiếc HQ 802 cập bến cãng Cam Ranh ... đến 8 giờ tối Ngày 30 tháng 3 năm 1975, nhổ neo tiếp tục cuộc hành trình, rời cảng Cam Ranh để về Vũng Tàu Hai ngày sau, là ngày 3-4-1975. Tàu HQ 802 đang trên biển Đông Ngày 2 tháng 4 năm 1975 Nha Trang thất thủ |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22313 |
Gởi ngày: 14/Apr/2020 lúc 1:14pm |
Tại Phan Rang , Phan Rí
Tại Phan Rang . Ngày 16 tháng 4 năm 1975. Tại Cửa Phan Rí . Ngày 18 tháng 4 năm 1975. Tại Xuân Lộc Ngày 12 tháng 4 năm 1975, đồng bào bỏ chạy khi việt cọng tới Xuân Lộc và người thanh niên xấu số này đã gục ngã trong vòng lửa đạn trên quốc lộ 1 Ngày 13 - 4 - 1975. Tại Xuân Lộc Ngày 14 - 4 - 1975, em trai này di tản một mình bằng chiếc xe lăn trên đoạn đường dài từ Xuân Lộc, đang di chuyển trên quốc lộ 1 Ngày 14-4-1975 , dân chúng Xuân Lộc chạy hổn loạn tranh dành leo lên chiếc trực thăng. Ngày 15 - 4 - 1975 Ngày 23 tháng 3 năm 1975 tại Xuân Lộc Ngày 31 - 3 - 1975 Ngày 23 tháng 3 năm 1975 Xuân Lộc thất thủ |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22313 |
Gởi ngày: 14/Apr/2020 lúc 1:15pm |
Tại Lâm Đồng , Long Khánh
Ngày 15 tháng 4 năm 1975, tại tuyến phòng ngã ba Dầu Giây Ngày 19 - 3 - 1975, trên quốc lộ 20 từ Lâm Đồng về Dầu Tiếng Ngày 20 - 4 – 1975, Quốc lộ 20 từ Lâm Đồng về Dầu Giây Ngày 20 - 4 - 1975 tại Dầu Tiếng Ngày 21 - 4 - 1975, dân chúng Long Khánh chạy tránh cọng sản Ngày 21 - 4 - 1975, người chồng cuả phụ nữ này bị trúng đạn pháo kích của cộng sản Ngày 21 - 4 - 1975, cộng sản vô tới Long Khánh Ngày 21 tháng 4 năm 1975 Long Khánh thất thủ Khắp nơi - Dân chạy tránh giặc cọng sản Một chiếc tàu vận tải Vishipco chở số người tị nạn nặng trĩu từ miền trung khi cộng sản tràn vô Một chiếc thuyền tị nạn ở miền trung Người chạy giặc chỉ có đôi giày, vài cái túi, và một cái radio Một gia đình dắt dìu nhau chạy giặc từ miền trung tránh đợt tấn cộng của cộng sản Gia đình và trẻ em chạy giặc từ miền trung vào nam trong ngày cuối tháng 4 năm 1975 Hai em bé lạc loài trong dòng người di tản Với chút hành trang còn lại người cha cõng đứa con chạy trốn cộng sản ở Trảng Bom ngày 23 - 4 -1975 Khắp nơi - Dân chạy tránh giặc cọng sản Vũng Tàu Ngày 9 tháng 4 năm 1975. Dân chúng chen chúc tìm lối thoát tại các bến tàu Ngày 21 – 4 - 1975, người dân Sài Gòn lũ lượt kéo nhau chạy ra Vũng Tàu tị nạn Vòng đai thành phố Sài Gòn những ngày cuối tháng 4 năm 1975 đã bị vây chặt bởi nhiều sư đoàn của cộng sản |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22313 |
Gởi ngày: 14/Apr/2020 lúc 1:17pm |
Tại Sài Gòn
Ngày 24 - 4 - 1975. cọng sản đã ném bom vào Sài Gòn Lúc 3 giờ 30 Ngày 27 tháng 4 năm 1975, cộng sản pháo kích vào thành phố Sài Gòn Ngày 28 - 4 - 1975, cộng sản tiếp tục pháo kích vào Sài Gòn Ngày 28 - 4 – 1975, Xác T-54 trên đường Trương Minh Giảng, gần Lăng Cha Cả Ngày 29 tháng 4 năm 1975, một chiếc trực thăng đáp trên sân thượng nhà 4 tầng của người dân trên đường Truơng Minh Ký Tại Bến Sông Bạch Đằng Người dân Sài Gòn tìm đường thoát trên bến phà Thủ Thiêm trên bến sông Bạch Đằng Ngày 28 - 4 - 1975, người dân leo qua hàng rào bến cãng để trốn thoát khỏi Sài gòn Những cửa ngõ duy nhất có thể thoát ra khỏi Sài Gòn như Toà Đại Sứ Mỹ, khu DAO ở gần Air Vietnam và bến Bạch Đằng, thì lúc nào cũng đông nghẹt người chen chúc chờ đợi một cơ hội cuối cùng. Đa số là thành phần trong chính quyền cao cấp hoặc những người có liên hệ với Mỹ trước đây Và những người sài Gòn đang liều mạng trèo lên các xà lan tại bến cảng Sài Gòn họ cố gắng trốn thoát khỏi cộng sản Ngày 29 - 4 - 1975 Một bé trai đầu đội mũ lính, trên lưng cõng một đứa bé lạc loài trong đoàn người di tản Sài Gòn vào những ngày cuối tháng Tư năm 1975 như một cái chảo đặt trên lửa đang nóng dần lên và dân chúng như đàn kiến loi ngoi trong đó không lối thoát |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22313 |
Gởi ngày: 16/Apr/2020 lúc 8:22am |
Văn THƯ GỬI VỀ KBC KHÔNG BIẾT SỐ TT <<<<<Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 16/Apr/2020 lúc 8:24am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22313 |
Gởi ngày: 20/Apr/2020 lúc 7:55am |
Con Bướm Đen
Lời người viết:
-Bài viết này là nén nhang thắp lên để tưởng nhớ anh tôi là Nguyễn Quang Khóa, nguyên Trung tá phi công phản lực, Trưởng phòng kế hoạch Không đoàn 41 Chiến thuật, xuất thân khóa 61A SVSQKQ đã chết tại trại tù số 3 Kỳ Sơn, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
-Chân
thành cảm ơn anh Phan Trừng, và anh Đan Hoài Bửu (Phượng Hoàng Kim
Cương), nguyên Trung tá phi công phản lực, bạn học cùng khóa của anh
tôi, đã giúp tôi hoàn thành bút ký này.
-Quý vị nào là bằng hữu, chiến hữu hoặc cựu tù binh biết về cái chết và mộ phần của anh tôi, xin liên lạc với tôi qua địa chỉ email: nguyenpierre24@yahoo.com.
Mặc dù khoảng cách tuổi tác sai biệt khá nhiều, nhưng anh em tôi
đều có điểm tương đồng là yêu thích toán học và ôm mộng viễn du. Vì
thế chúng tôi đều học ban khoa học toán và tình nguyện gia nhập quân
đội sau khi đậu tú tài toàn phần:
“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai, nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”
Mùa hè 1960, anh tôi nhập học khóa 61A SVSQKQ. Khoảng tháng sau lại
có giấy báo nhập học ban Toán của trường Đại học sư phạm gửi về nhà,
ba tôi mở ra, đọc đi đọc lại nhiều lần, mặt đăm chiêu, ra chiều nghĩ
ngợi nhiều lắm.
Mười năm sau, tôi cũng vừa thi vào đại học sư phạm, đồng thời
làm đơn xin gia nhập trường Võ bị Đà lạt để được sống và học tập
trong khung cảnh hào hùng và thơ mộng của vùng đất cao nguyên, mà
tôi đã bị quyến rũ trước đây qua bài “Ai Lên Xứ Hoa Đào” của nhạc sĩ
Hoàng Nguyên và một số hình ảnh của người sinh viên sĩ quan Đà Lạt
trong đoạn phim giới thiệu về trường Võ Bị Quốc Gia Đà lạt, đã chiếu
tại trường vào dịp cuối năm lớp Đệ nhất (lớp 12) tại trường Quốc
Học, Huế.
Tôi đã trúng tuyển vào trường đại học sư phạm nhưng không thấy
giấy báo nhập học trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt gửi về nhà. Vì thế,
sau này tôi đã trở thành một giáo sư khoa học tại một trường nữ
trung học đúng theo ý nguyện của ba mẹ tôi, nhưng tôi không bao giờ
quên được hình ảnh hào hùng và lịch lãm của người trai thế hệ mà
mình mơ ước.
Sau khi học đại học sư phạm được vài tháng, nhân một buổi ăn tối
của gia đình, ba tôi mới ôn tồn cho tôi biết là ông đã nhận được
giấy báo của trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt gửi về nhà, nhưng ông
không cho tôi biết, vì anh tôi đã là pilote de guerre vào sinh ra tử
trên bốn vùng chiến thuật (ba tôi có thói quen nói nửa Việt nửa
Pháp, như ông thường viết các toa thuốc cho bệnh nhân).
Anh tôi du học tại Hoa Kỳ năm 1961. Gia đình tôi đều đặn nhận
được thư từ và hình ảnh của anh tôi, chụp tại các trường huấn luyện
phi công, luôn luôn kèm bên chiếc phi cơ đã bay, hoặc các hình ảnh
chụp tại các tiểu bang đã đi qua nhân dịp cuối tuần hoặc các dịp lễ
lạc. Tôi ước mơ một ngày nào đó mình cũng được như vậy.
Ngoài thư từ gửi cho gia đình, anh tôi còn gửi cho chị M.T.,
sinh viên trường CSYT, con gái của một người bạn của ba tôi, mà ba
tôi đã chấm theo tiêu chuẩn “Công-Dung-Ngôn-Hạnh” cho anh tôi, trong
lúc hai người chưa một lần gặp gỡ.
Nhiều lần tôi cảm thấy xót xa cho chị, khi chị đưa lá thư anh
gửi cho tôi xem với hai câu thơ mở đầu:
“Người ơi, gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không”
Năm 1963 anh về nước. Hai câu thơ trên trích trong tập truyện
Kiều của cụ Nguyễn Du mà anh đã lồng vào trong bức thư, gửi cho chị
M.T. như một định mệnh đã an bài.
Ba tôi đã phải nói lời xin lỗi với cha mẹ chị, vì việc đi hỏi
chị là do ba tôi đơn phương quyết định.
Một lần nữa, ba tôi lại đăm chiêu, suy nghĩ nhiều lắm.
Dĩ nhiên, anh tôi từ đó không về nhà, cứ ở mãi Sài gòn. Lúc đầu,
anh ở Liên Phi đoàn 33 Vận tải tại căn cứ Tân Sơn Nhứt, sau đó
chuyển qua Phi đoàn 518 Khu trục tại căn cứ Biên Hòa.
Thỉnh thoảng anh gửi thư cho ba mẹ tôi nói rằng anh quen một
người con gái gốc Bắc, con của một sĩ quan cấp tá, bạn của cậu tôi.
Chị là sinh viên trường Đại học Luật khoa Sài gòn và cũng là bạn
cùng học tại ĐHLK với anh tôi (sau khi ở Hoa kỳ về, anh lại ghi danh
học ĐHLK).
Chị có tên rất ấn tượng: Phạm Chất L.
Thư từ giữa hai anh chị chất đầy như núi. Một lần vào cư xá thăm
anh, tôi tò mò đọc được một lá thư của chị gửi cho anh, với bài thơ
mà tôi chỉ nhớ được hai câu:
“Đời phi công có mấy người
chung thủy
Mỗi đường bay thay một cánh hoa yêu”
Hay một lá thư khác:
“Oublie, c’est le nom d’une fleur
N’oubliez pas, c’est le vœux de mon cœur”
(Xin người giữ lấy hoa quên
Và đừng quên nhé lời nguyền trong tâm)
Chị cũng không quên ép vào những trang thư tình màu tím một con
bướm đen đậu trên nhánh hoa Forget Me Not. Điều này làm tôi liên
tưởng đến sự trùng hợp màu sắc một cách ngẫu nhiên: Bộ áo bay của
anh tôi màu đen với khăn quàng cổ màu tím, tôi thường thấy anh tôi
mặc trong những phi vụ đặc biệt.
Đời phi công thật hào hùng và bay bướm. Trong tủ sách anh tôi để
lại cho tôi học, tôi thích thú khi đọc cuốn Đời phi công của Toàn
Phong, Chuyến bay đêm (Vol de nuit), Cõi người ta (Terre des hommes)
của nhà văn phi công Saint Exupery. Càng thích thú hơn, khi biết
Toàn Phong là bút hiệu của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, tác giả cuốn
Hình học Không gian không thua kém gì các cuốn Géométrie dans
L’espace của Le Bosse hoặc của Caronner mà anh em tôi xem như là
quyển Tự điển Toán Hình học Không gian.
Suy cho cùng, toán học và văn chương tuy thuộc hai phạm trù khác
nhau nhưng luôn luôn có sự tương quan logic. Toán học tuy khô khan,
nhưng nhà toán học lại là người rất nhạy cảm. Sự nhạy cảm là khởi
đầu cho bao đề tài lãng mạn trong văn chương.
Thời gian dần trôi, tình hình chiến sự ngày càng ác liệt, anh
tôi được điều động ra căn cứ Đà nẵng. Ác liệt nhất là trận đánh Tết
Mậu Thân 1968 và sau đó là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cố đô Huế dịp Tết Mậu Thân, chiếc Khu trục
cơ Skyraider AD6 do anh tôi lái bị bắn với chi chít lỗ đạn phòng
không của Bắc quân, đặc biệt là bánh đáp bị bắn gãy nhưng anh tôi đã
đáp bụng an toàn.
Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cổ thành Quảng
Trị, chiếc phản lực cơ A37 của anh tôi bị bắn rơi trên bầu trời cổ
thành, anh đã nhảy dù thoát hiểm và may mắn được một trực thăng cứu
thoát, đưa về căn cứ Đà Nẵng an toàn.
Năm đó, tôi đang học năm thứ hai. Vừa ra khỏi giảng đường, một
con bướm đen to bằng bàn tay, bay lởn vởn và đậu trên vai tôi vài
tích tắc rồi biến mất. Sau đó tôi gặp một viên thiếu úy phi công
trực thăng đến trường tìm một người bạn, vô tình kể lại chuyên anh
ta vừa cứu thoát một thiếu tá phi công phản lực A37 bị bắn rơi tại
Quảng trị, tôi nghe chuyện và hỏi tên người phi công lâm nạn, thì ra
người phi công phản lực đó chính là anh tôi.
Sau này, trong tập san Lý Tưởng của binh chủng Không quân có
đăng bài Cánh Thiên Thần Trên Bầu Trời Cổ Thành Quảng Trị của ký giả
L.R.viết về anh lúc cánh dù bung ra từ chiếc phản lực cơ lâm nạn
trên vùng trời lửa đạn.
Bạn bè cùng khóa 61 A SVSQKQ và các khóa sau đã có nhiều người
ra đi không bao giờ trở lại như tráng sĩ Kinh Kha qua sông Dịch
không hẹn ngày về. Chiến tranh đồng nghĩa với mất mát, đau thương,
cô đơn và giá lạnh:
“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu, tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”
Biến cố khó quên đối với gia đình tôi xảy ra vào ngày 29/3/1975
sau khi tôi nhận bằng tốt nghiệp và sự vụ lệnh bổ nhiệm làm giáo sư
tại trường trung học được vài tháng. Đà nẵng đang trong cơn hấp
hối.
Tình hình chiến sự vô cùng căng thẳng.
Anh tôi một mình lái xe jeep ra nhà, hối hả chở cha mẹ tôi vào
phi trường Đà nẵng, còn tôi không liên lạc được phải chạy một mình
ra cảng Tiên sa mong thoát thân bằng đường biển.
Vừa đến cảng thì bị pháo kích dồn dập, tôi chỉ kịp nằm bẹp xuống
một mương nước, và chiếc vali trong tay tôi rơi lúc nào cũng không
hề hay biết. Một quả đạn pháo kích rơi ngay trước mặt tôi chừng mươi
thước, đúng lúc một chiếc xe jeep trờ tới, mọi người trên xe bị hất
tung lên và trở thành tro bụi trong phút chốc.
Quá hoảng sợ,
tôi chạy lùi theo một số người tìm đường ra biển Sơn Trà.
Lúc này có một vài chiếc phi cơ bay vút qua, hướng ra biển Đông.
Tôi ngửa mặt lên trời, ước gì ở trên cao có anh tôi thấy để cứu vớt
tôi. Thế nhưng, tất cả đều đã bay xa cho đến khi chỉ còn là vài chấm
đen trên nền trời ảm đạm.
Lúc này tôi đã ra đến bờ biển Sơn trà, gặp được một chiếc tàu
đánh cá đang đậu cách bờ chừng vài trăm thước. Mừng quá, tôi cởi vội
quần áo và lao nhanh xuống biển. Lúc tay tôi chạm vào mạn tàu cũng
là lúc trên bờ xuất hiện vài người có vũ khí cầm tay, ra hiệu cho
tàu vào bờ. Một số người trên tàu vội vã kéo tôi lên đồng thời tàu
nổ máy chạy thẳng ra khơi.
Nhóm người võ trang nhắm thẳng vào tàu bắn liên tục nhưng chỉ
làm bị thương một người trên tàu, còn lại đều vô sự.
Một tiếng sau, tàu này được tàu Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa cứu
vớt và chuyển lên một chiến hạm của hải quân Hoa Kỳ.
Trên boong tàu, tôi đưa mắt nhìn vào phía đất liền. Mịt mù trùng
khơi. Biển vây kín biển cả. Tiếng sóng vỗ ào ào. Tàu lắc lư chao
đảo. Tôi ngửa mặt lên trời, tự nhủ: Có phải đây là giờ phút vĩnh
biệt của anh em tôi? Đột nhiên bầu trời trở nên u ám, vài hạt mưa đã
rơi nhanh xuống sàn tàu.
Sau này, qua một người quen cho biết: khuya 29/3/1975 anh tôi đã
lên và lái một chiếc phản lực cơ A 37 ra phi đạo nhưng không thể cất
cánh được vì đã bị hư hại. Vì thế anh tôi đã trở thành tù binh tại
trại tù số 3 Kỳ Sơn, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Hơn một năm sau, trong lúc gia đình đang ăn cơm trưa, bỗng nhiên
có một con bướm đen to bằng bàn tay, bay vòng vòng trong phòng và
đậu trên vai từng người rồi cuối cùng đậu ngay chính giữa bàn thờ
gia đình. Năm phút sau, nhận được tin báo là anh tôi đã chết, nằm
trong một bụi cây bên ngoài trại tù chừng 800 mét. Mọi người đều
sửng sốt, bàng hoàng nhưng không dám bật thành tiếng khóc.
Đến khi bình tĩnh lại, nhìn về phía bàn thờ, con bướm đen cũng đã vỗ
cánh bay ra khỏi nhà.
Đêm hôm đó, tôi nằm mơ thấy anh tôi mặc bộ áo bay màu đen với
khăn quàng cổ màu tím, đang lái chiếc xe jeep về nhà nhưng máu đã
đẫm ướt phi bào.
Sáng dậy, nhớ lại giấc mơ đêm qua, tôi cảm thấy một vị đắng,
chua cay tràn ngập cổ họng. Tôi nghe như đâu đây phảng phất tiếng
hát .của một nữ ca sĩ nỗi tiếng một thời:
“Ngày xưa khi anh vừa khóc chào đời
Mẹ yêu noi gương người trước đặt lời
...
Người phi công giữ khung trời
Vẫn còn mang số phận con người”
Bất giác hai dòng nước mắt tuôn trào lúc nào không hay.
Hai mươi năm sau, một mình tôi trở lại vùng rừng thiêng nước
độc, nơi anh tôi đã bị lưu đày, khổ nhục. Trại tù giờ đây chỉ là một
vùng lau lách đầy cỏ dại, rất khó xác định.
Nghĩ mình đã vượt núi, băng rừng, lội suối trong mùa nước lũ,
chẳng lẽ bó tay trở về.
Trời đã nhá nhem tối, tôi thì thầm khấn nguyện anh tôi. Bỗng từ
đâu một con bướm đen to bằng bàn tay bay đến trước mặt tôi, như có ý
dẫn đường. Tôi tiếp tục khấn nguyện. Con bướm đen bay vòng vòng, tôi
chạy theo và bị té sấp vào một bờ đất.
Sau phút hoảng hốt, tôi lồm cồm bò dậy và nhận ra một số nấm mộ
nho nhỏ nằm khuất dưới đám cỏ dại. Tất cả gồm 12 nấm mộ vô chủ.
Người dân địa phương cho biết đó là mộ của tù binh tại trại 3 Kỳ
Sơn. Tôi vội vàng hốt 12 nắm đất bỏ vào 12 bao nilon nhỏ và đánh dấu
theo số thứ tự, rồi đến nhà dân xin ngủ tạm qua đêm.
Sáng hôm sau về lại Tam Kỳ, tìm đến nhà một thầy ngoại cảm. Thầy
cho biết anh tôi nằm ở ngôi mộ số 3.
Tuy nhiên tôi vẫn mong trong tương lai, khi bài viết này của tôi
được nhiều người biết đến, tôi có thể có nhiều tin tức hữu ích và cụ
thể để xác định chính xác mộ phần của anh tôi.
Nguyễn Quang Thành
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Apr/2020 lúc 7:56am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 95 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |