Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Thơ Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn |
Chủ đề: BÀI ĐÃ ĐỌC | |
<< phần trước Trang of 5 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
lo cong
Senior Member Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
Gởi ngày: 02/Oct/2011 lúc 10:54pm |
.
Truyện tình 2500 Chữ " T " thật tuyệt tác!
Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 02/Oct/2011 lúc 11:07pm |
|
Lộ Công Mười Lăm
|
|
IP Logged | |
Phanthuy
Senior Member Tham gia ngày: 01/Jun/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 960 |
Gởi ngày: 03/Oct/2011 lúc 11:42pm |
Ha ha, chuyện chữ T này công phu và hay quá , mà cũng mắc cười nữa.
Hú hồn , may mà PT họ Phan chứ nếu trùng tên Thu Thủy thì có nước độn thổ ! Chỉnh sửa lại bởi Phanthuy - 03/Oct/2011 lúc 11:42pm |
|
PhanThuy-CA
|
|
IP Logged | |
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 04/Oct/2011 lúc 11:48am |
Bình Nguyên Lộc Truyện Ba Con Cáo
Nói về tryện ngắn--và cả luôn văn chương Việt Nam--Bình Nguyên Lộc là một tác giả không thể không nhắc đến. Theo nhiều tài liệu khác nhau, ông viết từ 300 cho đến 400 truyện ngắn và hơn ba mươi truyện dài. Thêm vào đó là hai khảo cứu về ngôn ngữ học. Bình Nguyên Lộc là kể truyện hơn là viết truyện: truyện của ông là kinh nghiệm đời, chuyện thấy được qua kinh nghiệm sống. Tên thật là Tô Văn Tuấn, sanh năm 1914 Tân Uyên, Biên Hoà, sau khi đậu tú tài phần 1, ông ra làm công chức và bắt đấu viết văn từ năm 1943. Năm 1950 ông cho ra đời truyện dài Nhốt Gió. Từ đó ông là một trong những nhà văn được mến chuộng nhất trong giới cầm bút. Truyện ngắn Bình Nguyên Lộc nói về phong tục địa phương và sự giao cảm của người dân và mãnh đất họ đang cư ngụ. Trong một truyện ngắn có tên là "Những Ngôi Mã Tổ," ông viết về một ngôi làng thật nghèo ở miền đông Nam Phần. Nhưng ngôi làng nằm trên một vùng đất có một sự cấu trúc địa dư chất đặc biệt: dưới mãnh đất khô cằn đó là một lớp sỏi quý, loại sỏi mà các chủ nhân biệt thự dùng để trải sân. Khi một tay thầu khoán biết được chuyện đó, ông ta đến thương lụng với dân làng, xin trả một khoảng tiền thật lớn đê? mua nguyên cái làng và khai thác sỏi-- nhưng ông ta không nói cho dân làng biết lý do tại sao ông muốn mua mãnh đất khô cằn đó. Sau vài ngày nghị luận, dân làng trả lời là họ không muốn bán đi vùng đất mà tổ tiên của họ khai khẩn. Tiếc của, người thấu khoán đi đến một quyết định táo bạo hơn: ông mướn người nửa đêm đốt sạch khu làng đó. Với hy vọng khi làng đã cháy rụi, dân làng sẽ bán mãnh đất và dọn đi nơi khác ... Vài ngày sau người thầu khoán trở lại, một lần nữa ông đề nghị mua mãnh đất. Trong khung cảnh trơ trụi của một ngôi làng bị đốt cháy, những người dân làng trả lời người thầu khoán là họ không thể bán đất của họ đi được vì trên vùng đất khô cằn đó có những ngôi mã tổ tiên của họ. Trong giai đoạn về sau của sự nghiệp viết văn của Bình Nguyên Lộc, ông trở qua khảo cứu về ngôn ngữ học-- mặc dù không thánh công lắm. Ông có hai tác phẩm về ngôn ngử-nhân chủng học là: Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam; Lột Trần Việt Ngữ. Các sáng tác tiêu biểu khác: Tân Liêu Trai; Ký Thác; Nữa Đêm Trảng Sụp; Bí Mật Của Nàng; Quán Tai Heo; Tình Đất; Nụ Cười Nước Mắt Học Trò; Nhưng Bước Lang Thang Trên Hè Phố. ... Binh Nguyên Lộc đến Hoa Kỳ tị nạn vào năm 1985 và mất tại California vào tháng 3, 1987. Truyện Ba Con Cáo mà chúng tôi trích đăng dưới dây được đăng trên nguyệt san Bách Khoa vào năm 1962. Trong truyện này hình như BNL nói về ba nhân vật: Một cô gái điếm, một tên trộm cắp trốn quân dịch, và một con cáo. Cả ba cần nhau khi họ còn cơ hội và điều kiện; họ phản nhau khi bản năng sinh tồn bắt họ phản nhau. Một bộ mặt rất thật của cuộc đời trong truyện ngắn của Bình Nguyen Lộc. Nguyễn Kỳ Phong Truyện Ba Con Cáo Mặc dầu là tay "bán trời không mời thiên lôi", Sáu Sửu vẫn nghe rờn rợn khi nhìn ra ngoài. Thánh giá trắng đứng mơ hồ trong ánh sáng lờ mờ của nghĩa địa, sắp thành hàng ngũ đông đúc, nhánh ngang của thánh giá trông mường tượng như những cánh tay người giăng ra để đón bắt ai. Xa xa, một trụ vôi có dáng một người đàn bà đội khăn tang trắng, đứng nhìn đám mồ trước mặt bà ta. Gió đêm, cùng với dế, trùn, họp nhau mà than vãn bên hàng nghìn mồ hoang mả lạnh, và thỉnh thoảng, anh Sáu vẳng nghe như có tiếng người rên rỉ đâu đây. Từ một ngôi mả cũ đằng xa, một ánh lửa lóe lên, nhỏ bằng ngón tay, từ từ bay lên cao rồi đi bơ vơ qua các hàng thánh giá. Lửa ma trơi hay là đèn của một người đi soi ếch nào đó? Mưa dầm tháng tám rơi trên nước ao tù khiến anh Sáu có cảm giác rằng mình đang ngủ trên một chiếc thuyền, giữa dòng nước. Lạnh quá, lạnh ngoài da, mà lạnh cả đến trong lòng. Người sống, một khi xâm nhập vào địa hạt của người chết, mới nhận được rằng cuộc đời bên ngoài dầu đau khổ bao nhiêu cũng còn ấm chán. Tại phố Phát Diệm, khúc phía trên này, họ Cầu Kho có một đất thánh mà từ vài năm nay nhà thờ không cho chôn trong đó nữa. Dân số nghĩa địa cứ mỗi ngày một tăng lên, mà không có một ai chết lần thứ nhì cả để cho số sanh và số tử bù trừ nhau hầu đất đai trống bớt chỗ. Ngoài thành phố, người ta đẻ con, nhưng người ta lại chôn ông, nhà cửa thành thử không chật thêm được. Ở đây mồ mả sanh ra rồi già cỗi dưới rêu xanh của sương gió, nhưng vẫn nằm lì đó đến muôn thu. Vì vậy nghĩa địa phải chịu nạn nhơn mãn. Nhà thờ không cho chôn xác thêm vào đó, rồi cũng chểnh mảng việc trông nom đất thánh nên người sống đang thiếu đất, bèn ùa đến mà lấn người chết. Nghĩa địa không có vách thành. Ban đầu vài người mạo hiểm cất nhà ngay trên ranh đất thánh. Thấy không ai nói gì, một số người khác lách qua khỏi mấy cái nhà vừa cất lên, để vô trong mà xây cất. Họ cất vây tứ phía ngôi đất thánh và vòng vây cứ càng ngày càng siết chặt lại, người chết không còn lối nào để thoát ra được nữa cả. Khi vòng vây siết đến lằn mức chót, nghĩa là những ngôi mộ ở bìa, thì cuộc xô lấn bắt đầu diễn ra một cách đau thương. Người sống cũng biết đau lòng khi phải dẫm lên những gò mả còn mới rành rành (nhiều mô. bia, thánh giá, đề năm chôn là 1951) nhưng họ, ác thay, lại cũng biết lạnh. Cho nên họ cứ cất nhà trên những nấm đất ấy, xin người chết thứ lỗi, miễn là có chỗ núp mưa thì thôi. Không bao giờ kẻ sống và người chết lại sát cánh nhau đến thế. Ông đã chết rồi, ông choán đất làm chi cho nhiều, trong khi tôi không có lấy một vuông nhỏ để mà cắm cây cột gỗ; vậy ông thứ lỗi nhé! Rồi ngày sau tôi cũng hoàn lại đất như ông vậy mà; trần gian nầy chỉ là cõi tạm thôi, tranh nhau làm gì! Cuộc xâm lăng lặng lẽ để tranh sống với người chết, gây ra một tai hại lạ kỳ. Vùng đất ấy ngày xưa tuy cũng thấp mà vẫn khô ráo, nhờ con rạch Bần tháo nước ra sông Ông Lãnh. Nhưng từ khi đô thành cho đắp đại lộ Trần Hưng Đạo, cách đây mấy mươi năm, thì ngọn rạch Bần bị lấp, và nước mưa trên nầy bị bỏ tù lại đến chung thân khổ sai, vì khu ấy đất trũng mà! Đất thánh không phải ở giữa rún đất nên không đọng nước. Nhưng vòng vây tai hại kia lại biến thành con đê ngăn nước đất thánh đô? xuống chỗ trũng hơn. Thành thử phần nhiều ngôi mộ đã biến thành cù lao, có cù lao rời rạc, có mớ họp thành quần đảo, không còn làm sao ra đó được nữa. Nước tù mang một màu khó tả và một mùi cũng khôn tả. Đáy ao biến thành bùn non, đi thì lún đến ống quyển. Lau, sậy, đế tha hồ mà mọc như ở bưng miền xa. Giữa đất thánh còn sót lại một ngôi mộ cổ kiến trúc theo bên lương mà có lẽ nhà thờ không nỡ phá đi lúc lập ra đất thánh cho giáo dân nầy. Ngôi mộ ấy đồ sộ nhứt nghĩa địa, xây bằng vôi và ô đước, xanh đặc những rêu phủ. Lối kiến trúc rất rắc rối như một lâu đài, đầy rẫy ngăn nắp với nào là đường vào lối ra quanh co và hóc hiểm. Hôm ấy những người của vòng vây đều ngạc nhiên mà thấy một mái nhà lá dựng ngay trên ngôi mộ cổ ấy. Nhà dựng đâu từ sớm mai đến trưa là xong cả. Họ cứ tự hỏi, và hỏi nhau làm thế nào mà chủ nếp nhà ấy lội sình để ra ngoài đó được. Đi tay không đã không được rồi, mà làm sao hắn ta lại mang cả gỗ, tre và lá ra đó để cất nhà? Hỏi nhau không ai đáp được, mà cũng chẳng mong phỏng vấn thằng cha dị hợm kia, họ đành thôi. Thét rồi mắt họ quen đi, nếp nhà ăn vào chân trời quen thuộc của họ, họ nhận cho nó ơ? đó mà không bàn tới bàn lui gì nữa cả. Sáu Sửu ngày trước có ở xóm Phát Diệm. Năm ấy có người treo cổ trong nhà mồ ở bìa đất thánh. Anh đã vào đó với nhiều kẻ hiếu kỳ khác để xem kẻ chết treo, nên được dịp biết rõ nghĩa địa. Hôm tháng rồi anh bị truy nã ráo riết nên cố tìm một chỗ ẩn nấp thật kín. Nhớ lại xóm cũ với cái nghĩa địa kia, anh về qua đó và rất hài lòng mà gặp hòn đảo nầy. Không một viên cảnh sát nào đủ can đảm lội sình nhứt là dầm chơn trong một thứ nước nhơn nhớt để ra ngoài đảo Lỗ Bình Sơn của anh. Nếu có cuộc bố ráp đại qui mô như hồi còn Tây thì bất quá họ cũng đứng ngoài mà nhìn vào, hú bậy vài tiếng như hú đò bên kia sông, rồi đò không qua thì thôi. Họ nghĩ sót một con cá cũng chưa chết ai, mà biết đâu cá đó lại không phải cá hiền, một tên ăn mày nào đó chớ gì. Từ vòng vây ở ngoài, leo lét vài ngọn đèn dầu của những kẻ lấn đất người chết. Xa thật xa ngoài kia, ánh sáng đô thành làm nổi bật lên, đen thui, những ngôi nhà lầu, những ngọn cây cao. Các thứ nầy giống hệt những hình bằng giấy đen, người ta cắt rồi dán lên nền trời. Bỗng anh Sáu nghe rục rịch dưới sàn ván. Hôm cất nhà xong, anh lót ván lên mộ, vừa để làm nền nhà, vừa để làm giường ngủ. Dưới ván rầm ấy, lau sậy bị đè đầu xuống, và sẽ chết lần mòn vì thiếu ánh sáng. Anh Sáu quên, một thứ khác, cũng giống như lau sậy, mà biết cục cựa nữa kia. Vì thế đêm nay trời có trăng, anh ngồi ngó một ra đám rừng thánh giá trắng thì anh phải một phen hết hồn trước sự hiện ra của một chú chồn to bằng con chó ta. Chồn khua lau sậy sột soạt, rồi chui ra khỏi mộ, ngoái cổ lại dòm cái nhà mà đêm hôm qua đây chưa có. Suốt ngày hôm ấy nó nằm trong hang, không dám ló ra nên không biết ngoài này loài người làm gì mà lục đục mãi. Đôi mắt nó lóng lánh dưới ánh trăng, ngạc nhiên giây lát rồi bỏ đi. Nó đã quen với con người rồi nên không có vẻ gì sợ sệt cả. Nhưng anh Sáu lại sợ. Anh có đọc truyện Phong Thần nói chuyện mả Huỳnh Đế có một bầy hồ ly mà một con đã nổi danh trong lịch sử, là cái con đã biến thành nàng Tô Đắc Kỷ; đến nay thấy chồn trong mộ chui ra, anh liên tưởng ngay đến tích cũ rồi rợn người lên. Nhưng anh trấn tĩnh lại được. Trong dân chúng người ta tin chắc như đinh đóng cột rằng tóc người chết hóa thành con lươn, rồi con lươn hóa thành con chồn. Con chồn mà anh thấy, có lẽ chỉ là thối thân của tóc người nằm dưới nhà mồ, chớ không phải yêu quái gì đâu. Độ nửa tiếng đồng hồ sau, anh Sáu thấy chồn về, mõm ngậm một con vịt. - A ha, đồng đạo đây mà! Anh Sáu cười mà nói thầm như vậy rồi cảm tình ngày với con thú nầy. Cái đạo mà anh nói đó là đạo ... chích; trước kia, trước khi lường gạt và cướp giựt, anh cũng đã đi ăn cắp gà như chú chồn nầy vậy. Ngày nay anh thôi ăn cắp, nhưng lại biến thành con cáo già chuyên môn gạt gẫm thiên hạ. - Mầy cáo thì tao đây cũng cáo, vậy thì là bồ rồi. Từ đó, hai con cáo chung đụng với nhau mà không xích mích bao giờ cả. Nghe động dưới sàn, anh Sáu mỉm cười lẩm bẩm: - Đồng nghiệp xuất quân đó đa! Anh Sáu nhờ cậy con chồn nầy lắm. Có nó ở dưới ấy thì không còn lo rắn rít nữa. Anh mong có dịp trả ơn nó, nhưng nó có đói bao giờ đâu để anh ra tay hào phóng mua cho nó một con gà. Xóm lao động vây quanh nghĩa địa, người ta nuôi gà vịt cả bầy, nó ăn đến già cũng chưa hết. Bỗng anh Sáu nghe có tiếng chó sủa vang dậy lên. Tiếng sủa to lắm và oai vệ lắm, có lẽ đó là tiếng chó bẹc-giê. Rồi lại nghe nước khua lũm chũm, với tiếng chó càng lúc càng đến gần anh. Anh Sáu bước ra dòm thì thấy bạn của anh đang chạy bán sống bán chết trước một con chó to thấy mà bắt ớn. Anh Sáu thò tay vào trong rút cây chĩa ba ra, cây chĩa anh sắm để chĩa ếch dưới nước, rồi lẹ như chớp, anh chìa mũi chĩa đón đầu chó cho chồn đủ ngày giờ chui vào mả. Chó bẹc-giê chạy quá đà, bị mũi chĩa đâm vào mõm đau điếng, rống lên vài tiếng rồi trở bước, vừa đi vừa day lại, sủa om như chửi thề. Anh Sáu cười ha hả rồi cúi xuống sàn mà nói: - Đêm nay tổ trác rồi đó phải không em! Anh đây cũng bị rượt thường lắm, nhưng đều thoát khỏi cả. Bây giờ thì đố ai mà dám theo anh vào chốn nầy. Chỗ ở tụi mình kín số dách. Sáng hôm ấy, anh Sáu đi uống cà-phê, về tới nhà thì ngạc nhiên hết sức. Trên một ngôi mô. cận mộ anh, một chòi lá đã dựng lên rồi. Ngộ quá, nhà cửa sao mà mọc mau lẹ như nấm mối. Uống xong tách cà-phê, đọc xong trang nhứt một tờ nhựt báo là một túp lều cũng vừa dựng xong. Phải mà, chỉ có bốn cây cột thôi thì chậm sao được! Anh Sáu ngạc nhiên mà thấy có một người thứ nhì lại biết con đường bí mật đưa vào đó! Anh lại tức vì túp lều ấy chặn ngay đầu đường bí mật của anh. Số là anh Sáu biết lợi dụng mấy ngôi mộ chung quanh nên mới vào đây được. Anh phải đi quanh co nhiều nơi, nhảy từ ngôi mộ nầy qua ngôi mộ khác, ra cửa nhà thì đi hướng đông, nhưng ra khỏi nghĩa địa lại ra hướng tây, nghĩa là anh phải đánh một cái vòng rất lớn và rất cong quẹo. Túp lều tranh ấy cất ngay trên ngôi mộ anh dùng làm đầu cầu cuối cùng để nhảy vào nhà anh, thì anh còn làm sao mà về nhà được, nếu hắn không cho anh nhảy ngang qua nhà hắn? Anh tức giận lắm toan vào lều mần thằng cha nầy một mách cho nó phải giải tỏa hiểm đạo của anh, anh mới nghe cho. Anh Sáu vỗ đùi nhảy một cái như bay đi và rơi xuống phiến mộ bia đặt nằm theo lối Châu Âu, trên có khắc mấy giòng chữ như sau: Ci-git: Alphonse Thomas Nguyễn-Văn-Nở décédé en sa 78è année Priez pour lui (1) Phiến đá lớn bằng bộ ván hai, và thằng cha chủ nhà nầy dùng phiến đá ấy để làm bộ ván luôn, nên không thấy nó lót gì trên ấy cả mà lại để lên đó nào là va-ly, dép ... à ... mà sao lại dép đàn bà? Túp lều che có phân nửa tấm bia thôi; cửa lều là một bức màn bằng vải bông cũ. Anh Sáu bước tới vén màn lên thì ô nầy lạ, chủ nhơn bà (chớ không phải chủ nhơn ông) là một thiếu phụ tóc quăn. Chủ nhơn bà bình tĩnh chào anh Sáu bằng một mỉm cười yên lặng. Có lẽ chồng chị ta đi làm rồi chăng? Nhưng vẫn lạ là chị không có vẻ lao động chút xíu nào hết. Móng tay chị đỏ choét và nhọn hoắt, nước da mặt của chị bị phấn ăn, chỗ thì mét chằng, chỗ thì thâm đen sì, mắt chị mệt đừ và sâu hóm như mắt cô đào hát bội. Y phục của chị cũng không phải y phục của những kẻ đầu tắt mặt tối: lai quần gắn ren, áo cổ bà lai thêu rằn rịt xanh đỏ, tóc thì kẹp thành đuôi ngựa, cột bằng ruy-băng màu. Chị ngồi trên chiếc rương thiếc nhỏ, món đồ từ khí độc nhứt trong chòi, mỉm cười rồi giây lát hất hàm hỏi anh: - Có tiền mãi lộ không? Nếu không, mỗ không cho đi ngang qua đây. Mỗ đóng đồn ở đây rồi, ai bước qua phải đóng thuế. Anh Sáu thọc tay vào túi quần tây cũ của anh đứng thẳng lên coi oai vệ như một tướng cướp trong xi-nê-ma, cười gằn rồi ngạo nghễ đáp: - Hỡi cô nữ tướng mã thượng giang hồ, nữ tướng không có lâu la thì đòi tiền mã lộ ai được. Nữ tướng có giỏi thì bước ra ngoài đánh với ta vài mươi hiệp cho rõ tài cao thấp. Nữ tướng cười xòa vì nghe giọng điệu thì biết đã gặp tay đồng điệu. Tuy bắt nạt hắn không được nhưng bắt bồ với hắn có thể có lợi. Anh Sáu xem qua thì biết nữ tướng thuộc vào hạng người nào trong xã hội rồi. Đây cũng là một kẻ trốn chui như anh, như con cáo dưới giường anh. Cả ba đều là chồn, nhưng con chồn cái này đã tu luyện nhiều năm nên mang được hình người. Đây là một thứ hồ ly không hớp hồn nho sĩ mà chỉ hốt bạc cắc của mấy anh lao động thôi. Đầu anh Sáu đụng nóc chòi, anh khó chịu quá nên ngồi xuống: - Ở đây không sợ mang tội à? Anh hỏi đùa. - Chớ còn anh? - Tôi thì khác. Ngôi mả của tôi cũ lắm rồi. Đó là một cái nhà của một người chết đã đi đầu thai kiếp khác rồi. Con chồn cái bỗng bỏ cái cười, buồn nét mặt lại rồi chỉ ra ngôi giáo đường trước nghĩa địa. Tiểu giáo đường tuy chỉ để làm lễ mỗi khi đám xác nào tới đây thôi, nhưng cũng đồ sộ bằng một nhà thờ ở thôn quê. Tuy ngói đã bị tốc nhiều nơi, gạch, đá trên tường nhiều viên đã rã và rớt xuống, cửa sổ gỗ đã bung hết, cửa kính màu đã bể nát, nhưng toàn thể công trình kiến trúc gô-tích ấy vẫn còn mang cái phong độ vĩ đại của thời Trung Cổ Châu Âu. - Anh thấy không? Chị ta nói. Nếu mình dám vào trong đó mà ở thì đâu có phạm tội như vầy. Anh Sáu thở dài rồi không thèm chào hỏi gì cả vỗ đùi nhảy bay qua nhà anh. Từ đó bộ ba chịu đựng nhau để sống chung nhau. Họ khác nhau ý tứ, phong tục, thói quen, lối sống, nhưng cả ba con cáo đều có một nỗi băn khoăn chung là cả ba đều sợ: Con cáo chánh hiệu con ... cáo thì sợ chó bẹc-giê, con cáo già sợ Công An, còn con hồ ly cáo cái thì sợ lính kiểm tục. Trong cảnh khổ giống nhau, tuy họ không tương đắc với nhau được và vẫn phải tương thân để bảo vệ nhau, khi cần. Mà nhứt là để an ủi lẫn nhau. Anh Sáu không thích đờn bà lắm. Hay nói cho đúng ra, anh đã chán chê đờn bà, nhứt là chán những hạng đờn bà như con hồ ly không bao giờ chịu xưng tên nầy. Nhưng mà những đêm mưa dầm buồn quá, nằm giữa cánh đồng ma mà được có người để trò chuyện với nó thì ấm biết bao! Những đêm mưa như vậy, con hồ ly không đi kiếm ăn được, mà cũng không đủ sức mạnh để nhảy qua nhà anh Sáu vì hòn đảo của anh ở xa mãi ngoài giữa dòng nước, nên hồ ly ta thắp lên một ngọn nến rồi ngồi bó gối mà ca trật lất bản nhạc "Đêm đông". "Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng". Gió đâm sầm vào tiểu giáo đường đằng trước kia, tung hoàng giữa gian phòng trống mênh mông rồi vừa hú vừa chui ra khỏi các cửa sổ nghe bắt lạnh mình. Mấy cây thùy liễu hiếm hoi đã kháng cự được với lau sậy để sống sót, đứng cúi đầu khóc sướt mướt dưới trận mưa dầm, trong ánh trăng mờ. Mộ hàng hàng như bầy cừu nằm nghỉ, gặm cỏ héo hon và vô vị, hút đắng cay trên miếng đất mồ côi (2). Đây là chốn mà mộng đời bị cắt đứt nửa chừng, kẻ chết yên nghỉ thiên thu, mà người sống cũng khó mong trở về với xã hội loài người. Anh Sáu nhảy bay qua nhà hồ ly, như một tay kiếm khách phi dạ hành, rồi hai kẻ ở ngoài vòng pháp luật ấy mới cùng nhau tâm sự. Không phải kể chuyện cho khách nghe, hồ ly khỏi phải thi vị hóa buổi thiếu thời của mình, không cần lòe ai, con cáo già cũng khỏi anh hùng hóa bước giang hồ của hắn. Họ đánh bài, mà hạ bài cho nhau thấy. Bao nhiêu thúi tha nhơ nhớp trong đời họ, họ phơi cả ra như sau đêm mưa, họ phơi gối trên mồ cho nó bớt âm ẩm khó chịu. Trời mưa cuối mùa cứ dai dẳng từ ngày nầy qua ngày khác. Con hồ ly ban đầu ăn xôi, ăn bánh mì chả lụa trừ cơm. Mãi rồi nó cũng không còn tiền để mua xôi nữa. Đất Sài Gòn, những ngày cuối tháng mà mưa dầm, thì tiền bạc nó cũng sợ lạnh, không hề dám ló ra ngoài. Nó có ló ra, con hồ ly mới ăn nem nướng được, còn nó mà trùm chăn thì chồn cái cũng đành trùm mền mà nhịn đói. Anh Sáu cũng chẳng thấy đi uống cà-phê sáng cho ấm bụng. Cũng chẳng thấy khói thuốc bay ra khỏi mái lều của anh như mọi ngày, và lâu lâu cũng không còn nghe mẩu thuốc vứt xuống ao, tắt kêu xèo một cái. Cả hai, vì tự ái hão, đều giả đau để nằm nhà. Anh Sáu yên thân hơn, còn dám ngồi dậy lết ra lết vô. Còn con hồ ly thì sợ anh Sáu đi ngang qua đó biết mình giả đò chăng, nên cứ trùm chiếu mãi từ sáng đến chiều. Khó chịu quá, ngộp quá, mà anh Sáu không đi ngang qua lần nào để thấy là nàng ta đang đau ốm thì có tức hay không chớ? Hết mưa rồi nắng. Anh Sáu ra đi. Ngang qua nhà hồ ly, anh lấy chơn lật chiếu ra thì thấy hồ ly nằm xụi lơ. Nàng đau ốm thật đó, đau một chứng bịnh cổ điển của loài người, là bịnh ... đói. Anh Sáu mau bước nhảy như con khỉ từ ngôi mộ nầy đến ngôi mộ khác và rốt cuộc ra tới đầu ngõ hẻm trổ ra phố. Thiên hạ cứ mỗi ngày một khôn ra, cho nên, mặc dầu là cáo già, anh Sáu không còn gạt gẫm ai được nữa. Anh buồn hiu trở lại đào viên mà ba người bạn đã mặc lặng kết nghĩa với nhau hôm mấy tháng trước. - Chị đỡ bớt hay chưa? Anh hỏi bậy cho có chuyện. - Có uống mẹ gì đâu mà đỡ bớt. - Chị nghe trong mình làm sao? - Không biết. Nhưng nếu ăn được một chén cháo thì khỏe. Anh Sáu hiểu ngay. Anh lại thở ra, ngồi bó gối bên cạnh một người mà anh sẽ chịu đồng cảnh vài ngày nữa đây. Sở dĩ anh còn đi đứng được là nhờ anh mạnh sức, lây lất nổi thêm vài ngày. Chiều xuống sớm và mây kéo đen nghịt trời. Ngoài kia vịt vào chuồng kêu cạp cạp. Nghe tiếng vịt kêu, anh Sáu nhớ lại người bạn thứ ba. - Hừ, nó coi vậy mà nó đó. Bỗng một ý nghĩ nảy ra. Anh vừa mừng thì lại nghe như ai xát ớt trong ruột anh. Nhưng biết làm sao: Đi ăn trộm vịt, không đáng gì cả, mà rủi ro thì khổ. Trong lúc mình đang trốn mà dại gì làm những chuyện xằng nho nhỏ. Anh Sáu đứng lên nhảy bay qua nhà anh, rồi ngồi nhìn mưa bắt đầu rơi lũm chũm trên mặt ao tù. Một con nhái hay con gì không rõ, nhảy xuống nước lội róc rách đi về đâu không biết. Gió hú trong tiểu giáo đường, gió than vãn ở các nhà mồ. Xa xa tiếng động cơ xe nổ lên, nhắc nhở rằng cuộc sống ở bãi tha ma nầy thầm lặng quá! Anh Sáu rút cây chĩa ba, lết ra tới trước mả mà ngồi. Anh cúi mặt xuống miếng đất đọng nước, mắt lom lom rình. Bỗng có tiếng sột soạt do con chồn khua lau sậy, nay đã chết khô rồi. Anh Sáu hồi hộp nghe tim anh đập thình thình trong lồng ngực anh. Lạ! Anh đã giết người, mà nhớ ra là anh đã không nghe mảy may sợ hãi. Cớ sao đêm nay ... Kìa một cục đen đen thò ra khỏi sàn ván. Anh Sáu cầm chĩa ba mà nhắm rồi sực một cái, mũi chĩa đâm chúi xuống trúng ngay cổ con chồn. Chồn thét lên một tiếng kêu đau, kinh sợ, rồi thôi. Trong bãi tha ma hoang vắng, không một tiếng vang lặp lại tiếng kêu thương của con vật vừa bị bạn phản bội nầy. Dân lưu manh vẫn thế. Họ cũng biết xúc cảm, nhưng chỉ xúc cảm vậy vậy thôi. Họ nhỏ trên máu con chồn vài giọt nước mắt rồi thịt nó liền mà không nghe nhờm răng. Thế là đêm đó hai con chồn đói xơi một con chồn no. Họ chỉ ân hận một vài giây thôi, vì dầu sao, người bạn xấu số ấy cũng chỉ là một con chồn. Ai dư nước mắt mà khóc thú vật cho lâu! Trời cứ mưa, mưa như cầm chĩnh mà đổ, mưa như một oanh tạc cơ định về căn cứ, đổ rốc hết bao nhiêu bom còn sót lại trên tàu, mưa cho hết ráo nước để rồi khô hạn được trong sáu tháng dài, mưa đêm chưa phỉ lại mưa ngày, mưa cho đến xương kẻ dưới mồ chắc cũng lạnh thấu tủy khô. Ăn được bữa cháo chồn, hồ ly nghe khỏe như chị đã đoán. Sáng hôm ấy chị ra đi, căn dặn anh Sáu ở nhà, chị sẽ có tiền, một món tiền khá to, đâu như năm trăm, do một anh tình nhơn hứa biếu và hẹn hôm ấy trao cho vì hôm trước là ngày lương. Anh Sáu thích quá, muốn ôm lấy hồ ly mà hôn một cái. Nhưng hồ ly dơ thấy mà bắt nôn, nên anh thôi. Độ lối chín giờ sáng, anh Sáu đang nằm ca sáu câu mùi mẫn: Cảnh vị nhân sầu, xơ xác ngọn vi lau, nước triều mênh mông chảy ... thì bỗng nghe tiếng tu hít thổi hoen hoét ở cùng tứ phía, quanh nghĩa địa rồi giây lát sau hồ ly nhảy như khỉ qua các nấm mồ, theo sau chị là hai người đàn ông còn trẻ. - Trời ơi, anh Sáu kêu, mình đã dại, kể cho nó nghe duyên cớ trốn tránh của mình; nó bán mình mà ăn đây! Chồn ơi, hồn mi có thiêng chăng, về mà xem kẻ phản bội mi sắp bị trừng phạt đây. Anh Sáu bó tay không chống cự. Anh nhìn hồ ly, không oán giận mà chỉ tội nghiệp thôi. Hồ ly trốn cái nhìn của anh, ngồi day mặt vô vách lá mà đếm tiền. Đêm nay, gió sao mà hú ghê rợn hơn đêm nào cả. Hồ ly giật nẩy mình, dáo dác nghe ngóng. Gì mà như anh Sáu ho bên ấy! Chị đánh diêm lên để thắp nến. Trời ơi, mới hôm qua đây, anh Sáu còn nằm bên đèn kể lại những bước phiêu lưu của anh! Hơi thở của anh, chị còn nghe như văng vẳng. Cái mặt xương của anh đậm nét lên dưới ánh đèn, như là còn ẩn hiện mơ hồ trên tấm mộ bia! Trời ơi! Kéo cuộc đời nhơ nhớp nầy biết đến bao giờ mới thôi? Đã nhơ nhớp lại đê hèn, bước từ phản bội này qua phản bội khác cho đến một khi kia thì mình chỉ còn phản bội được chính mình. Hồ ly rùn mình một cái, không phải vì lạnh, cũng không phải vì sợ ma, mà vì chị bỗng sợ hãi chính mình, sợ hãi con người đã vơi cạn hết chất người. Chị ôm mặt khóc òa, rồi lẩm bẩm van vái lầm thầm: - Trời Phật ơi, Chúa ơi, tha tội cho tôi, ngày mai tôi sẽ ra khỏi chốn nầy và ra khỏi vực đen của đời tôi nữa! Chú Thích của BNL: (1) Nơi đây yên nghỉ: Ông An-Phông Tô Ma Nguyễn Văn Nở, thất lộc năm 78 tuổi. Hãy cầu nguyện cho ông. (2) Ý nầy của P.S. và X.V. Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 04/Oct/2011 lúc 11:50am |
|
mk
|
|
IP Logged | |
lo cong
Senior Member Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
Gởi ngày: 05/Nov/2011 lúc 10:57pm |
.
Đi xe đò, đi xe ômNăm đó, tôi về Việt
Sau một tuần ở Gò Dầu với má tôi ( Gò Dầu quê tôi thuộc tỉnh Tây Ninh, nằm cách thành phố 63 km ) thấy còn năm hôm nữa mới tới Tết, tôi bèn sửa soạn xuống Sài Gòn để đi thăm vài người bạn.
Lần này, tôi muốn đi bằng xe đò ( bây giờ người ta gọi là " xe khách " - trong bài viết này tôi vẫn dùng từ " xe đò " cho dễ hiểu ! ) Một thằng cháu - hồi trước làm thầy giáo, bây giờ sửa xe đạp và bán sách vở học trò - nói :
- Để cháu lấy Honda chở chú Hai lên bến xe kiếm xe gởi chú đi.
- Khỏi cần, chú đi một mình được.
Nó phì cười :
- Cái tướng Việt Kiều của chú lên đứng lớ ngớ trên đó, tụi nó dám chém nhẹ vài chục ngàn cái vé đi thành phố thay vì chỉ có tám ngàn thôi. Tụi nó bây giờ "mánh" lắm chú ơi !
Vậy là nó chở tôi lên bến xe đò ( Ở quê tôi, vì có con sông Vàm Cỏ Đông chảy ngang, nên dân chúng thường nói " trên " và " lên " để chỉ những nơi nào nằm về phía thượng lưu con sông - đối với khu chợ nằm ở giữa - và " dưới " hay " xuống " để chỉ những xóm nằm về phía hạ lưu ).
Ở bến xe, thằng cháu nói :
- Chú đứng đây giữ dùm cháu cái Honda. Để cháu " thả " một vòng coi.
Trong lúc nó " thả một vòng ", tụi bắt mối hai ba đứa rà rà lại :
- Đi thành phố hả chú ? Chạy liền giờ nè !
- Thằng xạo đó chú ! Xe nó chưa tới " tài ". Xe cháu kìa, xe đầu vàng đang rồ máy đó chú. Đi chú ! Cháu xếp chỗ tốt đằng trước cho chú, nè !
Vừa nói, thằng nhỏ vừa nắm cái ba-lô của tôi kéo đi trong lúc thằng kia cũng lôi về phía nó. Tôi rị lại la lên :
- Tao không có đi xe đò ! Tao đợi thằng cháu. Bộ tụi bây không thấy xe Honda đây sao ?
Một thằng khác, có vẻ anh chị, " xẹt " vô can thiệp :
- Buông ra ! Tụi bây làm gì vậy ? " Quậy " hả ?
Trong lúc hai tên kia bỏ đi, nó hạ giọng thân mật :
- Chú Hai đi thành phố hả chú Hai ?
Tôi lắc đầu, lại chỉ cái Honda, nói :
- Tao đợi thằng cháu chở đi công chuyện.
Thằng nhỏ bỏ đi. Tôi nhìn theo nó mà nghe ngượng vô cùng. Mấy thằng nhỏ bắt mối cỡ tuổi hai thằng cháu nội tôi thôi, vậy mà tôi sợ gì lại phải nói trớ là không đi thành phố ? Có lẽ tại vì mấy chục năm nay ở xứ người, tôi đã sống quen với cái xã hội có tổ chức, có trật tự, nên tôi không biết cách ứng xử phù hợp với môi trường chụp giựt mánh mung này. Cho nên phản ứng của tôi là né ! Không biết phải làm sao, thôi thì né tránh đi cho nó xong chuyện ! Tự nhiên, tôi thở dài.
Thằng cháu tôi dẫn lại một người đàn ông còn trẻ gầy nhom, giới thiệu :
- Thằng Đực nè chú Hai. Nó lái xe cho cậu Năm Bộn. Nó là chồng con Hường, con của chị Ba Đầy ở xóm nhà máy đó chú nhớ hôn ?!!
Tôi mỉm cười gật gật đầu " ờ " cho lấy có. Thằng cháu nói tiếp :
- Còn đây là chú Hai con bà Tám, mầy kêu ổng bằng ông lận.
Thằng Đực chấp tay xá :
- Dạ, lâu nay con có nghe nói ông Hai ở bên Tây, bây giờ mới gặp. Về chơi hả ông Hai ?
Rồi không đợi tôi trả lời, nó vói tay xách cái ba lô :
- Ông Hai đi theo con. Xe con đằng nầy nè.
Thằng cháu tôi dặn vói :
- Xuống dưới nhớ kiếm xe ôm cho ổng, nghe mậy !
- Được rồi ! Cậu ba yên chí !
Thằng Đực dẫn tôi lại xe của nó, giới thiệu tôi cho hai thằng cỡ mười tám đôi mươi đang đứng hút thuốc ở đầu xe
- Đây là ông Hai, con bà cố ở đường đất đỏ, đó ! Còn đây là hai thằng em vợ con, tụi nó vừa là phụ xế vừa là lơ nữa.
Rồi nó đỡ tôi lên đưa lại ngồi phía tay trái cách chỗ tài xế hai hàng băng. Trên xe đã có nhiều người ngồi, chắc họ quen nhau nên nghe nói chuyện rân như họp chợ !
Chiếc xe đò là xe loại đầu bằng, có hai cửa lùa cho hành khách lên xuống. Chỗ ngồi hẹp té, tôi đo vừa đúng hai gang tay. Trên kiếng chắn gió trước mặt tài xế, về phía phải, có viết mấy hàng chữ bằng sơn đủ màu. Vì tôi ngồi trong xe nên phải đọc ngược, nhưng vẫn đọc được :
TP ************ / Gò Dầu
Vidéo / Karaoké
Chính giữa xe, ngang ngang với đầu anh tài xế, có một cái lồng sắt hàn dính lên trần, trong đó có cái télé. Tôi tự hỏi :" Vidéo thì còn hiểu được, chớ Karaoké thì hành khách hát hí ra làm sao ?" Thật là mới mẻ quá ! Dưới chân tấm kiếng chắn gió, cũng ngay chính giữa, có gắn một kệ nhỏ, trên đó có một tượng Phật Bà, một bình bông, một bình cắm nhang và ba chung nước. Tất cả mấy món vừa kể đều được gắn xuống mặt kệ bằng băng keo chằng chịt ! Cho nó đừng nhúc nhích hay lật đổ khi xe chạy hay khi xe thắng gắp. Nhìn tượng Phật Bà chằng chịt băng keo, tôi nghĩ chắc Ngài cũng phải mỉm cười mà từ bi hỉ xả.?
Thằng Đực lên ngồi, đề cho máy chạy, rồi cứ rồ máy từng chập giống như làm cho nóng máy. Hai thằng lơ đứng dưới đất la ó :
- Lên đi bà con ! Chạy à ! Chạy à !
Tài xế sang số cho xe nhúc nhích nhúc nhích, trong lúc hành khách cứ lần lượt trèo lên xe tỉnh bơ không thấy có chút gì hối hả. Không thấy ai bán vé, thiên hạ cứ lên xe thấy ghế trống là ngồi. Hàng hoá mang theo lỉnh kỉnh để đầy hành lang chính giữa. Những người lên sau phải bước choàng ngang để đi !
Một bé gái cỡ mười hai mười ba tuổi, lên xe với hai bao ni-long lớn đựng đầy dép, loại dép cao su Nhựt Bổn. Nó ngồi vào ghế trống cạnh tôi. Vừa đặt đít xuống nó vừa trao cho tôi một bao dép, nói :
- Ông ngoại giữ dùm con.
Nó làm một cách tự nhiên, chẳng thấy một chút ngượng nghịu gì hết. Còn tôi thì thật ngỡ ngàng bối rối không biết phải làm sao ? Vậy mà tôi cũng ôm bao dép vào lòng, ôm một cách máy móc ! Tôi biết nó " đi " hàng lậu ( Xưa nay, Gò Dầu được biết tiếng nhờ có chợ trời hàng lậu ở biên giới Cao Miên ) nhưng tôi không thể tưởng tượng được một bé gái mới mười hai mười ba tuổi mà đã đi buôn lậu và còn bắt người khác giữ hàng lậu giùm mình một cách tỉnh bơ coi như chuyện bình thường ! Xã hội bây giờ thật quá nhiều thay đổi, mà tôi thì quê trân, giống như " một thằng mán ra chợ " !
Thằng Đực rồ máy cho xe chạy tới trong lúc hai thằng lơ phóng lên xe - mỗi thằng một cửa - vừa phóng vừa la " Bà con ơi ! Chạy à ! Chạy à !". Xe chạy được mươi thước, ngừng lại, máy rồ từng chập một lúc rồi xe lui về vị trí cũ ! Hai thằng lơ nhảy xuống đất, miệng vẫn bô bô : " Lên đi bà con. Chạy liền giờ nè !". Hành khách vẫn lai rai từ tốn leo lên xe? Hình minh họa
Mươi phút sau thì xe lại chạy. Lần này, nó ra khỏi bến xe, chạy rề rề. Đến ngã ba ( Chỗ này có đường xuống chợ, có đường vô xóm Mới, nhưng vẫn được gọi là "ngả ba" !) nó rước một vài người khách rồi chạy thẳng về hướng thành phố. Tưởng chạy luôn, té ra xuống khỏi Trâm Vàng - cách ngả ba lối ba cây số - nó quay đầu lại chạy về bến đậu. Lại nhúc nha nhúc nhích một lúc lâu đến khi có tiếng tu hít thổi ( Chắc là hiệu lịnh của cán bộ điều hành bến xe ) xe lại rồ máy chạy. Lần này, đúng là nó chạy thiệt bởi vì nó không có rề rề như hồi nãy ! Tôi thở cái khì.?
Xe không có bán vé, nhưng có một chị đi thâu tiền. Cái hay của chị này là chị ta nhớ người nào đã thâu rồi người nào chưa. Cho nên trong suốt " hành trình " trèo qua trèo lại trên những kiện hàng nằm ngổn ngang dọc hành lang để thâu tiền, không thấy ai phàn nàn phản đối gì hết.
Xe đang chạy, bỗng thấy thằng lơ cửa trước đứng thẳng lên mở dây nịt, kéo phẹt-mơ-tuya... cởi quần ! Hành khách tỉnh bơ. Có lẽ trên xe chỉ có một mình tôi là ngạc nhiên trố mắt nhìn. Một cô gái ngồi gần đó đưa cho nó mấy cây thuốc lá " 555 " và một nạm vòng thun, nó cầm lấy, xỏ vòng thun vào hai chân, cách khoảng nhau độ hơn một tấc, rồi nhét mấy cây thuốc vào đó, dài từ háng xuống mắc cá và ôm tròn chân từ mặt trong ra mặt ngoài. Trông nó giống Robocop của phim Mỹ ! Thì ra thằng lơ giấu hàng lậu dùm cô gái. Nó vừa mặc quần xong là đến lượt thằng lơ cửa sau. Nhưng thằng này quá gầy nên nó không cần cởi quần. Nó kéo ống quần đì-rét lên tới bẹn rồi làm y như thằng trước. Thằng này thì " cao cấp " hơn, vì nó còn " chêm " vòng theo thân mình tới năm cây thuốc lận ! Xong nó khệnh khạng đi về hướng cửa sau. Tôi nhìn theo, phục quá !
Xe vừa chạy vừa bóp kèn, đường trống vẫn bóp kèn. Làm như đã thành cái tật ! ( Ở Việt Nam bây giờ, chạy xe hơi, xe gắn máy trên đường - Nhà Nước gọi là " tham gia lưu thông ", nghe thật là văn vẻ - ai ai cũng bóp kèn, chạy ngoài đồng hay chạy trong thành phố gì cũng vậy hết. Lạ lắm ! ) Còn hai thằng lơ thì hễ thấy có người chạy lạng quạng phía trước thì lòn người ra ngoài, vừa la to " Vô ! Vô !" vừa vỗ vào thùng xe đùng đùng. Làm như kèn xe không đủ cho người ta nghe vậy ! Thấy ai đứng lớ ngớ đàng xa bên lề đường như có vẻ đón xe thì lơ hét to cho tài xế " Bà già đó ! Bà già đó !" hay " Con mẹ cầm nón đó ! Con mẹ cầm nón đó !". Nếu là hành khách đưa tay ngoắc thì xe chạy chậm lại, rề sát vào. Thằng lơ phía trước mở cửa rồi một tay nắm cây cột sắt nằm cạnh cửa lùa, lấy thế nghiêng người xuống hốt người khách đẩy vào trong xe trong lúc xe vẫn tiếp tục lăn bánh chớ không ngừng lại ( Sau này tôi mới biết rằng xe đò không được phép rước khách ngoài những nơi đã được ấn định bởi chánh quyền. Vì vậy xe không được ngừng dọc đường ngoại trừ khi xe ăn-banh !)
Thằng Đực vừa lái xe, vừa bóp kèn, vừa lách tránh những xe khác - đủ loại : Honda, xe đạp, xe thùng, xe ba gác, xe bò, xe ngựa... - vừa?liếc dài theo lề đường để " bắt " khách. Xe đang chạy ngon lành ( 50 km/giờ, tốc độ tối đa ấn định bởi Nhà Nước ) bỗng nó " nhả ga " chạy bớt lại và la lên :" Giao thông nghen ! Giao thông nghen ! Lấy tay lấy đầu vô bà con !". Hai thằng lơ cũng la theo :" Đừng ló đầu ra nghe bà con ! Giao thông đó !". Xa xa về phía trái, thấy có hai ông công an giao thông ngồi chàng hảng trên xe mô-tô dưới tàn cây bên lề, hút thuốc. Khi xe chạy ngang qua, mấy ổng chỉ nhìn theo cười cười, chắc hài lòng với sự biết " chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông " của tài xế Đực !
Đường xuống thành phố, ngày xưa, hai bên là ruộng lúa ruộng mía và giồng rau cải. Bây giờ nhà cửa cất dài dài, đồng ruộng còn rất ít. Quán ăn, quán nhậu thì quá nhiều. Phần lớn mang bảng hiệu rất thơ mộng như : " Hẹn hò ", " Vườn Thúy ", " Quán Trăng " Làm như bây giờ người ta thèm được?" phiêu phiêu " để quên đi một phần nào cuộc sống xơ cứng của hiện tại !
Bến xe Trảng Bàng nằm trước sân banh. Xe đò vừa vào bến thì một bầy trẻ con bán dạo ùa lên xe như ruồi, rao hàng ó trời ! Trong xe bỗng ồn ào như cái chợ. Nhiều đứa nhỏ mang hàng đầy hai vai. Hàng đựng trong những túi ni-long nhỏ bằng nắm tay, miệng cột túm lại bằng vòng thun. Mỗi loại được xỏ chung với nhau thành một đùm. Tụi nhỏ đeo nhiều đùm như vậy lên hai vai, nhiều đến nỗi không còn thấy cái cổ ! Chỉ còn thấy cái đầu nhỏ lòi ra trên đống túi ni-long tròn tròn.?
Tụi nhỏ bán loại này rao hàng có ca có kệ. Rồi vì muốn cho " có ca có kệ " nên nhiều tiếng để sai dấu, tôi nghe mà không hiểu hàng gì và hàng gì ! Phải nghe vài lần mới?" nắm bắt " được : " Sâm lạnh. Thuốc lá. Huynh gum. Trứng cúc. Bánh tráng muối. Nem chay. Đây?" Nếu có người mua, đứa nhỏ cầm túi ni-long giựt mạnh cho đứt sợi thun rồi trao cho khách, nhanh gọn lắm ! Ngoài ra, có những đứa bán " chuyên ngành " hơn, bán một thứ một, như chỉ bán giấy số hay thơm gọt sẵn, hay bánh tráng bánh phồng, hay thuốc lá..v.v... đủ thứ. Đứng đầy xe như vậy mà khi xe rồ máy lìa bến thì tụi nó đứa trước đứa sau phóng xuống như trò đu bay ! Thấy chết như không !
Xe chạy chậm chậm, rước vài người ở khúc cua Trảng Bàng. Đến Cầu Ông Chừa
- cách Trảng Bàng độ năm ba cây số - xe quay đầu chạy về bến trước sân banh ! Rồi cứ nhúc nha nhúc nhích để lấy thêm hành khách. Mấy đứa nhỏ lại ùa lên rao hàng. Độ hai mươi phút sau, xe lại lăn bánh. Lần này chạy thiệt.
Trên đường lúc nào cũng có người. Xe đạp, xe Honda ( Bây giờ, " Honda " là tiếng gọi chung cho xe hai bánh có gắn máy ) chạy loạn. Hai bên đường, thỉnh thoảng có bảng đề " Bia tươi " đặt trên lề trước quán nhậu. Tôi đã nghe nói " bia hơi ", " bia ôm ", nhưng loại " bia tươi " này là lần đầu !
Khều thằng lơ, tôi hỏi :
- Bia tươi là gì vậy cháu ?
Nó bật cười :
- Là bia làm tại chỗ, làm ngày nào là nhậu ngày nấy. Để vài ba bữa mà đớp vô là đi luôn à ông Hai !
Tôi gật gật đầu nhưng trong lòng sao nghe buồn chi lạ : bây giờ, đến " cái nhậu " cũng?" không giống ai " hết !
Bỗng thằng Đực vừa bớt ga rà thắng vừa la lên :
- Kinh tế ! Kinh tế ! Bà con.?
Trong xe, hành khách nhốn nháo. Kẻ thì đút giấu hàng dưới băng mặc dù ở đó đã đầy đồ, người thì chèn nhét hàng trong hốc trong kẹt, dưới đít mấy kiệng hàng rau cải gà vịt. Mấy bà mấy cô thì nhét trong áo trong quần chẳng thấy có chút gì xấu hổ hết !
Tôi nhìn con bé cạnh tôi, nó cười trấn an :
- Ông ngoại đừng lo. Mỗi người có quyền đi một bao dép. Con đi hoài hà !
Tôi " ờ " rồi hỏi một cách máy móc :
- Bộ con không có đi học hả ?
Nó cười rất tự nhiên :
- Đi học rồi lấy gì ăn, ông ngoại ?
Tôi xúc động, không dám nhìn gương mặt dễ thương đó nữa, tôi nhìn vội ra ngoài. Xe đã đậu lại. Bên kia đường, có một xe hàng nằm sau một xe Jeep. Hai ông công an kinh tế mặc sắc phục ( họ kiểm soát hàng lậu ) đang " làm việc " dưới tàn cây vệ đường với mấy người mà tôi đoán là lơ và tài xế của xe hàng. Thằng Đực cầm một xấp giấy tờ xum xoe chạy qua đó, chen vào chỉ chõ nói năng. Một lúc sau, thấy nó khúm núm cúi chào mấy cái rồi vui vẻ chạy trở về trèo lên xe sang số chạy thẳng !
Hình minh họa
Xe chạy không bao nhiêu xa, hành khách chộn rộn móc kéo hàng giấu hồi nãy cho vào bao vào bị. Hai thằng lơ cũng cởi quần lấy cây thuốc vòng thun trả lại cô gái, vừa làm vừa trò chuyện nói cười. Con nhỏ ngồi cạnh tôi kéo cái bao dép tôi đang ôm về phía nó, chẳng nghe một lời cám ơn. Mọi người đều hành động một cách tự nhiên, bình thường. Tôi bỗng thấy tôi không giống ai hết. Tôi là người " bất bình thường ", ngay trong lòng quê hương mà sao thấy thật là lạc lõng !
Xe ngừng ở Suối Sâu, hai thằng lơ - đứa trên mui, đứa dưới đất - xuống hàng : bao, bị, giỏ tre, cần xé lổn ngổn ( Những món này chắc của bạn hàng quen gởi và đã chất lên đó trước khi xe vào bến Gò Dầu ) Vừa làm, thằng lơ trên mui vừa nói lớn cho mấy người đang bu lại nhận hàng :" Hai cái cần xé nầy của dì Ba. Cái giỏ bội này cũng của bả nữa. Mấy thứ tôi liệng xuống đây của cô Bảy nghen. Rồi ! Xong ! Bây giờ là đồ của chú tư Xáng ".
Cô gái " đi " thuốc 555 lấy hàng nằm dọc hành lang trao qua cửa sổ cho một bà sồn sồn đứng phía dưới, vừa làm vừa nói chuyện huyên thiên. Bà đó hỏi :
- Mầy có ghé thăm con Hoa hông ? Nó đẻ chưa ?
- Chưa. Má lên trển mà coi. Cái bụng của chỉ bây giờ chang bang như cái mả vậy !
Nói rồi, cô ta cười hắc hắc. Chắc cũng là chuyện bình thường thôi.
Xe chạy tiếp. Bon bon 50 km/ giờ. Đến Củ Chi ngừng lại để xuống hàng lần nữa. Con nhỏ ngồi cạnh tôi xuống ở đây. Nó đứng lên, xách hai bao dép đi, không nói một lời, cũng không nhìn lại. Nó làm tự nhiên như tôi không có mặt trên xe !
Sau khi xuống hàng, xe chạy thẳng về thành phố, không ngừng ở trạm nào nữa hết. Tôi đoán :" Trên mui chắc không còn hàng ".
Bến xe Tây Ninh nằm ở Bà Quẹo. Bến này rộng lắm, vây quanh bởi một tường rào. Khi xe đò quẹo vào, thấy người ta chạy theo lố nhố. Chừng xe đậu rồi, nghe họ mời mọc tía lia mới biết họ là những người lái xe ôm, xe ba gác đang tranh nhau kiếm mối chở đi. Thằng Đực nói :
- Ông Hai ngồi đây, đừng đi đâu hết. Để con kiếm mấy thằng xe ôm quen cho ông Hai.
Hình minh họa: xe ôm
Tôi nhìn đồng hồ thấy 10 giờ 20. Hồi ở Gò Dầu, tôi lên ngồi trên xe lúc 8 giờ sáng. Tính ra, tôi đi 63 km mất hết hai giờ hai mươi phút !
Một lúc sau nó dẫn đến một người đàn ông cỡ tuổi nó, vừa vỗ vai người đó vừa nói :
- Thằng này tên Chín, ở cùng đơn vị với con hồi trước. Nó đàng hoàng lắm, ông Hai. Mà ông Hai về đâu vậy ?
- Ông về nhà thằng cháu ở khu Đại học Phú Thọ.
Thằng Đực lại vỗ vai bạn :
- Tao giao ông Hai cho mày đó. Tính tiền cho có tư cách nghe mậy.
- Yên chí?
Vừa nói thằng Chín vừa cầm ba lô của tôi :
- Ông Hai đi theo con.
- Ủa ? Xe của cháu đâu ?
- Dạ để ngoài kia, chớ đâu được phép đem vô đây, ông Hai. Cấm mà !
Vậy là mấy phút sau, tôi " ôm " về nhà thằng cháu. Đó là lần đầu tiên tôi đi xe ôm.
Ở thành phố, người ta thường đi xe ôm, nếu chỉ đi có một mình. Xe ôm rẻ hơn xe taxi nhiều và nhanh hơn nhờ nó lòn lách dễ. Biết như vậy nên sáng hôm sau tôi ra đường đón xe ôm để đi thăm bạn bè.?
Nếu xích lô và taxi dễ " nhận diện " nhờ hình dáng và chữ " taxi " bên hông, thì xe ôm rất khó biết. Bởi vì trên đường lúc nào cũng đầy người chạy Honda, chạy xuôi chạy ngược, không có dấu hiệu đặc biệt gì hết thì biết ai " ôm " hay ai không " ôm " ? Nếu xe ôm được sơn một màu ấn định, hay người lái xe có gắn một cái gì trên ngực trên lưng, hay ít ra cũng đội nón kết có in hai chữ " xe ôm " thì dễ cho mình nhìn ra, để ngoắc cho đúng. Đằng này, ai cũng như ai.
Ngoắc đại mấy lần thấy " trật chìa ", tôi bèn đổi " chiến thuật ". Tôi bước ra đứng trên mép vỉa hè, mặt làm ra vẻ dáo dác nhìn xuôi nhìn ngược như đang tìm xe ôm trong luồng người chạy Honda. Thấy một người vừa chạy vừa nhìn dài dài theo phố, tôi mừng rỡ vẫy tay ra dấu. Anh ta chạy luôn. Vậy là anh ta đang tìm cái gì khác chớ không phải tìm khách hàng. Tôi lại làm bộ dáo dác cho người khác để ý. Lần này có một ông tấp vô, mỉm cười hỏi :
- Đi không ông Hai ?
Tôi gật đầu, nói địa chỉ, trả giá - căn cứ trên giá đi hôm qua - rồi ôm đi ( Gọi là " ôm " chớ hành khách không có ôm người lái. Nhiều người không biết, cứ nghĩ rằng trèo lên xe là phải ôm ! Cho nên, khi trở về
Trên đường, xe chạy như loạn. Hai luồng ngược chiều nhau lấn ép lòn lách, bóp kèn như điên ! Thấy tai nạn có thể xảy ra bất cứ lúc nào !
May quá, ông lái xe của tôi - khá trọng tuổi - chạy từ tốn. Ổng cứ men theo lề mà chạy và đặc biệt là không nghe ổng bóp một tiếng kèn ! Ngạc nhiên, tôi hỏi :
- Sao ông không bóp kèn ?
- Bóp cho ai nghe ? Ai cũng bóp kèn hết, rền trời. Mình có bóp cũng vô ích !
Ngừng một chút rồi tiếp :
- Cứ làm thinh như vậy mà người ta để ý. Người ta nghe mình làm thinh !
Rồi ông ta cười ha hả. Tôi cũng bật cười theo. Khoái quá, tôi vỗ vai ổng :
- Hay ! Hay !
Rồi không kềm được, tôi hỏi thẳng :
- Hồi trước ông làm gì ?
Ngầng ngừ một lúc, ổng mới nói :
- Dạ, làm giáo viên.
- Dạy trường nào vậy ?
- Dạ, trường trung học X.
- Dạy trung học sao gọi là giáo viên được ? Phải gọi là giáo sư chớ.
- Xin lỗi ông. Hồi nãy nhìn ông tôi đã đoán ra ông là Việt Kiều. Bây giờ, ông hỏi như vậy đúng là ông không phải người ở trong nước. Bây giờ, đi dạy học cao thấp gì cũng gọi là giáo viên ráo. Muốn được gọi " giáo sư " phải được " Hội Đồng Chức Danh Giáo Sư Nhà Nước " xét duyệt hồ sơ. Khi họ công nhận, họ cấp cho mình chức danh giáo sư. Chừng đó, mình mới được gọi là giáo sư. Ông hiểu không ?
Tôi nhớ lại tôi có một người bạn hồi đó cũng dạy trường trung học X. Tôi nói :
- Tôi có một người quen cũng dạy ở trường X nữa. Ông tên Nguyễn Văn Y.
Giọng ông xe ôm có vẻ như reo lên :
- Anh Y dạy lý hoá. Ảnh mộc mạc dễ thương lắm. Lúc nào cũng thắt cà vạt đen !
Ông xe ôm nói đúng. Như vậy ổng là giáo sư thiệt, không phải ổng ba xạo. Tôi bỗng nghe một xúc động dâng tràn lên ngực. Tôi đặt một tay lên vai ông ta, muốn nói gì đó thật nhiều. Nhưng sao tôi không tìm ra được lời, tiếng nói bị nghẹn ngang trong cổ. Tôi chỉ biết bóp nhẹ vai của ổng, cái vai bây giờ tôi mới thấy là gầy. Chắc ổng hiểu cử chỉ của tôi nên làm thinh. Tôi bóp vai ổng mà tưởng chừng như tôi đang bóp vai một người bạn cố tri, tưởng chừng như tôi đang mân mê một cái gì trân quí của thời cũ. Tôi như thấy lại được cái thời đã mất đó với những giá trị tinh thần của nó, cái thời mà nhà giáo dù nghèo cũng chưa đến nỗi phải chạy xe ôm như bây giờ.
Ông xe ôm im lặng lái xe. Tôi im lặng nhìn cảnh tượng xô bồ hỗn tạp trên lòng đường phố. Bàn tay tôi vẫn đặt trên vai ông ta như để giữ thăng bằng. Sự thật, tôi muốn giữ nguyên như vậy để ổng cảm nhận rằng giữa ổng và tôi không có một sự cách biệt nào hết. Không có người lái xe ôm, không có khách đi xe ôm. Mà chỉ có hai thằng bạn...
Bỗng ở phía ngược chiều, một người đàn ông lái Honda nhìn về phía bên này gọi to :" Thầy ! Thầy !". Tôi thấy anh ta chật vật lòn lách quay đầu xe lại, chạy theo chúng tôi. Chừng đến ngang nhau, anh ta hớn hở :
- Thầy mạnh hả thầy ?
Giọng ông xe ôm cũng vui vẻ :
- Ờ ! Mạnh ! Cám ơn ! Em đi đâu vậy ?
- Dạ ! Em chạy áp-phe. Thấy thầy em nhìn ra được liền hà ! Tụi thằng A thằng C nói có gặp thầy nên em thường để ý kiếm, bây giờ mới gặp. Mừng quá, thầy !
- Ờ ! Cám ơn ! Hai mươi mấy năm mà tụi em còn nhớ tới thầy là thầy vui rồi.
- Làm sao quên được, thầy ? Hồi đó, thầy là thần tượng của tụi em mà !
Hình minh họa
Ông xe ôm làm thinh. Chắc cả một dĩ vãng đang được quay nhanh lại trong đầu. Tôi bóp nhẹ vai ông ta, chia xẻ.
Hai thầy trò vừa lái xe vừa nói chuyện với nhau một lúc rồi người đó xin phép " đi làm ăn ". Chúng tôi im lặng, tiếp tục đoạn đường còn lại. Sự im lặng nào sao cũng nói thật nhiều...
Đến nhà anh bạn tôi, tôi trả tiền cuốc xe ôm mà không dám cho thêm như tôi đã làm hôm qua với thằng Chín. Tôi muốn ông ta thấy rằng tôi vẫn kính trọng ông ta, vẫn xem ông ta là một giáo sư. Ông ta nhìn tôi mỉm cười. Chúng tôi bắt tay nhau, cái bắt tay đó ngầm nói lên rằng, dù cuộc đổi đời có vĩ đại đến đâu, mình vẫn giữ được cái tình người trân quí của thời cũ.
Lần đi xe ôm đó tôi nhớ hoài đến bây giờ. Viết lại mà vẫn còn nghe xúc động.
11.12.2005
Tiểu Tử
Sanh : 1930
Nguyên quán : Gò Dầu Hạ ( Tây Ninh )
Bút hiệu : Tiểu Tử
- Tốt nghiệp trường Kỹ sư Marseille năm 1955.
- Dạy lý hoá trung học Pétrus Ký : 1955/1956.
- Làm việc cho hãng dầu SHELL Việt
- Vượt biên cuối năm 1978. Ðịnh cư ở Pháp từ đầu năm 1979 đến nay.
- Làm việc cho hãng đường mía của Nhà nước
1979/ 1982.
- Làm việc cho hãng dầu SHELL
- Trước 1975, giữ mục biếm văn " Trò Ðời " của nhựt báo Tiến.
- Bắt đầu viết truyện ngắn khi lưu vong qua
- Tập truyện " Những Mảnh Vụn " ( Làng Văn Toronto xuất bản ) là tập truyện đầu tay.
|
|
Lộ Công Mười Lăm
|
|
IP Logged | |
lo cong
Senior Member Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
Gởi ngày: 08/Feb/2012 lúc 11:03pm |
Vừ đọc bài nầy của một người gởi qua email, xin post lên đây để mọi người xem.
Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 08/Feb/2012 lúc 11:09pm |
|
Lộ Công Mười Lăm
|
|
IP Logged | |
lo cong
Senior Member Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
Gởi ngày: 20/May/2012 lúc 7:25pm |
Đoạn ghi nhớ một mùa hạ và những chiếc ổ líp xe đạp đem ra chợ trời bán Posted: 20/05/2012 in Thơ, Đinh Cường Đinh Cường tặng Hồ Đình Nghiêm Hồ Đình Nghiêm qua nét vẽ Đinh Cường Mùa hạ Nghiêm xuôi dòng Ngọc Bích Bao năm dâu biển cũng tang bồng Bao năm người đã xa Thành Nội Trăng nội thành như lệ xanh thêm Mùa hạ quấn mền người ngủ muộn tiếng chim trên cành nhãn hiền khô mấy bông hồng nở ngoài sân trước căn nhà kỷ niệm một thời xưa[1] Mùa hạ qua bến bờ Mộng Lệ[2] bao nhiêu truyện kể ngậm ngùi thay vẫn luôn là Huế là gian khó những ngày vượt biển đến Hồng Kông Mùa hạ Nghiêm ơi mùa hạ đến xuôi dòng Ngọc Bích nước xanh trong đêm nghe lời nhạc Sơn ghi lại : cơn mưa là nắng của vô thường[3] Virginia, 18 May 2012 Đinh Cường Nguồn: Tác giả gửi thơ và tranh [1] căn nhà phía sau trường Mỹ Thuật Huế [2] Montreal có người nói thành Mộng Lệ An [3] trong ca khúc Mưa mùa hạ của Trịnh Công Sơn Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 20/May/2012 lúc 7:31pm |
|
Lộ Công Mười Lăm
|
|
IP Logged | |
lo cong
Senior Member Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
Gởi ngày: 23/Dec/2012 lúc 1:55pm |
|
|
Lộ Công Mười Lăm
|
|
IP Logged | |
lo cong
Senior Member Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
Gởi ngày: 06/Jan/2013 lúc 9:14pm |
Câu chuyện thứ 127 Gửi người đàn ông tôi từng yêu thương và hận thù
Kính thưa quý độc giả! Chắc quý độc giả còn nhớ câu chuyện khó tin nhưng có thật: "Tôi là kẻ có tội" in 2 kỳ trên Báo ANTG Giữa tháng và Cuối tháng cách đây 4 tháng, tức là 2 số báo trong tháng 5/2010.
Trong đó ông T.V.N., ở Hà Nam, đã viết lại nỗi tâm sự của mình trong những ngày tháng ông đau nặng ở Bệnh viên K. Hà Nội về nỗi éo le trong cuộc đời của ông khi ông yêu một người nhưng cuối cùng lại bỏ người đó và cưới một người con gái khác về làm vợ. H., người bạn gái cùng làng, người yêu đầu đời của ông T.V.N. sau khi bị ông T.V.N. phụ tình, đã chọn một cuộc sống lặng lẽ. Mãi sau này, chị đã tự nguyện kết hôn với người em trai bị thiểu năng của ông T.V.N. và sống trong gia đình. Sự lựa chọn của H. đã làm cho ông T.V.N. choáng váng vì không thể hiểu được tại sao, một người con gái có nhan sắc, có nghề nghiệp ổn định, có tương lai rộng mở, và biết bao người đàn ông theo đuổi lại lặng lẽ chối từ hết để trở thành em dâu của người yêu mình. Sự lựa chọn của H. như một đòn trừng phạt đối với ông T.V.N. Bởi sống trong một tổ ấm hạnh phúc, với người vợ yêu thương và các con ngoan, ông T.V.N. không thể nào bình yên được khi nhìn thấy người yêu cũ của mình là cô H. sống tận tụỵ và hy sinh bản thân vì chính gia đình của ông, vì người em trai bất hạnh của ông. H. đã quên mình đi, hy sinh mình để vá víu những phần không hoàn thiện trong gia đình của ông H. Điều đó càng làm cho ông T.V.N. giày vò, đau khổ vì cảm thấy mình là người có lỗi đã đưa đẩy H. tới một giải pháp buồn và bất nhẫn như vậy. Thế rồi, sau một lần, trong lúc em trai bị tai nạn cấp cứu ở viện, cô H. lên chăm chồng và về tắm giặt vệ sinh cá nhân ở nhà riêng của vợ chồng ông T.V.N.. Một khoảnh khắc không kiềm chế được bản thân, ông T.V.N. đã đi quá giới hạn với người em dâu, đồng thời cũng là người yêu đầu đời của mình, người mà ông đã thề non hẹn biển sẽ cưới về làm vợ. Em trai kể từ tai nạn ấy bệnh nặng một thời gian rồi mất. Cũng sau cái lần quá giới hạn đó, ông T.V.N. mới đau đớn hơn khi biết rằng dù lấy chồng là em trai ông nhưng H. vẫn còn trinh và chưa từng một lần nào trở thành đàn bà sau bấy nhiêu năm làm vợ. H. có bầu và sinh con trai. Một năm sau giỗ đầu của chồng, H. xin phép gia đình chồng bế con đi vào vùng kinh tế mới. Hai mẹ con H. đi bặt tích 20 năm nay, không một lần trở lại, không một hồi âm. Ngày ông T.V.N. bị bệnh nặng, đã gửi thư lên toà soạn Báo ANTG Cuối tháng kể lại câu chuyện uẩn khúc của đời mình và thêm một hy vọng mong manh là biết đâu, ở nơi nào đó H. sẽ đọc được câu chuyện cùng lời xin lỗi của ông mà mang con trở về để ông T.V.N. thanh thản trước khi nhắm mắt. Hai kỳ báo: "Tôi là kẻ có tội" đã in trên báo liên tiếp nhau trong tháng 5/2010. Bẵng đi một thời gian khá dài, (gần 4 tháng), độc giả và BBT chúng tôi cũng đã quên đi câu chuyện của ông T.V.N. vì đã có những câu chuyện khác gửi tới và chúng tôi lần lượt đăng tải. Thế nhưng, thật vô cùng bất ngờ khi đúng vào dịp rằm tháng 8, Tết Trung thu, BBT chúng tôi nhận được một bức thư khá dài không ký tên ai gửi. Bức thư có tiêu đề: "Gửi người đàn ông tôi từng yêu thương và thù hận". Chúng tôi đã đọc bức thư này và dù tác giả không nói ra một cách cụ thể nhưng bằng trực giác nghề nghiệp, chúng tôi biết chắc chắn đây là bức thư hồi âm của cô H., nay đã là bà H. gửi cho ông T.V.N. Bức thư không đề địa chỉ người gửi, và không yêu cầu được đăng báo, và không có một ý gì cho thấy tác giả muốn gặp lại ông T.V.N. hay gia đình ông TVN. Theo chúng tôi dự đoán, đây chỉ như một hồi âm nhằm giúp cởi bỏ những mắc mớ, dằn vặt, u hoài trong trái tim nặng trĩu của ông T.V.N. để ông có thể thanh thản mà lên thiên đàng. Chúng tôi xin trích đăng bức thư của bà N.T.H. "Gửi ông TVN, người tôi từng yêu thương và thù hận! Tôi không định lên tiếng đâu, sau tất cả những gì đã xảy ra quá đủ cho một đời người cả tôi và ông đều đau khổ. Bây giờ, tôi đã đi quá xa nơi tôi sinh ra, lớn lên và lưu giữ nửa phần ký ức của cuộc đời buồn. Tôi không thể quay trở về nữa. Càng không muốn khơi gợi lại dẫu chỉ là một chút những kỷ niệm cũ mà tôi muốn chôn sâu. Nhưng tình cờ biết được ông hiện đang bệnh nặng, sống chết có thể nay mai. Tôi đắn đo mãi. Tôi không thể trở về bên ông, nói vài lời, hay thắp cho ông nén nhang khi ông lâm chung. Tôi đã quyết tâm giã từ tất cả kể từ ngày tôi ôm con ra đi, vì thế coi như tôi và ông không còn nợ nần nhau điều gì. Nhưng nghĩ đến nghĩa tận, cuối cùng, tôi quyết định viết thư cho ông qua tòa báo. Tôi không muốn gửi trực tiếp cho ông vì có thể nó ảnh hưởng đến cuộc sống riêng của ông khi đã đề huề con cháu. Tôi chọn cách gửi cho quý báo, bức thư có đến được với ông hay không cũng là tuỳ duyên trời định đoạt vậy. Mọi thắc mắc của ông về tôi, tôi xin được giải đáp để ông rõ. Tôi đã từng yêu thương ông vô cùng, và cũng trở nên hận thù ông vô cùng kể từ ngày ông bước chân vào đại học, ông phụ tình tôi, phụ luôn lời thề ước để đến với người con gái khác. Tôi yêu ông, bởi thế mà tôi không thể nguôi quên được hình ảnh ông. Kể từ lúc ông dẫn người con gái khác về nhà ra mắt bố mẹ rồi làm đám cưới. Tôi như kẻ chết đi sống lại nhiều lần. Với một người con gái thôn quê như tôi, học hành giỏi giang như ông, thì ông là một thần tượng về mọi thứ. Có được tình yêu của ông, tôi đã thầm cảm ơn trời phật. Tôi tự hứa nếu không làm vợ được ông tôi nguyện sẽ cắt tóc đi tu. Thời của ông và tôi, người con gái nào có chút học hành cũng cầu mong có một tình yêu đắm say và lãng mạn như vậy. Nhưng tôi đã không thể cắt tóc đi tu khi bị ông phụ bạc. Tôi còn quá yêu ông nên mối thù hận ông sâu nặng đến mức tôi đã mụ mị, đã điên dại, đã lặng lẽ đi theo ông với ý nghĩ là cho hết cuộc đời mình. Ông không thuộc về tôi, tôi chẳng còn gì để mất, chẳng còn gì để giữ. Tôi đau đớn nhìn người con gái khác đi bên ông, sinh nở những đứa con cho ông, hạnh phúc với vai trò làm vợ. Tôi đã lủi thủi trong cảm giác đơn lạnh, và tôi không biết mình đã làm gì với mối tình của mình. Tôi nhắm mắt đưa chân chấp nhận về làm em dâu ông, làm vợ người con trai thiểu năng, bệnh thần kinh của nhà ông để có được cảm giác tôi vẫn là một thành phần máu mủ trong gia đình ông, một gia đình mà tôi ước ao vô cùng được bước chân vào đó với tư cách là con dâu. Không được làm vợ ông, tôi chọn giải pháp đau đớn là làm vợ em trai tàn phế của ông. Lựa chọn của tôi làm cho tôi thỏa mãn cảm giác tôi vẫn được gần gũi ông theo một cách nào đó, được là một phần trong gia đình của ông theo một cách nào đó. Và còn nữa, cảm giác hận ông, trả thù ông và làm cho ông giày vò đau đớn khi tôi bất hạnh. Ông đã linh cảm đúng rằng tôi trả thù ông, trả thù mối tình bạc bẽo giữa tôi và ông bằng cách khi tôi chấp nhận bước chân về làm vợ em trai thiểu năng của ông. Nhưng ông không hề biết đến một sự thực nữa sau tất cả, đó là tôi vẫn còn yêu ông, yêu và khát khao ông mãi mãi. Cũng có thể ông trời đã động lòng với mối tình dị thường của tôi mà ban cho tôi giây phút tôi thuộc về ông để rồi trong cơn hoan lạc đầu đời của một người con gái chưa từng nếm mùi chăn gối, tôi đã có được ông vĩnh viễn. Chắc ông đã ngạc nhiên lắm, sung sướng lắm, và cũng đau lòng lắm, ám ảnh lắm, khi hơn 30 tuổi rồi tôi vẫn còn là người con gái trinh tiết như buổi đầu yêu ông, đến với ông trong mối tình duy nhất. Chắc ông đau đớn lắm khi biết tôi làm vợ rồi, làm em dâu của ông rồi mà tôi vẫn còn trinh. Tôi không cần biết ông nghĩ sao, chỉ biết rằng sau giây phút được sống thật với chính mình một lần duy nhất trong đời, tôi thấy mình trống rỗng và vô nghĩa. Có lẽ, em trai ông, người chồng bất hạnh của tôi chính là thiên sứ trời mang xuống để giải thoát cho tôi khỏi những mù lòa, luẩn quẩn của tôi chăng? Tôi đã trả thù ông được rồi. Đủ để cho ông đau khổ, dằn vặt, và ám ảnh. Nhưng có một thứ ngoài mong đợi của tôi, đó là giọt máu ông để lại trong lần ấy. Tôi đã bối rối và đau khổ vì tôi không dám mong đợi nhiều đến thế. Tôi không có quyền làm cho thêm một ai đau khổ vì mối tình bị phụ bạc của ông và tôi. Có phải là nghiệp chướng ông trời trừng phạt tôi không khi theo lẽ thường tôi và ông không đến được với nhau lẽ ra tôi phải quên ông đi để yêu một người con trai khác và lập gia đình, chứ không phải là đeo đẳng vào cuộc đời ông để trả thù. Khi đứa con trong tôi biết quẫy đạp cũng là lúc tôi hiểu rằng chính tôi mới là kẻ có lỗi, tôi cần phải rời khỏi gia đình ông, rời khỏi ông vĩnh viễn. Chính tôi mới là kẻ cần được tha thứ chứ không phải là ông. Cuộc đời vốn dĩ vẫn cắc cớ như vậy. Trong họa có phúc, trong phúc có họa. Khi ta cố đạt được thứ ta muốn thì ta sẽ mất đi nhiều thứ khác lẽ ra ta có được. Con người trong vũ trụ này mới bé nhỏ làm sao, sinh li tử biệt là lẽ tự nhiên của trời đất không ai cưỡng được. Tôi mang con ra đi vì muốn chạy trốn mọi tội lỗi trong tâm hồn mình. Tôi là người mẹ không bao giờ được tôi tha thứ. Tôi ôm con trong lòng và nghĩ như vậy. Tại sao tôi lại làm cho con tôi khổ, làm cho số phận của con tôi không bình thường ngay khi hình thành. Tại sao tôi lại ích kỷ đến nhẫn tâm như vậy chứ. Và ông biết đấy, tôi đã trốn chạy mãi mãi. Lý do 20 năm tôi không một lần ngoái đầu trở về là vì tôi cảm thấy tôi có lỗi, giày vò lương tâm. Toà soạn báo đã nói đúng: Sống trong oán hận chỉ làm dày thêm oán hận mà thôi. Tại sao tôi lại làm như thế chứ. Tại sao tôi lại độc ác với chính tôi, và với ông, với cả em trai ông đến như thế chứ. Tôi khóc rất nhiều. Tôi đã nuôi con trai ông khôn lớn. Con trai ông giờ đã là người rất thành đạt. Tôi xin lỗi ông vì con chưa từng biết bố đẻ của mình là ông cho đến khi tôi viết bức thư này. Trước đó, tôi chỉ nói với nó rằng, bố của con đã mất ngay khi con chưa lọt lòng. Tôi mang nó lên chùa sống cùng tôi. Hai mẹ con tôi đã lớn lên trong nhà chùa, ngày ngày bạn với kinh kệ, phật pháp. Con trai ông giờ đã là nhà sư trụ trì ở một ngôi chùa không lớn lắm nhưng cũng đủ cho tâm hồn mẹ con tôi tĩnh lặng và không gợn nỗi sầu khổ. Con trai ông đã lựa chọn sự nghiệp tu hành mà không vì bất kỳ lý do nào. Tôi cũng không khuyến khích nó chọn nghiệp hành đạo. Tôi muốn nó ra cuộc sống bên ngoài, sống bình thường như bao người khác và lấy vợ sinh con. Nhưng cuộc đời có phải cứ muốn là được. Tôi tôn trọng lựa chọn của con. Vậy là ý nguyện tu hành khi xưa, khi bị ông phụ bạc đến lúc ấy mới có duyên để đạt đạo. Tôi ngày ngày vẫn tụng kinh niệm phật cầu siêu cho những linh hồn sầu khổ ai oán. Tôi đã cảm thấy thanh thản và hết vướng bận cho đến ngày vô tình đọc được câu chuyện của chúng ta ở trên báo. Tôi đã thú thật hết với con trai và xin con một lời khuyên làm sao cho phải đạo với ông. Thật may, con trai tôi khuyên tôi viết bức thư này gửi tới ông thay cho gặp mặt. Con trai tôi nói rằng, đối với kẻ tu hành thì coi như không có bất kỳ một mối quan hệ ràng buộc nào ở cuộc đời bên ngoài. Thế nên ông thấu hiểu cho mẹ con tôi. Biết ông bệnh nặng, tôi tụng kinh niệm chú cho ông qua được hoạn nạn. Nếu không qua được, thì đó cũng là số trời, ông cứ thanh thản mà đi nhé. Vĩnh biệt ông". Lời BBT: Bạn đọc kính mến! Trên đây là bức thư của một người không ký tên gửi tới toà soạn. Bạn đọc đọc hết bức thư này chắc chắn đã hiểu người gửi thư muốn gửi tới ai. Qua đây, một lần nữa, chúng tôi xin gửi đến tất cả mọi người, những ai đang sống trong những mối oán hận, hay mâu thuẫn trên thế gian này, hãy biết tha thứ cho nhau, xoa dịu nhau bằng tình yêu thương, hoà thuận, để cuộc đời bớt đi những bi kịch, con người bớt đi những bất hạnh mà sống an vui trong cõi này. Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 06/Jan/2013 lúc 9:14pm |
|
Lộ Công Mười Lăm
|
|
IP Logged | |
lo cong
Senior Member Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
Gởi ngày: 20/May/2013 lúc 12:10pm |
Tình đời !!! Người Viết Mướn
|
|
Lộ Công Mười Lăm
|
|
IP Logged | |
hoangngochung
Senior Member Tham gia ngày: 27/Nov/2010 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 513 |
Gởi ngày: 21/May/2013 lúc 9:38am |
|
|
hung0989077120@ahoo.com
|
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 5 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |