Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: NHÓM 12 YÊU THƯƠNG Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 159 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 19/Feb/2012 lúc 9:03am

NHÓM 12 DU LỊCH PHAN THIẾT








Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 21/Feb/2012 lúc 2:30pm

Tuổi thơ & Con đường đi học
Tác Giả: Lương Thư Trung
Thứ Ba, 21 Tháng 2 Năm 2012 08:00

Nhớ ngày ấy, xa xưa lắm, chị tôi nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng vào dịp tựu trường. Một tay tôi nắm tay chị, còn tay kia cầm ổ bánh mì, mắt tôi cứ nhòe nước mắt...

Cánh đồng ruộng vào tháng ba khô chan chát. Những luống đất cày như những lượn sóng nối tiếp úp mặt vào nhau làm thành những căn nhà cho mấy chú dế mun, dế lửa đầy đồng. Tiếng dế thi đua nhau gáy từ những căn nhà khuất lấp dưới những luống cày như vậy vang vang thánh thót giữa những cánh đồng mùa nắng, đã làm cho bầu trời cao rộng với những ánh sao nhấp nháy trong màng mắt vì nắng gắt bỗng dịu mát lại với lòng đam mê bắt dế của tuổi ấu thơ...

Tôi mê dế từ những ngày chưa biết đi học. Những ngày tháng ấy hồn nhiên lắm! Sáng sớm vừa chợp mắt thức dậy là chạy ra cánh đồng, tay cầm cái hộp bằng thiếc mà mẹ tôi để dành đựng kim chỉ vá may. Lần mò theo tiếng dế gáy, hai tay bé nhỏ của đứa trẻ lật những mảng đất cày ngược lại để tìm những chú dế đang ẩn núp đâu đó. Nào là dế lửa với đôi cánh mỏng màu đỏ rực như than hồng đang cháy, có cặp râu dài. Nào là những chú dế mun màu sắc đen tuyền lấp lánh như những cục than đước, loại than mà tôi còn nhớ mỗi lần nướng bánh bông lan, mẹ tôi thường mua về để dành năm ba ký, nên lúc nào cũng có dưới khuôn bếp. Rồi những chú dế trụi với thân mình trần trụi không có một tí cánh mỏng che thân; đôi lúc tụi nhỏ chúng tôi gọi loại dế này là dế mọi vì nghe người lớn cũng thường gọi như vậy. Nhưng có lẽ mấy chị dế mái là hiền từ. Chúng tôi không nghe dế mái gáy bao giờ và cũng không biết đá như dế trống, nên chúng tôi không bao giờ bắt dế mái làm gì. Những chú dế được bắt bỏ vào cái hộp thiếc là những con dế tuyển, có cái đầu to với đôi hàm bén ngót, có đôi râu dài lóng lánh màu đen như những sợi tóc mai, có đôi cánh mỏng mà mỗi lần dế hăng lên đôi cánh ấy được căng lên như cái loa phát ra những tiếng gáy “reng reng” làm cho đối phương hoảng sợ, có đôi chân sau vừa nhỏ, vừa bén chắc, vừa nhanh nhẹn... Khi mang dế về nhà, tôi len lén đi vào trong bếp rồi tìm mấy cái lon sữa bò mẹ tôi thường để trong chiếc giỏ đệm treo tòn ten nơi chái bếp. Căn nhà mới của mỗi chú dế là cái lon sữa bò cũ đó. Tôi cẩn thận cho vào một vài cục đất nhỏ, mấy ngọn cỏ chỉ non cho dế ăn và đậy nắp lại bằng miếng giấy dày có khoét vài lỗ nhỏ cho không khí lọt vào để dế thở. Những lon dế giấu kín dưới nhà bếp, trong kẹt tủ mà rồi cũng gáy vang vang đầy nhà. Và tôi lại mê dế cho tới những ngày đi học sau này ở trường làng.

Đá dế

Nhớ ngày ấy, xa xưa lắm, chị tôi nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng vào dịp tựu trường. Một tay tôi nắm tay chị, còn tay kia cầm ổ bánh mì, mắt tôi cứ nhòe nước mắt. Lần ấy tôi cứ dằng tay chị tôi lại, không chịu vào lớp. Dường như đứa bé nhà quê nào ngày đầu ôm tập đến trường cũng có cùng trạng huống như tôi. Vừa lạ, vừa sợ, vừa nhút nhát là đặc tính của những đứa bé nhà quê lần đầu đi học đến dễ thương nhưng đôi lúc cũng làm cho người lớn nổi giận vì cứ khóc thút thít hoài dỗ không chịu nín. Thế rồi tôi cũng phải vào lớp học với lời dỗ dịu ngọt của chị tôi nhưng đôi mắt trẻ thơ đầy nước mắt cứ đăm đăm nhìn ra ngoài sân trường nơi chị tôi đang chờ tôi ngoài cổng. Như vậy là tôi bắt đầu đi học từ ấy, năm tôi lên bảy tuổi. Vị thầy giáo dạy cho tôi những mẫu tự A, B, C... đầu tiên là thầy Cầm. Ngày trước ở nhà quê, trong xóm ngoài làng người ta xưng tụng với thầy giáo bằng tên thật kèm với hai chữ “thầy giáo” hoặc chữ “thầy” gọn lỏn nhưng đầy vẻ kính trọng mặc dù không gọi thầy với cả tên lẫn họ. Ví như, thầy giáo Ngân, thầy Chánh, thầy Nhì, thầy Trang, thầy Cầm một cách thân tình mà quí trọng. Dù gặp các thầy bất cứ ở đâu, bất cứ trong trường hợp nào cả phụ huynh cùng học trò đều lễ phép cúi đầu chào thầy một cách kính cẩn, trọng nể.

Tôi còn nhớ ngôi trường làng bé nhỏ của tôi gồm ba lớp học nằm lẩn khuất dưới bóng cây dầu cao lêu nghêu. Những cây xoan tây bông trắng tỏa hương thơm, những hàng phượng vĩ xanh quanh năm phía trước sân trường, mùa hè nào cũng nở những chùm hoa đỏ rực làm cho sân trường luôn luôn mát rượi. Mái trường bằng lá tàu, một loại lá dừa nước được xé ra làm đôi bắt đầu từ ngọn lá. Vách trường vừng cao ngang ngực, cũng bằng loại lá dừa nước nhưng những phiến lá mỏng được chằm lại với những sợi lạt cờ bắp bằng ngọn dừa nước. Phía trên là mặt khại với những miếng tre đóng thành những hình thoi được sơn màu đỏ sậm.

Ngôi trường của tôi nằm trên nền cao của ngôi chùa Miên bỏ hoang lâu đời. Phía bên kia con rạch Vàm Nha là ngôi chùa Kỳ Viên với vị sư trụ trì già đức độ mà dân trong làng quen gọi với vẻ tôn kính “Thầy Kỳ Viên”. Mỗi sáng, mỗi trưa vào giờ ngọ, mỗi chiều vào giờ công phu, tiếng chuông chùa ngân nga len lỏi qua từng kẽ lá vẳng đưa đến lớp học như những âm thanh quen thuộc mỗi ngày chạy tràn vào lớp học trường làng.

Tuổi thơ của tôi thật hồn nhiên với những ngày mới đi học. Sáng nào, mẹ tôi cũng nấu sẵn nồi cháo trắng với vài khứa cá lóc kho khô để cho tôi ăn lót lòng trước khi đến trường. Mẹ tôi căn dặn con ráng học vì thầy giáo Ngân khó lắm và cũng đánh học trò bằng roi mây lớn bằng ngón tay. Thật ra, đó chỉ là lời căn dặn thường lệ của mẹ; nhưng tận trong lòng là mẹ tôi cưng con, muốn cho con mình là đứa con ngoan ngoãn và siêng học. Mỗi ngày tôi thường đi học theo con đường làng sầm uất rợp bóng những cây xoài, cây vú sữa với một bên là bờ sông, một bên là những căn nhà sàn cao khỏi đầu như một nét riêng biệt về nhà ở của vùng quê ngoại tôi hầu tránh những tháng nước ngập lụt vào mùa mưa. Bận đi, tôi phải đi bộ qua cầu nhà lầu. Nơi đây là ngôi nhà lầu cao của một người Tàu mà cũng là địa chủ vùng Bình Hoà này. Lúc bấy giờ chỉ còn lại nền gạch vụn hoang phế với những cây thù lù, dây nhãn lồng, dây bìm bìm, hắc sửu mọc đầy cùng bờ tường phía trước mặt cao lêu nghêu với nhiều viên đá hoa cẩn đầy, những bậc tam cấp, cửa ngõ với hai trụ hai bên để hai ngọn đèn Hoa Kỳ như di tích một thời hưng thịnh của một ông chủ ruộng vùng đồng bằng.

Vào tháng nước đổ, dưới dạ cầu là dòng nước chảy xiết đầy những con cá lòng tong mương, những con cá ngựa với chiếc kỳ đỏ au lội ngược nước rượt đuổi mấy chú cá lòng tong bay làm cho dòng nước văng tung tóe như những nụ cười đùa giỡn của loài cá đầy những chiếc xương nạng này; một loại xương mà mỗi lần mẹ tôi mua loại cá này về nấu canh chua thường nhắc nhở chị em tôi ăn coi chừng mắc xương. Nhớ có lần ông nội tôi bị mắc loại xương cá ngựa mà không cách gì lấy xương ra được. Chạy thầy đối đế nhưng cái xương nạng dài thượt vẫn còn nằm trong cổ họng mấy ngày. Sau cùng ông tôi bảo ra tiệm thuốc bắc mua vảy con trúc, về đốt thành than rồi tán nhuyễn và dùng ống trúc vạt mỏ vịt, để tro của vảy con trúc vào ống mà thổi vào miệng. Vậy mà ông tôi sặc ra được cái xương nạng con cá ngựa dài có tới hơn ba phân mắc ngay thực quản mấy ngày trời.

Qua khỏi cầu nhà lầu, tôi theo mấy đứa bé trong xóm lũ lượt đi trên con đường làng dài hơn hai cây số như vậy đi ngang ngôi chùa Tân An Tự với cột phướn cao trước sân chùa treo lủng lẳng lá phướn màu đỏ dài chấm đất vào những ngày rằm lớn. Bến chùa là chiếc cầu mát lợp bằng ngói âm dương de ra dòng sông bên gốc bồ đề cổ thụ um tùm những tán lá xanh quanh năm. Nhớ có lần đi học còn sớm, chúng tôi rủ nhau ghé lại chùa xem con qui nằm nơi hậu liêu, xem ông Phật Mười Tám Tay, ông Tiêu le lưỡi dài. Chúng tôi ra phía hông chùa lượm những bông mận, bông lê thơm một mùi thơm thật ngạt ngào làm trái vụ bỏ đầy cặp. Hồ sen phía sau chùa nở những cánh hoa trắng với nhụy hoa vàng vượt lên trên nền lá xanh tròn che khuất mặt nước. Rải rác mấy gương sen non đầy hạt hướng mặt lên nền trời cao như những đóa hoa quỳ hướng mặt về vầng thái dương. Năm ba ngọn tháp hình lục giác cao nhiều tầng là những ngôi bảo tháp mà bên trong là xác thân trần phàm của các sư cụ trụ trì chùa này đã viên tịch. Điều đó cho thấy ngôi Tân An Tự này là ngôi cổ tự, đã có từ lâu lắm rồi với phong cảnh xung quanh thật là u tịch, trang nghiêm.

Con đường đến trường học của tôi còn phải đi qua cái cua Vàm Nha với căn nhà của “ông Kiên khùng”, bao bọc chung quanh bởi những cây xoan tây mọc không theo hàng lối nào giống như những loại cây hoang dại.

Sở dĩ trong xóm gọi ông với cái tên không thanh bai và ít kính trọng như vậy vì ông bị bệnh tâm thần khá nặng. Ông Kiên lại sống một mình trong căn nhà lá lụp xụp với một con chó phèn sủa nồ nồ mỗi khi có ai đi ngang. Cứ mỗi lần đi ngang qua cua quẹo này, mấy đứa học trò nhỏ chúng tôi nhắm mắt chạy thí mạng nhiều lúc muốn hụt hơi, mặt tái xanh không còn chút máu vì sợ ông Kiên mà cũng sợ con chó phèn của ông nữa. Tiếng đập thình thịch của trái tim trẻ thơ cứ kéo dài đến khi vào lớp học. Lần nào cũng như lần nào, tôi không bao giờ dám đi ngang ngôi nhà ủm sụp này một mình, mà phải chờ các bạn khác cùng đi, vậy mà đứa nào cũng sẵn sàng co giò chạy như trối chết... Sau này “ông Kiên khùng” chết khô trong căn nhà dột nát ấy càng làm mấy đứa học trò nhỏ chúng tôi càng sợ ông Kiên về hiện hình, le lưỡi đứng núp ngay ngã ba đường, nên càng âu lo thêm gấp bội phần.

Từ cua quẹo Vàm Nha này, một con đường đất nhỏ cặp bờ sông dẫn về chợ Cần Đăng, đi ngang một sóc Miên với những căn nhà sàn cao lêu nghêu mang đầy dáng vẻ đặc biệt của người Miên vùng Tri Tôn (Xà Tón). Còn một con đường rải đá xanh lấy từ vùng Núi Sập nằm giữa thửa ruộng gò đầy cỏ chỉ là con đường dẫn về ngôi trường Sơ Đẳng Tiểu Học Vàm Nha, nơi mà lần đầu tiên tôi bắt đầu những bài học vỡ lòng, mở cái dốt, cái ngu của tuổi ấu thơ.

Đường đến trường

Con đường đi học của tôi không phải luôn luôn theo con đường khô ráo như vậy. Vào tháng nước ngập, con sông chảy ngang qua làng dâng lên cao, nhiều lúc tràn qua con đường đất cuồn cuộn như thác. Dòng nước trong leo lẻo đến đỗi chúng tôi nhìn rõ nhiều bầy cá lòng tong, cá linh rượt nhau rần rần trong nước. Thường thường những chỗ bị nước dâng ngập như vậy bà con hay lấy chà tre, nhánh me nước rào lại vì sợ người qua lại làm đất bị trôi lở. Tuổi thơ của tôi phải đi qua những con đường ngập lụt như vậy để đến trường, nhiều lần bị té quỵ dưới nước, quần áo, cặp vở bị ướt mem như chuột lột. Khi nước dâng ngập lên không còn đi bộ được, chúng tôi cùng nhau đi học bằng xuồng. Có khi chị tôi đưa hoặc quá giang những đứa bạn cùng xóm có xuồng từ nhà đi xuyên qua cánh đồng ngập lụt. Trên cánh đồng nước tháng Tám, tháng Chín những thân lúa mùa nặng mình xiên xiên theo chiều gió nằm rạp mình khi lườn xuồng lướt qua tạo ra tiếng cọ sát rào rào, một loại âm thanh quen thuộc thân thương của những ngày thơ ấu chốn thôn quê. Ngồi trên xuồng nhưng tay tôi lúc nào cũng rà rà trên mặt nước vớt vài cọng rong, ngắt một bông súng ma vừa trờ tới be xuồng hoặc một ổ nhện trên lá lúa nào đó gần be xuồng mà trong lòng đầy thích thú. Chị tôi rất cưng em, nên tôi chưa lần nào bị chị tôi rầy la bao giờ.

Vào mùa khô, dạo tháng Hai, tháng Ba, chúng tôi không đi qua con đường làng để đi học, mà lại lội băng qua cánh đồng lúa mùa vừa gặt xong vào tháng Chạp, tháng Giêng. Con đường mòn như con trăn ngoằn ngoèo từ vườn tre của ông ngoại tôi dẫn về con lộ đá mà những cộ lúa bông, những xe lúa hột do những đôi trâu, đôi bò đã ì ạch kéo kẽo kẹt qua cánh đồng này không biết bao nhiêu lần đã để lại. Mỗi lần có cơn gió thổi thốc qua hay những con “trốt” xoáy tròn cuốn tung bụi mù nhiều lúc làm tấm thân bé nhỏ của tôi cùng chiếc cặp đệm bàng muốn bay theo gió. Buổi chiều vào những ngày nắng ráo này, chúng tôi theo con đường liên tỉnh nối ngã ba Lộ Tẻ Mặc Cần Dưng với Tri Tôn để đi tắt về nhà. Con đường vắng ngắt, lâu lơ lâu lắc mới có một chiếc xe đò chở hành khách từ Long Xuyên về mệt mỏi chạy ngang qua. Hai bên lề đường là những cây thù lù, dây lăng trung, dây nhãn lồng, những bụi mắc cỡ đầy gai nhọn. Tôi còn nhớ những buổi chiều đi học về như vậy, chúng tôi ăn đầy bụng những trái thù lù chín đỏ, những trái nhãn lồng chua chua ngọt ngọt, những trái lăng trung ruột trắng mà giòn giòn mát miệng. Những chiếc lá mắc cỡ đang xòe ra, khi chúng tôi vô tình hoặc cố ý đụng nhẹ vào, những chiếc lá nhỏ của loài hoa dại e ấp xếp lại thật dịu dàng. Con đường lộ đá này còn đi ngang qua hàng thốt nốt khoảng mười gốc, cao vòi vọi với thân hình kịch cợm, sần sùi, tròn tròn bằng thân những cây dừa lão của ông ngoại tôi trồng cặp bờ mương. Ngọn gió buổi chiều giữa cánh đồng trống lướt qua tán lá thốt nốt cứng lúc nào cũng rào rào... Ở đó, chúng tôi lúc nào cũng nhận ra mấy chị cưỡng, chị nhòng lông đen lợt xen những chiếc lông cánh màu trắng, mỏ vàng tha những cọng rơm hoặc cỏ khô về lót ổ trên cao. Đôi lúc chúng tôi cũng bắt gặp vài cặp cu cườm tranh mái đá nhau phành phạch từ ngọn một cây thốt nốt khác. Còn mấy chị dơi ngủ ngày nữa chứ! Không đếm xuể, đen đặc, chúng đang đeo những móng chân cứng ngắc vào những tàu lá thốt nốt lao xao như chiếc chõng tre nhà quê kêu kẽo kẹt... Ở dưới quê, nông dân biết dơi thích ngủ trên những tàu lá thốt nốt, nên người ta chỉ dùng loại lá này làm chuồng để dụ dơi về ngủ lấy phân dơi bán cho những người làm rẫy, mà nhất là rẫy dưa hấu. Dưa hấu vào mùa Tết mà bón phân dơi, ruột dưa chín đỏ au, ngọt ơi là ngọt! Những buồng thốt nốt trái tròn tròn, nhỏ hơn trái dừa, để lộ lớp vỏ ửng màu huyết dụ ngà ngà đen bóng lưỡng mà tôi nhớ một lần tôi bị té sông chết chìm được vớt lên và cứu sống, chị tôi cho tôi ăn lần đầu tiên loại trái thốt nốt này. Cơm thốt nốt màu trắng không mấy ngon nhưng có hương thơm vô cùng hấp dẫn như loại trái thị lạt nhễu mà để gần mũi có mùi thơm đáo để, phát ghiền. Nhớ lần ấy, tôi bị chết chìm vào năm tôi chưa đi học. Cũng tháng Năm nước sông đục ngầu là mùa cá chốt đặc sông. Tôi thích cầm cần câu đi gần mé sông móc mồi dế câu cá suốt ngày. Lưỡi câu vướng một nhánh chà và tôi vói tay gỡ lưỡi câu, rồi trượt chân lăn tuốt xuống sông. Và cứ thế mà uống đầy một bụng nước, chết lúc nào không biết. Đến khi được cứu sống, tỉnh lại tôi còn sợ mất hồn, mất vía nhiều ngày sau. Tôi nhớ mẹ tôi thương con, ôm tôi vào lòng vừa mừng, vừa chảy nước mắt mà không trách mắng con một lời nào vì nhiều lần mẹ đã căn dặn mà tôi lại ham câu, nên mới ra nông nỗi. Từ lần đó tôi sợ xuống gần bờ sông, bờ rạch một mình cho tới lúc tôi đi học. Người cứu sống tôi, về sau khi lớn tôi biết được là một cô gái có cái tên giống con trai, cô Phán. Cô là con của một ông xã trưởng cùng làng. Về sau này, cô được cha mẹ gả chồng về xã Mỹ Hội Đông quận Chợ Mới, An Giang. Nhưng hồng nhan bạc mệnh, cô bị cảm gió nặng và mất vào năm tôi còn cải tạo trong rừng tràm. Mấy dòng này như một lời cảm ơn cô Phán dù muộn màng của một người chết hụt hồi còn bé nhỏ năm xưa.

Tuổi thơ & Con đường đi học-->
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23805
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Feb/2012 lúc 4:32pm
Tác Giả: DƯ THỊ DIỄM BUỒN   
Thứ Bảy, 25 Tháng 2 Năm 2012 12:11

“… Vì người đó, cùng tôi đã hẹn thề!
Thuở chung lớp, chung trường nhiều lưu luyến

 

Thương cảm viết cho một người

Trên khuôn mặt người hộ sinh tu nữ
Còn lấm tấm động những giọt mồ hôi
Vừa đỡ xong đứa bé mới chào đời
Mắt u buồn, nhìn trời đêm vời vợi…


Bỗng bất chợt, thấy người ngồi chờ đợi
Tâm tư giao động! Dĩ vãng quay về…
“… Vì người đó, cùng tôi đã hẹn thề!
Thuở chung lớp, chung trường nhiều lưu luyến


Hết phần hai, chàng chọn nghề lính chiến
Tôi vào trường học làm nữ cứu thương
Người bôn ba đuổi giặc ở chiến trường…
Tôi cứu giúp bịnh nhận nơi hậu tuyến


Thời gian đó, ôi muôn vàn luyến mến
Phép thường niên, ngày hò hẹn mến thương
Hai chúng tôi đã làm đẹp phố phường
Màu áo trắng quyện trong màu áo trận


Sau miền Nam rơi vào tay giặc Cộng
Chàng bị tập trung cải tạo tù đày
Tôi đưa chàng sớm cao chạy xa bay
Liều chết vượt biên tìm đường tươi sáng


Tính ngày đi, tròn hai năm sáu tháng
Tin đưa về, chàng đã bước sang đò!
Không nhớ ai đang khắc khoải đợi chờ!
Tình nghĩa xưa phai nhòa theo gió lốc…”


Người tu nữ giựt mình nghe tiếng khóc!
Của hài nhi vừa đỡ, ẵm trên tay
“Dạ thưa ông, cháu bé của ông đây
Bà vẫn khỏe, chờ chuyển sang phòng khác…


Cảm ơn cô, lạy tạ ơn Bồ Tát…
Hộ độ cho nàng, cho con chúng tôi…”
Người tu nữ không ngăn được lệ rơi!
Vội vàng quay mặt, nhìn qua cửa sổ…


Lâm râm nguyện: “Xin Ơn Trên, Phật Tổ
Cứu rỗi hồn con khỏi nỗi đọa đày!”
Đêm đông lạnh, gió rít tuyết bay bay
Thế nhân ơi, đời chỉ là cõi tạm!


Bao nhiêu năm, duyên trần đà xa lánh
Kẻ tu hành không màng chuyện thế gian
Nhưng đêm nay phút chốc bỗng bàng hoàng!
Mới chợt biết kiếp trần ai khó tránh…

DƯ THỊ DIỄM BUỒN



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 27/Feb/2012 lúc 4:36pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 01/Mar/2012 lúc 10:04pm
Hoàng Hôn Quê Ngoại
Trần Quang Lộc


Hơn mười lăm năm, tôi chưa có dịp về thăm quê ngoại. Nhiều lý do lắm nhưng có hai nguyên nhân chính: Thứ nhất, sau khi tốt nghiệp đại học, tôi bị cuốn vào vòng xoáy sâu hun hút của việc kiếm tiền lắm gian truân nhưng cũng đầy hấp dẫn. Lý do thứ hai, quê ngoại tôi không còn ai họ hàng thân thích: Ngoại đã mất gần mười sáu năm, các cậu đang sinh sống tận nước ngoài, mẹ con tôi dắt nhau lên thành phố thừa hưởng gia tài ba tôi để lại ngay sau khi ngoại mất. Riêng ngôi nhà mái năm gian với vườn cây ăn quả của ông bà để lại, mẹ đã nhờ bác Mão, một người quen cũ đến ở và chăm nom hộ. Vì vậy, cái làng quê nằm dọc theo dòng sông cái của một huyện miền trung du, nơi tôi đã trải qua thời trong sáng hồn nhiên như cây cỏ cứ xa dần theo năm tháng, nhạt nhòa trong ký ức của tôi.
Rồi hôm nay, tôi quay về quê ngoại vì một lý do hết sức đơn giản: Bán nhà!
Tôi đến ga rất sớm để mua vé tàu về nơi mà cách đây mười lăm năm mình đã ra đi. Trên đường ra ga, một vài người bạn gặp tôi chào hỏi. Câu trả lời "về quê" của tôi làm cho họ hết sức ngạc nhiên. Cũng phải thôi! Mười lăm năm ở phố, chưa bao giờ tôi nghĩ mình cũng có một miền quê êm ả, đầy ắp kỷ niệm của tuổi thợ Vài năm đổ lại đây, dân thành phố có xu hướng đưa vợ con về quê: Về quê ăn tết, về quê dự ngày giỗ chạp, về quê nghỉ hè... Ai cũng rất tự hào về quê hương của mình và xem đó là nơi trú ngụ bình yên vững chãi sau những năm tháng bon chen, tranh lấn đến rệu rã, mỏi mòn giữa chốn phố phường bụi bặm. Còn tôi, suốt mười lăm năm lo miệt mài đèn sách rồi lao vào thương trường, đầu óc đặc sệt ý tưởng làm giàu.
Những năm đầu của nền kinh tế mở, tôi hăng hái lao vào việc sản xuất kinh doanh bằng sức trẻ dám nghĩ, dám làm của mình, bằng kiến thức tích lũy được trong bốn năm trên giảng đường đại học kinh tế và nhất là dựa vào vốn liếng ba tôi để lại.
Việc đầu tiên, tôi thay mẹ điều hành công ty sản xuất hàng mỹ phẩm lớn nhất thành phố, đồng thời lo nâng cấp ngôi nhà mặt tiền thành khách sạn mini cho người nước ngoài thuệ Việc kinh doanh buôn bán rất phát đạt. Sản phẩm làm ra không những được khách hàng trong nước tin dùng mà còn xuất hiện trên các thị trường nước ngoài xa xôi. Vì vậy, công ty không ngừng cải tiến thiết bị công nghệ, tăng thêm lực lượng chuyên viên kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm. Hệ thống Maketing hoạt động rộng khắp. Nhiều chuyên gia kinh tế trong nước xem tôi như một nhà doanh nghiệp trẻ đầy triển vọng. Phương tiện thông tin đại chúng không ngừng nâng tên tuổi của tôi lên ngang tầm với những nhà làm kinh tế trẻ, tài năng trong nước.

Nhưng tôi chưa thỏa mãn những gì đã đạt được bằng năng lực, bằng sự nhạy cảm của chính mình. Đầu óc tôi lúc nào cũng quay cuồng với việc xoay nhanh đồng vốn, phát triển sản xuất, mở rộng thị trường, đầu tư dịch vu... Tôi không ngần ngại vay những khoản tiền lớn trong các ngân hàng nhằm biến những ước mơ của tôi trở thành hiện thực. Mẹ thường khuyên tôi lấy vợ để có người giúp tôi trong công việc làm ăn. Tôi một mực từ chối, viện lý do chưa thành đạt.
Rồi những năm gần đây, chính sách phát triển kinh tế có phần thông thoáng hơn, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân mạnh dạn xuất vốn đầu tư, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, nhiều tay giàu sụ khi nay im hơi lặng tiếng bỗng nhảy ra khuấy động thương trường. Các tập đoàn kinh tế nước ngoài sẵn sàng đưa vào những khoản tiền khổng lồ để liên doanh liên kết phát triển sản xuất, đầu tư dịch vu...
Thế là thương trường thành chiến trường sôi động. Ai có nhiều lợi thế hơn sẽ phất lên như diều gặp gió và trở thành những ông chủ lớn, không ít chủ doanh nghiệp bị phá sản, sập tiệm, có người phải vào tù ngồi bóc lịch chỉ vì thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm cạnh tranh, và nhất là vì thiếu cái "tâm" trong sáng kinh doanh. Tôi thuộc thành phần thứ hai nhưng chưa đến nỗi phải bị truy tố trước tòa.
Công ty sản xuất hàng mỹ phẩm vang bóng một thời dần dần suy sụp. Chỉ trong vòng một năm, nó đã teo lại thành quầy bán kem thoa mặt, dầu gội đầu trị gàu, xà phòng tắm, thậm chí còn chen thêm dăm bao thuốc lẻ, vài lon sữa hộp, mấy gói mì ăn liền mới mong tồn tại! Khách sạn mini mang bảng hiệu "Anh Thơ" cũng bị chi phối bởi quy luật đào thải và trở thành chuồng chim câu tồn tại giữa vô số nhà hàng khách sạn nhiều sao ngang tầm quốc tế.

Mẹ rất buồn vì việc làm ăn của tôi bị thất bại. Tôi lo bán tất cả những gì có thể bán được để trang trải nợ nần và quyết tâm nuôi mộng khôi phục lại những gì đã mất. Tất nhiên, tôi không quên nhờ người về quê nhắn bác Mão rao bán hộ vườn nhà của ngoại. Nhắn đi nhắn lại nhiều lần nhưng bác Mão vẫn bặt vô âm tín! Bực quá, tôi xoay sang trách mẹ đã rất sai lầm khi giao quyền sử dụng tạm thời căn nhà của ngoại cho người dưng. Rồi đây thế nào cũng xảy ra tranh chấp hết sức phức tạp. Lòng người dễ thay đổi, biết đâu mà lường? Mẹ bảo tôi có tính đa nghi như Tào Tháo, hiểu nhầm người ngaỵ Bẵng đi một thời gian, bác Mão nhắn mẹ tôi về gấp để thu xếp việc bán nhà. Mẹ ủy thác việc này cho tôi.
Khoảng xế chiều, tàu dừng lại trên một ga xép. Tôi hối hả rời sân ga đi ngược theo hướng cũ để tìm đường về quê ngoại. Cứ đi loanh quanh mãi mà chưa tìm ra lối nhỏ ngày xưa. Nhờ một người đi đường chỉ dẫn, tôi mới hiểu ra. Chao ôi! Con đường nhỏ hẹp thuở nào dày lỗ chân trâu, hai bên mọc đầy cỏ dại, mùa nước lũ, nhiều đoạn phải xắn quần lội bì bõm, giờ đây trở thành tuyến đường liên huyện! Điều làm tôi ngạc nhiên hơn khi trông thấy mạng lưới tải điện chạy dọc ngang trên các cánh đồng xanh mướt, đưa ánh sáng văn minh đến vùng quê có một thời được coi là xứ khỉ ho cò gáy. Một làn điệu dân ca phát ra từ chiếc loa phóng thanh có công suất lớn đặt ở đâu đó càng làm tăng thêm sự bình yên êm ả của buổi chiều quê.
Rời tuyến đường liên huyện, băng qua khu chợ làng rồi rẽ sang một lối nhỏ, dòng sông quê lộng bóng mây trời và khu đồi sim rực nắng của thời tuổi thơ bỗng hiện ra trước mắt. Gió từ lòng sông thổi về lồng lộng tạo nên những đợt sóng lúa đang thì con gái chạy đuổi nhau đến tận chân trời. Tôi khẽ kêu lên trong niềm cảm xúc: Quê ngoại!
Mười lăm năm biết bao thay đổi. Quê ngoại giờ đây như lạ như quen. Lòng tôi rộn lên niềm vui lẫn chút bùi ngùi.
Tôi đứng lặng người trước cổng ngõ nhà ngoại trong chốc lát rồi khẽ khàng đẩy cửa bước vào, con chó nhỏ từ đâu nhảy xổ ra sủa ầm ĩ.
- Mốc!
Nghe tiếng chủ gọi, con mốc vội cụp đuôi chui vào nằm bẹp xuống một góc sân, mắt vẫn lườm lườm về phía tôi, gầm gừ đe dọa. Một ông già râu tóc bạc phơ, mặc bộ bà ba trắng đã ngả màu từ trong nhà bước ra, hấp háy đôi mắt nhìn tôi:
- Chú em tìm ai?
- Con đây! Thằng Khương cháu ngoại bà xã Nga đây mà.
Ông già bỗng cuống lên:
- Chao trời! Cháu Khương. Cháu lớn ngần này rồi ư?
- Mười lăm năm rồi còn gì! Tóc bác cũng đã bạc trắng - Giọng tôi xúc động.
Bác Mão hồ hởi lôi tôi vào nhà, vừa súc bình pha trà bác vừa hỏi:
- Thím ba có về không cháu?
- Mẹ cháu rất bận việc hàng họ nên không về được.

Giọng ông già chùng xuống:
- Lớp trẻ bây giờ tệ thật, mãi ham làm ăn mà quên quê hương xứ sở. Hồi các cụ còn sống, căn nhà này luôn nhộn nhịp cháu con dâu rể, nổi tiếng danh gia vọng tộc. Vậy mà giờ đây...
Ông Mão nghẹn lời, lòng tôi cũng se lại.
Một lúc sau, ông già mang ly nước đưa tận tay tôi, giọng trở lại sôi nổi:
- Uống nước đi cháu rồi ra bến sông tắm cho thoải mái. Đường sá xa xôi chắc vất vả lắm. Bác ra đây có chút việc rồi về ngay.
Ông Mão hấp tấp ra đi. Tôi thở dài tự nhủ, tính bác vẫn nhân hậu sôi nổi như thuở nào. Tôi đảo mắt qua mấy gian nhà một lượt: vẫn sạch sẽ, ngăn nắp. Trên bệ thờ, hai bài vị của ông bà tôi còn đó, cái lư sành đầy những chân hương mới. Điều đó chứng tỏ bác Mão vẫn thường xuyên hương khói cho ông bà tôi.
Ra vườn ổi, mùi ổi chín thơm lừng làm tôi sực nhớ đến Mười, người con duy nhất của bác Mão cũng là cô bạn gái bé bỏng của tôi thời thơ ấu. "Bây giờ chắc cô Mười xinh đẹp lắm và có thể đã lấy chồng quanh đây". Tôi thầm nghĩ như vậy. Mãi tưởng tượng ra một cô Mười xinh đẹp hồn nhiên nên không hay biết đã đến bến sông. Một giọng trong trẻo có vẻ hoảng hốt từ dưới bến vọng lên:
- Kìa! Ông...
Tôi giật mình nhìn ra. Một cô gái đang ngâm mình trong dòng nước biếc, mặt hướng về phía tôi, nửa như trách cứ, nửa e lệ thẹn thùng. Tôi vội nói lời xin lỗi rồi lẩn vào một góc xạ Ngay sau đó, cô gái áo quần ướt sũng hấp tấp chạy ngang qua rồi mất hút sau giậu thủy trúc.
Tắm rửa và tìm chỗ thay quần áo xong, lòng tôi rất thanh thản nhẹ nhàng như vừa được tẩy sạch tất cả những tính toán thiệt hơn, những buồn phiền trăn trở trên bước đường danh lợi mà mình đã trải quạ Bỗng có tiếng bác Mão oang oang:
- Mười ơi! Làm con cá lóc nầy nấu tộ canh chua thiệt ngon. Thằng Khương thích món nầy lắm.

Cô gái cất giọng ngạc nhiên:
- Khương nào ba?
- Khương con dì ba Hương mầy chứ Khương nào.
- Ảnh về hồi nào? Giọng Mười đầy phấn khích.
Tôi hối hả bước lên phía trước, thay lời bác Mão:
- Mười, anh mới về.
Mười giương đôi mắt đen tròn nhìn tôi ngỡ ngàng. .. Trong thoáng chốc, mắt nàng cụp xuống, hất lọn tóc còn sũng ướt ra phía sau, giọng sâu lắng:
- Vậy mà em cứ tưởng anh sẽ không bao giờ về lại cái làng này nữa.
- Thì anh đã về đây - Giọng tôi xúc động.
Nhìn Mười không chớp và cứ ngỡ trong mơ.
Trời ơi! Cô Mười đang đứng trước mặt tôi xinh đẹp bội phần so với cô Mười mà tôi đã cố tưởng tượng ra. Không ngờ cô bé mũm mĩm ngày xưa đi đâu cũng bám lấy chéo áo tôi bây giờ là bông hoa hương sắc của đồng nội!
Năm lên ba tuổi, Mười mồ côi mẹ. Ông Mão phải mang theo cô con gái kháu khỉnh mỗi khi đến làm công cho ngoại tôi. Thấy bác Mão nghèo lại hiền lành chất phác nên ngoại cắt rẻo đất cuối vườn giúp bác dựng nhà để cha con có chỗ an cự Tôi thường ra nhà bác chơi và làm bạn với bé Mười thông minh xinh xắn. Lúc rỗi việc, bác Mão thường kể cho chúng tôi nghe chuyện cổ tích. Mười rất thích nghe chuyện Tấm Cám đến nỗi ăn sâu vào tâm hồn trẻ thơ của em. Ra đường, thấy ai xinh đẹp, bảo đó là cô Tấm, gặp ai dữ tợn, lại hoảng hốt chạy đến túm áo tôi, kêu "Cô Cám! Cô Cám!". Tôi cố gắng giải thích để Mười hiểu rằng, Tấm Cám chỉ là hai nhân vật trong chuyện cổ tích mà thôi. Nhưng Mười vẫn không nghe.

Những buổi trưa, chúng tôi thường ra sau vườn hái quả ổi chín, chùm khế ngọt, chơi trò buôn bán, hoặc lang thang ngoài bãi sông tìm những vỏ ốc kim bé xíu đem về xâu chuỗi. Thích nhất là những buổi chiều đưa Mười dạo chơi trên khu đồi sim vừa xem phong cảnh vừa nhấm nháp những quả sim ngọt lịm. Thường trước lúc ra về, chúng tôi chia nhau đi hái nhiều sim chín. Gặp quả nào, tôi hái cho vào mồm quả ấy. Riêng Mười thì chắt chiu, dành dụm. Lúc ra về, Mười hỏi sim đâu, tôi chỉ vào bụng cười láu lỉnh. Mười bảo tôi tham ăn rồi cũng chia phần cho tôi. Nhiều hôm, vì quá tham chơi nên về muộn. Sợ ngoại rầy, tôi phải đưa lưng cõng Mười chạy một mạch về nhà.
Một hôm, tôi đang mải mê bơi lội trên dòng nước mát, Mười đang rong chơi trên bãi cát cạnh đấy. Bỗng một chiếc "cào cào" bay ngang qua, Mười khiếp đảm chạy đến ôm chặt lấy tôi, mặt xám ngoét, tay cứ chỉ lên trời, lắp bắp:
- Con chim! Con chim to!
Tôi cười muốn vỡ bụng và cố giải thích cho Mười biết, đó là chiếc máy bay chứ không phải chim cu gì. Vậy mà mãi đến năm sáu hôm sau, Mười mới dám ra lại bãi sông.
Đến tuổi đi học, Mười cứ nắm chặt lấy chéo áo tôi lẽo đẽo theo sau. Đôi lúc bực mình khiến tôi hét tướng. Mười ôm mặt khóc nức nở, dỗ mấy cũng không nín. Cả ngày hỏi gì cũng không nói.
Rồi năm tháng thấm thoát trôi qua, thời thơ ấu hồn nhiên lùi xa vào dĩ vãng. Năm tôi học lớp đệ lục cũng là năm tôi theo mẹ lên thành phố, để lại sau lưng nhiều kỷ niệm vui buồn. Ngày ra đi, tôi tìm Mười khắp nơi. Cuối cùng, bắt gặp Mười đang ngồi ôm mặt khóc rấm rứt trong một góc vườn. Vừa thoáng thấy bóng tôi, Mười vội vàng lảng tránh.
- Mười ơi! Chuối nấu canh chua nhớ thái theo chiều dọc, cho thêm nhiều rau răm vào - Giọng ông Mão từ nhà trên vọng xuống.
Tôi nói nhỏ với Mười:
- Để anh ra vườn hái chuối với khế chọ Hồi xưa, anh thường hái cho em mà.

Mười nói giọng mát mẻ:
- Hồi xưa khác. Bây giờ anh là ông chủ, là dân thành phố. Rủi có bề gì lại đổ thừa em. Khổ lắm!
Lại giọng ông Mão vọng xuống:
- Khương ơi! Lên đây bác bàn với cháu một việc.
Chân bước đi mà lòng luyến tiếc. Chưa kịp ngồi xuống ghế, ông Mão đẩy tách trà bốc khói về phía tôi:
- Cháu uống nước đi. Chè xanh mới hái ngoài vườn đấy.
Tôi nâng tách trà lên hớp một ngụm, thấy ngon ngót ở cổ họng. Đúng là thứ lá chè mà ngày xưa tôi và Mười thường ra vườn hái về nấu nước cho ngoại uống. Ông Mão bắt đầu hỏi thăm việc làm ăn của mẹ con tôi, về tình hình các cậu ở nước ngoài. Rồi bác tâm sự:
- Bác đang hợp đồng bảo vệ cho một trường tiểu học. Đồng lương công nhân với lương giáo viên của con Mười cũng đủ sống qua ngày. Tội nghiệp con Mười. Có nhiều chỗ đánh tiếng nhưng nó chưa chịu lấy chồng vì không nỡ để bác đơn chiếc lúc tuổi già - Bác nâng tách trà lên hớp một ngụm, cất giọng nghiêm túc - Hôm nay, cháu lên đây để thu xếp việc bán nhà. Từ ngày treo bảng bán cũng có nhiều người đến hỏi nhưng chưa ai trả tới 18 cây vàng. Cách đây một tuần, có người ở trên tỉnh xuống coi và chịu mua với giá 25 cây để làm nơi nghỉ ngơi lúc tuổi già.
Tôi ngạc nhiên cắt lời ông Mão:
- Đất ở quê mà có giá vậy sao bác?
- Theo bác thì giá đó bán được. Không ai trả hơn đâu. Nếu cháu ưng thuận thì nán lại vài hôm để làm thủ tục giấy tờ. Nếu bận, cháu cứ thối lại năm chỉ để họ tự lo liệu lấy.
Tôi đang ngồi suy nghĩ đắn đo, chưa biết phải trả lời sao thì cô Mười lên mời chúng tôi xuống dùng cơm. Bác Mão đứng lên giục:
- Thôi, bác cháu ta dùng cơm kẻo nguội. Cháu hãy suy nghĩ kỹ đi rồi bàn tiếp.
Bữa cơm được dọn trên một chiếc chõng tre đặt sẵn ngoài vườn. Mọi người ngồi vào chỗ. Mười xới cơm ra hai bát rồi đứng lên. Tôi giữ lại:
- Em ngồi dùng cơm luôn thể. Trong nhà cả chứ khách khứa gì đâu!

Bác Mão chêm thêm:
- Khương nói phải đấy con. Các con ngày xưa coi nhau như ruột thịt. Lâu lắm mới gặp lại, cũng nên quây quần cho vui. Khách sáo làm gì.
Mười khép nép ngồi sang một bên rồi tự xới cơm vào bát mình.
Tôi đã từng ăn cơm Tàu, cơm Tây, cơm Nhật tại các nhà hàng khách sạn sang trọng, nhưng chưa có bữa cơm nào ngon miệng bằng bữa cơm đạm bạc của buổi chiều hôm naỵ Bác Mão bỏ vào bát tôi một khúc cá lóc nấu chua, giục:
- Ăn đi cháu. Hồi còn nhỏ, cháu thích món này lắm.
- Không riêng gì cháu mà em Mười cũng thích. Có lần, Mười khóc thét lên khi trông thấy bác mang biếu cháu tô canh chua cá lóc.
Mười lườm tôi:
- Vậy mà anh cũng để bụng cho đến bây giờ. Khiếp!
Mười lăm năm gặp lại, Mười e dè, giữ kẽ. Nhưng khi nhắc lại những kỷ niệm cũ, kỷ niệm của một thời hồn nhiên tuổi nhỏ, Mười không những nhanh chóng xóa tan khoảng cách mà còn tỏ ra thông cảm, thân mật với tôi hơn. Nàng gắp vào bát tôi một miếng đậu phụ chiên vàng, nói như đùa như thật:
- Anh cố mà nuốt. Ăn uống kham khổ thế này chắc anh không bao giờ dám về đây nữa.
- Ngược lại, anh thấy rất ngon và mong có dịp được về đây để cùng với bác và em quây quần bên mâm cơm đạm bạc nhưng rất thân tình. - Tôi nói thật lòng mình.
Bác Mão góp thêm:
- Cơm rau đạm bạc nhưng lạ miệng thấy ngon - Như nhớ ra điều gì, bác vỗ đùi đánh đét - Ôi dào, tí nữa thì quên!
Ông thong đũa rồi hối hả đi lên nhà trên. Mười cười rất khẽ:
- Ba em nhớ chai rượu quý đó. Anh uống vài ly cho ba vui, nhưng đừng uống nhiều, có hại!

Bác Mão mang xuống một chai sành hình củ tỏi, nút lá chuối khô và hai ly con. Ông vỗ vỗ vào lưng chai, khoe:
- Rượu Bầu Đá chính hiệu đấy!
Ông già rót rượu ra ly rồi mời tôi uống cạn. Rượu nồng độ cao nên đến ly thứ ba, tôi chỉ uống được một nửa. Ông Mão nâng ly:
- Làm cạn đi cháu. Rượu nặng mà êm lắm!
Biết tôi không uống được nữa, thừa lúc ông Mão lơ đễnh, Mười lẹ tay bưng ly rượu nửa của tôi lên uống cạn rồi đặt lại chỗ cũ. Ông già tưởng tôi đã uống xong nên định rót tiếp. Mười vội cản:
- Anh Khương uống không được nữa, ba đừng ép.
Cơm nước dọn dẹp xong, trời còn sớm. Ông Mão hấp tấp ra trường tiểu học. Tôi đưa Mười đi dạo dọc theo triền sông. Chúng tôi đi lặng lẽ bên nhau giữa buổi hoàng hôn êm ả. Gió từ mặt sông lồng lộng thổi về. Mười bỗng hỏi tôi:
- Khi nào anh làm xong thủ tục bán nhà?
Tôi lắc đầu dứt khoát:
- Không, anh không còn ý định bán nhà nữa.
Mười ngạc nhiên gặng hỏi:
- Chắc anh chờ lên giá?
- Không phải chuyện giá cả.
Mười suy nghĩ trong giây lát rồi kêu lên:
- A, em biết rồi. Chắc anh sợ cha con em không có chỗ ở chứ gì? Anh đừng lo việc đó - Giọng nàng sôi nổi - Ông hiệu trưởng tốt lắm, ông ấy hứa sẽ dành cho cha con em một gian nhà kho rộng lắm. Em đã đến xem kỹ rồi!
Tôi quay sang Mười, nói giọng nghiêm túc:
- Anh sẽ giữ lại ngôi nhà để có chỗ đi về với quê hương xứ sở. Thỉnh thoảng được về thăm em, thăm bác và tìm lại những kỷ niệm buồn vui thời thơ ấu của chúng tạ Tôi bỗng dừng lại đột ngột - Mười ơi! Còn điều này nữa, và để sẽ được đi bên em cho đến hết cuộc đời.
Mười đứng lặng nhìn tôi, lòng nàng cuộn lên một niềm xúc cảm. Tôi bắt gặp điều đó trong ánh mắt hồn nhiên thăm thẳm của em.
Ngoài kia, dòng sông quê hương vẫn xuôi về biển cả, gió chiều vẫn lộng và đồi sim vẫn tím dưới ánh hoàng hôn miền quê ngoại.
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 02/Mar/2012 lúc 8:56am
Cho em mượn bờ vai
 
Tám giờ tối,tôi pha một ấm trà ngồi uống một mình. Chán ngắt. Làm sao các cụ nhà ta lại có thể có thú độc ẩm được nhỉ? Tôi lơ đãng nhìn ra phía bờ hồ, những đôi trai gái đang ôm nhau lững thững dạo xung quanh hồ đầy gió. Trong lòng trống trải, tôi bỏ mặc ấm trà vừa pha mở cửa bước ra ngoài phố. Vượt qua đường, tôi đi sang bờ hồ định kiếm một chiếc ghế đá ngồi hóng mát. Đi ngang qua một gốc cây, đột nhiên một bóng trắng xuất hiện
-Anh trai, anh có muốn đi vui vẻ một lúc không?
Cô gái hỏi tôi mà mặt cúi xuống, di di chiếc giày cao gót trên có. Theo phản xạ tự nhiên, tôi đưa tay sờ túi quần. Cô gái nói nhỏ nhưng rất nhanh như sợ tôi sẽ bỏ đi khi mình chưa nói hết câu
-Anh đừng nhầm, em không phải là gái bán hoa. Em thấy cô đơn và muốn mời ai đó đi chia sẻ. Em sẽ bao toàn bộ
Tính hiếu kì trong tôi trỗi dậy.Tôi cũng láng máng nghe người ta nói về một lớp người phụ nữ thành đạt nhưng cô đơn ở Hà nội vẫn đi thuê những chàng trai trẻ qua đêm với mình. Hôm nay tôi mới gặp. Nhưng tôi không hiểu tại sao cô ta lại chọn tôi, một người không còn trẻ trung, tràn đầy sinh khí mà là một anh chàng hơn bốn mươi như tôi.Tôi đồng ý
-Được thôi, tôi cũng đang cảm thấy cô đơn. Bây giờ chúng ta đi đâu?
Nghe tôi hỏi, cô gái mừng ra mặt
-Xe em để bên kia đường, chúng ta đi đâu đó uống một chút
Vừa nói , cô gái vừa chỉ vào một chiếc xe hơi Toyota bóng lộn ở bên kia đường. Chúng tôi vào xe.Cô gái lái xe đi vòng vèo một đoạn rồi tạt xe vào một phố nhỏ. Đỗ xe lại, cô ta bảo tôi
-Chúng ta vào quán này anh nhé. Quán này không lịch sự lắm nhưng kín đáo và yên tĩnh
Tôi hơi mỉm cười bảo cô gái
-Nhưng nếu tôi muốn vào khách sạn Daiwoo Thì em tính sao? Cả đời chưa bao giờ tôi được đặt chân đến đấy cả
-Cũng được ạ
Nói xong cô gái nhả phanh tay, nổ máy định phóng đi. Tôi vội vàng nói
-Tôi đùa đấy. Chúng ta vào đây đi. Tôi cũng chỉ thích những nơi yên tĩnh
Chúng tôi vào trong quán. Một quán nhỏ , yên tĩnh và kín đáo. Chúng tôi chọn một góc xa lối ra vào. Cô gái hỏi tôi
-Anh uống gì?
-Em cho tôi cốc cà phê
Cô gái vẫy cô bé phục vụ lại bảo
- cho chị một cà phê nâu, một cốc nước cam và một bao ba số nhé
Một thoáng, các thứ được bưng ra. Tôi châm một điếu thuốcđịnh im lặng không nói gì để tìm hiểu về đối tác của mình nhưng tôi bất chợt nhận ra rằng cô gái hình như cũng không quen việc này lắm. Chính sự im lặng của tôi làm cô ta lúng túng. Thấy thế tôi đành chủ động gợi chuyện
-Trước tiên chúng ta hãy có màn làm quen đã. Tôi xin tự giới thiệu : Tôi là Duy, kĩ sư. Còn em, em tên gì?
Sự chủ động của tôi cộng với nụ cười thân thiện đã làm cho cô gái bớt lúng túng. Mà không hiểu tại sao, lúc ấy tôi lại quên béng mất mình là người được thuê. Tôi sử sự như là người bỏ tiền ra thuê cô gái. Nhưng có lẽ chính điều đó làm cô gái thích thú. Hóa ra phụ nữ đều vậy, họ đều muốn mình là người được che chở. Đượcyêu thương
-Em là Lan. Em ở nhà nội chợ
Tôi nhấp một ngụm cà phê, nhìn cô gái không nói gì. Có lẽ ánh mắt tôi có điều gì đó nên cô gái hỏi lại tôi
-Hình như anh không tin?
-Không! Tôi không tin- Tôi nhấn mạnh-Em là một người đàn bà thành đạt nhưng lại cô đơn.Đúng thế không?
-Sao anh biết?
Cô gái buột mồm hỏi . Nói xong biết là mình đã lỡ lời, cô ta im bặt. Làm gì mà chẳng biết, Ở miền bắc này có cô gái nội trợ nào mà lại lái xe vèo vèo như em. Tôi cười,tôi biết có một nguyên tắc cho những cuộc gặp gỡ kiểu này là : Tuyệt đối không hỏi về những thông tin cá nhân của đối tượng nếu không muốn nghe nói dối. Tên em chắc cũng là giả. Đột nhiên tôi cảm thấy hứng thú với cuộc tình nửa ảo nửa thật này. Tôi không trả lời cô gái mà hỏi lại
-Tôi có một thắc mắc là tại sao em bỏ tiền mà lại không thuê một chàng trai trẻ mà lại đi thuê tôi?
Nghe tôi hỏi, tự nhiên mặt cô gái đỏ hồng lên. Bây giờ tôi mới có dịp ngắm kĩ cô gái.Em không còn trẻ nữa ,khoảng gần bốn mươi gì đó . Không phải là sắc nước hương trời nhưng ưa nhìn. Thoạt nhìn người ta đã có thiện cảm nhất là trong trang phục và cách trang điểm. Tôi biết khá nhiều những người thành đạt ở lứa tuổi em. Họ thường đeo nhiều đồ trang sức, Trang đểm luôn luôn đậm . Không hiểu họ nghĩ rằng những thứ đó sẽ lấy bớt đi cho họ một chút ít thời gian trong cuộc đời hay họ muốn nói với thiên hạ rằng: Tuy tôi nhiều tuổi nhưng tôi giầu? Em thì khác. Trên người em không có một thứ nữ trang nào. Thậm chí ngón tay cũng không đeo nhẫn. Trang điểm rất nhẹ. Nếu không chú ý chắc tôi không nhận ra em có dùng mỹ phẩm.Cô gái đỏ mặt, nhìn xuống đất tay mân mê mép của tấm khăn trải bàn
-Tại vì em muốn được xưng là “Em” với tất cả tình cảm mà em mong muốn
Cô gái nói rất nhỏ. Em đang nói với mình hay nói với tôi? Một cảm giác lạnh buốt chạy dọc sống lưng thốc thẳng lên đầu. Tôi rùng mình. Bất giác tôi đưa tay ra nắm lấy bàn tay em lúc nào không rõ.Ra vậy,cái em cần không chỉ là cảm giác nhục dục. Cái trước tiên em cần là cảm giác được làm một người đàn bà, được một ai đó che chở, thương yêu. Được xưng một tiếng “Em”và cảm thấy mình nhỏ bé. Chao ôi !bây giờ tôi mới hiểu được thế nào là hai từ “Thiên chức”. Bây giờ tôi mới hiểu được cái vĩ đại của đức chúa trời khi Người làm ra người Đàn bà cho thế gian này. Người đàn bà vĩ đại hơn cánh mày râu của chúng tôi nhiều quá. Trong họ vừa có cái nhỏ bé,yếu ớt muốn nép vào lồng ngực của một người đàn ông mong muốn sự che chở, thương yêu. Vừa có cái sức mạnh vĩ đại của con đại bàng dang cánh bảo vệ đàn con của mình trước những nguy hiểm. Cái nhỏ bé yếu ớt với cái mạnh mẽ vĩ đại như âm và dương của vũ trụ hòa trộn với nhau đúc nên người đàn bà. Tôi nắm tay em mà run lên vì xúc cảm
-Tôi có một ý thế này,chúng ta hãy ra phía hồ Tây đi. Ở đấy, khung cảnh nên thơ chúng ta sẽ đễ nói chuyện hơn. Em đồng ý chứ?
-Vâng
Tôi gọi chủ quán
-Chị ơi thanh toán
-Anh để em
Vừa nói ,em vừa mở sắc lấy ra một tờ hai trăm ngàn đưa cho chủ quán. Tôi nắm tay em giữ lại
-Em vừa nói gì với tôi nào? Em nói em muốn được xưng là “em”với tất cả tình cảm mà em mong muốn đúng không? Vậy thì hãy để cho tôi làm điều này. Nếu không tiếng “em”của em sẽ chẳng còn một chút tình cảm gì nữa đâu
Tôi vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt em. Em nhìn tôi với ánh mắt dịu dàng , nhẫn nhịn ,vâng lời . Chúng tôi phóng xe ra Hồ Tây . Vào một nhà vườn,chọn một chỗ ngồi sát mép nước. Gió hồ tây Thoang thoảng đẫm hương đêm. Gió lùa qua mái tóc em, mang những sợi tóc mơn nhẹ lên mặt tôi . Một mùi hương lạ lắm, không phải mùi hương của son phấn, không phải hương của đêm chầm chậm dâng lên bao phủ khắp người tôi. Tôi choáng ngợp trong làn hương ấy. Tôi khẽ nắm lấy tay em. Cả hai chúng tôi đều im lặng. Tôi đã phải cố gắng lắm để không ôm em kéo em vào lòng mình, để không vùi mặt mình vào làn suối tóc mượt mà thấm đẫm hương đàn bà kia. Tôi biết, chỉ một hành động sỗ sàng dù chỉ rất nhỏ thôi của tôi cũng khiến những cảm xúc của em tan biến
-Em thấy Hà nội đẹp không? Tôi rất thích ngồi bên mép nước Hồ Tây trong khung cảnh tĩnh lặng như thế này. Chắc em ít có dịp đi chơi như thế này lắm?
-Vâng, em rất ít được đi chơi vì không có thời gian. Còn đi chơi với một cảm xúc như thế này thì đây là lần đầu tiên
-Lần đầu tiên?- Tôi hỏi lại- Chắc tại em kén chọn quá đấy thôi
-Không phải thế đâu anh-Em nói giọng trầm hẳn xuống-Anh nhận xét đúng đấy, em là một người đàn bà thành đạt nhưng cái giá của sự thành đạt ấy là cả một cuộc đời. Em chỉ có mỗi một tiêu chuẩn thôi đó là em sẽ lấy bất kể ai nếu người đó dám yêu em-Em cười, một nụ cười cay đắng-Nhưng những người dám yêu một người đàn bà bạc tỷ cũng không nhiều đâu anh
-Thế mà tôi vẫn nghĩ rằng có hàng trăm người quỳ xuống cầu xin tình yêu của em
-Hàng trăm thì không đến nhưng hàng chục thì cũng đến đấy anh ạ. Chỉ có điều họ không yêu em mà họ chỉ yêu bạc tỷ của em thôi
Tôi thốt nhiên nhớ đến một câu thơ Đường
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch công hầu
Chao ôi, người đàn bà thời xưa dục chồng đi kiếm công danh và đã phải trả giá bằng tuổi thanh xuân của mình. Còn em, tự mình đi kiếm công danh thì lại phải trả giá cao hơn. Trả giá bằng cả cuộc đời. Trời có bất công quá không?
-Chẳng lẽ trong số ấy không có ai yêu em mà không phải vì tiền ư?
-Kể ra thì cũng có nhưng chỉ có điều đứng trước bạc tỷ tất cả họ đều biến thành đàn bà-Nói đến đây, đột nhiên em bóp mạnh tay tôi-Cái em cần là bờ vai của một người đàn ông mạnh mẽ để em có thể gục đầu vào đấy mà khóc mỗi khi em thất bại hay kiệt sức trong đường đời. Bờ vai ấy có thể truyền được cho em sức mạnh để em đi tiếp . Nhưng khó lắm anh ơi. Trước bạc tỷ, các bờ vai ấy đều mềm nhũn. Có lẽ anh, người đàn ông bạc trăm, đầu tiên dám ngăn một người đàn bà bạc tỷ như em trả tiền. Em đi chơi với nhiều người rồi nhưng chưa có ai ngăn em lại khi trả tiền như anh cả
-Tôi –Tôi mới thốt lên được tiếng đó thì em đã lấy tay bịt mồm tôi lại
-Đừng nói gì nữa anh. Anh hãy cho em mượn bờ vai của anh đêm nay. Chỉ một đêm nay thôi. Anh hãy cho em được cảm nhận cái cảm giác của một người đàn bà vẫn mong muốn. Anh hãy ôm em đi
Tôi ôm lấy em. Người em run lên.Em riết chặt lấy người tôi, hơi thở gấp gáp.Gió từ ngoài hồ lồng lộng thổi vào thoang thoảng hương sen. Đêm loãng ra. Đột nhiên tôi thấy bờ vai tôi ấm nóng. Nước mắt 

                                                        
Nguyễn Thế Duyên


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 02/Mar/2012 lúc 8:57am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23805
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Mar/2012 lúc 4:56pm
Cuối Mùa Nhan Sắc
Tác Giả: Nguyễn Ngọc Tư   
Thứ Ba, 06 Tháng 3 Năm 2012 07:21
 

 Hỏi sao không gọi là Hoàng Hôn hay Chạng Vạng gì đại loại vậy, ông bảo, buổi chiều còn nắng, người nghệ sĩ còn có ý nghĩa sống trên đời.

Nhà Buổi Chiều nằm ở tận cùng con hẻm Cây Còng. Hẻm cụt. Nhà toàn người già, là chỗ trú ngụ cho những nghệ sĩ cải lương, nghệ sĩ hát bội một thời vang bóng. Tính ra, chỉ có ông già Chín Vũ là vô danh tiểu tốt. Nhưng ông là một trong những người sáng lập ra nhà Buổi Chiều, tự ông còn đặt tên cho nó. Hỏi sao không gọi là Hoàng Hôn hay Chạng Vạng gì đại loại vậy, ông bảo, buổi chiều còn nắng, người nghệ sĩ còn có ý nghĩa sống trên đời. Nhà Buổi Chiều nghèo, chi phí dựa vào kinh phí từ trên quận, từ lòng hảo tâm của bà con gần xa, cơm bữa nhiều ơi là nhiều rau mà ít xịu thịt. Vậy mà ai nấy đều vui, bởi cuộc sống trước đây của họ còn nghèo hơn, nghèo không thể tả, nghèo rớt mồng tơi. Người ở chùa, người bán vé số, người ngủ công viên, người hát rong, ít ai có nhà để về. Sum họp ở Buổi Chiều, có khổ một tí mà còn được hát. Nghệ sĩ mà, miễn được hát, miễn hát mà có người nghe là sướng rồi.

Ðể kiếm chút đỉnh tiền phụ thêm thịt cá cho bữa ăn, ông già Chín đi bán vé số, vừa có tiền vừa tìm tung tích của anh chị em đang còn lưu lạc. Ðào Hồng lại gánh chè đi tận hang cùng ngõ ngách. Thấy mọi người ái ngại, đào Hồng bảo: "Cứ để em làm, em với anh Chín còn trẻ, còn sức khỏe..." Nói trẻ là trẻ ở trong nhà Buổi Chiều chớ ông Chín Vũ đã bảy mươi, đào Hồng cũng sáu mươi bốn. Buổi sáng, ông Chín gánh gánh chè đưa đào Hồng ra đầu hẻm, dừng dưới gốc cây còng già cóc già kiết, già tới mức nó hổng thèm trổ hoa nữa. Ông già trao đòn gánh lại cho bà, rồi đứng tần ngần nhìn bóng bà xa dần trên đại lộ, tiếng rao chè buổi sớm nghe ngọt lịm, vút cao. Sau lưng bà, còn thấy mấy tờ giấy gói bánh mì ố màu nước cà bay xà quần trên đường rồi sẵn gió đi tao tác. Ông già tạt vô quán cà phê chú Tư Bụng, kêu: "Mấy đứa bưng cho tao năm trăm đồng trà nóng coi". Có người hỏi, sao bữa nay không uống cà phê, ông Chín Vũ cười cười, lắc đầu, cười tiếp với cái vẻ không muốn nói mà thèm nói quá trời đi:
- Ðể dành tiền mua cho cổ chai dầu thơm.

Ông già trịnh trọng thì thào. Cả quán rộ lên cười:

- Già mà còn yêu.
- Mắc yêu thì yêu - ông già cự lại, vẻ mặt sương sương không giận gì ai - Bây thì biết gì, tình xưa đó, mà mình thương người ta mà người ta đâu có thương mình.

Cạn bình trà, ông già dằn tờ giấy bạc năm trăm dưới đít ly đứng lên xếp ghế lại ngay ngắn, từ tốn rút trong túi ra xấp vé số dày, trước khi đi ông quay đầu lại:

- Tối nay lại chỗ tao coi cải lương, nghe bây.
- Tối nay tuồng gì, chú Chín?
- Lữ Bố Hí Ðiêu Thuyền.
- Í tuồng đó hát rồi. Hát Nửa Đời Hương Phấn đi.
- Bây nói sao tao chiều vậy, mà tuồng đó tao có nhớ miếng nào đâu.
- Chú cần gì nhớ, chú toàn đóng vai quân sĩ với người hầu không à. Có hát hò gì đâu.

Ông già cười khà khà, quay đi, cái lưng cong cong gù gù từ từ mịt mù.

Người trong hẻm không ai làm nghề viết văn nhưng đã biết mình nhớ cái gì khi đi xa nó, nhiều lắm, nhiều không thể kể, nhưng trong đó, chắc chắn nhớ tiếng hát là đà tỏa ra từ nhà Buổi Chiều.

Những con người tính từng ngày qua để lắt lay thêm một tuổi nữa, vậy mà hát coi cũng ngon lành. Sân khấu là cái hàng ba trông ra sân rộng, luống nào trồng bông sao nhái, bông mười giờ thì trồng, chỗ trống giành cho bà con ngồi. Dàn đờn gồm cây ghi ta thùng, cây nhị cũ mè. Không micrô, nghệ sĩ ca bằng giọng của trời cho, nghiệp đãi. Ðào Phỉ tám mươi chín tuổi, đứng không nổi, diễn vai gì cũng ngồi trên ghế, ngồi trên ghế mà lẫy roi sải ngựa coi lạ hết biết. Có bữa bà lỡ ca rớt nhịp, ngồi than: "Kiểu này chắc tui sống hổng thọ quá". Bà con trong hẻm cười cái rần, "sống tới cỡ đó còn than hổng thọ nỗi gì". Ông già Chín không biết hát hò gì, chạy đi chạy lại, lúc thì nhắc cái ghế cho đào Phỉ, lúc thì trèo lên thay cái đèn đứt bóng tối thui, kêu quân sĩ đâu thì ông dạ, chỉ khi đào Hồng hát, ông mới ngồi nép vào đám bông lồng đèn nào đó lặng người đi, thấy đào Hồng nhớ đào Hồng, thấy đó mà nhớ đó.

Ông già Chín Vũ biết đào Hồng từ năm bà mới hai mươi mốt tuổi. Bây giờ hỏi gia cảnh ông ngày trước như thế nào, ông chỉ cười, không nói. Nụ cười nhẹ nhàng trôi trôi, chừng như ông không luyến tiếc gì. Nghe nói, hồi đó, nhà ông giàu có khét tiếng xứ Bạc Liêu. Ông là cháu nội đích tôn của Hội Đồng Nguyên. Từ nhỏ, gia tộc đã dành sẵn cho ông một cuộc sống no đủ, giàu sang mà không phải làm gì, cả nhà chiều chuộng. Ðược cái là ông hào sảng, rộng rãi thương người từ tấm bé. Bữa cúng đình ông mời gánh hát Sài Gòn về hát chơi. Ông thương đào Hồng từ cái giây phút đầu tiên. Người đâu mà đẹp quá chừng, đẹp tới đứng tim người ta. Ðào Hồng chưa uống cạn ly trà ông đã hỏi thẳng, không cưỡng lòng được: "Vậy chứ cô Hồng có muốn lấy chồng chưa?". Ðào Hồng cười: "Tôi đã nguyện với Tổ cả đời theo nghiệp hát". Chín Vũ nghe vậy, thôi không nói nữa, nhưng vẻ mặt suy tính dữ lắm. Hôm sau, khi gánh Kim Tiêu trở lại Sài Gòn, có ông công tử bỏ nhà, bỏ phú quý đi theo. Không biết hát hò, tướng mạo cục mịch, nhỏ con, ông không được lên sân khấu. Kêu quân sĩ thì ông dạ, kêu "bây đâu" ông cũng dạ, tối ngày lụi hụi kéo màn, dựng cảnh. Ăn cơm quán, ngủ sàn diễn. Cực mấy cũng chịu, miễn là ngày ngày được nhìn thấy đào Hồng đi ra đi vô, đào Hồng hát. Ông vẫn thường khì khịt bảo rằng mình bị Tổ nhập, ba ông hoàng tử Càn, Chơn, Chất đó, cũng vì đam mê nghệ thuật sân khấu mà bỏ cung son, trốn tránh triều đình, cuối cùng chết trên cây vông nem đó, thấy chưa. Có người cười, thằng Vũ bị tình nhập chớ Tổ gì nhập vô nó nổi. Nghĩ lại, tỷ dụ có cái gọi là kiếp trước, hẳn kiếp trước ông Chín nợ bà Hồng cái gì đó, lớn lắm, nên kiếp này, ông trả hoài, trả không hết.

Ông Chín đã cùng đào Hồng đi qua những năm tháng cơ cực, đắng cay. Ðào Hồng có thai, ông bầu dọa đuổi, ông Chín đứng ra năn nỉ, biểu: "Em lỡ dại...". Ông bầu hỏi: "Của mầy à?". Ông Chín cười: "Dạ, của em chớ của ai". "Chắc không?". Ông bảo chắc mà lòng buồn rượi, đâu phải đứa nhỏ trong bụng đào Hồng là của ông. Ông biết ba đứa nhỏ là ai nhưng không tiện nói. Vì đào Hồng bảo: "Có biết, xin anh Chín cũng đừng nói, tội nghiệp, ảnh còn nhiệm vụ, còn công việc quan trọng phải làm". Cô hẳn yêu người ta lắm, nên một mực bảo vệ cho người ta. Sau nầy, con đào Hồng một tay ông giữ, ông bồng. Ông dạy nó kêu ông bằng ba, đào Hồng nhìn ông rơi nước mắt. Ðó là sự biểu lộ tấm thịnh tình đầu tiên mà đào Hồng dành cho ông suốt hai năm đi theo đoàn Kim Tiêu.

Không khí Sài Gòn bắt đầu khê đặc mùi chiến tranh, buổi sáng, ngồi quán uống cà phê mà toàn nghe sặc sụa từ đám quân cảnh mùi thuốc súng. Cũng một buổi sáng, ông Chín bị cảnh sát gô cổ trói đem đi. Cái thời sao mà bất công, tai bay vạ gởi, quân cảnh thấy buồn bắt người chơi cho vui vậy. Tụi nó nghe có người tố cáo đoàn Kim Tiêu có Việt Cộng nằm vùng, coi đi coi lại không thấy ai có lý do vô đoàn lạ như ông. Tụi nó hỏi: "Vậy đang sống giàu có đi theo đoàn làm gì?". Ông mắc cười thiếu điều nhỉ nước đái, cái tụi nầy, mình nói mình lưu lạc tại vì mình thương đào Hồng chắc gì tụi nó tin, tụi nó có biết tình người là gì đâu. Mười ngày sau, ông được thả. Chỉ mười ngày thôi nhưng phải đợi đến nửa đời sau ông mới gặp lại đào Hồng.

Gánh hát rã nhanh, đào Hồng không đợi ông về. Nghe bà con bán đậu phộng, thuốc lá trong rạp kể lại, kép Thường Khanh bị quân cảnh bắt, đào Hồng ôm con bỏ trốn, ở lại, chỉ sợ vướng cô rồi lòng người cô yêu lung lạc. Ông Chín quay quắt đi tìm, mà người thì tản lạc đâu đâu. Nhiều lúc ông Chín tự hỏi, làm sao đào Hồng có thể sống nổi đến từng ấy năm mà không có ông đỡ đần một vai gánh mỏi.

Sau nầy, về nhà Buổi Chiều, có đêm trăng sáng, ngồi bên rổ khoai lang luộc, đào Hồng có kể chuyện mình. Mọi người chung quanh đều sụt sùi, sao mà hoàn cảnh của nó y hệt mình vậy cà, hổng lẽ đời đào hát là phải vậy. Có người không lấy chồng cho thỏa nghiệp, có người như đào Hồng có con rồi, vì mê hát, vì chiến tranh mà gởi con cho người ta, đến nước nó không thèm nhìn mình nữa. Ông Chín Vũ ngồi rầu rầu, hậm hực. "Biết vậy hồi đó tui bóp mũi nó cho rồi". Ðào Hồng bảo: "Anh Chín đừng nói vậy em thương nó không hết chớ có trách nó bao giờ. Có lúc em nghĩ, con nó có nhìn em cũng không chịu, mình nghèo quá làm gì lo cho nó nổi hả anh?" Bà không bao giờ nhắc tới Thường Khanh như chưa từng quen biết con người đó trong cuộc đời. Nhưng những nỗi nhớ niềm thương chắc còn day dứt trong lòng làm cho bà quắt queo, tàn héo. Ông Chín giật mình, cái nhan sắc ngày xưa đã đi đâu mất biệt rồi, rồi tự nhủ lòng, mình nhớ cổ đâu chỉ vì nhan sắc, vậy thì thắc mắc, đau lòng làm chi.

Ðào Hồng là người duy nhất trong mấy chị em ở nhà Buổi Chiều không bao giờ lên sân khấu mà chưa hóa trang, chưa son phấn. Những ngày mới về đây, biểu bà hát, bà lắc đầu. Ai tra gạn, bà không nói, bảy chị em ai cũng nghèo, có người có son phấn cũng không dám hỏi. Ông già Chín đi theo hỏi hoài, bà nói thiệt. Ông đập con heo đất, đi chợ mua cho bà thỏi son với hộp phấn bông mai. Xong còn kêu cô bán hàng gói lại, chít bông cho cẩn thận. Bà cảm động, nhưng vẻ mặt buồn hiu, "Anh tốt với tôi chi mà tốt hoài vậy?", làm cho ông Chín cũng buồn. Ông nghĩ: "Mình sống làm gì tới từng tuổi nầy mà không hiểu được nhau, Hồng ơi là Hồng".

Trách thì oan, lắm khi ông cũng đâu hiểu được bà. Hồng vẫn thường soi cái gương cũ viền đồng có cán để cầm, mặt gương đã ố lấm tấm. Ông Chín thấy thương lắm, ông lén mua về tráo gương mới vào chỗ bệ cửa sổ rồi lấy cái cũ cất đi. Bà biết ngay là ông, bà giận lắm, mặt lạnh tanh: "Anh tài khôn làm gì, tui đâu có cần gương mới". Ông cố cãi: "Nhưng cái cũ nó mờ lắm...". "Mờ mờ tui mới thích", bà nạt ngang. Không biết tại sao bà lại có ý thích kỳ cục vậy.

Lần đó, ông già Chín buồn, buổi chiều thôi không còn đón bà ở đầu hẻm để gánh giúp gánh chè về nhà, mà ông vẫn thường nói, dù ngắn, ông cũng muốn đỡ đần cho bà một đoạn đời. Ông biết bà còn chờ một cái gì đó, mơ hồ lắm, tiếc là bà không tâm sự với ông. Nghĩ cho cạn, bây giờ đào Hồng cũng như ngày xưa thôi, người ta có khác gì đâu mà mình giận. Sống khép kín, ít nói, ít cười, ít biểu lộ nỗi lòng lên mặt. Chỉ trên sân khấu, đào Hồng mới thỏa thuê khóc, thỏa thuê cười, mà cười sang sảng như Thái Hậu Dương Vân Nga vậy nghen. Cái cười mở lòng mở dạ người ta ra.

Cái bữa cả nhà Buổi Chiều được xe hơi đón đi giỗ Tổ ở nhà hát thành phố, ông Chín giữ nhà. Hôm đó có ông già lại tìm đào Hồng. Ông già tóc trắng như mây, dáng thong thả, chậm rãi, cốt cách sang trọng thấy mà ham. Ông Chín hỏi ông già kia quen sao với đào Hồng, nghe trả lời cũng như không: "Tôi với cổ là người quen cũ. Không biết ngày xưa ông đã từng quen biết đào Hồng? Có à? Ừ, thì tôi hỏi ông nè, cái nhan sắc đó làm sao mà người ta quên được, ha? Vừa rồi tôi đọc báo, thấy người ta viết về nhà Buổi Chiều, tôi mừng như vừa sống dậy, thể nào cũng gặp được cố nhân". Ông Chín ngồi tần ngần, day day cái chung trà trên tay, lòng bối rối nên nói chuyện trớ he: Ừ, tụi tui thấy vậy mà được lên báo hoài thôi" Ðến lúc khách từ giã về, ông Chín cũng không có biểu hiện gì là mình đã nhận ra người quen cũ. Thường Khanh đã già đi (ai mà chẳng vậy) nhưng cái phong thái tao nhã ung dung vẫn như ngày xưa. Sương gió cuộc đời không làm gì được ông khi ông đã sống khác cuộc sống của những người nghệ sĩ ở đây, một cuộc sống không chia ly, khổ đau, dằn vặt. Ông Chín chờ hoài, sao không nghe ông Khanh nhắc tới chuyện ngày xưa ông và Hồng từng có một đứa con, người ta dễ quên vậy sao?

Khách chờ không được, từ giã về rồi, ông Chín ngồi chèm bẹp ngoài cửa rào, nghĩ, rồi mình sẽ mất cô Hồng một lần nữa, từng tuổi nầy còn để mất nhau mà coi được sao. Ông tự nhủ lòng, thôi, bà Hồng về ông không thèm nói lại đâu.

Không nói nhưng thèm nói, lương tâm biểu phải nói, ông Chín bảo: "Không biết cô Hồng còn nhớ Thường Khanh, ảnh mới lại đây kiếm cô" . Ðào Hồng vừa xổ mái tóc cỗi cằn xơ xác ra, lặng người, tay cầm rưng rưng cái đầu tóc mượn. Lâu lắm, bà mới lơ láo ngó lên, đôi mắt ráo khô "tôi đi giặt bộ đồ". Ra tới lu nước bà tựa người vào đó, mặt soi xuống nước bật khóc. Ước gì nước đừng trong như vậy để khỏi phải hiện lên một nhan sắc tàn phai. Không nhìn đằng sau mình nhưng bà biết, ông Chín đang chạy theo nhìn mình, bà nói khẽ: "Mai người ta tới đừng nói tôi ở đây nghen, tôi... tôi không muốn gặp". Ông Chín đứng đó, trong lòng vừa mừng (tại cô Hồng không muốn gặp chớ không phải tại tôi ích kỷ à nghen) vừa thắt thẻo thương bà, ông bảo: "Không tránh được hoài đâu, cô à, mà có gì phải tránh né nhau, người ta, sống ở đời cốt là ở tấm lòng".

Tránh làm sao được khi kịch bản cuộc đời đã bày ra một cảnh gặp nhau. Ông Khanh gặp bà Hồng ở đầu hẻm, lúc trời chạng vạng, khi bà quang gánh trở về. Nhìn thấy ông, bà mỉm cười, giở nón, bà hỏi: "Nghe nói ông tìm tôi?" Ông Khanh đứng chết lặng, ngẩn người ra, lòng ông đau đớn. Ðó không phải là cái nhan sắc mà ông nhớ thương, chờ đợi. Không phải đào Hồng, dứt khoát không phải đào Hồng mà ông đã ôm trong tay ấp trong lòng, đã từng che chở, bao bọc cho ông những ngày xưa cũ.

Có những vẻ đẹp không phải ai cũng nhìn thấy được. Ông Chín nói với bà Hồng như vậy, ông biểu bà đừng buồn, bà cười bảo: "Tôi có buồn gì đâu", nhưng nước mắt bà nhỏ xuống trong khe. Người ở hẻm Cây Còng không thấy ông già sang trọng đi xe hơi tìm vào nhà Buổi Chiều nữa.

Bắt đầu những cơn mưa mùa ràn rạt trên mái nhà, đập ầm ầm vào hai bên vách đóng bằng thiếc cũ. Không thấy bà Hồng gánh chè ra ngõ, không còn nghe tiếng rao ngọt ngào thánh thót mà buồn thiệt là buồn của bà, cũng không thấy ông già Chín Vũ ghé quán chú Tư Bụng uống năm trăm đồng nước trà.

Ðào Hồng bệnh nặng. Ông Chín thắt lòng khi biết trong người bà nhiều bệnh như vậy. Bà như trái bầu khô chỉ còn nhờ vào chút chờ đợi mỏng manh của tình yêu thời son trẻ làm cái vỏ cứng cáp ở bên ngoài. Rồi cũng từ ngày sự thất vọng xui cái vỏ thấm mưa nắng mục ruỗng đi. Bà nhắc tới cái chết hoài, đào Phỉ nạt, "tao sống tới từng tuổi nầy mà còn không chết, bây mà chết chóc gì".
Rằm tháng ba, như thường lệ là cữ hát của nhà Buổi Chiều. Ðào Hồng ốm sát chiếu nhưng vẫn đòi ra hát. Ông Chín vẽ chân mày, tô phấn thoa son cho bà rồi dìu bà ra ghế. Bà ngồi ghế mà hát. Bà hát cho Thái Hậu Dương Vân Nga trước ngổn ngang nợ nước tình nhà, hát cho nàng Quỳnh Nga bên cầu dệt lụa, cho nàng Thoại Khanh hiếu thảo róc thịt nuôi mẹ chồng, cho nàng Châu Long tảo tần nuôi Dương Lễ, Lưu Bình ăn học và cho Tô Thị trông chồng hóa đá vọng phu...

Ðào Hồng hát đến lịm tiếng đi. Bà ngồi trên sân khấu gục đầu. Cái gánh nặng tâm tư này, không mang nổi nữa rồi. Khi ông Chín dìu bà xuống giường, bà đã hôn mê. Người ta hát vở cuối cho bà, cho một người nghệ sĩ chân chính. Ðào Hồng đã gặp lại rất nhiều người thân thuộc cũ, bà nghe con trai bà gọi má, nghe ba má bà nói lên lời tha thứ vì đứa con gái đã bỏ nhà theo nghiệp xướng ca, lời tha thứ bà chờ đợi ngót năm mươi năm ròng rã. Bà sung sướng trở về nhà thơ ấu, đi bắt chuồn chuồn đậu trên hàng bông bụt, cạnh mé mương...

Bông trang rụng ngoài sân.

... Có lần, ghé quán cà phê chú Tư Bụng, tôi quen với ông Chín Vũ. Ông Chín người gầy nhom, nhỏ thó, nhưng tốt bụng, xởi lởi. Ông nói với tôi rằng bỏ cả đời đi theo đoàn hát cũng không uổng, bởi vì đời ông thực có ý nghĩa. Lần đầu tiên ông đóng được vai chính, người ta hỏi vai gì, ông bảo vai con của đào Hồng, phút lâm chung của người đàn bà suốt đời ông yêu thương, ông gọi: "Má ơi!" và thấy bà mỉm cười. Chỉ vậy thôi à.. Ừ chỉ vậy thôi. Nhưng tụi trẻ bây thì biết gì chuyện tình cảm của người lớn...

Chú ý: Ngôi nhà Buổi Chiều dành cho nhưng người ở cuối mùa duyên sắc. Ở đó có một ông già nói rằng "...tụi trẻ bây thì biết gì chuyện tình cảm của người lớn..."



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Mar/2012 lúc 5:00pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23805
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Mar/2012 lúc 11:06am
Đá Mòn Nhưng Dạ Chẳng Mòn
Tác Giả: Tiểu Tử   
Thứ Năm, 08 Tháng 3 Năm 2012 22:07

Vợ chồng tôi dọn về ở trong cái làng nhỏ này đã hơn ba tháng. Mấy đứa con của chúng tôi nói : ỡ Ba má già rồi mà ở trong Paris đâu có tốt.

Nội cái không khí ô nhiễm cũng đủ làm cho ba má bịnh lên bịnh xuống hoài ữ. Vậy là chúng nó kiếm mua một cái nhà ở xa Paris . . .

Nhà có đất chung quanh, có mấy cây pomme, mấy cây cerise. Hồi dọn về là đầu mùa xuân , mấy cây đó trổ bông màu hường màu trắng đầy cành. Ở mấy nhà hàng xóm cũng vậy, hoa nở rộ hầu như cùng một lúc, nên trông thật là đẹp mắt.

Biết là mùa xuân nhờ hoa nở và chồi non, chớ thật ra thời tiết ở Pháp mấy năm gần đây đi . . . trật lất. Mùa xuân mà cứ tưởng như mùa thu, cứ mưa lất phất rồi hết mưa là trời đổ sương mù. Cứ như vậy kéo dài đến bây giờ, theo trong lịch, là đã đầu mùa hè mà vẫn còn nghe lành lạnh !

Hôm nay tự nhiên trời bỗng trở nắng. Nắng thật ấm, thật trong. Người ta vội vã mang đồ ra phơi đầy sân : quần áo, drap, mền . . . Đủ màu sắc, đủ cỡ, coi vui nhộn như một ngày lễ !

Tôi cũng thấy phấn khởi, bèn rủ nhà tôi đi chơi một vòng. Bởi vì từ ngày dọn về đây, ngoại trừ những lúc phải ‘xẹt’ ra tiệm thịt, lò bánh mì, hàng rau cải v.v. . . chúng tôi cứ ru rú ở trong nhà vì thời tiết xấu. Nhà tôi không chịu đi, nên tôi đi mình ên . . .

Làng này tuy nhỏ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ. Ở đâu cũng thấy trồng bông : dọc theo vỉa hè, ở các ngã ba ngã tư, mặt tiền nhà phố . . . Giữa làng là một nhà thờ nho nhỏ nằm trên một vuông đất cao hơn mặt đường gần một mét, cũng trồng đầy bông.

Chảy ngang qua làng là một con suối nhỏ, rộng độ mươi thước, chui dưới cây cầu đá rối uốn khúc quanh quanh trước khi rời làng xuôi về phía dưới. Hai bên bờ suối là hai con đường tráng xi-măng chạy dọc theo hai hàng cây. Rải rác, có mấy băng gỗ đóng thô sơ, nhưng vẫn nằm giữa những lùm bông đầy màu sắc. Có nơi, không hiểu sao người ta đặt băng gỗ nằm cạnh bờ nước giống như làm chỗ ngồi cho người đi câu !

Tôi ngồi xuống một cái băng cạnh bờ nước. Vì không nằm dưới tàn cây nên ở đó đầy nắng. Tôi đốt điếu thuốc rồi nhìn quanh : chẳng có ai hết. Nhớ lại, dân trong làng chỉ đổ ra đường vào ngày chủ nhựt, bởi vì ngày đó nhóm chợ lộ thiên và lại là ngày phải đi Lễ nhà thờ. Còn ngày thường thì chỉ có mấy ông già bà già đi khệnh khạng trên hè phố hay dọc bờ suối khi nào trời tốt. Hôm nay, trời tốt đó chớ, nhưng sao chẳng thấy ai đi. Tự nhiên, tôi cảm thấy bơ vơ lạc lõng . . . Lại nhìn quanh, chỉ thấy xa dưới kia là gác chuông nhà thờ một mình đứng cao lêu nghêu !

Con suối không sâu, nước trong nhìn thấy đáy. Dòng nước chảy nhanh nhanh. Khi gặp mấy tảng đá lớn, nước bắn lên trắng xóa coi thật sinh động, nhìn không chán.

Lòng suối đầy đá cuội tròn tròn. Cũng có những cục đá to nhưng chẳng có viên đá nào còn góc cạnh. Viên nào cũng nhẵn thín.

Nhìn nước chảy, nhìn đá mòn, tôi bỗng nhớ đến hai câu chót của bài học thuộc lòng thuở nhỏ :

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ. . .

Hai câu thơ đó không có gì hết, vậy maụ nó làm tôi ứa nước mắt ! Không phải nó chỉ nhắc tôi thời thơ ấu, thuở học vui học buồn bằng quyển ỡ Quốc Văn Giáo Khoa Thư, mà nó còn nhắc tôi một cái gì sâu đậm hơn là kỷ niệm, một cái gì to rộng mênh mông hơn là không gian thời gian, một cái gì mà trong cuộc đời lưu vong này tôi vẫn mang mểnh trong tâm tư, giống như một chất ma túy : nó nhắc tôi quê hương, cái quê hương xa cách ngàn trùng !

Tính ra, tôi bỏ xứ ra đi đã hơn hai mươi bốn năm. Một phần tư thế kỷ ! Trôi nổi đó đây với nhiều âu lo dằn vật, thêm tuổi đời cứ chồng chất mãi lên. . . nên ký ức bị xói mòn theo năm tháng. Đến nỗi chuyện gì xảy ra hôm tuần rồi, hôm tháng trước. . . có khi không nhớ ! Vậy mà hình ảnh của quê hương vẫn còn nằm nguyên đâu đó ở trong lòng, với những kỷ niệm vụn vặt của năm sáu chục năm về trước ! Chỉ cần một chất xúc tác là nó bật lên rõ rệt, không thiếu một chi tiết, làm như mình đang sống trong đó mới hôm qua hôm kia. . . Tình yêu quê hương sao mà kỳ diệu như vậy được ?

Nơi tôi sanh trưởng cũng là một cái làng nho nhỏ. Nó không ngăn nắp sạch sẽ, không được trang hoàng bằng những bông hoa đầy màu sắc như ở đây. Cũng không có con suối nhỏ chảy ngang để hai bờ được nối với nhau bằng cây cầu đá. . .

Làng tôi nằm bên tả ngạn một con sông lớn, quá lớn nên thấy cái làng như nhỏ xíu ! Con sông đó có cái tên chẳng chút gì ‘văn chương’ : sông Vàm Cỏ. Trong làng chỉ có một con đường tráng nhựa : đó là đường liên tỉnh, cũng còn được gọi là ‘con lộ cái’ nối xóm trên xóm dưới. Ngoài ra, toàn là đường đất mà tiền thân của chúng nó là những con đường mòn, nối xóm Nhà Máy, xóm Lò Heo qua xóm Lò Gạch, xóm Chùa ... Cho nên những con đường trong làng đều chạy cong cong quanh quanh !

Làng tôi cũng có chợ nhà lồng, ngày nào cũng nhóm, nhưng chỉ nhóm có buổi sáng. Nằm cạnh chợ là ‘Nhà Việc’, nơi . . . làm việc của những ‘nhà chức trách’ trong làng. Xế xế về phía con lộ cái là trường tiểu học với hàng rào cây bông bụp, lá xanh um láng mướt.

Làng tôi không có nhà thờ nhưng có một ‘kiểng’ chùa nằm trên một khu đất cao, có rào tre xanh chung quanh. Hồi tôi còn nhỏ, thấy cũng nằm xa dân chúng, vắng vẻ u tịch (hồi đó, tôi ít dám đi ngang qua đó một mình vì . . . sợ ma ! ) Về sau, dân chúng càng ngày càng đông, nhà cửa cứ xây cất tiếp nối nhau kéo dài ra hướng chùa, rồi ‘đi’ xa hơn về phía con lộ cái. Vì vậy, chùa bị lọt trũm giữa khu nhà dân, không còn biệt lập như trước.

Nhà cửa trong làng nhỏ lớn gì cũng có hàng rào. Phần nhiều là hàng rào cây xương rồng và cây bông bụp (cũng gọi là bông lồng đèn) Xương rồng cũng trổ bông lai rai, hoa trắng nõn nà mỏng manh như lụa, khác hẵn với thân cây mang đầy gai góc ! Còn bông bụp thì cứ nở thè lè đỏ cây. . .

Đó ! Làng tôi đó ! Quê trân ! Chẳng chút màu mè. Vậy mà sao tôi vẫn thương.

. . .Thương những con đường đất mà hai bên là bờ cỏ may. Đến mùa, cọng cỏ may đưa bông lên tua tủa tím ngắt, chỉ chực bám đầy ống quần nào bất chợt đi ngang.
. . .Thương những đoạn đường quằn, mùa mưa nước ngập phải xăn quần tém áo để đi qua, trong lúc trẻ con một lũ ở truồng nằm lăn chập chũm, tóe nước nhau cười vui như hội.
. . .Thương bờ sông Vàm Cỏ với những cây dừa trồng không thẳng hàng, cũng không chia đều khoảng cách, giống như ‘mạnh ai nấy trồng’ ! Mấy cây dừa đó, nằm quá gần bờ nước nên rất nhiều cây thiếu đất để giữ gốc, chúng nằm dài ra phía sông cách mặt nước độ một đôi thước rồi uốn mình đưa ngọn đứng thẳng lên cao. Vậy mà cũng đơm bông kết trái ! Trẻ con thường trèo lên đó để phóng xuống nước nô đùa lặng hụp, và dân ở dọc bờ sông hay đem mền chiếu ra vắt lên đó để phơi.
. . .Thương con đường lên chùa có hai bờ tre xanh lả ngọn giao nhau làm cho con đường giống như một cái hang mát rượi. Ở đó, mỗi trưa đứng bóng, những người dọn hàng từ chợ về nhà thường dừng chân núp nắng, và chiều chiều đường vắng cũng thấy thẫn thơ một cặp gái trai . . .
. . .Thương cả cây phượng nằm bên bờ đường trước nhà ông Cả. Thân nó to bằng ba người ôm, gốc rễ lấn luôn ra mặt đường. Ai đi qua cũng phải bước vòng để tránh ! Đó là cây phượng độc nhứt ở trong làng. Không biết ai trồng và tại sao lại trồng ở đó ? Chỉ biết hằng năm vào mùa thi là cây trổ hoa đỏ trời. Sau đó là hoa rụng đỏ đất.
. . .Và còn thương nhiều thứ nữa, kể biết bao giờ cho hết !

Nhà tôi ở trong Xóm Mới. Gia đình tôi nghèo. Cha tôi trồng rau cải, mẹ tôi hằng ngày gánh xôi ra ngồi bán ngoài chợ. Cha mẹ tôi chỉ có hai đứa con trai : tôi và thằng Cu, nhỏ hơn tôi sáu tuổi. Cha tôi chết bịnh hồi mẹ tôi sanh thằng Cu . . .

. . .Nhớ hoài, thời tôi học tiểu học. Sáng nào, sau khi húp tô cháo với miếng đường thẻ, tôi ôm cặp đựng sách vở mà ông nội tôi làm bằng giấy dầu để khỏi bị ướt nước mưa, đi theo mẹ tôi ra chợ. Vì phải đem thằng Cu theo - lúc đó nó được hơn hai tuổi - mẹ để nó ngồi trong một cái thúng, gióng ở đầu đòn gánh phía trước, còn lá chuối, xôi, nhưn, dừa nạo v.v... vồn trong một thúng gióng ở đầu sau. Mẹ gánh như vậy mà bước chân đi sai sải. Đòn gánh nhún lên nhún xuống làm thằng Cu khoái lắm. Lâu lâu, mẹ đổi vai, đầu đòn gánh nhún xuống hơi sâu và tưng lên hơi cao làm anh ta cười hắc hắc để lòi bốn cái răng cửa nhỏ xíu. Những lúc đó, anh ta thuờng gọi tôi để khoe : ‘Hai ! Hai ! Coi nhè ! Coi nhè !’.

Tôi học chỉ có buổi sáng. Mẹ tôi bán ở chợ cũng vậy. Trưa, chợ tan sớm hơn trường học, mẹ gánh thằng Cu đến ngồi đợi tôi dưới cây trứng cá gần cổng trường. Thấy tôi ra, thằng Cu đứng lên, vừa nhảy tưng tưng trong cái thúng vừa la : ‘Hai ! Hai !’. Anh ta ở truồng - lúc nào cũng ở truồng - bên trên bận áo bà ba vải đen của bà nội may cho, đầu đội cái nón hình chóp bằng lá chuối mẹ xếp rồi ghim bằng cọng chân nhan . . . Mẹ đưa tôi gói xôi (đã thành lệ, ngày nào mẹ cũng chừa cho tôi một gói) tôi ngồi xổm cạnh mẹ, vừa ăn vừa đút cho thằng Cu. Ăn xong, tôi chạy qua bên kia đường xin một gáo nước ở nhà thầy giáo Hiển, rồi mang cho ba mẹ con uống (vì trong trường chỉ có một lu nước, không đủ cho đám học trò nên thầy Hiển đặt trước nhà thêm một lu. Vào giờ ra chơi, học trò bu qua đó đông như kiến) Uống xong, mẹ gánh thằng Cu bước đi thông thả, tôi lon ton chạy theo song song . . .

Hồi đó, vì phải chạy lúp xúp nên có lần tôi nhìn xuống bước chân của mẹ, coi mẹ đi cách nào mà mình cứ phải chạy theo lúp xúp ! Mẹ đâu có bước lẹ, mẹ bước đều. Mẹ đi chân không, mỗi bước chân của mẹ giậm xuống làm tung lên một chút bụi đường. Tôi nhìn chỉ thấy có như vậy. Bây giờ, hơn sáu chục năm sau, ngồi ở trời Tây này, tôi đâu cần nhìn mà sao vẫn thấy được - thấy rõ - hai bàn chân của mẹ. Hai bàn chân to bề ngang, mấy ngón chân chè bè không bao giờ xếp lại được. Hai bàn chân xấu xí đó chưa từng đụng tới đôi giày đôi dép. Hai bàn chân chỉ biết có đôi guốc dong khi rửa chân đi ngủ, hay khi đi dự dám giổ, đám tang . . . Hai bàn chân đó đã bám lấy đất để đứng vững một mình nuôi hai thằng con, hỏi sao không chè bè cục mịch cho được ?

Tôi đốt điếu thuốc, thở một hơi khói dài. Lại nhớ hồi học lớp nhứt, có hôm tôi bắt chước bạn bè lén hút thuốc. Mẹ tôi thấy được, lôi tôi vào nhà bắt đứng khoanh tay để ‘hỏi tội’ : ‘Hai !
Ai cho mầy hút thuốc, hả ? Ai dạy mầy hút thuốc, hả ? Mầy bắt chước ai, nói tao nghe coi ? Mới có bây lớn đó mà bày đặt hút thuốc !’. Rồi mẹ chụp cây chổi chà dựng gần đó : ‘Tao phải đánh mầy cho mầy chừa’. Mẹ vừa nói ‘Chừa nè !’ vừa đập cây chổi lên đít tôi thật mạnh. Cứ mỗi một câu ‘Chừa nè ! ‘ là một phát chổi. Mẹ đánh một lúc rồi liệng cây chổi, trèo lên bộ ván, ngồi co chân, rút cái khăn rằn đấp lên mặt khóc. Tôi đứng chết điếng, nghe mồ hôi chảy dài theo xương sống, không thấy đau ở đít mà đau ở đâu trong lòng. Bởi vì đó là lần đầu tiên tôi làm cho mẹ tôi khóc. Tôi mếu máo, rặn ra mấy tiếng : ‘Dạ . . . con xin chừa . . .’

Vậy mà lớn lên, khi ra đời, tôi đã . . . không chừa ! Tôi tập tành hút thuốc hồi tôi đi lính, bởi vì ‘ở tiền đồn trời khuya đêm lạnh, ta chia nhau điếu thuốc ấm lòng’. . . Mỗi lần về phép, chẳng bao giờ tôi dám hút ở nhà vì trận đòn chổi chà thuở nhỏ vẫn còn đeo theo ám ảnh ! Tôi hút ngoài đường . . .

Một hôm, đang đứng hút thuốc với mấy thằng bạn cùng xóm, bất thần mẹ tôi đi qua. Tôi vội vã liệng điếu thuốc xuống đất. Mẹ tôi dừng lại, mỉm cười : ‘Mầy làm cái gì vậy, Hai ? Mầy lớn rồi chớ bộ còn con nít sao. Bây giờ, mầy có hút thuốc, tao cũng đâu có bắt mầy chừa !’ Rồi bỏ đi một nước !

Mẹ tôi như vậy đó. Quê mùa mộc mạc như làng của tôi, vậy mà tôi vẫn thương. Tôi thương, đâu cần mẹ tôi phải đẹp, quê hương tôi phải sang. Tôi thương, vì tất cả đều gắn liền với tôi từ thuở tôi ra chào đời. Tôi đã quen thở, quen sống trong vòng tay của mẹ, giữa lòng quê hương ; đã lớn lên trong cái thật thà chân chất đó. Cho nên hình ảnh của mẹ, của quê hương đã ghi sâu vào lòng tôi đến độ khi thiếu vắng, tôi thương tôi nhớ. Và tình thương đó vẫn chưa thấy mòn, mặc dầu bây giờ tôi đã ngoài bảy mươi . . .

* * *
Mặt trời đã lên cao. Thấy có vài người hứng nắng bên bờ suối. Tôi đứng lên đi về nhà mà miên man nghĩ : ‘Những hình ảnh mà mình vừa gợi lại khi nãy sao mà dễ thương như vậy. Mình phải viết ra để cho nó có chỗ đứng bên ngoài ký ức, cho các con các cháu của mình thấy và hiểu tại sao hơn hai mươi bốn năm sống trên đất Pháp, cha và ông của chúng nó không nói ‘thương nước Pháp’ mà cứ nhắc hoài người mẹ đi chân đất và cái làng quê mùa không có đến hai con đường tráng nhựa !‘


Vào nhà, tôi đi thẳng lại bàn viết. Vợ tôi chắc đang nấu bếp nên nghe phất ra thơm phức mùi thịt kho tiêu. Tôi lấy xấp giấy trắng, không cần đốt điếu thuốc, không cần hớp mấy ngụm nước trà để trợ hứng. Bởi vì cái hứng đang ở ngay trong tôi, căng đầy . . .
Tôi cầm bút nắn nót viết cái tựa bằng chữ hoa : ‘đá mòn nhưng dạ chẳng mòn’ .

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23805
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Mar/2012 lúc 7:29am
 
Lời nói dối của trái tim

Có một người sưu tầm tranh già nua mù lòa sống ở một thị trấn nhỏ nghèo nàn của nước Đức sau chiến tranh. Ông coi những bức tranh trong bộ sưu tập của mình hơn cả sinh mệnh, hàng ngày vẫn "xem" chúng bằng tâm tưởng, ký ức.

Ông lão tội nghiệp không hay biết rằng, chiến tranh đã mang đến cảnh khốn cùng và vợ con ông đã buộc phải bán dần bán mòn những bức tranh để giúp gia đình sống qua những ngày đói rét.

Ông lão tội nghiệp sẽ tuyệt vọng đến mức nào nếu biết được điều kinh khủng này, khi mà sự thật có thể bị tiết lộ bởi một nhà buôn tranh đột ngột tìm đến hỏi mua vài bức trong bộ sưu tập của ông.

Nhưng nhà buôn tranh đã hết sức xúc động trước những lời khẩn cầu tha thiết của gia đình ông lão, và đồng ý nhập vai trong một màn kịch. Con người nhân hậu ấy đã làm tất cả để che giấu sự thật và ông đã thành công.

Ông lão yêu tranh đã tiễn người khách bất ngờ của mình ra về với niềm tin nguyên vẹn trong trí óc và niềm vui vẫn lấp lánh trong đôi mắt mù lòa. Còn người buôn tranh, người diễn viên bất đắc dĩ, cái ông mang về sau chuyến viếng thăm ấy không phải là một bức tranh cổ quý hiếm mà là một bài học về tình yêu thương của những con người khốn khổ.

Bạn có thể nói: "Đôi khi không phải sự thật mà là những lời nói dối đã giúp ta sống tốt hơn". Nhưng tôi nghĩ rằng đằng sau những lời-không-trung-thực đó, chính tấm lòng chân thành, sự đồng cảm sâu sắc xuất phát từ trái tim mới làm nên điều kỳ diệu.
st.
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 22/Mar/2012 lúc 12:20pm
Tình không đẹp như thơ
Tác Giả: Nguyễn thị Thanh Dương
  

Chị đến Mỹ muộn màng và yêu cũng muộn màng. Các anh chị của chị đến Mỹ từ lâu, họ làm bảo lãnh cha mẹ, rồi đến chị, diện anh chị em không được ưu tiên cao, nên lá đơn bảo lãnh nộp sở di trú khi chị 25 tuổi, đến 37 tuổi, chị mới được đặt chân đến Mỹ.



Mười hai năm chờ đợi ấy, chị đã phải hi sinh rất nhiều, không dám yêu ai và chẳng dám đáp lại tình ai. Bố mẹ chị đã răn đe “ Bất cứ giá nào cũng phải đợi đi Mỹ để đoàn tụ với gia đình, con nhé! không được yêu thương thằng nào hết”.

Chị vừa vâng lời cha mẹ, vừa mộng mơ, tưởng tượng: “Thôi thì ráng hi sinh những tình cảm bên này, qua bên ấy, tha hồ lựa chọn một tấm chồng, cỡ bác sĩ, kỹ sư… trở lên, thà muộn mà ngon lành, còn hơn sớm, phải ở lại Việt Nam, tình yêu nào cũng sẽ lụi tàn, mà chuyện áo cơm thì vất vả cả đời”. Và chị hớn hở chờ đợi.

Qua Mỹ, đến nay đã 3 năm, chị đã sốt cả ruột mà chưa tìm đâu ra một ông bác sĩ, hay kỹ sư. Vậy mà, ở Việt Nam, người ta cứ đồn rằng qua Mỹ lấy chồng dễ ợt, bạn bè, hàng xóm khoe con em họ lấy chồng có đủ loại bằng cấp nọ kia, dù những cô gái may phước đó chẳng đẹp hơn chị là bao ! Thì chị cũng có quyền hi vọng như thế lắm chứ.

Bây giờ chị mới hiểu rằng, người Việt Nam ở Mỹ, học hành,thành đạt thật đấy, nhưng con gái Việt Nam ở đây không còn khan hiếm nữa, những thế hệ sau này đã lớn lên, đủ “cung cấp” nhu cầu tại chỗ, chưa kể “thị trường” trong nước Việt Nam thì vô tận, các cô gái trẻ đẹp luôn khao khát, chờ mong được Việt Kiều về cưới và mang họ qua Mỹ.

Thế nên, chị lạc lỏng giữa dòng đời, giữa xứ Mỹ và giữa cái tuổi không còn trẻ và chưa đủ già của chị..

Nước Mỹ, sau vụ 9-11 kinh tế khó khăn, công ăn việc làm bị hạn chế, chị không có tay nghề, kinh nghiệm. Vốn liến tiếng Anh chỉ lưu loát được 3 chữ: “ No, Yes, Thank you”, nên chị xin việc hãng nào là cầm chắc bị hãng đó từ chối. Cuối cùng, chị cũng được một chỗ làm để kiếm ra tiền, khỏi sống nhờ vào các anh chị, là làm may cho một shop của người Việt Nam, họ chỉ cần chị biết may, thế là đủ! Nên khả năng nói lưu loát 3 chữ “ No, Yes, Thank you” của chị vẫn dư thừa, để dành đó, không cần đụng tới.

Cả ngày chị cặm cụi vào cái máy may, vào những miếng vải cắt sẵn, và dăm ba câu chuyện vặt với người bạn may bên cạnh, dần dần cũng thành tẻ nhạt, người ta có chồng có con, nên cứ nói đến đề tài này là chị “né”, vì sợ động vào nỗi đau âm thầm của chị. Chị chỉ còn một niềm vui duy nhất đó là cuối tuần đi chợ, nhìn đủ các gương mặt lạ, những hàng hoá, thực phẩm, để nghĩ đến những món ăn ngon sẽ nấu. Và nhất là xin được mấy tờ báo, về nhà nằm khểnh đọc chơi!

Ở thành phố này, có bao nhiêu tờ báo phát hành, chị đều xăng xái xin đủ cho bằng được, thiếu một tờ là chị áy náy. Báo free mà, không mất tiền thì cứ hưởng tối đa, không đọc được mục này thì cũng đọc mục nọ, mà nếu không đọc gì hết cũng… chẳng sao, tờ báo sẽ đem ra lót bàn, đựng rác. Khi gọt trái cây, dùng để đựng vỏ, đựng hột, và túm lại dễ dàng trước khi nhét vào thùng rác.Tiện lợi mọi bề!

Thường thì chị hay đọc mục “Tìm bạn bốn phương”, thấy người ta đăng báo tìm bạn, chị cũng ham quá, nhưng vẫn thấy ngần ngại, sợ cha mẹ, anh chị biết rõ “tâm địa” chị đang muốn lấy chồng, nên chị chưa bao giờ có ý định đăng lên những lời khao khát của chính mình.

Một hôm, chị ngồi buồn, chẳng biết làm gì, bèn gọt một trái xoài ăn chơi. Trải tờ báo ra bàn, chị vừa gọt vỏ xoài vừa lơ đãng đọc một bài thơ nằm chình ình trên trang báo trước mặt chị. Bài thơ than thân, trách phận và oán đời, nghe mà não nề của tác giả Phong Trần.

Bài thơ đã làm chị xúc động, cái bút hiệu Phong Trần càng làm chị xúc động hơn, chị tưởng tượng nhà thơ Phong Trần dày dạn gió sương, cũng đang là một kẻ cô đơn, mòn mỏi như chị, chị muốn cắt bài thơ ra để dành, nhưng những vỏ xoài đã dính lên bài thơ làm ướt nhẹp. Nghĩ mà tội nghiệp cho nhà thơ, có biết đâu tác phẩm tim óc của mình bị ngược đãi, ơ hờ như thế. Nếu chị không vừa gọt trái xoài vừa liếc mắt đọc bài thơ cho đỡ sốt ruột thì có lẽ chẳng bao giờ chị biết đến nhà thơ Phong Trần cả.

Từ hôm ấy trở đi, mỗi tuần chị đều chăm chú giở từng trang, tờ báo mà chị đã “gặp” nhà thơ Phong Trần trong lúc gọt xoài, để tìm thơ anh. Chị đọc từng chữ, từng dòng và ghiền thơ anh hồi nào không hay. Chị liền bạo gan, gọi phone tới toà soạn báo để hỏi thăm và xin số điện thoại của nhà thơ Phong Trần với tấm lòng ái mộ. Chị không ngờ, cú phone đầu tiên chị gọi nhà thơ Phong Trần được hân hoan đón nhận đến thế, nghe chị nói rất thích thơ anh, nhà thơ Phong Trần đã kiên nhẫn chép tay cả chục bài thơ và gởi bằng bưu điện cho chị.

Từ đấy, ngành bưu điện đang hồi ế ẩm, bỗng nhiên vớ được hai khách hàng chăm chỉ viết thư cho nhau, nhờ bưu điện chuyển giùm, và cũng từ đấy, mỗi lần thơ anh đăng lên báo, đều ghi tặng tên chị phía dưới, những bài thơ anh dịu dàng hơn, tình tứ hơn, làm chị cảm động.

Chị mang đến shop may một trái tim vui đang yêu, chị dò dẫm để khoe khéo với bà thợ may bên cạnh, mà chị từng trò chuyện mỗi ngày:
- Nhà chị có hay đọc báo chí Việt Nam không?
- Có chứ, cả nhà cùng đọc, ở xứ Mỹ buồn thấy bà. Cuối tuần có báo “chùa” đọc cũng vui.
- Thế chị có đọc tờ báo…

Bà kia cướp lời, nhanh nhẩu:
- Đã nói là báo nào cũng đọc hết trơn, báo cuốn, báo tờ có đủ cả. Một mặt ông xã đi lấy, một mặt tôi đi chợ xin thêm, nên không sót tờ nào. Có khi còn lấy dư, ê hề chật cả nhà..

Chị vừa trách vừa thấp thỏm vui mừng:
- Lần sau lấy báo vừa đủ coi thôi, lấy dư người khác không có đọc, tội người ta. Thế chị có đọc thơ của nhà thơ Phong Trần không?

Bà bạn may khựng lại:
- Ủa!...thằng đó là thằng nào?
- Sao chị bảo báo nào cũng đọc hết? Phong Trần là một nhà thơ…

Bà kia lại nhanh nhẩu:
- Ôi, ai hơi đâu để ý tới mục thơ thẩn, tôi chỉ khoái coi mục tử vi hàng tuần thôi hà. Thơ của thằng Phong Trần hay của bất cứ ai cũng không nhằm nhò gì với tôi hết.

Chị bực mình, nghĩ thầm “ Con mẹ này trước ở Việt Nam, chuyên mua bán ve chai, lông vịt, trình độ đâu mà đọc văn thơ?”.

Chị lại gói niềm riêng, đợi khi nào gặp được người “cao cấp” hơn sẽ hỏi. Một hôm, có cặp vợ chồng, bạn của người anh, đến nhà chị chơi, cả hai đều là kỹ sư điện, họ rất thân với gia đình chị, chị liền lân la đến gần người vợ để chuyện trò:
- Chị ơi, chị có thích đọc thơ của nhà thơ Phong Trần, đăng trên báo Việt Nam ở đây không?

Bà kỹ sư điện trả lời nhanh như điện:
- Chị không có thì giờ đọc mấy bài thơ đăng trên báo chợ đâu em ạ, thơ chẳng ra thơ, vần một nơi, ý một nẻo, có đọc chỉ thêm bực mình !

Chị cố gỡ gạc, giải thích:
- Cũng tuỳ chứ chị. Em thấy thơ của nhà thơ Phong Trần có hồn lắm…

Bà kỹ sư vẫn chua ngoa:
- Ở Mỹ người ta ai cũng lo đi cày để kiếm tiền, đa số những đứa dở hơi mới rảnh để làm thơ đăng báo.

Rồi bà hùng hồn chỉ trích:
- Báo chí ở Mỹ ai làm chả được! Trước kia ở Việt nam, là một anh thợ mổ thịt heo hay đạp xe 3 bánh, sang đây cũng có thể làm chủ báo ngon lành, bài vở lên internet lấy xuống, hay dịch vớ vẩn từ báo Mỹ. Lại thêm có những đứa dở hơi như nhà thơ Phong Trần nào đó, cặm cụi, bỏ thì giờ, sáng tác thơ văn, gởi về đóng góp cho tờ báo.

Chắc bà kỹ sư ngày xưa thất tình một anh nhà báo, nên mới cay cú thậm tệ giới này? Làm một tờ báo ít nhiều cũng phải có kiến thức hay năng khiếu về báo chí, văn thơ, và nhất là lòng yêu nghề thì tờ báo mới sống còn. Chị chẳng hơi đâu tranh luận vấn đề này làm gì!

Chị buồn quá, thế là từ thành phần lao động đến trí thức, không ai biết đến nhà thơ Phong Trần của chị cả, nói gì đến tên chị, đứng khiêm nhường, bé nhỏ dưới mỗi bài thơ của anh? Thì thôi, mình chị đọc thơ anh, mình chị hãnh diện vậy.

Mối tình thơ của hai người kéo dài được hơn hai chục số báo, và mấy chục lá thư qua đường bưu điện, thì họ bắt đầu hẹn để nhìn mặt nhau cho thoả lòng thương trộm nhớ thầm. Chị đã e ấp nhìn anh:
- Anh ơi,tại sao anh lấy bút hiệu Phong Trần, nghe lãng mạn và bụi đời thế?

Anh trả lời thản nhiên:
- Có gì đâu, tên anh là Trần văn Phong!

Thì ra thế! tên anh Trần văn Phong viết ngược theo kiểu Mỹ thành Phong Trần, vô tình trở nên lãng mạn, rất thích hợp cho một người làm thơ như anh. Chứ anh có phải cất công suy nghĩ cho cái bút hiệu của mình đâu!

Chị không đẹp lắm, độc thân và trinh nguyên nhưng hơi cứng tuổi, còn anh, hơn chị đúng 10 tuổi, đã một đời vợ, li dị, hai con theo mẹ, cho nên mấy năm nay anh trở thành người đàn ông độc thân, đi về một bóng, anh mong có một người đàn bà cho căn nhà ấm lên, cho lòng anh đỡ trống trải.

Thế là họ không có gì để chê nhau cả, mối tình thơ đã đi đến đoạn kết mong muốn: Họ cưới nhau.

Chị lấy anh vì sau 3 năm sống ở Mỹ, chị biết rằng khó có thể kiếm một tấm chồng bằng cấp Bác sĩ, kỹ sư, khi tuổi chị đã xế chiều và nhan sắc chẳng có gì đáng nhớ. Như món hàng ế ẩm, muốn bán được, cần phải hạ giá đến đại hạ giá. Chị đã “on sale” cuộc đời chị, lấy một người chồng chẳng những đã không bằng cấp mà còn có một quá khứ lòng thòng vợ con, dù anh hết tình hết nghĩa với người vợ, nhưng hai đứa con, chắc vẫn đậu lại trong lòng anh nỗi thương nhớ xót xa? Trái tim anh có yêu chị cách mấy, đôi khi cũng tạm ngừng nghỉ để quay về với hai con. Chị cũng đành thôi, ở đời có gì tuyệt đối đâu?

Khi đọc một bài thơ, không nhìn thấy tác giả, bài thơ hay sẽ làm rung cảm lòng người, nhưng khi nhìn thấy tác giả thì những rung cảm ấy sẽ giảm đi một ít, và nếu sống cùng một nhà với tác giả, thì bài thơ bỗng trần trụi như đời thường của người đã sáng tác ra nó.

Những ngày, những tháng trôi qua, chị không còn thấy thơ anh hay nữa, dù mỗi khi đăng báo, anh vẫn đề tặng tên chị, và chị đã ngạc nhiên, không hiểu sao chị lại thay đổi nhanh chóng thế?

Nhà thơ Phong Trần mà chị ngưỡng mộ và yêu mến ngày nào, bây giờ là một thằng đàn ông suốt ngày cởi trần trùng trục vào mùa Hè, anh mặc duy nhất cái quần đùi, đôi vai anh gầy, nhô lên, tưởng gío cũng có thể lung lay, vậy mà trước kia anh đã làm bài thơ với câu: “Đôi vai anh sẽ là nơi em tựa”. Thơ chỉ là bịa đặt, chẳng thực tế với người.

Anh thường ngồi ở ghế, hai chân thô lỗ gác lên bàn, vừa nhâm nhi ly trà nóng vừa sáng tác thơ, trong khi ngoài bếp, chị đang nấu nướng, dao thớt khua lên, chảo mỡ kêu ì xèo. Và trong phòng thì thằng cu Tí bé bỏng của hai người đang nằm o oe chơi một mình, nhưng khi nó khóc ré lên, chính anh là người phải vội vàng hạ chân xuống bàn, cắt đứt dòng tư tưởng đang tuôn ra, để chạy lại tủ lạnh lấy bình sữa, nhét vô miệng thằng con, hoặc tệ hại hơn, anh phải thay diaper cho nó, mất nhiều thời gian hơn, xong việc thì ý thơ cũng bay xa. Tác phẩm bằng xương bằng thịt, đã hại tác phẩm tinh thần của anh.

Có lần, anh ngồi lì để viết cho xong một ý thơ, không chạy ra đáp ứng ngay tiếng khóc của thằng Cu Tí, thì vợ anh đã lớn tiếng:
- Không ra mà lo cho nó đi! Thơ với thẩn, để thằng nhỏ… chết đói bây giờ.

Anh tức giận nhìn “nàng thơ” của anh, người đã từng dịu dàng, âu yếm đi vào những bài thơ của anh, bây giờ hiện nguyên hình là một con mẹ khô cằn sỏi đá, đầu óc lúc nào cũng toan tính đến chuyện thực tế, đói no, bạc tiền. Trước chị ngưỡng mộ anh, coi thơ anh là hương hoa trong cuộc sống, bây giờ những hương hoa ấy đã bay đi, đã trở thành những món phụ tùng không cần thiết.

Một buổi sáng thức dậy, trời chuyển gió lạnh, lòng anh bỗng vu vơ cảm xúc yêu thương khi nhìn ra ngoài trời những chùm lá cây đẩy đưa trong gió. Anh thèm được rủ chị cùng anh đi sóng đôi trong cái không gian lạnh lẽo ấy để tìm hơi ấm của lòng nhau. Anh phấn khởi hỏi chị:
- Em ơi, ngoài kia đang gió lạnh. Em có biết anh đang mơ ước gì không?

Chị đáp sỗ sàng:
- Mơ ước có một tô phở nóng hổi với đầy đủ tương ớt, ngò gai, húng quế ngay trước mặt để ăn cho ấm người chứ gì? Hôm nay tôi không có rảnh mà hầm xương nấu phở cho anh đâu!

Trời ơi! Khi không mà anh thấy lạnh cả lòng, lạnh hơn cả những chùm lá trên cây đang run lên vì gió lạnh ngoài kia.

Nhưng cũng chưa lạnh, chưa đau bằng những bài thơ anh đang viết dở dang, những ý thơ chợt đến, anh đã ghi vội trên tờ giấy để trên bàn đã bị chị “clean up” vứt vô thùng rác thẳng tay, không một thắc mắc. Anh tiếc đứt ruột, trách chị, thì chị nghênh mặt lên, đe doạ:
- Quý hoá gì? Thơ với thẩn viết lung tung rác cả nhà. Lần sau anh còn để bừa bộn tôi giục thùng rác nữa đó.

Anh đành ngậm ngùi ra… moi thùng rác tìm lại mảnh giấy thơ lẫn lộn với những tã dơ của Cu Tí, và những thứ rác rưới khác. Chị đâu biết rằng một cảm xúc nào đó đã qua rồi đâu dễ gì tìm lại được nếu không ghi vội trên những mảnh giấy kia.

Thỉnh thoảng anh gọi phone thăm hai đứa con của đời vợ trước, một đứa đã lớn, một đứa còn đang học high school, thương con, anh muốn gởi cho nó một hai trăm làm quà, “Nàng thơ” của anh đã trề môi mai mỉa:
- Lương công nhân có là bao, mà hứa hẹn cho nó tiền? Hãy làm bài thơ tặng nó cho có tình nghĩa… Thế mới là vô giá.

Anh đau xót và tủi quá, chẳng lẽ lại cãi nhau, lại li dị? Cuộc đời đâu có đủ dài cho con người, để họ thử thách lấy nhau, bỏ nhau, như trò chơi trẻ con, thích đó, rồi lại chán chê, muốn bỏ?

Anh vẫn đi làm công nhân và vợ anh đi làm ở shop may, thằng Cu Tí đem gởi bà ngoại chiều tối mới mang về. Vợ anh đang chạy đua với thời gian, chị sang Mỹ muộn, lấy chồng muộn, và có con muộn, nên muốn làm gấp rút, kiếm nhiều tiền để mua nhà như người ta, ở nhà thuê, trả tiền tháng nào là mất luôn tháng đó. Ước mơ bình thường thế mà trời cũng không để yên. Anh bị lay off, anh không có tội gì cả, hãng không có việc nên phải giảm bớt nhân viên. Vậy mà chị đổ tội cho anh:
- Sao bao nhiêu người, hãng không lay off mà lại là anh? Chắc tại anh mải nghĩ thơ nghĩ thẩn, làm không được việc, nên họ đuổi cho bõ ghét chứ gì?

Anh làm ngơ, chấp chi con đàn bà nông cạn! Anh lo đi làm giấy tờ xin hưởng tiền thất nghiệp, rồi thủng thỉnh xin việc làm sau, nhân lúc rảnh rỗi bất đắc dĩ này, anh nghỉ ngơi và làm thơ. Cuộc đời là thế, ngay cả khi hoạn nạn, cay đắng cũng có thể thành thơ. Nhưng con vợ, không để anh yên, chị đi ra, đi vào, lườm nguýt, thấy anh vẫn cầm bút, vùi đầu vào trang giấy, chị chịu không nổi, ghé mắt vào sinh sự:
- Anh đang làm gì đó?

Anh cười dù thật lòng chẳng muốn cười:
- Làm thơ!

Chị kêu lên, như chưa từng thấy anh làm thơ bao giờ:
- Trời ơi, không lo viết đơn xin việc mà còn ngồi làm thơ? Thơ có ăn được không? Có đổi ra tiền để đi chợ hay trả bill được không?

Anh kiên nhẫn:
- Tất nhiên là không! Nhưng nó cho anh một niềm vui…

“ Nàng thơ” ngày nào của anh lồng lộn lên:
- Anh sống không có… lập trường như thế à?, phải đối diện với thực tế, phải đi tìm việc làm chứ.

Rồi chị nghẹn ngào như một người vợ đau khổ khi bị chồng phụ rẫy:
- Bây giờ tôi mới hiểu lời của chị kỹ sư, bạn của anh tôi, chị ấy nói “Mấy đứa làm thơ toàn là mấy đứa dở hơi, sống trên mây…”
- Em cứ làm như nếu anh không đi làm thì vợ con chết đói ngay ấy. Ở Mỹ, chuyện lay off thất nghiệp, đến với tất cả mọi người, bất cứ lúc nào, việc gì em phải đau khổ thế? rồi anh cũng sẽ xin được việc làm khác thôi, nhưng trong lúc rảnh rỗi, anh vẫn có quyền mơ mộng, làm thơ. Thơ đến với anh những lúc hạnh phúc và cả khi thất vọng, khổ đau…

Nhìn vẻ mặt nghiêm trang của anh, nhìn đôi mắt anh ngời sáng long lanh đang nhìn thẳng vào mắt chị với sự phản kháng âm thầm, chị bỗng thấy… khớp không dám làm ầm ĩ thêm nữa. Chị chợt nhớ đã mấy lần mẹ chị khuyên chị rằng: “ Mày có thằng chồng hiền lành, thương vợ thương con là tốt phước rồi, đừng hiếp đáp nó, con chó bị dồn đến nước cùng cũng quay đầu lại cắn chủ. Nó mà tức giận quá, mất khôn, nó li dị, thì mày chỉ có nước ôm con nuôi tới già. Còn nó, nếu ham vui như người ta, về Việt Nam lấy vợ trẻ, vợ đẹp thiếu gì”.

Cho nên chị không dám quát tháo thêm nữa, chị đành bỏ đi làm việc khác sau khi đã quẳng lại cho nhà thơ một cái nguýt mắt đầy đanh đá.

Một mình anh ngồi lại, giận vợ nhưng cũng thương vợ, đàn bà thường thực tế và nông cạn như thế. Anh hiểu, cái tình yêu thơ mộng mới ngày nào, đã thay thế bằng những lo âu, toan tính trong cuộc sống, chị quá lo cho gia đình, cho tương lai của con, chị sợ tuổi đời của cả hai người không đủ dài để làm nên cơ nghiệp như chị mong muốn.

Trên tờ báo hàng tuần vẫn tiếp tục đăng thơ anh, thơ anh vẫn tình tứ, vẫn ướt át, nhưng nếu người ta để ý, thì dưới mỗi bài thơ, anh không còn ghi lời tặng cho chị nữa.

Mục tiêu của đời chị là có tiền để mua nhà, để dành lo cho tương lai thằng Cu Tí, làm đến cả đời chưa chắc xong. Nên chị cần quái gì điều đó, cái tên chị có dính trên báo cũng chả làm túi tiền chị tăng thêm một xu nào!

Những bài thơ của anh đã trở thành vô nghĩa, và mối tình thơ của chị đã chết tự lúc nào.



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 28/Mar/2012 lúc 10:31pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23805
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Mar/2012 lúc 10:27pm
Dời Bến
Tác Giả: Nguyễn Ngọc Tư    

 Mỗi người có một chuẩn mực của riêng mình để vịn vào, đối chiếu, so sánh.

Bà con của một người bà con dẫn cô lên giúp việc nhà họ vào một bữa trời mưa. Cô vắt đôi tà áo ướt đẫm nước, tròn con mắt phân trần, “xứ gì ngộ quá, đâu cũng có nhà mà không có chỗ đụt mưa. Ở đâu cũng tường rào kín mít, kiếm đỏ con mắt mới gặp được mái hiên, tui mới đứng chút xíu đã bị kêu tránh ra cho người ta buôn bán. Phải ở dưới quê bà con còn đem ghế cho ngồi…”

Ngay cái ngày đầu tiên đó cô đã mang một chuẩn mực mới đến với gia đình họ, tạm gọi là “phải ở dưới quê…”. Ngó mấy con cá rô nằm cạnh rổ cải bắp, cô thẫn thờ, trời ơi, phải ở dưới quê, mình nấu cá rô với bông so đũa, ngọt nước dữ lắm. Bông so đũa mùa này trổ trắng trên mấy bờ kinh, mật ơi là mật. Hàng xóm cãi nhau, cô ngó qua rào, “phải ở dưới quê thể nào cũng có người chạy tới can, người ngoài nói tiếng ngọt tiếng lạt, cũng đỡ căng lắm…”. Sau mỗi bữa ăn, cô tần ngần, “phải ở dưới quê, đồ ăn dư như vầy là nuôi được mấy con heo…”.

Cả nhà chủ vừa buồn cười, vừa khó chịu. Họ đã sống một cuộc sống được xem là hiện đại, đầy đủ, họ hài lòng với những gì mình có. Nhưng cô giúp việc tỏ ra không mấy hài lòng, suốt ngày đi so sánh, mà so sánh với nếp quê mới kỳ cục. Phải ở dưới quê, ra vườn chút xíu là kiếm được rổ rau rồi, đâu phải mua chi cho uổng tiền. Phải ở dưới quê, mùa này gió chướng thả cửa, ở trong cái nhà hả họng đón gió sông, mặc sức mà… run, mở máy lạnh làm chi, ngộp quá chừng. Phải ở dưới quê, chặt cây chuối ra ao tập lội, khỏi mắc công đi hồ bơi. Phải ở dưới quê…

Mỗi ngày qua, cô lại đưa ra một vài kiểu so sánh mới, chi tiết và tinh tế đến mức cô đặt cả bụi và cỏ lên bàn cân. Cỏ ở thị thành cũng vô duyên, phải ở quê, cỏ phơi khô, đem đốt, lấy tro trồng đậu, trồng dưa. Chủ nhà quen dần, thấy mến cái cách nói thẳng thừng, gọn lỏn, ngỏn ngoẻn, tỉnh bơ như thể cái xóm nhỏ heo hút kia mới chính là thiên đường. Và cô, dù đã xa mảnh thiên đường đó mà lòng còn cắm sào ở bến sông, níu mãi bụi ô rô, đọt nhãn lồng, hàng lơn nước xanh rêu, con gà mái quýnh quáng gọi đàn con đến bên ổ mối. Cô hòa nhập chậm, bởi bước chân cô kéo theo hàng hàng ký ức, lớp lớp nỗi nhớ. Dễ gì…

Mỗi người có một chuẩn mực của riêng mình để vịn vào, đối chiếu, so sánh. Chủ nhà từng nghĩ cuộc sống hiện đại, sung túc là thiên đường. Nhưng bây giờ thì họ hoang mang, thế giới mơ ước của họ có nguy cơ đổ vỡ trước cô giúp việc ương bướng, bởi cô không nghĩ vậy, gì chớ, quê cô là nhất. Cô là người không dễ bị thuyết phục, kể cả lúc buộc phải đồng tình, ừ cái bếp này không khói, khỏi bị chảy nước mắt, nhưng không khói thì không thơm mùi củi ướt, mùi những con mối nhỏ, trứng kiến bị cháy vàng, mùi khoai lang vùi trong than. Mỗi khi cô “nhưng” nhà chủ thót tim, vì thấy mình thua là cái chắc. Nhiều lúc nằm nhìn cái máy lạnh thấy mặc cảm dễ sợ, mặc cảm với những ngọn gió phóng khoáng thổi nước chảy tràn lên những bờ sông quê cô. Và việc có nhiều tiền cũng đôi khi làm nhà chủ bẽn lẽn, họ không bao giờ mua được cái chốn nhớ cho mình, với khói đốt đồng, bông khế rụng, mấy con ong bầu vo ve đục kèo nhà làm tổ.

Sáu tháng, cô chỉ có cái lý duy nhất “phải ở dưới quê…” mà xiêu lạc cả nhà chủ. Họ bắt đầu cảm thấy cái nơi mà họ chưa từng đặt chân đến mới là thiên đường. Bữa cô về quê dự đám giỗ, họ nôn nao như chính mình trở về, đám trẻ con dậy sớm, lăng xăng dặn, chị Hai về nhớ đi câu thác lác, bứt bông súng, hái chùm ruột đem lên cho tụi em ăn nghen. Người lớn rảo qua rảo lại, ngó cô giúp việc nháo nhác bên cái giỏ, chỉ mấy hộp bánh tây, trà lài mà cô nhét vào, xổ ra, rồi lại nhét vào, mắc tức. Chút nữa thôi, chuyến tàu trưa sẽ đưa cô về lại thiên đường riêng mình. Nhà chủ ngó cái lưng cô giúp việc khuất dần và nghĩ thầm, mình đã từng có thiên đường, nhưng nó đã không còn nữa.

Cô trở lại nhà chủ cũng một bữa mưa rào. Dường như mưa cuối mùa. Lui cui rửa đôi dép, cô cằn nhằn, “rầu quá, dưới quê bước ra là gặp sình lầy, dơ muốn chết, phải ở thành phố…”.
Chủ nhà hơi khựng lại, ngỡ ngàng. Cô vẫn hồn nhiên, “đám giỗ làm bánh lủ khủ, phải ở thành phố, chạy ra chợ mua cho gọn…”. Lòng cô đã không còn buộc dây nơi bến cũ, thiên đường của cô cũng tan biến mất rồi. Rốt cuộc không có thiên đường nào hết. Chuyện bình thường thôi, cô đã được tiện nghi thành thị nuông chiều, nhận ra một chuẩn mực mới. Một trò chơi nhỏ của thời gian, nhưng mà chơi ác.

Biết vậy, nhưng nhà chủ vẫn buồn, vì lòng họ đã neo vào một cô giúp việc quê mùa, hồn nhiên, chân chất của mưa xưa.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 159 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.573 seconds.