Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Tâm Tình | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình |
Chủ đề: Vườn TÂM LINH | |
<< phần trước Trang of 9 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | ||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 21/Sep/2013 lúc 7:20pm | ||||||||||||||||||||
Ngày 21.09.2013, 16:09 (GMT+7)
Doanh nhân Tạ Thị Ngọc Thảo Tịnh tâm không tự cảnh, không tự người mà tự mình SGTT.VN - Một doanh nhân nổi tiếng trong lĩnh vực địa ốc, nổi tiếng vì sở hữu nhiều ngôi nhà đẹp, từng có những bài viết rất sắc sảo về kinh doanh, thời gian gần đây, chị lại “từ bỏ cuộc chơi” để tìm đến Phật pháp, và chọn Huế là nơi chốn dừng chân của mình. Trong một thời gian ngắn từ 2010 đến nay chị đã xây dựng tại Huế bốn công trình từ thiện, nổi bật là Cát Tường Quân với kiến trúc độc đáo và thanh tịnh đang trở thành điểm đến của nhiều du khách mỗi khi dừng chân ở Huế.
Theo chị, quan niệm về không gian sống của phương Tây và phương Đông có gì khác biệt? Con người ngày nay đang tìm kiếm một không gian sống như thế nào cho riêng mình và gia đình? Trước đây khi chưa có điều kiện ra nước ngoài, tôi quan niệm rằng, không gian sống của người phương Đông là bên trong ngôi nhà, không gian sống của người phương Tây là bên ngoài ngôi nhà. Bây giờ tôi hiểu, không gian sống bắt nguồn từ văn hoá dân tộc, văn hoá bản thân và khí hậu. Thực tế cho thấy cùng một kiến trúc sư người Pháp, nhưng ngôi nhà Pháp xây dựng ở Đà Lạt khác với nhà Pháp tại Huế và Hà Nội; càng khác hơn nữa nếu ngôi nhà Pháp đó nằm trên đất Pháp. Ngôi nhà không chỉ khác về kiến trúc mà còn khác về không gian sống, vì vậy dân địa ốc hay nói “căn nhà là một nửa của tâm hồn” hoặc “nhà sao chủ vậy”. Chị có lo sợ nhiều không, khi xu hướng sống trở về với thiên nhiên đang bị nhấn chìm bởi những đe doạ của môi trường, của phát triển kinh tế và nhiều áp lực khác? Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu thơ khá phổ biến “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người ở chốn lao xao”. Thời gian gần đây do cuộc sống nơi đất chật người đông nhiều áp lực, không ít người thèm được “dại”. Thế nhưng, nơi vắng vẻ bây giờ cũng bắt đầu lao xao, vì vậy muốn “dại” cũng không dễ. Môi trường bị đe doạ từ nhiều nguyên nhân, và nguyên nhân của mọi nguyên nhân là từ con người. Trong cuộc chiến giữa con người và môi trường thì, con người luôn luôn thua! Chị có thể kể vẻ đẹp của mỗi ngôi nhà mà chị đã sống từ thủa ấu thơ đến giờ ở Sài Gòn, Đà Lạt... Ngôi nhà nào để lại cho chị dấu ấn sâu đậm nhất? Với những người hoạt động trong thị trường địa ốc, ngôi nhà nào của mình cũng có thể là hàng hoá. Những ngôi nhà mà tôi đã ở và đang sở hữu tôi đều có thể bán, nếu được giá. Khách hàng tôi nhắm đến để mua sản phẩm địa ốc của mình là những người sống chủ yếu nhờ hương hoa, khí trời vì vậy kiến trúc phải thanh thoát, nội thất phải tinh tế và không gian sống phải được chăm chút. Riêng ngôi nhà tôi vừa xây dựng xong ở Huế sẽ không là hàng hoá, bởi tôi quyết định sẽ sống ở đây đến cuối đời. Tôi đặt tên cho ngôi nhà ở Huế là “Tịnh cư Cát Tường Quân” (CTQ), “tịnh” là thanh tịnh; “cư” là nhà; CTQ là tên do một vị tăng già đặt cho tôi. Vì sao đến thời điểm này của cuộc đời, chị lại chọn dừng chân ở Huế? Với Cát Tường Quân, chị muốn tạo ra một không gian sống như thế nào cho chính mình và cho du khách? Trong mắt tôi, Huế như một bức tranh thuỷ mặc hữu tình. Không chỉ thế, Huế còn có thành cổ, có hệ thống chùa dày đặc, có mật độ tăng – ni cao nhất nước; những “cái có” này đã làm Huế huyễn hoặc, thiêng liêng.
Về thiết kế, kiến trúc, Cát Tường Quân có gì khác biệt so với những không gian mà chị đã từng trải qua? Ý tưởng của chị đã được kiến trúc sư thể hiện như thế nào, để có thể tạo nên một không gian tĩnh lặng vừa rất Huế, vừa rất Tạ Thị Ngọc Thảo? Trong tất cả ngôi nhà tôi đã ở và đang sở hữu, CTQ là khu nhà rường duy nhất tôi có. Kiến trúc nhà rường thật lạ, mái thấp, cột nhiều, phòng ngủ nhỏ xíu, phòng vệ sinh bé tí, muốn gắn máy lạnh phải tính toán đau đầu, muốn ngăn chặn côn trùng vào nhà nghĩ mãi không ra. Thế mà tôi lại say đắm nhà rường Huế từ cái nhìn đầu tiên, và đó chính là động lực giúp tôi hoàn thiện CTQ sau hơn ba năm xây dựng. Sự tĩnh lặng của CTQ có được nhờ quy hoạch tổng mặt bằng theo chữ khẩu, chỉ có chùa và cung vua mới sử dụng mặt bằng chữ khẩu này. Giá trị kiến trúc của CTQ là do chúng tôi biết giữ nguyên sự tinh tế của nhà rường và biết loại bỏ những điểm cần thiết. Ở Huế, người ta gọi nhà rường là nhà vườn, vì vậy không gian vườn rất được chú trọng. Chỗ nào của ngôi nhà mà chị yêu thích nhất? Mỗi buổi sáng, chị thường uống trà ở đâu? Đâu là nơi chốn để chị có thể tịnh tâm nhất? Nơi tôi lẩn quẩn nhiều nhất là vườn rau sạch. Từ nhỏ đến giờ tôi chưa bao giờ có thời gian để gieo bất cứ hạt giống nào xuống đất vì vậy tôi cũng chưa cảm nhận được hạnh phúc khi quan sát sự nảy mầm, đơm hoa, kết trái và cho quả. Sự mãnh liệt của chồi non truyền cho tôi sức sống, nhìn cây vươn lên trong mọi hoàn cảnh thời tiết Huế, nhất là đang mùa gió Lào này, tôi thấy sự nỗ lực của mình chưa nhằm gì. Có khi tôi ngồi uống trà ở vườn Thanh Trà, phóng tầm mắt ngắm trọn đồi thông trước sân nhà. Cũng có khi tôi cầm chén trà đi lanh quanh trong vườn, lúc ngửi bông hoa mới nở, khi lại vuốt ve một thân cây sần sùi già cỗi, nếu mỏi chân thì ngồi xuống một trong những bộ bàn ghế bày rải rác. Tịnh tâm không tự cảnh, không tự người mà tự mình. Chọn sự im lặng với một người đầy trách nhiệm với cộng đồng như chị có khó không? Phật pháp đã mang lại cho chị điều gì, để giúp chị chuyển hướng đời mình, và chuyển hướng kinh doanh? Kinh có kinh vô tự, lời có lời vô ngôn, im lặng cũng là một cách bày tỏ. Đạo Phật đề cao sự im lặng bởi nó thể hiện sự thanh tịnh trong mọi mối quan hệ và mọi sự việc. Ohso có viết một câu rất hay: “Ta đã im lặng đến như thế mà người không hiểu nữa thì đành vậy”. Lắng nghe lời người nói bằng tai, lắng nghe sự im lặng bằng tấm lòng. Muốn “nghe” được lời vô ngôn thân phải an và trí phải tỉnh. Người im lặng luôn đủ kiên nhẫn để chờ người khác thấu hiểu lòng mình. Khi trả lời câu này tôi muốn đề cập đến mối quan hệ Nhà nước với dân, mối quan hệ gia đình và những người đang phải lòng nhau. Thương gia Lương Văn Can định nghĩa về kinh doanh như sau: “Thông qua sản phẩm và dịch vụ của mình để phụng sự xã hội, góp phần làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn”. Nếu hiểu kinh doanh là như thế thì xây nhà để bán hay nấu cơm chay phục vụ khách cũng đều là phụng sự xã hội, góp phần làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Từng dời đổi nhiều lần, nhưng “vật bất ly thân” của chị dường như là bức tượng đức thiền sư Huệ Khả? Bài học nào từ vị thiền sư này mà chị cho là quý giá nhất, và coi đó như phương châm sống của chính mình? Tôi “cảm” thiền sư Huệ Khả (487 – 593) từ mẫu đối thoại như sau: Đức Huệ Khả tìm đến Tổ Đạt Ma thưa: “Xin thầy an tâm cho”, ngài Đạt Ma trả lời “Đưa tâm đây ta sẽ an” và, đức Huệ Khả ngộ. Từ đó tôi hiểu, tâm mình tự mình an, chẳng cảnh, vật, người, Phật, Trời nào an giúp được. Sau này đọc kinh Phật tôi còn ngộ thêm “tâm cũng chẳng có, vì nếu có thì tâm trú vào đâu?” Khu vườn có bức tượng đức nhị tổ Huệ Khả ở CTQ là trường học của tôi mỗi ngày. Tại đây, một thầy, một trò và một bài học duy nhất, đó là nụ cười hỷ xả của ngài; thế mà trò ngày thuộc, ngày không. Bức tượng đức Huệ Khả cũng là nơi giữ chân của nhiều vị khách quý. Chị có thể kể một chút về con trai mình, người sẽ nối nghiệp chị? Chị muốn để lại điều gì cho con? Con trai tôi, Lê Gia Khánh sinh năm 1995, tên ở nhà là Nheo. Nheo đi du học Canada từ năm lớp 9, năm nay Nheo vào đại học Toronto ngành kinh tế vĩ mô. Nheo có thể nghe má và các bác (bạn của má) nói chuyện kinh tế cả ngày không chán. Có thể nói, khi nhắm mắt lìa đời, không có gì trên cõi đời này làm tôi vương vấn ngoài Nheo. Tuy vậy, cho đến bây giờ tôi biết con trai của mình đã trưởng thành và sẽ trở thành người có ích cho xã hội, dù má mất hay còn. Điều này làm tôi thanh thản dù từ năm nay, hai má con chỉ gặp nhau vào dịp nghỉ hè. Tôi chỉ muốn để phúc lại cho con vì ông bà mình nói, “con trai nhờ đức mẹ”. Chị có sợ hãi điều gì không? Phật cũng mình mà ngạ quỷ cũng mình, tôi chỉ sợ chính tôi thôi ! Bài: kim yến - ảnh: ái vân (huế)
http://sgtt.vn/Loi-song/182845/Tinh-tam-khong-tu-canh-khong-tu-nguoi-ma-tu-minh.html Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 21/Sep/2013 lúc 7:27pm |
|||||||||||||||||||||
mk
|
|||||||||||||||||||||
IP Logged | |||||||||||||||||||||
trankimbau
Moderator Group Tham gia ngày: 02/Jun/2007 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 424 |
Gởi ngày: 01/Oct/2013 lúc 1:06pm | ||||||||||||||||||||
Bỏ qua oán hờn Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ, có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình. Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng đó. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất. Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách hàng. Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất. Người em hỏi người anh: - Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không ? Người anh đáp: - Không. Tuy thế người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi: - Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó ! Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bắt đầu tăng lên giữa hai anh em họ. Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào. Không lâu sau một hố ngăn cách gay gắt và sâu thẳm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào. Cuối cùng họ quyết định không làm chung với nhau và một bức tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình của họ. Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước cửa hàng. Ông ta bước vào và hỏi người bán hàng: - Anh đã ở đây bao lâu rồi . Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp: - Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đã đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi . Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này. Anh ta đề nghị: - Ông có vui lòng sang cửa bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không ? Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ. Trong cuộc sống có những điều nhỏ nhặt vẫn thường xảy ra và vô tình chia cắt con người với nhau, những lời nói vội vàng không suy nghĩ, những lời chỉ trích, buộc tội hay những lời trách cứ oán hờn. Và khi đã bị chia cắt, họ có thể không bao giờ quay lại với nhau được nữa. phương cách tốt nhất để tránh những tình huống gây tổn thương này là bỏ qua những lỗi lầm nhỏ của nhau. Điều này không dễ dàng nhưng cũng chẳng phải là quá khó khăn. Bỏ đi những bực dọc rồi bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi thấy mình chẳng mất bao nhiêu năng lượng để xây dựng sự gắn bó với những người bạn yêu mến ST |
|||||||||||||||||||||
kb
|
|||||||||||||||||||||
IP Logged | |||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 01/Oct/2013 lúc 7:02pm | ||||||||||||||||||||
Các tập đoàn công nghệ toàn cầu đang tìm cách ứng dụng sự thực tập chánh niệm và thiền định vào hoạt động của mình để có được hạnh phúc và sự phát triển bền vững. (Được chuyển ngữ từ bài viết “Google seeks out wisdom of Zen Master Thich Nhat Hanh” của tác giả Jo Confino đăng trên tờ The Guardian ngày 5/9/2013).Tại sao nhiều tập đoàn công nghệ lớn nhất thế giới, trong đó có Google, lại dành sự quan tâm đặc biệt đối với một vị Thiền sư Phật giáo người Việt đã 87 tuổi? Câu trả lời là tất cả các tập đoàn này đều mong muốn tìm hiểu: làm thế nào những lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh – thường được hàng trăm ngàn đệ tử trên khắp thế giới gọi một cách thương kính là Thầy – có thể giúp cho tổ chức của họ có thể hoạt động một cách hiệu quả hơn và mang lại nhiều hạnh phúc hơn. Thầy Nhất Hạnh được mời hướng dẫn một ngày thực tập chánh niệm tại trụ sở chính của Google tại California vào cuối tháng này – đây là một dấu hiệu cho thấy sự thực tập chánh niệm đang bắt đầu trở nên phổ biến trong xã hội hiện nay. Thầy – tác giả của hơn 2 triệu cuốn sách được bán ra ở Mỹ - sẽ có một buổi gặp gỡ với hơn 20 Giám đốc điều hành (CEO) của các tập đoàn công nghệ có trụ sở ở Mỹ tại Silicon Valley để chia sẻ tuệ giác của Thầy về nghệ thuật an trú trong hiện tại. Trong
buổi gặp gỡ này, Thầy dự định sẽ thảo luận với các Giám đốc điều hành
của các tập đoàn công nghệ về cách thức làm thế nào để họ có được một sự
hiểu biết sâu sắc về bản chất gắn kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa mọi
người và mọi loài. Với hiểu biết đó, họ có thể hiến tặng những công cụ
thực tiễn để đưa sự thực tập chánh niệm trở thành một phần thiết yếu
trong công việc hàng ngày của họ, trong những sản phẩm mà họ chế tạo ra
cũng như trong chiến lược mà họ vạch định để khoa học công nghệ có thể
mang lại sự thay đổi cho thế giới này. Buổi gặp gỡ này sẽ kết thúc bằng
sự thực tập thiền hành. Những nỗ lực của Thầy trong hơn 50 năm qua đã được nhiều nhà lãnh đạo thế giới ghi nhận. Giám đốc Ngân hàng thế giới Jim Yong Kim đã nói rằng phương pháp thực tập của Thầy Nhất Hạnh là phương pháp “giúp cho chúng ta có thể cảm thông và thương yêu một cách sâu sắc đối với những người đang khổ đau”. Thầy cũng đã từng đượcMục sư Martin Luther King đề cử cho Giải Nobel Hòa bình vào năm 1967 vì những nỗ lực của Thầy trong việc kêu gọi hòa bình và chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Mục sư Luther King nói rằng việc trao giải Nobel Hòa bình cho Thầy Nhất Hạnh “sẽ một lần nữa làm cho nhân loại thức tỉnh trước bài học lớn về cái đẹp và tình yêu được tìm thấy trong hòa bình. Nó làm sống dậy niềm hy vọng về một trật tự mới mang tính công bằng và hòa hợp cho thế giới này.” Thầy Nhất Hạnh xuất gia đã được 71 năm. Mặc dù tuổi đã cao, Thầy vẫn liên tục đi hoằng pháp khắp nơi trên thế giới. Thầy hiện đang trong chuyến đi hoằng pháp ba tháng tại Bắc Mỹ với lịch trình khá nặng. Trước đó, Thầy đã có chuyến đi hoằng pháp tại châu Á cũng trong 3 tháng. Tăng thân xuất sĩ của Thầy Nhất Hạnh được đánh giá là tăng thân có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Vé tham dự những khóa tu do Thầy hướng dẫn trong 1 tuần tại Toronto, Canada hay tại New York, Mississippi và California – mỗi khóa tu đều có hơn 1000 tham dự - đều được bán hết chỉ trong vài ngày. Nền kinh tế chạy theo ham muốn Thầy Nhất Hạnh cảnh báo rằng nền văn minh của chúng ta đang có nguy cơ sụp đổ trước những thiệt hại nghiêm trọng về xã hội cũng như môi trường sinh thái do nền kinh tế chạy theo ham muốn gây nên. Thầy cũng đồng thời chỉ ra cho chúng ta một hướng đi mới, đó là xây dựng một nền kinh tế lấy hạnh phúc chân thực làm mục tiêu, thay vì hy sinh hạnh phúc của mình để thờ phụng chủ nghĩa vật chất như bấy lâu nay chúng ta vẫn làm. Những lời dạy của Thầy tập trung chủ yếu vào sự thực tập chuyển hóa khổ đau bằng cách buông bỏ những ưu sầu của quá khứ cũng như những lo lắng về tương lai, thông qua thiền định và nếp sống chánh niệm. Thầy đã chỉ ra rằng tình trạng đam mê tiêu thụ hiện nay là dấu hiệu cho thấy chúng ta đang cố gắng khỏa lấp khổ đau trong chính mình. Và Thầy đề nghị chúng ta nên đi theo hướng ngược lại, đó là trở về để tiếp xúc trực tiếp với nỗi khổ, niềm đau trong ta để có thể vượt thoát những khổ đau đó. Thầy cho rằng để các doanh nghiệp có thể đóng vai trò quan trọng trong việc chận lại con tàu tư bản đang chạy trật đường ray thì trước tiên các nhà lãnh đạo tập đoàn cần phải nhận ra sai lầm căn bản của mình, đó là cách tư duy hạn hẹp, lấy lợi nhuận làm thước đo duy nhất cho sự thành công của tập đoàn. Cần có sự thay đổi căn bản trong nhận thức của các doanh nghiệp Các doanh nghiệp cần phải trải qua một quá trình chuyển đổi căn bản về nhận thức. Họ cần phải nhận ra tầm quan trọng của việc đưa những giá trị tâm linh vào trong đời sống hàng ngày. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Guardian vào cuối khóa tu tuần trước tại Catskill Mountains về nghệ thuật chuyển hóa khổ đau, Thầy chia sẻ rằng: "Chúng ta cần phải xem lại quan niệm của chúng ta về hạnh phúc. Chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có được khi nào chúng ta giành thắng lợi, khi chúng ta giành được vị trí đứng đầu. Tuy nhiên, sự thực thì không cần thiết phải như vậy. Bởi vì ngay cả khi chúng ta kiếm được nhiều tiền hơn, chúng ta vẫn khổ đau như thường. Chúng ta cạnh tranh bởi vì chúng ta không hạnh phúc. Thiền tập có thể giúp cho chúng ta bớt khổ hơn”. "Nhiều
người trong chúng ta nghĩ rằng chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi nào
chúng ta vượt lên trên những người khác, khi nào chúng ta trở thành nhân
vật số 1. Sự thực là chúng ta không cần phải trở thành “number one” mới
có thể hạnh phúc. "Chúng
ta cần phải có một hướng đi tâm linh trong đời sống của mình cũng như
trong công việc kinh doanh, nếu không chúng ta không thể nào có thể xử
lý những khổ đau do công việc và đời sống hàng ngày tạo ra." Các kỹ sư Google trao đổi và thực hành thiền Những cuộc gặp gỡ với Mục sư Martin Luther King Nhớ
lại những lần gặp gỡ với Mục sư Luther King – những cuộc gặp gỡ này có
ảnh hưởng rất quan trọng đến quyết định đấu tranh cho hòa bình và chấm
dứt chiến tranh tại Việt Nam của nhà tranh đấu cho dân quyền nổi tiếng
thế giới này, Thầy Nhất Hạnh nói rằng Tổng thống Obama đã bỏ sót một yếu
tố quan trọng trong bài phát biểu của mình vào tuần trước, nhân dịp kỷ
niệm 50 năm ngày Mục sư Martin Luther King đọc bài diễn văn bất hủ có
tựa đề “Tôi có một giấc mơ” (I have a dream). "Khi
Tổng thống Obama kêu gọi hãy để cho tự do được vang tiếng bay xa (let
freedom ring), Tổng thống chỉ nói về tự do đến từ bên ngoài như tự do
chính trị, tự do xã hội, nhưng thực tế là ngay cả khi chúng ta có rất
nhiều tự do về tổ chức, về ngôn luận, về báo chí, v.v. chúng ta vẫn có
thể khổ đau như thường bởi vì chúng ta không có tự do ở bên trong chúng
ta, đó là sự tự do khỏi những giận hờn và sợ hãi”,Thầy chia sẻ. Một trong những điều tâm huyết của Mục sư Luther King là xây dựng những cộng đồng, những đoàn thể sống hạnh phúc mà ông gọi là Beloved Community (tạm dịch là Tăng thân yêu quý). Cũng với mong ước đó, Thầy Nhất Hạnh đã dành hết tâm lực của mình cho việc xây dựng hơn một ngàn tăng thân cư sĩ trên khắp thế giới. Tuy nhiên, liệu các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có thể tạo ra một sự thay đổi tích cực hơn thông qua việc xây dựng tinh thần tăng thân, xây dựng văn hóa tập thể trong doanh nghiệp của mình? Chánh niệm và thiền tập tại công sở
"Thiền tập có thể giúp cho các thành viên trong doanh nghiệp vơi bớt khổ đau," Thầy nói. "Chỉ
riêng điều này thôi cũng đủ hữu ích rồi, bởi vì nếu nhân viên của một
doanh nghiệp có đủ hạnh phúc thì doanh nghiệp đó sẽ làm ăn hiệu quả
hơn.” "Trong
trường hợp công ty của anh đang có những hoạt động gây tổn hại môi
trường, và bởi vì anh đã thực tập thiền nên anh có thể có được một cái
thấy, cái thấy này sẽ giúp anh tìm ra cách thức điều hành công ty của
mình theo hướng làm giảm nhẹ những tổn hại đối với môi trường. "Thiền
tập có tác dụng làm lắng dịu nỗi khổ, niềm đau trong ta, đồng thời mang
lại cho ta nhiều tuệ giác và một cái thấy chân thực (chánh kiến) về
chính bản thân mình và về thế giới. Và nếu ta có được tuệ giác của một
tập thể thì chắc chắn là ta sẽ tổ chức và điều hành hoạt động của doanh
nghiệp mình theo hướng làm cho thế giới này vơi bớt khổ đau." Theo Thầy, đem chánh niệm vào công sở, vào các doanh nghiệp còn có tác dụng giúp cho các nhân viên tránh được tình trạng bị quá tải bởi công việc, tuy nhiên để làm được điều này thì các chủ doanh nghiệp, các giám đốc công ty cần phải làm gương trước. “Tìm kiếm trong tự thân” (Search Inside Yourself) Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần phải biết chăm sóc chính mình trước tiên Thầy
cho rằng nhiều lãnh đạo cao cấp của các tập đoàn đã bắt đầu đề cập đến
tầm quan trọng của sự phát triển bền vững, tuy nhiên rất ít người trong
số đó thấy được mối liên hệ giữa sự phát triển bền vững của một doanh
nghiệp với văn hóa bên trong của doanh nghiệp mà họ đang điều hành. "Nếu
người giám đốc doanh nghiệp dành toàn bộ thời gian của mình cho công
việc của doanh nghiệp, người đó sẽ không còn thời gian để chăm sóc cho
chính mình hay cho gia đình của mình. Người giám đốc đó cần phải nhận ra
rằng doanh nghiệp của mình sẽ hoạt động hiệu quả hơn nếu người đó trở
nên lắng dịu, tươi mát hơn, có khả năng cảm thông và thương yêu nhiều
hơn" Thầy nói. Trong điều kiện hiện nay khi mà máy tính trở nên quá phổ biến và tiện dụng với tốc độ xử lý ngày càng nhanh thì các giám đốc doanh nghiệp lại càng khó có được thời gian cho riêng mình, thời gian để nhìn lại bản thân và tìm niềm cảm hứng cho cuộc đời mình. Sức mạnh của Vô tác Thầy
chia sẻ về tầm quan trọng của sự thực tập vô tác (aimlessness), tức là
không chờ đợi kết quả, không mong cầu gì hết khi hành động, không có đối
tượng gì để chạy theo. Thông thường chúng ta hay có thói quen chạy theo
hết dự án này đến dự án khác, không ngừng nghỉ. "Chúng
ta thường cho rằng hạnh phúc nằm ở tương lai, vì vậy sự thực tập vô tác
là dừng lại, không đuổi theo một đối tượng nào nữa cả và tìm hạnh phúc
ngay trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây", Thầy nói. "Hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có bình an. Nếu ta cứ mãi đuổi theo một đối tượng nào đó thì làm sao ta có thể có bình an. Ta cứ chạy hoài, chạy mãi, ngay cả trong giấc mơ chúng ta vẫn còn chạy. Đó là thực trạng của nền văn minh chúng ta”. "Chúng ta phải đi ngược lại xu hướng này.Chúng ta phải trở về với chính mình, trở về với những người thân yêu, trở về với thiên nhiên. Lâu nay chúng ta để cho các thiết bị điện tử kéo chúng ta ra khỏi chính mình. Chúng ta đánh mất mình trong Internet, trong các dự án, các kế hoạch kinh doanh, vì vậy mà chúng ta không có thời gian cho chính mình. Chúng ta không có thời gian để chăm sóc những người mà ta thương yêu và cũng đồng thời không để cho Đất Mẹ có cơ hội trị liệu cho chúng ta. Chúng ta luôn có xu hướng trốn chạy khỏi chính mình, khỏi gia đình và khỏi thiên nhiên xung quanh.”. Hầu hết các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đều khó nói ra những áp lực mà họ đang phải gánh chịu. Tuy nhiên gần đây một số giám đốc điều hành của những tập đoàn nổi tiếng đã can đảm chia sẻ với công chúng về những áp lực trong công việc của mình, tương tự như những lo ngại của Thầy Nhất Hạnh. Từ chức một vài tháng trước khi tập đoàn của mình bị phá sản, Erin Callan, cựu Giám đốc Tài chính của tập đoàn Lehman Brothers, đã can đảm viết lại những trải nghiệm của mình khi bị công việc lôi kéo hoàn toàn và chia sẻ điều đó với công chúng vào đầu năm nay. "Khi quyết định nghỉ việc ở công ty, tôi cảm thấy suy sụp và buồn khổ vô cùng”, Erin Callan chia sẻ trên tờ New York Times. “Tôi không thể nào lấy lại sức lực và đi tiếp được nữa. Tôi không biết phải dựa vào đâu để khẳng định chính mình nếu không có công việc.”"Vào ngày nghỉ cuối tuần, nếu không phải làm thêm việc của công ty thì tôi cũng dành thời gian để sạc lại năng lượng cho một tuần làm việc kế tiếp. Nói chung, đối với tôi lúc đó, công việc luôn chiếm vị trí ưu tiên số 1, trên cả gia đình, bạn bè và cả việc hôn nhân – chuyện hôn nhân của tôi cũng chỉ kéo dài được một vài năm.” Bản chất lưỡng nguyên của công nghệ Mặc dù lo ngại về những tác dụng tiêu cực của công nghệ, Thầy vẫn nhận thấy bản chất lưỡng nguyên của công nghệ, nghĩa là bên cạnh những tác dụng tiêu cực, công nghệ cũng có tác dụng rất hữu ích. Đó là lý do vì sao trong cuộc gặp gỡ sắp tới, Thầy sẽ kêu gọi các Giám đốc điều hành của các tập đoàn công nghệ tập trung phát triển các phần mềm ứng dụng và những thiết bị công nghệ khác để giúp đưa mọi người trở về với một cuộc sống cân bằng. "Chúng ta cần phải có sự tỉnh thức. Khi nói chuyện với Google và các tập đoàn công nghệ khác, tôi sẽ đề nghị họ sử dụng trí tuệ và thiện chí của mình để tạo ra những phương tiện, những công cụ có khả năng giúp cho mọi người trở về với chính mình, để trị liệu cho chính mình”Thầy nói. "Chúng ta không loại trừ hay vứt bỏ tất cả các thiết bị công nghệ này, mà chúng ta có thể hoàn toàn tận dụng được những tiến bộ của công nghệ." Thầy gợi ý về việc phát triển những phần mềm ứng dụng có khả năng giúp mọi người lắng dịu cơn giận khi nó phát khởi. Thầy cũng đề cập đến loại đồng hồ Now Watch được Thầy thiết kế với mục đích giúp mọi người trở về với phút giây hiện tại: trên mặt đồng hồ, mỗi giờ được đánh dấu bằng chữ “Now” (nghĩa là Bây giờ) thay vì số giờ như thông thường. Google đã mời Thầy chia sẻ về những nội dung như: xây dựng mục tiêu trong công việc, sự sáng tạo và tuệ giác. Thầy nói rằng chúng ta đều có thể đạt được những điều này thông qua sự thực tập chánh niệm. Thầy
đã được mời đến thăm tập đoàn Google vào năm 2011 và kể từ đó, sự thực
tập chánh niệm đã được áp dụng nhanh chóng tại tập đoàn công nghệ hàng
đầu này. Số lượng người tham gia vào chương trình “Tìm kiếm trong tự thân” (Search Inside Yourself) –
chương trình thiền tập chính thức của Google – ngày càng tăng. Các
phòng dành cho thiền tập cũng đã được thiết kế bên trong nhiều tòa nhà
làm việc của Google. Thầy nói rằng: "Cũng như mọi người, các nhân viên của Google cũng mong muốn học hỏi cách thức chuyển hóa khổ đau của chính mình”."Đa số các nhân viên ở đây đều còn rất trẻ và tài năng, vì vậy mà họ có thể hiểu và thực tập những điều Thầy dạy một cách nhanh chóng. Họ còn có đủ phương tiện để đem sự thực tập này đến được với rất nhiều người.” "Sẽ rất hữu ích nếu họ biết rằng ai trong chúng ta cũng có ước mong làm những điều đẹp và lành, bởi vì mỗi người trong chúng ta đều có tính Bụt. Khi nhìn vào con đường bất thiện, không chân chính, chúng ta có thể tìm thấy trong đó một con đường ngược lại. Cũng như nhìn vào khổ đau, chúng ta sẽ thấy được con đường đưa tới hạnh phúc. Đây là giáo lý Tứ Diệu Đế trong đạo Bụt, nhưng chúng ta không cần phải là một Phật tử mới có thể hiểu được điều đó. "Xã hội của chúng ta đang cần một sự tỉnh thức tập thể để có thể cứu chúng ta ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Vì vậy chúng ta cần phải thực tập để chế tác năng lượng tỉnh thức trong từng bước chân và từng hơi thở. Nếu ta có được sự tỉnh thức thì cũng có nghĩa là ta đang đi trên con đường hạnh phúc, ta có thể chuyển hóa được khổ đau trong ta. Và khi đó ta có thể giúp những người khác làm được tương tự." (Sư cô Tại Nghiêm chuyển ngữ) Nguồn: http://www.phusa.info/ http://quangduc.com/a50928/google-tim-cau-tue-giac-cua-thien-su-thich-nhat-hanh Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 01/Oct/2013 lúc 7:03pm |
|||||||||||||||||||||
mk
|
|||||||||||||||||||||
IP Logged | |||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 01/Oct/2013 lúc 10:56pm | ||||||||||||||||||||
TÁC PHẨM GIÁ TRỊ TRONG MỌI THỜI ĐẠI ! HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ÐÔNG
Trong
cuộc sống vội vã, quay cuồng hiện tại, nhiều người đã mất đi niềm tin.
Họ quan niệm rằng sống để thụ hưởng, thỏa mãn các nhu cầu vật chất vì
chết là hết. Không có Thượng Ðế hay một quyền năng siêu phàm gì hết.
Cách đây không lâu, một tờ báo lớn tại Hoa Kỳ đã tuyên bố:"Thượng Ðế đã
chết." Tác giả bài báo công khai thách đố mọi người đưa ra bằng chứng
rằng Thượng Ðế còn sống. Dĩ nhiên, bài báo đó tạo nên một cuộc bàn cãi
rất sôi nỗi. Một nhà Thiên văn Học tại trung tâm nghiên cứu Palomar cũng
cho biết: "Tôi đã dùng kính viễn vọng tối tân nhất, có thể quan sát các
tinh tú xa trái dất hàng triệu năm ánh sáng mà nào có thấy Thiên đường
hay Thượng Ðế cư ngụ nơi nào?" Sự ngông cuồng của khoa học thực nghiệm
càng ngày càng đi đến chỗ qúa trớn, thách đố tất cả mọi sự. Tuy nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh, giải thích tất cả thì một sự kiện xảy ra: Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu vương Ranjit Singh cầm đầu sang thăm viếng nước Anh. trong buổi viếng thăm Ðại học Oxford, vua Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ nầy đã làm đảo lộn quan niệm khoa học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hóa học, kể cả những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng giờ đồng hồ dưới đáy một hồ nước. Sau khi để một phái đoàn y sĩ do Bác sĩ Sir Claude Wade khám ngiệm ông ta còn chui vào một quan tài để bị chôn sống trong suốt 48 ngày. Khi được đào lên, ông ta vẫn sống như thường. Ðạo sĩ còn biểu diễn nhiều việc lạ lùng, dưới sự kiểm chứng nghiêm khắc của các khoa học gia. Ðiều này gây sôi nỗi dư luận lúc đó, Hội Khoa học Hoàng Gia đã phải triệu tập một ủy ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên tuổi được chỉ thị sang Ấn Ðộ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích những sự kiện huyền bí. Phái đoàn khoa học đã đặt ra những tiêu chuẫn rõ rệt để giúp họ quan sát với một tinh thần khoa học tuyệt đối: Không chấp nhận bất cứ một điều gì nếu không có sự giải thích rõ ràng, hợp lý. Ðể soạn thảo bản tường trình, mỗi khoa học gia trong phái đoàn phải tự mình ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe vào sổ tay cá nhân. Sau đó, tất cả cùng nhau so sánh chi tiết và kiểm chứng cẩn thận. Chỉ khi nào tất cả đều đồng ý thì điều đó mới dược ghi nhận vào biên bản chính. Ðiền này đặt ra để bảo đảm cho sự chính xác, không thành kiến đến mức tối đa. Tất cả những điều gì xảy ra mà không có sự giải thích khoa học, hợp lý đều bị loại bỏ. Khi ra đi, họ không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi khác. Giáo sư Spalding đã cho biết: "Phương Ðông có những chân lý quan trọng đáng để cho người Tây Phương nghiên cứu, học hỏi. Ðã đến lúc người Tây Phương phải quay về Ðông Phương để trở về với quê hương tinh thần." Ðiều đáng tiếc là sự trở về của phái đoàn đã gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ một dư luận quần chúng đầy thành kiến hẹp hoài. Các khoa học gia bị bắt buộc phải từ chức, không được tuyên bố thêm về những điều chứng kiến. Sau đó ít lâu, Trưởng phái đòan, giáo sư Spalding đã cho xuất bản bộ sách " Journey to the East" và nó đã gây ngay một dư luận hết sức sôi nỗi. Người ta vội tìm đến những người trong phái đoàn thì được biết họ đã rời bỏ Âu Châu để sống đời tu sĩ trong dãy Tuyết Sơn. Tuy thế, ảnh hưởng cuốn sách nầy đã tạo hứng khởi cho nhiều người khác trở qua Ấn Ðộ để kiểm chứng những điều ghi nhận của phái đoàn. Thiên ký sự của Sir Walter Blake đăng trên tờ London Scientific cũng như loạt diều tra của ký giả Paul Brunton, Max Muller đã vén lên tấm màn huyền bí của Ðông Phương và xác nhận giá trị cuộc nghiên cứu này...
HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ÐÔNG
Nguyên tác: Spalding. Bản dịch: Nguyên Phong. Nhà xuất bản Người Việt ấn hành. Anh TXH đánh máy.
*** Quí vị nào không có thì giờ đọc, có laptop, computer có thể vào Gogoole gõ link sau để nghe : |
|||||||||||||||||||||
mk
|
|||||||||||||||||||||
IP Logged | |||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 01/Oct/2013 lúc 11:58pm | ||||||||||||||||||||
(Lời dẫn nhập: Nhiều người đã say mê những sách của Nguyên Phong dịch và phóng tác, say mê về nội dung cũng như về văn phong của dịch giả. Từ một nguồn internet không biết của thân hữu nào gửi, chúng tôi nhận được bài này trong số những điện thư nhận được hằng ngày. Trộm nghĩ rằng nếu giữ cho mình thì cũng uổng công người đã có lòng gửi. Xin cám ơn thân hữu đó và cũng xin phép tác giả bài viết là PHAN LẠC TIẾP để phổ biến tới độc giả của chúng tôi, mà cũng là độc giả của ông. TLBT - TNAC - ĐVĐĐ)
|
|||||||||||||||||||||
mk
|
|||||||||||||||||||||
IP Logged | |||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 07/Oct/2013 lúc 5:56pm | ||||||||||||||||||||
-- Hãy Buông Ra
Đời người như hạt sương rơi .
Lung linh một thoáng mặt trời chiếu tan . Tôi nghe buổi Thuyết Pháp tại chùa Thiên Môn. Xin thuật lại để quí vị cùng nghe. Sau phần thuyết giảng, đến phần Pháp đàm. Thầy mời quí Phật tử đặt câu hỏi để cùng thảo luận. Tận cuối hội trường, có một ông già, đứng dậy chắp tay cung kinh xin hỏi: - Kính bạch thầy. Con hiện đang bị bệnh. Hết đau đầu đến đau khớp, đau thận, tiểu đường, cao huyết áp. Bây giờ lại bị bại một chân nữa ạ! Suốt đêm qua con trằn trọc mãi không sao ngủ được do bệnh nó hành hạ xác thân… Cúi xin thầy thương xót chỉ bảo cho con làm sao cho hết đau bệnh? Xin thầy cầu nguyện Đức Phật gia hộ cho con được hết bệnh, khỏe mạnh như xưa… Thầy lên tiếng nhỏ nhẹ, thong thả nói: - Thưa bác, thưa đạo hữu. Đức Phật đã dạy: Cõi thế gian tràn đầy đau khổ! Trong đó có định luật: SINH, LÃO, BỆNH, TỬ thì đau khổ vô cùng mà bác thì đang đi vào giai đoạn “Bệnh tật”, tức giai đoạn “Hư hoại”.
Vạn vật là thế; tất cả đều bị luật “Vô Thường”
chi phối. Chẳng hạn như cái áo bác đang mặc, khi mới mua về, vẻ đẹp đẽ,
mềm mại, óng mướt, tươi thắm… Nhưng nay bác mặc đã lâu rồi; màu đã bạc,
gấu đã sờn, vai đã rách và vải đã mục. Nó đang ở tiến trình hư hoại!
Không có gì có thể còn mãi được, vì bản chất tự nhiên là như vậy, mà
thân xác bác cũng đang như vậy. Ngay khi bác mới sinh ra thì bác xinh
đẹp, rồi bác lớn lên khỏe mạnh. Giờ đây bác đang già yếu và đang ở thời
kỳ bệnh hoạn (Sanh, Trụ, Hoại, Diệt). Vậy bác phải chấp nhận điều đó, bác hãy thấu
hiểu bản chất của nó, để bác phải chấp nhận nó mà sống an lạc với nó, dù nó ở bất cứ giai đoạn nào.
Bây giờ thân thể của bác đang bắt đầu suy yếu, hư hoại theo tuổi đời chồng chất. Thì bác đừng cưỡng lại điều đó, vì đó là qui luật tự nhiên của thân xác. Chân lý không bao giờ thay đổi đó là: Sinh ra > Già cỗi > Bệnh hoạn > Rồi chết đi! Không cách chi làm khác đi được. Thời gian vận hành của định luật đã chín mùi rồi đấy bác ạ! - - Ông già đó nói tiếp: - Bẩm thầy, nhưng con chưa muốn chết vội, vì con và cháu của con chưa khôn lớn. Nhất là còn nhiều công việc con đang làm dở dang chưa hoàn tất, con cần giải quyết cho xong đã. - Ồ! Tất cả chỉ là vậy, bác chẳng làm gì khác hơn khiến bác phải lo lắng. Công việc của thề gian, bác hãy để mặc thế gian cho họ tự giải quyết lấy. Bác nên hiểu rằng: Giầu hay nghèo, già hay trẻ, đẹp hay xấu, người hay vật. Bất cứ ai, bất cứ vật gi, bất cứ ở đâu cũng không thể giữ mãi tình trạng nguyên thủy như lúc ban đầu được. Mọi người, mọi vật đều phải thay đổi khác đi theo một định luật: Sinh, Trụ, Hoại, Diệt, mà không cách chi sửa đổi được. Điều mà bác có thể làm được là bác tự quán chiếu, soi rọi về thân xác và tâm thức của bác, để bác thấy tính: “Vô ngã” của vạn vật. Để không thấy có cái gì là “Tôi” hoặc là “Của tôi”, mà chỉ là giả có, tạm có mà thôi (Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. = Cái gì có hình có tướng, đều là giả có, chứ không thật có). Ngay như nhà cửa, sự nghiệp, danh vọng, vợ, chồng, con cái của bác cũng chỉ là: “Của bác trên danh nghĩa, chúng không thực sự thuộc về bác. Chúng thuộc về tự nhiên!!! Như lời bác vừa cầu mong, chẳng những không đạt được. Thân bác vẫn đau đớn như thường và cách suy nghĩ sai lầm của bác còn đau khổ hơn nhiều nữa. Vì cầu mong mà không được là khổ (Cầu bật đắc khổ). Bởi vậy, bác phải nhìn mọi thứ đúng theo bản chất của nó và đừng níu kéo nó, đừng tiếc thương nó: “HÃY BUÔNG NÓ RA”. Bác hãy rũ sạch mọi thứ bên ngoài. Bác hãy “Buông ra!”. Bác đừng bám víu vợ, chồng, con cái, quyến thuộc, tài sản, công danh… Vì nhưng thứ đó bác không thể mang theo được, hoặc bác không “buông”, thì nó cũng phải “buông” bác mà thôi. Cho nên bác “Hãy Buông Ra!”, bởi mọi thứ đều Vô Ngã: “Không tôi và Không của tôi”. Tất cả rồi sẽ biến mất; chẳng còn gì. Bác phải nhận biết cho bằng được điều này, và sau khi biết rồi thì bác hãy ‘buông’ tầt cả. Đừng bận tâm về con cái, bây giớ chúng còn trẻ. Rồi mai này chúng cũng sẽ già cả y như bác ngày hôm nay. Không ai trên thế gian này có thể trốn thoát được định luật: sinh tru hoại diệt... Nếu bác “Buông ra” được mọi thứ thì bác mới thấy được chân lý. Vậy bác đừng lo lắng và đừng ôm giữ bất cứ điều gì thì bác sẽ thanh thản trong mọi tình huống bác ạ! Ông già hỏi nữa: - Bẩm bạch thầy, nghe thầy dạy dễ quá, nhưng làm sao con ‘buông ra’ cho được? - Nếu bác ‘buông ra’ không được thì bác sẽ vô cùng đau khổ. Vì không ‘buông ra’ cũng chẳng được. Bởi mọi thứ nó không thuộc về của bác, kể cả chính xác thân bác nữa. Lúc này bác hãy tập trung tâm tưởng, để cho nó được an nhiên tự tại, còn mọi việc đã có người khác lo. Bác hãy tự nhủ lòng rằng: “Chung sự” (Tôi hết việc rồi)- Tư tưởng ham sống lâu sẽ làm bác đau khổ. Cho dù bác mong muốn thiết tha tới đâu cũng chẳng được. Muôn sự đều vô thường và luôn luôn không cố định… “Sau khi sinh ra > Nó biến hoại > Sau khi sinh ra > Nó diệt đi !”. Đức Phật cũng thế, bác và cả bàn dân thiên hạ cũng đều như thế. Vậy mà bác muốn xác thân bác còn mãi sao được? Bác hãy nhìn vào hơi thở thì biết. Nó đi vô rồi lại đi ra, bản chất của nó là vậy. Bác chẳng thể ngăn cản sự đi ra và đi vô của nó được. Bác thử nghĩ coi: “Có thể nào bác thở ra mà không thở vào được chăng?”. Tức là hơi thở nó đi vào, rồi nó lại đi ra. Khi nó ra rồi thì nó lại phải đi vào. Tự nhiên là như vậy, không cách chi làm khác được. Y chang sự quá trình bác sinh ra > rồi già nua > rồi bệnh tật > rồi chết đi! Đó là điều hoàn toàn tự nhiên và bình thường… Nếu bác không sinh ra, thì lấy gì bây giờ bác bị đau bệnh! Và lấy gì để mai mốt bác chết! Bác có hiểu điều đó không ??? - Kính bạch thày, con ngộ được những gì thầy vừa dạy, nhưng con vẫn lo sợ quá chừng! Thầy cầm ly nước uống nhấp giọng, đoạn thày nói thêm: - Bác nên hiểu rằng: Vạn sự ở đời là như vậy, khi bác nhận thức được đúng đắn thì bác đừng do dự: “Hãy buông ra tất cả, hãy dẹp bỏ tất cả”. Dù bác không buông nó ra thì mọi thứ nó cũng bắt đầu buông bác ra đó. Này nhé! Như những bộ phận trong cơ thể của bác nó cũng đang muốn rời xa bác đấy. Vì những bộ phận ấy nó đã sống đủ thời hạn với bác rồi, nên nó sắp ra đi đó. Bản chất của nó là: “Đã đến, thì phải ra đi”. Bởi thế gian là không có sự bình thường hay mãi mãi, dù bất cứ ở đâu, bất cứ thời nào, bất cứ thành phần giai cấp nào; người giầu có, kẻ nghèo khó, người lớn cũng như trẻ nhỏ, người có học cũng như người thất học…v.v. Cũng không thể có sự bình thường được. Ai ai cũng phải xoay vần theo luật “Vô Thường” chi phối. Quán triệt được điều đó, bác sẽ chả còn quyến luyến bất cứ sự gì. Bác hãy ‘Buông ra” chứ không còn nắm giữ được nữa, ví có giữ cũng chẳng đặng. Bác buông ra, thì tâm bác sẽ thảnh thơi; không buồn mà cũng chẳng vui, không khiếp sợ và cũng chẳng liều lĩnh. Lúc bấy giờ lòng bác sẽ an ổn với trí tuệ hiểu biết: “Vạn vật không bao giờ có thể thường còn mãi mãi được”. “ĐẶC TÍNH PHẢI ĐỔI THAY CỦA VẠN VẬT, KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI”. Nếu bác có nhiều thứ, bác sẽ phải bỏ lại nhiều thứ. Nếu bác có ít thứ, bác sẽ bỏ lại ít thứ; giầu có là giầu có, nổi danh là nổi danh, sống lâu là sồng lâu… chẳng có gì khác biệt, mọi sự cũng thế thôi! Vậy bác hãy buông nó ra, buông cho đến khi nào tâm trí bác an lạc! Mọi sự bác không còn cảm thấy khổ đau hay sung sướng. Mọi- thứ bác không còn thấy là của bác nữa; Sung sướng và khổ đau cũng đểu Hoại, Diệt và Mất tiêu như nhau… Duy chỉ có một thứ là còn và còn vĩnh viễn là của bác. Đó là “Phật tánh” là vĩnh cửu của bác mà thôi. - Kính bạch thầy, con đã ngộ!!! - Vậy sao! Bác giải thích xem nào ? - Thưa thầy, chỉ có định luật: “Vô Thường” là bất biến, là vĩnh cửu, là thường còn. Ngoài ra, tất cả các Pháp; muôn vàn vạn sự ở đời này đều luôn luôn biến đổi không bao giờ ngừng. Chẳng hạn như: *THÂN VÔ THƯỜNG: Nay khỏe mạnh, mai ốm đau. Nay đang sống, mai đã chết… *TÂM VÔ THƯỜNG: Nay đang mến thương nhau, mai chuyển sang hận thù ân oán nhau… *TÀI SẢN VÔ THƯỜNG: Của cải nay còn, mai hết. Tức là tiện nghi vật chất không thể tồn tại mãi được… Vật thể này biến đổi chất liệu thành ra vật thể khác. Sự vật không bao giờ cố định cả. Thầy cười hoan hỷ, đoạn thầy hỏi: - Đúng, bác hiểu khá đấy, như vậy bác sẽ làm gì khi bác hiểu như vậy? - Kính bạch thầy, con sẽ buông ra tất cả mà không bám víu vào bất cứ điều gì trên thế gian này. Để mọi sự chảy suôi như dòng nước. Tính của nước luôn chảy xuống chỗ chũng (thủy lưu tại hạ), dù chỗ đó là đất hay cát, hoặc ruộng vườn. Bản chất của nước là như vậy, con cũng phải giữ tâm như vậy. Tại sao? Bẩm thưa thầy, bởi nước luôn chảy một cách tự nhiên xuống chỗ thấp mà không có cách nào cho nó chảy một cách tự nhiên lên trên cao được. Đó là định luật của càn khôn vũ trụ mà thầy vừa chỉ dậy cho con. - Vâng! Bác hiểu được như thế, tức là bác đã thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của bác rồi đấy. Bây giờ chỉ còn một điều là bác đưa vào thực hành những gì bác vừa chứng ngộ là đạt quả Phật rồi đó. Ông già ngạc nhiên thưa: - Kính thưa thầy, con ngỡ là thành Phật khó lắm chứ! Đâu đơn giản như thầy vừa nói ? - - Phật đã có sẵn ngay trong bác rồi. Nguời đời thường mang ông Phật thật, đi tìm kiếm ông Phật ơ ngoài, ở chốn xa xôi không sao thấy được, để cầu xin van vái… Trong lúc ông Phật ở ngay trong mình thí lại bỏ quên. - Bạch thầy, con vốn ngu tối xin thầy khai thị cho con được rõ ràng hơn, chứ thầy nói như thế làm sao con hiểu được. - Có khó gì đâu: “Phật Tức Tâm”. Mọi người trong chúng ta đã có sẵn một ông Phật ở trong ta rồi. Nhưng vì u mê tăm tối, nên tham lam: Sắc, Tài, Danh một cách vô độ mà không hiểu rằng những thứ đó do nhân duyên giả hợp tạm có. Hợp rồi tan, sinh rồi diệt! Ngay như xác thân bác cũng tạm có đó. Rồi trở thành không đó có bao lâu! Tựa hồ như bóng phù du, như ào ảnh, như khói sương… Nhưng vì si mê chạy theo níu kéo nó. Nên thành chúng sinh mà thôi. Bây giờ bác đã giác ngộ và bác buông ra những thứ mà trước đây bác bám víu vì ngỡ là thật… Vậy là bác đã thành Phật rồi. Bởi Phật và Chúng sinh chỉ khác nhau có một bước: MÊ LÀ CHÚNG SINH, GIÁC NGỘ LÀ PHẬT Phật và chúng sinh, chỉ khác nhau có vậy. Ví dụ: Ông bà thân sinh ra bác, cho bác ăn học tới nơi tới chốn; là con người trí thức đàng hoàng... Nhưng vì u mê! Bác ham chơi, đàn đúm với chúng bạn, sa đà say sưa trác táng, hưởng thụ thú vui vật chất, dẫn đến sa đọa hư hỏng. Khi ấy, bác là kẻ tồi tệ xấu xa… Nay gặp duyên may bác giác ngộ. Thấy được lẽ thật. Bác bỏ con đường hư thân mất nết, trở lại con người thật của mình… Với bằng cấp và kiến thức có sẵn của mình. Bác tận tụy làm ăn, liêm chính, giữ uy tín đạo đức… Là bác trở thành người cao sang, quí phái… Như vậy, một con người của bác có hai giai đọan: a) Giai đoạn 1: Bác là kẻ xấu xa, cho dù bác có bằng cấp là người học thức. b) Giai đoạn 2: Bác là người cao quí. Do bác giác ngộ được chân lý đạo Pháp… Tức là trước thì bác kà kẻ xấu xa do u mê! Sau bác thành người cao quí do bác giác ngộ. Nghĩa là xấu xa hay cao quí chỉ khác nhau có u mê hay giác ngộ mà thôi. Và Phật hay chúng sanh cũng chỉ khác nhau có thế… Đoạn thầy đọc bài kệ Chiều nay lộng gió thu về Lá vàng tơi tả tràn trề khắp nơi. Đời người như hạt sương rơi . Lung linh một thoáng mặt trời chiếu tan . Thân em như đóa hoa lan Ngươì đời yêu thích muôn vàn đắm say Nhưng rồi chẳng được bao ngày Cánh hoa tàn úa đổi thay hoàn toàn. Phạm Đà Giang |
|||||||||||||||||||||
mk
|
|||||||||||||||||||||
IP Logged | |||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 16/Oct/2013 lúc 8:06am | ||||||||||||||||||||
Oct 15 at 8:43 PM
|
|||||||||||||||||||||
mk
|
|||||||||||||||||||||
IP Logged | |||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 19/Oct/2013 lúc 7:50pm | ||||||||||||||||||||
CHỈ LÀ MỘT NẮM TRO
Ni
sư Thích Nữ Hạnh Chiếu
“Chỉ
là nắm tro” không
phải là một bài kinh trong kho tàng Phật điển, mà nó là một thực tế. Thực tế
ấy tôi đã chạm mắt, đã sờ mó được. Từ đó tôi có một cảm nhận riêng, xin được
chia sẻ với tất cả các bạn đồng tu nắm tro
này. Vì
là nữ nên Hòa thượng sắp xếp ở thiền viện ni tức Linh Chiếu. Cụ lớn tuổi nên
không nhập chúng, mà ở cái thất trong khuôn viên thiền viện do Hòa Thượng cất
cho. Vì thế chúng tôi xem cụ như một thiền sinh ni của viện. Cụ rất siêng tu,
không bao giờ lơi lỏng, tự lực lo cho mình mọi việc, ít làm phiền đến chư Ni.
Năm 91 tuổi cụ vẫn tự quét nhà, rửa chén, giăng mùng, không phải nhọc nhằn ai,
sáng suốt minh mẫn và rất dễ thương. Đến 92 tuổi cụ mất, ra đi hết sức nhẹ
nhàng, không giật mình giật mẩy, không làm kinh động đến đại
chúng. Khi
được tin cụ yếu, tôi sang thăm. Cụ nhìn tôi quá đổi hiền lành rồi khép nhẹ đôi
mắt, đi hồi nào tôi không hay. Thiền viện lo hết chuyện hậu sự. Hỏa táng xong,
buổi chiều tôi cùng chư ni đi lấy cốt. Phần xương cho vào hủ đem về
nhập tháp Liên Hoa tại Thường Chiếu, còn lại phần tro quý cô hốt vô bao ni
lông đem đến cầu Long Sơn – Bà Rịa. Tại
đây tôi được chư huynh đệ chỉ cho dãy núi Long Sơn thật trầm mặc nằm sâu lắng
bên trong. Dòng sông trước mắt cũng trôi chảy yên ả quá chừng, làm như không
có chuyện gì phải buồn phải vui. Sạch và trong văng vắt. Tôi thật bất ngờ về
một miền đất gần gũi với mình. Ở đó có một dòng sông tinh khiết, yên tĩnh, như
không hề bận tâm tới chuyện phố thị rộn ràng bên
ngoài. Huynh
đệ chia nhau nắm tro sau cùng của người pháp lữ cao niên rải xuống dòng sông.
Nắng chiều óng ánh chiếu xuống màu áo lam, màu xám tro, màu sông nước, màu
trái tim huynh đệ lần chia tay. Đẹp và cảm động vô cùng. Khi tôi bốc nắm tro
rải xuống, bụi tro bay bay trong hư không, từ từ tan loảng rồi hòa vào sông
nước. Về đến thiền viện, ngồi lặng lẽ trong phòng, tôi như ngộ ra một
điều: đời
người chỉ là nắm tro. Thật
ra chuyện này chúng ta ai cũng biết. Tôi cũng biết. Nhưng mãi đến khi chính
bản thân mình cầm nắm tro của bà cụ, mà trước đó mình ngồi một bên, còn nhìn,
còn nói, còn cười gọi tên… bây giờ lại là nắm tro, cũng do chính tay mình đem
gởi xuống dòng sông. Bỗng dưng tôi cảm nhận sâu sắc về một đời người, chung
cuộc của chiếc thân tứ đại, ai cũng như ai, chỉ là nắm tro. Đã là nắm
tro thì không có nắm tro nào sang hơn nắm tro nào, không có nắm tro nào vinh
quang hơn nắm tro nào, không có nắm tro nào ti tiện hơn nắm tro nào. Tự
nhiên bao nhiêu muộn phiền, toan tính trong lòng rớt xuống. Bởi vì mình đã là
nắm tro thì không có lý do gì đi phiền não các nắm tro
khác. Chúng
ta ít nhiều đã đánh mất cả một quãng đời của mình trong phiền lụy, khổ đau.
Cuối cùng tứ đại này không mang theo được vì nó chỉ là nắm tro, chỉ mang theo
nghiệp mà thôi. Sao
ta không tự hỏi vì cái gì mà ta tạo nghiệp, vì ai mà ta tạo nghiệp? Vì nắm tro
mà tạo nghiệp! Có vô lý không. Phải chi vì vàng vì ngọc mình tạo nghiệp cũng
được đi, nhưng vì nắm tro mà tạo nghiệp thì oan uổng quá. Tạo nghiệp để mưu
cầu hạnh phúc, không ngờ lại chuốt quả khổ đau. Bởi vì ranh giới giữa hạnh
phúc và khổ đau nằm ở chỗ nào, chúng ta không biết
được.
Chẳng
hạn trời đang nóng mình thèm ăn kem. Ăn được một cây kem thật tuyệt vời, có
thể gọi là hạnh phúc. Ăn thêm một cây nữa, cũng còn hạnh phúc. Thêm một cây
nữa thì… hết hạnh phúc, bởi vì nó sắp nôn ra đây nè. Nếu ăn kem là hạnh phúc
thì càng ăn càng hạnh phúc, ăn một cây hạnh phúc chỉ có một, ăn hai cây hạnh
phúc nhân đôi, ăn ba cây hạnh phúc nhân ba. Tại sao ăn ba cây lại hết hạnh
phúc? Thì ra chúng ta đã hiểu lầm về hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Là vừa lòng.
Tạm định nghĩa ngắn gọn như vậy đi. Mình
cho rằng cái gì vừa lòng, thích thú, thỏa mãn là hạnh phúc, mà không biết rằng
cơ thể chúng ta, tâm tư chúng ta không bao giờ thỏa mãn được hết. Khi tham là
cứ muốn thêm, mà sự tiếp nhận của thân tứ đại có chừng mực. Đến lúc nó không
tiếp nhận được nữa, mà nghiệp tham vẫn lôi kéo, thế là có sự xung đột giữa
thân và tâm. Như vậy là mất hạnh phúc. Phật
dạy các pháp chỉ là duyên sinh thôi, chứ không có cái gọi là chân thật trong
đó. Chúng ta luôn mong muốn mình sống thì phải được vừa lòng hoài, nhưng các
duyên không biết chuyện ấy. Nó cứ đến cứ đi, cứ họp cứ tan theo cách của nó.
Mình không vừa lòng thì thôi, nó không chiều mình. Cho nên rốt lại hạnh phúc
không có thật. Nó chỉ là ảo giác của cảm thọ. Cảm
thọ có ba:
Một là
thọ khổ. Khi gặp những cảnh trái ý, nghịch lòng chúng ta không thích, gọi là
thọ khổ.
Hai là
thọ lạc. Gặp những cảnh vừa ý thuận lòng, chúng ta thích thú sung sướng, gọi
là thọ lạc.
Ba là
thọ không khổ không lạc. Khi gặp cảnh bình thường, chúng ta cũng thấy bình
thường, gọi là thọ không khổ không lạc. Trong
ba cái thọ này, có một số người thích thọ bình thường. Tại sao? Vì họ bảo có
vui thì có khổ. Do sợ khổ nên không dám nhận vui, Lo xa như thế. Thì ra vì né
cái khổ mà tránh cả cái vui, chớ không phải giác ngộ cái vui tạm bợ của thế
gian vốn không thật. Do đó mà chọn thọ bình thường. Nhưng Phật nói rõ thế này:
Ba cái thọ đó đều vô thường, ngay cả thọ bình thường cũng không
thường. Tóm
lại, có thọ là có khổ. Chẳng hạn bây giờ mình không buồn cũng không vui, nhưng
có chuyện buồn tới mình sẽ buồn. Chúng ta chọn cái bình thường, nhưng ngoại
duyên không mãi bình thường được, nó luôn thay
đổi.
Ngoại
duyên đến từ bên ngoài, chúng ta không thể chủ động được. Trong toàn bộ đời
sống, con người chỉ chủ động một phần, còn lại phần lớn là bị động bởi các
duyên bên ngoài. Như thời tiết tốt chúng ta thấy bình thường, dễ chịu, nhưng
nếu nước lụt lên thì sao? Khổ liền. Các tỉnh miền Trung, miền Tây Nam bộ lụt
hoài, dân mình cứ phải sống theo con nước, hoàn toàn không thể chủ động được.
Đâu có ai muốn lụt, nhưng nước vẫn cứ dâng. Đó là duyên bên ngoài. Đến duyên
bên trong lục phủ ngũ tạng của chúng ta cũng thế. Có ai muốn bệnh đâu, mà sao
vẫn cứ bệnh. Già có bệnh của già, trẻ có bệnh của trẻ. Ngày nay
trẻ đã bệnh ké những bệnh của người già. Như vậy thân của mình mà mình nói nó
không nghe, biểu đừng bệnh mà vẫn cứ bệnh. Rõ ràng chúng ta mất quyền tự chủ
đối với thân tứ đại này rồi. Cho nên Phật bảo thân này không phải của
mình. Đã
không phải của mình, tại sao người ta nặng nhẹ một chút mình lại nổi sùng?
Chúng ta khổ vì chúng ta lầm. Đơn giản vậy thôi. Hàng xóm mích lòng nhau là vì
hiểu lầm. Phật nói thân này là duyên sinh, do bốn chất đất nước gió lửa hợp
thành, đó là phần thân, còn phần tâm là do nghiệp dẫn. Chúng ta tạo nghiệp,
rồi nghiệp quay trở lại lưu dẫn chúng ta thọ sanh. Cho nên đời quá khứ chúng
ta tạo nghiệp gì nhiều, đời sau sanh ra rất quen thuộc với nghiệp
ấy. Thương
ai nhiều, ghét ai nhiều, nhắc ai nhiều thì đời sau được gặp lại
thôi. Nếu
đời quá khứ ta đã là người tu, đời này sanh ra thấy chùa muốn tu ngay. Đời quá
khứ là ca sĩ, đời này nghe nhạc là hát. Hát rất hay mà không cần ai chỉ vẽ, vì
đã huân tập rồi. Nhiều thiên tài xuất hiện dưới dạng thần đồng, người ta bảo
là thiên tư, thật ra nó là dòng nghiệp được nối tiếp từ đời
trước. Tuy
nhiên, đạo Phật bảo nghiệp cũng không thật, có thể thay đổi được. Bởi vì nó do
duyên tạo tác, luôn thay đổi sinh diệt. Nếu thật thì nó còn hoài và không thể
sửa đổi. Song nó luôn biến dịch nên chúng ta có thể thay đổi được. Khi mê
chúng ta tạo nghiệp xấu, nhưng tỉnh rồi không tạo nghiệp xấu nữa, mà
tạo nghiệp thiện. Ví dụ chúng ta mê nên có tham sân si, nếu sáng suốt tỉnh táo
ta sẽ không thèm tham sân si nữa. Điều đó có người đã làm được, như các bậc
thánh nhân, cao tăng xưa cũng như nay. Nhờ thế chúng sanh mới có thể
tu thành Phật.
Có
người thấy tiền thích, có người thấy tiền không thích vì họ không có nhu cầu.
Nhu cầu thường không nhất định, do quan niệm và sở thích của mỗi người mà phát
sinh. Muốn bớt tham thì bớt nhu cầu. Muốn không tham thì không có nhu cầu. Vậy
thôi. Cho nên tham tiền hay không tham tiền, chúng ta làm được, nếu muốn. Giữa
hai nghiệp thiện và ác, mình muốn làm ác cũng được, muốn làm thiện cũng được.
Làm ác thì nghiệp ác dẫn đi trong đường ác. Làm lành thì nghiệp thiện dẫn đi
trong đường lành. Tất
cả đều do chúng ta quyết định. Có
người thắc mắc, khi chết rồi đi về đâu ai mà biết được?
Về
vấn đề này, chúng ta có thể lý giải sự có mặt của nghiệp qua những gì mình
thấy biết trong đời hiện tại. Như một gia đình, cha mẹ sanh ra ba đứa con.
Chúng được chăm sóc như nhau, mà ba đứa không đứa nào giống đứa nào. Chúng
khác nhau trên mặt mày, trên tánh tình. Tại sao cùng cha cùng mẹ, cùng sống
trong một môi trường, cùng nhận sự yêu thương chăm sóc như nhau mà lại khác
nhau? Nhiều đứa bé mới hai ba tuổi đã thể hiện những đường nét riêng của nó.
Đường nét riêng này ở đâu ra? Đâu có chuyện khơi khơi mà ra, chứng tỏ nó có
chủng tử nghiệp từ đời trước. Thêm
điều này nữa, chúng ta vừa thấy người nào đó thì mến liền, mặc dù chưa nói
chuyện với nhau lần nào. Người ấy có thể dễ mến với mình, nhưng chưa hẳn dễ
mến với người khác. Cũng thế, trong trường hợp đối nghịch. Vừa thấy người đó
lần đầu, bỗng nhiên ta dị ứng ngay, thì biết oan nghiệp tới rồi. Cho nên lúc
ra đi, tâm mình bình an không vấn vương việc gì, không sợ hãi việc gì, không
lưu niệm việc gì thì đi thanh thản, theo phước duyên thọ thân sau tốt đẹp.
Ngược lại, trước lúc ra đi chúng ta sợ hãi, hoảng loạn, lo nghĩ đến con cháu
thì thọ thân sau trong sự trói buộc của nghiệp lực đời
trước.
Người
Phật tử hiểu đạo rất sợ tạo nghiệp.
Thân này không giữ được vì nó là nắm tro, nhưng nghiệp sẽ quyết định cho vận
mệnh nhiều đời của mình. Chúng ta không đầu tư vào chuyện chăm chút nắm tro,
mà lo chuyển hóa tu tập ba nghiệp của mình. Hơn thua nhau từng tiếng là tạo
nghiệp bất thiện. Từ đó lưu vào tâm thức những hình ảnh căm tức sân hận,
nguyện gặp lại để trả thì rất nguy hiểm. Đó là một trở ngại trong tiến trình
tái sinh, nếu chúng ta chưa giải thoát được. Ở
đây mục đích của người tu thiền là giải thoát sanh tử, nhưng chúng ta không
dám đi quá xa với mức độ tu tập thực tế của mình, chỉ mong quý Phật tử chuyển
được nghiệp bất thiện thành nghiệp thiện, định tĩnh trước phút lâm chung để có
được hướng đi tốt. Sức mạnh của nghiệp rất đáng sợ. Ví dụ người nữ có tật hay
cằn nhằn. Thật ra họ không muốn cằn nhằn nhưng khi đã thành nghiệp rồi, vừa
gặp chuyện không hài lòng thì cằn nhằn. Cằn nhằn mà không hay mình đang cằn
nhằn. Cho nên mới nói bị nghiệp lôi, không kiềm chế được. Cũng như bên nam có
tật uống rượu. Uống quen không uống thấy buồn, thấy thèm. Đặc biệt những lúc
căng thẳng, bức xúc là đi kiếm rượu uống. Nhiều vị dư biết uống rượu là uống
chất độc mà đã nghiền rồi thì không cưỡng lại
được. Thế
nên vị nào lỡ nghiền rượu mà muốn bỏ thì xin đừng đi ngang quán rượu. Quán
rượu đâu có tay mà kéo quý vị, nhưng cái nghiệp nó sẽ kéo. Nghiệp là gì? Là
thói quen. Thật đơn giản mà không đơn giản chút nào. Tại sao? Như nghiệp uống
rượu, nghiệp đánh bài, nghiệp hút thuốc… muốn bỏ không phải là chuyện đơn
giản. Lại
nữa, chúng ta không ai thích phiền não nhưng luôn luôn sống trong phiền
não.
Tại
sao? Tại quen rồi, bỏ không được. Ai bắt chúng ta phiền não? Ta không có câu
trả lời vì ta không dám nhận lỗi về mình. Bây giờ muốn giải trừ phiền não,
nhất định phải truy nguyên cho ra nguồn gốc của nó. Phiền não từ mình mà ra.
Do si mê tăm tối nên ta tạo nghiệp, nghiệp quay trở lại làm tăng trưởng vô
minh. Cứ thế xoay vần gốc vô minh càng lớn, nghiệp lực càng mạnh, chúng ta
càng bị nó sai sử, chớ không ai bắt mình cả. Đối với phiền não, nhà Phật gọi
nó là giặc. Muốn trừ giặc, trước tiên ta phải phát hiện nó thật sớm, sau đó
kiên quyết đuổi sạch, không khoan nhượng mới yên ổn được. Vừa nổi nóng lên ta
phát hiện ngay, một tên giặc vừa ló đầu ra, dùng gươm trí tuệ chém nhanh. Tự
nói giận làm gì cho mệt, không thèm giận. Đó chính là tu tập, là chuyển hóa
nghiệp. Việc này cũng phải có lực, nhà Phật gọi là đạo lực. Muốn có
đạo lực mạnh phải liên tục huân tu, không đợi gặp cảnh mới
tu. Cái
gan của chúng sanh lớn tợn lắm, rất sợ khổ mà chuyên lao vào nhân khổ. Phật
nói Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợ quả. Nếu thấy phiền não mệt quá thì đừng thèm
phiền não. Thí dụ hồi xưa mình nói chuyện với ai, bất đồng ý kiến là bắt đầu
nổi sùng trong bụng, tức thiệt là tức. Bây giờ thấy tức mệt quá mình không tức
nữa. Vậy thôi. Ngoài cách đó ra không còn cách nào hữu hiệu hơn. Có người bảo
làm không được. Được chứ! Cứ không thèm tức thử coi ai làm gì mình. Thật ra
chúng ta không chịu buông cái sân giận mà lại đuổi theo nó, chơi với nó, hòa
nhập làm một với nó. Trong tâm cứ bám cứng theo đối tượng làm nhân cho sự tức
tối thì làm sao hết tức được. Như
có vị ngồi đây trong lòng đang buồn bực chuyện riêng. Lẽ ra hôm nay không đi
nghe pháp mà tại sùng bà hàng xóm quá, đi cho khuây khỏa. Nếu chúng tôi chia
sẻ với quí vị rằng đừng thèm sùng bà hàng xóm đó nữa, bỏ đi. Quí vị đồng ý
thực tập như vậy. Bà ta đâu có nhảy vô bụng của quí vị cản lại điều ấy. Thành
thử do ý chí, do quyết định sáng suốt, do sự thực hành của chúng ta
thôi. Tất
cả trạng thái tâm khổ đau là do ta tạo ra, ta lầm chấp.
Người kia có quyền thích ngọt, mình có quyền thích mặn, không thể bắt buộc
người kia thích giống mình. Cũng không vì người kia thích ngọt, mà ghét người
ta. Điều này vô lý. Tất cả các pháp do duyên sinh, không có duyên nào giống
duyên nào, chỉ giống nhau ở chỗ chúng đều là tướng sinh diệt. Tướng sinh diệt
thì không chân thật, có gì ta lấn cấn với nhau hoài, cuối cùng không ai hơn
ai, cũng không ai tồn tại. Chỉ
một thứ tồn tại gây khó cho mình, đó là nghiệp ta đã tạo. Thế mà ta lại quên,
cứ tạo hoài. Chính nghiệp tham sân si quyết định cuộc đời tiếp tục của chúng
ta. Trong một đời này mình khổ đã ngán rồi, bây giờ gieo nhân để thọ thân nữa
thì được khổ nữa. Một lần có thân là khổ, Phật bảo bốn thứ khổ cơ bản của thân
là sanh lão bệnh tử, không ai tránh khỏi. Đó là chưa kể tới thành bại hơn thua
trong cuộc đời. Thật ra cái chết không đáng sợ, nhưng vì mình mê thân nên
sợ chết. Sống thì khổ mà lại không muốn chết. Vậy chớ sống để làm gì? Sống để
khổ. Có lạ lùng chưa!
Trở
lại vấn đề nắm tro. Khi đang sống đây, dù chúng ta thành công vinh quang cách
mấy, cũng không giữ được. Vì sự thành công ấy phải gắn liền với chủ nhân, mà
chủ nhân sẽ không còn nữa để nhận sự vinh quang kia. Chủ
nhân theo vô thường mà trở thành nắm tro. Tội gì vì một nắm tro mà ta khổ
triền miên như vậy. Sao
không ngay đây thanh thản, hạnh phúc, bình an, để khi trở về với cát bụi, ta
chỉ còn lại sự thanh thản, bình an chớ không phải là nghiệp thức mênh mang.
Giả như còn nghiệp chúng ta cũng thọ nghiệp lành, tái sanh vào cõi lành. Nếu
hết nghiệp chúng ta không còn đi trong sanh tử, vĩnh viễn thoát khỏi khổ
đau. Chúng
ta cũng nên như thế, sống giữa trùng trùng duyên sinh tương đối, thân này còn
không giữ được huống là mọi việc chung quanh. Cho nên người tỉnh ngộ sớm chừng
nào thì khỏe chừng đó. Tỉnh ngộ chậm hoặc không khéo tỉnh ngộ thì sẽ khổ đến
nhắm mắt. Chẳng những khổ đến nhắm mắt mà cho tới lúc tái sinh vẫn tiếp tục
khổ.Chúng ta buông xuống hết những buồn phiền, giận hờn, thương ghét để
sống đúng trở lại bản vị của mình. Bên cạnh chùm duyên sinh còn có tánh
giác. Tánh
giác ấy chúng ta hiện có đủ, bình đẳng như nhau và vĩnh cửu bất sanh bất diệt.
Chúng ta luôn luôn nghe, luôn luôn thấy rõ ràng, đó là tánh Phật thường biết
nơi mỗi chúng sanh. Tánh này không ưu tư, không lao lự toan tính, thường tại
như vậy. Chỉ khi buông hết các duyên, ta mới nhận ra mình có tánh giác hiện
hữu. Bấy giờ còn thân tứ đại cũng vui mà không còn thân tứ đại cũng vui, sống
cũng vui mà chết cũng vui. Trong
nhà Phật, người tu giỏi là người buông xả giỏi. Buông tới lúc trong lòng trống
rỗng, không còn gì để buông nữa thì sống chết tự tại, vĩnh viễn an vui. Đó là
những gì chúng ta cần chia sẻ với nhau. |
|||||||||||||||||||||
mk
|
|||||||||||||||||||||
IP Logged | |||||||||||||||||||||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 23/Oct/2013 lúc 8:43pm | ||||||||||||||||||||
Khả năng kỳ lạ của những thiền sư thuộc thiền phái cổ xưa nhất VN
22/10/2013 19:29 Trong nhiều giai thoại về những bậc thiền sư của thiền phái Diệt Hỷ, có tên tuổi của nhiều bậc thiền sư nổi danh sở hữu "thân thủ phi phàm" tới mức bị giam trong ngục tù nhưng vẫn tự thoát ra bên ngoài. Có vị, nội công thâm hậu, một tay nhổ chiếc đinh sắt dài 5 tấc được đóng sâu vào cột điện. Thậm chí, có thiền sư dùng nội công phóng gậy chạy ngược dòng nước xiết nhưng gậy vẫn lao nhanh như tên bắn.Dấu ấn của thiền phái Diệt hỷ với võ học Việt Hiện nay, trong giới võ học Việt đã ghi nhận vai trò truyền bá võ học cổ truyền Ấn Độ đến Việt Nam là của các vị thiền sư từ Tây Trúc mà tên tuổi của vị thiền sư Ti ni đa lưu chi được nhiều võ sư thừa nhận, là người mang đến một luồng gió mới đối với võ học Việt. Giáo sư
Vũ Đức - Trưởng môn phái Võ lâm Việt Nam, từng công bố trong một công
trình nghiên cứu về lịch sử võ học cổ truyền: "Vào thế kỷ II, song song
với việc du nhập các tôn giáo Phật, Khổng, Lão vào Việt Nam, ngành võ
học từ Ấn Độ và Trung Hoa cũng được các vị thiền sư, đạo sĩ mang đến qua
hai con đường thủy và đường bộ. Nhưng mãi đến năm 580, thế kỷ thứ VI,
vị thiền sư Ti ni đa lưu chi từ Tây Trúc đã chính thức mang thiền tông
truyền bá vào nước ta, tại chùa Pháp Vân (nay Chùa Dâu, tỉnh Bắc Ninh),
truyền được 19 đời (580 - 1216). Năm 820, vị sư Trung Hoa là ngài Vô
Ngôn Thông đến chùa Kiến Sơ (hiện thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh)
lập nên thiền phái thứ hai, truyền được 14 đời (820 - 1221). Kể từ đó,
các môn võ lâm cổ truyền từ Ấn Độ cũng như các môn Thiếu Lâm Nam và Bắc
phái của ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Trung Hoa bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam".
Tọa thiền cũng là tu luyện võ công.
Trong cuốn sách Thiền Uyển tập Anh - sách cổ nhất viết về Phật giáo Việt Nam cho rằng, thiền sư Ti ni đa lưu chi đến chùa Pháp Vân truyền pháp vào năm 580. Tại đây, ông đã nhận Pháp Hiền (người Long Biên, Hà Nội) làm đệ tử chân truyền. Chuyện xưa kể rằng, Pháp Hiền thân cao 7 thước 3 tấc. Sau khi nhận được ý chỉ của thiền sư Ti ni đa lưu chi, Pháp Hiền vào rừng thẳm, chọn chốn thanh tịnh để tu luyện. "Mỗi lần Pháp Hiền đọc kinh thì chim bay đến chầu, dã thú vây quanh. Tên tuổi của Pháp Hiền vang danh khắp nơi, đệ tử theo học không sao kể xiết, thiền học nước Nam từ đó hưng thịnh". Từ đó, thiền phái Diệt Hỷ đã ăn sâu bám rễ vào mảnh đất Việt Nam. Trao đổi với PV báo ĐS&PL liên quan
đến mối quan hệ giữa võ học và thiền trong Phật giáo, võ sư Nguyễn Văn
Thắng - Trưởng môn của môn phái Thăng Long Võ Đạo cho biết: "Võ học
chính là phương tiện để tiếp cận tâm linh, hỗ trợ cho tâm linh. Do đó,
các thiền sư giỏi về võ thuật không có điều gì bất ngờ". Võ sư Nguyễn
Văn Thắng lý giải, theo quan niệm của phương Đông, con người gồm 3 thể,
thể vật lý, thể năng lượng và thể tâm linh. Quan trọng nhất luyện võ để
mở thể vật lý mạnh cơ bắp tức là lực. Lực phải có kình. Kình tức là khí
tức phải có qua khí công. Cơ thể con người, ngoài thể vật lý, trong thể
năng lượng thì thể tâm linh làm chủ. Vì vậy, muốn giỏi võ, đa số tất cả
các thầy võ có danh tiếng đều ngồi thiền (để làm chủ được thể tâm linh).
Ngược lại, thầy có tâm linh ngày xưa đều phải dùng đến khí công hoặc
yoga luyện võ học nhằm tiếp cận và làm chủ thể tâm linh. Tuyệt kỹ tàng hình của thiền sư Ma Ha Lần giở những trang sử ghi lại tài năng xuất chúng của những thiền sư trong môn phái này, những tên tuổi của các thiền sư như Pháp Hiền, Vạn Hạnh, Ma Ha, Đạo Hạnh... cũng đủ nói lên được vai trò của các vị chân sư đối với lịch sử dân tộc. Họ không chỉ là những nhà sư đức độ, mà còn là những người có công đóng góp lớn đối với sự phát triển của văn hóa dân tộc. Thậm chí, họ còn là những vị quân sư nức danh, hiến kế sách trị quốc cho nhiều đời vua, xây dựng nền thái bình thịnh trị của dân tộc dưới thời Tiền Lê, Lý, Trần. Riêng về võ học, đến nay, vẫn lưu truyền nhiều giai thoại liên quan đến tài năng võ học bậc thầy của các vị thiền sư. Trong đó, không ít người đạt đến ngưỡng giới cao nhất của võ học với những chiêu thức vi diệu, thân thủ biến hóa. Trong số những bậc thiền sư mà tài năng võ học được ghi nhận thì Thiền sư Ma Ha - đệ tử đời thứ 11 của thiền phái Diệt Hỷ được lưu truyền là người có khả năng tàng hình phi phàm mà người đời sau vẫn không ai đạt đến ngưỡng giới trên. Theo sách Thiền Uyển tập Anh ghi lại, thiền sư Ma Ha là người gốc Chiêm Thành, thuở nhỏ bản tính thông minh, năm 24 tuổi nối nghiệp cha đi tu. Ông là đệ tử đời thứ 11 của thiền phái Diệt Hỷ, người có khả năng tàng hình. Tương truyền, vua Lê Đại Hành vì nghe danh của thiền sư Ma Ha, có ý mời thiền sư vào triều hỏi việc. Tuy nhiên, thiền sư không thuận ý, vua 2 lần cho người đến mời nhưng không được. Lần thứ ba, thiền sư Ma Ha đành phải vào chầu vua. Khi vua hỏi, thiền sư Ma Ha tự xưng mình là "cuồng tăng tu tại chùa Quán Âm". Câu trả lời ngông cuồng của vị thiền sư này khiến vua cả giận, sau đó sai người bắt giam thiền sư vào chùa Quán Tri (Ninh Bình). Biết trước, thiền sư Ma Ha là người có võ học uyên thâm, tài năng ảo diệu nên vua sai khóa cửa ngục cẩn thận, bố trí đông lính canh gác nghiêm ngặt nhiều tầng để vị sư này không thể thoát thân. Tưởng rằng, sư Ma Ha vì khinh vua nên phải chịu kết cục bi thảm, cuộc đời bị giam trong ngục tù. Nhưng, qua một đêm, khi trời sáng mọi người đã thấy thiền sư Ma Ha đang ngồi ở phòng Tăng trong khi cửa ngục vẫn bị khóa. Lính canh không thể hiểu tại sao vị thiền sư này có thể thoát ra ngoài, khi họ chạy vào phòng giam thì cửa vẫn khóa cẩn thận. Sự việc khiến vua cho rằng, thiền sư Ma Ha có phép lạ và cuối cùng đành thả sư Ma Ha.
Chùa Thầy nơi thiền sư Đạo Hạnh tu luyện.
Tuyệt kỹ kungfu của thiền sư Đạo Hạnh và đệ tử Thiền sư Đạo Hạnh (? - 1117), tu tại chùa Thiên Trúc, núi Phật Tích (chùa Thầy, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội ngày nay) nổi tiếng với khả năng phóng gậy ngược dòng nước chảy xiết nhưng gậy vẫn lao nhanh vùn vụt như mũi tên bắn vào không trung. Tương truyền, từ nhỏ ngài vốn thông minh, tính tình phóng khoáng, thích giao du kết bạn. Khi lớn lên, gia đình không may gặp họa, cha ngài bị đạo sĩ có tên là Đại Điên (ở Dịch Vọng, Từ Liêm, Hà Nội) đánh chết, vứt xác xuống sông Tô Lịch. Ngài vô cùng căm giận, tự thề với bản thân, tìm mọi cách phải giết chết tên đạo sĩ trả thù. Lúc đầu ngài tìm cách đánh lén nhưng giữa chừng có "thần nhân" can ngăn. Bởi năng lực của ngài lúc đó mà đi trả thù chỉ có vào đường chết. Sau đó, thiền sư Đạo Hạnh quyết chí đi sang Ấn Độ học phép thuật, nhưng giữa chừng vì đường sá khó khăn nên đành trở về. Cuối cùng, ngài lên chùa Phật Tích (thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ngày nay) sống ẩn dật tu luyện, hàng ngày chuyên tụng chú Đại bi Tâm đà la ni. Sau thời gian tu luyện, khi năng lực đã đạt đến độ uyên thâm, thiền sư Đạo Hạnh quyết định đi trả thù kẻ đã giết chết cha mình. Sách Thiền Uyển tập Anh chép rằng: "Sư biết đạo pháp của mình đã thành, có thể trả thù cha nên mới đến bến Quyết, cầm gậy thử ném xuống dòng nước xiết, gậy trôi ngược dòng như con rồng rồi đến cầu Tây Dương (tức khu vực Cầu Giấy, Hà Nội ngày nay) dừng lại. Sư thấy thế mừng mà nói rằng: "Pháp ta thắng rồi", sau đó đi thẳng đến chỗ Đại Điên. Đại Điên thấy sư đến liền nói rằng, người không nhớ ngày trước sao - có ý dọa Đạo Hạnh. Đạo Hạnh ngửa mặt lên trời xem như không nghe thấy gì, nhân đó đánh mạnh, Đại Điên bị đòn sau đó lâm bệnh mà chết". Trong sách Lĩnh Nam chích quái, viết về thiền sư Đạo Hạnh như sau: "Ngài có khả năng đi trên mặt nước, bay trong không trung, hàng rồng phục cọp, lên trời rút đất, muôn quái nghìn kỳ, xuất quỷ nhập thần, chẳng lường hết được màu nhiệm". Tài năng võ học của thiền sư Đạo Hạnh càng được thừa nhận khi đệ tử của ngài là thiền sư Minh Không cũng được biết đến là người có nội công thâm hậu. Tương truyền, sau khi sư Vạn Hạnh chết, đệ tử là thiền sư Nguyễn Minh Không về quê cày cấy 20 năm, không màng tiếng tăm. Khi nghe tin vua Lý Thần Tông mắc bệnh lạ, không ai có thể chữa được, cho người đi khắp thiên hạ mời người có tài năng vào kinh chữa trị. Sách Thiền Uyển tập Anh chép: "Sư Minh Không liền vào kinh, trị bệnh cho vua. Khi sư đến, mọi người thấy bộ dạng của sư quê mùa có ý xem thường, sư liền đem một cái đinh lớn dài 5 tấc, dùng tay không đóng vào cột điện và nói, ai có tài dùng tay không nhổ cái đinh này ra trước thì đáng tôn trọng". Nói đến ba lần chẳng ai dám đứng lên, sau đó thiền sư Minh Không chỉ dùng hai ngón tay trái là nhổ chiếc đinh ra, bá quan văn võ trông thấy khiếp đảm"...
Trinh Phúc |
|||||||||||||||||||||
mk
|
|||||||||||||||||||||
IP Logged | |||||||||||||||||||||
hoangngochung
Senior Member Tham gia ngày: 27/Nov/2010 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 513 |
Gởi ngày: 24/Oct/2013 lúc 9:42am | ||||||||||||||||||||
Khổ !
|
|||||||||||||||||||||
hung0989077120@ahoo.com
|
|||||||||||||||||||||
IP Logged | |||||||||||||||||||||
<< phần trước Trang of 9 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |