Người gởi |
Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
|
 Gởi ngày: 01/Apr/2015 lúc 11:01am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
|
 Gởi ngày: 03/Apr/2015 lúc 7:01am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
|
 Gởi ngày: 04/Apr/2015 lúc 9:41am |
Thằng Thời
Xin thầy mẹ đừng nuôi con ăn học
Hoặc tìm con một nghề nghiệp ấm thân
Bởi mai này con sẽ làm tên lính
Học làm gì cho vô ích phù vân
Xin thầy mẹ mài con ra gan dạ
Để lớn lên khỏi sợ trước kẻ thù
Chẳng ói mửa khi chìm trong biển máu
Chẳng hãi hùng khi lạc giữa rừng sâu
Con ước muốn thầy cho con cây súng
Ngay bây giờ để tập bắn cho quen…
Xin Thầy mẹ đừng bắt con phải học
Nghĩa lý gì với cuộc sống hôm nay
Giống nòi ta bao nhiêu năm khổ nhục
Tiếng quạ kêu an át suốt đêm ngày…
Xin thầy mẹ đừng nuôi con ăn học
Hoặc tìm con một nghề nghiệp ấm thân
Bởi mai này con sẽ làm tên lính
Học làm gì cho vô ích phù vân…
Một bài thơ trước 75 (Vô Danh)
Ngày xưa, ở Ban Mê Thuột, trước nhà tôi, trong cái xóm nhỏ gọi là
xóm đạo, có tay kia tên là Thời, cũng bặm trợn lắm chứ chẳng hiền
lành gì. Thằng Thời thích chơi với tôi và tôi cũng thích chơi với nó
vì cả hai thằng đều con nhà nghèo và đều có chút tánh khí ngang tàng
trong người. Thằng Thời lớn hơn tôi cỡ chừng vài tuổi gì đó, nhưng
không hiểu tại sao chúng tôi nói chuyện với nhau lại xưng mày tao,
và mỗi lần nhắc tới Thời thì thiên hạ ai cũng đều gọi nó là thằng
Thời. Có lẽ, khi một thằng con trai đã sinh ra trong một gia đình
nghèo thì thiên hạ có quyền muốn gọi bằng bất cứ danh từ gì cũng
được.
Gia đình thằng Thời người gốc Bình Định, ăn nói nghe hơi “lọa” tai
nên chúng tôi thỉnh thoảng còn gọi nó là Thời nẩu. Cái tiếng Thời
nẩu này chỉ có mình tôi dám gọi, những đứa khác trong xóm mà vô ý
gọi như thế là sẽ bị cú đầu liền.
Gia đình thằng Thời rất nghèo. Nhà tôi tuy nghèo nhưng dù sao thì
cũng còn được cắp sách đi học và có cơm ăn áo mặc, dù không phải là
loại mắc tiền nhưng cũng không đến nổi vá chùm vá đụp, lu gạo trong
nhà ít khi cạn láng. Nhưng nhà thằng Thời thì nghèo đến độ phải chạy
cơm từng bữa, con cái chẳng được đi học, không có cả quần áo tươm
tất để mặc, mấy anh em mặc quần áo vá chùm vá đụp coi rất thảm
thương.

Ba thằng Thời làm phu khuân vác ngoài chợ. Nói là phu khuân vác cho
sang nhưng thật ra thì hễ ai cần bất cứ việc gì, từ việc khuân vác
cho đến việc gánh phân heo, ba nó đều làm tuốt. Má thằng Thời cũng
đi làm hay đi ở nhà nào đó không biết mà sáng sớm ra đi mãi cho đến
tối mịt mới trở về. Thằng Thời ở nhà coi hai đứa em. Lâu lâu ba
thằng thời về nhà, miệng toàn mùi rượu, đi đứng nghiêng ngả và ca
hát om xòm. Ông hát nhiều bài nhưng chỉ có một bài bọn tôi thích
nhất là bài (xin quí vị lượng thứ cho danh từ tục tỉu) “Ăn L… giăng
phăng” vì nó là tiếng Pháp, lời nghe ngộ nghỉnh như sau: “Ăn L…
giăng phăng đờ la Ba Trí à…” Mãi sau này tôi mới biết đó là bài quốc
ca La Marseillaise của Pháp, bắt đầu bằng câu: “Allons enfants de la
patrie, le jour de gloire est arrivé…” Nghe ông ca như thế, đàn ông
thì ôm bụng cười khoái chí, còn đàn bà thì nhăn mặt khó chịu, bảo
chú Bảy “Hát hò gì mà dô duyên tục tỉu.” Mỗi lần bọn con nít chúng
tôi gặp ba thằng Thời, đều chạy theo năn nỉ: “Chú Bảy, chú Bảy hát
bài… ăn L… cho tụi con nghe đi.” Thôi, tôi kể lại, xin quí vị đừng
chấp chúng tôi, chuyện con nít mà….
Nhưng chú Bảy không bao giờ hát khi tỉnh táo, ông chỉ lầm lầm lì lì.
Được cái là ba thằng Thời, dù có tật rượu chè nhưng khi uống rượu
say về nhà thì chỉ hát hò, không bao giờ la mắng hay đánh đập vợ con
như nhiều người Việt Nam khác. Đúng ra, chú Bảy rất thương mấy đứa
con của chú. Hôm nào ông làm được ra tiền thì thế nào cũng đem về
mấy ổ bành mì thịt, hay gói xôi, hay củ khoai, hay con khô mực (có
lẽ để dành từ bàn nhậu) cho con cái ăn. Nhưng cũng có vài khi, cả
đêm ba má nó không về, bỏ 3 anh em ở nhà bị đói meo râu. Thằng Thời
thương em, tự động đi kiếm củi nấu cơm cho các em ăn. Có khi hết
gạo, nó qua nhà tôi mượn gạo. Hồi đó chưa có mì gói cho nên nấu một
nồi cơm bằng củi không phải là chuyện đơn giản. Vào lúc mùa mưa củi
ướt, có khi nó lục đục tới khuya mới nấu chín được nồi cơm. Anh em
chúng nó ngồi quây quần ăn cơm trên nền đất với chén nước mắm, dưới
ngọn đèn dầu leo lét, coi thấy vừa tội nghiệp và lại vừa dễ thương
đầm ấm, chan chứa tình người làm sao.

Nhà nó là chỉ là một cái chòi nhỏ vách bằng ván, cũng vá chùm vá đụp
như áo quần của anh em thằng Thời. Nhà lợp mái tôn, lại cũng là thứ
tôn cũ đi lượm ở đâu về, cái dài cái ngắn, cái đen cái trắng, cũng
vá chùm vá đụp lên nhau cũng như vách ván. Nền nhà bằng đất nên mùa
mưa thì đi trong nhà mà như lội bùn và mùa hè thì bụi tung mù, làm
thằng Thời lâu lâu phải sách nước tạt xuống cho đỡ bụi. Trong nhà
độc nhất chỉ có một cái giường tre, một cái bàn nhỏ cũ kỹ chắc lượm
ở đâu đem về, mấy cái ghế cao thấp không bằng nhau, một cái tủ đựng
chén bát, một cái bếp nhỏ và một hủ gạo. Sau nhà là một thùng phuy
nước cho cả gia đình tắm gội, giặt giũ.
Hồi đó tôi rất thích qua nhà thằng Thời chơi, dù nhà nó chẳng có gì.
Có lẽ tôi thích qua nhà nó chơi vì thằng Thời có nhiều tài vặt. Hình
như, trời thường đãi những thằng con nhà nghèo bằng những cái tài
đặc biệt mà bọn nhóc con nhà giàu không thể có được.

Cái tài đầu tiên của thằng Thời là tài chơi đánh trỏng. Không biết
ai còn nhớ trò chơi đánh trỏng ở Việt Nam mình không. Trò chơi rất
đơn giản gồm 2 khúc cây, một dài một ngắn. Trước khi chơi, người ta
khoét một cái lỗ nhỏ trên mặt đất rồi để khúc cây nhỏ nằm nửa trong
nửa ngoài cái lỗ này. Khi đánh vào phần đuôi của cây gỗ nhỏ này, nó
sẽ văng lên cao và người chơi sẽ đánh vào khúc cây vừa bay lên. Ai
đánh cho nó đi xa nhất thì người đó thắng.
Trò chơi đánh trỏng coi rất đơn giản nhưng rất khó và nếu chơi thì
rất mê vì khi đánh được khúc cây nhỏ từ dưới đất lên cao, người chơi
khó mà đánh trúng được nó. Riêng tôi, đánh 10 lần thì bị hụt đến 9
lần, và nếu có đánh trúng thì cũng khó mà đánh cho xa được.
Riêng thằng Thời thì khỏi nói. Nó khum người, gõ một phát cho cây gỗ
nhỏ tung lên cao. Thay vì quất một phát vào lưng khúc gỗ, nó còn gõ
vào khúc cây hai ba cái như người ta nhồi một trái banh trong tay
rồi mới nghiến răng quất một phát thật là chính xác và thật mạnh.
Nhiều khi, nó đánh xa quá, khúc cây trỏng văng mất tiêu, không ai
kiếm ra được…
Thằng Thời còn có tài kể chuyện. Không hiểu nó nghe được ở đâu vì nó
không biết đọc, nhưng những chuyện trong Tam Quốc Chí như Quan Công
Phò Nhị Tẩu, Lã Bố hí Điêu Thuyền, Tào Tháo rượt Lưu Bị, Triệu Tử
Long đại phá quân Tào như thế nào nó kể nghe rất hay và hấp dẫn. Kể
hoài và kể nhiều thì lâu lâu cũng bị bí. Khi nào bí quá thì anh
chàng lại tự phịa ra thêm để tiếp tục kể cho chúng tôi nghe. Tôi
biết nó phịa vì sau này lớn lên đọc Tam Quốc Chí, tôi tìm mãi chẳng
thấy có khúc nào đã xảy ra như lời nó kể ngày xưa. Có điều là,
chuyện nó phịa mà tình tiết cũng lâm ly hấp dẫn chẳng khác gì chuyện
Tam Quốc thật. Thế mới tài.
Thằng Thời còn có tài làm diều. Muốn làm diều thì phải có keo nhưng
nhà thằng Thời làm gì có cho nên nó phải “cộng tác” với tôi vì tôi
đi học, luôn luôn có keo sẵn trong cặp táp. Chúng tôi mỗi đứa dán
một cái diều và trăm lần như một, diều của thằng Thời luôn luôn là
đẹp hơn và nhẹ hơn nên luôn luôn bay cao hơn tôi.

Nhờ thằng Thời, tôi mới biết là muốn thả diều phải chờ cho đến lúc
có gió to. Một hôm tôi ôm diều sang nhà nó rủ nó đi thả diều. Thằng
Thời cười bảo làm gì có gió cho mày đi thả diều mà đòi. Tôi ngây
thơ, dốt mà lại có cái đầu cứng như đá cho nên bảo nó:
-Mày không đi với tao thì tao đi một mình.
Thế là tôi quyết định đem diều ra thả. Thằng Thời đi theo, miệng
cười cười. Tôi cầm diều chạy lên chạy xuống con đường đất, chạy chậm
rồi đến chạy mau, chạy muốn xịt … nước ra đít mà con diều thổ tả
nhất định không chịu bay lên cao, cứ lên được một chút, nhưng hễ tôi
ngừng chạy là con diều lại rớt ngay xuống đất, ngay trước mặt tôi.
Cuối cùng, tôi phải chịu là nó đúng. Tôi xé nát con diều (mà không
xé thì nó cũng đã gần nát như tấm giẻ rách rồi) giận dỗi bỏ về, nghe
tiếng cười hềnh hệch của thằng Thời phía sau lưng mình….
Trên trái đất này, nếu có thằng bé con ngu dốt nào cứ đòi thả diều
lúc không có gió ấy chính là thằng Nhị đen cứng đầu ngu dốt ở Ban Mê
Thuột….

Thằng Thời còn có tài đá dế và bắt dế. Năm nào cũng thế, hễ mùa dế
tới thì cu cậu bận rộn tưng bừng và xu hào rủng rỉnh.
Mùa đá dế, mỗi buổi chiều, sau khi đi học về, vừa quẳng *** táp
xuống là tôi phóng qua nhà thằng Thời để… coi dế và theo nó đi đá
dế. Dân nhà quê chúng tôi có những thú giải trí mà dân thành phố
không bao giờ có được, đá dế là một thí dụ.
Một trận đá dế cũng hào hứng chẳng kém gì một trận đá gà hay một
trận đánh võ. Trước khi đấu, chúng tôi thường đem dế ra khoe rồi cạp
độ. Khi thì cá độ bằng tiền, một đồng, hai đồng, khi thì chỉ một cây
kẹo hoặc cây bút chì, cục gôm. Nghĩa là có thứ gì trong tay thì cá
thứ đó.
Thằng Thời cho tôi làm phụ tá… đá dế. Nó sai gì tôi làm đó. Chúng
tôi luôn luôn mỗi đứa cầm hai cái lon. Một cái lon dành để chứa dế
đá, cái kia dùng để chứa dế bán.
Trước khi đá, minh chọn một cái lon nhỏ làm đấu trường. Sau đó, dùng
tóc móc vào đầu con dế mình rồi quay nó vài chục vòng cho nó say,
phun nước bọt vào cho con dế say thêm… nước miếng. Liệu chừng dế đã
say rồi thì có thể thả nó vô “Đấu trường”, tiếp tục dùng sợi tóc gấp
làm đôi ngoáy ngoáy vào mặt nó, chọc cho nó điên lên. Khi dế bắt đầu
vỗ cánh lên, nhe nanh ra và hí lên ren rét, ấy là lúc có thể thả đối
thủ phía bên kia vào được…
Đá gà ra sao thì tôi không biết nhưng đá dế thì hào hứng lắm. Hai
con dế rống lên, phóng vào nhau, vừa cắn vừa đạp loạn xạ. Khi con
nào quay đầu bỏ chạy tức là con đó bị thua. Cũng đôi khi có con bị
cắn đứt ruột hay đứt đầu, coi cũng ghê gớm lắm.
Thường thì một trận đấu kéo dài chỉ chừng chục giây đồng hồ là cao
lắm, nhưng chuẩn bị cho nó đá thì mất rất nhiều thì giờ và công sức.
Công sức bắt đầu từ lúc đi bắt dế, nuôi dế, chọc cho dế tức vân vân
và vân vân…
Tôi không hiểu thằng Thời đi rình ở đâu mà mỗi ngày bắt về chừng
chục con dế lửa, loại to con và chiến nhất thế giới. Thằng Thời đá
dế nổi tiếng xóm tôi, không ai hạ được. Và cứ đến mùa dế, như đã
nói, thằng Thời tiền bạc luôn luôn rủng rỉnh vì nhờ bán dế. Hồi đó,
tôi nhớ mãi, thuốc lá Ruby người ta bán 3 đồng 4 điếu mà thằng Thời
bán có con dế có khi được tới 5 đồng một con. Mỗi ngày bán được vài
con là cu cậu có quyền cà rem kẹo bánh vi vút và tôi cũng được hưởng
ké.
Tại sao lại có chuyện 3 đồng 4 điếu Ruby vào đây? Xin thưa, một lần,
bán được mấy con dế được gần 10 đồng, thằng Thời ra tiệm “bà Quán”
bỏ ra 3 đồng mua 4 điếu thuốc lá Ruby. Tôi hỏi nó mày biết hút thuốc
à, thằng Thời trả lời, “Không, tao mua cho cha tao, tối về hút.”
Hồi đó nghe nó nói như thế tôi chẳng nghĩ gì thêm, nhưng sau này
nghĩ lại tôi mới thấy phục thằng Thời. Một lần nữa, tôi không biết
trên thế giới này có bao nhiêu thằng con trai đi bán dế để ăn kẹo mà
còn nghĩ đến cha mình như thằng Thời?

Nhưng ngoài những chuyện đá dế và thả diều trên, thằng Thời còn nổi
tiếng là một thằng bặm trợn. Nó đánh nhau gan lì, không thua ai và
ai cũng nói thằng Thời có võ.
Người Bình Định, nghe nói, ai cũng có chút ít võ nghệ dằn thân. Xóm
tôi ai cũng ngán nó nhưng với những người trong xóm, nó hiền khô,
không hề bắt nạt ai. Nhưng con nít xóm khác mà đi lạc qua xóm tôi,
gặp thằng Thời mà ăn nói lạng quạng thì thế nào cũng bị ăn đòn. Khi
đụng độ, thằng Thời không có tật nói nhiều. Câu trước câu sau là nó
đã vung tay đánh người ta bật ngữa ra sau rồi, không ai đỡ kịp. Lâu
lâu, nó cũng sang xóm khác sinh sự đánh nhau và có lần đánh thua, cu
cậu bị một bọn nào đó tới tận nhà kiếm, làm nó phải ra ngoài rẩy
trốn mấy ngày mới dám mò về.
Tôi phục thằng Thời ở chỗ là nó đi ăn thua ở đâu chứ không đi ăn
thua với người trong xóm. Trong xóm, thằng Thời chẳng bao giờ làm
phiền ai. Gặp người lớn tuổi, nó nói chuyện một tiếng xưng ông bà,
hai tiếng xưng con…
Một ngày nọ, tôi đang ngồi trên chiếc giường tre trong nhà thằng
Thời đọc nhật trình cho nó nghe thì bà Mậu, một người đàn bà khó
tánh và điêu ngoa nhất xóm, chạy thẳng vào trong nhà nó, mặt mày hầm
hầm làm như chỉ muốn gây sự.
Bà Mậu là một người đàn bà bí mật và khó tánh nhất xóm, nhưng theo
lời nhiều người nói, là một người đàn bà đẹp. Bà người Huế, không có
chồng, nhưng nhà cửa ở rất sang trọng bề thế so với những căn nhà
bình dân trong xóm tôi. Nhà bà có điện, và cái hàng rào kẽm gai rào
chung quanh càng làm cho nó có vẻ riêng biệt và sang trọng. Lâu lâu
trong nhà bà, từ ngoài hàng rào nhìn vào, chúng tôi thấy có thấp
thoáng bóng đàn ông, thường là đàn ông Tây, dân chủ đồn điền cafe.
Tết nhất, xe hơi đậu hàng đống trước nhà bà, nhảy đầm tưng bừng bên
trong, nhạc vang ra ầm ỉ làm bọn con nít chúng tôi cứ chen lấn nhau
ngoài hàng rào mà xem.
Có người đồn bà là gái giang hồ mà hồi tôi còn nhỏ chẳng biết gái
giang hồ là gái gì. Mãi sau này mới biết là đĩ nhưng đó chỉ toàn là
thứ tin đồn nói nhỏ với nhau nghe thôi chứ không ai có bằng chứng
gì. Nhưng phải công nhận, sau này khi lớn hơn một chút, khi nhìn bà,
tôi phải công nhận bà là một người đàn bà mà ai nhìn vào cũng thấy
thích, kể cả tôi. Thêm vào đó, bà ăn mặc lịch sự và sang trọng. Chưa
nhìn thấy bà Mậu là người ta đã ngửi được mùi nước hoa thơm lừng. Có
lẽ bà là một trong vài người đàn bà hiếm hoi sức nước hoa trong xóm
đạo tôi.
Thấy bà Mậu vào nhà mình một cách ngang ngược như thế, thằng Thời
vẫn ngồi yên trên ghế, hỏi bà:
-Chào bác, bác kiếm ai?
Bà không trả lời, nhìn láo liên khắp nhà một lúc rồi hỏi:
-Cha mẹ mi có nhà không hỉ?
-Thưa, cha mẹ con đi làm hết rồi.
Không nói gì thêm, bà Mậu khom người chổng bộ mông đít tròn trịa và
vĩ đại về phía chúng tôi, nhìn xuống đáy giường một lúc như tìm kiếm
vật gì. Rồi bà đứng lên, đi thẳng tới bên cái tủ quần áo cũ kỹ không
có cửa, nhăn mặt lại, thò tay vào đống quần áo cũ của cả nhà thằng
Thời xới qua xới lại một lúc. Lại cũng kiếm cái gì.
Thằng Thời hỏi:
-Bác kiếm chi?
Con mụ không trả lời, lại tới bên hủ gạo, mở nắp nhìn vào. Nhưng hủ
gạo tối quá, bà không nhìn thấy được nên bà thò tay vào trong hủ gạo
ngoáy qua ngoáy lại một lúc. Cặp vú to lớn và trắng như trứng gà bóc
của bà lắc qua lắc lại trong chiếc áo hở ngực theo từng động tác.
Hồi đó còn nhỏ tôi chẳng biết gì nhưng nhìn cặp vú bà cũng thấy… vui
vui.
Rồi bà nhăn mặt lại, rút tay ra, đậy nắp lại.
Thấy bà ngang ngược như thế thì tôi bất mãn ra mặt. Mẹ, nhà tôi mà
ai tới xục xạo kiểu này thì tôi đục cho hộc máu. Nhưng thằng Thời,
tuy là một thằng chẳng hiền lành gì, thậm chí nổi tiếng là hung tợn
nhất xóm, lại ngồi im không nói năng gì.
Rồi bà đứng lên, tới gần cái tủ để đồ ăn nhỏ tí tẹo mở cửa ra nhìn
vào. Không thấy gì, bà xoay người, tới bên cái giường tre duy nhất
của nhà thằng Thời, lật tung mấy cái mền, cái gối, rồi dở luôn cả
cái chiếu lên để tìm cái gì bà đang kiếm.
Bà nhăn mặt phê bình:
-Ăn ở chi mà dơ như mọi rứa hỉ.
Tôi nhìn thằng Thời, toan xúi nó chửi cho con mẹ mất dạy một trận,
nhưng nó lắc đầu quay đi, không nói gì.
Rồi bà Mậu nạt lớn:
-Thời, mấy đứa em mi đi mô rồi hỉ?
-Tụi nó chơi phía trước.
-Mi đem tụi hắn vô đây cho tao nói chuyện hỉ?
Thằng Thời đứng lên đi liền, đầu cúi xuống, không nói một lời. Ra
ngoài, thằng Thời gọi lớn:
-Con Ba thằng Tư đâu, về nhà anh Hai biểu…
Trong nhà, còn lại mình tôi, bà Mậu đưa mắt nhìn tôi. Tôi chẳng sợ,
nhướng mắt nhìn lại, kên kên. Bà Mậu có vẻ không ưa cái nhìn sấc
sược của tôi, liền nhăn mặt lại, hỏi:
-Còn thằng ni, mi mần chi ở đây hỉ?
Tôi phạng liền:
-Tui làm chi thì mắc mớ gì tới bà?
Chỉ có thế là bà tru tréo lên liền:
-Trời ơi là trời, học trò học trẹt chi mà ăn nói mất dạy như rứa hỉ.
Tau hỏi là hỏi cho vui, mi mần chi mà trả lời như quân du côn đầu
đường xó chợ rứa hỉ. Cha mẹ mi tốn tiền cho mi đi học, mi để cho
người ta dạy mi ăn nói như rứa hỉ? Mi con nhà đàng hoàng, cha mạ mi
dạy mi như răng tao không biết, nhưng mi đi theo với thằng Thời chơi
riết rồi mi mất dạy như nó.
Đúng là một con quỷ cái… vú bự. Chỉ một câu nói, nó chửi gia đình
tôi, chửi luôn cả trường học của tôi, chửi luôn cả nhà thằng Thời.
Nhưng tôi đâu ngán. Đã chuẩn bị, tôi sẵn sàng ăn thua đủ với con đĩ
này. Tôi tính phùng mang chửi lại một trận thì thằng Thời dắt mấy
đứa em nó vào nhà.
Bà Mậu chỉ mặt thằng Thời và 2 đứa em nó, hỏi:
-Tụi bay có đứa nào lấy cái quần sa-teng đen tao phơi ngoài hàng rào
không hỉ? Tụi bay thấy quần đẹp có lỡ lấy, trả lại tau, tau bỏ qua,
còn không thì tao cho cảnh sát nhốt hết cả nhà tụi bay, cha mạ tụi
bay vô tù hết. Tao quen lớn lắm, tụi bay biết không hỉ?
Trời đất, lúc ấy tôi mới biết là bà Mậu mất cái quần Sa-teng.
Nghe nói vô tù, hai đứa em thằng Thời trợn 2 cặp mắt khiếp đãm nhìn
bà Mậu, nước mắt bắt đầu muốn chảy ra. Thằng Thời nói liền, giọng
chẳng hề sợ hãi:
-Bác đừng có nói vậy oan cho tụi con. Nhà tụi con nghèo thiệt nhưng
không có phải là quân ăn cắp đâu bác. Bác vào nhà con bác sục sọi
khắp nơi, bác có tìm thấy cái gì đâu.
Thấy thằng Thời nói có lý, bà lại nói:
-Tau nói cho tụi bay biết hỉ, nếu tụi bay thấy cái quần Sa-Teng bay
rớt ở đâu thì phải lượm đem tới nhà tau, không được ăn cắp hỉ…
Rối bà Mậu bỏ đi ra, không quên lườm cho tôi một phát, ngụ ý bảo mày
liệu hồn, lần sau là tao tới nhà mày đấy.
Bà Mậu đi rồi, hai đứa em thằng Thời mới oà lên khóc nức nở. Thằng
Thời vỗ về hai em, căn dặn:
-Anh Hai dặn tụi bay hoài mà tụi bay không nghe. Nhà mình nghèo, tụi
bây đi chơi nhớ đừng có bày trò chơi gần mấy nhà giàu như nhà bà
Mậu, lỡ người ta có mất cái gì, người ta có cớ đổ tội cho tụi bây.
Tụi bây làm khổ tao, làm phiền luôn cả cha mạ.
Con Ba lau nước mắt nói:
-Dạ anh Hai đã dặn, tụi em đâu có dám đi đâu đâu, tụi em chỉ chơi
trước nhà thôi mà…
Thằng Thời lắc đầu, mặt mày chua xót bảo:
-Thôi đi chơi đi, nhớ lời anh Hai dặn.
Hai đứa nhỏ lau nước mắt bước ra. Chỉ chừng vài phút sau là tôi nghe
được những tiếng cười hồn nhiên và vui tươi của chúng nó ở trước
nhà…
Tôi hỏi thằng Thời:
-Thời, nhà của mày, sao mày để cho con đĩ thúi vô nhà lục soát khắp
nơi rồi còn chửi bới mày tùm lum như vậy?
Thằng Thời lắc đầu, cặp mắt buồn buồn nói:
-Mày không biết, đâu phải chỉ có con mẹ Mậu mới hung tợn như vậy.
Trong xóm này ai cũng vậy hết… Nhà tao nghèo nên bị thiên hạ coi rẻ,
hễ ai mất cái gì thì việc đầu tiên là họ chạy vào đây lục soát
trước, coi thử tụi tao có ăn cắp không. Nhà tao ban ngày mở cửa, ai
muốn vào chẳng được…
Tôi nói rất là thành thật với lòng mình:
-Đù mẹ con đĩ đó dám vô nhà tao mà làm như thế thì tao chém nó chết
liền tại chỗ. Tao chờ.
Thằng Thời lắc đầu, giọng buồn buồn:
-Thôi kệ mày ơi, nhà mình nghèo, mình có nói cỡ nào đi nữa thì cũng
chẳng ai thèm tin, thôi thì cứ để cho thiên hạ vô lục soát thì người
ta mới tin được. Mình vàng thiệt đâu sợ lửa mày…
“Mình vàng thiệt đâu sợ lửa mày…” câu nói đơn giản này của thằng
Thời đã ám ảnh tôi không biết bao nhiêu năm rồi. Tại làm sao trong
những hoàn cảnh nhục nhã bi thương như thế mà những người nghèo lại
nói được những câu hiền lành và dễ thương như thế. Tôi không hiểu
được.
Rồi thời gian cũng qua, cái tuổi thơ hiền lành vô tội của hai thằng
cũng theo thời gian mà lần lần phai nhạt. Càng lớn hơn thì chúng tôi
càng ít có dịp gần gũi nhau vì khi thằng Thời đã có chút ít vóc dáng
và sức lực, ba nó cho nó đi làm mướn ở đâu không biết, một tuần nó
mới về nhà vài lần. Phần tôi, công việc học hành cũng bận rộn, và
càng lớn thì khoảng cách của tôi với nó như càng xa đi, không còn
như hồi còn nhỏ. Dù hai gia đình sau này cũng vẫn còn nghèo nàn khốn
khổ như xưa, nhưng tâm hồn hai thằng bé con ngày nào ắt đã có nhiều
sự thay đổi. Thằng Thời thất học, lúc nhỏ tôi thích chơi với nó để
khi thì nghe chuyện Tam Quốc, khi thì đi đánh trỏng, khi thì đi thả
diều, đá dế. Nhưng lớn lên thì nó cũng chỉ có chừng đó mà thôi,
không có gì mới hơn. Phần tôi, những trò chơi ngày xưa không còn hấp
dẫn nữa. Tôi bắt đầu biết mê đọc sách, đọc báo, ham coi xi nê, mê
tài tử xi-nê như Alain Delon, Marlon Brando, biết những thú giải trí
khác của những thằng học sinh còn được may mắn cắp sách tới trường.
Chúng tôi nói chuyện không còn hợp nhau nữa…
Rồi đến một ngày nào đó, tôi cũng không còn nhớ đến thằng Thời nữa,
dù biết rằng gia đình nó vẫn còn ở chỗ cũ, ngay trước nhà tôi, phía
sau một căn nhà lớn.
Một ngày, lúc này tôi đã vào Trung học, tôi gặp thằng Thời và ngạc
nhiên khi thấy nó mặc áo trắng, quần ống túm, để tóc dài kiểu
Beatles. Mới nhìn qua thì coi cũng giống như trai… Sài gòn, nhưng
nhìn kỹ, vì đôi chân vẫn còn mang dép nên coi có vẻ quê mùa chứ
không được … à la mốt lắm. Cu cậu còn biết hút cả thuốc lá…
Tôi lúc ấy đang còn đi học, chưa ra đời nên thấy nó như thế thì cũng
phục lắm. Tôi rà tới hỏi thăm và trò chuyện.
Thằng Thời gặp tôi cũng mừng lắm. Nó khoe nó đi làm ở Nha Trang mới
về. Tôi hỏi làm gì, nó bảo làm đủ thứ cho một nhà hàng bán bar cho
Mỹ. Rồi nó kể chuyện Nha Trang cho tôi nghe làm tôi muốn chảy nước
miếng. Nó kể chuyện Nha Trang lộng lẫy to lớn như thế nào, ban đêm
đèn bật sáng đẹp ra làm sao, người ta đi lại như thế nào, rạp xi nê
rạp chiếu bóng tốt như thế nào, bờ biển đẹp và con gái đi tắm biển
mặc quần sì líp lòi đít, áo xú chiêng lòi vú ra làm sao làm cho tôi
mê quá. Nó khoe tôi là nó còn nói được cả tiếng Mỹ. Rồi nó sổ luôn
một tràng cho tôi nghe để chứng minh: “Du ô kê, Ai ô kê, Du nốt ô
kê, Ai nốt ô kê, ô kế… moa đờ phét…”
Đúng ra thì phải là “Ma đờ Phắc” nhưng thằng Thời người Nẫu, nói
trẹo thành “Moa Đờ Phét.” Tôi không biết Mỹ có hiểu không nhưng tôi
thì hiểu.
Hồi đó Mỹ bắt đầu đổ quân vào Việt Nam, nhưng chỉ ở Nha Trang, còn
Ban Mê Thuột thì chưa có. Quả thật là thằng Thời có tài nói chuyện.
Nó đã nói là mọi người phải nghe. Nó kể chuyện lính Mỹ uống mấy chục
chai bia mà không say, và khi say thì làm gì, làm gì, vân vân và vân
vân. Nó khoe nó cho ba nó tiền mua một chiếc Xích Lô đạp cho nên nhà
nó bây giờ đã có đầy đủ cơm ăn áo mặc. Mặt thằng Thời rạng rỡ.
Tôi chào mừng nó rồi chia tay…
Sau đó chừng một năm, tôi lại gặp thằng Thời lần nữa. Lần này, nó
mặc đồ lính, mang huy hiệu con ó của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, đang từ
trên phố đi bộ lững thững về nhà. Tôi gặp nó, hai đứa đứng giữa
đường nói chuyện. Tôi hỏi mày đi lính hồi nào, nó nói chừng sáu
tháng, mới huấn luyện xong, về trung đoàn, còn huấn luyện tiếp.
Tôi hỏi đủ thứ như, đi lính sướng không mày (một câu hỏi ngu dốt
nhất thế giới), ăn uống thế nào nào, bắn súng sướng không mày… Tôi
hỏi tùm lum vì mường tượng, một ngày nào đó, tôi cũng sẽ mặc đồ lính
như nó thôi. Đất nước mình đang có chiến tranh mà, làm sao tránh
được.
Thằng Thời trả lời:
-Đi lính thì nhớ nhà lắm, nhưng mà vui.
-Vui làm sao?
-Người ta sao mình vậy. Chính phủ cho cái gì ăn cái đó, phát cái gì
mặc cái đó, thằng nào cũng giống thằng nào, không có thằng nào giàu
hơn thằng nào hay mặc đồ sang hơn thằng nào để nó khi dễ mình…
Thì ra nó vẫn còn bị cái dĩ vãng nghèo khổ, bị người ta khi dễ ám
ảnh… Nó mời tôi vô một cái quán cóc, uống chai bia.
Mặt mũi thằng Thời dù mới đi lính nhưng không hiểu sao đã có dáng
dày dạn phong sương. Hình như ai mặc đồ lính cũng đều có vẻ dày dạn
phong sương cả. Chúng tôi ngồi nói chuyện, thằng Thời khoe:
-Tao bây giờ biết đọc chữ quốc ngữ chút chút rồi.
-Ai dạy mày?
-Quân đội dạy, bạn bè dạy thêm nữa…
Nó kể chuyện những ngày ở quân trường thật là… thoải mái sung sướng.
Ăn uống đầy đủ ngày tới 3 bữa lận, mà bữa nào cũng no say, được ăn
thả dàn, không bao giờ thiếu. Còn ngủ thì có giường riêng, có mùng
riêng, mền riêng, gối riêng, chiếu riêng. Nó còn được chính phủ phát
cho “một núi” quẩn áo, có cả áo lót, quần lót, hai đôi giầy, ba đôi
vớ. Cuối tháng lại được lãnh tiền, cuối tuần được cho nghỉngơi, ra
phố uống cà phê, đi dạo phố hay tắm biển Nha Trang.
Hồi đó đất nước mình chiến tranh, mỗi ngày không biết có bao nhiêu
thanh niên bị lùa vào quân trường để tập làm lính, ai cũng than cực,
ai cũng than khổ, ai cũng chê cơm lính khô như đá, tanh hôi, nuốt
không vào. Tôi không biết có bao nhiêu người lại khen đời sống quân
trường là đời sống thoải mái, được ăn uống đầy đủ như thằng Thời. Có
lẽ không nhiều lắm…
Ai bảo sinh ra trong gia đình nghèo thì khổ. Nhà nghèo cũng có những
cái hay đặc biệt của nó.
Nhưng thằng Thời cũng có chuyện để than phiền về đời lính. Nó bảo:
-Chuyện khổ nhất đời lính là chuyện… phải mang giày. Tao từ nhỏ tới
lớn chưa bao giờ biết mang đôi giầy, bây giờ chính phủ bắt mang
giầy, đút cặp dò vô đôi bốt đờ sô thấy ngứa ngáy khó chịu quá chừng…
Ngồi nói chuyện một lúc, có tay kia trong xóm, tên là Quới, lớn tuổi
hơn chúng tôi và khá trải đời. Tay này làm gì không biết nhưng đầu
lúc nào cũng Bi-dăng-tin bóng lộn, mang giày mũi nhọn, hút thuốc lá
Basto Xanh. Chúng tôi quen tay này nhưng không hiểu vì sao không ưa
hắn được. Hắn bước vào quán, nhìn thấy thằng Thời liền hỏi:
-Trời đất, mày mà cũng đi lính à?
Thằng Thời hãnh diện trả lời:
-Dạ em đi lính năm ngoái.
Tay Quới ngồi xuống bàn gần đó, đưa tay trịnh trọng tháo cặp mắt
kính đen bỏ xuống bàn, nói lớn, làm như muốn cho mọi người trong
quán biết hắn là một tay sành đời:
-Mày con trai một trong nhà, đáng lý phải được hoãn dịch, và mày
cũng chưa tới tuổi, tại sao lại phải bỏ nhà đi lính?
Thằng Thời trả lời tỉnh bơ:
-Dạ tại em muốn đi.
Tay kia biểu môi:
-Nhà chỉ có mình mày, mày không ở nhà giúp đỡ cha mẹ, tại sao lại đi
lính? Bộ muốn làm anh hùng hả?
-Dạ em đâu có muốn làm ông gì anh Quới? Nước mình nổi giặc, em phải
xung phong đóng góp một tay chớ anh. Em có hỏi cha, cha em nói mi
muốn đi lính thì cứ đi đi, hai em lớn rồi, ở nhà phụ cha được…
Tay kia lại nói:
-Ai cũng muốn trốn lính ở nhà cho yên thân, chỉ có mày là ham đi
lính. Thiệt tình.
-Nói như anh thì chính phủ lấy ai mà đánh giặc.
Tôi ngồi suy nghĩ về những gì hai người nói với nhau, tự hỏi lòng,
tại sao thằng Thời được hoãn dịch vì gia cảnh và chưa tới tuổi đi
lính mà lại tình nguyện đi. Nếu nói nó đi lính vì nhà nó nghèo khổ
thì không phải bởi vì lúc sau này thằng Thời đi làm công sở Mỹ, tiền
bạc rủng rỉnh và đem tiền về khá nhiều để nuôi gia đình. Mấy con em
gái nó bắt đầu lớn và ăn mặc cũng bảnh choẹ ra, không lôi thôi như
hồi xưa nữa. Nó đi lính, tôi nghĩ, vì thích cuộc sống giang hồ…
Đó là lần cuối cùng tôi gặp thằng Thời….
Một buổi chiều, cách đó chừng một năm, khoảng gần Tết, tôi đang ngồi
trong nhà học bài thì có một thằng hàng xóm xông thẳng vào nhà, la
toáng lên:
-Người ta đem xác thằng Thời về rồi…
Tôi giật nẩy mình lên, rụng rời hỏi:
-Thằng Thời chết rồi à?
-Ừ, mày ra coi, người ta đem xác nó về…
Tôi phóng ra ngoài, nhìn thấy một chiếc xe nhà binh đậu bên kia
đường, trước nhà thằng Thời. Mấy người lính chum nhau khiêng xuống
một cái hòm màu đỏ.
Hàng xóm mọi người đều bu quanh cái hòm đông quá nên tôi không thể
tới gần được. Tôi cũng chen lấn và mãi một lúc lâu sau, tôi mới chun
vào nhà nó được, nơi cái quan tài đỏ còn mở nắp để giữa nhà, chiếm
gần hết diện tích…
Đã không biết bao nhiêu năm bây giờ tôi mới vào nhà thằng Thời, và
ngạc nhiên vì nhà nó bây giờ có khá nhiều thay đổi. Cái nền đất của
nhà thằng Thời bây giờ đã được tráng xi-măng, cái giường tre cũ đã
được thay thế bằng cái giường nệm, bàn ghế trong nhà cũng hoàn toàn
khác xưa. Hình như căn nhà cũng được nới rộng ra một chút xíu…
Cuối cùng thì thằng Thời cũng trở về mái nhà xưa, nhưng về trong
chiếc quan tài màu đỏ. Về giữa tiếng khóc than của cha mẹ nó, anh em
nó, và của cả tôi. Suốt đời nó phải ở nhà nền đất, bây giờ nền nhà
đã được tráng xi măng, không biết nó đã hưởng cái sự sang trọng này
được bao nhiêu lâu mà bây giờ phải nằm im lìm bất động, không phải
trên giường mà trong một cái hòm, trên cái nền nhà yêu dấu xa xưa
của mình.
Tôi tới gần cái hòm, nhìn vào…
Mặt thằng Thời tươi tỉnh, cặp mắt nhắm nghiền như người đang ngủ.
Chiếc áo lính xanh của nó bị máu nhuộm đỏ một nửa từ ngực trở xuống
vì hình như không có ai thay đồ cho nó. Không hiểu tại sao, tôi nhớ
mãi cái gói Basto xanh trong túi áo nó. Cái vỏ là vỏ bao thuốc lá
Basto xanh, nhưng máu đã biến nó thành một gói Basto đỏ…
Không hiểu tại sao, sau này đi lính, tôi cứ nghĩ tới bao thuốc lá
Basto Xanh biến thành Basto đỏ của thằng Thời ngày nào.
Tôi chỉ ngồi gần xác thằng Thời được chút xíu thì bị đẩy ra, nhường
chỗ cho người khác…
Tôi nhìn thấy chú Bảy ba thằng Thời ngồi xổm ngay trước cửa nhà, tay
cầm một điếu thuốc lá, mặt thẩn thờ, cặp mắt hoang dại. Trong nhà,
sâu hơn một chút, con Ba đang ôm thiếm Bảy. Bà khóc không nên tiếng,
ôm lấy đứa con gái, bàn tay run lên từng hồi…
Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi có cảm giác mình gần gũi với chiến
tranh. Xưa nay, dù chiến tranh đã bùng lên dữ dội khắp quê hương
mình, nhưng tôi chỉ biết qua báo chí và radio. Bây giờ thì tôi đang
nhìn thấy thảm cảnh chiến tranh ngay trước mặt mình…
Tôi lang thang gần đó, tới chỗ những đám người đang tụ tập để nghe
người ta nói về thằng Thời. Người thì bảo thằng Thời xung phong lên
chiếm đồi thì bị bắn, người thì bảo nó bị phục kích, có người lại
bảo rằng chính tai họ nghe đại đội trưởng của thằng Thời nói vớichú
Bảy là nó tình nguyện đi lên lấy xác của bạn, bị bắn chết nửa đường.
Toàn là những chuyện nói để mà nói với nhau, còn sự thật thì ai mà
biết được….
Theo tôi, thằng Thời chết bằng cách nào, chết như thế nào đi nữa thì
cũng không quan trọng. Cái quan trọng là nó đã chết cho Tổ quốc. Cái
quan trọng là kể từ đây, gia đình thằng Thời sẽ thiếu vắng nó. Cha
mạ nó sẽ thiếu một người con. Một người con mà thuở còn thơ ấu, đi
bán dế ăn quà còn dám bỏ ra 3 đồng để mua 4 điếu thuốc lá Ruby cho
cha, một người con lưu lạc phương xa cầu thực và đã dành dụm tiền
bạc để mua cho cha mình một chiếc xe xích-lô. Một người con mà ngay
từ hổi còn nhỏ, đã biết đối đáp như sau để bảo vệ danh dự cho gia
đình mình: “Thưa bác, nhà tụi con nghèo thật nhưng không phải là
quân ăn cắp…”
Kể từ đây, con Ba thằng Tư, hai đứa em thằng Thời sẽ thiếu một người
anh đáng kính. Một người anh đã biết thương yêu đùm bọc cho chúng nó
từ những ngày xưa khi cả 3 anh em đểu vẫn còn quá nhỏ dại. Người anh
đã nửa đêm chạy đi mượn gạo về nấu cơm cho em ăn. Người anh dù thất
học nhưng đủ khôn ngoàn để dạy dỗ khuyên răn các em: “Nhà mình
nghèo, tụi bay đi chơi đừng chơi gần nhà bọn nhà giầu để hễ có mất
đồ đạc, người ta đổ thừa cho mình, làm khổ tao, làm phiền cha mạ…”
Kể từ đây, xóm tôi sẽ mất đi một thằng Thời bặm trợn. Nhưng nói như
thế thì oan cho mày Thời ạ. Mày du côn bặm trợn ở đâu không biết
nhưng ở xóm này thì mày có làm gì ai đâu. Thậm chí mày còn bảo vệ
con nít hàng xóm nữa.
Kể từ đây, quân đội tôi sẽ mất đi một người lính tốt, một chiến sĩ
can trường.
Tôi không biết quê hương đất nước mình có bao nhiêu người lính trẻ
như thằng Thời. Tôi biết chắc chắn là rất nhiều bởi nước mình nghèo,
dân tộc mình hiền lành hiếu thảo và ngay thật…
Sau ngày thằng Thời chết thì chiến tranh càng tăng cường độ. Tôi vẫn
tiếp tục đi học và sau Tết Mậu Thân, nhìn cảnh quê hương tôi bị tàn
phá, dân tôi bị tàn sát dã man thì tôi quyết định, đậu xong tú tài,
tôi sẽ tình nguyện đi lính. Đù mẹ bọn khốn nạn chúng mày muốn máu,
tao sẽ có máu.
Ai cũng sợ quân trường cực khổ nhưng tôi, giống như thằng Thời, cực
khổ đời lính chẳng có nghĩa lý gì hết. Mẹ, toàn chuyện con nít. Đối
với những thằng bé sinh ra và lớn lên trong những gia đình nghèo như
chúng tôi thì đi bất kỳ chỗ nào, làm bất kỳ chuyện gì trên cái quê
hương miền Nam Việt Nam yêu dấu này cũng chẳng có gì ghê gớm cả.
Sau ngày thằng Thời chết, chú Bảy ba thằng Thời uống rượu nhiều hơn
và về nhà trễ hơn xưa nhưng bây giờ ông không còn ca hát vui vẻ như
những ngày thằng Thời còn sống nữa. Buổi tối đi làm về, ông không
hát, chỉ cúi đầu đạp chiếc xe xích lô về nhà, lưng cong lại như chất
chứa cả gánh nặng của quê hương và trời đất trên đôi vai già nua nhỏ
bé của mình. Nhiều người trong xóm đồn là họ đã nhìn thấy nhiều đêm,
thằng Thời ngồi vắt vẽo trên chiếc xích lô do cha nó đạp, miệng hút
thuốc lá phì phào. Người ta còn đồn rằng, có lần, chú Bảy say rượu
làm té xe xích-lô, thằng Thời còn phụ cha nó đẩy xe lên. Đây chỉ là
những tiếng đồn đãi trong xóm, tôi chưa bao giờ nhìn thấy. Nhưng tôi
biết, nếu thằng Thời có về thì nó không bao giờ ngồi trên xe cho cha
nó đạp mà nó sẽ phụ cha nó để đạp chiếc xe. Tôi biết tính thằng Thời
mà…
Kính thưa quí vị, tôi vừa kể lại chuyện một thằng hàng xóm bạn tôi
chết trận. Đất nước mình chiến tranh, thanh niên đi đánh giặc chết
là chuyện thường, chẳng có gì đáng nói ở đây. Cái đáng nói là tại
sao, xin nhấn mạnh rằng tại sao, tại sao những thằng như thằng Thời,
vànhững thằng con nhà nghèo khác trên khắp quê hương mình, những gia
đình mà tụi CS gọi là “Giai cấp bần nông hay giai cấp vô sản”, đã đi
lính để chống lại chúng nó cho đến giọt máu cuối cùng? Đối với những
con người nghèo khổ này thì nói thật, CS hay tư bản, chế độ này hay
chế độ kia, có gì là khác nhau đâu? Quốc Gia hay CS có gì khác với
chúng tôi?
Câu trả lời rất là đơn giản. Họ chiến đấu bởi vì, chính phủ mình
ngày xưa, dù không phải là tuyệt đối hoàn toàn, dù có nhiều khuyết
điểm và lầm lỗi, nhưng là một chính quyền của nhân bản và đạo đức,
còn biết tôn trọng tự do của người dân, còn biết bảo vệ tài sản của
người dân, lo cho dân, cho người dân những cơ hội để tiến thân. Gia
đình họ tuy nghèo nhưng vẫn còn có được cuộc sống êm đềm hạnh phúc,
được có cơm ăn ngày ba bữa, được luật pháp bảo vệ.
Cuối cùng, quan trọng nhất, chính quyền mình còn cho họ một hy vọng,
một niềm tin để chiến đấu và để sống.
Hy vọng gì và niềm tin gì, xin thưa, là một ngày nào đó, cho dù nếu
thế hệ tuổi trẻ cực khổ của miền Nam này không còn ngẩng mặt lên
được để làm người thì con cháu họ cũng sẽ có cơ hội để ngẩng mặt
lên, sẽ được tiến thân, sẽ được làm người. Bây giờ thì chỉ có họ
khổ, nhưng họ chấp nhận làm bóng tối để nuôi dưỡng mặt trời, nuôi
dưỡng hy vọng, nuôi dưỡng ngày mai… Nhưng nếu họ buông súng, cả dân
tộc mình sẽ lầm than khốn nạn. Họ chẳng bao giờ muốn thế.
Đó là lý do tại sao tuổi trẻ miền Nam đã ùn ùn ra chiến trường cầm
súng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng chết bất kỳ giờ phút nào,
tại bất kỳ chỗ nào để chống bọn Cộng phỉ xâm lăng..
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 04/Apr/2015 lúc 12:30pm
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
|
 Gởi ngày: 06/Apr/2015 lúc 8:10am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
|
 Gởi ngày: 14/Apr/2015 lúc 8:29am |
PHỐ CŨ NGÀY VỀ

on đường tiến thân dang
dở. Tình yêu đành đoạn chia lìa. Nước mất, nhà tan. Gia sản tiêu vong.
Bản thân bị lưu đày trong trại tù cải tạo. Gia đình đổ vỡ ly tán. Không
còn có người thân trên mảnh đất quê hương đã sống.
Ngần ấy biến cố liên tiếp xảy ra trong khoảng thời gian sáu năm đã biến
đổi cuộc đời Tường trở thành trắng tay, mình trần thân trụi. Trên con
người anh hôm nay chỉ còn mỗi bộ đồ bà ba bạc màu chắp đầy tấm vá dành
cho một tù binh chiến tranh vừa được thả ra khỏi trại cải tạo. Tường
bước đi với đôi dép râu và chiếc ba lô hành trang tơi tả lép xẹp, trước
những cặp mắt cảm thông xót xa của người dân miền Nam, trên đường quay
gót tìm về lại ngôi nhà cũ nhỏ bé ở Sài Gòn. * * * Về
đến bến xe thành phố Đà Nẵng đã quá 11 giờ đêm. Tường cám ơn người tài
xế xe đò đã cho anh quá giang chặng đường dài, từ trên đỉnh đèo Liêu
thuộc huyện miền núi Tiên Phước về Đà Nẵng không phải trả tiền xe. Người
tài xế siết chặt tay từ giã kèm theo lời an ủi thân mật. Tường lội bộ
thẳng về hướng nhà ga xe lửa cách đó hơn hai cây số, dẫu đoán biết trong
giờ giấc khuya khoắc này cầm chắc sẽ không còn một chuyến tàu nào nữa
trên sân ga. Anh vẫn phải đến đó với hy vọng tìm được một chiếc ghế
trống bên trong phòng đợi của nhà ga để ngả lưng qua đêm, không sợ bị
nhiểm sương lạnh, đợi đến sáng hôm sau sẽ mua vé tàu suốt về Sài Gòn.
Thành phố chìm vào giấc ngủ im lìm, tối đen như mực.Tường cắm đầu rảo
bước giữa đêm khuya. Có ánh đèn của một chiếc xe ôm trờ tới bên anh,
người lái xe chào mời, - Đi xe không anh ? Tường vừa tiếp tục bước vừa trả lời, - Không. Tôi đi bộ được rồi. - Anh đi tới đâu ? - Nhà ga xe lửa. - Giờ này làm gì còn chuyến tàu nào mà anh tới đó. - Tôi cũng đoán như vậy, nhưng vẫn phải tới đó để nghỉ qua đêm. - Anh không có nhà người quen ở đây sao ? - Không. - Nhìn anh tôi đoán chắc là người tù cải tạo mới về phải không ? - Dạ, đúng. - Vậy thì cứ ngồi lên xe đi, tôi chở anh đến nhà ga xe lửa khỏi trả tiền. Tường
ngạc nhiên vui mừng trước sự vồn vã tốt bụng của anh lái xe ôm, không
ngần ngại ngồi lên phần ghế sau của chiếc xe gắn máy. - Trại cải tạo chắc ở xa lắm nên anh mới về đến đây khuya khoắc như vậy ?
- Anh nói đúng. Tôi rời khỏi trại lúc trời vừa sáng, đi bộ theo triền
núi ra tới đường cái thì đã xế chiều. May mắn đón đưọc chuyến xe đò cuối
cùng trên đỉnh đèo Liêu vào lúc trời chạng vạng, vừa về đến Đà Nẵng
cách đây chừng nửa tiếng đồng hồ. Anh lái xe ôm dừng lại trước nhà ga xe lửa, tắt máy xe và ngỏ lời mời Tường một cách chân tình,
- Theo như lời kể, chắc chắn từ sáng đến giờ anh chưa có thời giờ để ăn
uống. Tôi mời anh vào quán ăn khuya này dùng một tô bún cho đỡ đói
lòng. - Dạ, xin cám ơn anh.
Quả thật, từ sáng sớm Tường mãi miết đi thật nhanh, chỉ mong sớm thoát
khỏi vùng rừng thiêng nước độc của trại tù cải tạo mà không thiết gì đến
chuyện ăn uống. Anh vô cùng cảm kích trước lời mời hào phóng của người
lái xe ôm giữa đêm khuya. Một tô bún cho Tường trong giờ phút này là rất
cần thiết để cơ thể vượt qua cơn mệt lã đang kéo đến. Nhưng, tấm lòng
quý mến của người dân miền Nam dành cho một kẻ chiến bại như anh càng
cần thiết hơn để Tường vững tin vào chân giá trị của tình quân dân keo
sơn trước biến chuyển đen tối của vận mệnh đất nước. Tô bún cá ngừ đậm đà nghĩa tình giúp Tường lấy lại thần trí tỉnh táo, anh buộc miệng,
- Bún ngon quá. Cám ơn anh nhiều. Sáu năm trong tù tôi chưa bao giờ
được một bữa ăn thoải mái ngon lành như đêm nay. Tại sao anh đối xử tốt
với tôi như vậy ? Anh lái xe ôm khoác tay trấn an, - Anh đừng nghĩ ngợi điều gì xa vời. Người dân chúng tôi không bao giờ quên các anh. Như sực nhớ ra điều muốn hỏi, anh xe ôm nói tiếp, - Anh về đâu ? - Bà Rịa. - Như vậy phải mua vé tàu suốt Bắc- Nam. Anh có tiền mua vé tàu không ? - Dạ, có. - Trong trại cải tạo họ cho phép các anh giữ tiền ?
- Không. Lúc mới bị bắt vào trại họ đã tịch thu tất cả. Hôm nay khi thả
chúng tôi, tùy theo địa phương mà người tù sẽ về, xa hay gần, họ phát
cho một số tiền đi đường. - Họ đưa anh bao nhiêu tiền đường ? - Bảy chục đồng. Không biết vé tàu bán bao nhiêu ? Anh xe ôm bật cười khảy, - Hừ, chỉ có bảy chục đồng làm sao đủ tiền cho anh về tới Bà Rịa. - Bao nhiêu mới đủ trả tiền vé tàu ?
- Vé tàu suốt Đà Nẵng – Sài Gòn giá chính thức là chín chục đồng, mua
chợ đen phải là một trăm rưỡi. Nhưng tôi cam đoan không bao giờ anh mua
được giá vé chính thức. - Xin lỗi, anh nói tôi chưa hiểu hết ý.
- Anh phải mua vé tàu về Sài Gòn với giá một trăm rưỡi, cộng thêm tiền
xe đò từ Sài Gòn đến Bà Rịa. Họ phát chỉ có bảy chục đồng thì làm sao
anh có thể về đến nhà, nếu có người cho anh thêm tám chục đồng để đủ
tiền mua vé tàu, rồi anh sẽ phải nhịn đói suốt mấy ngày đường hay sao ?
Tường chợt hiểu ra sự khó khăn bắt đầu từ hôm nay, khi anh vừa mới rời
khỏi nhà tù khổ sai được mệnh danh trại cải tạo. Anh vừa chạm ngay một
thử thách mới mẻ đầu tiên của cái xã hội mang mỹ từ “xã hội chủ nghĩa”
mà vì chưa từng được hòa mình vào, nên chưa thể nhìn thấy được bộ mặt
lắc léo ngóc ngách của nó. Tường phải làm
gì để có đủ số tiền mua vé tàu chợ đen về Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn về Bà
Rịa cho kịp thời hạn trình diện công an địa phương mà trại cải tạo đã
có ấn định rõ ngày tháng trong Giấy Ra Trại. Anh xe ôm đột nhiên phá tan sự lo lắng vừa xuất hiện trong đầu óc của Tường, - Được rồi, tôi có cách giúp anh. * * *
Tường choàng tỉnh thức giấc vì những ồn ào và tiếng chân đông người qua
lại hòa cùng tiếng kêu réo gọi nhau bên trong phòng đợi nhà ga xe lửa.
Ngồi dậy, nhìn chiếc đồng hồ lớn bên trên vách quày bán vé chỉ 4 giờ 30
phút sáng, anh biết rằng mình đã ngủ được hơn bốn tiếng đồng hồ trên
chiếc ghế băng này. Chung quanh anh, hành
khách đáp xe lửa bắt đầu tập trung vào phòng đợi chuẩn bị đi chuyến tàu
đầu tiên trong ngày, Tường đoán vậy. Hồi
đêm qua trước khi chia tay, người đàn ông trung niên lái xe ôm có hứa
sẽ quay lại nhà ga vào trưa nay để giúp đỡ Tường mua một chiếc vé về Sài
Gòn. Bởi vì với số tiền bảy chục đồng đang có, anh không đủ để trả tiền
mua vé tàu. 7 giờ sáng.
Quày bán vé mở cửa. Trước cảnh tượng tấp nập người chen lấn nhau bu kín
quanh cửa sổ bán vé, Tường mon men đến gần nghe ngóng quan sát. Nhìn
cảnh tượng này anh đoán biết nếu có dấn thân chen lấn với làn sóng người
ập tới mỗi lúc mỗi đông thì có đến ngày mai cũng chưa chắc gì mua được
vé. Anh thất vọng quay lại ngồi xuống chiếc băng ghế trong phòng đợi.
Nếu không gặp được người lái xe ôm tốt bụng vào đêm hôm qua, Tường sẽ
không biết phải xoay xở thế nào để có thể về đến Bà Rịa đúng thời hạn.
Trong bụng đã có cảm giác đói cồn cào, vẫn cố gắng nhịn, Tường đi ra đến
cửa hàng ăn uống quốc doanh bên ngoài nhà ga với ý định xin một ly nước
uống cho qua cơn đói. Gần giờ trưa, quán ăn rất đông khách, các nhân
viên phục vụ lăng xăng bận bịu chạy tới chạy lui như những con thoi.
Nhìn thấy Tường áo quần bần cùng vá víu, đứng tần ngần ở lối ra vào chưa
dám mở miệng, một người phục vụ trong cửa hàng gay gắt xua đuổi, - Thằng kia, cút ra ngoài cho người ta buôn bán, sao cứ đứng ì ra giữa lối đi vậy - Cô à, tôi khát nước làm ơn cho tôi xin miếng nước. - Có nước thừa đâu mà cho mày. Cút xéo đi ! Tường vội vàng quay lưng bước ra khỏi quán ăn. Anh trở lại nằm xuống trên chiếc ghế băng trong nhà ga xe lửa. Rồi thiếp đi. Có một bàn tay đập nhẹ lên vai, Tường thức giấc, nhận ra người lái xe ôm vừa trở lại tìm anh đúng như đã hẹn. - Anh đã ăn gì chưa ? - Dạ chưa…Tôi cũng rất muốn mua một cái gì ăn, nhưng sợ cạn hết tiền xe sẽ bị kẹt lại đây lâu dài. - Thôi được, anh theo tôi. Sẽ có cách giúp anh.
Người đàn ông lái xe ôm chở Tường chạy về hướng trung tâm thành phố Đà
Nẵng, ngừng lại trước một tiệm cà phê giải khát tư nhân. Anh ta giúp
Tường cột chặt cái ba lô cũ trên porte-bagage của chiếc xe gắn máy rồi
ngoắc tay mời Tường cùng anh ta bước vào quán.
Quán cà phê nhỏ bày biện sơ sài trông rất bình dân. Thực đơn ở đây chỉ
bán các thức uống giải khát đủ loại cùng với một món ăn duy nhất là bánh
mì trứng chả lụa. Đã quá trưa, quán vắng
khách. Người nữ chạy bàn đến ghi nhận các món ăn uống do hai người
khách mới vào. Thêm một lần nữa, Tường được anh xe ôm mời thưởng thức
bữa ăn trưa có vẻ đơn giản nhưng lại rất đặc biệt với bánh mì trứng chả
lụa và ly cà phê sữa nóng. Tường cảm giác sung sướng, bất giác thốt lên
một cách chân thành, - Với tôi, giờ phút
này anh là vị ân nhân trong chặng đường khó khăn nhất đời mình. Bởi vì
nếu không được gặp anh đêm hôm qua phần chắc là tôi sẽ rơi vào hoàn cảnh
khốn đốn phải sống lang thang tại đây, lại còn được tiếp đãi bằng hai
bữa ăn rất ngon đêm hôm qua và trưa nay, khiến tôi không biết phải nói
sao cho hết lòng biết ơn đối với anh. -
Anh quá khách sáo nữa rồi. Chúng tôi phải biết ơn các anh thì mới phải.
Bởi vì chính các anh đã từng cầm súng bảo vệ người dân chúng tôi. Nay
đứng trước hoàn cảnh các anh bị hoạn nạn, chúng tôi đâu thể nào làm ngơ.
Đúng hơn, đây chỉ là một phần rất nhỏ để tỏ bày tình cảm của lòng dân
đối với những người lính như anh mà thôi. Rút từ trong túi áo, người xe ôm chìa gói thuốc lá thơm mời Tường một điếu. Tường cảm kích,
- Từ hôm qua đến nay anh là người đầu tiên đã cho tôi có dịp thưởng
thức lại những món ngon vật lạ mà sáu năm qua tôi đã quên mất đi hương
vị thật tuyệt vời. Rít một hơi dài thuốc lá, anh xe ôm chuyển qua đề tài
thăm hỏi gia cảnh của Tường, - Nghe giọng nói, tôi chắc chắn anh là người dân xứ Quảng, tại sao không có người thân nào ở thành phố Đà Nẵngnày ?
- Anh nói đúng. Tôi gốc người Quảng. Gia đình tôi trước kia ở đây. Tôi
theo bậc trung học tại trường Phan Châu Trinh cho đến khi đậu Tú tài
toàn phần.Tường vừa nói dứt lời thì từ ngoài cửa một thiếu phụ tay dắt
đứa bé gái nhỏ cở độ tám tuổi đi vào tiệm. Anh xe ôm nhìn thấy, vội đứng
lên bước ra chào thân mật và cúi xuống bế cháu nhỏ quay trở vào bàn,
giới thiệu với Tường, - Đây là đứa cháu kêu tôi bằng cậu. Quay sang cháu, anh xe ôm giục, - Con cúi đầu chào chú đi.
Đứa nhỏ vâng lời, khoanh tay cúi đầu “ Chào chú !”. Vào lúc ấy, mẹ của
cháu bé cũng vừa đến gần tươi cười chào khách. Bỗng dưng, cả Tường lẫn
người thiếu phụ đều khựng lại trố mắt nhìn nhau, vô cùng ngạc nhiên.
Người đàn bà bật lên tiếng hỏi, - Có phải đây là Tường không ? - Phải. Có phải Nguyệt không ? - Phải. Lâu quá biến mất, sao bữa nay gặp lại nhìn Tường giống “nhân dân tự vệ” quá vậy ? Tường hết sức mừng rỡ, chưa kịp trả lời thì anh lái xe ôm đã xen vào, - Ủa, vậy là hai người quen biết nhau ? Cả Tường và Nguyệt đồng thanh đáp, - Phải rồi. Bạn học cùng lớp mà. Nguyệt kéo chiếc ghế ngồi xuống, quay sang hỏi anh xe ôm, -Vậy anh Ngôn cũng là bạn của Tường phải không ? - Không. Vừa nghe cô kêu tên anh này là Tường, mới biết được tên của ảnh. - Hai người không phải cùng ngồi uống cà phê với nhau hay sao ? Tường nghiêm chỉnh xác nhận,
- Nguyệt à, đúng như anh Ngôn đã nói. Bây giờ tôi mới biết người chở
mình đi uống cà phê bữa nay có tên là Ngôn. Nếu tôi đoán không lầm
Nguyệt là em của anh Ngôn ? - Đúng vậy. Nhưng hai người đã gặp nhau tại đâu trước khi đến đây ?
Đoán chắc Tường ngại ngùng, anh Ngôn đỡ lời kể lại cho Nguyệt biết toàn
bộ câu chuyện đã gặp Tường mới vừa đêm hôm qua, cùng với hoàn cảnh khó
khăn mà Tường đang gặp phải. Ngôn nói tiếp, - Mấy bữa trước nghe Nguyệt nói cần người đến phụ giúp làm việc ở tiệm
tạm thời trong vài tuần, thay cho cô chạy bàn muốn xin nghỉ phép về quê
thăm gia đình, nên anh mới chở anh Tường đến đây uống cà phê, luôn thể
giới thiệu người cần việc làm cho cô chủ tiệm. Ngờ đâu hai người đã quen
nhau từ thời còn đi học. Được vậy càng hay.
Thật ra, Nguyệt quen rất thân với Tường vào thời gian học lớp đệ nhất,
năm cuối của bậc trung học và đã nhiều lần đến thăm chơi nhà Tường vào
dạo ấy. Ngày Cộng sản vào chiếm Đà Nẵng năm 1975, lấy cớ “đánh tư sản”
họ mang súng ống ập vào nhà bắt giữ ba má Tường khảo của, vơ vét sạch
tài sản rồi mới thả ra cho đi Sài Gòn, đã gây nên chấn động trong dư
luận đồng bào thành phố, không ai mà không biết. Nguyệt và anh Ngôn đều
biết rõ vụ này. Duy chỉ có anh Ngôn không hề biết gia đình nạn nhân đó
chính là ba má của Tường. Mười ba năm
sau, gặp lại người bạn cũ trong một hoàn cảnh đói rách đáng thương không
ngờ, do bởi sự đổi đời dưới chế độ cộng sản sắt máu, Nguyệt nhìn người
đàn ông đen đúa gầy gò xơ xác trong bộ đồ bà ba lốm đốm mấy tấm vá đang
ngồi đối diện mà không thể tin được người đó lại là Tường của ngày xưa.
Như để lấn lướt xúc động, Nguyệt hỏi Tường, - Hai bác bây giờ ở đâu ? - Tôi chỉ biết tất cả gia đình đã chạy vào Sài Gòn mấy năm rồi, không biết bây giờ ra sao.
Bất giác, Nguyệt bùi ngùi nhớ lại những hình ảnh mà chính mắt cô đã
chứng kiến vào cái ngày hai chiếc xe chở đầy bộ đội cộng sản với đầy đủ
súng đạn, đổ quân xuống bao vây nhà ở và cũng là tiệm buôn của gia đình
Tường, nằm trong khu trung tâm thành phố, không xa nhà của Nguyệt. * * *
Nhờ sự dàn xếp của anh Ngôn, Tường lưu lại Đà Nẵng thêm một thời gian
ngắn để phụ giúp tạm công việc trong tiệm cà phê của Nguyệt, hy vọng
kiếm đủ tiền mua vé tàu về Sài Gòn. Anh Ngôn đưa Tường đến đồn công an
thuộc thành phố Đà Nẵng làm thủ tục đăng ký tạm trú, có đóng dấu và ký
tên xác nhận của người Trưởng đồn trên tờ Giấy Ra Trại, giúp cho Tường
không còn lo ngại việc trễ hạn trình diện tại địa phương mà anh sẽ phải
về cư trú sau khi rời Trại Tù Cải tạo.
Vẫn biết, với tình bạn thân thiết Nguyệt có thừa khả năng và sẵn lòng
giúp cho Tường một vé tàu về Sài Gòn khá dễ dàng.Tuy nhiên trong sâu
thẳm, Nguyệt muốn nắm cơ hội cầm giữ Tường bên cạnh nàng càng lâu càng
hay. Việc thuê mướn Tường làm người giúp việc trong tiệm cà phê sẽ có đủ
danh chính ngôn thuận để Nguyệt giữ chân Tường ở lại Đà Nẵng. Ngày đầu tiên, Nguyệt ra chợ mua về hai bộ áo quần mới, khéo léo trao cho Tường,
- Đây là áo quần của anh Dưỡng còn để lại ở nhà - chồng Nguyệt là sĩ
quan Cảnh Sát Quốc Gia, bị mất tích sau ngày 30 tháng Tư 1975 - Tường
hãy thay bỏ bộ đồ “nhân dân tự vệ” đang bận trên người thì mới tiện làm
việc trong tiệm được. Không chút ngại ngùng Tường cầm lấy, nói lời cám ơn và tức khắc đi thay bộ áo quần mới. Bắt
đầu hôm ấy, mỗi sáng sớm Tường cùng đi với Nguyệt từ nhà ra tiệm,
khoảng cách có mấy bước, mở cửa buôn bán. Gần nửa đêm đóng cửa tiệm, về
ngả lưng trên chiếc đi-văng trong gian sau của nhà ba má Nguyệt. Phải nói, Nguyệt rất vui trong thời gian có Tường cùng làm việc bên cạnh.
Những giờ giấc cố định có đông khách ăn uống trong ngày, Tường vô cùng
đắc lực thoăn thoắt không hở tay. Khoảng xế chiều thường vắng khách, là
lúc thuận tiện để Nguyệt và Tường cùng ngơi việc, ôn lại chuyện cũ thời
học trò, để ký ức được dịp tuôn trào tự tâm tư của mỗi người. * * * Giúp
việc tại quán cà phê được mười ngày, Tường nhắc lại với Nguyệt ý định
muốn về Sài Gòn trong vài ngày sắp tới. Dường như Nguyệt cũng đoán
trước, đã chuẩn bị sẵn lời giải đáp, - Tường ở lại thêm mấy ngày nữa đi, chờ Nguyệt nhắn gọi cô người làm trở lại tiệm rồi sẽ mua vé tàu cho Tường về. Tường
dễ dàng thuận theo ý Nguyệt. Vì lẽ nếu cô bán hàng chưa trở lại tiệm,
Tường bỏ đi, chỉ còn một mình Nguyệt đâu thể nào cáng đáng nỗi công
việc. Buổi tối hôm ấy, sau khi đóng cửa
tiệm, Nguyệt giữ Tường ngồi lại để có vài điều muốn nói. Bày ra bàn mấy
món ăn tự tay nàng nấu, và hai ly bia hơi, Nguyệt tươi cười mời,
- Tường ngồi lại đây, mình vừa ăn khuya vừa nói chuyện. Nguyệt muốn hỏi
ý kiến Tường. Nguyệt vui vẻ kéo chiếc ghế ngồi bên cạnh Tường, cả hai
người cùng rót bia vào ly và cầm đũa nếm món ăn. Nguyệt bắt đầu câu chuyện, - Tường có muốn ở lại Đà Nẵng để buôn bán chung trong tiệm với Nguyệt hay không ? Hơi khựng lại vì một câu hỏi khá bất ngờ của Nguyệt, ngập ngừng lúng túng tìm câu trả lời, Tường nói, - Thú thật. . . Tường chưa hề có ý nghĩ này. . . không biết phải trả lời thế nào.
- Tường cứ suy nghĩ đi. Nguyệt thật lòng quý mến tình bạn lâu năm với
Tường. Không khí câu chuyện giữa hai người vừa được bắt đầu bỗng dưng
trầm lắng. Đôi mắt chăm chăm nhìn vào bàn tay đang xoay xoay ly bia trên
bàn, Nguyệt như có điều muốn nói thêm, nhưng chưa thốt được ra lời. Vài
phút yên lặng trôi qua, Nguyệt chủ động đặt câu hỏi, - Tường đã có ý định sẽ làm gì để sinh sống sau khi về Bà Rịa ? Lại thêm một câu hỏi mà Tường không thể có câu trả lời ngay lúc này, chỉ ấp úng, - Chưa có. . . biết được . . . sẽ . . . làm gì, để về đó rồi mới tính. - Ở đây, Nguyệt thật sự đang cần có một người như Tường. - Không phải Nguyệt đã có sẵn người giúp việc bán hàng rồi hay sao ? Đến phiên Nguyệt ngập ngừng xen lẫn xúc động,
- Tường có biết đâu . . . sáu năm qua Nguyệt một mình chống chọi với
đời sống để nuôi con. Anh Dưỡng thì bặt vô âm tín, không biết sống chết
thế nào. Những món ăn trên bàn như bắt đầu nguội lạnh. Hai ly bia cũng vừa tan loãng dần với nước đá. Tường muốn nắm tay an ủi Nguyệt, nhưng rụt rè không dám cử động. Bất chợt, Nguyệt xoay người chụp nắm lấy bàn tay của Tường,
- Tường hãy ở lại đây. Có Tường bên cạnh mỗi ngày Nguyệt thấy rất yên
tâm. Giờ phút này, Tường vừa hiểu thêm được một điều cần nên hiểu. Uẩn
tình trong lòng người phụ nữ đơn chiếc mà tháng ngày là những sợi dây
xích oan nghiệt quấn chặt lấy đời sống vô vọng. Tường động lòng muốn ôm
Nguyệt vào vòng tay, nhưng rồi tự kềm chế, chỉ nắm chặt bàn tay an ủi,
- Nguyệt hãy cố gắng lên, lấy thêm can đảm để sống. Cũng như hàng triệu
người phụ nữ khác đang cùng cảnh ngộ mất chồng, mất con sau cuộc chiến.
Tường đây có khác gì với Dưỡng chồng của Nguyệt đâu. Vợ con của Tường
cũng cam chịu cảnh ly tán như Nguyệt mà thôi. Bây giờ Tường ngồi đây với
Nguyệt mà vẫn không biết được tình cảnh của gia đình mình hiện xấu tốt
ra sao, ai còn ai mất. Nguyệt qua cơn xúc động, lấy lại bình tĩnh nâng ly bia nhắp một ngụm, - Có lần nghe nói gia đình ba má Tường đã đem đứa con ra ngoại quốc rồi mà ?
- Tường chỉ hy vọng và đoán ra như vậy, sau khi người cô họ lên trại
thăm nuôi cách đây hơn một năm có ý nói xa nói gần, nhưng không chắc là
có đi được hay không. - Còn vợ Tường thì sao ? - Không có tin tức gì hết. - Nếu Tường về Bà Rịa thì sẽ ở với ai ? - Người cô họ có cho biết tin về gia đình Dì Dượng của Tường đã phải
dời nhà về vùng quê ở Bà Rịa, nên Tường sẽ về ở nhờ với Dì Dượng một
thời gian để tìm tin tức gia đình mình, rồi sau đó mới tùy cơ tính toán
đến việc làm. Nguyệt trầm ngâm. Nàng
không thể thấy được một chút ánh sáng nào trong bước đường sắp tới của
Tường khi phải về sống trong một vùng quê ở Bà Rịa. Tường muốn về Bà Rịa
chỉ vì nặng lòng với những người thân yêu đã xa vắng sáu năm trời mà
quên nghĩ đến tương lai kề cận phía trước của chính bản thân mình. Tường
có thể đi tìm tin tức gia đình sau khi đời sống của anh đã hoàn toàn
yên ổn với Nguyệt tại Đà Nẵng. Tại sao không mạnh dạn gợi ý cho Tường
giải pháp này ? Nguyệt gắp thức ăn bỏ vào chén của Tường, rồi nâng ly
bia nhắc nhở, - Nãy giờ Tường chưa ăn gì
hết. Thôi hãy tạm gác chuyện Bà Rịa, cứ vui vẻ cùng nhau ăn uống, đánh
dấu ngày chúng mình gặp lại nhau sau cuộc chiến. * * * Chiều
hôm sau. Giờ vắng khách.Tường đang thu xếp số ly tách, chén đĩa vừa rửa
xong lên kệ tủ trong bếp, Nguyệt đến cạnh gợi chuyện, phân tách cho
Tường hiểu những suy nghĩ sau cùng của nàng chưa kịp nói ra vào đêm hôm
qua. Nguyệt cảnh giác, đúc kết lợi hại cho đời sống cá nhân của chính
Tường, nếu phải chấp nhận đi về miền quê, y như tự nguyện đi “vùng kinh
tế mới” ở Bà Rịa. Theo Nguyệt, cái gọi là
“vùng kinh tế mới” thực chất chỉ là cái bẩy sập để tống khứ tất cả
những thành phần dân chúng đã từng có mức sống cao trong xã hội miền Nam
trù phú trước kia, không thích hợp và cũng không phục tòng chế độ cộng
sản. Nắm lấy cơ hội đó, bọn chúng đưa cán bộ cộng sản miền Bắc vào trám
chỗ trong các thành phố lớn để dễ bề thao túng cai trị và làm giàu. Nguyệt vạch rõ,
- Chiêu dụ, vẽ vời và thậm chí còn răn đe buộc người dân thành phố phải
chấp nhận rời bỏ nhà cửa để đi sống ở vùng kinh tế mới là một trò lừa
đảo toàn dân trên tầm mức quốc gia nhằm mục đích trấn lột tài sản của
người dân thành thị miền Nam. Từ thời trung cổ, con người sống trên địa
cầu đã từng xử dụng cái cuốc, cái xẻng, cái dao, cái rựa, cái mác, cái
liềm trong công việc đồng áng, trồng trọt, làm nương làm rẫy để sinh
tồn. Ngày nay giữa lúc nhân loại đã tiến lên trình độ cơ giới hóa, kỹ
thuật hóa, nhà nước cộng sản lùa dân thành thị về nông thôn buộc phải
sống trở lại như thời trung cổ, cầm cuốc, xẻng, dao, rựa đi phá rừng làm
rẫy để tự kiếm ăn, lại còn lớn tiếng tung hô là “chính sách đưa dân đi
vùng kinh tế mới”. Mới ở chỗ nào ? Bịp bợm !
Tường ngừng tay lắng nghe Nguyệt nói, trong lòng cảm thấy thán phục lý
luận sắc bén kiên cường của một người phụ nữ có ăn học, biết suy nghĩ. Ngưng một lúc Nguyệt dịu giọng,
- Tường nên cân nhắc cẩn thận với quyết định đi về vùng quê hay vùng
kinh tế mới. Hãy cố gắng bằng mọi cách để được sống trong các thành phố
lớn. Nếu Tường không muốn ở lại Đà Nẵng thì tốt hơn hết là phải bám vào
Sài Gòn. - Cám ơn Nguyệt về những lời
khuyên rất chân tình. Tường vừa mới ra khỏi nhà tù cộng sản chưa đầy hai
tuần lễ, chưa hiểu biết gì về cái xã hội hiện nay. Trước khi gặp lại
Nguyệt, Tường không có một chọn lựa nào khác ngoài Bà Rịa. - Nhưng ngay bây giờ Tường vẫn có thể chọn cho mình một đời sống yên ổn, chưa muộn. Trước sức thuyết phục mạnh mẽ của Nguyệt, Tường bối rối lặng thinh. Nguyệt tiếp, - Tường đã trình Giấy Ra Trại cho đồn công an ở Đà Nẵng đây. Việc điều chỉnh thời gian lưu trú dễ như trở bàn tay. Đột nhiên, Tường ôm đầu biểu lộ sự bối rối cao độ. Xoay qua nắm tay Nguyệt, anh gằn giọng phân trần,
- Nguyệt nên hiểu giùm cho Tường. Một ngày nào đó, bất ngờ Dưỡng tìm về
với gia đình vợ con, giống như hoàn cảnh của Tường bây giờ, nhìn thấy
Nguyệt đang yên ấm với Tường thì thử hỏi Dưỡng sẽ đau khổ đến mức nào ?
Làm sao Tường chịu đựng nỗi sự hổ thẹn dày vò, bởi vì chồng của Nguyệt
từng là đồng đội của mình, cùng lâm vào hoàn cảnh của một kẻ mất nước
tan nhà giống như mình. Tường không thể. . . xin lỗi Nguyệt !
Lưu Thiên Lý
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Apr/2015 lúc 8:59am
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
|
 Gởi ngày: 16/Apr/2015 lúc 7:07am |
NGƯỜI BẠN THÂN
Trời hôm nay thật đẹp, cơn nắng nhè nhẹ trải dài trên con đường đầy
lá vàng rơi.Tôi, từng bước, bước nhẹ trên những lá vàng, nghe vang
vọng một âm thanh xào xạc của từng chiếc lá vỡ òa dưới bước chân
tôi. Tôi thích nhất là được đi nhẹ nhàng trong một khung cảnh cô
tịch như thế này, để tôi sống lại với chính tôi, với nỗi buồn man
mác, mà đã từ lâu gắn bó với tôi. Đi một mình dư
Tôi có người bạn cùng xóm, rất thân, không riêng
cá nhân tôi, mà thân cả với gia đình tôi. Anh chàng này hơn tôi hai
tuổi, nhưng khi tôi đã gọi là bạn, và nhất là thân thật thân để có
thể dùng từ mày tao với nhau khi nói chuyện.
Ngày tháng qua dần, tôi đã là thiếu nữ, và anh
cũng đã trở thành một quân nhân, những lúc về phép, anh thường qua
rủ tôi đi chơi, mặc dù giờ thì không còn dùng những từ mày tao để
gọi nhau, nhưng tình thân thì vẫn không thay đổi, và tôi thường gọi
anh ta bằng tên, và anh ta cũng thế.
Những lần về phép, anh thường qua nhà tôi, nhiều
khi ở lại cho tới khuya, vì thế, đôi lúc mẹ anh thường nói đùa vơi
mẹ tôi là “Thằng Chính nhà em, nó ở bên này còn nhiều hơn bên nhà
em, bác ạ”.
Chuyện đời đôi lúc không ai có thể ngờ được. Sau
chiến trận tại Hạ Lào, anh bị thương, và sau khi điều trị, được về
nhà tịnh dưỡng. Đời lính, đi đây đi đó quen rồi, bị tù túng ở nhà
nên anh buồn. Nhân dịp vào ngày cuối tháng, anh nói với mẹ anh là
lên đơn vị chơi, nhân tiện lãnh lương luôn.
Như một điềm báo trước, trước khi anh lên đơn vị chơi, tối đó anh
ghé qua nhà tôi, thấy tôi đang ngồi ngoài sân, anh lấy ghế ngồi
cạnh, nói chuyện và thỏi thăm tôi về việc học hành. Trước khi đứng
dậy ra về, anh nói
- Mai mốt khi tôi nằm xuống, không biết có bóng
hồng nào khóc cho tôi không?
Tôi là người không tin dị đoan, cho nên đã nhanh
nhẩu trả lời
- Nếu anh mà chết, tôi hứa sẽ may áo liệm cho
anh, sẽ đội khăn tang để đưa anh tới nơi an nghỉ cuối cùng.
Không may cho anh, khi anh tới, nhằm lúc đơn vị
bị tấn công, và anh đã tử thương. Nguyên ngày hôm đó, tôi cùng đám
bạn rủ nhau đi lên Thủ Đức chơi, nhưng lòng tôi nó bồi hồi, lo lắng,
mà tôi không biết chuyện gì, và tại sao lại như thề. Khoảng gần tối,
chúng tôi mới về tới Sàigon. Vừa bước chân vào đầu ngõ, tôi thấy mẹ
anh cùng cô em gái đang hớt ha hớt hai đi, tôi vội hỏi
- Cô đi đâu mà tất bật thế này?
Qua làn nước mắt, mẹ anh cho hay
- Thằng Chính, nó chết rồi con ạ.
Tôi nghe xong, như một tiếng sét ngang tai, chân
tay tôi bỗng rụng rời, tôi đâu biết rằng đó là lần cuối cùng tôi gặp
anh, và như lời hứa, tôi đã cùng mẹ anh lên nghĩa trang quân đội
Biên-hoà để nhận xác anh. Cầm tấm thẻ bài trong tay, tôi lâm râm
khấn, “ Chính à, như lời hứa, hôm nay tôi lên nhận xác anh, và
phụ với mẹ anh để lo mọi việc đưa anh về trong lòng đất, xin anh hãy
ngủ yên.”
Có lẽ chúng tôi không có duyên phần với nhau nên
khi nhận xác anh, trên tay anh còn đeo một cái vòng làm bằng vỏ quả
hoả châu, mẹ anh gỡ ra và trao cho tôi, rồi nói
- Đây là món quà sau cùng của thằng Chính, con
giữ là kỷ niệm.
Nhưng cô em gái anh đả vội vàng nhận, và nói,
- Thôi mẹ để cho con, con muôn giữ nó làm kỷ niệm
của anh con.
Sau khi hoàn tất mọi thủ tục, và đưa anh đến nơi
an nghỉ cuối cùng.Chiều nghĩa trang buồn vắng lạnh, nhìn những nấm
mồ nơi đây, lòng tôi bỗng nào nao. Những người yên nghỉ nơi này, họ
đã đổi lấy sự ra đi vĩnh viễn của họ để cho chúng tôi, những người
trẻ hôm nay được bình an nhẹ bước tới trường. Và cũng nơi đây, tôi
vừa giã biệt một người bạn thân thời non dại. Hãy ngủ yên, những
người nằm xuống hôm nay, chúng tôi sẽ không bao giờ quên các anh.

Ngày hôm sau, mẹ anh sang nhà, trao cho tôi một
quyển nhật ký của anh, và bà nói,
- Đây là cuốn nhật ký của nó, nó muốn trao cho
con.
Đọc những hàng chữ trong cuốn nhật ký của anh,
tôi bàng hoàng, với tôi anh chỉ là một người bạn thật thân, tôi
không bao giờ nghĩ là anh đã thương tôi. Cầm cuốn nhật ký trong tay,
tôi lặng lẽ bưóc ra ngoài sân, đứng giữa trời không để nói với linh
hồn anh
- Chính à, dù bây giờ anh có còn sống, tôi cũng
không thể nào đón nhận được tình yêu của anh dành cho tôi, tôi thành
thật xin lỗi, và mãi mãi chúng ta là đôi bạn thân.
Hôm nay nơi đất khách, trên con đường trong buổi
chiều thu, cũng là ngày giỗ anh, tôi thả hồn về nơi xưa để tưởng nhớ
lại người bạn thủa nào, đã một thời cùng nhau vui đùa, lớn lên.
Phạm Minh-Thư
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 16/Apr/2015 lúc 9:14am
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
|
 Gởi ngày: 18/Apr/2015 lúc 6:53am |
Nói
đến "mài dao mài kéo", ở Việt Nam hồi xưa, hồi thời Pháp thuộc, người
ta nghĩ ngay đến giới "anh chị"- hạng xâm mình... trên rồng dưới rùa –
sửa soạn khí giới để làm "một trận thư hùng" thanh toán nhau hay trả thù
nhau. Hồi thời đó, khi đã "nộ khí xung thiên" thì họ đòi "để thẹo" đối
thủ hay ít lắm cũng "xin tí huyết". Cho nên dao/kéo – ngoài lãnh vực bếp
núc vá may – còn được sử dụng một cách rất... linh động phiêu hốt trong
giới giang hồ. Thời bây giờ, văn minh rồi, dao/kéo đã được trả về vị
trí nội trợ. Cho nên, khi muốn "xin tí huyết" của kẻ thù, các băng đảng
ngày nay chỉ dùng khí giới "hiện đại" để mà... bùm ! Có nhanh, có gọn,
nhưng thiếu nét "anh hùng mã thượng".
"Mài dao mài kéo" mà tôi nói ở đây là cái nghề của một ông bạn tôi
mới quen, trong thời gian tôi bị kẹt lại ở Việt Nam sau 1975.
... Tôi để ý tới anh ta trong lúc tôi đang nhăm nhi ly cà phê ngon
của cái quán cóc nằm dưới mái hiên một căn phố nhỏ. Quán này chỉ có hai
cái bàn thấp và bảy tám cái ghế thấp, thấp thấp nhỏ nhỏ giống như đồ
chơi trẻ con. Cho tới cái ly cà phê cũng nhỏ xíu, hớp chừng hai hớp là
cạn ! Có lẽ vì vậy mà thấy ai tới đây cũng để thì giờ ngồi nhăm nhi từng
ngụm nhỏ cà phê chớ không thấy... uống !
Tôi thường xách cái ghế nhỏ ra ngồi cạnh công-tơ nước cách quán
chừng hơn bốn thước. Ở đó có cái thùng xi-măng che công-tơ, thùng vuông
vức nắp bằng, chỉ cao hơn cái ghế chừng hai tấc và nằm cạnh một bức
tường dài. Tôi thích ngồi ở đó vì được cách biệt với cái xô bồ trong
quán và nhứt là có bức tường sau lưng để dựa ! Mấy đứa nhỏ trong quán
viết nguệch ngoạc bằng than trên tường "Chỗ này của ông Hai nón nỉ" và
vẽ một đầu người đội nón, râu lún phún, nét vẽ ngây ngô buồn cười kèm
theo một mũi tên chỉ về chữ "ông Hai" ! Tôi rất thích thú với trò trẻ
con ngộ nghĩnh đó và nhứt là sự được người trong quán dành riêng cho một
chỗ ngồi – một chỗ ngồi không nằm trong phạm vi của quán !
Hôm đó, tôi nghe tiếng rao "mài dao mài kéo" từ đằng xa. Một lúc,
thấy anh thợ mài dao ngừng xe đạp trước quán. Anh đem xe lên dựng trên
vỉa hè, treo cái nón rơm lên ghi-đong rồi bước vào trong. Xe đạp của anh
rất đặc biệt. Đầu tiên là hai cái chống gắn ở đùm bánh sau: khi đạp
xuống hai bên, nó giữ xe đạp đứng thẳng một cách vững chắc. Kế đó là
thùng đồ nghề phía sau có hai hàng hộc tủ và một ngăn để can nhựa đựng
nước. Gắn trên mặt thùng là hai bàn đá mài tròn một lớn một nhỏ có
ma-ni-ven, một viên đá bùn và một cái ê-tô. Trên vè bánh xe trước có gắn
đứng theo chiều dọc một tấm bảng cỡ ba trang giấy học trò, nền vàng với
ba hàng chữ đỏ trên mỗi mặt.
Lúc đó, quán đã đông người. Chắc không còn bàn trống nên thấy anh ta
một tay cầm ly cà phê một tay xách cái ghế nhỏ, bước ra khỏi quán ngó
quanh tìm chỗ. Tôi vẫy tay gọi:
- Ngồi đây nè.
Hắn mỉm cười gật gật đầu rồi bước lại đặt ly cà phê lên thùng công-tơ:
- Cám ơn ! Cám ơn !
Trước khi ngồi xuống, anh ta liếc nhanh hàng chữ trên tường rồi nhìn cái nón nỉ tôi đang đội, cười tủm tỉm.
Sau khi làm một ngụm cà phê, anh ta rút bao thuốc hướng về phía tôi
tỏ ý mời. Tôi lắc đầu. Hắn đốt thuốc hút. Xong để bao thuốc và cái hộp
quẹt lên thùng công-tơ, ngã người dựa vào tường, dũi thẳng hai chân, thở
khói một cách sảng khoái. Và như vậy, trong im lặng, hắn và tôi nhăm
nhi cà phê...
Một lúc sau, thằng nhỏ trong quán mang ra một bình trà:
- Nãy giờ con quên đem trà ra. Đừng phiền nghe ông Hai !
Tôi khoát tay lắc đầu trả lời. Bấy giờ, anh ta mới mở miệng hỏi:
- Chắc anh đến đây thường?
- Ngày nào cỡ giờ này là có tôi ngồi đây. Mặt trời nằm phía sau
lưng, nên chỗ này còn mát. Chừng đứng bóng trở đi là không ngồi được.
- Nhà anh gần đây không?
- Cũng gần. Đi bộ chừng năm phút.
- Hổm rày trời không mưa, cũng không nóng lắm. Thấy dễ chịu há?
- Ờ... Mùa này như vậy cũng hiếm.
Ngừng một chút rồi tôi lại hỏi... đẩy đưa:
- Mài dao mài kéo... Anh kiếm ăn được không?
- Tàm tạm. Nhờ bây giờ ai cũng xài đồ cũ hết nên có đồ mài hoài.
- Thấy anh có nhiều đồ nghề quá há !
- Phải như vậy chớ ! Thời bây giờ, cái gì cũng đòi... cao cấp hết.
Mình cũng phải phô trương cho thiên hạ tin. Mà đồ của tôi thì bảo đảm
là... cao cấp thứ thiệt !
- Ờ... Mà sao chi nhiều dữ vậy?
Anh ta vừa nói, hai tay vừa ra dấu:
- Nè nghen. Bàn mài lớn để "tề" mấy con dao quá sét. Bàn mài nhỏ,
mịn hơn để "đi" hai mép của lưỡi dao. Mình quây ma-ni-ven, bàn mài chạy o
o, tốc độ gấp năm gấp sáu lần hơn. Dao để tới đâu là nó "ăn" tới đó, lẹ
lắm ! Còn viên đá bùn là để làm láng và để chỉnh lại mấy chỗ chưa đều.
Còn cái ê-tô là để kẹp mấy con dao mà mình muốn sửa lại cho nó ngay, nó
thẳng. Như vậy mới là... cao cấp, anh thấy không?
Tôi gật đầu thán phục. Rót trà vào ly, tôi mời:
- Uống miếng trà đi, anh.
Hắn cầm ly ực một cái rồi lấy mu bàn tay quẹt miệng. Xong, hắn đứng lên cất gói thuốc và hộp quẹt vào túi:
- Thôi. Chào nghen...
Anh ta đội nón, dẫn xe xuống đường, vừa đạp chậm chậm vừa rao kéo dài: "Mài dao mài kéo...".
Hôm sau, anh ta lại ghé quán, cũng vào giờ như hôm qua. Tôi đã ngồi ở
công-tơ nước với ly cà phê, và thật ra cũng có ý đợi. Lần này anh ta
dựng xe cạnh đó, vừa dựng vừa nói:
- Anh cho phép tôi ngồi ở đây, mình nói chuyện chơi.
Rồi không đợi tôi trả lời, anh đi thẳng vào quán. Một lúc trở ra với
ly cà phê, cái ghế và điếu thuốc trên môi phì phà... Anh ngồi xuống,
giống tư thế hôm qua. Sau ngụm cà phê, anh hỏi
- Anh không hút thuốc à?
- Tôi bỏ hút lâu rồi.
- Vậy là anh số một ! Tôi bỏ hoài không được. Hồi xưa tôi còn hút bạo hơn nữa chớ không phải như bây giờ đâu !
Tôi đưa mắt đọc thầm ba hàng chữ đỏ trên bảng nền vàng gắn trên bánh
trước của xe đạp: "Mài kéo mài dao – Mài sao cho bén – Đừng kén tay
mài". Thấy hay hay, tôi rung đùi đọc lại, đọc thành tiếng. Rồi vỗ tay
lên mặt thùng công-tơ, khen:
- Hay ! Hay quá ! Sâu sắc quá ! Anh viết đó hả?
- Dạ. Thì... viết bậy vậy mà.
- Đâu bậy? Bộ anh tưởng ai cũng viết bậy nỗi như vậy sao? Phải có trình độ chớ...
Anh ta làm thinh, nhấp cà phê, hút thuốc một lúc mới nói:
- Thời buổi này, "có trình độ" không để làm... khỉ gì hết. Bọn
"không trình độ" nó ngồi đầy trên đầu trên cổ thiên hạ, thì người "có
trình độ" chỉ còn có... "đi chỗ khác chơi" thôi !
Bây giờ thì tôi đã đoán ra anh ta thuộc về "phe" nào rồi. Tôi hạ giọng:
- Nè ! Sao tôi thấy tấm bảng của anh giống lá cờ của mình quá. Phải không?
Anh ta nhìn tôi, mắt sáng rực. Anh đưa tay bắt tay tôi, giọng sung sướng:
- Anh tinh ý lắm. Bao nhiêu năm nay chưa ai thấy được điều đó hết !
Vậy rồi giữa anh ta và tôi bỗng thấy như thật gần. Anh hỏi tôi:
- Hồi đó anh làm gì?
- Làm "Chef de réseau" của một hãng ngoại quốc (tôi nói chen tiếng Pháp).
- Còn bây giờ?
- Ở không, vợ con ở ngoại quốc gởi tiền về nuôi.
- Ủa? Sao vậy?
- Hồi di tản, tôi bị rớt lại. Còn anh? Hồi trước làm gì?
- Làm báo. Làm hai ba tờ. Chuyên về phiếm, xã luận, truyện ngắn.
- Sao bây giờ đi... mài dao vậy?
- Chớ anh biểu bây giờ tôi viết cái gì? Suốt đời sống trong nghề
viết, tự do vung vít quen rồi, đã thành một lập trường, một đường lối.
Biểu tôi bẻ cong ngòi bút để... "bợ" chế độ, tôi làm không được ! Vả
lại, làm báo theo kiểu "phô-tô-cọp-pi" như họ, thiệt tình, không phải là
nghề của tôi. Cho nên tôi đã "rửa tay gác bút".
Nói xong câu đó anh ta cười khà khà có vẻ thích thú với hình ảnh ‘’
rửa tay gác kiếm ‘’ của mấy võ lâm cao thủ trong truyện chưởng Hồng kông
! Ngừng một chút, hít vài hơi thuốc, uống ngụm cà phê cuối cùng rồi
tiếp:
- Bây giờ đi mài dao... cũng thú ! Mình cứ tưởng tượng là mình mài "gươm thiêng" để đợi thời cơ phục hận !
Lần này, anh ta cười lên ha hả, sảng khoái. Rồi lại tiếp:
- Coi vậy chớ lâu lâu tôi thèm viết vô cùng. Nhứt là bây giờ, nó lố
lăng bỉ ổi, nó chụp giựt bao che gấp mấy chục lần hồi trước... làm mình
"ngứa nghề" muốn chết ! Cách đây mấy năm, vào dịp Tết, tôi nhận được thơ
của một thằng bạn đã đi chui kể lại cuộc hành trình và đời sống trên
đảo tỵ nạn Pulau Bidong ở Mã Lai... làm tôi nổi hứng. Tôi lén viết một
"lá sớ Táo Quân" cho mùa xuân năm đó, để nhớ hồi xưa mỗi Tết tôi đều có
viết sớ để "móc lò móc chảo" chuyện Nhà Nước chuyện thiên hạ. Sáng mai
tôi sao cho anh một bản, đọc cười chơi. Thôi ! Bây giờ đi "kiếm cơm" cái
đã !
Anh ta đứng lên bắt tay tôi rồi dẫn xe xuống đường đạp đi.
Hôm sau, anh ta đến. Vừa ngồi xuống, anh trao ngay cho tôi "lá sớ".
Tôi định mở ra xem thì anh đưa tay ngăn. Vừa đảo mắt nhìn quanh, anh vừa
thấp giọng:
- Đừng ! Đừng coi ở đây ! Cất đi. Về nhà hãy đọc. Đọc rồi nhớ đốt nó đi, kẻo mang họa rồi nói tại tôi.
Uống hớp lớn cà phê, đốt điếu thuốc, xong anh cười cười:
- Đốt cho lá sớ... lên trời, cho Ngọc Hoàng đọc với chớ !
Tôi phì cười:
- Anh tiếu thật ! Không chừa ai hết !
- Đó là... nghề của tôi hồi xưa mà. Thấy trái tai gay mắt, thấy "đi
trật đường rầy" là tôi múa bút đâm ngay. Tự do ngôn luận là như vậy đó.
Chớ không phải như bây giờ. Nhìn một lũ hề độc quyền sân khấu, giễu dở
lại giễu dai, giễu rồi tự vỗ tay khen lấy, còn bắt... nhân dân khán giả
vỗ tay theo... vv... mà chẳng thấy một "nhân dân" nào dám... thò tay
viết trên báo một lời phê bình chỉ trích ! Cho nên tôi thấy "ngứa mắt
ngứa tay" lắm.
Uống hết ly cà phê, anh ta đứng lên gật đầu chào:
- Bữa nay tôi phải mài lố dao của nhà hàng T.T., không cò cưa ở đây lâu với anh được. Tôi đi nghen !
Bước được mấy bước, anh dừng chân một chút, đầu hơi cúi xuống dường
như để suy nghĩ rồi mới quay lại nhìn tôi, nét mặt thật nghiêm trang,
đưa ngón tay trỏ lên gõ gõ vào đầu:
- Mỗi ngày tôi mài dao là mỗi ngày tôi mài cái chí khí cho nó luôn luôn sắc bén, khỏi bị cùn lụt. Anh biết không?
Nói xong, anh để bàn tay mặt xéo xéo một bên trán gặc nhẹ một cái
trông giống như chào theo kiểu nhà binh, rồi phóng lên đạp xe đi, giọng
rao kéo dài: "Mài dao mài kéo"...
Hôm sau, tôi đến quán hơi sớm, định vừa gặp anh là nói ngay rằng tôi
khoái lá sớ của ảnh lắm, móc họng chế độ rất đau mà vẫn giữ được nét
trào phúng nhẹ nhàng.Và cũng để nói cho ảnh yên tâm rằng tôi đã đốt lá
sớ như ảnh đã dặn. Nhưng rồi, anh ta không đến, mặc dù tôi đã cố tình
ngồi đợi tới trưa….
Những ngày sau, rồi những ngày sau nữa, tôi không gặp lại anh ta.
Tôi vẫn đều đặn ngồi uống cà phê chỗ công-tơ, ngồi một mình. Cà phê quán
này làm như không còn ngon như trước...
Tiểu Tử
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
|
 Gởi ngày: 20/Apr/2015 lúc 8:54am |
Nguời Đàn Bà Trên Tầu HQ502 http://mfi.re/listen/miob2t8bn5ey3jd/NguoiDanBaHQ502NEW.mp3
 ảnh minh họa
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Apr/2015 lúc 8:54am
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
|
 Gởi ngày: 21/Apr/2015 lúc 9:17am |
Chiếc Áo Bà Ba In Hình Chữ HỶ Đoàn xuân Thu tiếu ngạo diễn đoc http://www.mediafire.com/listen/c6c4491rcc...AoBaBaChuHY.mp3
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Apr/2015 lúc 9:18am
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23733
|
 Gởi ngày: 22/Apr/2015 lúc 11:25am |
Cô Gái Làng Thái-Mỹ

Khoảng cuối năm 1967 tôi nhận được sự-vụ-lệnh về
cầm một ĐĐ của một TĐ mới thành lập chưa được bao lâu, thuộc SĐ25 BB
lúc đó đang đồn trú tại quận Đức-Hòa.
TĐ này trước đó mấy tháng, được đặt dưới quyền chỉ-huy của một vị
Th/T rất nổi tiếng bên Biệt-Động-Quân mới chuyển qua. Vì công-sự
phòng-thủ chưa hoàn tất, BCH/TĐ phải tạm thời đóng trong một ngôi
biệt thự của một nhà máy xay lúa. Lợi dụng cơ hội này, VC đã bất ngờ
dùng đặc-công và nội-tuyến, trong một đêm đen tối, chúng đã tràn
ngập vào được BCH/TĐ ngay từ những phút đầu, gây thiệt hại rất nặng
cho bên ta. Tai hại nhất, chúng đã lấy đi mạng sống của cả hai vợ
chồng vị TĐTrưởng mà ai đã từng là Biệt-Động-Quân cũng đều phải nghe
danh: “Th/T Cọp-Ba-Đầu-Rằn”!
Tiếc thương ông và người vợ nữ-lưu anh-hùng, nhưng mọi người thầm tự
hỏi: Có phải ông đã quá khinh địch? Hay ông có điều gì bất mãn khi
đang trong một binh chủng nổi tiếng, nay phải chuyển về một đơn vị
bộ binh khiến ông lơ là thiếu cảnh giác? Điều này chỉ riêng mình ông
biết!
Sau trận thảm bại này, các anh em binh sĩ trong TĐ xuống tinh thần
rất nhiều! Tiểu-đoàn phải chờ bổ xung thêm quân số và cần được “hấp”
lại. Và tôi được chuyển về đây cũng trong dịp này.
Được nương nhẹ rất nhiều, nhiệm vụ chính của TĐ lúc đó hầu như chỉ
là hành quân mở đường và làm an ninh vòng ngoài cho BTL/SĐ25BB tại
Đức-Hoà. Lâu lâu cũng có hành quân, nhưng chỉ là những cuộc hành
quân lục xoát quanh vùng, sáng đi chiều về, như công chức!
Trong khoảng thời gian coi như nhàn hạ này, tôi đã quen biết một đứa
bé gái tên là Hân, lúc đó khoảng 8, 9 tuổi, là cháu gọi bằng dì của
cô Thanh, chủ ngôi nhà mà tôi đã xin phép để đặt BCH/ĐĐ. Tôi chọn
nhà cô Thanh vì không những nhà có một sân lớn, mà còn có cả một cái
nhà cầu đàng hoàng! Cô Thanh, một phụ nữ khoảng trên dưới ba mươi,
không đẹp cũng không xấu, ăn nói rất nhỏ nhẹ, dễ thương. Tôi không
thấy chồng cô. Dù cô nghỉ dậy học đã lâu để trông coi việc ruộng
nương, nhưng bà con lối xóm vẫn quen gọi cô là Cô Giáo. Dĩ nhiên cô
Thanh không hề là đối-tượng của những sỹ-quan còn rất trẻ như chúng
tôi hồi đó.
Còn nhớ ngày đầu tiên gặp và nói chuyện với cô ở ngoài sân, về việc
xin tạm dùng căn nhà làm BCH/ĐĐ, tôi thấy có một đứa bé gái đứng dựa
lưng một gốc cau gần đó, đang nheo mắt nhìn tôi rất chăm chú. Thấy
nó dễ thương, tôi quì một chân xuống ngang tầm nó và ngoắc nó lại.
Nó phụng phịu lắc đầu không chịu. Cô Thanh nói như hơi gắt:
- Hân không được hỗn, lại cúi đầu chào Thiếu-úy, đi con!
Vẫn còn phụng phịu, nó tiến lại gần tôi và lí nhí nói mấy câu gì tôi
cũng không nghe rõ!
Tôi thông cảm sự thay đổi quá đột ngột đối với gia đình cô giáo,
đangvắng vẻ, neo đơn; nay bỗng dưng ồn ào náo nhiệt, ra vào toàn
lính là lính!
Cô Thanh thì còn bận rộn với ruộng vườn, công thợ... chứ bé Hân thì
ngoài giờ đi học, nó đụng độ tụi tôi suốt ngày! Mấy ngày đầu, nó có
vẻ còn tránh né, nhưng rồi sau đó, quen hết anh hạ-sĩ y-tá này đến
bác thượng-sĩ thường- vụ kia. Nó trở nên vui vẻ và hòa đồng rất
nhanh với cái không khí ồn ào nhưng kỷ-luật của đời lính chúng tôi.
Đặc biệt, Hân quí tôi hơn cả, vì có mấy lần tôi đã giúp em giải một
vài bài toán khó trong lớp. Nó quấn quít bên tôi suốt ngày, chuyện
trò líu lo không ngừng nghỉ. Có những lần tôi đi hành quân về, nó
núp trong bụi, rồi chợt ùa ra ôm lấy chân tôi cười nức nở... Mới 8,
9 tuổi, mà em đã biết dành dụm tiền để mua đường, nấu đãi chúng tôi
những bát chè thật ngọt ngào ấm bụng! Bù lại, những lần đi phép,
không lần nào tôi không mua cho em, khi thì đồ chơi, khi khác là
sách, tập...
Hân mồ côi cả cha lẫn mẹ. Quê em ở mãi đâu vùng An-Hiệp, Thái-Mỹ. Em
kể với tôi, nước mắt lưng tròng: Cha em một hôm đi làm ruộng, đạp
nhằm phải mìn VC, chết không kịp trăn trối! Hơn năm sau, người mẹ
cũng ra đi vì bịnh! Thế là em phải về núp bóng dì em, là cô giáo
Thanh.
Tôi lúc đó chưa lập gia-đình, thực tình, tôi thương Hân như thương
người em út, nó còn kém đứa em út của tôi ba, bốn tuổi!
Tuy ở với dì ruột, tôi biết Hân đang thiếu một tình thương phụ mẫu,
nhất là hình bóng của một người cha. Và... không phải là một nhà
Tâm-lý-Học, tôi không thể biết nổi: ở tuổi nào sớm nhất, một đứa con
gái có thể biết yêu? Vì có một lần, mấy cô bạn gái của tôi từ Sàigòn
lên thăm. Khi họ ra về, bé Hân đã đối xử với tôi một cách rất khác
thường! Nó lảng tránh và ít nói hẳn, không hồn nhiên như trước nữa!
Hình như nó cũng biết hờn, ghen? Tôi nghĩ dù sao, nó chỉ là một đứa
con nít! Mà đúng thế, chỉ được hai hôm là cô nàng đã quên hết ! Lại
dở trò nghịch ngợm, chọc phá như cũ...
Hồi đó cứ như thế, tôi lấy tình thương yêu của anh em binh sĩ dưới
quyền và luôn của bé Hân như một hơi ấm gia đình. Đang ở cái tuổi
tràn đầy nhựa sống, mấy anh chàng sỹ-quan lóc chóc như tụi tôi, có
thì giờ là la cà tán tỉnh mấy em cỡ tuổi đôi tám, chợt nở rộ như
những bông hoa đầy hương sắc miền thôn dã, chẳng hạn như em Huệ con
một ông chủ nhà máy xay, hoặc Giáng Tiên, hoa khôi tỉnh Hậu-Nghĩa!
Thế nhưng mấy tháng nhàn hạ qua nhanh như gió thổi, khi TĐ vừa có
một sinh khí mới, thì biến cố Tết Mậu-Thân xẩy ra! TĐ hành quân mệt
nghỉ, ngày nào cũng có hành quân, ngày nào cũng có đụng độ, mà trận
lớn nhất xẩy ra vào trước Tết khoảng 2, 3 ngày. ĐĐ của thằng bạn
cùng khóa nhẩy vào giữa một TĐ VC. Chúng đang ếm quân trong khu vực
Rạch Gấu, chờ xâm nhập để đánh vào Phú-Lâm ngày mồng một Tết. Hai
trực thăng bị trúng đạn phải quay về, ĐĐ của nó thành ĐĐ trừ! Không
đủ trực-thăng, ĐĐ của tôi phải lội bộ vào tiếp cứu. Địch áp đảo về
quân số, vũ khí có thừa, nhưng mục tiêu của chúng là vùng Chợ Lớn,
ngày Tết, không phải là chúng tôi. Thế nên chúng chỉ cầm cự, chờ đêm
xuống là rút. Vậy mà mãi mờ sáng hôm sau, tụi tôi mới thanh toán
xong mục tiêu. Nhờ những phi-vụ oanh tạc và pháo binh bắn suốt đêm,
VC dù đã cố kéo theo,nhưng cũng đành để lại rất nhiều xác chết và vũ
khí. Mặc dù vậy, chúng tôi cũng không vui gì khi phải đem ra xác
thằng bạn ĐĐ Trưởng và bốn binh sĩ dưới quyền của anh! Tội nghiệp,
anh quê ở HócMôn, ra trường là xin ngay về SĐ25 cho gần nhà!
Khóa chúng tôi đã có một số nhờ tài thao lược, lòng dũng cảm, cộng
thêm sự may mắn, đã vượt qua nhiều gian khổ và nguy hiểm mang lại
nhiều chiến công vẻ vang cho quân đội, nổi bật nhất là Tr/T BĐQ
Lê-văn-Ngôn với 510 ngày trấn thủ Tống-Lê-Chân. Đa số còn lại đều đã
hy sinh khi còn rất trẻ, trong những trận đánh tuy khốc liệt, nhưng
không một ai biết, chẳng một ai hay! Tên tuổi và thành tích hiếm khi
được xuất hiện trên trang nhất các nhật báo, mà đa phần chỉ thấy nằm
trong những khung hình chữ nhật, mầu tang đen nơi trang bốn!
Qua hai đợt Mậu-Thân, tôi sống sót và được thăng Trung-úy, nghĩa là
sớm hơn quy định khoảng gần nửa năm, nhưng đến cuối năm 1969 tôi bị
thương nặng, miểng mìn văng đầy người. Tệ nhất, có một miểng chém
vào động mạch bên nách phải, máu ra rất nhiều và nếu không nhờ trực
thăng tản thương về bệnh viện dã chiến của SĐ25 Hoa-Kỳ, chắc chắn là
tôi đã theo mấy thằng bạn vui vẻ về miền quá cố rồi!
Khi cơn thập tử nhất sinh đã qua, tôi được chuyển về nhà thương
Cộng-Hòa.
Một hôm tôi đang nằm cho y tá rửa vết thương và thay băng thì có mấy
anh em Ban 5 Trung và Tiểu Đoàn lên thăm. Tôi ngạc nhiên hết sức khi
thấy có cả bé Hân trong đó. Nó chạy ngay lại ôm lấy tôi, nước mắt
đầm đìa... Ông Thượng-sĩ thường-vụ của tôi sau khi thăm hỏi xong,
nói nhỏ vào tai tôi:
- Ngày nào nó cũng lên TĐ, xin bằng được nếu khi nào TĐ lên thăm
thương bịnh binh, nhớ cho phép nó đi theo!
Tôi nhìn xuống con bé đang rúc cái đầu bé nhỏ vào bụng tôi, tấm thân
mảnh mai của em thì rung rung theo tiếng nấc. Tôi cúi xuống hôn trên
mái tóc mềm mại của nó và cứ để như vậy một lúc lâu, bởi vì chính
trong lòng tôi cũng đang ngẹn ngào, xúc động!
Lúc sau, tôi nâng cầm nó lên, trấn an nó:
- Chú không sao đâu. Chỉ một thời gian ngắn nữa là chú sẽ lành vết
thương và sẽ được xuất viện.
- Rồi Trung-úy có trở lại Đại đội không? Nó ngước mặt e ngại hỏi tôi
điều mà nó quan tâm nhất.
- Chú cũng không biết nữa, chắc là phải ra một hội-đồng quân-y để họ
giám định. Sau đó, chú mới biết.
- Vậy khi nào xuất viện, chú xuống thăm Hân nha? Tôi mỉm cười nhìn
nó:
- Chắc chắn là chú sẽ đến thăm Hân và các anh em trong đại-đội, ngay
khi nào chú có thể đi được.
Lúc này mới thấy nó nở một nụ cười, rồi cúi xuống nhấc lên một túi
nhỏ và lấy từ trong đó ra một ít trái cây để trên chiếc bàn nhỏ đầu
giường. Thì ra nó cũng biết đem qùa cho thương binh!
Phái đoàn thăm viếng lúc này đã xin phép tôi để qua thăm các anh em
thương binh khác. Trước khi ra khỏi phòng, ông thượng-sỹ thường vụ
cúi xát tai Hân dặn dò:
- Khoảng nửa tiếng nữa con ra chỗ đậu xe để về nha. Về sớm cho an
toàn.
Nó ngoan ngoãn gật đầu, rồi bắt đầu bi bô:
- Tháng trước ai trong đại đội cũng tin là chú đã chết rồi.
Tiểu-đoàn không có tin tức gì vì chú nằm ở bệnh viện Mỹ. Mãi sau,
khi họ chuyển về Cộng-Hòa mới biết chú còn sống. Dì Thanh có dắt Hân
đi cầu nguyện trên chùa hoài. Dì con nói gởi lời thăm chú.
Đến đây, nó bắt đầu quay qua nhìn mấy vị sỹ-quan thương binh khác
nằm cùng phòng. Chợt thấy chiếc nhẫn của tôi để trên mặt bàn lúc
tháo ra cho y tá rửa vết máu trong các ngón tay, nó cầm lên ngắm
nghía rồi hỏi:
- Nhẫn này của chú? Sao bự và đẹp quá vậy?
- Ừa, nhẫn của chú. Đây là chiếc nhẫn lưu-niệm của trường Võ-Bị
ĐàLạt, lúc mãn khóa ai cũng có.
- Chú qúi nó lắm?
- Chú rất qúi nó, và chú đã đeo nó từ khi ra trường.
Nó nhẹ nhàng để lại chiếc nhẫn vào chỗ cũ, rồi quay ra ôm lấy tôi,
như thể không muốn xa rời. Nó kể đủ thứ chuyện ở Đức-Hòa, đâu là đại
đội đã có ĐĐTrưởng mới, nhưng không còn đóng ở nhà nó nữa, các chú
trong BCH/ĐĐ vẫn thường ghé thăm luôn...
Nửa giờ sau, ông thường-vụ đã xuất hiện ở cửa phòng, nói với vào:
- Chào Trung-úy đi Hân, đến giờ về rồi.
Hân bắt đầu lúng túng, vòng tay bé nhỏ, nó cố ôm lấy tôi. Mấy phút
sau, tôi phải nhẹ nhẹ gỡ nó ra:
- Thôi Hân về đi không họ chờ.
Nó nhìn tôi như muốn khóc:
- Chú hứa nha! Đừng quên đến thăm Hân nha, Hân chờ đấy!
Nói rồi nó buông tôi, từ từ bước ra cửa, hình như nó đã khóc. Đến
cửa phòng, nó quay lại nhìn tôi, bàn tay bé nhỏ của nó đang cố chùi
những giọt lệ... Không cầm lòng được, tôi gọi nó:
- Hân lại đây với chú.
Tôi cầm chiếc nhẫn lưu-niệm của tôi, nhẹ nhàng để vào lòng bàn tay
của nó:
- Hân giữ cho chú chiếc nhẫn này. Giữ thật kỹ và đừng cho ai biết.
Hân biết là chú qúi nó như thế nào rồi. Khi nào xuất viện chú sẽ đến
thăm Hân và Hân đưa lại cho chú. Thế có được không?
Thật không ngờ, cái ý-kiến bất chợt đến với tôi lúc đó lại có tác
dụng ngay. Hân vui mừng ra mặt, ít nhất nó đã có một vật làm tin kèm
theo lời hứa. Lau hết nước mắt nó thủ thỉ:
- Dạ, con sẽ giữ thật kỹ, chờ khi nào Trung-úy đến con giao lại.
Tôi xoa đầu nó rồi đẩy nhẹ nó về phía cửa. Lần này, nó quay lại mỉm
cười nhìn tôi và rồi bóng nó từ từ lẫn vào với dòng người thăm viếng
bên hành lang bịnh-viện...
Tôi xuất viện sau đó chừng một tháng, và phục hồi mau lẹ. Tuy vậy,
phải chờ đến tháng ba năm 1973 tôi mới nhận được giấy tờ giải ngũ
chính thức. Nhìn ngobên ngoài, tôi may mắn không mất mát gì cả,
nhưng những ngón tay bên mặt, nhất là ngón chỏ, không co duỗi bình
thường được. Cầm tờ chứng-chỉ giải-ngũ trong tay, tôi ngậm ngùi: thế
là vĩnh viễn giã từ vũ khí!
Trong khoảng thời gian chờ quyết-định của Hội-Đồng Quân-Y, tôi đã đi
Đức-Hòa thăm lại chốn xưa. ĐĐ của tôi gần như hoàn toàn mới, chỉ trừ
một vài anh em trong BCH/ĐĐ nhận ra tôi, còn lính tráng hầu hết là
lính mới, nhìn tôi như nhìn một người xa lạ! Chiến tranh đã làm thay
đổi nhanh không thể ngờ được!
Tôi lần mò đến nhà cô giáo Thanh để thăm cô và bé Hân nhưng thật
không may, người nhà cho biết hai dì cháu cô đã đi ăn đám giỗ bên
Bình Thủy, có lẽ đến chiều mới về.
Tôi buồn rầu về lại Sàigòn, tự hứa sẽ trở lại vào một dịp khác.
Chiến tranh vẫn còn đó, chiến trận gia tăng khắp mọi nơi, nhưng
Sàigòn vẫn còn là một mảnh đất khá bình yên! Nó như một hải đảo nằm
giữa một biển lửa.
Và tôi đã phải cố gắng để thích ứng với cuộc sống hoàn toàn thay
đổi. Dù sao, tôi vẫn còn trẻ. Tôi làm việc như một cái máy, nhưng
tôi không còn bị cô đơn, cái cô đơn của một người chỉ huy, dù chỉ là
một cấp nhỏ; tôi tự do, không còn bị ràng buộc vào một trách nhiệm
có liên can đến sinh mệnh của nhiều người khác. Tâm trạng thả lỏng
này đã dẫn tôi đắm mình trong thụ hưởng, để bù lại cho bao năm tháng
tuổi xuân đã qua đi trong quân-trường và ngoài trận địa.
Bận rộn vì công việc lúc ban ngày, say mê trong ánh đèn mầu của các
vũ-trường vào ban đêm, tôi gần như đã quên hẳn Hân, một đứa bé đang
ở một nơi thiếu an ninh, mà chỉ một năm trước, tôi đã coi nó như một
đứa em ruột thịt. Tôi đã tự khất lần, và ngần ngại không muốn ra
khỏi Đô-thành, nơi mà lúc nào cũng có những cuộc vui đang chờ sẵn.
Khoảng đầu năm 1974, nhân một chuyến đi Trảng Bàng, tôi ghé vào
Đức-Hòa và gặp lại Hân. Căn nhà vắng vẻ, khu xóm cũng thiếu bóng
những người lính, có lẽ họ đang bận rộn trong một cuộc hành-quân nào
đó. Khi tôi đến, chỉ có mình Hân ở nhà, cô Thanh có lẽ đang đi coi
ruộng vườn.
Hân lúc này không còn bé nữa, em đang là một thiếu-nữ tràn đầy nhựa
sống với một vẻ đẹp tự nhiên và tuyệt mỹ mà Thượng-Đế chỉ dành cho
những người con gái đương độ thanh xuân. Em mừng đến rơi cả nước mắt
khi thấy tôi. Rót nước mời, em vẫn thân mật nhưng tỏ ra hơi e thẹn,
cái e thẹn dễ yêu của các cô gái đang dậy thì.
Hân cho biết em đã trông mong tôi từng ngày, và rất ân hận vì lần
trước tôi đến, mà em không được gặp. Lấy chiếc nhẫn dấu kín trong
hộc tủ, Hân đưa nó sát mặt tôi, rồi nắm vội nó trong bàn tay và ấp
lên ngực:
- Hân biết đây là chiếc nhẫn lưu-niệm của chú, nó lưu lại những
kỷ-niệm của chú với quân-trường ĐàLạt; nhưng bây giờ, nó cũng đã trở
thành một vật lưu-niệm của Hân. Nó đã lưu lại những kỷ-niệm giữa Hân
và chú. Hân muốn được giữ nó lâu hơn nữa, như vậy có được không?
Tôi cảm động trước những lý lẽ phát ra tự con tim của em:
- Hân cứ giữ nó đi, như vậy khi nào chú đến với Hân, chú sẽ được gặp
cả hai.
Quá vui mừng, quên cả e thẹn, Hân chạy lại ôm tôi, và nói trong cảm
động:
- Thực ra, khi có chiếc nhẫn bên mình, Hân có linh cảm là chú sẽ
luôn luôn quay về tìm Hân, và như vậy Hân sẽ không bao giờ mất chú.
Tôi ôm chặt Hân, và hôn nhẹ trên trán em như vài năm trước, khi em
còn rất nhỏ.
Hình như Hân muốn nhiều hơn thế, em từ từ ngước mặt lên để mong hai
làn môi chạm nhau, nhưng tôi đã tự dừng lại bằng cách buông lỏng em.
Có phải tôi đang còn bối rối giữa Hân, một đứa bé và Hân, một cô gái
đang độ xuân thì?
Chúng tôi chia tay nhau khi ánh chiều vừa xuống. Tôi hứa với Hân sẽ
lên thăm em thường hơn. Cả hai cùng bịn rịn, không nỡ rời nhau,
nhưng rồi phút chia ly cũng phải tới, tôi lên xe về lại Sàigòn mang
theo một hình ảnh của Hân, đầy nước mắt...
Những tháng ngày sau đó, thời cuộc biến đổi không ngừng... Tất cả
đều thất lợi cho miền Nam chúng ta. Ngay cả con đường từ Sàigòn đi
Đức-Hòa cũng không còn an ninh nữa! Tiếp đến là những biến cố dồn
dập, nó đến nhanh quá, như dòng thác lũ, như cơn đại hồng thủy, nó
cuốn đi hết cả... Không kịp nữa rồi, những gì ta không làm, hoặc
chưa làm, đành phải xếp lại trong niềm hối hận khôn nguôi...
Câu “nước mất, nhà tan” thật là thấm thía với tâm trạng của những
người bỏ nước ra đi ngày ấy! Ra đi là không bao giờ nghĩ đến ngày
trở lại, ra đi là chấp nhận cả một trời mù mịt, đau thương! Tôi cũng
ở trong số ít những người “bất hạnh nhưng may mắn” này! Tất cả nhân
dân miền Nam coi như gẫy cánh nửa đường; có khác chăng, chỉ là mỗi
người “gẫy” một kiểu!
Riêng tôi đã gẫy một lần rồi, vừa mới bắt đầu xây dựng lại, thì nay
lại gẫy thêm một lần nữa...
o O o
Vật lộn với cuộc sống đến năm thứ 32 trên nước Mỹ, tôi quyết định
nghỉ hưu vì đã thấm mệt, cả thể xác lẫn tinh thần. Những chuyện ngày
xưa khi nhớ, khi quên. Nhiều chuyện quên hẳn, như gió thoảng, như
mây bay!
Dòng đời thay đổi, cũng chỉ là lẽ tự nhiên của cuộc sống!
Những ngày, tháng buồn tênh, tôi chợt nhớ đến một câu thơ, không
biết đã đọc được ở đâu và ai là tác giả:
Khi ta ở, đất chỉ là đất ,Khi ta đi, đất đã hóa linh hồn! Vâng,
linh hồn của đất, của những nơi ta đã từng đi qua, những nơi ta đã
từng dừng lại... Nó đã có một linh-hồn, và linh-hồn đó đã ám ảnh tim
ta, như muốn gọi ta về.
Và ... tôi đã về thăm lại Sàigòn vào năm 2007! Vẫn biết đổi thay là
lẽ tự nhiên của cuộc sống, sao tôi vẫn thấy bàng hoàng, tiếc nuối
những ngày xa xưa?!
Lang thang mãi ở Sàigòn, chán! Một hôm, tôi trở lại Đức-Hòa, tò mò
muốn biết giờ nó ra sao? và... những người muôn năm cũ...? Hơn ba
mươi năm đã trôi qua, vật đổi sao rời, bóng chim tăm cá.
Đức-Hòa đã thay đổi theo một chiều hướng đi xuống! Ngày xưa, dù đang
là thời chiến tranh, nó vui nhộn biết là bao: hàng quán, lính tráng,
người mua kẻ bán ồn ào, tấp nập. Những con đường, tuy chỉ nhỏ vừa
cho hai xe nhà binh tránh nhau, nhưng đầy bóng mát của những hàng
cây cao... Giờ đây, có những con đường mới mở, rộng thênh thang,
thẳng tắp, nhưng trống trơn dưới ánh nắng như thiêu như đốt, không
một bóng cây; xe cộ thì lẻ loi vài chiếc! Thị-xã giống như một cô
gái quê, xấu, đang cố làm dáng với những vết son vụng về tô vội!
Đến khu Bình Tả, nơi ngày xưa tôi đã đóng quân. Cảnh vật không thay
đổi nhiều, nhưng sao trông thật hoang sơ, buồn thảm. Tại một ngã ba,
ngày ấy có một cái quán lụp xụp, lúc nào cũng ồn ào những lính.
Chính tại nơi đây, tôi đã ăn một tô hủ tíu ngon nhất trong đời! Đi
vào sâu hơn khoảng trăm mét là ngôi biệt thự nhà máy xay. Căn nhà
hình như đang bỏ hoang. Hỏi thăm thì biết cô Huệ đã định cư bên Úc
từ lâu. Cô Giáng Tiên, hoa khôi Hậu-Nghĩa, nghe nói sau này lấy một
sỹ-quan Biệt-động-quân đẹp trai, giờ này chắc đang ở bên Mỹ. Đi sâu
hơn nữa thì gặp tàn tích của một cái đồn, đồn này là của tiểu-đoàn
chúng tôi hồi đó. Gần đấy có cắm một cái bảng nhỏ, trên đề: Di tích
lịch-sử - Cấm đến gần!
Tự nhiên, tôi thấy lạnh toát người. Có phải anh linh của bao nhiêu
chiến sĩ ngày xưa, vẫn như còn đang phảng phất đâu đây?!
Ra thăm khu trung tâm thị-xã, ở đây có thay đổi chút ít. BTL/SĐ25 BB
nay hình như đang là một khu dành cho trẻ em, ngay trước cổng vào có
một căn nhà nhỏ, trong đó trưng bầy hình ảnh và những kỷ-vật của ông
Võ văn Tần!
Chợ Đức-Hòa có xây một mặt tiền mới, quay về hướng khác, nhưng bức
tường mặt tiền cũ vẫn còn nguyên.
Đang ngơ ngáo nhìn ngó cảnh vật, tôi chợt để ý có một bà cụ cứ chăm
chú nhìn tôi. Bước đi vài bước, bà lại quay đầu nhìn lại; cuối cùng
bà cụ đến gần nhỏ nhẹ hỏi tôi:
- Nếu không phải, xin ông thứ lỗi. Phải ông đây là Trung-úy Phong
không?
Tôi giật bắn người. Chắc chắn đây là một người quen biết với tôi,
nhưng nghĩ mãi, tôi đành chịu:
- Dạ, tôi là Phong đây! Xin lỗi, trí nhớ tôi hơi kém, bà đây là...?
- Trời đất, Mô Phật! Thiệt không ngờ cũng có ngày tôi lại gặp được
Trung-úy! Tôi là Thanh đây. Xưa Trung-úy có đóng quân nhà tôi,
Trung-úy còn nhớ không?
Lúc này thì hình ảnh của một cô giáo Thanh ngày xưa đã lờ mờ lẫn vào
khuôn mặt già nua của bà cụ, tôi mừng rỡ:
-...Cô giáo Thanh. Tôi nhận ra rồi. Tôi nhận ra rồi. Chà, cô trông
còn mạnh lắm, đi không cần chống gậy mà. Xin mời cô vô quán nước đây
ta ngồi nói chuyện.
Đôi mắt già nua của cô Thanh đã thấy có ánh nước, cô cầm tay tôi ân
cần:
-Thôi, quán xá gì. Chắc là Trung-úy ở nước ngoài về thăm quê hương?
Trung-úy có rảnh mời ghé lại tôi uống miếng nước. Nhà cũng gần đây
thôi.
- Dạ. Tôi ra khỏi nước từ năm 75, giờ nghỉ hưu rồi mới có dịp về
thăm lại. Hồi nãy đi ngang, tôi thấy nhà cũ của cô giờ dường như là
một nhà máy gì đó?
- Bị nhà nằm trong khu “quy-hoạch”, nghe đâu họ đã bán đất đó cho
Hàn quốc lập nhà máy may gì đó. Tôi phải mua bậy một căn nhà cũng
gần chợ đây thôi, cho nó tiện. Mời Trung-úy đi theo tôi, chút xíu là
tới à.
Lẽo đẽo theo chân bà cụ đi sâu vào một con đường nhỏ ngang hông chợ,
tôi ngần ngại ngỏ ý:
- Tôi giã từ quân đội lâu lắm rồi, cô Thanh cứ gọi tôi bằng tên cho
tiện.
- Không có sao đâu. Ở đây bà con cỡ tuổi tôi, ai cũng qúi những
người lính Cộng-Hoà khi xưa! Lại bởi tôi quen miệng rồi, tôi nhớ
trung-úy là trung-úy, gọi khác nghe kỳ lắm.
Đến đây, mặc dù tận đáy lòng, như có một chút gì hơi hổ thẹn vì sự
thất hứa năm xưa, nhưng tôi không thể quên được Hân:
- Thế cháu Hân giờ sao rồi? Chắc cũng con cháu rầm rề cả!?
Cô Thanh bỗng như chùng xuống, cô nói rất nhỏ, giọng run run:
- Cháu... cháu nó không còn ở với tôi nữa.
Vừa lúc đó, cô dừng lại trước một căn nhà, nhà của cô. Phải qua một
cái sân nhỏ trước khi vào tới phòng khách. Cô Thanh dơ tay:
- Dạ, mời ngồi. Để tôi lấy nước trà mời trung-úy.
Trong nhà còn có hai vợ chồng người bà con của cô, tuổi khoảng ngũ
tuần. Cô Thanh sai họ châm bình nước trà, đoạn rót ra trân trọng mời
tôi. Không giữ được kiên nhẫn, tôi hỏi:
- Hồi nãy cô nói cháu Hân không còn ở với cô. Vậy giờ cháu đang ở
đâu?
Sau một hơi thở thật dài, cô Thanh bỗng bật lên khóc nức nở. Hai tay
bưng mặt, cô nói trong tiếng nấc:
- Cháu nó đã mất rồi! Nó bỏ tôi đã gần ba chục năm rồi trung-úy ơi!
Tôi bàng hoàng, choáng ngợp như vừa bị dội cả một thùng nước lạnh
vào người! Qua một phút xúc động đến tột cùng, tôi lấy lại bình
tĩnh:
- Cháu nó qua đời như thế nào, cô có thể cho tôi biết được không?
- Chuyện cũng hơi dài dòng, vì vậy tôi có ý mời trung-úy tới nhà,
mình có nhiều thời gian hơn. Cô Thanh có vẻ đã lấy lại được chút
bình tĩnh, cô tiếp:
- Tôi nhớ nó mất năm Mậu Ngọ, 1978. Lúc đó khó khăn lắm, cả nước
đói! Ở quê như chúng tôi mà cũng phải ăn độn! Cháu Hân bỏ học ngay
từ năm 75. Nó nói học hành gì mà tối ngày họp tổ, họp đoàn, rồi chửi
bới chế độ cũ... Vậy mà cũng không thoát, nó phải nhập vào cái gì
kêu là thanh-niên xung-phong gì gì đó, đi làm thủy lợi. Nghĩa là đào
kinh, đắp mương đó, trung-úy.
Ngừng lại vài giây như thể để lấy thêm sức, cô tiếp:
- Hồi đó nó đang tuổi con gái, mà ăn uống thì thiếu thốn. Lại thêm
thi đua này nọ, nó bị mất sức nhiều lắm, rồi bị sốt xuất huyết. Bịnh
cũng không đáng gì, nhưng thuốc men hồi đó hoàn toàn không có. Ăn
còn không đủ, nói chi thuốc!... Lúc đó nó mới vừa 19 tuổi.
Đến đây, cô lại ôm mặt nức nở... Tôi lại gần cô, vỗ về an ủi:
- Số phận đã an bài như vậy, không cho em qua được cơn khó khăn. Cô
cũng không nên rầu rĩ quá không có lợi. Tuổi cô cũng như tôi, ngày
một yếu kém...
- Tôi cũng biết vậy, và tôi cũng đã cố giữ gìn sức khỏe, để sống đến
ngày hôm nay...
Nói tới đây, cô Thanh từ từ đứng dậy, hướng dẫn tôi đi về phía bàn
thờ giữa căn nhà.
Phía trên bàn thờ, tôi thấy có treo hai tấm hình lớn mà tôi đoán là
song thân của cô Thanh; đặt trên mặt bàn thờ phía bên trái, có ba
tấm hình mà một trong ba tấm đó, tôi nhận ra là em Hân. Hình chụp có
lẽ vào lúc em 17, 18 tuổi, trông xinh đẹp như một bông hoa đang nở.
Khi tôi nhìn em thì đôi mắt của em cũng đã nhìn vào tôi từ lâu lắm
rồi, có lẽ ngay từ khi tôi bước vào căn nhà này! Thắp nén nhang, tôi
biết tim tôi đang chảy ra thành nước, và dòng nước ấm đó đang chảy
ngược lên phía đôi con mắt ... Khói nhang bốc lên không gian và tỏa
rộng. Ánh sáng yếu ớt khúc-xạ qua làn khói, làm như em đang mỉm cười
nhìn tôi. Có lúc lại không phải là cười, mà đang nhìn tôi như trách
móc!?
Mắt tôi bỗng nhiên hơi mờ đi, hình ảnh của Hân, một buổi chiều xa
xưa trong dĩ-vãng bỗng hiện về, bé nhỏ lẫn trong đám người thăm
viếng ở bịnh-viện Cộng-Hòa, em quay lại mỉm cười nhìn tôi... Và rồi
lần cuối cùng tôi gặp, cánh tay bé nhỏ dơ lên chào tạm biệt khi tôi
trở về Sàigòn, mắt em đầy lệ... Một âm thanh mơ-hồ như vọng lại từ
một nơi nào xa, xa lắm:
- ...Đừng quên đến thăm Hân nha, Hân chờ đấy!...
Người tôi lúc đó như muốn rũ xuống, tôi cố gắng hết sức đứng thẳng
người, nhìn tha thiết vào đôi mắt em, cầu xin một tha thứ.
Ngay trước bức hình của em, tôi thấy có một hộp nhỏ bằng nửa bàn
tay, khảm xà cừ mầu đen rất đẹp. Thấy tôi nhìn vào chiếc hộp nhỏ, cô
Thanh nói như khuyến khích:
- Trung-úy cứ cầm lên và mở ra coi.
Tôi nhẹ nhẹ cầm chiếc hộp lên bằng hai tay và mở nó. Một thứ ánh
sáng như lóe lên: chiếc nhẫn Võ Bị năm xưa của tôi hiện ra, sáng
bóng, nằm trong hộp trên một miếng nỉ trắng.
Cầm chiếc nhẫn trên tay, tôi chợt rùng mình, dường như có một luồng
điện nhẹ đang chạy qua khắp châu thân! Qua bao năm tháng, chiếc nhẫn
vẫn còn đây mà người xưa đã mất. Chiếc nhẫn như nhắc tôi một lời hứa
mà tôi không giữ trọn! Nhìn giọt nước mắt rơi, tôi mới biết mình
đang khóc. Thực lòng, tôi cũng không biết tôi đang khóc vì vui mừng
thấy lại một kỷ-vật xưa, hay đang khóc vì tràn đầy ân hận.
Rồi như một phản xạ, tôi đưa nó lên gần miệng, hà một hơi ấm vào
viên hồng ngọc rồi chà sát nhẹ nhẹ vào ngực, phía trái tim.
Nhạt nhòa trong nhang khói, tôi thấy Hân như lại mỉm cười. Có phải
tôi tưởng tượng không, hay đang có một thần giao cách cảm?
Cô Thanh từ nãy chỉ đứng yên lặng theo dõi, bỗng cô nói, giọng nhẹ
như hơi thở:
- Những lúc còn tỉnh, cháu nó đã kể hết cho tôi nghe vì sao nó có
chiếc nhẫn này. Trước đó, nó đã giấu cả tôi, giữ kín và âm thầm chờ
mong cho đến những ngày cuối cùng. Trước khi nhắm mắt, nó còn dặn
tôi phải để chiếc nhẫn này ngay trước hình thờ của nó, vì nó quả
quyết là sẽ có một ngày, một ngày trung-úy sẽ tìm đến.
Ngừng một phút, cô nói thật nhỏ, như nói với chính mình:
- Cũng phải mất hơn ba chục năm! Giờ thì châu đã lại về hiệp phố!
Đặt lại chiếc nhẫn vào trong hộp và trân trọng để chiếc hộp vào đúng
chỗ ban đầu, tôi quay qua cô Thanh:
- Thưa cô, chắc nó không cần về “hiệp phố” nữa đâu. Tôi giữ nó chỉ
có khoảng 5 năm, thế mà chiếc nhẫn này nó đã ở bên em Hân những trên
ba mươi năm, những lúc em còn sống và cả những lúc em đã qua đời.
Tôi không thể hình dung được rồi mai đây, bên hình của em sẽ chỉ còn
là một khoảng trống. Tôi biết khi xưa, em luôn luôn muốn có chiếc
nhẫn này ở bên cạnh. Cái chỗ đúng nhất của nó là ở trong cái hộp
này, ở tại nơi đây! Xin phép cô, cho tôi cứ để nó bên em Hân mãi
mãi... Âm dương là muôn đời cách trở, nhưng tôi muốn mượn chiếc nhẫn
này, như một vật xúc-tác giữa hai linh hồn, một linh hồn sống
tha-phương nơi đất khách quê người, và một linh hồn mãi mãi trên quê
hương...
o O o
Cô Thanh ân cần mời tôi ở lại dùng cơm chiều, nhưng tôi phải từ chối
vì không muốn trở lại Sàigòn khi quá tối. Tôi hẹn tuần sau sẽ lên để
thăm mộ và đốt cho em Hân một nén nhang.
Khi tiễn tôi qua chợ, cô cười nói với tôi:
- Trung-úy biết không, khi mua lại căn nhà gần chợ này, tôi cũng có
chủ ý là được thấy thật nhiều du khách Việt-kiều. Thấy ai có dáng
Việt-kiều là tôi ngó thiệt kỹ. Không dè cũng có ngày Trời Phật
thương.
Tôi mỉm cười trước những ý nghĩ chân chất và đôn hậu của một người
miền Nam như cô Thanh. Từ giã cô, tôi theo tỉnh lộ 10 để về Sàigòn.
Trước kia con đường này ít khi được xử dụng vì luôn luôn bị đắp mô,
mìn bẫy...
Thương hải biến tang điền! Ngàn xưa đến ngàn sau, dù muốn hay không,
đổi thay mãi mãi vẫn là một bản chất tự nhiên của cuộc sống!
Chỉ có tình-cảm của con người, có những thứ tình-cảm mà đời đời,
không bao giờ thay đổi!
...Vậy mà nhiều khi tôi vẫn đinh ninh rằng: Đã mất hết cả rồi!
Bùi Thượng Phong
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
|
IP Logged |
|