Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Âm nhạc | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Âm nhạc |
Chủ đề: GIAI THOAI VĂN-THƠ-NHẠC-NHẠC SĨ-VĂNTHI SĨ | |
<< phần trước Trang of 4 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | ||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 15/Jan/2014 lúc 6:31am | ||||||||||
"Thuở trâm cài" Bản nhạc mới được công bố của nhạc
sĩ Đoàn Chuẩn
Năm 2002, gia đình nhạc sĩ Đoàn Chuẩn nhận được bản nhạc Ánh trăng mùa thu do
Đoàn Chuẩn viết năm 1947, xuất bản năm 1952. Anh Nguyễn Ngọc Khôi trước năm
1975 theo học thanh nhạc do ca sĩ Đoàn Chính (con trai cả của nhạc sĩ Đoàn
Chuẩn) dạy, đã tặng bản nhạc này. Đoàn Quỳnh Hoa, cháu gái gọi nhạc sĩ Đoàn
Chuẩn bằng ông trẻ, một trong những người tích cực đi tìm lại các kỷ vật của
nhạc sĩ Đoàn Chuẩn và may mắn tìm được bản thu âm năm 1960 tại Đài tiếng nói
Việt Nam ca khúc Hoa thơm bướm lượn do Đoàn Chuẩn cùng Tạ Tấn hòa tấu và bút
tích chép tay bản nhạc Thuở trâm cài, một tác phẩm chưa một lần được công bố và
có nhiều điều “lạ”. Thuở trâm cài được tác giả ký bút danh Việt Tử. Nghệ sĩ guitar Hawaii Đoàn Đính, là con trai thứ hai của Đoàn Chuẩn, khẳng định đây chính là nét bút của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, bút danh Việt Tử đã được ông sử dụng vài lần.
Phần lớn các bản nhạc của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn được sáng tác với tiết tấu Blue
nhưng bản nhạc Thuở trâm cài có tiết tấu Bolero, giọng mi trưởng, chơi trên đàn
guitar Hawaii rất hay. Vẫn những ca từ hết sức mộng mơ “hết sức Đoàn Chuẩn” như
“Cài trâm lên mái tóc nàng đứng soi để những cho gương mờ!....”, “Anh ước mơ
thầm kín, những cánh hoa trìu mến phủ thắm lối duyên”... Từ năm 1947 - 1956,
nhạc sĩ Đoàn Chuẩn sáng tác nhiều ca khúc bất hủ: Ánh trăng mùa thu (ca khúc
đầu tay sáng tác năm 1947), Tình nghệ sĩ, Lá đổ muôn chiều, Chuyển bến, Gửi gió
cho mây ngàn bay, Đường về Việt Bắc, Cánh hoa duyên kiếp, Thu quyến rũ, Gửi
người em gái miền Nam... Trong những năm 1988 - 1989, Đoàn Chuẩn sáng tác ca khúc Khuôn mặt em (thơ Văn Cao), Đường thơm hoa sữa gọi (thơ Vân Long), Phấn son, Một gói nho khô, một cành penseé, Màu nắng có bao giờ phai đâu. Bản nhạc Thuở trâm cài được Đoàn Chuẩn sáng tác trong thập kỷ sáu mươi thế kỷ trước. Đây có thể coi là sự gạch nối giữa hai giai đoạn 1947 - 1956 và 1988 - 1989 trong sự nghiệp sáng tác của ông. Là một nhạc sĩ gắn với nhiều giai thoại và bút danh Việt Tử lại là một bí ẩn nữa của người nhạc sĩ tài hoa cần tìm lời giải thích? Link nguồn: http://touch.doctin247.net/ban_nhac_moi_duoc_cong_bo_cua_nhac_si_doan_chuan-8-22452384.html Nhạc phẩm : Thuở Cài Trâm Nhạc sĩ : Việt Tử (Đoàn Chuẩn) Ca sĩ : Quỳnh Hoa 1/ Thuở Trâm Cài - Quỳnh Hoa | 320 lyrics, upload bởi lathaihongvimp3.zing.vn/bai-hat/Thuo-Tram-Cai-Quynh-Hoa/IWA08CUU.html2/ Thuo Tram Cai - Doan Chuan ( Viet tu ) - Ca sy Quynh Hoa - YouTubehttp://www.youtube.com/watch?v=bMe5uqk_1Kc
Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 15/Jan/2014 lúc 7:02am |
|||||||||||
mk
|
|||||||||||
IP Logged | |||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 12/Feb/2014 lúc 10:49pm | ||||||||||
'Triệu đóa hồng' - câu chuyện tình lãng mạn vượt biên giới Đến với khán
thính giả Liên Xô từ đầu thập niên 1980, giai điệu cùng câu chuyện tình
đơn phương của họa sĩ nghèo trở thành khúc nhạc tình bất hủ, được nhiều
người trên thế giới đồng cảm và đón nhận.
Trong tình yêu, sự lãng mạn vừa đủ làm duyên đôi lứa thêm nồng, tình thêm xanh thắm, ngọt ngào. Còn lãng mạn thái quá, không phù hợp với thực tế thì bị gọi là viển vông. Triệu đóa hồng là khúc ca buồn về sự lãng mạn nhưng có sức lay động lớn bởi sự chân thành, mộc mạc. Lời bài hát dựa theo câu chuyện tình yêu của chàng họa sĩ nghèo người Gruzia, Niko Pirosmani (1862-1918) và nàng ca sĩ người Pháp Magragita.
Niko Pirosmani sinh ra trong gia đình nông dân nghèo. Ông mồ côi từ bé và được hai người chị chăm sóc. Lớn lên, Pirosmani giúp việc cho các gia đình giàu có. Ngoài ra, ông từng làm nhân viên bến xe lửa, thợ sơn, người trông cửa tiệm... Pirosmani tự tìm hiểu về hội họa và tự học vẽ. Sau đó, ông kiếm sống bằng việc vẽ bảng hiệu, tranh chân dung... theo đơn đặt hàng. Đến cuối đời, Niko Pirosmani vẫn là họa sĩ nghèo. Ông mất vào giữa năm 1918 vì thiếu dinh dưỡng và bệnh gan. Niko Pirosmani cả cuộc đời cô đơn. Năm 25 tuổi, ông cầu hôn chị nuôi - một góa phụ tuổi 40 - và bị chối từ. Tháng 3/1909, các áp phích quảng cáo rầm rộ về bảy đêm diễn của cô ca sĩ phòng trà kiêm vũ nữ người Pháp Margarita. Niko ngay lập tức bị quyến rũ bởi nàng. Ông vẽ Margarita rồi điền ở dưới bức tranh dòng chữ "Anh yêu em". Đó là tình yêu không được đáp lại, dù Pirosmani dùng tất cả những gì mình có để bày tỏ tình yêu với nàng. Người đời lưu truyền chuyện tình giữa họa sĩ và ca sĩ rằng, Pirosmani đã bán tất cả gia sản - kể cả căn nhà anh sinh sống - để mua một biển hoa tặng người anh yêu. Rồi buổi sáng, khi thức giấc, trông ra quảng trường trước nơi ở, ca sĩ nhìn thấy cảnh tượng và nghĩ có lẽ triệu phú nào đã làm việc này. Khi biết là anh họa sĩ nghèo, nàng đến gặp họa sĩ và tặng anh một nụ hôn. Đó là nụ hôn đầu tiên và duy nhất trong cuộc tình đơn phương của chàng họa sĩ. Kết thúc chuyến lưu diễn, ca sĩ lên tàu rời đi, cùng một người giàu có.
Chuyện tình của Niko Pirosmani sau đó được ghi lại trong tiểu thuyết của K. G. Paustovsky. Andrei Voznesensky lấy cảm hứng từ câu chuyện đó sáng tác thơ, cũng chính Voznesensky từ bài thơ của mình, đặt lời cho nhạc của Raimonds Pauls, từ đó có bản Triệu đóa hồng.
Có anh họa sĩ sống một mình
Triệu, triệu, triệu bông hồng đỏ
Buổi sáng khi em thức dậy đến bên khung cửa
Cuộc gặp gỡ thật ngắn ngủi
Họa sĩ vẫn sống một mình
Triệu, triệu, triệu bông hồng đỏ Sở dĩ nói Voznesensky đặt lời cho nhạc của Pauls bởi trước đó, Pauls sáng tác giai điệu và được Leons Briedis viết lời bằng ngôn ngữ Latvia, với tên gọi Marina tặng cho con (xem video). Bài hát nói về cô bé thuở ấu thơ được nghe mẹ hát một ca khúc, sau này khi lớn lên, cô hát tặng con gái giai điệu này. Nhưng chỉ khi Voznesensky viết lời bằng tiếng Nga với câu chuyện tình buồn, giai điệu như được thổi hồn mới, được chắp cánh để vượt ra khỏi biên giới một quốc gia. Triệu đóa hồng gắn liền tên tuổi của nữ ca sĩ Alla Pugacheva. Năm 1983, với ca khúc này, Alla Pugacheva đoạt giải Bài hát của năm tại Liên hoan tiếng hát truyền hình toàn Liên Xô (cũ). Đây trở thành một trong những nhạc phẩm nổi tiếng nhất Liên Xô trong suốt thập niên 1980. Tại rất nhiều buổi biểu diễn của mình, khán giả cùng Pugacheva cất lời hát về chuyện tình chàng họa sĩ.
Trong giai thoại được kể lại, họa sĩ Niko Pirosmani tặng Margarita không chỉ có hoa hồng đủ sắc màu mà còn có cả kim ngân, huệ, anh túc, thược dược... Lời bài hát nhắc tới hoa hồng đỏ thắm - mang tính ước lệ để chỉ tình yêu. Bởi từ lâu, hoa hồng được ví là sứ giả của tình yêu, được nhiều dân tộc coi là quốc hoa. Hoa hồng cũng là đề tài thường thấy trong hoạt động sáng tác của nghệ sĩ. Họa sĩ Nga Alexei Antonov từng làm người xem mê đắm bởi những bức tranh đơn sơ, thanh tao và tinh khôi về hoa hồng, cho người xem cảm nhận được hương thơm ngát.
Hay trong nhạc Hoa ngữ, ca khúc 999 đóa hồng (ca sĩ Đài Chính Tiêu, xem video) cũng là tượng đài của những bản tình ca. Bài hát nói về sự cô đơn, buồn tiếc của chàng trai khi chia tay. Anh vốn trồng 999 cây hoa hồng cho người yêu. Chia tay rồi, hoa héo úa còn chàng trai tiều tụy. Con số 999 đóa hồng có ý nghĩa rằng tình yêu trao cho em là vĩnh cửu. Ngày nay, vẫn có không ít gã si tình dùng 999 đóa hồng bày tỏ tình yêu với người trong mộng.
Có lẽ cũng chính nhờ hoa hồng, nhờ lòng yêu mến của con người trên thế giới với hoa hồng, bài hát Nga gần gũi hơn, dễ đi vào lòng người hơn. Phải chăng vì thế mà sự lãng mạn, si tình tới mức bán nhà mua hoa của chàng họa sĩ lại nhận được đồng cảm của người nghe đến vậy? Tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng Nhật Bản (video), Anh (video), Hàn Quốc (video), Trung... và cả tiếng Việt. Ở Nhật Bản, đây được coi là biểu tượng của tình ca. Triệu đóa hồng vang lên trong nhiều trường học, công trường... ở Việt Nam những năm 1980-90. Bài hát được nhiều chàng trai chọn là sứ giả, giúp họ thổ lộ tình cảm với người yêu. Triệu đóa hồng đến nay vẫn có sức lay động người nghe, dù vật đổi sao dời. Hải Lan
|
|||||||||||
mk
|
|||||||||||
IP Logged | |||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 26/Feb/2014 lúc 11:25pm | ||||||||||
Tình sử của Hoàng Thi Thơ và Lam Phương Đăng bởi truongvan - February 27, 2013 Trong đời sống âm nhạc trước 1975, có nhiều mối tình nghệ sĩ mà câu chuyện của nó cũng ly kỳ và ngang trái không khác gì nội dung các bài hát thời đó, trong đó phải kể đến mối quan hệ giữa Hoàng Thi Thơ và Lam Phương và nữ ca sĩ Thúy Nga. Nói về tài năng thì chưa có ai đặt Lam Phương và Hoàng Thi Thi lên bàn cân để đo đếm, nhưng nói về sự đào hoa thì Hoàng Thi Thơ có thể chấp Lam Phương cả 2 tay. Trong khi rất thành công về mặt thương mại với nhiều bài hát được nhiều thế hệ khán giả yêu thích thì nhạc sĩ Lam Phương lại luôn được xem là nhạc sĩ bất hạnh nhất trong tình yêu. Cho đến cuối đời Lam Phương vẫn sống trong cô đơn và “sớm mai thức giấc nhìn quanh một mình” cho dù nét nhạc của ông thuộc loại tài hoa bậc nhất. Những sáng tác của Lam Phương đa số có đề tài về tình yêu tan vỡ, cả khi ở trong nước lẫn ra hải ngoại. Đó là các bài Cỏ Úa (Bão tố triền miên ngày em về nhà đó, buồn hắt buồn hiu ngõ đêm sầu cô liêu), Tình Nghĩa Đôi Ta Chỉ Thế Thôi (Thôi là hết, chia ly từ đây, người phương trời kẻ sống bơ vơ), Biết Đến Bao Giờ (Đời là vạn ngày sầu biết tìm nơi chốn nào, ta quen nhau bao lâu nhưng tình đã có gì đâu), Như Giấc Chiêm Bao (Em ơi còn những gì, ngoài một đời chia ly)… Cũng có 1 thời gian ông tràn trề hạnh phúc khi cưới vợ lần 1 với nữ ca sĩ, kịch sĩ Túy Hồng và cho ra đời nhiều bài lạc quan tin yêu như Ngày Hạnh Phúc, Em Là Tất Cả, hoặc lần cưới người vợ thứ 2 ở hải ngoại để cho ra đời các tác phẩm Bài Tango Cho Em, Tình Đẹp Như Mơ, Mùa Thu Yêu Đương… Tuy nhiên rốt cuộc cả 2 mối tình đều tan vỡ, âm nhạc của ông lại nhuộm 1 màu đau thương như trong Một Đời Tan Vỡ (Tình một đời tình mang lừa dối. Còn tình một đêm sóng vỗ ra đi), hoặc Lầm (Anh đã lầm đưa em sang đây) và Một Mình (Sớm mai thức giấc nhìn quanh một mình). Trong các mối tình không thành của Lam Phương, có tình yêu đơn phương dành cho nữ ca sĩ tài sắc Thúy Nga (không phải Thúy Nga Paris). Tới năm 1955, khi mới 17 tuổi, Lam Phương đã trở nên nổi tiếng với loạt bài ăn khách là Kiếp Nghèo, Chuyến Đò Vĩ Tuyến, Trăng Thanh Bình. Còn Thúy Nga lúc đó đã 18 tuổi với chất giọng Alto đã chinh phục được hầu hết Saigon khi đó, và được nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đem lòng yêu mến, ông đã trở thành 1 người thầy, người anh dẫn dắt trong con đường âm nhạc và cũng là người tình đầu tiên của Thúy Nga. Đến năm 1957, khi Thúy Nga chính thức là vợ Hoàng Thi Thơ, Lam Phương khi ấy đang hành quân ở vùng thôn vắng nghe được tin đã vô cùng đau đớn và viết bài hát cuối cùng tặng người trong mộng: Một chiều hành quân qua thôn xưa lúc nắng xuân chưa nhạt màu, Chạnh lòng tìm người em gái cũ: Em tôi đã đi phương nào? Nghẹn ngào nhìn qua hàng tre xanh ngắm bóng chim đua trên cành, Giờ tìm đâu hình bóng cũ: Em ơi em về đâu? (Chiều Hành Quân) Để đáp lễ, Hoàng Thi Thơ đã viết bài: Ai cấm được tình yêu Ai ép lòng cô liêu Khi lòng còn say nước non tình tứ … Tha thiết tình người ơi Ao ước tình tình vơi Mong tình còn mãi Đến hơi tàn cuối Tha thiết tình người ơi Ao ước tình tình vơi Mong tình còn mãi thiết tha trong đời. (Yêu Mãi Còn Yêu) Vợ chồng Hoàng Thi Thơ – Thúy Nga năm 1969 (sau khi cưới 12 năm) Trong khi Lam Phương đau khổ vì người yêu đi lấy chồng, thì ở bên kia chiến tuyến tại Hà Nội, khi nghe lén trên Đài phát thanh Sài Gòn về thông tin nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ cưới ca sĩ Thuý Nga thì ca sĩ nhạc đỏ Tân Nhân đã xỉu lên, xỉu xuống và bỏ ăn mấy ngày vì đau khổ. Tân Nhân và Hoàng Thi Thơ có cùng quê ở Quảng Trị, học cùng trường, sau này cùng đi theo kháng chiến. Tân Nhân theo kháng chiến từ lúc mới 16 tuổi, theo đoàn văn công Bình Trị Thiên. Năm 1949 trong 1 lần bị Pháp càn, đơn vị tan tác, các thành viên đoàn chạy vào rừng sâu thoát và mất liên lạc… Tin đồn về trận càn Phong Lai dù được cải chính của Việt Minh nhưng vẫn lan truyền về đất Nghệ Tĩnh. Tin Tân Nhân bị giết làm bàng hoàng thầy trò ngôi trường nổi tiếng một thời bà theo học. Trường Huỳnh Thúc Kháng đã làm lễ tưởng niệm cô học trò Tân Nhân. Người bạn học cùng quê trước đó là Hoàng Thi Thơ – lúc này đang công tác ở Nghệ An – nghe tin như tan nát cả cõi lòng. Anh đã thể hiện nỗi nhớ thương Tân Nhân bằng bài hát Xuân chết trong lòng tôi: Xuân ơi Xuân Chim xa đàn Xuân ơi Xuân Ngờ đâu Xuân chết trong lòng tôi Trong tiếng đàn… Ôi chim xa cành Bướm lìa hoa Trùng phùng xa lắm… Khi trở về và nghe được bài hát này, Tân Nhân đã rất xúc động. Nỗi thương nhớ dành cho người (ngỡ) đã chết của Hoàng Thi Thơ đã làm động lòng cô nữ sinh. Bà lại lên đường ra Nghệ An và gặp lại Hoàng Thi Thơ lúc đó cũng đang tìm bà, rồi bắt đầu một tình sử đẫm nước mắt. Hoàng Thi Thơ một lần về công tác và thăm quê nhà đã bị Pháp bắt giam 1 thời gian và ở lại luôn miền Nam sau hiệp định Geneve 1954 chia cắt đất nước. Chàng đã bỏ lại Tân Nhân với đứa con trong bụng và vào Sài thành. Tân Nhân ôm hận, nén nhớ thương về lại Bắc, tự nguyện dấn thân cho kháng chiến và trở thành 1 ca sĩ huyền thoại của nhạc đỏ với bài Xa Khơi của Nguyễn Tài Tuệ. Bài hát nói về nỗi nhớ thương của người con gái đất Bắc đối với người trai nơi miền Nam. Bài hát hợp cả với chất giọng lẫn hoàn cảnh nên Tân Nhân trình bày đạt cảm xúc cao độ: Nắng tỏa chiều nay Thuyền về mái động chiều nay Nhìn phương Nam con nước vơi đầy thương nhớ Nhớ thương anh ơi (Xa Khơi) Đứa con kết quả của mối tình lãng mạn ấy sống cùng mẹ trên đất Bắc với hai nỗi đau riêng là không được biết mặt cha và chịu một lý lịch có cha là nhạc sĩ dưới chế độ Sài Gòn… Đứa con lúc đầu lấy họ mẹ, mang tên Trương Nguyên Việt, sau đó lấy tên khác là Lê Khánh Hoài với họ của người cha kế. Ngoài ra còn có bút danh Triệu Phong (là quê quán của Hoàng Thi Thơ) khi viết báo. Ca sĩ Tân Nhân Nói thêm về Hoàng Thi Thơ, cả 2 lần đất nước biến động, ông đều di cư không chủ đích. Lần đầu năm 1954 khi ông được phân công công tác ở quê nhà rồi bị Pháp bắt và kẹt lại luôn khi đất nước chia đôi. Lần 2 năm 1975 thì khi đó ông đang cùng đoàn nghệ sĩ Việt Nam lưu diễn ở Nhật vào tháng 4. Sau đó thì đoàn tụ lại với vợ con tại Hoa Kỳ. Cuộc đời Hoàng Thi Thơ dù trải qua nhiều biến cố nhưng ông vẫn được toại nguyện của mình khi “tình còn mãi đến hơi tàn cuối” năm 2001. Còn Lam Phương đến gần cuối đời vẫn đang còn ôm nhiều mối tình tan vỡ trong cô độc. Trương Văn (Nguồn: http://quannhacvang.com/tinh-su-cua-...va-lam-phuong/) http://yeunhacsen.net/forum/threads/2324-T%C3%ACnh-s%E1%BB%AD-c%E1%BB%A7a-Ho%C3%A0ng-Thi-Th%C6%A1-v%C3%A0-Lam-Ph%C6%B0%C6%A1ng |
|||||||||||
mk
|
|||||||||||
IP Logged | |||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 26/Feb/2014 lúc 11:28pm | ||||||||||
CUỘC TÌNH TRỚ TRÊUCỦA NS LAM PHƯƠNGĐối với nhiều người, Lam Phương là nhạc sĩ tài hoa bậc nhất Sài Gòn trước năm 1975 với những tác phẩm để đời như Khúc ca ngày mùa, Kiếp nghèo, Phút cuối, Tình bơ vơ, Thành phố buồn… Còn Túy Hồng cũng là nữ nghệ sĩ đa năng bậc nhất Sài Gòn khi ấy, khi bà vừa là ca sĩ, kịch sĩ… Trai miền Tây gặp gái miền Đông Lam Phương tên thật là Lâm Đình Phùng, sinh năm 1937, tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Tuổi thơ của Lam Phương là một chuỗi ngày dài buồn đau và bất hạnh. Nhà nghèo, cha của ông đi theo tiếng gọi của tình yêu mới, bỏ 6 người con tuổi còn thơ dại cho người vợ không nghề nghiệp ổn định, một mình tảo tần hôm sớm nuôi con. Năm ông mười tuổi, mẹ gửi ông lên Sài Gòn, ở nhà của người bác ruột để ông được học hành, nhờ đó mà lịch sử tân nhạc nước nhà có được một nhạc sĩ Lam Phương. Lên Sài Gòn, Lâm Đình Phùng học ở trường Les Lauriers. Ngoài giờ học văn hóa, ông còn học thêm nhạc. Ông tự học guitare bằng các tài liệu tiếng Pháp do lúc đó ở Việt Nam chưa có sách dạy nhạc tiếng Việt. Thấy ông là một học trò nghèo nhưng chăm chỉ, các thầy dạy nhạc (nhạc sĩ Hoàng Lang, nhạc sĩ Lê Thương) tận tình chỉ dạy cho ông mà không nhận tiền thù lao. Năm 1952, sáng tác đầu tay của ông, nhạc phẩm Chiều thu ấy ký tên Lam Phương ra đời. Ông vay tiền của bạn bè để mướn nhà in in nhạc, sau đó thuê xe chở nhạc đi bán lẻ khắp Sài Gòn. Năm ấy, ông mới 15 tuổi. Thành công với tác phẩm đầu tay, Lam Phương càng miệt mài sáng tác. Ba năm sau, Lam Phương tung ra hàng loạt ca khúc viết về quê hương, trong đó nổi tiếng nhất là Trăng thanh bình, Nắng đẹp miền Nam, Nhạc rừng khuya, Khúc ca ngày mùa… Đặc biệt, nhạc phẩm Khúc ca ngày mùa thành công vượt bậc hơn cả. Bản nhạc được viết theo thể loại nhạc đồng quê, nhịp điệu Mambo, với âm giai bằng cung rê thứ. Các hãng đĩa nhựa như Dư âm, Sóng nhạc, Asia… tranh nhau ký hợp đồng với Lam Phương để được thu âm bài hát Khúc ca ngày mùa này, tiếng tăm của bản nhạc mới thật sự bùng nổ. Với tiếng hát điêu luyện của đôi song ca tài danh Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết, lúc hợp, lúc bè, lúc đuổi như càng đưa bài hát lên chín tầng mây. Khúc ca ngày mùa còn được hầu hết các trường học ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long chọn để dạy cho học trò ca múa. Lam Phương đã thật sự thành danh khi ông mới 18 tuổi. Túy Hồng tên thật Trương Ánh Tuyết, bà sinh ra tại Bình Dương và lớn lên tại Sài Gòn. Túy Hồng có người anh trai là bạn thân của Lam Phương, những ngày thứ bảy và chủ nhật, Lam Phương thường đến nhà bạn để hòa nhạc và dạy hát cho Túy Hồng. Túy Hồng rất ngưỡng mộ Lam Phương vì mới 15 tuổi mà đã sáng tác được bài Chiều thu ấy. Về phía Lam Phương, nhạc sĩ trẻ này cảm thấy chưa có cô gái nào hát nhạc mình hay bằng Túy Hồng. Thời điểm này, Lam Phương lại đang hợp tác với ban nhạc kịch lớn Dân Nam nên đề nghị Túy Hồng cùng với mình đầu quân về đoàn. Kể từ đó, Túy Hồng bắt đầu trình diễn các ca khúc của Lam Phương và rất thành công với các ca khúc : Đèn khuya, Kiếp nghèo, Kiếp ve sầu, Tiễn người đi, nhất là hai bản Chiều tàn và Phút cuối. Đưa nhau lên đỉnh vinh quang Lam Phương – Túy Hồng cưới nhau năm 1959. Lúc đó, ngoài phần phụ trách nhạc cho ban kịch Dân Nam của đôi kịch sĩ Anh Lân và Túy Hoa, Lam Phương còn viết nhạc nền cho các ban kịch lừng danh thời đó như : Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng. Đến năm 1968, với sự động viên của chồng, Túy Hồng đứng ra thành lập riêng một đoàn kịch – Đoàn kịch “Sống – Túy Hồng”. Chính đoàn kịch này đã đưa tên tuổi của Lam Phương và Túy Hồng lên tột đỉnh vinh quang. Đoàn kịch Sống – Túy Hồng còn có một lợi thế mà ít ban kịch nào có được, đó là ban kịch đưa các bài tình ca vào các vở diễn thành công nhất, nhờ phần lớn các bài hát tuyệt vời của người nhạc sĩ tài hoa Lam Phương, thời điểm đó là đức phu quân của Túy Hồng. Kịch do Sống – Túy Hồng dựng không quá bi thảm, kết thúc luôn dành chỗ đứng cho một niềm hạnh phúc nào đó, khán giả xem kịch Sống – Túy Hồng thường ra về với một tâm trạng nhẹ nhõm. Tất cả những vở kịch của ban kịch Sống – Túy Hồng (do Túy Hồng đóng chính) đều ghép nhạc của Lam Phương vào phần ngoại cảnh, làm cho vở kịch sống động hơn, truyền cảm hơn, thu hút người xem nhiều hơn. Ngược lại, mỗi nhạc phẩm của Lam Phương vừa ra đời đều được “giới thiệu” trong một vở kịch của Túy Hồng. Thời ấy, cứ mỗi tối thứ năm hàng tuần, Đài truyền hình Sài Gòn có tiết mục “thoại kịch” và những vở kịch của ban kịch “Sống – Túy Hồng” bao giờ cũng thu hút nhiều người xem. Thời ấy truyền hình còn hiếm, người ta kéo nhau đến những nhà có tivi để xem kịch “Sống – Túy Hồng”, trong nhà, cửa ra vào, ô cửa sổ… đều chật cứng người xem. Tôi còn nhớ, khi bài hát Thành phố buồn của Lam Phương được hát dìu dặt trong suốt một vở kịch của Túy Hồng phát trên truyền hình, sáng hôm sau bài hát ấy bán đắt như tôm tươi, chàng học sinh, sinh viên nào cũng muốn mua bài Thành phố buồn về để trên kệ sách. Trong khoảng thời gian này, sức sáng tác của Lam Phương càng dàn trải trên nhiều thể loại phong phú, hầu hết các ca khúc ông đưa ra đều in đậm dấu ấn trong đời sống âm nhạc miền Nam, điển hình như Chờ người, Tình bơ vơ, Duyên kiếp, Thành phố buồn, Tình chết theo mùa đông… Ông bước lên vị trí một nhạc sĩ thành công nhất miền Nam về mặt tài chánh. Còn bà Túy Hồng cũng sánh ngang với những Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng trên sân khấu kịch nghệ. Vợ chồng Lam Phương – Túy Hồng cất nhà lầu, sắm xe hơi, trở thành đôi vợ chồng nghệ sĩ giàu có bậc nhất lúc bấy giờ. Sáng 30/4/1975, vào phút chót Lam Phương – Túy Hồng đã nghe theo người bạn đem gia đình lên tàu Trường Xuân ra khơi. Vì trước đó không có ý định ra đi, nên Lam Phương xuống tàu với 2 bàn tay trắng, bỏ lại hai căn nhà lầu, chiếc xe hơi mới toanh và khoảng 30 triệu đồng trong ngân hàng (lúc đó vàng 9999 chỉ khoảng 36.000 đồng/lượng). Buồn như nước mắt Đến định cư ở Mỹ, để có tiền nuôi vợ con, Lam Phương phải làm đủ thứ nghề, từ lau sàn nhà, dọn dẹp cho hãng Sears, đến những việc nặng nhọc như thợ mài, thợ tiện… Sau khi cuộc sống nơi xứ người dần ổn định, cứ mỗi cuối tuần ông cố gắng thu xếp thuê một quán ăn làm sân khấu ca nhạc kịch để bạn văn nghệ gặp nhau, để Túy Hồng và ông có cơ hội sống lại với nhạc kịch. Chính trong khoảng thời gian này, một điều mà Lam Phương không bao giờ ngờ tới đã xảy đến : Túy Hồng không còn chung thủy với ông nữa, bà đã “ôm cầm sang thuyền khác”. Trong tâm trạng đau khổ, uất hận, Lam Phương lại cho ra đời một tuyệt phẩm mang tên Lầm, với những câu từ chua xót : “Anh đã lầm đưa em sang đây. Để đêm thường nghe tiếng thở dài/Thà cuộc đời yên trong lòng đất. Được trở về tiếng khóc ban sơ/Hơn là mang kiếp mong chờ. Anh đã lầm đưa em về đây. Cho tâm hồn tan nát từng ngày. Cùng điệu nhạc lâm ly huyền bí. Dìu lòng người sang chốn đam mê. Đưa anh vào khổ lụy hôm nay…”. Lam Phương rời Mỹ để trốn chạy niềm đau, ông sang Paris làm công cho một tiệm tạp hóa, quét dọn, đóng gói, khuân vác… Cho đến một ngày, ông gặp được một tình yêu mới và ông đã kết hôn với người đàn bà này. Lam Phương như cây khô được hồi sinh, ông lại sáng tác các ca khúc ngợi ca tình yêu, như : Mùa thu yêu đương, Tình hồng Paris, Tình đẹp như mơ, Bài tango cho em… Thế nhưng, chỉ được vài năm, người phụ nữ từng tạo cho ông niềm say mê để viết nên câu ca “Từ ngày có em về, nhà mình tràn ánh trăng thề”, rồi cũng bỏ ông mà theo người khác. Năm 1995, Lam Phương trở về Mỹ và kết hôn với một phụ nữ khác. Định mệnh khiến xui thế nào ông lại sáng tác bài Một mình. Tháng 3/1999, ông bị tai biến mạch máu não, liệt nửa bên người, giọng nói không được bình thường. Rồi người đàn bà thứ ba cũng lẳng lặng rời xa ông. Giờ đây, ông sống một mình với chiếc xe lăn trong căn nhà hiu quạnh. Hơn 50 năm sáng tác với khoảng 200 ca khúc để cuối cùng bài hát Một mình đã vận đúng vào đoạn cuối đời ông ! http://cafevannghe.wordpress.com/2014/01/27/chuyen-tinh-lam-phuong/ |
|||||||||||
mk
|
|||||||||||
IP Logged | |||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 20/Mar/2014 lúc 9:30pm | ||||||||||
Tình sử giữa thi sĩ Hàn Mạc Tử và bà Hoàng Thị Kim Cúc Ðọc " 'Lá Trúc Che Ngang' : chuyện tình của cô tôi," tác giả Hoàng Quỳnh Hoa
Trần Bình Nam Hàn
Mạc Tử là một thi sĩ có tài. Ông sinh năm 1912, lớn lên bị bệnh nan y
và qua đời năm 1940 khi người Pháp còn đô hộ Việt Nam. Thơ văn và những
mối tình lớn nhỏ của ông tạo thành một biến cố văn học tại Việt Nam sau
khi ông chết. Cả một thế hệ cuối thập niên 1930, đầu thập niên 1940 bừng
dậy vì những vần thơ trữ tình đầy nước mắt của ông. Nhất là những vần
thơ thi sĩ dành cho bà Hoàng Thị Kim Cúc, người yêu trong mộng của ông.
Năm 1939 thế giới chiến tranh bùng nổ. Năm 1945 Nhật đảo chánh Pháp kéo theo cuộc cách mạng chống Pháp giành độc lập. Ðất nước chia cắt. Sau đó là cuộc nội chiến khốc liệt, Nam Bắc thống nhất, dân tình phân ly, chia rẽ. Thế nhưng hiện tượng văn học Hàn Mạc Tử hình như không bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn chính trị tại Việt Nam. Trước chiến tranh, trong chiến tranh, và sau khi thống nhất, ở trong Nam cũng như ngoài Bắc, trong nước cũng như hải ngoại giới văn học vẫn viết về Hàn Mạc Tử mà không hề bị ảnh hưởng bởi cuộc tranh chấp Quốc-Cộng. Trong đó có các nhà văn nhà thơ nổi tiếng như Trần Thanh Mại, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Võ Long Tê và Nguyễn Ðình Niên, Nguyễn Bá Tín...
Và mới đây cuối năm 2013, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của bà Kim Cúc, người cháu gọi bà Cúc bằng cô ruột là bà Hoàng thị Quỳnh Hoa cho xuất bản cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi” (nhà xuất bản Ðà Nẵng - Hiệu sách Tường Tâm, Huế phát hành). Cuốn “Lá Trúc Che Ngang” tiết lộ nhiều tư liệu liên quan đến mối tình Hàn Mạc Tử - Kim Cúc trước đây chưa được công bố do bà Kim Cúc chuyển lại cho bà Quỳnh Hoa trước khi qua đời tại Sài gòn năm 1988 do một tai nạn lưu thông. Theo cuốn “Lá Trúc Che Ngang” thì sau khi Hàn Mạc Tử qua đời, qua thơ văn được phổ biến, bà Kim Cúc biết tình cảm sâu đậm nhà thơ dành cho mình, nên bà đã thu thập và lưu giữ mọi tư liệu liên quan đến Hàn Mạc Tử. Bà Kim Cúc rất buồn phiền vì đa số sách hay các bài viết về mối tình của Hàn Mạc Tử đối với bà đều sai sự thật. Bà nghĩ những gì chung quanh Hàn Mạc Tử là chuyện văn học cần được đính chính, chưa nói đến cần được đính chính để giữ gìn uy tín của gia đình bà. Cá nhân bà từ năm 1971 từng biên thư cho các nhà văn nhà thơ viết không đúng về Hàn Mạc Tử. Và mấy chục năm sau bà nhờ Giáo Sư Võ Long Tê, ông Nguyễn Ðình Niên, một giáo sư cùng dạy trường Ðồng Khánh Huế, và cô cháu Quỳnh Hoa viết sách đính chính. Ông Võ Long Tê là người nhận được nhiều tư liệu do bà Kim Cúc gởi đến, nhưng vì một lý do nào đó sách ông hứa viết vẫn chưa ra đời. Ông Nguyễn Ðình Niên thì bận việc dạy học và dịch kinh. Cuối cùng bà Quỳnh Hoa - như đã nói - đã thực hiện lời yêu cầu của người cô xấu số bỏ công nghiên cứu, viết và in cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi” - LTCN. Theo cuốn “Lá Trúc Che Ngang” nhà thơ Hàn Mạc Tử có tên là Nguyễn Trọng Trí, gốc làng Thanh Thủy, Thừa Thiên. Ðầu thập niên 1930 ông là một công chức chập chững vào đời làm việc tại ty Ðạc Ðiền Quy Nhơn. Năm 1932, cụ tham tá Hoàng Phùng, thân sinh cô Kim Cúc cũng được đổi từ Huế vào Ty Ðiền Ðịa Quy Nhơn. Cô Kim Cúc, một thiếu nữ xinh đẹp năm đó vừa tròn 19 tuổi đi theo thân phụ. Chàng thanh niên Nguyễn Mạnh Trí gặp cô Kim Cúc tại một hội chợ do chính quyền bảo hộ tổ chức hằng năm tại Quy Nhơn. Bị tiếng sét ái tình, Trí tìm cách tiếp xúc với cô, nhưng cô Kim Cúc, vốn thuộc gia đình giáo dục khắt khe, luôn tìm cách tránh né. Nhân Trí làm việc cùng sở với Hoàng Tùng Ngâm, em con chú con bác với cô Kim Cúc nên đã thổ lộ tâm sự với bạn và nhờ bạn làm cánh nhạn đưa thơ. Nể bạn Ngâm nhận thơ nhưng không chuyển, nghĩ là không thích hợp với gia phong, và khuyên Trí nếu yêu cô Kim Cúc thì nên nhờ mai mối đi hỏi chính thức. Có ít nhất hai lần Hàn Mạc Tử tìm cách đón gặp cô Kim Cúc trên đường phố định ý đưa thư, nhưng cô Kim Cúc né tránh không tiếp chuyện, cũng không nhận thư. Về mai mối thì văn học không ghi lại gì rõ ràng hơn là câu chuyện mơ hồ đầu năm 1936 Hàn Mạc Tử nhờ một người cậu đến nhà thăm ông cụ của cô Kim Cúc dọ ý, nhưng thấy không xong ông giả vờ để quên một bức thư Hàn Mạc Tử viết cho bạn kể lể sự thầm yêu trộm nhớ Kim Cúc của mình (LTCN - trang 62) Chuyện dạm hỏi này là nguyên nhân của lời đồn “gia đình Kim Cúc đã từ chối lời cầu hôn của Hàn Mạc Tử với lý do không môn đăng hộ đối” mà ông Quách Tấn đã viết trong số 73 báo Văn năm 1967 (LTCN - trang 28). Sự thật là, cô Kim Cúc theo đúng gia phong đất thần kinh của thời đại, nghiêm cấm phụ nữ tiếp xúc với phái nam nên cô không có một tình ý gì với Hàn Mặc Tử qua những cố gắng tiếp xúc làm quen và chuyện mai mối của người thi sĩ. Dư luận cho rằng Hàn Mạc Tử thất tình nên năm 1932 đã bỏ Quy Nhơn vào Sài gòn lập sự nghiệp. Ðầu năm 1936 Hàn Mạc Tử trở lại Quy Nhơn, và mấy tháng sau thì cô Kim Cúc theo thân sinh trở về Huế. Nỗi thất vọng của Hàn Mạc Tử trở nên chất chứa. Năm 1937 Hàn Mạc Tử bị bệnh cùi, một chứng bệnh nan y. Ông đau khổ vì mối tình ôm ấp không được đáp lại, lại đau đớn vì cơn bệnh hành hạ thể xác, nhưng ông dấu bố mẹ vào nằm điều trị tại trại cùi Quy Nhơn và chỉ biết thổ lộ nổi lòng với người bạn thiết là Hoàng Tùng Ngâm. Bệnh càng nặng mối tình của Hàn Mạc Tử càng nóng bỏng và thơ của ông càng rung động lòng người đã giúp đưa Hàn Mạc Tử vào bầu trời vinh quang của văn học Việt Nam sau khi ông qua đời.
Thương bạn, năm 1939 Hoàng Tùng Ngâm viết thư cho chị Kim Cúc yêu cầu cô viết thư thăm hỏi Hàn Mạc Tử. Và cô Kim Cúc đã gởi một tấm bưu thiếp (carte postale) cô mua tại tiệm ảnh Tăng Vinh in hình một thiếu nữ chèo đò trên sông Hương với vài lời thăm hỏi, không đề ngày, không ký tên. Cảm động, Hàn Mạc Tử đáp lễ với bài thơ viết tay: Ở đây thôn Vỹ Giạ
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên, Vườn ai mướt qua xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền Gió theo lối gió, mây đường mây;
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó? Có chở trăng về kịp tối nay? Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà? Ðầu thơ Hàn Mạc Tử viết mấy lời:
Túc hạ,
Có
nhận được bức ảnh Bến Vỹ Dạ lúc hừng đông, hay là một đêm trăng? Và mấy
hàng chữ của túc hạ gởi thăm. Muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến nghĩa
năm xưa thì phúc hậu lắm rồi. Mong ơn trên xuống lộc cho túc hạ thật
đầy đủ. Và mong rằng một mùa xuân nào đó được gặp lại túc hạ mới phỉ
tình cho.
Thăm túc hạ bình an và vui vẻ. Hàn Mạc Tử (ký) – (Xem bút tự của Hàn Mạc Tử - LTCN - trang 88 & 89)
Ngày 1 tháng 11, 1940 Hàn
Mạc Tử qua đời tại trại cùi Quy Nhơn và chuyện tình của ông qua những
bài thơ đẫm nước mắt, chứa đầy máu và trăng trở thành một đề tài lớn
trong giới văn học khắp ba kỳ.
Tuy không có quan hệ tình cảm qua lại gì trước với Hàn Mạc Tử, danh tiếng, thơ văn và mối tình phong kín đậm đà của Hàn Mạc Tử đã làm cho quả tim Kim Cúc rung động. Ðáp lễ bài thơ “Ở đây thôn Vỹ Giạ” (sau này giới văn học tự động viết lại chữ “Dạ” cho đúng chính tả) bà Kim Cúc chép lại bài thơ của Hàn Mạc Tử và viết một bài cảm tác cùng tên bên cạnh, với lời nhập đề: Ngày đầu Xuân đề tặng hương hồn anh H. M. Tử, người tài hoa bạc phận, một tâm hồn tha thiết yêu đương, và một cuộc đời vô cùng đau khổ. (LTCN - trang 91) Bao năm Hoa sống nơi thôn Vỹ
Thầm giữ trong lòng một ý thơ Vẫn biết cách xa ngoài vạn dặm. Tình anh lưu luyến cảnh quê mơ! Một mình một cõi với nước mây
Với cả đau thương với hận này Anh khéo lột hết tài nghệ sĩ Lẫy lừng danh tiếng kể từ đây. Hồn anh lẩn khuất tận mô xa,
Hoa biết cùng ai thổ lộ ra Tuy sống giữa đời phức tạp ấy Ai biết tình ai vẫn đậm đà! H.H. thôn nữ H. H. là Hoàng Hoa, một bút hiệu khác của bà Kim Cúc.
Tháng 11 năm 1942 nhân lễ giỗ lần thứ hai của Hàn Mạc Tử, bà Kim Cúc đã viết một bài văn xuôi ca ngợi thành tích văn học của Hàn Mạc Tử trong đó bà cho rằng mộng thành danh của Hàn Mạc Tử đã thành: Âm dương đôi ngã làm sao nhắn Sự nghiệp trăm năm chí đã thành Trong bài văn xuôi này Kim Cúc tự cho là người thân của Hàn Mạc Tử cám ơn ông Quách Tấn đã hết lòng sốt sắng đối với Hàn Mạc Tử và ước mong rằng ông Quách Tấn sẽ nỗ lực thu góp xuất bản thơ của Hàn Mạc Tử nhiều hơn nữa (LTCN - trang 104). Một năm sau cũng nhân lễ giỗ lần thứ ba của Hàn Mạc Tử bà Kim Cúc viết một tự truyện nhan đề: “Thi sĩ Hàn Mạc Tử với người gái quê”(LTCN - trang 107). Tự truyện được phóng tác dựa vào những tâm tình của Hàn Mạc Tử đối với cô Kim Cúc gởi cho bạn năm 1936. Người “Gái Quê” trong tự truyện chính là cô và cũng là nhan đề của tập thơ “Gái Quê” in năm 1936 của Hàn Mạc Tử trong đó chan chứa mối tình kín đáo của Hàn Mạc Tử dành cho cô. Lời văn của tự truyện ướt át không che dấu sự đáp ứng ân tình muộn màng của bà Kim Cúc dành cho Hàn Mạc Tử. Bà trích dẫn từng câu từng ý trong tập thơ “Gái Quê” để diễn lại cơn sóng lòng của Hàn Mạc Tử trong từng giai đoạn yêu đương của Tử mà bà không hề biết. Chàng thơ thẩn vì yêu: “Tứ gió xuân đi gió hạ về
Anh thường gởi gắm mối tình quê Bên em mỗi lúc trên đường cái Hóng mát cho lòng được thỏa thuê” Em có ngờ đâu trong những đêm,
Trăng ngà giải bóng mặt hồ êm, Anh đi thơ thẩn như ngây dại Hứng lấy hương nồng trong áo em (Trích “Âm thầm” - Gái Quê) Chàng thất vọng quyết bỏ xứ “Quy Nhơn” vào miền Nam “xa ngút ngàn” để xây đắp sự nghiệp.
Nước non muôn dặm tình đương nặng
Sự nghiệp trăm năm chí chửa thành Chàng trở về cũng để chỉ:
... Nép mình trong cánh cửa
Hé nhìn dáng điệu của người yêu Bước đi ngượng nghịu trên đường cái Mỗi lúc ngang qua trước mặt lều. (Trích “Tôi không muốn gặp” - Gái Quê) Chàng từng điên cuồng không kiềm chế được khi nghe tiếng đàn trong nhà Kim Cúc vọng ra:
Ðêm nay ta lại phát điên cuồng
Quên cả hổ ngươi cả thẹn thuồng Ðứng rũ trước thềm nghe ngóng mãi Tiếng đàn the thé ở bên trong (Trích “Tình thu” - Gái Quê) Qua tự truyện “Thi sĩ Hàn
Mạc Tử với người gái quê” Kim Cúc viết “về sau lâu lắm có lẽ những nén
hương tâm chàng đốt chân thành quá nên đã kinh động đến lòng người thiếu
nữ vô sự kia... Nhưng mà đáng buồn cho thi sĩ, thiếu nữ vẫn không thể
làm thỏa lòng chàng được...” Cô Kim Cúc không giải thích tại sao tim cô
đã kinh động mà cô không thể đáp trả. Phải chăng gia đình cô không thuận
như tin đồn và ông Quách Tấn đã viết năm 1967 và năm 1971 cô Kim Cúc đã
yêu cầu đính chính, nhưng 17 năm sau (1988) khi xuất bản cuốn “Ðôi nét
về Hàn Mạc Tử” ông Quách Tấn vẫn giữ nguyên đoạn đó (LTCN - trang 28).
Theo “Lá Trúc Che Ngang”, trong những điều chuyện thêu dệt chung quanh mối tình Hàn Mạc Tử - Kim Cúc, bài viết “Ba mối tình của Hàn Mạc Tử” của ông Kiêm Ðạt đăng trong một tờ Phụ Nữ Diễn Ðàn năm 1985 tại Nam California là có tính thêu dệt nhất (LTCN - trang 181). Ba mối tình ông Kiêm Ðạt nói đến là ba mối tình với Mộng Cầm, Thương Thương và Kim Cúc. Theo bà Quỳnh Hoa, nội dung bài viết của ông Kiêm Ðạt hoàn toàn không đúng sự thật, nhất là khi ông viết rằng giữa Hàn Mạc Tử và bà Kim Cúc đã có “những ngày yêu thương cuồng nhiệt”. Cuốn“Lá Trúc Che Ngang” có một đặc điểm. Nó không làm cho “chuyện tình của cô tôi” thêm hoang đường mà chỉ có mục đích trả lại sự thật cho văn học. Sự thật đó là: Có một mối tình giữa nhà thơ Hàn Mạc Tử và bà Kim Cúc. Nhưng nó không ướt át hai chiều như các cây bút nổi tiếng thời đó và sau này tô vẽ. Nó là mối tình của Hàn Mạc Tử đối với một người thiếu nữ xuân sắc đang tuổi dậy thì trong khung cảnh thơ mộng của thành phố biển Quy Nhơn. Nàng biết, nhưng lễ nghi ràng buộc không cho phép nàng đáp lại. Rồi để nó đi qua như nước chảy qua cầu, cho đến khi nhà thơ yểu mệnh năm 28 tuổi. Và cơn bão văn học sau đó đã làm động lòng người thiếu nữ một thời chưa dám yêu. Cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi”của bà Quỳnh Hoa là một đóng góp lớn cho văn học. Nó cho thấy trước khi Hàn Mạc Tử chết đó là mối tình một chiều. Bà Kim Cúc chỉ viết một tấm thiệp nhỏ an ủi người bệnh và thi sĩ đáp lễ bằng một bài thơ. Ngoài ra hai người chưa từng trao đổi một lời qua lại. Cuốn “Lá Trúc Che Ngang” giúp cho những ai viết về Hàn Mạc Tử sau này có những tư liệu chính xác. Nhưng còn một câu hỏi cuốn “Lá Trúc Che Ngang” không có câu kết luận: Bà Kim Cúc không lấy chồng, tu tại gia, sống một cuộc đời ăn chay niệm Phật có phải vì cô đã yêu và sống vậy để đáp ân tình người đã khuất không? Bài thơ cảm tác đáp bài “Ở đây thôn Vỹ Dạ” và trong tự truyện “Thi sĩ Hàn Mạc Tử với người gái quê” tình yêu muộn màng của bà Kim Cúc đối với Hàn Mạc Tử đã thể hiện rõ nét. Trong cái khung văn hóa của đất thần kinh thập niên 1940, một người con gái chưa chồng đặt bút xuống với nội dung và cách hành văn đó là một nhìn nhận “công khai và minh bạch” quả tim mình đã có chủ bởi một người đã khuất. Cho nên nếu bà Kim Cúc ở vậy cũng không phải là một điều ngạc nhiên. Nhờ bà Kim Cúc kho tàng thi văn Việt Nam thêm phong phú nếu chỉ nói đến bài thơ “Ở đây thôn Vỹ Dạ” và tập “Gái Quê”. Cuộc đời ở vậy của bà Kim Cúc đã làm cho văn học sử Việt Nam có thêm một thiên tình sử cực đẹp. Và cuốn “Lá Trúc Che Ngang: chuyện tình của cô tôi” đã giúp làm nổi bật nét đẹp hiếm có này. |
|||||||||||
mk
|
|||||||||||
IP Logged | |||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 20/Mar/2014 lúc 9:38pm | ||||||||||
Những tư liệu mới nhất về sự thật mối tình Hàn Mạc Tử và Hoàng Thị Kim Cúc
09:51 | 25/10/2013
LTS: Tháng 9 vừa qua, tại Huế, người cháu ruột gọi Bà Hoàng Thị Kim Cúc bằng Cô là Hoàng Thị Quỳnh Hoa đã xuất bản và giới thiệu cuốn “LÁ TRÚC CHE NGANG - CHUYỆN TÌNH CỦA CÔ TÔI”. Cuốn sách đã trưng dẫn ra nhiều tư liệu trung thực về sự thật chuyện tình giữa Hàn Mặc tử và Hoàng Thị Kim Cúc mà lâu nay trên văn đàn có nhiều thêu dệt khác nhau. Ảnh: internet
Trước đây, Tạp chí Sông Hương đã công bố bài viết “Sự thật mối tình Kim
Cúc - Hàn Mạc Tử” của tác giả Nguyễn Đình Niên trên Số Đặc Biệt Sông Hương
tháng 12/2012, với nhiều tư liệu xác tín “Mối tình Kim Cúc - Hàn Mạc Tử không
hẳn là mối tình đầu, như thi sĩ Quách Tấn đã bảo, cũng không hẳn là mối tình có
kết thúc - Đó không phải là mối tình bị tan rã do bởi hoàn cảnh gia đình nên
“hôn ước bất thành” hay bởi sự ngộ nhận giữa đôi người trong cuộc. Thi sĩ có
ước hẹn gì cùng giai nhân đâu… Đó không phải là một mối tình câm, mà chính là
mối duyên nở dần ra trong im lặng…”.
http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p4/c18/n13042/Nhung-tu-lieu-moi-nhat-ve-su-that-moi-tinh-Han-Mac-Tu-va-Hoang-Thi-Kim-Cuc.html |
|||||||||||
mk
|
|||||||||||
IP Logged | |||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 23/Mar/2014 lúc 12:48am | ||||||||||
Người tình trong “Thu, hát cho người” và “Ru con tình cũ”Người tình trong “Thu, hát cho người” và “Ru con tình cũ” (*)
-Trương Văn Khoa-
Thời trung
học, cứ mỗi lần đi học ở trường Tiểu La, tôi vẫn có thói quen hay uống
café tại một quán rất quen thuộc tên là Café Thu. Quán giản dị với những
chiếc bàn gỗ cũ kỹ theo năm tháng. Ngày ấy, ở thị trấn Hà Lam (Thăng
Bình, Quảng Nam), ai cũng biết quán này, chủ nhân là một người đàn bà
trên 30 tuổi nhưng còn đẹp và sâu lắng. Một điều đặc biệt, café ở đây
rất ngon, nhạc hay và buồn như chính chủ nhân của nó. Lúc rỗi, tôi
thường nói chuyện với chủ quán, những lúc như thế, đôi mắt cô Thu thường
đượm buồn, xa xăm, nhớ về một dĩ vãng không xa lắm...
Ru con tình cũ (Đinh Trầm Ca) - Khánh Hàhttp://www.nhaccuatui.com/bai-hat/ru-con-tinh-cu-dinh-tram-ca-khanh-ha.qNzol9OGl2.htmlThu Hát Cho Người - Tuấn Ngọchttp://www.nhaccuatui.com/bai-hat/thu-hat-cho-nguoi-tuan-ngoc.vz8u6GsjoS.html
Cách đây khoảng 40 năm, trên đoạn đường từ ngã tư Hà Lam đến
cổng trường trung học Tiểu La - Thăng Bình, người dân ở thị trấn nhỏ lẻ này chắc
không quên cô nữ sinh tên là Thu, hàng ngày cắp sách đến trường. Hồ thị Thu,
người vùng quê ngày ấy thường gọi là Thu Chuẩn (ba cô tên là Chuẩn) để phân
biệt với những cô Thu khác. Thu học ban C, có giọng hát hay, quyến rũ và từng
là hoa khôi của truờng Tiểu La lúc bấy giờ. Với mái tóc dài xõa ngang lưng,
khuôn mặt trái soan, làn da trắng hồng, thướt tha trong tà áo dài trắng, Thu đã
làm cho biết bao nhiêu chàng trai điêu đứng. Trong số đó, Vũ Đức Sao Biển và
Đynh Trầm Ca (Mạc Phụ), những học trò chân đất, nhìn người đẹp rồi mơ mộng yêu
đương, về nhà làm thơ viết nhạc... Đynh Trầm Ca có "Ru con tình cũ",
Vũ Đức Sao Biển có "Thu, hát cho người", những bài thơ này đã được
giới học sinh, sinh viên chép nhau rồi truyền tụng. Tên tuổi của các thi sĩ
cũng nổi danh từ đó. Chỉ có một điều, đây là những mối tình trong mộng tưởng,
tình yêu đơn phương, lãng mạn ở lứa tuổi học trò. Thời gian trôi đi, Thu
lấy chồng sớm, chàng trung úy pháo binh tên Trần Đình Ái, một pháo đội trưởng
pháo binh. Ái là sĩ quan pháo binh yểm trợ cho bộ binh hành quân ở vùng Sơn
Tịnh, Quảng Ngãi. Thời ấy vào khoảng năm 1973.
"Thu, hát cho người" để tặng cho Thu được Vũ Đức
Sao Biển sáng tác vào năm 1968, là một trong nhạc phẩm làm nên tên tuổi
của ông:
"Giòng
sông nào đưa người tình đi biền biệt
Mùa thu nào đưa người về thăm bến xưa Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ Về đồi sim, ta nhớ người vô bờ Ta vẫn chờ em dưới gốc sim già đó Để hái dâng người một đóa đẫm tương tư Đêm nguyệt cầm ta gọi em trong gió Sáng linh lan hồn ta khóc bao giờ Ta vẫn chờ em trên bao la đồi nương, Trong mênh mông chiều sương Giữa thu vàng, bên đồi sim trái chín Một mình ta ngồi khóc tuổi thơ bay Thời gian nào trôi bềnh bồng trên phận người Biệt ly nào không buồn phiền trên dấu môi Mùa vàng lên, biêng biếc bóng chiều rơi Nhạc hoài mong, ta hát vì xa người.
Bài hát được 2 danh ca Hà Thanh và Anh Ngọc hát trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Sau đó, những giọng ca tên tuổi của Miền Nam như: Phượng Bằng, Mai Hương, Quỳnh Dao, Kim Tước, Vân Quỳnh, Vân Hà, Ngọc Long...thể hiện rất thành công. Bài hát được công chúng đón nhận nồng nhiệt và trở nên nổi tiếng lúc bấy giờ.
Một thời, “Thu, hát cho người” đem đến nhiều giai thoại cho
giới văn nghệ sĩ, nhất là Quảng Nam, Đà Nẵng và TP. HCM. Tháng 1/2010,
trong chương trình “Gặp gỡ cuối tuần” phát trên HTV7, Vũ Đức Sao Biển có đề cập
đến bài hát và coi đó là tình cảm trong sáng của chính tác giả với một người
con gái cùng quê ở Quảng Nam. Sau một thời gian xa cách, khi trở về, cô gái
ngày xưa giờ có lẽ đã có một bến bờ khác. Một mình lang thang lên đồi sim tím,
nơi đã từng gắn bó với mối tình ngày xưa, cảm xúc chợt ùa về… Và “Thu, hát cho
người” ra đời trong hoàn cảnh đó.
Cuối năm 2011, một lần viết về bài hát này trên báo “Người
lao động”, Vũ Đức Sao Biển giải thích rằng, tựa đề ca khúc “Thu, hát cho người”
là hát cho chính mình, hát cho mùa sim tím, tháp cổ và dòng sông ở vùng quê
nghèo khó Thăng Bình (Quảng Nam). Lần này, không hiểu vì sao, trong bài báo “Tôi
viết Thu, hát cho người”, ông không hề nhắc đến những câu chuyện về Thu ngày ấy
? Ông tâm sự, thuở học trò, tâm hồn trong sáng như dòng suối êm đềm xuôi chảy
dưới chân đồi. Mùa thu, hoa sim tím nở như một tấu khúc dịu dàng. Hoa sim, màu
hoa tím nhạt lãng mạn, bình dị giữa thu vàng lại gợi nhớ đến như vậy ? Ông nhớ
hoa, nhớ người, ôm đàn và hát lên:
"Giòng
sông nào đưa người tình đi biền biệt
Mùa thu nào đưa người về thăm bến xưa Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ Về đồi sim, ta nhớ người vô bờ…”
Thật ra, Vũ Đức
Sao Biển đã mượn ý của thi sĩ Thôi Hiệu (đời Đường) trong bài “Hoàng hạc lâu”
với câu:
“...Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du…”
(…Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không…)
Và ngẫu nhiên, những lời trong bài hát “Thu, hát cho người”
cũng trùng với ý thơ của thi sĩ nổi tiếng người Pháp Guillaume Apollinaire
(1880-1918) trong bài thơ để đời L'Adieu (Lời vĩnh biệt):
“…J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus
sur terre
Odeur du temps brin de bruyère Et souviens-toi que je t'attends…”
Sau này, Bùi Giáng dịch thành:
(…Ta đã hái nhành lá
cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa Mộng trùng lai không có ở trên đời Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó ... )
Năm 2007, trong một lần gặp gỡ văn nghệ, khi Vũ Đức Sao Biển
nhắc lại câu hát:
“Ta vẫn chờ em dưới gốc sim già đó.
Để hái dâng người một đóa đẫm tương tư…”
nhà văn Sơn Nam đã “phê bình” Vũ Đức Sao Biển :
“Mày nói dóc ! Cây sim ngoài Quảng Nam của mày thấp tịt, vậy mày ngồi
chỗ nào để đợi con nhỏ đó ? Mà cái đồi sim thì trống huơ trống hoác, con nhỏ đó
có đến thì mày mần ăn được gì ?”
Vũ Đức Sao Biển lý giải rằng, cây sim già không nhỏ, đặc biệt là khi mọc trên đồi cát, có cây cao vài ba mét, tỏa bóng mát quanh năm. Ngày ấy, tuổi 20, lòng Vũ Đức Sao Biển vô cùng trong sáng chẳng bao giờ dám nghĩ tới hai chữ “mần ăn” như ông già Nam bộ đã nói.
Liên quan đến mối tình thơ mộng này, vào năm 1967, tại La
Qua, Vĩnh Điện, (Quảng Nam), Đynh Trầm Ca (Mạc Phụ) đã viết tặng cho Hồ
Thị Thu ca khúc "Ru con tình cũ" rất thiết tha. Năm 1970, trong
một đêm nhạc ở Sài Gòn, một người ở Nhà xuất bản âm nhạc Khai Sáng đã
chuyển bản nhạc này cho Lệ Thu, cô ca sĩ nổi tiếng này đã bật
khóc ngay trong phòng thu âm khi hát đoạn đầu tiên: "Ba năm qua em trở
thành thiếu phụ, ngồi ru con như ru tình buồn..."
Bản nhạc cũng được ca sĩ Hà Thanh hát trên đài phát thanh
Sài Gòn
Ba năm qua em trở thành thiếu phụ Ngồi ru con như ru tình buồn Xin một đời thôi tiếc thương nhau Xin một đời ngủ yên dĩ vãng Ba năm qua em trở thành thiếu phụ Ngồi ru con như ru tình sầu Kỷ niệm nào ghi dấu trên tay Cho lòng này dài những cơn đau Ôi ba năm qua rồi Đời chưa nguôi gió bão Người xa xôi phương nào Người có trách gì không? Thôi anh ơi anh đừng hờn trách nữa Đời em như rong rêu tội tình Xin gục đầu ghi dấu ăn năn Thôi đừng buồn em nữa nghe anh
Sau này, người con gái
tên Thu cũng đi vào trong bài thơ "Cây đàn thương nhớ" của Đynh Trầm
Ca với những hình ảnh rất đẹp của tuổi học trò:
“Buổi ta vác cây đàn ngang trường cũ
ai như em đứng ngó cuối hành lang
ai như ta ngồi mơ sau cửa lớp
có lẽ nào mình còn đó sao, Thu ?...".
Café Thu ngày ấy cũng không còn nữa… Hồ Thị Thu bây giờ đã
ngoài 60 và trở thành một bà chủ tiệm bán hàng trang trí nội thất ở thị trấn Hà
Lam. Mỗi lần về lại Thăng Bình, lên những đồi sim bạt ngàn ở vùng trung du
(Bình Định, Bình Trị,...), tôi lại khe khẽ hát trong hoài niệm, trong nỗi nhớ
về những tháng ngày xưa cũ...
"...Thời gian
nào trôi bềnh bồng trên phận người
Biệt ly nào không buồn phiền trên dấu môi Mùa vàng lên, biêng biếc bóng chiều rơi Nhạc hoài mong, ta hát vì xa người..."
(http://truongvankhoa.vnweblogs.com)
ĐỌC THÊM: Liên quan đến Thu, người con gái, người tình
trong hai ca khúc “Thu, hát cho người” và “Ru con tình cũ”, nhà báo người Quảng
Nam Hà Đình Nguyên có kể lại:
Đất Quảng Nam vốn sinh ra nhiều nhân tài và cả
nhiều giai thoại. Trong đó một giai thoại hy hữu là có 2 nhạc sĩ đương thời
cùng nặng tình với một nàng thiếu nữ, và mỗi người đã sáng tác một ca khúc để
riêng tặng nàng. Cả hai bài hát này đều rất quen thuộc với công chúng…
Đó là một giai thoại lý thú mà giới văn nghệ Quảng
Nam và Sài Gòn vẫn kể cho nhau nghe: Ngày xưa (thập niên 60), ở một thị trấn
nhỏ của tỉnh Quảng Nam, có một cô học trò trung học, ngày hai buổi ôm cặp đi về
trên con đường bụi mù phố lẻ. Nàng họ Hồ, tên Thu, có mái tóc dài, mặt trái
xoan, da trắng hồng và cặp mắt long lanh như sóng nước hồ thu. Sóng mắt của
nàng đã làm trái tim hai chàng nhạc sĩ tài hoa lỗi nhịp. Nhờ đó mà giới yêu
nhạc có được hai ca khúc “để đời” mà hát: bài Thu, hát cho người của Vũ Đức Sao
Biển và bài Ru con tình cũ của Đynh Trầm Ca.
Người viết là “thằng em” thân thiết của cả hai
nhạc sĩ. Mười lăm năm trước, khi tôi vào làm Báo Thanh Niên thì anh Vũ Đức Sao
Biển là “sếp” – phụ trách tờ Thanh Niên bán nguyệt san, còn khi anh Đynh Trầm
Ca giã từ ngày tháng phiêu dạt ở phương Nam để đưa vợ con về quê (năm 1998) thì
chính tôi là người đưa tin trên báo. Chuyện cả hai ông anh cùng yêu một cô gái
rồi viết nhạc, tôi cũng đã biết từ lâu nhưng nay mới có dịp… hỏi cho ra nhẽ.
Với anh Vũ Đức Sao Biển, trong những phát biểu
chính thức thì anh không hề nói anh viết Thu, hát cho người cho đích danh một
ai cả. Chỉ là một buổi sáng năm 1968, anh lang thang trên đồi sim ở Thăng Bình
quê anh, chợt nhớ về một người con gái đã xa mới bật ra những tứ nhạc: “Dòng
sông nào đưa người tình đi biền biệt. Mùa thu nào cho người về thăm chốn
xưa...”, rồi bảo: Những câu thơ Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản của Thôi Hiệu
trong bài Hoàng Hạc lâu đã ám ảnh anh, để anh làm câu tiếp theo "Hoàng hạc bay,
bay mãi bỏ trời mơ, về đồi sim, ta nhớ người vô bờ…" Gì thì gì, chính dấu phẩy
sau chữ Thu trong cái tựa Thu, hát cho người đã khiến anh bị “bắt quả tang”:
viết cho Thu chứ còn ai vào đó nữa!…
Tôi hỏi anh Đynh Trầm Ca thì anh
cười khà khà: “Chuyện cũ rích, mà nếu tau kể thì có hay ho chi mô. Tau cho mi
số điện thoại của ông anh rể của cô đó và cả của cô đó nữa. Mi hỏi đi!”. Tôi
mừng rơn, gọi cho anh Hồ Luân đang ở Quảng Nam. Anh ấy tuôn một tràng: “Thằng
Mạc Phụ (tên thật của Đynh Trầm Ca) quen con Thu là qua tui. Dạo đó tui để ý cô
chị (tên Liên), Liên bị bệnh, tui muốn đến thăm nhưng đi một mình thì hơi run,
bèn rủ thằng Phụ đi theo. Ai dè, tới nhà Liên, hắn gặp cô em, đâm ra như… mất
hồn! Còn con Thu có “tình cảm” chi với Võ Hợi (tên thật của Vũ Đức Sao Biển)
không thì tui không rõ. Nhưng mà tui thấy nhiều khi người ta hư cấu mà… hay quá
trời, đến nỗi mình là người trong cuộc mà còn ngẩn tò te nữa đó. Năm rồi, cô em
tôi kể trong cuộc nhậu có một ông lãnh đạo địa phương. Ổng hỏi: “Ở Quảng Nam có
hai nhạc sĩ nổi tiếng, quý vị biết là ai không?”. Mọi người đáp: “Vũ Đức Sao
Biển với Đynh Trầm Ca chứ ai!”. “Đúng. Vậy hai ông này có đặc điểm gì?”. Đáp:
“Cùng yêu cô Thu và cùng viết bài hát cho cô này!”. “Đúng luôn, nhưng mà xuất
xứ của từng bài hát ra sao?”. Không ai trả lời được, lúc đó vị này mới kể:
“Hai ông này là nhạc sĩ nên
chơi thân với nhau. Thân quá, cho nên khi yêu thì cũng yêu một người. Nhưng do
ông Đynh Trầm Ca nghèo, mà lại xấu trai còn ông Vũ Đức Sao Biển chẳng những đẹp
trai mà còn làm được bản nhạc Thu, hát cho người rất nổi tiếng nên cô Thu… lấy
ông này. Khi cặp vợ chồng này có một đứa con thì một hôm ông Đynh Trầm Ca đến
thăm bạn cũ, thấy ông Vũ Đức Sao Biển đang ngồi… ru con. Chuyện vãn được một
lúc thì ông Vũ Đức Sao Biển bận việc gì đó, mới nhờ bạn ru con hộ mình. Ông
Đynh Trầm Ca ngồi ru con (của) người tình cũ, thấy buồn thấm thía, nên mới cảm
tác ra bài Ru con tình cũ. He he… Hay quá phải không chú mày?”…
Tôi hỏi nhân vật chính: Thu – người đẹp của một
thời: “Chị ơi, sao người ta lại gọi chị là Thu Chuẩn?”. “À, Chuẩn là tên ba của
tôi, ở miền quê người ta thường gọi tên “kép” như thế để phân biệt con nhà này
với con nhà kia”. Hỏi “chuyện xưa”, chị cười bảo: “Dạo đó tôi với anh Đynh Trầm
Ca cũng có tình cảm nhưng chỉ là tình cảm tuổi mới lớn. Hồi quen anh ấy tôi mới
học lớp đệ lục (lớp 7 bây giờ) trường Trung học Tiểu La, nhưng rồi không duyên
nợ. Tôi lấy chồng năm 1966, chồng tôi người gốc Hà Nội. Một năm sau thì tôi
biết anh Đynh Trầm Ca có viết bài Ru con tình cũ…”. “Do đâu chị biết được?”.
“Chu choa, bài này được hát ra rả trên radio, không muốn nghe cũng phải nghe!
Còn chuyện anh Vũ Đức Sao Biển thì sau này tôi có nghe một người bạn gái kể là
anh ấy cũng có tình cảm với tôi và có viết bài Thu, hát cho người. Nếu đúng vậy
thì… cũng là chuyện có duyên không nợ…”.
Có một trùng hợp lý thú là cả Đynh Trầm Ca lẫn Vũ
Đức Sao Biển đều bỏ quê, trôi dạt vào phương Nam. Đầu thập niên 70 thế kỷ
trước, Vũ Đức Sao Biển vào Bạc Liêu dạy học suốt mấy năm rồi lên Sài Gòn làm
báo. Sau 1975, Đynh Trầm Ca cũng dắt díu vợ con trôi dạt về Sóc Trăng, An
Giang, rồi Sài Gòn… đến năm 1998 mới hồi hương. Anh hiện là ông chủ quán Thạch
Trúc Viên ở thị trấn Vĩnh Điện (Điện Bàn, Quảng Nam). Có một chuyện ly kỳ nữa
là dạo còn ở miền Tây, một lần Đynh Trầm Ca xuống bến đò thấy cha con một người
hành khất, người cha ôm cây đàn guitar cũ kỹ hát, còn đứa con gái cầm chiếc
thau nhôm móp méo đi đến từng người để xin tiền. Bản nhạc mà người hành khất
đang hát là bài… Ru con tình cũ: “Ba năm qua em trở thành thiếu phụ. Ngồi ru
con như ru tình buồn… Ôi, ba năm qua rồi, lòng chưa nguôi gió bão… Người xa xôi
phương nào, người oán trách gì không?”. Đynh Trầm Ca nghe mà thắt cả lòng.
Tháng 5.1988, Báo Thanh Niên đăng bài thơ Bất chợt trên bến đò ngang của anh:
“…Mười mấy năm rồi người con gái sang sông/Tôi viết lời ca sao buồn quá
vậy?/Những lời ca cho lòng tôi thuở ấy/Ai biết bây giờ/Bố con người hành khất
dùng để ăn xin?”. Nhạc sĩ Xuân Hồng đã phổ nhạc bài thơ này.
-Hà Đình Nguyên-
(*): Tựa đề do NPV đặt lại
Nguồn: http://www.nhuygialai.com/2012/07/nguoi-tinh-trong-thu-hat-cho-nguoi-va-ru-con-tinh-cu.html#ixzz2wlHcWI1g (blog: Phố núi và bạn bè...) Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 23/Mar/2014 lúc 12:58am |
|||||||||||
mk
|
|||||||||||
IP Logged | |||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 23/Mar/2014 lúc 1:33am | ||||||||||
Vũ Đức Sao BiểnThu hát cho ngườiLê Ngọc TrácVũ Hợi sinh ngày 12 tháng 02 năm 1948 tại Tam Kỳ , Quảng Nam. Khi bước vào con đường sáng tác văn học nghệ thuật, Vũ Hợi là người hạnh phúc khi được chính thân phụ của anh - một người am hiểu Hán học và say mê âm nhạc đặt cho anh bút danh Vũ Đức Sao Biển, với kỳ vọng người con trai thân yêu của mình như một vì sao rực sáng giữa biển trời mênh mông. Quả đúng như kỳ vọng của người cha, bút danh Vũ Đức Sao Biển đã nổi tiếng, trở nên thân thuộc với nhiều người yêu thơ văn, âm nhạc trong và ngoài nước.
Vũ Đức Sao Biển viết nhiều lĩnh vực: Sáng tác ca khúc, biên khảo, tiểu thuyết, phóng sự, bút ký và viết cả tiểu phẩm trào phúng (với bút danh Đồ Bì) Hơn 40 năm cầm bút, tính đến năm 2007, Vũ Đức Sao Biển đã xuất bản các tác phẩm:
Về nhạc có các tuyển tập ca khúc: Thu hát cho người (1998), Điệu buồn phương Nam (2002), 50 ca khúc tiêu biểu của Vũ Đức Sao Biển (2008) và 3 CD ca nhạc: Thu hát cho người (2000), Tình ca phương Nam (2002), Hoài niệm Trường Giang (2003). Về tiểu thuyết có các tác phẩm: Hoa trên cát (1989), Ảo ảnh sương khói (1991), Kiếm hoàng hoa (1995). Về tiểu phẩm trào phúng có: Bản báo cáo biết bay (1983), Vạn tuế đàn ông (1989), Vĩnh biệt thốt nốt (1996), Thỏ thẻ cùng hoa hậu (1998), Ba đời ham vui (1999). Về biên khảo có tác phẩm: Kim Dung giữa đời tôi gồm 4 tập, Nhân vật Kim Dung qua lăng kính pháp luật (2002), Những vụ án kinh điển trong tiểu thuyết Kim Dung. Về hồi ký có tác phẩm: Úi chao, 60 năm (2007). Ngoài ra Vũ Đức Sao Biển còn dịch tiểu thuyết võ hiệp Tiếu ngạo giang hồ của Kim Dung.
Qua tác phẩm, Vũ Đức Sao Biển nổi lên như một nhạc sĩ chuyên viết ca khúc trữ tình mang âm hưởng dân ca. Những ca khúc: Thu hát cho người, Đêm gành hào nghe điệu hoài lang, Bài thơ quê lụa, Điệu buồn phương Nam, Hoài niệm Trường Giang... đã làm say mê những người yêu âm nhạc. Ca khúc Thu hát cho người ra đời đến nay đã hơn 40 năm vẫn còn được nhiều người yêu thích và sống mãi với thời gian. Tác phẩm này đã được 72 giọng hát khác nhau thể hiện. Các ca sĩ Lệ Thu, Cẩm Vân, Quang Minh, Thanh Long B***... trình bày nhạc phẩm Thu hát cho người đã lay động tâm hồn biết bao người.
Riêng đối với chúng tôi, Vũ Đức Sao Biển còn là một nhà thơ. Từ thập niên 60, 70 của thế kỷ 20, đã xuất hiện thơ của Vũ Đức Sao Biển trên các tạp chí văn học xuất bản ở miền Nam. Ca khúc "Thu hát cho người" chính là một bài thơ tình. Lời thơ đẹp, giai điệu nhẹ nhàng với những hình ảnh đầy thơ mộng, nói về tình yêu đơn phương, cô đơn, hoài vọng trong nỗi niềm chia xa:
"Giòng sông nào đưa người tình đi biền biệt Mùa thu nào đưa người về thăm bến xưa Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ Về đồi sim, ta nhớ người vô bờ
Ta vẫn chờ em dưới gốc sim già đó Để hái dâng người một đóa đẫm tương tư Đêm nguyệt cầm ta gọi em trong gió Sáng linh lan hồn ta khóc bao giờ
Ta vẫn chờ em trên bao la đồi nương, Trong mênh mông chiều sương Giữa thu vàng, bên đồi sim trái chín Một mình ta ngồi khóc tuổi thơ bay
Thời gian nào trôi bềnh bồng trên phận người Biệt ly nào không buồn phiến trên dấu môi Mùa vàng lên, biêng biếc bóng chiều rơi Nhạc hoài mong, ta hát vì xa người.
..." Năm 20 tuổi, Vũ Đức Sao Biển viết "Thu hát cho người". Những hoài mong vô vọng trong cuộc tình đầu tiên đã ghi dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Để rồi, hai mươi năm sau, khi trở về "chốn xưa, niềm nhớ", Vũ Đức Sao Biển viết thêm bài thơ "Lên Mỹ Sơn" với cùng một tâm trạng của ngày xưa, "ngồi hát trên rừng thu tịch mịch. Ngồi hát giữa mùa thu Quảng Nam" tím màu hoa sim thương nhớ (Có ai bảo nhà thơ của chúng ta không si tình và chung tình?):
"Ôm cây đàn, leo lên tháp Mỹ Sơn Nhìn xuống thấy sim chạy dài theo núi Với cỏ xanh mùa thu dịu dàng Nghe lòng ta dạt dào nhớ lại
Rằng: Hôm qua, ta mới đôi mươi Hồn nhẹ như mây khói tuyệt vời Lên tháp chờ em, em không tới Mênh mang mênh mang sương chiều rơi
Ta trót yêu người sông Thu Bồn Tình như mây trắng đỉnh Trường Sơn Ba năm làm một bài thơ nhỏ Cất hoài trong túi chờ tri âm
Mà em ngày đó chẳng lên rừng Đợi mãi và thơ không đọc được Ta ngồi chẳng lẽ hát mình nghe Đập vỡ cây đàn lên vách tháp
Mới đó mà qua hai mươi năm Nhớ em như biển nhớ trăng rằm Ta bỏ ngàn thương vào túi áo Lặng lẽ về đây với Mỹ Sơn
Ngồi hát trên rừng thu tịch mịch Và hát giữa mùa thu Quảng Nam".
(Lên Mỹ Sơn - 1987)
Nhiều người đã đồng cảm với Vũ Đức Sao Biển. Và, bắt gặp chính tâm trạng của mình của một thời đã yêu và một thời thương nhớ xa xăm.
Trong nhạc và thơ của Vũ Đức Sao Biển mang đậm hơi thở cuộc sống, hình ảnh của Quảng Nam quê hương anh. Và, đất trời Bạc Liêu cùng các tỉnh miền Tây Nam bộ - nơi anh đã từng gắn bó, sống và dạy học suốt 12 năm trời. Riêng trong thơ Vũ Đức Sao Biển, chúng ta bắt gặp hình ảnh màu hoa sim tím - một loài hoa bình dị, dân dã với màu tím gợi trong lòng chúng ta nỗi niềm thương nhớ và ly biệt. Trong "Thu hát cho người" bàng bạc một màu hoa sim tím "đẫm tương tư". Với "Lên Mỹ Sơn" đậm đà màu tím giữa khung trời hoài niệm. Và, trong bài thơ "Quay về" là "cô phụ đóa sim em?".
Vũ Đức Sao Biển từng tâm sự: "Tôi đã phiêu du qua ngàn mây trắng, đã xa đồi sim, tháp cổ. Giữa phố thị phồn hoa mơ màng, tôi vẫn yêu đóa hoa sim tím nhạt, đơn sơ và hồn nhiên của núi rừng Trung bộ... Đêm đêm tôi nằm giữa phương Nam mà vẫn nghe tiếng gió hát qua đồi sim, tiếng chân đi trên bờ cát mịn, tiếng của miền thu lãng mạn trên dòng sông Thu lặng lờ trôi về phương Đông". Phải chăng chính vì thế nên cùng với thơ sáng tác bằng tiếng Việt, trong thơ làm bằng chữ Hán của Vũ Đức Sao Biển vẫn phảng phất hương sắc của màu hoa sim tím. Trong một lần lên Tây Nguyên, Vũ Đức Sao Biển viết bài thơ bằng chữ Hán với tựa đề "Quá Mang Giang":
"Thiên trượng cao sơn thiên lý quan Tây Nguyên nhân thuyết thị Mang Giang Tử hoa trùng điệp sơ thu phóng Văn điểu đồng minh phụng tích hoàng".
Vũ Đức Sao Biển đã tự dịch bài thơ chữ Hán của mình ra tiếng Việt như sau:
"QUA ĐÈO MANG GIANG
Ngàn trượng non cao, ngắm dặm ngàn Người Tây Nguyên gọi ấy Mang Giang Hoa sim lớp lớp đầu thu nở Nghe tiếng chim ca, phụng tiếc hoàng".
Thơ Vũ Đức Sao Biển viết về tình yêu đều mang một nỗi buồn chia xa, ly biệt. Thơ anh là tiếng lòng bật lên từ nỗi nhớ thương. Giữa trời thu nhuộm màu hoa sim tím, Vũ Đức Sao Biển hát cho mình và hát cho người. Và, đã nhận được sự đồng cảm, yêu mến của những người yêu thơ./.
Tài liệu tham khảo & trích dẫn: - Úi chao, 60 năm (Hồi ký của Vũ Đức Sao Biển) - Vũ Đức Sao Biển (Trần Hiếu) - Vũ Đức Sao Biển (Bách khoa toàn thư mở WIKIPEDIA) |
|||||||||||
mk
|
|||||||||||
IP Logged | |||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 05/Apr/2014 lúc 8:35pm | ||||||||||
CÒN MÔT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚNguyễn Mạnh Trinh
Thơ Vũ Hữu Định Có lẽ không có một thành phố nào như Pleiku được nhắc nhở nhiều đến như vậy trong văn học Việt Nam. Những thi văn sĩ, đã sống và thở ở không gian đó, đã trải qua những ngày tháng tao loạn chiến tranh, nên tác phẩm của họ đã biểu hiện sinh động được tâm cảm của những người lính thú hay những nàng chinh phụ của một thời đại chiến tranh. Với
tôi, phố núi Pleiku gợi lại cho tôi rất nhiều vần thơ. Có thể là của
riêng tôi mà cũng là của rất nhiều thi sĩ đã gần gũi với thành phố ấy.
Thêm vào nữa, Pleiku còn là cả một kho tàng kỷ niệm của riêng tôi.. Ngay ngày đầu tiên đến Pleiku, tôi đã cảm thấy như mình là một dòng sông đang đến một khúc quành. Năm tôi lên nơi chốn ấy, tôi vừa đến cái tuổi đôi mươi. Hai mươi tuổi, tâm hồn lúc ấy trắng bong, tràn đầy mơ với mộng. Chưa có kinh nghiệm trường đời nên thường phản ứng trước những điều mà mình thấy không vừa lòng. Tuổi trẻ lại hay thích thoải mái không ưa sự gò bó nên dù ở Nha Trang phong cảnh sơn thủy cũng hữu tình lắm nên khoái chuyện giang hồ lang thang. Ở đâu cũng xa nhà nên tôi tình nguyện đi biệt đội Pleiku mút mùa lệ thủy và khi lập không đoàn thì cũng là một trong những sĩ quan thuộc hàng khai sơn phá thạch của đơn vị kỹ thuật ở đây… Thời gian ở thành phố biên trấn này chỉ hơn hai năm mà sao tràn đầy kỷ niệm. Có những lúc, cơm xấy đồ hộp ngày này qua tháng khác mà vẫn vui. Lãnh lương xong, chỉ một vài ngày là sạch nhẵn, thế mà tối nào cũng lang thang ở phố đến nửa đêm mới mò về phi trường. Ở đây, biết bao nhiêu đứa bạn, buổi sáng còn đùa giỡn chọc ghẹo nhau mà vài tiếng đống hồ sau thân xác đã thành sương khói cho những phi vụ không về. Ở đây có sáng mù sương, thấy đời mỏi mệt như chiếc xe dodge của biệt đội ì ạch leo lên đầu dốc. Dù rằng lúc ấy tôi chỉ vừa hai mươi tuổi… Cảm giác đầu tiên của tôi khi đến Pleiku thật là lạ lùng. Ngày đầu tiên khi tôi từ Nha Trang xuống phi trường Cù Hanh là một ngày mưa u ám. Phi cơ trực thăng khi bay qua Khánh Dương bị bắn và tôi hiểu chiến tranh đã đón chào tên lính trẻ làm thân lính thú đồn xa như thế. Mưa sủi bọt trên mặt nhựa phi đạo và bầu trời nặng nề u ám mầu mây đen. Gió ào ạt lồng lộng ngoài kia khiến cho tôi thấy mình quá nhỏ nhoi trong cái buồn mênh mang của đất trời. Lúc ấy, tôi thấy những câu thơ vẩn vơ trong óc. của Kim Tuấn, Vũ Hữu Định, Nguyễn Bắc Sơn,… Thơ tự nhiên thành một phần của một ngày, một tháng, một năm,… của riêng tôi. Thơ để quên đi hiện tại. Những giọt mưa quất vào mặt, buốt rát. Những ngọn gió thốc vào ngực.Nặng tê… Tự nhiên tôi thấy mình thật gần gũi thân thiết với những vần thơ biết là bao nhiêu. Có lúc, tôi nghĩ thi ca là một phần đời sống mình… Thi sĩ làm thơ cho Pleiku thì rất đông đảo. Và thơ hay cũng nhiều lắm, mỗi bài có ý vị riêng, có phong thái riêng. Tôi bắt đầu với nhà thơ Vũ Hữu Đinh... Nếu nói bài thơ “Còn Một Chút Gì Để Nhớ” của thi sĩ họ Vũ đã làm cho Pleiku trở thành một nơi chốn cực kỳ lãng mạn và thơ mộng của thi ca Việt Nam thì cũng chắng phải là ngoa ngôn, những câu thơ dễ thương của một vài con phố nhỏ heo hút của vùng cao nguyên, với hình tượng của “Em”, của thời tiết lạnh lạnh để má em thắm để môi em hồng. Có ai hỏi là những nhân dáng này có thật không trong đời sống của người làm thơ không thì nhà thơ họ Vũ đã trả lời rằng đó chỉ là hình tượng tổng hợp từ nhiều hình ảnh trong thực tế để tổng hợp thành một hình tượng tuyệt diệu của tưởng tượng, của hư cấu. Và trong cái không gian của một phố núi nhỏ nhoi, con người thi sĩ và cảnh vật cũng như thiên nhiên ở đây hình như thở chung một nhịp đập của trái tim tràn cảm xúc. Con phố hoang sơ lạnh lùng nhưng dường như có một tâm hồn mà người thơ cảm thông được, hiểu được từ nỗi cô đơn mà trời riêng dành cho người là thơ. Bài thơ ấy gồm chỉ mười hai câu thơ thôi mà chuyên chở rất nhiều tình, ý. Thơ có thiên nhiên hòa hợp với con người. Thơ làm đời sống có nhiều chất thơ hơn để quên đi những ám ảnh của chiến tranh: “Phố núi cao phố núi đầy sương phố núi cây xanh trời thấp thật gần anh khách lạ đi lên đi xuống may mà có em đời còn dễ thương phố núi cao phố núi trời gần phố xá không xa nên phố tình thân đi dăm phút đã về chốn cũ một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng em Pleiku má đỏ môi hồng ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông nên mắt em ướt và tóc em ướt da em mềm như mây chiều trong xin cảm ơn thành phố có em xin cảm ơn một mái tóc mềm mai xa lắc trên đồn biên giới còn một chút gì để nhớ để quên.” Hình như về sau này, khi Cộng sản chiếm miền Nam, thì trong các tuyển tập thơ có trích đăng bài này. Bài thơ này hình như vượt qua được giới tuyến của chiến tranh để trở thành một tài sãn văn hóa của dân tộc... Bài thơ này được trích đăng hoặc in trong nhiều tuyển tập thơ xuất bản ở trong nước, nhưng không phải là nguyên văn bài thơ. Thí dụ như hai câu thơ cuối thì nguyên bản là “mai xa lắc trên đồn biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“ Thì sửa lại là “mai xa lắc trên đồi biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“. Chỉ sửa có một chữ mà ý tưởng đã khác nhau nhiều! Tôi không rõ Vũ Hữu Định viết bài thơ này trong thời gian nào nhưng theo nhà thơ Luân Hoán một người bạn thân cùng quê với anh đã tả chân dung nhà thơ ấy như sau: ”với chiều cao khoảng một thước sáu nhưng có bề ngang, cộng với dáng đi chữ bát, cộng thêm lối an vận lè phè nhà thơ Vũ Hữu Định trông gần như hơi thấp. Anh không có khuôn mặt đẹp trai nhưng nhìn rất bắt mắt. Nụ cười xuề xòa luôn luôn đi trước giọng nói dí dỏm bộc trực đã thắp sáng khuôn mặt ngả màu nâu sậm của anh thơ miền Trung ra đời vào thập niên 40 này. Năm 1970 năm tôi không may mắn phải giã từ rừng núi và phố chợ Quảng Ngãi để trở về Đà Nẵng tôi đã gặp và quen thân với Vũ Hữu Định. Lúc đó hình như anh đang mặc áo cán bộ xây dựng nông thôn. Địa bàn công tác của anh lòng vòng ven rìa thành phố Đà Nẵng như Thanh Khê, Hà Khê, An Hải, Sôn Trà,.. Anh chợt đi, chợt về. Đặc biệt anh lúc nào cũng có vẻ thong dong giàu có thời giờ phất phơ phố xá. Anh làm thơ nhiều trong giai đoạn này. Thơ của anh hầu hết được đăng trên các tạp chí văn chương tại thủ đô Sài Gòn. Vũ Hữu Định có đời sống vật chất không mấy khả quan, quen biết nhau khá lâu nhưng anh từ chối không thuận cho tôi đến nhà chơi. Cũng không hề đề cập đến gia đình của anh. Biết anh có vợ có con nhưng mãi về sau này tôi mới tình cờ được gặp trong một hoàn cảnh thật buồn! Ông mất năm 1981 ở Đà Nẵng và có nhiều dư luận về cái chết của ông. Như ông đến nhà một người bạn văn chơi ở An Hải và vì nhậu qúa say trong lúc tìm chỗ đi tiểu thì bị té từ căn gác lửng xuống và chết. Một dư luận khác thì nói rằng trong cuộc nhậu ấy, ông bị một vài người cố tình từ trên gác xô xuống và bị ngã chết. Những người bạn ông thì nửa tin nửa ngờ và cũng hiểu rằng ỏ thời thế ấy thì chết vì bị cố tình mưu hại hay vì say mà té ngã cũng đều như thế, chính quyền không quan tâm và chỉ đau xót cho gia đình, bạn bè và những người yêu thơ ông … |
|||||||||||
mk
|
|||||||||||
IP Logged | |||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 19/Jun/2014 lúc 9:31pm | ||||||||||
Cập nhật: 17/06/2014 07:40
Nguyễn-Xuân Hoàng trên con dốc tử sinhThực ra không ai có thể chọn lựa một căn bệnh để được chết
theo ý mình, ngoại trừ thứ tự do chọn lựa rất bạo động là tự sát cũng
thường thấy ở các nhà văn như: Ernest Hemingway Ngư Ông và Biển Cả bằng
súng (1961), Yukio Mishima Đền Vàng bằng gươm (1970), Yasunari Kawabata
Ngàn Cánh Hạc bằng hơi ngạt (1972), Nhất Linh Đoạn Tuyệt bằng thạch tín,
Tam Ích Nghệ Thuật và Nhân Sinh treo cổ (1972)… Hoàng thì đã và đang
sống một cuộc sống tràn đầy,... Gửi Nguyễn Xuân Hoàng cùng với Chị Trương Gia Vy và Các Cháu Nếu bảo qua tuổi 70 xưa nay là hiếm, thì Nguyễn-Xuân Hoàng cũng đã bước qua tuổi 74, đó là ý niệm tuổi tác của thế kỷ trước. Sang đến thế kỷ 21, với tiến bộ của y khoa, qua tuổi 80 nay cũng không còn là hiếm. Quen được Nguyễn-Xuân Hoàng trong hoàn cảnh nào thì tôi không nhớ, nhưng đó là một tình bạn khá lâu năm.
Khoảng giữa thập niên 1960-1970 Nguyễn-Xuân Hoàng đã cùng với Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Đình Toàn, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật và Nguyễn Quốc Trụ chủ trương nhà xuất bản Đêm Trắng. Họ đều ở lứa tuổi trên dưới 30, với sức sáng tác đang sung mãn với phong cách riêng mỗi người, được coi như là nhóm “Tiểu Thuyết Mới”, với quán La Pagode như một điểm hẹn sinh hoạt. Và tên tuổi mỗi người trong nhóm, sau này đều trở thành nhân dáng những nhân vật tiểu thuyết của Nguyễn-Xuân Hoàng. Giữa những năm giông bão của cuộc chiến tranh lúc đó, thỉnh thoảng
tôi được đọc và cả quen biết họ trong những giai đoạn và các hoàn cảnh
khác nhau, do rất khác về môi trường sinh hoạt và tôi thì cũng ít có
thời gian ở Sài Gòn. Ra tới hải ngoại, hai người trong nhóm Đêm Trắng mà
tôi còn giữ được mối liên lạc là Nguyễn-Xuân Hoàng và Nguyễn Đình Toàn.
Mấy dòng viết vội và muộn màng này chỉ là những hồi tưởng đứt đoạn
để gửi tới một người bạn là Nguyễn-Xuân Hoàng. Xong bậc trung học 1959,
khởi đầu Hoàng có ý định học Y khoa, là sinh viên PCB Đại học Khoa học
Sài Gòn một năm, thấy ngành học không thích hợp, Hoàng chuyển sang học
ban Triết, Đại học Đà Lạt, sau Hoàng Ngọc Biên một năm. Tốt nghiệp 1962,
là giáo sư Triết trung học Ngô Quyền ở Biên Hoà một niên khóa và sau đó
được chuyển về trường Petrus Ký Sài Gòn cho tới 1975. Nhưng Nguyễn-Xuân
Hoàng lại được biết tới nhiều hơn như một nhà văn một nhà báo tên tuổi
từ những năm 1970. Hoàng là tổng thư ký tạp chí Văn Sài Gòn từ 1972,
tiếp nối Trần Phong Giao, cùng với những tác phẩm đã xuất bản gồm tuyển
tập truyện ngắn: Mù Sương, Sinh Nhật; tuỳ bút: Bất Cứ Lúc Nào Bất Cứ Ở Đâu; tạp ghi: Ý Nghĩ Trên Cỏ; và hai truyện dài: Khu Rừng Hực Lửa, Kẻ Tà Đạo…
Sau 1975, bị kẹt lại và như mọi người, Hoàng cũng trải qua những
năm tháng thăng trầm theo vận nước, nhưng rồi cuối cùng 10 năm sau,
Hoàng và gia đình cũng tới được đất nước Mỹ 1985. Không còn là nhà giáo,
Hoàng sinh hoạt toàn thời gian trong lãnh vực báo chí và văn học: tổng
thư ký hai tờ nhật báo Người Việt California (1986-1997) và tạp chí Thế
Kỷ 21 (1989-1994), trong ban chủ biên tạp chí Văn Học cùng với nhà văn
Nguyễn Mộng Giác, sau đó kiêm thêm chủ bút tạp chí Văn chuyển tay từ nhà
văn Mai Thảo 1996. Tưởng cũng nên nói thêm tờ báo Văn này đã khiến vợ
chồng Nguyễn-Xuân Hoàng mang món nợ không nhỏ với cơ sở in báo Văn, mà
mãi lâu mới trang trải hết. Tác phẩm Nguyễn- Xuân Hoàng do ông Từ Mẫn Võ
Thắng Tiết, giám đốc nhà Văn Nghệ xuất bản ở hải ngoại gồm các tập
truyện và tuỳ bút: Căn Nhà Ngói Đỏ, và hai truyện dài trong bộ trường thiên ba tập [trilogy]: Người Đi Trên Mây, Bụi và Rác…
Năm 1996, di chuyển theo công việc mới, San Jose thung lũng hoa
vàng là chặng định cư cuối cùng của hai vợ chồng Hoàng. Nguyễn-Xuân
Hoàng vẫn sinh hoạt báo chí toàn thời gian, ban đầu với chức vụ tổng thư
ký tuần báo Việt Mercury thuộc San Jose Mercury News và sau đó là chủ
bút tờ tuần báo Việt Tribune như một “family show”
của hai vợ chồng Nguyễn-Xuân Hoàng – Trương Gia Vy cho tới nay. Quen
biết thân thiết với vợ chồng Peter Zinoman Nguyệt Cầm, dịch giả Số Đỏ / Dumb Luck của Vũ Trọng Phụng; Hoàng được mời làm lecturer thỉnh giảng cho môn Văn học Việt Nam đương đại tại UC Berkeley.
Nguyễn-Xuân Hoàng và Ngô Thế Vinh tại tòa soạn Việt Tribune 2008. photo by Trương Gia Vy
Nguyễn-Xuân Hoàng rất quảng giao, mặc dù anh luôn than là ít bạn.
Cũng vì vậy mà các bạn thân đặt tên cho anh là Nguyễn Đông Hoàng. Và khi
biết bạn mình ngã bệnh, đã có rất nhiều học trò cũ và bằng hữu đến thăm
và cả viết về Nguyễn-Xuân Hoàng, một số bài đã được Phùng Nguyễn cho
phổ biến trên Da Màu trong nhiều tuần lễ, số trang viết ấy đủ cho chiều
dày của một cuốn sách.
Từ ngày Trịnh Y Thư báo tin cho biết căn bệnh của Nguyễn-Xuân
Hoàng, vậy mà cũng đã gần 12 tháng. Các tin tức về sức khoẻ và bệnh tình
của Hoàng tôi được biết hoặc trực tiếp từ Nguyễn-Xuân Hoàng hoặc qua
hai người bạn Phùng Nguyễn và Trịnh Y Thư.
Trước đó, cũng khoảng 3 năm, Nguyễn-Xuân Hoàng thường kêu đau lưng,
đối với người bệnh ở lứa tuổi ngoài 70 như Hoàng thì một chẩn đoán
thông thường của bác sĩ gia đình là đau lưng do “thoái hoá cột sống”.
Tới một giai đoạn đau nhiều hơn, bác sĩ cho chụp lại hình quang tuyến
cột sống, cũng vẫn với chẩn đoán như trên. Nhưng vì lần này bác sĩ quang
tuyến thấy có những đốm trắng như miểng kim loại quanh cột sống nên đã
hỏi là Hoàng có bị thương do miểng đạn ngoài chiến trận khi còn ở Việt
Nam hay không, Hoàng xác nhận là không.
Tới một giai đoạn mà các thuốc chống viêm giảm đau kể cả opiates
cũng không còn mấy hiệu quả thì Hoàng được gửi vào một bệnh viện, để qua
một loạt các thử nghiệm và cuối cùng với chẩn đoán là Hoàng bị một căn
bệnh khá hiếm: sarcoma ở sống lưng; sarcoma là loại bướu ung thư mô liên kết/ connective tissue như xương, sụn, mô mỡ, bắp thịt, mạch máu…
Có lẽ đây là một chẩn đoán “không sớm” nếu không muốn nói là khá
trễ, và cũng từ đây Hoàng được chuyển sang một bệnh viện chuyên khoa
thuộc Đại học Stanford. Không được tiếp cận với hồ sơ bệnh lý của Hoàng,
nhưng được biết Hoàng cũng đã trải qua các giai đoạn trị liệu như hoá
trị / chemotherapy, xạ trị/ radiation therapy
và nhưng hình như Hoàng không còn ở giai đoạn sớm để được điều trị phẫu
thuật/ surgery. Nguyễn-Xuân Hoàng rất can đảm đi hết “đoạn đường chiến
binh” đã đi tới bước cuối cùng của các phương thức điều trị, dĩ nhiên
với không ít những chịu đựng do các tác dụng phụ/ side-effects.
Trong suốt thời gian ngã bệnh, và cả mới đây thôi, trong giai đoạn 6
tuần được chuyển sang khu phục hồi của bệnh viện, Nguyễn-Xuân Hoàng vẫn
không ngừng làm việc với laptop và cell phone. Hoàng không chỉ lo cho
tờ báo Việt Tribune vẫn ra hàng tuần, báo chí đã như một cái nghiệp và
cũng là nguồn sinh kế của gia đình. Cũng trong giai đoạn này,
Nguyễn-Xuân Hoàng còn phối hợp với Đinh Quang Anh Thái báo Người Việt
trong việc hiệu đính và layout hai cuốn sách: Người Đi Trên Mây [đã đăng hết từng kỳ trên nhật báo Người Việt], Bụi và Rác
[đang đăng tới kỳ thứ 100 cũng trên Người Việt]. Cũng từ trong bệnh
viện, chính Hoàng là người quyết định chọn bài viết của Nguyên Sa và
Phạm Công Thiện cho phần trích dẫn bìa lưng của hai cuốn sách.
Mẫu bìa 2 cuốn sách xuất bản sau cùng của Nguyễn-Xuân Hoàng
Khi tìm hình tác giả NXH cho bìa lưng, Hoàng đã chọn tấm hình đang
cầm điếu thuốc hút, có lẽ nơi một góc phố nào đó trên “con đường báo
chí” Phạm Ngũ Lão khoảng năm 1980, và cũng do “méo mó nghề nghiệp” tôi
bảo đùa là đó là một chọn lựa không đúng / potitically incorrect,
tạo gương xấu cho đám trẻ sẽ bắt chước hút thuốc để được trở thành nhà
văn nổi tiếng như Nguyễn-Xuân Hoàng. Hoàng thì không xem đó là câu nói
đùa nên đã trả lời rất nghiêm túc rằng đó là bức hình thời còn trẻ mà
Hoàng rất thích, và thời tuổi trẻ ấy ai mà không hút thuốc, và nó cũng
rất phù hợp với bối cảnh của cuốn sách. Mặc dầu được Hoàng eMail “mình giao phó hết cho NT Vinh quyết định thay NX Hoàng”
nhưng thực ra mọi sự đều làm theo ý Nguyễn-Xuân Hoàng. Tôi nhắc nhở
Đinh Quang Anh Thái là Nguyễn-Xuân Hoàng còn nguyên sự minh mẫn nên mọi
chuyện liên quan tới hai cuốn sách nên hỏi thẳng anh Hoàng. Không làm
thay những gì người bệnh vẫn còn làm được, đây là cũng là nguyên tắc tôi
học được trong ngành y khoa phục hồi; và phương cách cách điều trị
occupational therapy hay nhất là làm cho Hoàng luôn luôn bận rộn. Và cả
trên giường bệnh Nguyễn-Xuân Hoàng cũng đã vui với sự bận rộn ấy. Hoàng
còn cho biết là sau khi đăng hết Bụi và Rác, Hoàng sẽ viết tiếp bộ
trường thiên Trilogy, Tome III sẽ có một tên sách rất ngắn gọn một chữ
là “Lửa” cảm xúc từ những cơn bão lửa cháy rừng của bang California và
rồi cũng sẽ cho đăng tiếp từng kỳ trên nhật báo Người Việt.
Nguyễn-Xuân Hoàng ở một góc phố Sài Gòn?
Riêng tôi và các bạn của Hoàng không dấu được niềm vui khi biết bạn
mình, giữa những cơn đau hành hạ của bạo bệnh mà vẫn cứ nuôi dưỡng
những dự định cùng hướng về tương lai.
Trong suốt gần một năm trời, Nguyễn-Xuân Hoàng ra vào bệnh viện
Stanford gần như thường xuyên, khi dài ngày khi ngắn hạn. Niềm đau ung
thư là nỗi thống khổ ròng rã nhất của người bệnh Nguyễn-Xuân Hoàng.
* Sáng ngày 1 tháng 6, 2014 Nguyễn-Xuân Hoàng từ nhà phone cho tôi,
nói một vài câu rất ngắn và rất yếu: “Vinh ơi, mình đau quá và chỉ muốn
chết”. Lúc đó, bỗng thoáng hiện trong đầu óc tôi một thuật ngữ y khoa euthanasia / painless death
với Jack Kevorkian, phương pháp giúp người bệnh nan y quá đau đớn được
chết yên thấm. Kervorkian được báo chính mệnh danh là Doctor Death thì
đã bị kết án tội sát nhân bậc hai / second degree murder, phải ngồi tù 8 năm trước khi được tại ngoại. Physician-***isted suicide
cho đến nay vẫn bị coi là phạm pháp. Chọn lựa một cách chết ra sao là
do quan niệm và niềm tin của mỗi người. Và rồi tôi cũng chỉ có thể
khuyên Hoàng là nên vào lại Stanford để được chăm sóc điều trị giảm đau.
Cùng ngày, chiều hôm đó chị Trương Gia Vy đưa Hoàng vào bệnh viện. Khi
phone thăm, Hoàng cho biết đã phần nào bớt đau nhưng lúc nào cũng chỉ
muốn được về nhà.
Rồi cũng buổi tối hôm đó, qua internet tôi gửi cho Nguyễn-Xuân
Hoàng bài điểm sách mới của anh Dohamide về cuốn Cửu Long Cạn Dòng Biển
Đông Dậy Sóng, từ nhiều năm tôi thì vẫn gửi bài viết cho Việt Tribune
của Nguyễn-Xuân Hoàng, và không ngờ rất mau chóng, Hoàng eMail ngay cho
tôi:
“Cám ơn Ngô Thế Vinh, mình xin phép Vinh cho đăng trên
VOA và Việt Tribune. Việt Tribune thì không có vấn đề gì nhưng bên VOA
thì bài chưa đăng ở đâu hay chưa post ở đâu mới được. Vinh cho mình biết
trước khi mình gửi cho VOA nhé.” Nxh Sent from my iPhone. Tôi trả lời ngay là bài non-exclusive, đã được Phùng Nguyễn mới post trên Da màu và anh Nguyên Giác Phan Tấn Hải đăng trên Việt Báo. Hoàng hồi âm: “Tiếc quá! Vậy thì mình chỉ có thể đi bài trên Việt Tribune thôi.” (Nxh Sent from my iPhone)
Để rồi tôi cũng được biết thêm một điều là trong bấy lâu, không
phải chỉ có tờ tuần báo Việt Tribune đều đặn ra hàng tuần, Nguyễn-Xuân
Hoàng vẫn còn duy trì cả sinh hoạt Blog’s NXH trên VOA.
* Sáng ngày 7 tháng 6, 2014 Hoàng phone cho tôi và Phùng Nguyễn báo
tin: toán bác sĩ điều trị Stanford đã gặp chị Vy và các con Hoàng, báo
tin cho biết họ đã “give up” không có thể làm thêm gì được nữa và sẽ cho Hoàng xuất viện về nhà. Hoàng nói: “Mình biết sẽ phải như vậy, nhưng Vy thì khóc quá”.
Không khóc sao được khi biết người bạn đời của mình đang gian nan trên
dốc tử sinh và cạn dần sự sống từng ngày. Và bạn bè ai cũng biết là sức
khoẻ của chị Vy bấy lâu cũng không khá gì, bị suy thận mãn tính ESRD / End Stage Renal Disease từ nhiều năm, chị vẫn phải tự làm công việc lọc máu qua màng ruột / peritoneal dialysis tại nhà mỗi đêm thay vì tuần ba lần tới lọc máu tại các trung tâm thận nhân tạo / hemodialysis.
* Phan Nhật Nam thì nghĩ rằng tôi chưa được biết tin, nên buổi tối
đã khá khuya, Nam phone báo tin cho biết tình trạng ở giai đoạn cuối của
Nguyễn-Xuân Hoàng, khi toán bác sĩ ở Stanford quyết định cho xuất viện.
Tôi hiểu rằng thay vì chuyển tới khu hospice chăm sóc người bệnh cận
tử, Hoàng đã chọn về nhà, sống với gia đình bao giờ cũng dễ chịu hơn.
*Sáng ngày 10 tháng 6, 2014 tôi gọi thăm Hoàng qua cell phone, và
được biết Hoàng đang trên xe với chị Vy đi vào Stanford. Tôi khựng lại
và hỏi Hoàng là họ lại có quyết định điều trị tiếp hay sao, thì Hoàng
nói không, chỉ vào bệnh viện cho mấy buổi “xạ trị giảm đau / palliative radiation”. Tôi hiểu rằng đây chỉ là bước “điều trị xoa dịu / palliative treatment”
cho người bệnh nan y. Cho dù không thể chữa khỏi nhưng “điều trị xoa
dịu” với ứng dụng kỹ thuật cao / high tech, có khả năng giúp người bệnh
sống những ngày tháng ngắn ngủi còn lại với phẩm giá, làm sao cho bớt
đau đớn và cả phần nào thanh thản cho tới phút lâm chung.
* Sáng ngày 12 tháng 6, 2014 phone thăm bạn, Hoàng cho biết sau 5
vòng xạ trị, đã bớt đau và buổi tối thì ngủ được. Như từ bao giờ, tôi
vẫn tránh tối đa những câu hỏi về bệnh tình của Hoàng – điều sẽ làm cho
người bệnh rất mệt, hai người bạn chỉ lãng đãng nói chuyện văn chương,
nói về Nxb Đêm Trắng và nhóm Tiểu Thuyết Mới. Nouveau Roman là một
khuynh hướng văn học có khởi đầu từ Pháp vào giữa thập niên 1950’s với
các tên tuổi như Alain Roble-Grillet, Nathalie Sarraute, Michel Butor,
Claude Simon. Theo Nguyễn-Xuân Hoàng, thì ý kiến khởi đầu lập Nxb Đêm
Trắng là từ Huỳnh Phan Anh, để chỉ xuất bản các sáng tác của nhóm. Nhóm 6
người ấy đa số xuất thân nhà giáo, trừ Nguyễn Đình Toàn và Nguyễn Quốc
Trụ.
Từ 1954, trong vòng 20 năm của Miền Nam, các phong trào văn học
được tự do nở rộ. Tự Lực Văn Đoàn tiếp nối với Văn Hoá Ngày Nay của Nhất
Linh, Nhóm Sáng Tạo của Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền phủ nhận nền văn học
tiền chiến với nỗ lực làm mới văn chương, rồi tới nhóm tự nhận là Tiểu
Thuyết Mới nhưng theo Nguyễn-Xuân Hoàng thì Hoàng Ngọc Biên tuy không
trong nhóm Đêm Trắng nhưng chính Biên mới thực sự là người khởi đầu
nghiên cứu về phong trào Nouveau Roman của Pháp, dịch một số tác phẩm
của Alain Roble-Grillet và cũng thể hiện quan niệm tiểu thuyết mới ấy
qua tập truyện Đêm Ngủ ở Tỉnh do Cảo Thơm xuất
bản, Saigon, 1970. Cũng theo Hoàng Ngọc Biên, thì ngoài danh xưng,
những năm trước 1975 thực sự đã không có một phong trào Tiểu Thuyết Mới
tại Sài Gòn.
Hoàng Ngọc Biên & Ngô Thế Vinh
* Kỹ thuật y khoa ngày nay thì có thể đã tiến xa, nhưng quan niệm
thì không mới; vì từ xa xưa người sinh viên khi mới vào học trường y đã
được dậy dỗ đức khiêm cung trong y thuật: "chữa khỏi đôi khi; xoa dịu
thường xuyên; và luôn luôn an ủi / La médecine c’est guérir parfois,
soulager souvent, consoler toujours." Ambroise Paré, bác sĩ phẫu thuật
Pháp thế kỷ 16 đã là người đầu tiên nhắc tới câu nói ấy nhưng nguồn gốc
thì có lẽ đã có từ một nền y khoa cổ đại xa xưa hơn rất nhiều. Bản thân
người viết, cũng hơn 45 năm đã và đang hành nghề y khoa với những hoàn
cảnh khác nhau trong cũng như ngoài nước, thì với cái chết của mỗi người
bệnh, cho dù đã biết trước, thì cảm giác vẫn hụt hẫng như một phần mất
mát của cuộc sống.
Sự mất mát ấy càng thấm thía hơn khi đó là chính là mấy người bạn
thân của mình. Phải chứng kiến một Nghiêu Đề, người bạn tấm cám với
những cơn đau ung thư tuỵ tạng vật vã đến xanh xao; một Cao Xuân Huy
Tháng Ba Gẫy Súng can trường ngần ấy cũng đã oằn người vì những cơn đau
di căn từ ung thư mắt hành hạ. Nay tới một Nguyễn-Xuân Hoàng cũng đang
khắc khoải với những trận đau bướng bỉnh và rất quái quỷ như vậy. Cũng
để thấy cái bể khổ của sinh lão bệnh tử và nhận ra rằng khả năng y khoa
hiện nay còn giới hạn tới dường nào. Bể khổ thì mênh mông, nhìn lại
chẳng thấy đâu là bờ. Cảm xúc đọc lại mấy câu thơ của Vô Ngã Phạm Khắc
Hàm, không phải Nguyễn-Xuân Hoàng mà chính tôi cũng tìm được nguồn an
ủi.
Ta tụng ngàn năm Quán Thế Âm,
Chúng sinh ta khóc nỗi mê lầm
Ngàn năm quỳnh nở trong đêm vắng
Rung động ba ngàn cõi viễn thâm.
… Người thích câu rùa đọc Lạc thư
Vớt con cá nhỏ thấy chân như
Ta nâng trang sách nghìn thu đọng
Trời đất rưng rưng giữa mịt mù
… Từ đấy ngàn năm vách lắng tai
Lời kinh vi diệu thấm linh đài
Tình thương từng giọt rơi trên đá…
Buổi trưa hôm ấy, trong giờ lunch break bên ngoài bệnh viện, tôi và
ba bác sĩ khác: một gốc Do Thái, một Trung Đông, một Ấn Độ ăn trường
chay, bốn người ngồi chung bàn với nhau, nhân sau cái chết mới mẻ của
một đồng nghiệp bị ung thư với những ngày cuối cùng thống khổ ra sao, họ
bàn là liệu nếu có thể lựa chọn cho mình một cách chết. Ba khả năng
thông thường nhất đưa tới cái chết ở thời đại hiện nay: cơn truỵ tim
chết ngay, cơn tai biến mạch máu não có thể đưa tới tàn phế, và căn bệnh
ung thư ác tính… và mọi người đã có cùng một chọn lựa cho một cái chết
nhanh nhất là bệnh tim. Và rồi cũng trong ngẫu hứng, trưa hôm đó họ đã
order các món ăn không thiếu chất mỡ động vật và dĩ nhiên là không theo
tiêu chuẩn của dinh dưỡng của Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ. Thực ra không ai có thể chọn lựa một căn bệnh để được chết theo ý
mình, ngoại trừ thứ tự do chọn lựa rất bạo động là tự sát cũng thường
thấy ở các nhà văn như: Ernest Hemingway Ngư Ông và Biển Cả bằng súng (1961), Yukio Mishima Đền Vàng bằng gươm (1970), Yasunari Kawabata Ngàn Cánh Hạc bằng hơi ngạt (1972), Nhất Linh Đoạn Tuyệt bằng thạch tín, Tam Ích Nghệ Thuật và Nhân Sinh treo cổ (1972)…
Hoàng thì đã và đang sống một cuộc sống tràn đầy, nên tôi cũng hiểu
rằng bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu, bạn tôi cũng đã sẵn sàng chuẩn bị cho
dặm cuối của một chặng đường cheo leo trên con dốc tử sinh. Mark Twain
thì bao giờ cũng với một cái nhìn rất nhẹ nhàng về cái chết: “A man who lives fully is prepared to die at any time.”
Và rồi ra, đến một lúc nào đó, ở một nơi nào đó chắc Nguyễn-Xuân Hoàng
cũng sẽ ngoảnh lại rồi mỉm cười mà nhắn với bằng hữu rằng: “Tường thuật về cái chết của tôi có phần quá đáng/ The report of my death was an exaggeration" ( Mark Twain).
Vẫn cứ chúc Bạn Ta những ngày tháng còn lại an lành.
NGÔ THẾ VINH
Long Beach 15/06/2014
http://www.baocalitoday.com/vn/tin-tuc/van-nghe/nguyen-xuan-hoang-tren-con-doc-tu-sinh.html Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 19/Jun/2014 lúc 9:37pm |
|||||||||||
mk
|
|||||||||||
IP Logged | |||||||||||
<< phần trước Trang of 4 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |