Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 101 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 29/Apr/2011 lúc 4:26am | |
Phim Người Con Gái Ðà Nẵng
|
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 01/May/2011 lúc 9:33am | |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 12/May/2011 lúc 12:58pm | |
Anh hai, cùng cha khác mẹ với tôi. Người rất hiền. Tiếng nói nhỏ nhẹ. Nụ cười bình thản, vô tư. Anh không biết uống rượu. Hút thuốc ngày vài điếu cho vui thôi. Tính anh giản dị, không thích tranh đua với đời. Xong Trung học cấp một, anh vào đời, làm tài xế Taxi. Sau đó, anh cưới vợ. Mỗi ba năm, chị cho anh hai đứa con. Sáu năm anh đã có bốn đứa. Hai trai, hai gái. Chạy taxi, anh đủ nuôi một vợ, bốn con. Đủ mua luôn chiếc taxi anh đang lái. Chị ở nhà nội trợ. Không ai đua đòi phải giàu có hoặc hơn thua như người khác. Chiều chủ nhật, anh hay đưa vợ con vào Chợ Lớn ăn mì vịt tiềm. Mì xào áp chảo. Một đời sống tự tại, không lo nghĩ.
Một ngày, tấm giấy động viên gởi đến. Gia đình anh như mặt nước hồ đang yên tỉnh bỗng nổi sóng. Anh không còn lựa chọn nào khác. Bán chiếc taxi để tiền lại cho vợ nuôi con. Anh lên đường nhập ngũ. Có lẽ chuyện gia đình anh cũng na ná giống như nhiều gia đình khác trong thời chiến tranh. Một chuyện bình thường trong những chuyện bình thường khác. Tôi cũng có những chuyện bình thường của riêng tôi. Không để ý gì cho lắm về người anh cùng cha. Chỉ lâu lâu ghé nhà thăm chị và cháu, tôi nghe nói: anh đang ở Bình Long. Lần sau, anh đang ở Xuân Lộc. Lần khác, anh đang ở… đâu đó.. Những địa danh nghe quen thuộc vì nhiều người nói tới. Chưa bao giờ tôi được đặt chân lên. Chị bây giờ phải bươn chải, bán buôn để nuôi bốn đứa con mỗi ngày mỗi lớn hơn. Lương anh, chỉ đủ trả tiền cơm và thuốc lá. Vào lính rồi, anh hút thuốc nhiều hơn. Ai cũng biết, tiền lính, tính liền. Dư đâu mà gởi về gia đình. Thời gian trôi. Chiến tranh thi đua trôi theo thời gian, không ngừng nghỉ. Bao nhiêu người đã ngả xuống. Xác họ, người ta nói nếu gom lại vẫn chưa thể lấp đầy hố chia rẽ đã được lòng thù hận phi lý đào nên. Máu chảy, người ta nói có thể đùn lại thành cả con sông dài. Vẫn không nối lại được nhịp cầu bị chia cắt. Ở đâu đó, trên đất nước, mỗi ngày đều có tiếng súng nổ đì đùng. Ầm ỳ. Đinh tai. Nhức óc. Mỗi ngày đều có màu đỏ tươi của máu bắn ra khỏi thân người, văng tung tóe. Khô sạm đi trên mặt đất. Đôi lúc tôi nghĩ, anh hiền lắm. Một tiếng nói lớn cũng không nghe thấy, vậy mà anh phải ôm súng bắn vào kẻ thù có thể chưa nhìn rõ mặt. Tôi nghĩ, chắc là bắt buộc thôi. Bắn để tự vệ. Giết người để người không giết ta. Sau lưng anh và đồng đội anh có cả một giang sơn, gấm vóc, phải giết người để gìn giữ chớ!. Tôi nhớ, nụ cười anh nhỏ nhẹ, giống ba tôi. Lâu dần, tôi ít khi nhớ về người anh vẫn lang thang đâu đó trong cuộc chiến. Có lẽ vợ anh và những đứa con anh cũng thế. Ít khi để ra chút thì giờ nhớ đến anh. Có thì giờ đâu mà để? Chị mãi miết lo buôn buôn, bán bán. Dậy sớm, thức khuya. Quá mệt mõi với việc một mình làm, có đến năm miệng ăn. Những đứa con hàng ngày đến trường. Bài vỡ ngập mặt. Lo học. Lo thi. Về nhà còn ít khi gặp mẹ. Lâu ghê lắm mới gặp cha một lần. Lần nào cha về cũng không hẹn trước. Cha không biết khi nào sẽ về lần về sau. Tình nghĩa cha con lấn cấn giữa một khoảng cách vô hình nào đó. Có lần, tình cờ tôi gặp anh lúc về phép. Da anh xạm đen. Mặt mũi phong trần dữ lắm. Anh cũng không nói nhiều hơn ngày trước bao nhiêu. Chỉ qua loa vài câu thăm hỏi. Cơn bão lịch sử xoáy đến. Saigon tuy chưa chạm mặt chiến tranh, nhưng náo động, nóng sùng sục như chảo dầu sôi. Nhiều đoàn người giành giựt, chen lấn nhau, bỏ nước. Lần cuối về phép, anh nói sẽ thuyên chuyển đi vùng khác. Anh chưa liên lạc nên không ai biết anh đang ở đâu. Chiến tranh chấm dứt. Những họng súng đã ngưng nhả đạn. Trong sự hổn độn tàn cuộc, vợ anh dao động chờ đợi. Con anh bồn chồn trông ngóng. Mọi người bâng khuâng lo nghĩ. Không thấy tin gì về anh. Không biết đường nào tìm kiếm. Hy vọng anh là một trong những người lính đã quẳng súng, cởi bỏ quân phục bên vệ đường, tháo chạy. Chiến tranh hết rồi mà, anh còn đi đâu nữa bây giờ? Sớm muộn gì anh cũng tìm được con đường dẫn về nhà thôi. Thế nhưng … Bốn ngày sau, thằng con trai lớn mặt mũi lơ láo, thất thần, bước vào nhà tôi. Mếu máo: - Ông nội ơi, ba con chết rồi! Ba tôi bình tỉnh chỉ cái ghế biểu nó ngồi xuống cho yên rồi nói. Một đồng đội của anh tìm đến nhà kể chuyện. Anh là người duy nhất trong đồn không chịu bỏ súng. Anh lẳng lặng leo lên lô cốt khi xạ thủ đã nhảy khỏi chỗ ngồi. Anh một mình ôm khẩu đại liên nhả đạn liên tục. Vài viên đạn phía bên kia ghim vào thân anh. Một viên xuyên qua đầu. Không nón sắt. Và khẩu đại liên im tiếng. Chừng như viên đạn cuối đã thoát khỏi nòng. Anh ngã xuống… vĩnh viễn. Hai ngày sau, chiếc cam nhông mui trần, chở cái quan tài mua vội. Chúng tôi tìm đến đồn theo lời chỉ dẫn của đồng đội anh. Tôi không biết địa danh đó. Tâm trí đâu để ý. Nó không mấy xa Saigon. Lúc quẹo vào con đường không còn tráng nhựa, phải đi khá lâu mới tới. Chung quanh không có nhà dân. Cổng đồn gãy đổ, ngả sang một bên. Mấy người ôm súng dài, mặc toàn đen, giọng không thiện cảm. - Mấy người muốn gì!? - Dạ thưa các ông, chúng tôi xin các ông cho phép nhận xác chồng tôi về. - Phải cái thằng cứng cổ chết trên lô cốt kia không? - Dạ phải. - Chúng tôi đã vứt xác nó dưới kia, lấp đất lại rồi. - Dạ xin các ông vui lòng cho mẹ con tôi mang xác về chôn tử tế. - Nếu nó chết trong rừng, lấy gì tử tế với không tử tế, hả? - Dạ, chúng tôi van lạy các ông mà. - Tới đó mà đào lên! Nhanh đi!. Nước mắt mọi người bắt đầu tuôn. Những cái cuốc được những bàn tay run run, không chuyên, cào xuống nhè nhẹ, từ từ. Sợ cào mạnh trúng anh. Từng mảng đất nhỏ thảy lên hai bên bờ. Đất lấp không dầy lắm. Phút chốc, thấy cái lưng anh ló ra. Đến hai chân, chỉ còn mang vớ. Tôi nghĩ, chắc anh không kịp mang giày hay giày anh bị lấy mất? Mùi hôi thúi xông lên. Thằng con lớn ngừng tay, bịt mũi, nhăn mặt lợm giọng muốn mữa. Tiếng hét lớn làm mọi người giật nẫy mình: - Anh kia! Sao không tiếp tục đào đi? Anh ghê tởm à? Tôi nói cho anh biết, cha anh khi sống là kẻ thù. Giờ chết rồi, chúng tôi coi như kẻ bạn nên cho nhà anh lấy xác về chôn. Anh chớ làm bộ bịt mồm, bịt mũi. Anh không tiếp tục làm việc ngay, tôi sẽ bắn anh nát đầu!! Ông ta chĩa thẳng họng súng vào màng tang thằng con anh, nhìn mà lạnh xương sống.Tay chân nó run lên thấy rõ. Chị đi nhanh tới bên con, như che chở. Chị lên tiếng nhỏ nhẹ: - Xin ông tha cho con em. Để em nói nó. Con à, ráng làm mau mau, đi con. Thằng con không dám chần chờ. Nước mắt nó cứ chảy ròng ròng. Tôi len lén nhìn người vừa hét. Ông ta chừng năm mươi, quần áo toàn đen. Chiếc khăn rằn quấn quanh cổ. Bước chân ông lùi lại, nhưng khẩu súng dài vẫn lăm lăm chĩa vào đứa cháu tôi. Cả đám người quên mất mùi hôi thúi càng lúc càng tõa rộng. Họ làm việc nhanh hơn. Cuối cùng, người nắm chân, kẻ nắm tay kéo xác anh tôi lên khỏi cái mương khô. Xác anh phình to hơn người thường. Cũng may, cái quan tài đủ lớn để đặt anh vào. Chiếc cam nhông chở chúng tôi rời nơi anh đã nằm xuống với vận tốc khá cao. Không ai dám một lần xoay đầu nhìn lại. Tôi nhắm mắt, lẩm bẩm. Phải chi anh nuốt tức tửi xuống được. Anh hiền quá mà. Phải chi anh chịu buông súng , trở về với vợ con. Anh hiền quá mà. Phải chi… anh suy nghĩ kịp. Phải chi… phải chi… tôi có nhiều cái phải chi quá. Hồng Hoang (Đây là chuyện có thật 100% từ đầu đến cuối. Chỉ tiếc, một con én không làm nên mùa xuân. Có thể lần đầu tiên trong đời, anh hai tôi đã thật sự nổi giận khi người đang cầm đầu một quốc gia nỡ đành buông tay, bỏ rơi trách nhiệm. Giao trách nhiệm xuống cho người kế tiếp. Người kế tiếp không gánh nên chuyền tay giao xuống cho người kế tiếp nữa. Đến khi không còn ai kế tiếp để giao xuống… chuyện gì xảy ra sau đó??… cả thế giới đã biết rồi) |
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
mykieu
Senior Member Tham gia ngày: 10/Jun/2009 Thành viên: OffLine Số bài: 3471 |
Gởi ngày: 25/May/2011 lúc 1:13am | |
Chuyện 30-4: Vợ Chồng Điệp Viên
Phạm thành Châu
Học xong trung học, tôi thi vào Đại Học Sư Phạm ban Anh Văn.
Trong thời gian là sinh viên tôi còn làm việc cho số 3 Bạch Đằng. Đó là cách nói gọn của phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa. Tôi làm tình báo vì có máu phiêu lưu, thích chuyện mạo hiểm, sau nầy lại thêm mối thù việt cộng giết cha tôi. Ông già tôi là chủ một nhà máy xay lúa nhỏ ở vùng quê tỉnh Bạc Liêu. Vì là vùng mất an ninh nên phải đóng thuế cho việt cộng, ấy vậy mà cũng bị chúng nửa khuya đến gõ cửa đem ra đồng bắn bỏ. Cả mấy năm sau, tôi cố tâm điều tra mới biết rõ thủ phạm là một tên nằm vùng trong xóm, chỉ vì một xích mích nhỏ, hắn dẫn đồng bọn về giết người. Dĩ nhiên tôi trả thù. Sau khi tốt nghiệp sư phạm, trong lúc chờ sự vụ lệnh, tôi lẻn về nhà trốn trong phòng không cho hàng xóm biết, đến khuya tôi đến nhà hắn, nằm sau hè chờ. Ở thôn quê không có phòng vệ sinh trong nhà, khi cần thì ra sau vườn. Qua đêm thứ hai hắn mở cửa ra đi tiểu, tôi chĩa súng vào lưng hắn. - Đồng chí ra ngoài kia trả lời trước tổ chức về vài việc cần gấp. Hắn sinh nghi định phản ứng, tôi giáng cho một bá súng vào đầu, hắn bất tỉnh, tôi cột chân tay hắn, cõng trên lưng, ì ạch băng đồng ra chỗ bọn chúng giết cha tôi. Tôi khai thác tận tình cho đến khi hắn thú nhận tội giết cha tôi, lúc đó tôi mới cho hắn biết sự thật. Hắn van lạy, nhưng vô ích, hình ảnh cha tôi chết oan ức, mắt vẫn mở trừng trừng khiến tôi sôi gan. Sau đó gia đình tôi bán nhà máy xay lúa, bán nhà lên Sài Gòn ở. Tốt nghiệp xong tôi được điều đi các tỉnh dạy học. Sau mỗi công tác tình báo dù thành công hay thất bại tôi lại chuyển qua tỉnh khác. Câu chuyện bắt đâu khi tôi được giao cho việc theo dõi một cô thợ may ở ngoại ô một thành phố ven biển miền trung. Nguyên nhân là thỉnh thoảng lại có truyền đơn rải vào buổi sáng trên con đường vào thị xã. Đây là con đường mà đa số nông dân thường đem nông sản vào chợ bán. Họ chở bằng xe đạp, xe lăm hay xe bò. Sáng sớm nào cũng có cảnh sát rình ở đó nhưng chẳng thấy ai đáng tình nghi cả. Sau phải cho người nằm sát lề đường mới khám phá ra một cô gái đi xe đạp chở rau muống phía sau, dưới chân chỗ bàn đạp để mớ truyền đơn, cứ dỡ nhẹ chân là truyền đơn rơi xuống đường khó mà thấy được nhất là ở quãng đường tối. Qua điều tra đây là cô thợ may nhà ở vùng ngoại ô, sát địa giới thành phố. Sau nhà là một vạt ruộng nhỏ trồng rau muống, mỗi sáng cô chở rau vào chợ bán sỉ cho bạn hàng rồi về ngay. Cô sống với một mẹ già hơn sáu mươi tuổi. Gọi là tiệm chứ thực sự là một bàn máy may phía trước, cách một tấm vách cót là giường ngủ của hai mẹ con vừa làm chỗ thử áo quần. Gia đình nầy mới từ một quận miền núi về hơn một năm nay. Theo báo cáo, trước đó cô là nữ sinh trung học, sau theo nghề may. Tiệm của cô khá đông khách vì cô hiền lành, vui vẻ lại lấy công rất rẻ, có lẽ đây là trạm giao liên hơn là cơ sở kinh tài của địch. Nhiệm vụ của tôi là tìm cách tiếp cận cô để theo dõi. Tôi sẽ đóng vai một kẻ si tình cô, gặp gỡ cô mà bọn chúng không thể nghi ngờ, hoặc tốt hơn nữa sẽ được móc nối làm việc cho chúng. Một buổi sáng chủ nhật tôi chạy xe gắn máy gần đến nhà cô thì xe chết máy phải dừng lại sửa. Tôi vào tiệm xin cô miếng giẻ rồi loay hoay mở máy ra chùi, thay bu gi, tháo bình xăng con... toát mồ hôi mà xe vẫn không nổ. Tôi xin cô miếng nước uống và ngồi trước hiên nhà cô hỏi vài câu vơ vẩn rồi dẫn xe về. Qua hôm sau tôi đem một xấp vải đến nhờ cô may cho một áo sơ mi. Lần nầy tôi được cô mời vào nhà vì tôi là khách. Thế rồi, thỉnh thoảng tôi lại nhờ cô may một thứ gì đó và tôi ngập ngừng nói là tôi làm thế để được dịp gặp cô, không gặp tôi nhớ. Cô có vẻ bất ngờ, nhưng yên lặng. Những lần sau cô lại càng giữ ý, nhưng tôi bắt gặp trên đôi mắt cô mỗi khi thấy tôi, long lanh niềm vui. Trong lúc trò chuyện tôi cho cô biết về gia đình tôi rằng ông già tôi tham gia mặt trận bị quân đội Quốc Gia hành quân bắn chết. Thỉnh thoảng tôi đi chùa nghe thuyết pháp hoặc tham gia mít ting, tôi phát ngôn bừa bãi ra người bất mãn chế độ. Sau một thời gian lạnh lùng, giữ kẽ, cô có vẻ thân thiện, vui vẻ hơn. Kẻ thù trong bóng tối đang kéo dần con mồi về phía chúng, tôi biết mình đã được để ý, nhưng chỉ đến đấy thì hầu như bế tắc, tôi không biết được những gì chúng tôi cần. Một sáng chủ nhật, như thường lệ tôi đến thăm cô, nhưng đến nơi chỉ thấy một đống tro tàn đang bốc khói. Thì ra, không hiểu vì sao lúc khuya lửa bắt cháy, hai mẹ con chỉ kịp chạy thoát thân. Tôi khuyên nhủ nhưng cô vẫn lắc đầu lo lắng. - Tiền mua bàn máy may, mua miếng đất em trả chưa hết nợ, còn quần áo của khách nữa, họ nói bao nhiêu phải cố mà trả. Nhưng em còn đồng nào đâu! Tôi hứa với cô là sẽ hết lòng tìm cách giúp đỡ. Thế rồi tôi về bán chiếc xe gắn máy. Nhờ bà con chung quanh phụ giúp nhặt nhạnh những miếng tôle còn xài được, mua ít vật liệu, dựng lại căn nhà mới cũng khang trang, ngoài ra còn mua được một bàn máy may mới nữa. Chỉ trong một tuần tôi lo toan cho cô chu toàn. Từ đấy thái độ của cô đối với tôi thay đổi hẳn. Chúng tôi thường đưa nhau đi xem hát, ăn quà rong, đôi khi cô đến nhà trọ thăm tôi nữa. Mỗi khi đi với nhau cô thường chải chuốt, thoa chút phấn hồng trên má, trông cô đẹp hẳn ra, như lột xác từ một cô thợ may lọ lem thành một nàng tiên, nhưng đối với tôi, đi bên cô, nhất là những chỗ vắng, tôi có cảm giác rờn rợn, tưởng như mình đang đứng trước đỉnh đầu ruồi của một họng súng nào đó trong bóng tối. Vì nghề nghiệp, lúc nào tôi cũng cảnh giác, ngụy trang, dọ dẫm tìm một chỗ an toàn phía sau lưng. Một lần cô ghé nhà trọ thăm tôi, có một bà hàng xóm biết cô là thợ may đến năn nỉ cho con gái học nghề may. Cô là học sinh thi hỏng tú tài, muốn theo nghề may để phụ giúp gia đình. Nghe tôi nói thêm vào cô ta có vẻ bằng lòng nhưng hẹn ít hôm nữa mới trả lời, có lẽ chờ quyết định của tên đầu sỏ, chỉ huy cô. Tuần sau cô đồng ý nhận học trò. Được độ ba tháng nhờ sáng ý, cô bé học nghề khá tiến bộ. Tiệm may cũng đông khách hơn trước. Một hôm tôi gọi riêng cô bé hàng xóm qua nói chuyện. - Em học nghề may với chị Lan đến đâu rồi? - Em cắt chưa vững nhưng may thì khá lắm, khách nào cũng khen đường chỉ em thẳng, mịn và đẹp. - Có lẽ cần một máy may nữa mới phụ chị Lan kịp giao hàng cho khách. - Em cũng nghĩ vậy nhưng không có tiền. Tôi tâm sự với cô học trò. - Như em biết, thầy và chị Lan yêu nhau, dự định sẽ làm đám cưới, nhưng thầy còn ngại hình như chị Lan đang yêu ai nên thầy nhờ em giúp thầy tìm hiểu chị Lan xem có ai đến thân mật chuyện trò với chị ấy không? Em sẽ chẳng làm gì cho chị ấy nghi ngờ. Thầy có cái máy nầy, sẽ giấu dưới xách tay của em, khi đến nơi, em chỉ cần mắc xách tay sau lưng chỗ ngồi của em sát vách với phòng thử áo quần. Chỉ thế thôi, đừng cho bất cứ ai biết chuyện nầy. Nếu chị Lan hay ai bắt gặp cứ bảo rằng đó là máy thu thanh, thầy sẽ chỉ em cách mở nghe đài phát thanh. Em cũng đừng cho chị ấy biết là thầy cho em mượn tiền mua máy may, sợ chị nghi ngờ, ghen tuông phiền phức. Thế là chúng tôi nghe rõ những trao đổi, bàn bạc với nhau của bọn chúng trong phòng thử quần áo. Một bộ phận khác rình thu hình những khách hàng khả nghi và tiến hành điều tra. Chúng tôi gần như nắm vững tất cả những tên nằm vùng, cơ sở kinh tài, nơi chứa chấp những tên xâm nhập nữa, nhưng tên đầu sỏ vẫn chưa tìm ra!? Trong nghề nầy, một chút sơ ý là chết. Như cô thợ may, bị chúng tôi theo dõi mà không hay biết. Cô với tôi như hai tay nhu đạo đang lừa nhau để vật đối thủ xuống, cô đã bị thất thế hoàn toàn, nhưng tôi chưa ra tay và chờ cô ra đòn. Có thể cô làm bộ chuyện trò, hỏi han để tìm hiểu tôi hoặc rủ tôi một chiều nào đó ra vùng quê hóng gió tâm sự... Nhưng tuyệt nhiên chuyện đó không xảy ra. Cô lúc nào cũng ít nói, dịu dàng, nhưng như thế lại càng làm tôi e ngại và thấy cô rất bản lĩnh, rất nguy hiểm. Đi bên cô tôi cố làm vẻ sung sướng, hạnh phúc nhưng thật sự tôi có cảm tưởng cô như con rắn độc, chỉ một tích tắc cô hành động là đời tôi tàn ngay. Mạng tôi đổi mạng cô thì không xứng. Thế nên tôi chẳng hứng thú gì trong vai trò nầy cả. Tôi được lịnh phải tiến xa hơn tức là phải chung đụng xác thịt để giữ chặt con mồi, nhưng tôi không làm được. Dù cô có yêu tôi thực hay giả vờ tôi cũng quyết không đụng chạm đến nơi thiêng liêng đó của người con gái. Đó là yếu điểm của một tên tình báo non tay nghề như tôi. Mùa hè năm đó, đối phương lên phương án tấn công tỉnh. Mẻ lưới được tung ra. Chúng tôi dự định hành quân vào lúc khuya. Buổi chiều cô bé học may về báo cho tôi biết là lúc trưa có một ông sư khất thực đến trước nhà, cô Lan ra cúng dường, ông sư lầm thầm tụng kinh chúc phúc như mọi khi, nhưng lúc quay vào, thấy mặt cô tái mét, người cứ run lên bần bật...Chúng tôi đề nghị cảnh sát hành quân sớm hơn dự định. Thế là cả bọn bị tóm, kể cả chính tôi cũng bị cảnh sát đến gõ cửa, còng tay, đẩy lên xe cây. Thường thì sau khi vở kịch đã hạ màn như thế, tôi thảnh thơi nghỉ ngơi rồi nhận công tác mới. Nhưng không hiểu sao hình ảnh cô ta vẫn nguyên vẹn trong đầu tôi. Khi cô bị bắt, bị giam giữ, lòng trắc ẩn của tôi lại nổi lên. Đàn bà, con gái, trẻ con không có chỗ trong chiến tranh, họ phải được ở hậu phương, phải được thường xuyên che chở, bảo vệ. Một cô gái vô ý vấp ngã thấy đã động lòng rồi, huống gì cô thợ may hiền lành, dịu dàng kia đang bị nhốt trong nhà giam sau những song sắt như một con thú đã bị săn bắt, chờ ngày bị đem xẻ thịt. Tôi đã nhiều lần bí mật nhìn cô ủ rũ ngồi ở một góc phòng giam, héo úa như không có linh hồn, không còn cảm giác, suy nghĩ gì. Tương lai là chết rũ trong tù, tình yêu, hy vọng của tuổi thanh xuân coi như đã chấm hết. Đối với cô, tôi thấy thật bất nhẫn, lừa gạt một cô gái dù cô ta được điều khiển từ trong bóng tối. Và khi cảm tưởng cô không còn là kẻ thù của tôi nữa, sự cảnh giác đã được gạt bỏ, như bụi bặm trên một bức tranh đã được chùi sạch, để lộ ra hình ảnh trong sáng, dịu dàng của cô trong tâm trí tôi. Thế nên tôi đề nghị thả cô ra để cho những con mồi khác đến móc nối lại với cô. Từ phòng giam, tôi lại được gọi lên để đối chất về sự liên hệ giữa tôi và cô. Chúng tôi xác nhận có yêu nhau nhưng chẳng biết gì về việt cộng cả và anh cảnh sát thẩm vấn (vờ) tin ngay là thật, anh hứa sẽ thả chúng tôi ra và anh bỏ đi làm giấy tờ. Tôi đến ngồi gần cô cầm lấy tay cô, cô ngước nhìn tôi và lắc đầu, có lẽ cô cho rằng lời anh thẩm vấn viên chỉ là cái bẫy, nhưng tôi cố tình cho cô hiểu tôi là người có thẩm quyền, tôi cứu cô ra vì tôi yêu cô. - Như em đã nghe lúc nãy, anh xin bảo lãnh em và chịu trách nhiệm liên đới về những hành động của em sau nầy. Nếu em thương yêu anh thực lòng thì em hãy lánh xa những gì có thể gây nguy hiểm cho em. Em còn mẹ già phải nuôi dưỡng, rồi em sẽ lập gia đình, có con cái, sống hạnh phúc như bao người bình thường khác. Đừng dại dột nữa, không phải anh sợ bị vạ lây nhưng nếu em gặp chuyện không may anh sẽ đau khổ lắm. Anh sẽ thu xếp cho em và mẹ em vào Sài Gòn sống lẫn trong đồng bào thì sẽ không có ai quấy rầy em nữa. Chúng mình sẽ làm đám hỏi và khi nào anh vận động xin về dạy gần Sài Gòn sẽ làm đám cưới. Cô cúi đầu yên lặng nghe, rồi cô nắm tay tôi đặt lên đùi cô, siết nhẹ. Một giọt nước mắt rơi trên tay tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Cô đã hiểu ý tôi. Cô viết cho mẹ cô một lá thư, dặn bán nhà để chuẩn bị về quê, chỉ giữ lại bàn máy may. Sau đó chúng tôi lặng lẽ về Sài Gòn. Nhờ bạn bè giúp đỡ, tôi tìm mua được một căn nhà nhỏ ở chợ Cây Quéo, góc đường Hoàng Hoa Thám, Ngô Tùng Châu Gia Định. Dĩ nhiên việc theo dõi cô không phải đã chấm dứt. Công tác của chúng tôi thường được tình báo Mỹ yểm trợ. Người Mỹ rất hào phóng nhưng cũng rất nguyên tắc, họ đã vui vẻ trả lại tiền cho tôi mua lại chiếc xe gắn máy, trả cả những chi phí lặt vặt như đưa cô đi xem hát, ăn quà rong. Nhưng sau cuộc hành quân, hồ sơ coi như đã đóng. Lần nầy tôi lại bán xe, vay mượn thêm để lo cho cô mà không biết khi nào mới có tiền mua lại xe khác. Suốt mấy tháng hè, tôi về Sài Gòn với gia đình. Buổi chiều tôi thường ghé thăm cô, có khi tôi ăn cơm tối với gia đình cô. Sau bữa ăn, bà mẹ dọn dẹp chén đĩa, còn cô thì xin phép đi tắm. Chợ Cây Quéo nằm trong một đường hẻm, sau khi tan chợ chiều, trở thành vắng lặng như ở một vùng quê. Sau nhà cô có một sân vuông nhỏ, rào kín chung quanh, tôi thích ra đấy ngồi xuống một ghế gỗ dài để chờ cô. Cô có thói quen là sau khi tắm cô không mặc nịt ngực, nên qua lần vải mỏng, đồi ngực cô thẳng đứng lên, lồ lộ như hai mụt măng tre vừa chồi lên khỏi mặt đất. Cô ngồi cạnh tôi, nghiêng đầu dùng khăn vò mái tóc cho khô, chải nhẹ cho tóc thẳng, xong cô ngửa người vuốt mái tóc về sau lưng, rồi cô nhìn tôi mỉm cười. Tôi yên lặng ngắm cô, tưởng như thấy rõ làn da mịn màng, thơm tho của thân thể cô... Sau đó chúng tôi có một thứ quà rong như chè hay trái cây để vừa ăn vừa chuyện trò đến khuya mới chia tay. Sau kỳ nghỉ hè tôi được chuyển ra Huế dạy học, tôi viết cho cô một lá thư dài và hẹn Tết sẽ về xin làm đám hỏi. Tính cô ít nói, ngay cả thư trả lời chỉ vỏn vẹn mấy câu "Được thư anh, em khóc mấy hôm nay vì vui mừng. Cám ơn anh đã hiểu em và lời hứa của anh lần nầy em tin là thật, bằng trái tim và cả cuộc đời em" Khoảng cuối năm đó tôi xin phép về Sài Gòn, khi đến nhà cô tôi ngạc nhiên thấy nhà đã sửa sang lại tươm tất. Cô dẫn tôi ra phía sau khoe một căn phòng vừa mới được xây thêm. - Mẹ ngủ phòng ngoài kia, em ngủ trong nầy. - Còn anh thì nằm dưới đất?! Cô đỏ mặt nhưng sung sướng. - Anh với em phòng nầy chứ. Lễ hỏi chúng tôi diễn ra đơn giản, kín đáo. Gia đình tôi cứ tưởng tôi sẽ lập gia đình với một cô nữ sinh nào đó, không ngờ là một cô thợ may. Chẳng phải họ kỳ thị hay giai cấp gì mà theo lệ thường, thầy giáo rất dễ chọn vợ đẹp trong trường mình dạy. Nhưng khi gặp lần đầu, mọi người đều thích cô ngay. Cô vừa hiền vừa đẹp một cách thùy mị. Mẹ tôi cứ mẹ mẹ con con với cô ngọt xớt, các cô em gái tôi thì tíu tít hỏi han, trò chuyện rất thân mật khiến cô bối rối, vụng về vì cảm động. Từ đó gần như ngày nào tôi cũng đến nhà cô, đôi khi ngủ lại nữa, nhưng chúng tôi đã hứa với nhau phải giữ gìn, để dành cho ngày hôn lễ. Cô có những suy nghĩ lẩm cẩm rất đàn bà. Cô thêu những áo gối có hình quả tim, tên tôi và tên cô lồng vào nhau, hình đôi chim đang bay, rồi cô phân vân về tên của những đứa con trong tương lai. Tôi chế giễu thì cô giận, nhưng thâm tâm cô rất vui sướng với giấc mơ đơn giản đó. Tôi bàn với cô vài tháng nữa sẽ làm đám cưới, nhưng rồi đầu năm bảy lăm miền Nam bắt đầu sụp đổ từng mảng, tất cả tan rã như bọt nước. Người ta ùn ùn chạy về phía Nam , tôi phải nấn ná lo tiêu hủy hồ sơ, phân tán mạng lưới nên vào đến Đà Nẳng lại đành quay về Huế vì miền Trung đã rơi vào tay đối phương rồi. Kẻ thù hình như chưa biết gì về tôi cả ngoài cái vỏ bọc thầy giáo trung học. Chúng bắt đầu gọi các cô thầy đến khai lý lịch và như đang sắp xếp mở cửa các trường học. Thế rồi khoảng cuối tháng năm, năm bảy lăm, nửa khuya, chúng đến vây nhà trọ, gõ cửa, còng tay tôi dẫn ra xe. Thoạt nhìn, ngoài chiếc xe cảnh sát chở đầy bộ đội tôi còn thấy một xe mang số ẩn tế Sài Gòn, tôi biết ngay bọn chúng đã tìm ra chính xác tông tích tôi. Nhưng tại sao trung ương lại không hủy hồ sơ? Ngồi kèm tôi là hai tên bộ đội còn trẻ mang súng AK. Phía trước, bên cạnh tài xế là một người đàn bà. Xe chạy ra khỏi cửa Thượng Tứ, qua cầu Trường Tiền đến đường Duy Tân, chiếc xe chạy trước quẹo vào ty cảnh sát (cũ), còn xe chở tôi chạy thẳng, hướng về quốc lộ. Tôi đoán chúng đưa tôi về Sài Gòn khai thác. Tôi dự định thoát thân, nhưng đến gần phía Nam tôi mới hành động. Nghĩ thế nên tôi buông thả, thiu thiu ngủ dưỡng sức. Dọc đường xe phải ngừng ở các nút chặn, tên tài xế cũng là bộ đội trình giấy và nói gì đấy, ánh đèn loang loáng vào xe, rồi xe lại tiếp tục. Đến Quảng Ngãi trời đã rạng sáng, tôi lơ mơ mở mắt nhìn quanh. Bỗng tôi lạnh người khi nhận ra người đàn bà ngồi phía trước là cô thợ may, vợ sắp cưới của tôi. Hóa ra chúng tôi đã lầm trong điệp vụ vừa kể, tên đầu sỏ là cô ta chứ không phải gã thầy tu khất thực. Tôi cay đắng cười thầm mình thua trí một người đàn bà, cô đã ngụy trang một cách tài tình, không chỉ đánh lừa chúng tôi mà còn đánh lừa cả đến lũ chân tay của cô. Nhớ lại những ngày chúng tôi bên nhau, tôi sượng sùng, xấu hổ với cô. Cô đã đóng một vai kịch rất xuất sắc, rất bản lĩnh, tôi vẫn chỉ là một con mồi ngây thơ. Ấy vậy mà tôi cứ tưởng tình yêu chân thành của tôi đã cảm hóa được cô. Giờ đây cô ngồi đó, lạnh như tiền. Cô đang nghĩ gì về tôi, một tên điệp viên hạng bét, ngây ngô, lãng mạng tiểu tư sản? Xe đến Bình Định, ghé vào một quán cơm bên đường, tôi được tên bộ đội mở còng nhưng dặn "Cần gì nói tôi, giữ khoảng cách năm bước, đến gần hay xa hơn, sẽ bị bắn bỏ" Tôi được dẫn vào ngồi một bàn ở một góc quán, mấy tên bộ đội ngồi hai bên, còn cô ta thì ngồi riêng. Sau bữa ăn, lúc trả tiền cô lôi ra một xấp bạc mới tinh, rút vài tờ vất đấy, đứng dậy, không lấy tiền thối. Tôi cố tỏ ra sợ sệt và ngoan ngoãn để chúng tin, hi vọng đến chiều tối nếu cũng ăn uống như thế nầy tôi sẽ bỏ chạy rất dễ dàng và bóng đêm sẽ che chở cho tôi. Nhưng tôi đã lầm, xe chạy suốt đến sáng, đến ngã ba Hàng Xanh theo đường Bạch Đằng, rồi Chi Lăng, Ngô Tùng Châu và vào hẽm chợ Cây Quéo. Cô vào nhà một lúc lâu mới đi ra với bà mẹ. Hai mẹ con ngồi phía trước, xe lại tiếp tục trở ra xa lộ đến Biên Hòa quẹo hướng Vũng Tàu. Tôi đoán chúng sẽ truy tôi về công tác ở Vũng Tàu, Long Hải trước đây hoặc giao cho lũ nằm vùng, nội tuyến đã bị tôi đưa đi tù, và chúng sẽ mặc sức trả thù. Đến Vũng Tàu, ghé mua mấy ổ bánh mì thịt, xe vào một khách sạn hạng trung bình. Sau khi ăn uống, làm vệ sinh, tôi lại bị còng tay cho vào phòng riêng, phía ngoài là hai tên bộ đội canh cửa. Tôi nghe cô ta dặn hai tên gác là phải cảnh giác cao độ với tên địch nguy hiểm đó (là tôi), và cô đến ủy ban quân quản có chuyện cần, sẽ về ngay. Tôi mệt mỏi lăn ra ngủ một giấc lấy sức, dự định tối nay leo cửa sổ trốn đi. Cái còng không thành vấn đề, một cọng thép nhỏ là xong, và cọng thép đó đang nằm trong sợi dây đồng hồ mà tôi đã có được lúc tôi đòi đi tiểu ở hàng cơm ở Bình Định. Nhưng đến gần tối, sau khi được ăn một ổ bánh mì nữa, chúng lại còng cả chân tôi vào giường và hai tên bộ đội ngồi ngay trong phòng tôi, thay phiên nhau lõ đôi mắt cú vọ canh chừng tôi. Thế là hết đường trốn thoát! Nhớ lại thời gian hứa hôn chúng tôi sống bên nhau, cô đã dần dần hiểu tôi, trong sự săn sóc cô đón ý tôi rất tài. Lúc đó tôi sung sướng nghĩ rằng mình có được cô vợ toàn tâm toàn ý, bây giờ chính cái toàn tâm toàn ý kia lại hại tôi. Cô đã thấy được không sai chạy những gì tôi nghĩ trong đầu, dù chỉ vừa thoáng qua là cô đề phòng ngay. Tối đó độ hơn mười giờ, tôi được dẫn ra xe, vẫn đủ sáu người như trước. Xe chạy loanh quanh trong thành phố một lúc rồi hướng ra Bãi Sau. Trời đêm đầy mây, lạnh kinh khủng, miền Nam chưa bao giờ lạnh như năm đó, đường vắng tanh, lờ mờ ánh đèn, tiếng sóng vỗ rì rào, buồn bã. Xe chạy đến cuối bãi thì dừng lại. Cô ra lịnh bịt mắt tôi lại. - Đồng chí đưa tôi khẩu AK. Cứ ở đây chờ, khi nào nghe tiếng súng nổ tôi sẽ ra. Và cô nói với bà mẹ, giọng lạnh lẽo, hàm răng rít lại. - Mẹ phải theo con, xem con trả thù kẻ đã giết hại gia đình mình và bao nhiêu đồng chí khác nữa. Đúng là oan oan tương báo. Tôi đã xử tội tên nằm vùng giết cha tôi ra sao, bây giờ tôi sẽ gặp y như vậy. Nhưng tôi không nhớ rõ mình đã làm gì để cô thù hận tôi đến độ giờ đây đem ra xử bắn tôi, không lẽ cô là con của tên nằm vùng kia?! Cô lên đạn, chĩa súng vào lưng tôi, đẩy tôi đi trước. Cô đã phạm một sai lầm chết người. Cô dí súng vào lưng tôi là giúp tôi nắm được quãng cách giữa cô và tôi. Tầm vóc cô thì tôi còn lạ gì. Chỉ cần tôi quay nhanh lại là mũi súng sẽ chệch ra ngoài và với một đòn chân, tôi có thể đá gãy cổ cô hay ít ra cũng hạ gục cô trong tích tắt. Trong bóng tối thì bị bịt mắt hay không cũng mù như nhau. Tôi lần tìm cọng thép trong dây đồng hồ và bắt đầu mở khóa còng tay. Được một quãng, khi đoán đã xa tầm nghe ngóng của mấy tên bộ đội, tôi vừa định ra đòn thì cô mở băng bịt mắt tôi. - Anh cõng mẹ được không? Nhanh lên! Nếu có chuyện gì, anh và mẹ cứ chạy thoát đừng lo cho em. Có thuyền chờ sẵn đằng kia. Cô ôm súng chạy phía trước, tôi cõng bà cụ men theo bờ rừng dương liễu mải miết theo cô. Độ một cây số, chúng tôi đến một thuyền nhỏ có người chờ sẵn. Thuyền được đẩy ra, nổ máy và nửa giờ sau chúng tôi ra thuyền lớn đi thẳng. Hôm sau chúng tôi được tàu Mỹ vớt về đảo Guam .
Phạm thành Châu
|
||
mk
|
||
IP Logged | ||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 29/Mar/2012 lúc 9:05pm | |
I f we want a love message to be heard, it has got to be sent out. To keep a lamp burning we have to keep putting oil in it. Mother Teresa Tôi như cái bánh xe, cứ tiếp tục lăn theo ngày tháng, chuyện gì rồi cũng quên. Vậy mà không thể quên được hắn. Biến cố năm 75, đưa tôi sang đất Hoa Kỳ. Những năm dài lao-động vinh-quang đôi khi cũng làm tôi tủi thân, nhưng nghĩ đến bạn chắc giờ này đang miệt mài trong trại học tập, cải tạo, tôi cũng có phần an ủi, dù sao tôi cũng còn được thở không khí tự-do. Bạn tôi, một người chưa hề bị ai khuất phục, chắc là khó sống được với những người bên kia chiến tuyến. Bao nhiêu năm sống trên đất người, tôi vẫn nghĩ tới bạn và tìm mọi cách để liên lạc nhưng đều thất bại, cho đến một hôm, có người bạn rủ đi coi một ông thầy bói người Miên. Tính hiếu kỳ dẫn tôi lại gặp ông Thầy, tôi cũng thưa thật hoàn cảnh, muốn tìm lại người bạn nối-khố khi xưa nhưng không biết cách nào. Ông Thầy biểu viết tên tuổi vào một mảnh giấy, rồi ông tới bàn thờ khấn một hồi và cho tôi hay: -Khoảng hai, ba tháng sẽ gặp lại bạn Nghe thì biết vậy nhưng tôi không tin cho lắm, nên hỏi thêm: -Bạn tôi có sao không? Ông thầy không lưỡng-lự, đáp ngay: -Ạnh ta nghèo lắm, chân bên phải bị cái gì đó đi cà-nhắc. Tôi cảm ơn ông Thầy và tặng ông một chút tiền còm rồi ra về, trong thâm tâm tôi nghĩ: “Chắc là Bà Cụ thân sinh bạn tôi đã được như ý nguyện: Từ nay sẽ nuôi thằng con tật nguyền suốt đời”. Tôi buồn bã hết mấy ngày vì chuyện không căn cứ, tự nhủ “Đã bao nhiêu ông thầy bói nói trúng chuyện dương gian?”. Vậy mà vẫn bần thần nhớ lại đủ chuyện, một thời... * Hồi xưa trường trung học Chu-Văn-An Saigon thường tuyển học sinh mới vào lớp đệ Tam, chúng tôi bốn đứa từ bốn miền khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, được trúng tuyển vào học cùng lớp và trở nên “bốn chàng Ngự-Lâm Pháo-Thủ”. Lễ, người miền Trung, Kính, một loại “Bắc-Kỳ Cũ” gia đình đã từ Bắc di cư vào Nam trước năm 1954, tôi được gọi là “Bắc-Kỳ Rốn” hay Bắc-Kỳ có cọng rau muống ở sau .... , Thanh, Nam-Kỳ chánh hiệu con nai vàng. Năm đầu tiên Chu-Văn-An còn phải học ké mấy dẫy nhà sau của trường trung học Pétrus Ký, Chúng tôi là thứ công dân hạng nhì con nhà nghèo phải ăn nhờ ở đậu, so với đám hoc sinh Pétrus Ký. Thời đó, Công Sản tìm đủ cách để chia rẽ Bắc, Nam cho nên những trận ẩu-đả sẩy ra thường xuyên giữa 2 đám học sinh học cùng trường nhưng khác tên: Pétrus Ký và Chu-Văn-An hay học-sinh Nam Kỳ và học sinh Bắc Kỳ. Đám Pétrus Ký mỗi lần thấy đám Chu-Văn-An là bắt đầu la to: “Băc Kỳ ăn cá rô cây”. Anh bạn Nam Kỳ của tôi lại chính là người hăng-hái nhất đứng ra bảo vệ danh dự cho Chu-Văn-An. Chúng tôi bốn đứa đồng lượt la to: “Chu-Văn-An Tiến”, thế là hai bên sáp lá cà ẩu đả. Qua năm đệ nhị, Chu-Văn-An được về khu nhà mới xây gần Nhà Thờ Ngã Sáu, từ đó những trận nội chiến mới chấm dứt. Trong bốn đứa chúng tôi, Thanh và Kính là con nhà khá giả, Tôi và Lễ là hai đứa khố rách áo ôm, cho nên mỗi lần trốn học đi đánh Pingpong hay Billard, hai tên nhà giàu tranh nhau chi tiền. Tôi không mặn mấy món giải trí đó cho lắm, đánh cho vui vậy thôi cho nên ngón nghề chẳng tiến thêm được chút nào, mặc dầu các bạn tôi tốn rất nhiều tiền cho chủ bàn. Ngược lại Thanh càng ngày càng xuất sắc, hắn bắt chước lối “Cầm Thìa” của cây vợt bóng nhựa vô-địch Nhật Bản TANAKA. Lối cầm vợt chủ về thế công mà bỏ trống hẳn thế thủ. Tanaka quan niệm rằng: Giống như đánh võ đài, nếu cứ tấn công tới tấp, đối phương chỉ lo chống đỡ mà không có dịp phản-công, phần thắng bao giờ cũng về mình. Đó là lối đánh mới lạ và vũ-bão khác hẩn lối “công, thủ đề huề” của nhà vô địch Mai-Văn-Hoà. Thanh đã trở nên một tay vợt xuất sắc, vô địch toàn trường rồi đại diện đi đấu với 6 tỉnh miền Tây. Tôi và Thanh càng ngày càng thân thiết hơn, những kỳ nghỉ hè tôi đến nhà Ba, Má Thanh chơi ăn vạ hết cả ba tháng hè. Báo hại bà chủ trọ không biết tôi đi đâu, sống chết ra sao, nhưng điều bà lo lắng nhất vẫn là không đòi được tiền thuê nhà tháng đó. Thanh trọ học nhà ông Dượng, cũng gần chỗ tôi ở cho nên những ngày không đi học tôi đều qua đó chơi và kiếm ăn. Ông Dượng có bày con rất dễ thương và ngoan ngoãn, đám trẻ đang đổi từ chương trình Pháp qua chương trình Việt, nên tôi lại được làm chân cậu giáo. Năm thi tú-tài I, bốn đứa chúng tôi đều đậu cả. Tuổi mới lớn, bắt đầu suy tư. Tôi và Lễ biết thân phận nghèo cho nên vấn đề học tập không dám lơ là. Năm đệ nhất, biến cố đảo chánh 63 sảy ra, đám học trò cũng làm cách mạng! Nhiều giáo-sư trung-học bị chụp mũ là mật-vụ, trong đó có một giáo-sư dạy triết nổi tiếng của đệ-nhất C. Thế là đám “bảo-vệ-thầy” và đám “Cách-Mạng” đánh nhau một trận rất hăng mà chiếc cầu thang lầu 3 và lầu 4 là bãi chiến trường. Bạn tôi, một tên Nam-Kỳ chánh hiệu, bao giờ cũng có máu giang hồ “Anh hùng thấy chuyện bất bình chẳng tha” thế là hắn nhẩy vào phe phòng thủ và đánh bại phe “Cách-mạng” để cứu bồ. Dĩ nhiên là những cái mũ vì tư thù cá nhân chụp lên vài ngày rồi cũng rớt xuống đất chẳng ai thèm để ý. Năm đó chúng tôi chơi nhiều hơn học, cho nên kỳ thi tú-tài II, hai thằng nhà nghèo đậu. còn hai thằng nhà giàu rớt. Tỷ-số 50% đó quá thấp so với tỷ số đậu toàn trường của Chu-Văn-An thường là trên 80%. Sau biến-cố 63, cường độ Chiến tranh đã tăng lên khá cao. Bạn tôi thi rớt năm đó không phải vì ăn chơi mà vì một yếu tố khác mà chỉ mình tôi biết. Hắn đã biết yêu! Mối tình lãng mạn thầm kín của tuổi học trò với cô bé hàng xóm đã khiến hắn được nếm mùi trái đắng lần đầu tiên trong đời. Tôi chỉ là một tên khờ biết lắng nghe những tâm sự u-uẩn của bạn, cho nên chúng tôi càng ngày càng thân thiết nhau hơn. Nhũng cặp tình-nhân trẻ dĩ nhiên là giận hờn như cơm bữa, những lúc đó bạn hỏi ý kiến, tôi làm ra vẻ một tay sành đời chỉ dẫn cho bạn làm sao để đối phó với người đẹp. Tôi là một tên khôn vặt nhờ đọc tiểu thuyết của Tự-lực Văn-đoàn, những cuốn như Hồn Bướm Mơ Tiên, Gánh Hàng Hoa, Đoạn Tuyệt tôi thuộc nằm lòng, chỉ việc trích ra vaì đoạn là bạn tôi phục sát đất. Mối tình học trò của Thanh chẳng kéo dài bao lâu, bạn tôi đau khổ lắm. Thanh thường chọc tôi “Nhìn cái bản mặt khờ câm của mày, tao mắc cười!”. Tôi cũng công nhận là tôi thật khờ câm! quê một cục, thấy con gái thì mặt mày đỏ ké, ăn nói lúng ta lúng túng. Thanh có mấy cô em họ cũng dễ thương, muốn giới thiệu cho tôi nhưng xét lại thấy tôi “khờ” quá nên hắn bỏ hẳn ý định đó. Thất tình, hắn nhất định đi Thủ-Đức, nói là để quên chuyện buồn phiền. Tội nghiệp bà cụ, có một thằng con độc nhất, nghe hắn đòi đầu quân bèn thủ thỉ với tôi: “Bác đã nhờ Dượng Ba, lo cho nó về văn-phòng, nhưng nó nhất định đòi đi tác chiến. Bác chỉ mong nó cụt một chân, đừng có chết, về đây bác sẽ nuôi nó suốt đời”. Tôi nghe câu đó đã mủi lòng hết mấy ngày, vì thương bạn, thương bà cụ và cũng tủi thân vì một đời xa gia đình cô độc. Tôi bèn đề nghị với cụ: -Hay bác cưới vợ cho nó, có gia đình sẽ rằng buộc được chân nó chăng? Bà cụ rướm nước mắt: -Bác đã chấm được một cô ở dưới quê, rất dễ thương, chỉ chờ nó gật đầu là Bác sẽ cưới ngay. Thanh ra trường Thủ-Đức, xin về một đơn vị nổi tiếng miền Tây. Mỗi lần xuất trận hắn đều áp dụng lối “đánh cầm thià”, dốc toàn lực mấy phút ban đầu để áp đảo tinh thần đối phương. Hắn nổi tiếng như cồn trong giới đánh đấm ở Vùng IV thời đó la` một “Kiê.n Tướng Chọc Trời Khấy Nước”, cho nên dù với bao nhiêu công trạng, nhưng đường công danh vẫn còn lận đận. Mỗi lần về phép Saigon Thanh lại rủ tôi đi nhậu. Tôi cũng tiếp hắn thôi chứ nhậu nhẹt chẳng được mấy chai. Có lần nhậu tới hai, ba giờ sáng. Nhà chủ phải mời khéo mới đuổi được hai ông khách quý ra về. Khi đi ngang nhà người tình cũ, Thanh rất cao hứng, hắn tâm sự với tôi: -Có khi nào bạn đi qua nhà người tình cũ, dù đã 10 năm, 20 năm nhưng tim vẫn thấy xao-xuyến như thuở ban đầu không? -Tôi đoán vậy “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, Ngàn năm chưa dễ đã ai quên” -Mày coi, để tao trèo tường vào nhà em chơi. Tôi nghe hoảng hồn phải can lắm, hắn mới bỏ cái ý-định điên-khùng đó, rồi hắn tiếp: -Mày không cho tao trèo tường thì 2 đứa mình phải lội qua vũng bùn này. Tôi đành phải hy-sinh đôi giày da duy nhất và hăng hái lội qua vũng xình với bạn. Biến-cố Mậu-thân đã đưa tôi đến thời điểm mà tôi vẫn lo âu chờ đợi. Tôi được lệnh gọi nhập ngũ nhưng vì quân trường không đủ chỗ chứa nên lại được thả về để đi mấy khoá sau. Lợi dụng những ngày còn tự-do, tôi đến đơn vị của Thanh để thăm bạn. Thanh kéo tôi vào một quán ăn và dẫn tôi tới giới thiệu với cô thu ngân xinh đẹp, nhưng có vẻ mặt rất buồn và quyến rũ. -Đây là anh Hùng, bạn học của anh, còn đây là cô Ánh-Mai con bà chủ quán. -Chào cô Ánh-Mai. -Chào anh, anh mới từ xa tới chơi? -Dạ, tôi vừa từ saigon xuống thì anh Thanh dẫn lại đây ngay. Ánh-Mai đưa hai đứa tôi lại bàn rồi tự tay mang hai chai bia, đồng thời gọi hầu bàn để tiếp chúng tôi. Thanh mời Ánh-Mai: -Em ngồi đây tiếp anh Hùng giúp anh, để anh ra xe lấy bao thuốc lá. -Mau lên nhé, em không muốn phá lệ là ngồi bàn chung với khách. -Mình người nhà chứ đâu phải khách. Thanh nói rồi, đi thẳng ra xe, tôi có dịp tiếp chuyện với Ánh-Mai. -Anh Thanh có thường ra đây không Ánh-Mai? -Ngày nào ảnh cũng ở đây, chỉ trừ những ngày đi hành quân. Cái bàn này ảnh đã mua luôn rồi đó. Tôi chọc Ánh-Mai: -Ánh-Mai có đếm được bao nhiêu “cây si” trồng trước cửa không? Nàng cười ngặt nghẽo để tránh câu trả lời: -Cây si là cây gì anh? -Loại cây biết nói hay mọc trước cửa nhà có con gái đẹp ấy mà. -Ô, cây gì ngộ quá hé, vậy mà Ánh-Mai hổng biết. -Người ta đánh giá người đẹp bằng cách đếm xem có bao nhiêu “cây si” mọc trước nhà. -Ánh-Mai đâu có thấy “cây si” nào đâu? -Chắc là bạn tôi dùng thiết vận xa M.113 ủi sạch rồi. Vừa lúc đó Thanh đi vào, thấy chúng tôi nói cười vui vẻ, bạn tôi ngạc nhiên hỏi : -Mấy người nói xấu gì tôi đó? Tôi bèn lên tiếng: -Ánh-Mai nói trước kia, ngay cửa quán này, có rừng cây si rậm rạp lắm, nhờ bạn ủi đi trống trơn, thành ra còn mỗi cây cổ thụ này thôi. -Anh Hùng nói đó, chứ hổng phải em đâu. Có tiếng gọi từ trong nhà: -Ánh-Mai đâu rồi, vô tính tiền đi con. Nàng vội vã xin cáo lui và đi thẳng vào nhà trong. Thanh giải thích: -Đó là “ông Bô” của người đẹp, cụ hơi khó tính, mày phải cẩn thận nếu chẳng may phải đối đầu với cụ. -Lẽ tự nhiên, có con gái đẹp thì phải giữ chứ! Hắn đặt tên cho người đẹp là “Giọt Buồn”. Tôi chữa lại là “Giọt rượu buồn”. Tôi đã cảm thấy được chuyện gì đã sẩy ra. Chắc là bạn đã trồng cây-si cổ-thụ ở đây lâu rồi. đến khuya, chúng tôi là hai người cuối cùng ra khỏi quán. Thanh nói với tôi: -Mày còn nhớ lúc ở Saigon, mày cản không cho tao leo tường thăm em không? -Tao nhớ. -Nhưng hôm nay mày không được cản tao nữa nghe. Tôi còn đang bỡ-ngỡ, Thanh đã nhẩy vọt lên cây cột trước hàng hiên và trèo lên balcon lầu hai của quán ăn, nhanh-nhẹn và thành-thạo như một con khỉ, “Hắn đúng là con khỉ, tuổi khỉ mà lại”, tôi nhủ thầm. Có tiếng rì rầm trên đó, tôi đoán là cô chủ quán năn nỉ hắn về ngủ. Quả nhiên, hắn hiền từ leo xuống, lái xe về tỉnh bơ, không có chút gì say sưa cả. đêm hôm ắy, Thanh tâm sự với tôi rằng: hắn và Ánh-Mai thương nhau. Có lần Thanh ngỏ lời cầu hôn nhưng ông cụ Ánh-Mai từ chối viện lẽ “Em nó còn nhỏ”. Nhưng nguyên nhân chính là cụ muốn gả nàng cho tên Mạnh, Trưởng-Ty Y-Tế của tỉnh, vả lại, bạn tôi đã có thành tích phá phách hơi nhiều. Ở cái tỉnh lỵ bé nhỏ này chuyện gì dù bé nhỏ tới đâu, ai cũng biết. Có lần người đẹp đã đồng ý theo chàng đi xây tổ uyên-ương, mưu kế không thành nên nàng càng bị canh giữ cẩn-thận hơn. Ông cụ cũng quen lớn cho nên đã nhờ đơn-Vị-Trưởng của Thanh chuyển lời cảnh cáo hắn. Tôi ngạc nhiên hỏi bạn: -Mày cũng biết sợ cấp trên sao? -Tao chẳng sợ một thằng nào hết, đạn còn chưa sợ, sao lại sợ người? -Sao bạn chịu thua người ta. -Chỉ vì thương nàng thôi, tao không muốn nàng gánh thêm phiền luỵ và khó sử với “Ông Bô” của nàng. Lúc này rất khó mà gặp nàng. Mỗi lần thấy tao lại quán nhậu thì ông cụ lại gọi nàng vô nhà sau để “tính tiền”. -Sao mày không xin hai bác giúp cho một tiếng? Hắn không trả lời, chỉ kéo một hơi thuốc dài, Thanh như muốn kìm hãm tất cả những đau đớn trong lòng. Nhìn những vòng khói xô đẩy nhau bay lên trần nhà, hắn như muốn chạy trốn một thực tại phũ-phàng: -Nhiều khi tao nghĩ xin đổi đi đơn vị khác rồi dẫn nàng đi theo. -Kế đó hay đấy. -Nàng là người con rất có hiếu, tao không muốn đẩy nàng vào một sự chọn lựa không hoàn toàn. -Trên đời này có gì là hoàn toàn đâu bạn. -Đồng ý như vậy - nhưng tao yêu và thương nàng. Nhiều khi thương nhớ phát điên nên tao chỉ muốn đi hành-quân. Đối với tao, đánh giặc chẳng cần suy nghĩ nhiều. Gặp là ủi thẳng tay không ngừng. Sống chết đã có trời quyết định, chỉ tội cho mấy thằng em, theo tao thật là khổ-sở. -Mày cũng nên nghĩ cho người khác nhờ một chút. -Ừ , đôi lúc nhìn thấy chúng nó, vợ con nheo nhóc, tao cầm lòng không đậu, có bao nhiêu trong túi tao móc sạch cho chúng nó. Sáng hôm sau, tôi trở về Saigon, ngồi trên xe ngủ gà ngủ gật, nghĩ đến bạn vừa thương vừa sợ. Sợ những rủi ro bất trắc, nếu hắn cứ tiếp tục lao đầu tìm lãng quên bằng cách đó. Những tháng dài trong quân-trường, được khoá-đàn-anh tận tình dạy dỗ như mẹ chồng răn nàng dâu, cho nên tôi chẳng có thì giờ để nhớ đến bạn bè. Sau khi mãn khóa, tôi được ba tuần phép trước khi ra đơn vị. Tôi rủ Thanh về quê nhân tiện tôi từ giã ông bà cụ thân-sinh ra hắn; Bởi vì chắc còn lâu lắm tôi mới lại được nghỉ phép. Chúng tôi về nhà khi thành phố đang chuẩn bị để ăn tết, quang cảnh thật là vui. đi thăm bà con ai nấy đều mừng, nhưng bạn tôi vẫn không dấu được nét phiền muộn. Bà Cụ có hỏi hắn: tại sao không được vui. Thanh chỉ thở dài, thưa là có nhiều chuyện còn phải lo ở đơn vị. Bà Cụ lại dò ý, muốn hắn lập gia đình để hai Cụ có cháu vui với tuổi già. Hắn lừng khừng trả lời: -Tùy Má muốn cưới ai con cũng chịu. Bà Cụ làm thật, Cụ đã chấm được một cô ở miệt vườn từ lâu. Ngày lành tháng tốt đã định, đám hỏi được cử hành rất mau chóng và tôi được hân hạnh đội mâm quả đi theo sau chú rể. Hai họ ăn uống linh đình vui-vẻ, còn Thanh chẳng vui mà cũng chẳng buồn, hắn cư tỉnh bơ như chuyện đi hỏi vợ là chuyện của thiên-hạ. Những ngày sau đó, tôi ôn lại từng cử chỉ và hành động của bạn, rồi đi đến kết luận: “Bạn tôi đã “thất tình” một lần nữa. Tôi hỏi Thanh về sự quyết định vội vã như vậy. Thanh không trả lời, chỉ móc trong túi đưa tôi xem bức thư của “Giọt Buồn” gửi cho hắn: Anh yêu dấu ngàn đời của em! Hôm qua đến trại tìm anh, người lính gác cổng nói là Chi-đoàn đi hành-quân đã hơn tuần nay rồi, thế mà anh chẳng đến từ giã em. Hay anh đến mà không gặp em hả anh? Hãy cứ nói như vậy đi, em tin anh mà. Ba Má đã nhận lời gả em cho tên Mạnh. Ba biểu Ba cũng không còn sống được bao lâu nên muốn em có nơi nương tựa. Thời buổi chiến tranh, Ba không muốn em trở thành goá-phụ! Em đã khóc cả ngày hôm qua, mà không biết làm sao liên-lạc được với anh. Em như con nai bị dồn vào ngõ bí. Ba Má đưa em ra Vũng-Tàu để nghỉ mát cho khuây khoả. Buổi chiều lang thang ngoài bãi biển như người không hồn, nhìn sóng biển đánh mạnh lên mấy kè đá, em ước ao được là những bọt biển trắng xoá dưới kia, hay được như cánh buồm tít mù xa ngoài khơi, ra đi và đi mãi. Em phải làm gì bây giờ hả anh? Em không muốn bỏ anh một mình cô-đơn, em cũng không muốn bỏ Ba Má suốt đời yêu thương và lo lắng cho em. Em tặng cho anh bài thơ em mới làm chiều nay, anh hãy giữ để làm kỷ niệm. Người ta có thể chiếm đoạt được thân xác em, nhưng tâm hồn em mãi mãi sẽ ở bên anh, anh yêu dấu của em, không ai có thể chia cách chúng ta được. Nếu anh còn nghĩ tới em, hãy bảo-trọng sức-khoẻ và tính mệnh, đừng liều lĩnh như người điên nữa, em thương. Hãy giữ cho em một nơi để tâm hồn em nương tựa. Xa Anh Ngày vui nào cũng ngắn, Trên bãi biển chiều nay, Ghế không, ngồi đơn chiếc, Buồm ai? Trôi hững hờ! Sóng vờn trên mặt đá, Giễu cợt tâm hồn ta. Hải-âu buồn viễn xứ, Hay tình mình bay xa? Hôn anh ngàn lần. Ánh-Mai Ngày chia tay với bạn thật buồn, bởi vì tôi biết từ nay cuộc đời mình sẽ rẽ sang một khúc quẹo. Trước khi đi trình diện đơn vị, tôi viết thư cho Bà Cụ bạn nói rõ những gì tai nghe, mắt thấy trong những ngày gần gũi với Thanh, còn kết luận và quyết định vẫn là giữa hắn và Hai đấng sinh thành. Tôi cũng kèm theo bức thư “Giọt Buồn” viết cho Thanh mà hắn cho tôi xem hôm trước. Lần đầu tiên về đơn-vị, tôi gặp ông đơn-vị-trưởng nổi tiếng là người nghiêm khắc. Có lẽ tôi với ông không hợp tuổi cho lắm, nên mỗi khi ngài thấy mặt là lại tống đi hành quân ngay. Hết biệt phái cho “Trinh-sát” Sư-đoàn đến trung-đội viễn-thám, rồi liên đoàn đặc nhiệm. Tôi sẵn sàng chấp nhận thân phận một tên “Đề-Lô” mới ra lò. Hành quân liên miên. Bỗng một hôm nhận được thư của Thanh báo cho biết hắn đã cưới vợ: “Mày có biết tao cưới ai không? -Giọt Buồn!”. Tôi rất bâng-khuâng, có phải vì lá thư của tôi mà hắn đã thay đổi như vậy? Còn người con gái ở ruộng thì sao? Tôi thật sự cũng chẳng có nhiều thì giờ để suy nghĩ. * Tôi như cái bánh xe, lăn theo ngày tháng, chuyện gì rồi cũng quên đi cho đến một ngày. Vâng, một hôm có người bên VN đề nghị hợp tác làm ăn. Ạnh ta gửi cho tôi một bản hợp đồng để duyệt xét, tôi bỗng để ý tới địa chỉ của công ty trong hợp đồng, ở ngay quê hương ông bạn Thân của tôi. Tôi bèn nhấc điện thoaị gọi ngay. -A lô, xin cho được tiếp chuyện với ông Tôn-Thất-Nghiệp, Giám đốc công ty xuất-nhập-cảng CON RÙA. Một giọng con gái Bắc rặt, bên kia đầu giây trả lời: -Thưa, ông Giám-đốc tôi đi vắng, ông cần gì và cho tôi biết quý danh để tôi thưa lại với ông Giám-Đốc. -Cũng không có gì quan-trọng cả, cô có thể giúp tôi cũng được. -Xin ông cứ nói. -Tôi đang ở bên Hoa-Kỳ, nhờ cô giúp tôi một việc, nếu thành công tôi xin hậu tạ. Cô gái nghe chữ “Hậu tạ” có vẻ vồn vã hơn. -Vâng ông cứ nói, em sẽ cố gắng hết sức. -Thế thì tốt, tôi có người bạn thân đã xa nhau lâu rồi, bây giờ tôi muốn tìm lại, cô có biết nhà ông Hoài-Vũ không? Hoài-Vũ là tên của ông cụ thân sinh của bạn tôi. -Không. Em không biết, ông ấy ở đâu. -Cô về tỉnh này bao lâu rồi? -Thưa ông được hơn một năm. -À, thể nào cô không biết. Chiều nay khi hết giờ làm việc, cô hãy ra chợ hỏi mấy người buôn bán ở đấy có biết tin tức của ông Hoài-Vũ, hồi xưa có rạp hát bóng Đại-Nam bên hông chợ Cồn, chủ nhà hàng Tân-Tiến, chủ hãng xe đò Long-Phi, chủ cây xăng An-Hoà không? Chắc cô có câu trả lời. -Vâng em sẽ báo cho ông hay. -Cô hãy ghi số điện thoaị của tôi, cô sẵn bút chưa? À này quý danh cô là gì nhỉ? -Em tên . . . . Hà, còn anh tên chi? Tôi thầm nghĩ “Gớm thật, cô ấy cho mình xuống chức mau thế, mới một giây thôi mà đã từ Ông xuống Anh rồi.” Tôi đọc tên và số điện-thoại cho Hà. Tối hôm sau Hà gọi lại: -Anh Hùng, em đã tìm được tin của ông Hoài-Vũ. Hiện giờ gia-đình ở bên Mỹ. Em có nói chuyện với người bà con của ông và xin được số điện thoaị, để em đọc số điện thoại cho anh. Tôi ghi số điện thoại và cảm ơn cô Hà, cũng không quên hứa sẽ gửi một món quà đền ơn cô. Tối hôm đó tôi gọi số điện thoại cô Hà vừa cho: -A lô, xin lỗi có phải nhà anh Thanh không ạ? -Ba cháu đi làm chưa về. -Mấy giờ Ba cháu mới về? -Ba cháu làm ca đêm, khuya mới về, chú có thể để lại messages cháu sẽ thưa lại Ba cháu. -Thôi được, sáng mai chú sẽ gọi lại. Đêm đó tôi trằn trọc mãi không ngủ được, chỉ mong cho trời mau sáng. 8 giờ sáng tôi gọi lại cho Thanh: -A lô, xin lỗi cho tôi được tiếp chuyện với ông Thanh. -Để cháu vào đánh thức Ba cháu. -Ừ mau lên, cám ơn cháu. Tôi nghe có giọng ngái ngủ trả lời: -Thanh đây, xin lỗi ai đó? -Ông thử đoán xem tôi là ai. -Hảo phải không? -Không phải, chắc ông có đoán 1000 lần cũng chẳng đúng đâu. -Kỳ hả? Tôi thấy có cái gì nghèn nghẹn trong cổ không thể nào cầm lòng lâu hơn nữa: -Hùng đây, Hùng khờ Chu-Văn-An đó nhớ không? Tôi nghe có tiếng hét vọng vào điện thoaị: “Ba ơi, Má ơi thằng Hùng chùn nè, nó còn sống nè Ba”. -Ai nói với bạn là tôi chết chứ, thằng này khó chết lắm đó. Chạy từ Bắc vô Nam, từ Nam qua Mỹ mà chẳng có hề hấn gì. -Tại hồi đó, có lần đi phép ghé nhà bạn, mấy đứa em nói bạn đang đánh nhau ngoài Quảng-Trị. -Bộ cứ đánh nhau là chết sao? À này, cái chân bên phải bạn . . . có đau lắm không? -Không sao cả. -Bạn vẫn đi bình thường, chạy nhẩy bình thường? -Vẫn đi bình thường, nhưng mà không nhẩy bình thường!!! -Sao vậy? -Thì già rồi còn nhẩy gì nữa, có mà nhẩy cò cò. Mà sao bạn chú ý cái chân tôi quá vậy? Tôi thở ra nhẹ nhõm: -À, tôi nhớ hồi xưa bạn hay đi bậy bạ nên sợ “Họ” chặt mất cái chân của bạn. Hắn nhái giọng Bắc: -Đứa nào dám chặt chân ông, ông bắn bỏ mẹ. Sao bạn có số điện-thoại của tôi? -Thôi được rồi, chuyện dài dòng lắm. Khi nào gặp sẽ kể. Bây giờ cho tôi hỏi thăm Hai bác một chút. Thanh trao máy cho ông Cụ, tôi nghe tiếng cụ không khác khi xưa: -Thằng Hùng Chùn đó hả? -Dạ chính con đây, Hai bác mạnh khoẻ cả chứ? Sơ dĩ tôi có biệt danh “Hùng Chùn” bởi vì cụ hay chọc cái giọng Bắc-Kỳ của tôi, mỗi khi cả nhà xúm lại chơi “Xì Jack”. “Cây bài chuồn mà mày kêu là cây bài chùn hả? -Mấy thằng Bắc-Kỳ ăn nói kỳ cục, cái dù lại kêu là cái Ô. -Bộ lính nhẩy dù là lính nhẩy ô hả mạy!” Tôi chỉ cười trừ. Ông Cụ cho biết mới qua Mỹ được hơn hai năm. Khí hậu lạnh quá lúc đầu chịu không nổi, nhưng bây giờ đã quen rồi. Tôi hỏi thăm qua loa rồi hứa sẽ lên thăm hai Cụ. Vài hôm sau tôi bay sang thăm người bạn xưa đã cách xa hơn 30 năm. Bước vào Terminal tôi nhận ra bạn ngay. Có già hơn hồi xưa, nhưng vẫn còn phong-độ như ngày nào. -Chị và các cháu khoẻ cả chứ? -Tôi và Bả không còn sống chung với nhau nhưng thỉnh thoảng cũng qua lại thăm. Tôi nghe có cái gì không ổn nhưng không dám hỏi tiếp, đường từ phi trường về nhà cũng khá xa, nên chúng tôi có dịp hàn huyên hỏi thăm bạn bè kẻ còn người mất. Sau biến cố 75, bạn tôi bị đi học tập một thời gian dài. Ông Cụ cũng bị tù sau đợt đánh tư-sản. Bà Cụ đã phải vừa nuôi chồng, vừa nuôi con. Mẹ chồng và nàng dâu không được thuận cho lắm nhưng họ vẫn sống với nhau chung một mái nhà vì 3 đứa con của Thanh, vì phải nương tựa lẫn nhau, vì hàng xóm láng giềng và bà con cô bác. Qua Mỹ, 2 vợ chồng đều phải đi làm, riêng Thanh phải đi làm 2 Jobs mới đủ trang trải nợ nần, vì 3 đứa con đang học đại học. Khoảng cách giữa Mẹ Chồng, Nàng Dâu càng xa cách hơn. Tất cả những rằng buộc ngày xưa không còn nữa, sự đổ vỡ đã không thể nào tránh được. Ánh-Mai đã ra ở riêng với gia-đình người em gái. Về đến nhà, Thanh dẫn 3 đứa con ra giới thiệu, hai trai, một gái. Chúng rất ngạc nhiên, sao Ba của chúng có một người bạn thân như thế mà chúng không hề biết. Bà Cụ phải giải thích: -Nhờ có Bác mới có chúng bay đó. -Hãy lại vòng tay cảm ơn bác đi! Tôi thật sự cảm động và mừng cho bạn vì có những đứa con ngoan, lễ-phép và hiếu thảo với Ông, Bà, Cha, Mẹ. Buổi tối, cả nhà quây quần ăn uống vui vẻ, mấy đứa con của Thanh có dịp hỏi thăm về những ngày xa xưa của chúng tôi. Những ngày xa xưa, buồn vui lẫn lộn đó vẫn còn đầy ắp trong trí nhớ như mới xẩy ra ngày hôm qua. Nhìn gia đình ấm cúng vui nhộn nhưng vẫn thấy thiếu thiếu một cái gì đó giống như một bức tranh đẹp của một họa sĩ tài-ba đang vẽ dở dang, họa-sĩ chưa nói được gì trong nét vẽ, tranh chưa có hồn; Hay giống như tượng thần Venus thiếu hai cánh tay. Tôi thở dài, tiếc cho một cái gì rất đẹp đã mất không còn tìm lại được. Bà Cụ đi vào trong phòng ngủ rồi đem ra chiếc hộp gỗ nhỏ đưa cho tôi: -Bác có món quà này rất qúy tặng cho cháu. Nhìn mắt Cụ đỏ hoe, tôi rất đỗi ngạc nhiên, nhưng cũng cảm ơn và mở chiếc hộp ra coi. Trong đó có một bì thư đã ngả màu vàng, tôi nhận ra ngay nét chữ của chính mình. Vâng, bức thư ngày đó tôi viết cho Cụ vẫn còn đây, và cả bức thư của “Giọt Buồn” viết cho Thanh mà tôi đã đánh cắp để gửi cho cụ. Buổi tối, Thanh mang ra chai Remy Martin. Chúng tôi nhâm nhi cả đêm, ôn lại những kỷ-niệm ngày xưa, những long-đong và hào-hùng một thời chiến trận. Những chuyện cười ra nước mắt khi hắn ở trong trại học-tập cải-tạo. Nhìn Thanh uống rượu, tôi cao hứng đọc cho hắn nghe mấy câu thơ của Nguyên-Sa tặng Mai-Thảo: Ông ngồi với hai ông Tây Ông kia tên Mạc, ông này tên Cô, Buổi sáng ông chỉ say vừa Nửa khuya mới tới đúng mùa nho ngon Tết này ông sáu tư tròn, Nhìn ông tôi thấy vẫn còn tháng Giêng. Hắn rất đắc ý và nói: -Chúng mình chưa đến 64 nên còn rất nhiều thì giờ để say. Chỉ tiếc là không có bạn ở đây với tôi. -Tôi nghĩ, nếu có người đẹp làm đồ nhậu và tiếp rượu cho bạn chắc là bạn có hứng hơn. Thanh không trả lời, mặt chùng xuống, mắt nhìn mông-lung ra ngoài của sổ hình như trông chờ một cái gì, một phép lạ, hay một kỷ-niệm nào đó đang hiện về trước mặt. Chắc là kỷ niêm một chiều phai nắng . . . , chàng chiến-binh mệt mỏi trở về, bên căn nhà ấm cúng, có ngọn đèn dầu, có bình rượu hâm nóng, có mâm cơm đầy và người vợ trẻ chờ mong! Hôm từ giã Thanh, tôi trả lại hắn bức thư tôi đã đánh cắp năm xưa và nói: -Khi nào bạn gặp lại người xưa, nói dùm tôi gửi lời hỏi thăm. Bạn cố giữ gìn sức khỏe để chúng mình còn có nhiều dịp gặp lại nhau. Tôi tặng lại bức thư đó cho chị ấy. Tôi chia tay bạn lòng bùi ngùi vì ngày vui qua mau, nhưng phần chính vẫn là thương hoàn cảnh lẻ loi của bạn. Thời gian không thể kéo lại những ngày xưa để tôi có dịp gần gũi và an ủi bạn, để cùng lội qua vũng bùn. Những tháng ngày nối tiếp trôi qua như những đám mây mùa hạ. Một ngày cuối tuần, tôi đang theo dõi trận Super Bowl đến hồi gây cấn, bỗng có chuông điện thoại, tôi nhấc máy chưa kịp thưa thì đã nghe: -Hùng hả, Thanh đây, tôi mới đưa Ba, Má ra phi-trường, hai cụ về VN ăn tết vài tháng. À, có người muốn nói chuyện với bạn. Tôi chưa kịp trả lời thì có tiếng bên kia đầu dây: -Anh Hùng ơi, Ánh-Mai đây! Cám ơn món quà tặng của anh. Tụi này sẽ đến thăm anh một ngày gần đây. Tôi thật sững-sờ, nghẹn ngào lâu lắm mới lên tiếng: -Nhớ gởi cho tôi bức hình chụp cả gia-đình nghe! Đang nhìn trên màn ảnh TV, bất thình lình tôi la lớn lên một tiếng: “Yes!” Đội banh nhà vừa làm một cái “Touch Down” tuyệt cú mèo vào phút chót, chuyển bại thành thắng. Bầu trời mùa đông bỗng thấy ấm áp hơn. Nắng Sàigòn chan hoà trên mảnh đất tạm dung, nơi thành phố tôi đang ở. Tôi thấy thèm 1 tô phở béo ngậy, ly ca-phê sữa đặc, điếu thuốc lá “Quân tiếp vụ” vào một buổi sáng cuối tuần lười biếng trong thành phố Saigon thân yêu, ồn ào và bụi bậm. Những hạnh phúc bé bỏng đó tôi đã đành mất từ lâu rồi bạn ơi! Kỷ-niệm “Tháng Tư đen” Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 29/Mar/2012 lúc 9:10pm |
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 02/Apr/2012 lúc 7:50pm | |
Tình ca cho Nguyễn Thị Sài GònViệt Dzũng http://saigonecho.com/main/giaitri/nhacvang/34114.html
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 02/Apr/2012 lúc 7:53pm |
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 05/Apr/2012 lúc 7:46pm | |
Cây Cầu Biên GiớiMinh-Đạo & Nguyễn Thạch-Hãn
T
ôi đứng ngay tại Ngã Ba Hàm Rồng. Buổi trưa nắng chang chang. Thỉnh
thoảng một cơn gío nổi lên cuốn theo những đám bụi đỏ mù trời. Ngừơi tài
xế của hãng du lịch chạy đến bên tôi thắc mắc:
- Anh kiếm cái gì thế ? con đường trước mặt đi về hướng Phú Nhơn mãi
đến Banmêthuột, bên trái là ngõ về quận lỵ Phú Thiện và tỉnh Phú Bổn,
còn đằng sau là con đường mình mới từ Pleiku ra đây. Anh muốn đi đâu thì
cứ cho tôi biết, tôi sẽ đưa anh đến nơi đến chốn.
Tôi thầm nghĩ:
- Dù đã lâu lắm rồi nhưng làm sao quên được. Mình đã chôn vùi một đoạn
đời hoa bướm nơi rừng núi này. Quang cảnh vẫn vậy, chỉ có tiêu điều hơn
mà thôi. Con đường trải nhựa có nhiều ổ gà hơn xưa, vắng vẻ hơn xưa,
hàng quán xơ xác hơn.
Tôi trả lời bâng quơ:
- Tôi đang chụp hình.
- Tôi đâu thấy anh mang máy hình ?
- Ồ, chụp hình trong đầu ấy mà.
Nguời tài xế há hốc mồm ra ngạc nhiên, anh ta nói lẩm bẩm trong miệng nhưng đủ cho tôi nghe rõ:
- Mấy ông nội Việt kiều thật là lẩm cẩm.
Tôi leo lên xe và hối người tài xế chạy về phía quận Phú Nhơn. Chiếc Xe
mướn của hãng du lịch tương đối còn mới, lồng lộn lao về phía trước,
lúc nghiêng qua trái, lúc lách qua phải để tránh những khúc đường bể
chưa được sưả chữa. Mà có lẽ sẽ chẳng bao giờ được sửa chữa nữa. Hàng
trăm thứ chuyện quan trọng hơn người ta chẳng thèm để ý tới xá gì một
con đường xa xôi hẻo lánh này. Để mặc tài xế đánh vật với chiếc xe và
con đường, tôi thả hồn chìm về dĩ vãng ...
&
Ngày ấy đã xa lắm rồi.
Tôi mới đến vùng này,là một Thiếu Úy trẻ măng vừa đổi về đơn vị mới
thành lập. Tiểu Đoàn mới, từ sĩ quan đến binh lính, hầu hết là những
thành phần khó sài từ các đơn vị khác gởi về. Dĩ nhiên tôi cũng ở trong
thành phần bất hảo đó. Từ miền biển bị đưa lên miền núi và chỉ huy một
đám quân gồm đủ mọi thành phần. Tôi còn đang buớc những bước đi chập
chững của nghề chỉ huy thì phải tung ra chiến trường. Ngày ấy, cũng trên
con lộ này, tôi dẫn hai con Gà Cồ Đại Pháo 105 ly để yểm trợ cuộc hành
quân trực thăng vận tái chiếm quận lỵ Phú Nhơn mà Bắc Quân vừa mới tràn
ngập đêm hôm trước.
Ngã ba này bình thường chỉ có vài quán cóc lèo tèo để bán đồ ăn thức
uống cho xe đò chạy đường Pleiku - Phú Bổn hay Pleiku - Banmêthuot. Hôm
đó dân chạy loạn từ Phú Nhơn ra rất đông, từ những làng Thượng, hoặc mấy
khu dinh điền và dân làm ăn buôn bán chung quanh quận lỵ. Dân chúng
thấy lính đi tái chiếm quận, họ rất mừng rỡ, người hỏi thăm, người cho
quà bánh. Đổi lại, đám lính tặng dân chúng thuốc lá và những đồ hộp Quân
Tiếp Vụ. Dân ở quận nhỏ xa xôi cũng nghèo khổ như lính vậy thôi.
Từ sáng sớm, lo đốc thúc tải đạn, sửa soạn xe cộ, đại bác, hàng trăm
thứ phải làm cho một cuộc trực thăng vận, cho nên bao tử còn trống rỗng.
Phi cơ câu súng đại bác phải xin từ căn cứ Mỹ Ớ Quy Nhơn lên, nên chờ
cũng còn lâu. Tôi rủ anh chàng Chuẩn Uý Trung Đội Phó kiêm Đề Lô vào
quán bên đường kiếm cái gì lót bụng. Dân quận lỵ bu lại hỏi thăm tình
hình, chừng nào có thể về quận được ? Đánh nhau có lâu không ? Toàn
những câu hỏi mà chỉ có Trời mới trả lời được.
- Mấy anh ấy đi giải toả quận Phú Nhơn phải không ông chủ.
- Tôi đoán vậy, cô thử hỏi mấy ổng coi.
Tôi quay lại, người vừa hỏi là một thiếu nữ độ đôi mươi, nàng mặc chiếc
áo dài trắng học trò đang hỏi thăm người chủ quán, tôi hỏi lại cô gái:
- Sao cô đoán tụi này đi giải toả Phú Nhơn ?
- Em mới từ Tuy Hòa lên Pleiku hôm qua. Sáng nay đáp xe đò vô quận, không ngờ kẹt từ sáng đến giờ.
- Cô cũng ở quận Phú Nhơn sao ?
- Em dạy Ớ trường tiểu học Phú Nhơn, còn nhà em ở Tuy Hòa.
- Cô nên về Pleiku kiếm chỗ ngủ đỡ qua đêm nay.
- Em không có ai quen Ớ Pleiku cả, vả lại em nóng lòng không biết nhà cửa, trường ốc ra sao ?
- Cô có lo lắng thì cũng chẳng làm gì được, tốt hơn hết là kiếm chỗ nào nghỉ đỡ qua đêm nay, chờ giải toả xong mới về được.
- Đám học trò của em chạy ra đây cũng đông lắm, em không thể bỏ chúng được. À này các anh đừng pháo vào trường học nghe.
Tôi vỗ vai Châu Đề Lô vừa cười vừa nói:
- Cái đó cô phải nhờ ông Châu mới được, ổng chỉ đâu là nơi đó thành bình địa.
Châu vội lên tiếng:
- Trường của cô giáo tụi này không dám đụng tới.
Tôi chế diễu Châu:
- Bạn hứa một mình chứ không có tôi can dự trong đó đâu nghe. À nãy giờ
mình nói chuyện mà quên giới thiệu. Tôi tên Lập, anh bạn này tên Châu.
Thưa qúy danh cô là ...
- Em tên là Quỳnh Hoa, các anh hứa là phải giữ lời đó à nghe !
Tôi chọc ghẹo Quỳnh Hoa:
- Nếu tụi này giữ lời hứa thì Quỳnh Hoa phải đền cái gì mới được chứ ?
Tôi nhìn người con gái nước da trắng hồng, mịn màng như trứng gà bóc,
đôi môi đỏ như cánh bích đào, cặp mắt to đen láy trông thật thông minh
lanh lẹ, mái tóc thề phủ xoã ngang lưng, nụ cười tươi như hoa với hàm
răng đều đặn như những hạt bắp vừa đủ lớn. Nhìn Quỳnh Hoa đứng giữa đám
học trò nhà quê lem luốc bẩn thỉu, tôi có cảm tưởng nàng là bà tiên
giáng trần, đang cầm cây đũa thần gõ trên đầu đám chúng sinh đầy đau
khổ. Nàng rất bạo dạn tuy hơi lo lắng, nhưng không có cái e lệ như những
cô gái xứ kinh kỳ. Tôi tự nhủ:
- Bông hoa vương giả này sao lại mọc ở chốn rừng hoang mông quạnh này nhỉ ?
Quỳnh Hoa thấy tôi nhìn cô chăm chú, có vẻ mắc cỡ đôi má càng hồng hào
thêm, còn đang phân vân chưa biết trả lời ra sao, Châu vội đề nghị:
- Thôi bữa nào giải toả xong, đãi tụi này một bữa cơm nhà quê được không Qùynh Hoa ?
- Em nấu ăn dở lắm, nhưng em sẽ đãi các anh một chầu bún bò Huế, được không ?
Tôi làm bộ nuốt nước miếng:
- Ôi chao, chưa đánh mùi mà đã thèm nhỏ dãi rồi.
Có tiếng trực thăng từ xa vọng lại. Tôi từ giã Quỳnh Hoa rồi vội vã đốc
thúc anh em binh lính để cuộc di chuyển được mau chóng. Bình, anh chàng
tài xế xe jeep của tôi chạy lại hỏi:
- Mình cần về hậu cứ lấy thêm gì nữa không Ông Thầy ?
- Chắc đủ rồi, vả lại cũng không còn kịp nữa.
Tôi móc túi đưa cho Bình một ít tiền lẻ và nói:
- Em vào trong quán mua vài gói mì và một hộp trà, tối nay mình ăn mừng chiến thắng.
- Bình cầm tiền, nheo mắt chọc tôi:
- Cái cô hồi nãy coi bộ chịu đèn Ông Thày lắm rồi đó nghe.
Tôi thấy thích thú trong lòng nhưng cũng làm bộ chống chế:
- Con gái đời nay đẩy đưa lắm khó mà lường được.
Trời bắt đầu đổ mưa lâm râm khi trực thăng vừa bốc hai khẩu đại bác.
Tôi nhìn bầu trời đen nghịt mà aí ngại cho những giờ phút nguy hiểm gian
lao sắp tới bởi vì tôi vừa phải chiến đấu với địch quân vừa phải yểm
trợ cho quân bạn ngay từ phút đầu trong thời tiết mưa gío bão bùng này.
Những cơn mưa trên miền núi thường dai dẳng và mang theo gío lạnh thấm
đến tận xương tủy của những người lính Pháo Thủ, vừa thiếu ăn vừa phải
làm việc cực nhọc. Tôi thầm hỏi liệu đêm nay trực thăng có kịp đổ quân
để bảo vệ hai con gà cồ của mình không ?
Hai khẩu đại bác cùng với 4 túi đạn 105 li và chiếc xe Jeep được thả
xuống một ngọn đồi trọc. Dưới cơn mưa tầm tã, đất đỏ lầy lội, đám pháo
thủ thoăn thoắt làm việc: Hì hục đẩy hai khẩu pháo lại gần nhau, khuân
vác đạn dược, dựng cây truyền tin, nhắm hướng súng. Chỉ trong vòng nửa
tiếng đồng hồ, Những trái đạn đầu tiên đã được gởi đi liên tục để dọn
bãi đáp cho hai tiểu đoàn Bộ Binh đổ bộ xuống mục tiêu.
Trận tái chiếm quận Phú Nhơn hôm đó đã thành công hoàn toàn nhưng Châu
Đề Lô đã bị thương nặng, một mảnh đạn B40 của địch quân đã chọc một lỗ
lủng lớn ở bụng của hắn. Tóan Pháo Binh được di chuyển về phía sau quận
hành chánh để sãn sàng yểm trợ cho lực lượng bảo vệ quận.
Một buổi sáng, sau khi sửa sang tuyến phòng thủ tạm ổn định, tôi ghé
thăm Quỳnh Hoa. Ngôi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Anh em quân nhân trong
quận đang gíup tay sửa sang những chỗ bị tàn phá. Tôi đến bên lớp học
của Qùynh Hoa, nàng đang say sưa tập hát cho các em nhỏ. Có tiếng một em
bé báo động:
- Thưa cô có Ông Lính tới kiếm.
Nàng quay lại, gật đầu chào. Tôi ướm thử xem nàng còn nhận ra tôi không:
- Ông Lính kính chào Cô Giáo, Cô Gíao còn nhớ Ông Lính này không ?
Nàng không thể nhịn cười được lối diễu cợt của tôi, nhưng cũng không chịu thua:
- Ông Lính đi đâu mà lạc vô đây ?
- Ông Lính đi lạc vào Thiên Thai đó ạ, không biết Tiên Nữ có cho Ông Lính xem rừng Đào Tiên không.
- Ông Lính tỉnh lại đi, đây là chốn phàm tục, đâu có nàng Tiên nào đâu.
- Chứ Quỳnh Hoa không phải là Tiên sao?
Nàng nghe tôi khen không khỏi e thẹn:
- Anh Lập làm Qùynh Hoa mắc cỡ quá hà! Người ta xấu như ma mà so sánh
với Tiên, anh có mơ ngủ không đấy? Anh Châu có khỏe không anh Lập?
- Châu bị thương nặng đang nằm Ớ quân Y viện Pleiku.
- Trời ơi, có nguy hiểm lắm không anh?
Thấy mặt Qùynh Hoa biến sắc, tôi thấy hơi ganh với bạn mình, nhưng vội trấn an:
- Chắc không đến nỗi nào, nhưng phải nằm nhà thương một thời gian.
- Hôm nào anh có đi thăm anh Châu cho em đi theo với nghe.
Tôi tự nhủ thầm sao nàng dễ xúc cảm như vậy nên hứa đại cho xong chuyện:
- Cuối tuần tôi phải về hậu cứ nhân tiện ghé đón Quỳnh Hoa đi thăm Ông Châu luôn thể, cô có chịu không ?
- Gia đình ảnh đã biết chưa vậy anh Lập ?
- Gia đình ảnh Ớ Pleiku đã được thông báo rồi.
Tôi hỏi thăm qua loa về trường ốc và gia cảnh của nàng rồi vội vã cáo
lui, hẹn gặp lại sáng thứ Bảy. Qùynh Hoa hiện Ớ trọ tại nhà bà Hiệu
Trưởng, một người bạn cũ của gia đình nàng. Chồng Bà cũng là một cựu
quân nhân giải ngũ, có tiệm tạp hóa ngoài chợ.
Sáng thứ Bảy, Tôi cho tập họp Trung Đội, giao doanh trại cho Ông Thượng
Sĩ Thường Vụ rồi hối đám quân xa chuẩn bị xe cộ về hậu cứ lãnh lương
thực và đạn được. Tôi gọi Bình vào văn phòng rồi dặn:
- Bình à, coi lại xe cộ, xăng dầu đầy đủ, bữa nay mình về hậu cứ đồng
thời ghé thăm ông Châu luôn thể. À hôm nay có một người bạn xin qúa
giang nữa nghe.
- Ai vậy Ông Thầy ?
- Cô giáo bữa mình gặp ngoài Ngã BA Hàm Rồng đó nhớ không em.
- Ồ, vậy em phải rửa xe cho thật sạch mới được.
- Lính tác chiến mà chú mày làm như lính thành phố không bằng, không sợ tụi hậu cứ nó cười sao ?
- Sức mấy mà tụi nó dám cười Thầy Trò mình.
Tôi ghé lại nhà Quỳnh Hoa, nàng đã chờ sẵn, vẫn chiếc áo dài trắng hôm
nào. Nét mặt vui vẻ, nụ cười tươi như hoa trông mới duyên dáng làm sao
chứ ! Nàng bước ra cửa đón tôi:
- Chào anh, mời anh vào trong nhà uống miếng nước đã.
- Chào cô Qùynh Hoa, cám ơn cô để khi khác, thôi chúng ta lên đường kẻo trễ.
Đến hậu cứ, tôi nhận tiếp liệu rồi hẹn tất cả tập trung lúc 2 gìơ chiều
để trở ra Phú Nhơn. Tôi chở Quỳnh Hoa vào bệnh viện. Châu vẫn còn thiếp
trong giấc ngủ mê, khuôn mặt trắng bệch, hơi thở yếu ớt. Tôi có cảm
tưởng thần chết đang lảng vảng đâu đây. Bà mẹ của Châu nhìn thấy chúng
tôi thì không cầm nổi nước mắt. Bà bắt đầu thút thít khóc. Tôi tự hỏi
trong những ngày qua người mẹ đau khổ này đã đổ bao nhiêu nước mắt cho
đứa con yêu dấu của mình. Chiến tranh thật tàn nhẫn ! Nó như một con qủy
luôn luôn cười cợt trên sự đau khổ của con người. Nó lấy xác chết làm
chiến lợi phẩm. Qùynh Hoa nhìn thấy Châu, bỗng hai hàng lệ tuôn trào.
Tôi đưa chiếc khăn tay, nàng cầm lấy, che lên mắt và đi vội ra ngoài.
Tôi không ngờ nàng qúa thương tâm như vậy đối với một người bạn mới
quen. Tôi an uỉ Bà Mẹ của Châu mấy câu rồi vội vã đi tìm Qùynh Hoa. Nhìn
nàng đứng dựa chiếc cột ngoài hành lang bệnh viện, đôi vai rung lên
từng hồi, có lẽ nàng đã qúa xúc cảm. Tôi chẳng biết làm sao để an ủi
nàng. Miệng lưỡi cứng đơ, chân tay thừa thãi, tôi lặng lẽ đến bên nàng,
mắt tôi cũng bắt đầu nhòe lệ, tôi ôm lấy đôi vai bé bỏng của nàng. Qùynh
Hoa quay mặt lại và úp mặt vào vai tôi khóc nức nở như một đứa con nít.
Có lẽ những đau khổ thầm kín lâu nay được dịp tuôn ra đi theo dòng nước
mắt. Tôi để mặc nàng khóc cho đã đời. Một vài người đi ngang dòm chúng
tôi với đôi mắt dò hỏi rồi bỏ đi. Chuyện khóc lóc có lẽ qúa bình thường ở
đây. Nàng khóc một lúc rồi bắt đầu im lặng, chỉ còn những tiếng nấc
nghẹn ngào. Tôi an uỉ nàng:
- Em đừng khóc nữa, anh Châu chắc không đến nỗi nào đâu, Mẹ ảnh nói Bác
Sĩ cho hay ảnh đã qua cơn hiểm nghèo rồi chỉ chờ bình phục thôi.
Nàng thì thầm bên tai tôi:
- Em nhớ Ba em hồi đó, cũng nằm ở Bệnh Viện này, trong cơn hấp hối, nên không cầm nổi nước mắt, xin anh tha lỗi cho em.
- Anh xin lỗi em, không ngờ cuộc thăm viếng này đã gợi cho em những đau đớn như vậy.
- Anh đừng nói vậy, anh không có lỗi gì cả, chỉ vì em tủi thân đó thôi.
Khi đã tỉnh trí, nhìn thấy một bên vai áo tôi ướt đẫm nước mắt, có lẽ
thấy hơi ngượng ngùng nên đẩy nhẹ tôi ra và lí nhí mấy lời xin lỗi. Tôi
vội dìu nàng ra xe và rủ ra ngoài phố kiếm ăn. Tôi dẫn Quỳnh Hoa vào
quán như một đôi tình nhân gắn bó bên nhau. Những cặp mắt nhìn soi bói
của đám thực khách mà qúa nửa là lính tráng khiến nàng hơi bối rối. Tôi
nhìn nàng với đôi mắt nồng nàn, thầm cám ơn Thượng Đế đã cho tôi có dịp
làm quen với người con gái dễ thương và thùy mỵ như vậy. Sự hiện diện
của nàng trong đời sống khiến tôi thấy những gánh nặng trên vai nhẹ
nhàng hơn. Qùynh Hoa là một dòng suối ngọt, một bóng mát, một hy vọng,
một nơi yên nghỉ êm đềm cho linh hồn thể xác mệt mỏi của tôi trong cuộc
chiến tàn nhẫn đầy máu và nước mắt này. Tôi vẫn cảm thấy rằng sau nét
mặt vô tư ngây thơ, Quỳnh Hoa có một sức thu hút kỳ lạ, giống như một
vùng đất mới chứa đầy những bí mật quyến rũ đối với những nhà thám hiểm.
Đúng vậy, nàng chính là sự thiêng liêng kỳ bí, một vườn Địa Đàng cho
riêng tôi. Tôi vẫn chưa hiểu tại sao nàng qúa thương tâm khi thăm Châu
trong bệnh viện nên muốn tìm hiểu thêm:
- Qùynh Hoa ở Phú Nhơn lâu chưa ?
- Độ gần một năm thôi, em ra trường sư phạm cấp tốc rồi xin đổi về đấy ngay.
- Sao em không xin dạy ở gần nhà có phải tiện hơn không ?
- Ngày xưa, Ba em làm Quận Trưởng Phú Nhơn. Người đã bỏ cả cuộc đời để
xây dựng cái quận đèo heo hút gío này. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dân chúng
từ miền ven biển và từ ngòai Bắc di cư lên đây lập nghiệp, đã được chính
quyền tận tình giúp đỡ. Nhưng rồi trong một cuộc đi thăm đồn điền của
một xã phía Tây Quận Lỵ, Ba em đã lọt vào ổ phục kích và bị sát hại. Em
lớn lên, muốn tiếp nối cái hoài bão của Ba em là nâng cao dân trí để họ
có thể hiểu được ý nghĩa của sự tự do, dân chủ, công bình và lẽ phải.
Tôi thầm nghĩ những danh từ tự do, dân chủ thật qúa mơ hồ đối với những
người lính tác chiến, với đám dân quê nghèo thất học ở đây. Gia đình,
vợ con, miếng cơm manh áo, mạng sống có lẽ gần gũi hơn. Tôi thấy vừa
kính nể vừa thương hại người con gái mới lớn mang trong lòng một hoài
bão qúa lý tưởng, qúa to lớn. Nàng đúng là một Tiên Nữ mà Thượng Đế đã
gởi xuống cõi trần đầy khổ đau này.
Sau nhều lần đi thăm Châu, chúng tôi thấy gần gũi nhau hơn. Tôi tìm
thấy ở nàng một niềm vui, một ước mơ, một mái ấm gia đình cho tương lai.
Vùng đất hoang vu này trở nên tươi mát đáng yêu bởi vì chỗ nào cũng
thấy đoá Hoa Quỳnh nở rộn ràng.
Chúng tôi đã yêu nhau, có núi rừng và con sông nhỏ chảy qua quận lỵ làm
chứng. Con sông thật hiền hoà và dễ thương như người tôi yêu. Bên bờ
sông những hàng cây Phượng Vĩ nở đỏ rực mỗi mùa hè. Mùa mưa nước phù xa
đỏ ửng từ trên ngàn chảy cuồn cuộn xuống ngập gần hết cây cầu sắt nhỏ
bắc qua sông. Cây cầu nhỏ sơ sài có vài nhịp, bề ngang chỉ đủ cho một
chiếc xe đò qua lại. Mùa nắng, nước cạn trơ những bãi cát trắng tinh.
Người ta đào cát thành những vũng nước trong, gánh về để uống. Giữa lòng
sông nước trong vắt nhìn thấy cát và sỏi tận dưới đáy, nước chảy lững
lờ. Mấy chàng Pháo Thủ thường ra tắm sông để được chiêm ngưỡng những
nàng thôn nữ cao nguyên ngực no tròn và rất tự nhiên. Tôi yêu núi rừng
Cao Nguyên, mỗi buổi sáng thức dậy đứng trên đồi nhìn chung quanh chỉ
thấy một màu xanh rì, mênh mông như biển cả. Tôi yêu con sông bé nhỏ,
tôi yêu cây cầu sắt cũ kỹ đưa người qua sông, tôi yêu hàng cây Phượng Vĩ
học trò, tôi yêu sân trường tiểu học Phú Nhơn, tôi yêu con đường nhựa
bé bỏng chạy qua quận lỵ và băng qua núi rừng Cao Nguyên. Tôi yêu và yêu
rất nhiều, bởi vì ở đâu cũng thấy hình bóng của nàng. Tôi yêu lắm những
buổi chiều hai đứa dẫn nhau ra bờ sông, lang thang dưới những hàng cây
xanh um, hoặc ngồi trên thành cầu nhìn dòng nước hững hờ trôi. Nàng ngồi
bên tôi, đong đưa hai hàng chân trắng muốt, cười nói vô tư như một
Thiên Thần. Trời Đất, Vũ Trụ, Thời Gian như ngừng hẳn, ôi đẹp đẽ và
thanh bình đất nước tôi!
Ở đó, bấy giờ, không nghe tiếng súng nổ, không nghe tiếng gầm gừ của máy bay phản lực, không gian hoàn toàn yên tĩnh.
Chúng tôi đã dệt những giấc mộng tương lai đơn sơ và êm đềm.
- Qùynh Hoa ơi, mai này chiến tranh chấm dứt, anh sẽ cất một căn nhà
bên bờ sông này, em sẽ tiếp tục dạy học, còn anh sẽ biến vùng đất màu mỡ
này thành một đồn điền trù phú, em có chịu không ?
- Anh trồng cho em một vườn trái cây mít , ổi, xoài, đu đủ, mảng cầu nghe anh.
- Ừ, anh sẽ trồng bất cứ cây gì em muốn.
- Anh hứa thương em và chiều chuộng em như ngày xưa Ba yêu thương và chiều chuộng em nghe.
- Anh hứa.
- Anh đừng bỏ em, như Ba đã bỏ em một mình, em sợ lắm.
- Không, anh sẽ không bỏ em một mình.
- Nghe anh nói thơ mộng và sung sướng qúa, cám ơn Trời Phật đã cho em
gặp anh. Có lẽ Ba đã run rủi em gặp anh đó. Lập ơi em thương anh lắm,
anh biết không?
- Sao em thương anh nhiều dữ vậy ?
- Không biết nữa, có lẽ em thấy anh giống Ba em. Anh chiều chuộng em,
anh là người lớn, bao dung, đại lượng, biết nhiều, hiểu nhiều. Anh biết
không, hôm em gặp anh đi hành quân, em thấy anh oai hùng qúa, giống như
Ba em ngày xưa. Mấy Ông Lính thương anh lắm phải không ?
- Không mấy ông ấy ghét anh lắm.
- Cái mặt xạo, ai mà ghét anh. Anh nhiều đào lắm phải không ? nói cho em nghe đi.
- Có mình em thương anh thôi, thiệt đó.
Tôi ngồi bên nàng, uống từng giọt tình yêu ngọt ngào, nghe trái tìm
mình đập từng điệu nhạc run rảy trên lối vào Thiên Đường chỉ có hai đứa
chúng tôi. Nàng đã dạy cho tôi biết mơ mộng, thấy đời đáng yêu hơn,
những thứ đó tôi đã đánh mất từ khi mới lớn, từ khi bước chân vào quân
ngũ, tôi vẫn nghĩ tuổi trẻ của tôi đang đi vào ngõ cụt và chỉ còn những
giấc mơ hãi hùng. Đời tôi thật trống rỗng nếu không có nàng. Tôi thấy
yêu thương nàng qúa đỗi. Qùynh Hoa vẫn còn vẽ những giấc mơ của nàng
nhưng tôi không còn nghe gì cả, chỉ thấy cánh môi hồng mấp máy, hơi thở
thơm tho mùi mía lùi phà trên mặt tôi. Bất chợt, tôi ôm và hôn nàng say
đắm, người nóng bừng như có dòng điện chạy ào ạt từ tim lên đầu. Nàng
đẩy nhẹ tôi ra:
- Coi kìa, người ta cười mình đó.
- Ai mà dám cười mình.
Nàng đánh trống lảng, bâng quơ hỏi tôi:
- Anh ơi, cây cầu này có tên không anh.
- Anh cũng chẳng biết nữa, hay là mình đặt cho nó một cái tên làm kỷ niệm nghe.
- Em cho anh đặt đó.
- Ừ, hay là mình gọi là Cây Cầu Biên Giới nghe em.
- Cái tên nghe cũng hay đấy, nhưng mà nghe có vẻ chia ly qúa. Giống như
trong bài “Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu” của Nguyễn Văn Đông vậy.
Tôi phì cười:
- Mới thương nhau mà em đã nghĩ đến chuyện chia ly rồi.
- Nhưng mà em sợ lắm, thời buổi chiến tranh... Lỡ mai này, anh bỏ em ở đây một mình, em buồn lắm đó.
- Không, anh sẽ không bỏ em một mình, anh sẽ xin với Mẹ để cưới em, chúng ta mãi mãi bên nhau.
Nàng reo lên sung sướng như một đứa con nít, mắt sáng ngời những tia hy
vọng, rồi ôm lấy tôi. Ôi mùi thơm ngọt ngào, tôi làm bộ đẩy nhẹ nàng
ra:
- Coi chừng người ta thấy, họ cười mình đó.
- Ai cười hở mười hàm răng !
Thật không ngờ, nơi rừng rú hoang vu nguy hiểm này ai nghe đến cũng rợn
tóc gáy. Bạn bè, người thân, lâu không gặp nhau, hỏi tôi bây giờ Ớ đâu,
tôi trả lời ở quận Phú Nhơn tỉnh Cheo Reo, ai cũng lè lưỡi chọc tôi bộ
hết đất rồi sao lên miền Thượng ở vậy, tôi chỉ cười khì. Bây giờ tôi đã
có lý do để trả lời họ ... Bởi vì tôi mê hoa Qùynh, thế thôi.
- Anh làm gì ngồi thừ ra thế, hãy nói nữa về tương lai của chúng ta cho em nghe đi.
- Anh đang sung sướng qúa nên làm một bài thơ kỷ niệm.
- Ồ, anh biết làm thơ nữa sao? Hãy đọc em nghe đi, em sẽ thưởng cho anh.
- Ừ, anh đọc thơ con cóc, em đừng cười nghe. Em biết thơ con cóc không ? Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra.
Nàng đọc tiếp:
- Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi... với anh !!! Em thích thơ con cóc
lắm. Em sẽ làm con cóc như trong chuyện cổ tích gì đó, anh học trò có
người vợ cóc xấu xí, đêm đêm hiện nguyên hình là một nàng Tiên săn sóc
cho chồng. Ban ngày là một con cóc lẽo đẽo theo chồng.
- Nếu em là một nàng Tiên cóc, anh sẽ bỏ em vào ba lô mang theo khi đi hành quân, anh sẽ tâm sự với em.
- Anh phải đọc thơ cóc cho em nghe. Ơ, nếu vậy mấy Ông Lính sẽ gọi anh là người điên đó.
- Anh điên vì em, thì anh cũng chịu.
Nàng bá cổ tôi nũng nịu:
- Thôi đừng đánh trống lảng, đọc thơ con cóc cho em nghe đi anh.
- Ừ, anh đọc nghe, cấm cười đó, đứa nào cười anh khóa miệng lại cho mà coi.
Chiều về thấp thóang bên sông,
Thấy Qùynh thơm ngát thấy lòng xôn xao.
Nàng cười rũ rượi, hai tay đánh liên hồi vào vai tôi. Một ngày như mọi
ngày trôi qua, trong thung lũng tình yêu, bên cây câu biên giới, nỗi
chết đã tạm chịu rút lui, để nhường chỗ cho tình yêu hoa bướm ngọt ngào.
Tôi lấy con dao găm đeo bên mình khắc câu thơ trên thành cầu sắt để
đánh dấu một chặng đường yêu đương…
&
- Anh muốn vào chợ hay đến nhà ai ở quận Phú Nhơn ?
Tiếng người tài xế kéo tôi về thực tại. Giấc mơ thật ngắn ngủi, như cuộc tình của chúng tôi.
- Anh cho tôi lại trường tiểu học.
Quang cảnh vẫn không thay đổi mấy, ngôi trường tiểu học vẫn như xưa.
thời gian như ngừng trôi Ớ quận lỵ nhỏ bé này. Phố chợ đìu hiu vẫn còn
kia, hàng rào kẽm gai chung quanh doanh trại nơi tôi đóng quân vẫn còn
đó, nhưng chẳng ai biết đến một người con gái đẹp như hoa Qùynh đã từng
in dấu chân nơi chốn này. Hình ảnh ngày xưa vẫn còn đủ chỉ thiếu một
người. Tôi hối người tài xế chạy ra phía cây cầu. Chiếc cầu sắt nhỏ bé
đầy dấu kỷ niệm, tôi như trong giấc mơ, Chàng Tú Uyên ngày xưa khi tỉnh
giấc không thấy người đẹp trong tranh đâu nữa, chắc cũng ngỡ ngàng như
tôi hôm nay thôi. Tôi bước lên cầu, ngồi đúng vào chỗ ngày xưa chúng tôi
đã từng có một thời mơ mộng. Tôi ngồi bệt xuống, hai chân đong đưa, mắt
nhìn xa xăm trên những ngọn phượng vĩ bên sông, cố tìm chút nắng vàng
ngày xưa của một buổi chiều tà. Tìm mãi cũng chẳng thấy đâu, không thấy
một dấu tích gì của nàng. Nơi thành cầu này tôi đã hôn những nụ hôn đầu
tiên trong đời, vẽ những giấc mơ và đọc những bài thơ con cóc đầu tiên
trong đời. Đúng là cây câu chia ly như nàng đã nói. Bây giờ nàng ở đâu,
hay đã bỏ xác trên tỉnh lộ Số Bảy trên đường di tản về Tuy Hoà. Ồ phải
rôì, tôi phải tìm lại bài thơ con cóc có lẽ đó là kỷ niệm duy nhất còn
lại của tôi với nàng. Tôi dò từng tấc sắt trên thành cầu, bài thơ còn đó
nhưng đã dài hơn hai câu:
Chiều về chiều vẫn một mình,
Trách người năm cũ bỏ tình bơ vơ.
Tôi bay về Hoa Kỳ lòng buồn miên man, bao nhiêu háo hức của ngày trở
lại Việt Nam đã tiêu tan đâu mất chỉ còn lại sự mệt mỏi và chán chường.
Tôi đã đi mọi nơi, để tìm tung tích của Quỳnh Hoa nhưng cũng không có
tin tức gì. Ngày ấy nếu tôi không bị kẹt ngoài Huế, chắc chúng tôi đã
chết bên nhau hay cùng nhau lênh trên con tàu vượt biên. Thời gian thấm
thoát trôi đi, tóc tôi đã bắt đầu điểm bạc. Mỗi lần đi dâu, thấy bóng
dáng mái tóc thề và chiếc áo dài trắng lòng tôi lại xôn xao như ngày nào
bên chiếc Cầu Biên Giới.
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 05/Apr/2012 lúc 7:49pm |
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23098 |
Gởi ngày: 11/Apr/2012 lúc 7:20am | |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23098 |
Gởi ngày: 11/Apr/2012 lúc 3:10pm | |
Chuyện 30 tháng 4: Một Mảnh Đời Tỵ Nạn
O
1.Chuyện 30 Tháng Tư
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 BB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước thì tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viên Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương 1 tháng ở Saigon.
Ngày 29 tháng 4, tôi nhờ chú em bà con chở ra bến Bạch Đằng Saigon xem tình hình và thấy rất nhiều tàu kể cả chiếc Viet Nam Thương Tín, Trường Xuân, Tàu Hải Quân, trong số này có một số tàu đánh cá của một công ty Đức, to rộng rãi và bằng sắt đàng hoàng. Trở về nhà, tôi hối Ba đi trước với chú em con bà Cô. Hai chú cháu lọt được vào căn cứ Hải Quân và đi theo họ. Riêng tôi còn lần khân ở lại, hy vọng đến phút chót có thể gặp lại được Quỳnh Hoa, người yêu đầu đời của mình, nhưng phép lạ không xẩy ra.
Sáng ngày 30 tháng Tư, tôi trở lại bến Bạch Đằng, Chiếc tàu Trường Xuân vẫn còn đó, đầy nhóc người, kẻ lên người xuống tấp nập. Từ giữa sông chiếc VN Thương Tín bắt đầu di chuyển về phía kho 5. Tôi đạp xe lần theo, nhưng không vào được cổng. Lính gác cổng không cho vào, phải chi tiền, mà tôi thì chỉ còn hai tờ Đức Thánh Trần thôi. Người ta đang phá các kho thực phẩm để khuân vác về nhà. Tôi ghé quán chú Ba ăn no bụng và mua một mớ mì gói mang theo rồi đi ngược về phía Saigon. Dân Saigon ào vào mấy chung cư Mỹ khuân ra nào TV tủ lạnh, giường nệm, . Ngang qua tòa Đại sứ Mỹ, còn vài người lảng vảng ở đó, cửa đóng, bên trong im lìm. Tôi lại trở ra bến Bạch Đằng, nhảy qua mấy chiếc tàu đánh cá của Đức, leo lên chiếc đậu ngoài cùng.
Chừng nửa giờ sau, một đám quân nhân súng ống đàng hoàng từ trên 2 xe jeep nhảy xuống, hộ tống một ông mặc đồ vest mang theo cái samsonite căng phồng. Họ nhảy xuống mấy chiếc tàu đánh cá, rồi thử nổ máy từng chiếc. Cuối cùng họ nhảy lên tàu tôi đang đứng, Lính tráng dàn hàng ngang bên thành tàu, súng chĩa vào bờ, không cho ai lên nữa. Khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chiếc VN Thương Tín bò ra giữa sông hướng về Vũng Tàu. Thuyền của tôi theo sau một quãng. Tàu VN Thương Tín đi được một đỗi thì bên kia Thủ Thiêm các đồng chí tương cho 3 quả đạn. Tôi thực sự chẳng biết là đạn gì. có thể là đạn sung cối. Con tàu VN Thương Tín bèn quay đầu lại 180 độ đi ngược lại một chút, rồi lại quay đầu một lần nữa 180 độ đi thẳng về hướng Vũng Tàu.
Khi tàu chúng tôi đến tầm súng của các “đồng chí”, mấy Sếp lớn rút vào phòng lái, còn các người khác nằm rạp trên sàn tàu phó mặc cho định mệnh. Tôi và một ông Thiếu Tá cảnh sát, nằm bên cạnh cửa phòng lái hướng về Saigon. Nín thở qua sông! Ông gìa cảnh sát đang lâm râm cầu nguyện, còn tôi cũng xin Đức Thánh Trần phù hộ cho tai qua nạn khỏi. Đúng lúc ấy thì nghe một tiếng “bụp” từ phía bên kia Thủ Thiêm dội qua, sèo sèo qua đầu rồi nổ ầm một cái dưới nước, hơi dài! Một phút sau lại một tiêng nổ nữa dưới nước, hơi ngắn! Tôi nghĩ bụng:
”Các đồng chí ấy đang điều chỉnh đây, một quả dài, một quả ngắn, quả thứ ba thế nào cũng trúng”
“ Ác thật, ai mà nhẫn tâm bắn vào kẻ đã buông súng đầu hàng!”
Một tiếng ầm vang lên, cánh cửa phòng lái bung ra, lỗ tai tôi lùng bùng, đầu kêu o o như có con ve sầu đang ca hát trong đó. Tôi nhủ thầm, đạn trúng phòng lái rồi. Con Tàu vẫn chầm chậm trôi đi như không có chuyện gì sảy ra. Có ai đó đóng cửa phòng lái lại. Tôi đoán chắc có người bị thương nhưng tuyệt nhiên không nghe tiêng la khóc gì cả. Một đỗi sau, dìu ông già đứng dậy. Ông ta chỉ bị thương nhẹ trên môi, còn cẳng chân tôi máu chảy ra xối xả. Tôi vội xé chiếc áo thun đang mặc và cột chặt phía trên chỗ bị thương, một lúc sau vết thương ngừng chảy máu. Coi lại, thấy chỉ bị một mảnh nhỏ ghim vào chân.
Chiếc tàu đánh cá chạy cà rịch cà tang sang Singapore. Mỗi ngày được ăn một lần. Nhà bếp nấu một nồi cơm nhỏ, phát cho mỗi người một muỗng cơm. Cứ chìa tay ra, họ đổ muỗng cơm vào bàn tay, mình hất vào miệng thế lá xong.
Đến Singapore, có cả ngàn chiếc tàu lớn nhỏ đậu trong vịnh, nhưng không ai được lên bờ. Họ cho thực phẩm, nước, và săng dầu rồi đuổi cả đám qua Subic Bay bên Phi Luật Tân. Rồi qua Guam. Tôi gặp lại Ba tôi và chú em ở đó, rồi cùng nhau qua Mỹ.
*
2. Một mảnh đời tị nạn
Định cư ở Mỹ, tôi làm lại cuộc đời từ con số không. Làm đủ thứ nghề lao động.
Những ngày đầu định cư ở Oklahoma lạnh giá, mỗi sáng hai cha con đạp xe đi làm trong trại ương cây. Chiếc xe tải mui trần chở một đám nhân công ra cánh đồng để đào cây, bó chặt gốc bằng bao bố rồi quăng lên xe tải. Cánh đồng mùa đông đầy tuyết, cứng như đá, những nhát cuốc bổ xuống dội lên tê rần cánh tay. Chỉ đào mươi phút, thân thể nóng ran phải cởi bỏ lớp áo lạnh dầy cộm. Một ngày chỉ đào được 3 cây là cùng, trong khi đó mấy ông Mễ cùng toán đào được it nhất 10 cây. Tuy vậy đào cây cũng không cực nhọc bằng khiêng một đống cây mới đào quăng lên xe tải. Những gốc cây đầy đất và rễ, nhiều khi còn nặng hơn cả thân mình, làm sao khiêng nổi?. Mùa đông ở Oklahoma lạnh đến nỗi nước hồ đóng thành băng thường xuyên. Những lúc buồn nhớ nhà, ra ngồi bên bờ hồ, nhìn đàn vịt trượt tuyết trên mặt hồ làm vui. Làm cho hãng trồng cây đâu được vài tháng, có người bạn giới thiệu làm lau chùi quét dọn trong nhà thương. Tôi nhận ngay, it ra cũng được làm trong nhà ấm cúng Tuần đầu Sếp giao đánh bóng sàn nhà cả môt tầng lầu. Qua tuần thứ hai Sếp giao thêm một tầng nữa, tuần thứ ba giao thêm một tầng nữa, như vậy cả thảy là 3 tầng phải làm xong trong một đêm.
Một ngày nọ đi chợ, có anh chàng cao bồi da trắng cao nhòng, đứng cạnh hỏi:
- Hi young man, are you Vietnamese?
- Đúng rồi, tỵ nạn mới tới đây!
- Tôi tên Joe, hân hạnh được biết anh.
- Tôi tên Lập.
- Láp, Láp hả. Tôi phát âm như vậy có đúng không?
- Không đúng lắm, nhưng cũng tạm được.
Từ đó tôi đươc gọi là Láp, giống như “bá láp” vậy.
Chàng cao bồi nói huyên thiên nhứ vớ được một người thân vắng mặt lâu ngày. Tiếng mỹ ăn đong của tôi cũng lõm bõm hiểu rằng, chàng là đầu bếp trong một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến ở Chu Lai. Về lại cố hương, mở tiệm ăn nho nhỏ, hỏi tôi có muốn làm cho chàng ta không. Công việc là phụ nấu bếp và rửa chén. Dĩ nhiên tôi nhận lời ngay, nếu tiếp tục làm nhà thương chắc có ngày Sếp sẽ giao đánh bóng cả 20 tầng lầu.
Anh chàng “Cao Bồi” cũng tử tế, mướn giúp một căn nhà nhỏ, tặng cho một tủ lạnh cũ. Chàng ta bán lại cho tôi chiếc xe hơi to cồng kềnh với giá 100 đô, trả góp 10 đô một tháng. Xăng lúc bấy giờ chỉ 32 xu một Galon (4 lít). Thuốc là vài đô la mỹ một cây 10 gói, hút chết bỏ. Từ đó tôi cai thuốc lá luôn sợ ghiền thuốc chắc phải bán phổi cho mấy bà nấu cháo lòng. Đi chợ chỉ 20 Đô 2 người ăn 1 tuần rộng rãi.
Tiệm ăn nhỏ, Joe và tôi làm trong bếp. Bà xã tên Nancy và cô con gái tên Kim làm tiếp viên. Kim còn rất trẻ, mới vào đại học.
Buổi trưa, khách chỉ lai rai, nhưng buổi tối và cuối tuần rất bận rộn. Chẳng bao lâu, Joe mướn thêm người phụ bếp. Tôi được làm tiếp viên và dọn bàn. Joe muốn tôi có cơ hội học thêm anh văn và có thêm tiền “tip”. Lúc rảnh rỗi, hai chúng tôi kể cho nhau nghe những kỷ niệm lúc còn ở Việt Nam. Kim cũng lắng nghe và góp ý kiến hoặc đặt câu hỏi với tôi, Kim còn trẻ nên không hiểu mấy về cuộc chiến VN như hầu hết sinh viên phản chiến lúc bấy giờ. Nàng cho rằng, tại sao người Mỹ lại phải đổ biết bao tiền bạc và xương máu ở một xứ sở xa lắc xa lơ chẳng ăn nhập gì với đất nước này. Người Mỹ lúc này chỉ muốn quên đi chiến tranh VN. Những chàng chiến binh trở về từ chiến trường VN không được đối đãi nồng hậu như thời Đệ nhất, Đệ nhị thế chiến. Họ luôn mang mặc cảm, thứ mặc cảm mà giới truyền thông Mỹ đã “brainwashing” (tẩy não) dân chúng thời đó điển hình là nữ tài tử điện ảnh Jane Fonda đã sang tận Hà Nội để ca tụng người Cộng Sản chiến đấu anh dũng.
Tôi sắp xếp với Joe để chỉ làm việc từ 4 giờ chiều tới 12 giờ đêm, công việc vẫn vậy, tiếp viên, phụ bếp, dọn bàn, lau chùi quét dọn trước khi đóng cửa. Thật vất vả cực nhọc, nhưng tôi có cả ngày để đi học. Kim giúp đỡ tôi rất nhiều trong những ngày đầu còn bỡ ngỡ, ghi danh chọn môn học, xin tiền học bổng và trợ cấp của chính phủ, lựa chọn thời khóa biểu, và nhiều thứ linh tinh khác.
Tôi không có bằng trung hoc của Mỹ nên phải thi bằng tương đương. Cũng chẳng khó khăn gì chỉ là trình độ trung học đệ nhất cấp của VN. Lúc đó ngành điện toán mới bắt đầu phát triển vả lại học điện toán chẳng đòi hỏi nhiều chữ nghĩa như các ngành khác. Tôi có thể bắt kịp dễ dàng.
Ngày đầu đi học, tôi vừa vui mừng vừa e dè như cậu bé nép vào áo mẹ đến trường mà Thanh Tịnh đã tả trong bài “Hôm nay tôi đi học”. Tôi còn nhớ lõm bõm vài câu:
“Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.”
Ngày xưa, trong thời chiến tranh tôi vẫn ước mơ như trong bài hát “Qua Cơn Mê” của Nhật Ngân:
“Một mai qua cơn mê, qua cuộc đời bềnh bồng, anh lại về bên em …Cùng theo lũ em học hành như xưa”.
Tôi đã qua cơn mê chưa nhỉ? Không theo lũ em học hành như xưa bên quê nhà nhưng là đi một mình, trên mảnh đất tạm dung, xa lạ. Tôi đã già đi rất nhiều vì chiến tranh. Năm 1976, 31 tuổi đầu 7 năm tuổi lính. Không một mảnh bằng, không nghề ngỗng, chữ nghĩa ăn đong. Tôi đi làm lại cuộc đời đánh mất!
Kim giúp tôi làm luận văn, đọc Hamlet của Shakespeare: “To be, or not to be, That is the question”. Tôi chỉ nàng giải toán, sửa program, môn toán “Math for Engineer” làm cho nàng nhức đầu còn với tôi chỉ là dĩa cơm tấm sườn bì tàu hủ ky!
Thời đó chưa có PC. Tất cả program phải dùng key punch (đục lỗ trên tấm thẻ) rồi nạp cho computer operator đọc vào máy. Một program ngắn cũng cần một số thẻ dầy cở một gang tay. Một lần, Kim cầm sấp “thẻ” program của nàng để nạp cho operator chẳng may ai đó đụng vào cánh tay, cả xấp thẻ rơt xuống đất. Phải mất rất lâu để gom lại và xếp theo thứ tự. Giờ thi và nạp bài cuối khóa đã gần đến, nàng ngồi bệt xuống đất thu lượm thẻ mà nươc mắt chạy vòng quanh. Tôi đi ngang, hối nàng vào phòng thi, để xấp program đó tôi lo cho. Thi cuối khóa nàng được điểm “A”, tôi được nàng tặng cho một nụ hôn nồng cháy nhớ đời!
Thường thì viết program rồi cho vào máy computer chạy thử, nếu sai, sửa lại, chạy lại. Cứ như thế cho đến khi hết lỗi, rồi kiểm soát lại kết quả mà program đưa ra xem có đúng như đòi hỏi không? Kim rất thông minh, những bài program khó đến đâu, chỉ nói sơ qua là nàng hiểu ngay. Chạy program hai, ba lần là sạch lỗi. Tôi cố gắng học tất cả các khóa hè, cho nên cũng bắt kịp Kim. Chúng tôi ra trường cùng một lượt. Ngày ra trường, Joe và Nancy được chúng tôi mời đi dự, có cả Ông Bà nội của Kim nữa, hai ông bà là chủ một nông trại gần Kansas City. Joe giới thiệu tôi là người VN, một cựu chiến binh. Hai ông bà rất ngạc nhiên, chưa từng thấy người VN bao giờ, chỉ nghe nói trên TV . Ông cũng từng là cựu chiến binh thời đệ nhị thế chiến, và rất hãnh diện. Ông Bob (ba của Joe) tiết lộ rằng ở tỉnh nhỏ, đám thanh niên chỉ học cho lấy lệ, phần lớn giúp cha mẹ trông lo nông trại, lớn lên nhập ngũ đẻ thỏa mãn chí giang hồ vì cả đời không có dịp đi xa hơn tỉnh nhỏ của mình!
Joe cám ơn tôi đã giúp Kim học hành, còn tôi cám ơn chàng đã cho tôi cơ hội. Nancy rất cảm động nói với tôi:” Kim là người duy nhất trong gia đình tốt nghiệp Đại Học”.
Chúng tôi may mắn, kiếm được việc ngay sau khi tốt nghiệp trong một hãng lớn đang có hợp đồng với Trung Tâm Không Gian tại Houston. Tôi tiếp tục học thêm vào buổi tối, chẳng bao lâu lấy thêm bằng cao học. Một lần nữa tôi mời Nancy, Joe và Kim đi dự lễ ra trường của tôi. Joe đã đóng cửa tiêm ăn mấy ngày và bay qua Houston. Tôi cảm ơn Joe và nước Mỹ đã cưu mang tôi và cho tôi cơ hội như ngày hôm nay. Chàng ôm lấy tôi và nói trong nghẹn ngào:
- Tôi thành thực xin lỗi những người tỵ nạn VN, chúng tôi đã bỏ rơi chiến hữu VN nhưng các bạn không hề oán hận. Tôi giúp cho Láp có giờ đi học chẳng qua là muốn bạn đạt được những ước vọng mà tôi hằng mong muốn.
- Cám ơn Joe, tôi chỉ cố gắng hết mình và Trời cũng giúp tôi nữa.
- Những người chiến binh như tôi, khi nhập ngũ, ai cũng hy vọng đăng lính vài năm rồi giải ngũ, quân đội sẽ giúp học bổng để tiếp tục đại học. Nhưng thực tế số thành tựu không nhiều. Từ chiến trường VN trở về chúng tôi với thân xác mệt mỏi, nghiện ngập, chán nản không mấy ai nghĩ đến chuyện cắp sách đến trường nữa.
Tôi và Kim yêu nhau, lấy nhau. Joe trở nên cha vợ của tôi. Ở với nhau một thời gian, những di biệt về văn hóa, tuổi tác, nếp sống càng ngày càng lớn. Nàng luôn luôn tranh cãi với ba tôi. Những buổi họp mặt bạn bè hay gia đình của tôi, mới đầu nàng cũng tham gia nhưng dần dà càng thưa thớt hơn. Nàng không thể thưởng thức được món ăn VN. Chúng tôi chẳng có con cái nên việc phải đến đã đến: ly dị.
3. Họp bạn Thanksgiving 1990.
Buổi tiệc họp mặt thân hữu cựu sinh viên trường Đại Học CTKD được tổ chức trong phòng Ball Room của Hilton Hotel trên lầu ba. Khách sạn gồm 22 tầng lầu sát bên hồ Clear Lake, ngoại ô thành phố Houston.
Clear Lake cũng là tên của thành phố nhỏ rất thơ mộng này. Khách đến đã đông, nhưng còn hơn một giờ nữa mới khai mạc. Bạn hữu lâu ngày gặp nhau, tay bắt mặt mừng, hỏi thăm nhau kẻ mất nguời còn, ai đã vượt biên, ai còn kẹt lại, tiếng cười ròn rã, xen lẫn tiếng gọi nhau ơi ới. Ai đó khoe làm ăn phát tài, kẻ khoe mới bắt được job thơm, người khoe con cái đỗ đạt thanh tài, ôi thôi đủ thứ chuyện trời ơi đất hỡi.
Tôi đứng bên cửa sổ, nhìn mông ra ngoài. Mặt hồ phẳng lặng, vài chiếc du thuyền với những cánh buồm đủ màu sắc còn lưu luyến một ngày sắp tàn. Bên kia bờ hồ, xe cộ nối đuôi nhau trên chiếc cầu cao lêu nghêu in mình trên nền trời, đèn xe sáng chói đan vào nhau dài bất tận trông như một con trăn khổng lồ màu bạc. Đó là chiếc cầu bắc ngang qua Water Way nối liền Hồ Clear Lake và Gaveston Bay, đủ cao cho du thuyền qua lại.
Khu giải trí Kemah bên bờ vịnh với hàng chục nhà hàng sang trọng, đã lên đèn sáng chưng. Chiếc đèn hải đăng bên phải hồ, gần mấy biệt thự lợp ngói đỏ, thỉnh thoảng lại quét một vạch sáng trên nền trời như muốn nhắc nhở ai đó, trên mấy chiếc du thuyền, hãy mau mau cập bến. Ngoài xa tít kia là vịnh Gaveston, một vài tầu chở dầu đang nối đuôi nhau đi vào Ship Chanel của hải cảng Houston. Những chiếc tàu dài gấp hai ba lần sân đá banh, và cao hơn một cao ốc 20 tầng, nổi lềnh bềnh trên mặt nước, Từ xa trông chẳng khác gì mấy chiếc thuyền ba lá bên quê nhà. Vài đàn ngỗng trời bay về phương nam trốn lạnh, từng hàng cánh trắng lấp lánh, phản chiếu chút ánh nắng yếu ớt còn sót lại. Trời vào thu đã lâu, gần tới ngày lễ Thanksgiving rồi. Tôi cảm thấy se lạnh và cô đơn giữa đám đông người.
Có ai đó đập khẽ trên vai tôi:
-Anh Lập ơi, có ai hỏi thăm anh nè, gớm tìm anh mãi mới ra, sao lại đứng đây một mình vậy. Chắc đang mơ mộng người đẹp nào phải không?
Tôi quay lại, đó là Đạt, người bạn học cùng lớp khi còn ở Đại Học, chúng tôi đã từng gặp nhau trong những lần họp mặt trước đây nên nhận ra anh ngay. Tôi giật mình, nhìn người đàn bà trung niên, đứng bên cạnh:
-Có phải Quỳnh-Hoa đây không? Ôi! Thật là bất ngờ. Anh tìm em khắp chân trời góc biển không ra. Ngọn gió nào thổi em tới đây?
-Ngọn gió Bấc đấy, bởi em ở gần Bắc Cực, anh có biết không?
Nàng chỉ nói được có bấy nhiêu rồi nước mắt vòng quanh. Tôi cũng không cầm được nước mắt. Đạt đã kiếm cớ lỉnh đi. Quỳnh-Hoa nói trong tiếng nghẹn ngào:
-Em đã chịu bao nhiêu đăng cay cực khổ để chờ đợi anh trên xó rừng cao nguyên đó, nhưng anh chẳng bao giờ trở lại. Em đã tưởng anh chết mất xác đâu đó rồi. Không ngờ Trời Phật run rủi lại gặp anh ở đây.
Tôi cứ để nàng khóc và kể lể như vậy một lúc lâu cho vơi đi bao nhiêu uất ức, sầu hận. Một vài người tò mò đi ngang nhìn chúng tôi rồi bỏ đi. Cũng may, phòng hội rộng thênh thang, chỗ tôi đứng ở cuối phòng xa hẳn đám đông nên ít người để ý. Hôm nay chắc cũng nhiều người, gặp nhau lần đầu, phải đổ nhiều nước mắt.
-Anh xin lỗi em, lúc mất Quảng Trị, đơn vị anh từ vùng giới tuyến rút về Saigon, anh đã tìm em ở tất cả những nơi có người tị nạn từ miền trung hay cao nguyên chạy về, có lần ra tận Tuy Hòa nữa nhưng chẳng biết nhà mẹ em ở đâu. Anh chỉ sợ em lạc loài đâu đó trong đám người rút theo tỉnh lộ số bảy từ cao nguyên về Tuy Hòa.
Nàng hờn dỗi;
-Anh chỉ mong em chết đi phải không?
Tôi biết nàng bao giờ cũng yêu tôi hết lòng và hiểu rõ lòng tôi cũng vậy, đó chỉ là lời trách móc nhẹ nhàng mà thôi.
Nhạc trổi lên, ban tổ chức yêu cầu mọi người vào chỗ ngồi để buổi tiệc được bắt đầu đúng giờ. Nàng chẳng quen ai ngoại trừ vợ chồng Đạt nên tôi quyết định nhập chung với đám Đạt cho vui, toàn là bạn cùng khóa thời sinh viên. Ban tổ chức không xếp chỗ, ai ngồi đâu cũng được miễn là đủ 10 người một bàn. Tôi giới thiệu nàng với mọi người cùng bàn:
-Thưa các anh các chị, đây là Quỳnh-Hoa, người bạn rất thân, quen nhau từ thời tôi còn trong quân đội, chúng tôi đã suýt lấy nhau, nếu không có vụ tan hàng hồi 30 Tháng Tư.
Có nhiều tiếng lao sao chọc ghẹo nàng:
-Tên đẹp như người, anh Lập thật là có mắt.
- May quá không có vụ “30 Tháng Tư”, anh Lập không bị đi tù cải tạo cũng bị tù chung thân.
- Ê, có bao nhiêu người biết bị tù chung thân mà vẫn chui vào đó thôi.
- Chắc chúng mình sắp được uống rượu nữa rồi.
Nàng cười bẽn lẽn, hai má đỏ hồng, lúm đồng tiền vẫn còn đó, bây giờ đã là thiếu phụ trung niên, vẻ ngây thơ hồn nhiên không còn nữa, có mập ra một chút, hai bên khóe mắt đã xuất hiện “dấu chân chim” nhưng thân hình vẫn cân đối trong chiếc áo dài màu tím. Nước da trắng bóc, có lẽ ít khi ra nắng.
Chương trình văn nghệ bắt đầu với giọng ca quyến rũ của Nguyên Khang, bài “Tinh Tự Mùa Xuân” của nhạc sĩ họ Từ:
“Em, lại đây với anh, ngồi đây với anh, trong cuộc đời này”
“Nghe, thời gian lướt qua, mùa xuân khẽ sang”
“Chừng như không gian đang sưởi ấm những giọt tình nồng”
….
Tiếng hát vẫn vang vang, nhưng tôi không còn nghe được lời nào, lỗ tai lùng bùng, đoạn phim dĩ vãng lai trở về trong đầu tôi.
Ngày ấy, xa lắm rồi. Quỳnh Hoa tuổi đôi mươi, là cô giáo dạy ở trường tiểu học Phú Nhơn, quận Cheo Reo. Tôi mới đến vùng này, là một Thiếu Úy trẻ măng vừa đổi về đơn vị mới thành lập. Thời mới thân quen, có lần tôi hỏi nàng:
- Qùynh Hoa ở Phú Nhơn lâu chưa ?
- Độ gần một năm thôi, em ra trường sư phạm cấp tốc rồi xin đổi về đây ngay.
- Sao em không xin dạy ở gần nhà có phải tiện hơn không ?
- Ngày xưa, Ba em làm Quận Trưởng Phú Nhơn. Người đã bỏ cả cuộc đời để xây dựng cái quận đèo heo hút gío này. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dân chúng từ miền ven biển và từ ngòai Bắc di cư lên đây lập nghiệp, đã được Ba em tận tình giúp đỡ. Nhưng rồi trong một cuộc đi thăm đồn điền của một xã phía Tây Quận Lỵ, Ba em đã lọt vào ổ phục kích và bị sát hại. Khi ra trường, chính em đã chọn nơi này để trở lại...
Quỳnh Hoa không kể nhiều, nhưng đã đủ để tôi thấy vừa kính nể vừa thương hại người con gái mới lớn. Dần dà, chúng tôi thấy gần gũi nhau hơn. Tôi tìm thấy ở nàng một niềm vui, một ước mơ, một mái ấm gia đình cho tương lai. Vùng đất hoang vu này trở nên tươi mát đáng yêu bởi vì chỗ nào cũng thấy đoá Hoa Quỳnh nở rộn ràng.
Chúng tôi đã yêu nhau, có núi rừng và con sông nhỏ Adrang chảy qua quận lỵ làm chứng. Con sông thật hiền hoà và dễ thương như người tôi yêu. Bên bờ sông những hàng cây Phượng Vĩ nở đỏ rực mỗi mùa hè. Mùa mưa nước phù xa đỏ ửng từ trên ngàn chảy cuồn cuộn xuống ngập gần hết cây cầu sắt nhỏ bắc qua sông. Cây cầu nhỏ sơ sài có vài nhịp, bề ngang chỉ đủ cho một chiếc xe đò qua lại. Mùa nắng, nước cạn trơ những bãi cát trắng tinh. Người ta đào cát thành những vũng nước trong, gánh về để uống. Giữa lòng sông nước trong vắt nhìn thấy cát và sỏi tận dưới đáy, nước chảy lững lờ.
Chúng tôi đã ngồi bên nhau trên cây cầu sắt cũ kỹ bắc qua dòng sông, bốn chân để thõng xuống dưới đong đưa. Dòng sông nước chảy lững lờ trong vắt nhìn tận tới đáy. Mùa nước cạn, hai đứa rủ nhau lội qua sông, sang phía hàng phượng vĩ mọc bên kia bờ. Nàng nhặt đầy giỏ sách những cánh phượng màu đỏ tươi để trang trí lớp học cho đám học trò nhỏ của nàng. Những đứa bé tiểu học mặt mũi nhếch nhác nhưng nàng luôn săn sóc như những đứa em út. Chúng tôi đã hôn nhau lần đầu ở đó, thề nguyền mãi mãi bên nhau ở đó. Một lần bên nhau, tôi đã ghi vào vai cầu hai câu thơ con cóc: “Chiều về thấp thóang bên sông, Thấy Qùynh thơm ngát thấy lòng xôn xao...”
Nhưng rồi, cuộc triệt thoái cao nguyên quá đột ngột, rồi nước mất nhà tan! Trôi dạt qua tới Mỹ, tôi chẳng hy vọng có ngày gặp lại nàng.
Tiếng vỗ tay vang rần lẫn trong tiếng huýt sáo inh ỏi kéo tôi về thực tại. Nhìn sang Quỳnh-Hoa, mắt nàng cũng đỏ hoe. Nàng lí nhí mấy câu xin lỗi rồi rời khỏi bàn đi về phía cửa. Tôi vôi vàng đuổi theo nàng. Chúng tôi ra phía sân sau khách sạn, vượt qua mấy bậc thềm và hướng về phía cầu đá bên hồ. Cầu đá thực sự là những tảng đá lớn xếp bên nhau thành một con đường ngắn, nhô ra khỏi hồ để người ta câu cá.
Chúng tôi ngồi trên một tảng đá bằng phẳng bên nhau như ngày nào ngồi trên chiếc cầu “Biên Giới” trong xó rừng cao nguyên. Cứ ngồi như thế một lúc lâu, im lặng, nhìn mông ra ngoài hồ, xa tận những ánh đèn bên khu giải trí Kemah, tận ngoài vịnh Gaveston, xa mãi ngoài biển Đông, về tận Saigon và lên đến xó rừng cao nguyên.
Tôi cởi áo vest ra đưa cho nàng:
-Em mặc thêm áo vào kẻo lạnh.
-Em không lạnh, ở xứ lạnh quen rồi anh ạ.
Nàng từ chối, nhưng vẫn đưa tay cho tôi khoác áo vào.
-Em sang đây lâu chưa?
-Mới hôm qua, cùng với anh chị Đạt, chúng em đặt phòng ngay trong khách sạn này.
-Em định cư ở đâu?
-Na Uy anh ạ. Xứ ấy lạnh lẽo quanh năm, nhưng tình người rất ấm. Họ giúp đỡ người tị nạn tận tình. Lúc mới qua, được cấp cho nhà ở, bảo hiểm sức khỏe đầy đủ, tiền ăn học và tìm việc cho mình. Dân số rất ít nhưng đời sông đầy đủ tiện nghi chẳng khác gì Mỹ, nhưng lạnh quanh năm. Qua Houston thấy trời ấm áp em thích lắm.
-Làm sao em trôi dạt qua tận Na Uy lận?
-Lúc quân đội rút khỏi cao nguyên, em ở mãi xó rừng chẳng có phương tiện gì di chuyển cả, một lũ học trò bám theo em, không thể nào dẫn các em theo được, nếu đi bằng đường bộ.
-Nên em quyết định ở lại?
-Dạ, sau này em mới biết, đó là cái may của em. Bao nhiêu người đã chết trên đường số 7 từ Phú Bổn về Tuy Hòa, con đường đó nguy hiểm quá.
-Đúng vậy, lúc còn ở trên cao nguyên, có lần anh đóng quân ở quận Phú Túc, đó là một quận nhỏ nằm giữa đường số 7. Con đường thì nhỏ, nhiều ổ gà, cầu cống hư hỏng nhiều, hai bên là rừng, rất dễ bị phục kích.
- Những ngày tháng ấy, em đợi anh đến tuyệt vọng. Em nhớ lới anh thề nguyện hai đứa sẽ thành hôn. Nào ngờ...
-Anh cũng muốn trở lại lắm chứ, nhưng anh chẳng làm chủ được định mệnh của mình. Anh như cánh lục bình trên dòng sông, nước đưa đến đâu thì trôi đến đó. Em có nhớ dòng sông của hai đứa?
- Chiều nào em cũng ra ngồi trên “Cây Cầu Biên Giới” của chúng mình, nhìn qua bên kia bờ sông, sờ tay trên hai câu thơ anh khắc trên đó...
- Khoan kể, khoan nhắc. Để anh đọc thêm hai câu tiếp theo: “Chiều về chiều vẫn một mình, Trách người năm cũ bỏ tình bơ vơ...”
Quỳnh Hoa kêu:
- Anh... Anh có về tìm em thật à.
- Sao không thật! Ngay khi có thể bay về Việt Nam, anh đã đến Phú Nhơn tìm em...
Tôi kể cho Quỳnh Hoa nghe chuyến trở về của mình. Quang cảnh vẫn không thay đổi mấy, ngôi trường tiểu học vẫn như xưa. thời gian như ngừng trôi Ớ quận lỵ nhỏ bé này. Phố chợ đìu hiu vẫn còn kia, hàng rào kẽm gai chung quanh doanh trại nơi tôi đóng quân vẫn còn đó, nhưng chẳng ai biết đến một người con gái đẹp như hoa Qùynh đã từng in dấu chân nơi chốn này. Hình ảnh ngày xưa vẫn còn đủ chỉ thiếu một người. Quỳnh Hoa ngậm ngùi:
-Tiếc nhỉ, lúc đó em đã bỏ đi lâu rồi, mấy thằng cán bộ cứ theo chọc em, rồi hăm dọa em, em nói em đã có chồng rồi, giống như chi Lan, chị Mai, chị Tú đều bị gọi là vợ ngụy quân cả. em cũng nhập chung với các chị ấy. Có vài chị độc thân không chịu nổi áp lực, đành phải lấy cán bộ. Còn em, có lúc muốn đâm đầu xuống sông chết cho rồi. Nhưng lại nghĩ tới anh nên ráng chịu đựng. Trong lòng em lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện vươt biên thôi. Ngày nọ em xin nghỉ phép để về thăm nhà, rồi cùng Mẹ và hai đứa em trốn ra Vũng Tàu, ở tá túc nhà ông chú. Gia đình chú tổ chức vượt biên, em gom được ba cây rưỡi vàng giao cho chú. Số vàng này em để giành từ trước năm 75 định sẽ chi tiêu vào dip đám cưới của chúng ta.
-Tội nghiệp em, rồi sao nữa.
-Thuyền ra khỏi hải phận vài giờ thì hư máy, bao nhiêu tàu buôn đi ngang qua nhưng chẳng ai ngó ngàng tới. Cho đến một ngày, một chiếc thuyền buôn của Na Uy chịu cứu vớt và chở thẳng vào Mã Lai, sau đó Na Uy đã bảo lãnh tất cả số người trên tàu. Lúc đó em thật bơ vơ, một mình phải lo cho mẹ và hai đứa em nhỏ, chẳng biết trông cậy vào ai. Em lại nghĩ đến anh, vừa buồn vừa tủi thân. Chính phủ Na Uy giúp cho chỗ ăn ở và giúp cho mấy chị em đi học, Mẹ thì được một việc làm trong siêu thị. Đời sống chật vật lúc khởi đầu nhưng cũng tạm ổn định.
-Em học về ngành gì vậy?
-Em học kế toán, lúc đầu cũng thật khó khăn, nhưng nhờ các giáo sư thông cảm và tận tình chỉ dạy rồi em cũng tốt nghiệp, hai đứa em của em cũng ra trường kỹ sư một thời gian sau đó. Còn anh sao qua được Mỹ?
Sau khi kể lại chuyện ra đi ngày 30 tháng Tư của mình cho Quỳnh Hoa nghe, chúng tôi ngồi yên lặng bên nhau.
Tôi muốn nói với nàng trăm ngàn điều nhưng vẫn không mở miệng được. Thời gian đã khác, hoàn cảnh đã khác. Khuôn mặt nàng hiện lờ mờ trong bóng tối. Tôi khóc lúc nào mà không biết. Không biết tôi khóc cho số phận gian truân của chúng tôi, của cả dân tộc tôi bị đọa đầy hay cho hạnh phúc muộn màng của hai đứa chúng tôi. Hạnh phúc dù đến muộn màng nhưng vẫn là báu vật Trời ban cho.
Minh Đạo & Nguyễn Thach-Hãn |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 16/Apr/2012 lúc 8:49pm | |
Vệt nắng cuối
chiều
*** Tháng 7/75, khi mọi người vẫn còn đang ngơ
ngác, chưa kịp hoàn hồn trước bao thù hận, mất mát
chia lìa, thì ở khu làng biển nghèo Bá Hà, một cậu
bé 15 tuổi lại ngỡ ngàng trước một tin vui - có
mẹ. Khi bà ngoại dắt Hưng vào nhà và chỉ một người
đàn bà xa lạ, bảo đó là mẹ mình. Hưng bất ngờ đến
sững sờ, cứ ngỡ như bà mẹ này vừa mới từ trên trời
rơi xuống.
Từ khi sinh ra, rồi cả một thời tuổi thơ Hưng chỉ sống với bà ngoại. Ngoại nghèo khổ, một thân một mình vất vả làm thuê, gánh mướn, chắt chiu nuôi đứa cháu duy nhất của mình. Hưng lớn lên bằng tấm lòng bao la của ngoại và sóng gió của biển khơi mênh mông. Trò chơi chỉ là rượt theo các chú dã tràng trên bờ biển vắng hoặc nhặt những chiếc vỏ ốc, vỏ sò sau mỗi lần thủy triều lên xuống. Càng lớn Hưng càng khôi ngô, khỏe mạnh. Có lẽ nhờ tiếng hát ru hời của ngoại cùng âm thanh rạt rào của biển luôn an ủi vỗ về mà Hưng gần như quên hẳn nỗi bất hạnh mồ côi và hun đúc Hưng thành một đứa bé khôn ngoan, thánh thiện, sớm biết nhìn bầu trời xanh bao la mà khát khao bao điều ước vọng. Năm mới lên tám tuổi, vừa hết lớp ba, dù rất say mê học hành nhưng không đành nhìn ngoại ngày một còng lưng, Hưng phải xin nghỉ học để đi làm phụ ngoại. Theo ghe lưới cá của mấy người hàng xóm. Thời gian nghỉ ngơi, ở nhà tự học, đọc sách vở mà Hưng mượn được hoặc mua lại từ những bạn bè hay các anh chị học sinh lớn tuổi trong làng. Hưng ít khi hỏi ngoại về cha mẹ mình, vì Hưng không hề biết mặt họ, và trong ký ức non nớt cũng như trong cả những giấc mơ của Hưng cũng không bao giờ có hình ảnh cha mẹ. Chỉ nghe bà ngoại kể là cả hai người đều bị bạo bệnh qua đời lúc Hưng mới sinh ra. Có lẽ thấy tội nghiệp đứa cháu côi cút của mình, bà không muốn Hưng phải suy nghĩ hay nhớ đến chuyện buồn này, nên chỉ kể vội một đôi lần, lúc Hưng mới lớn lên và bắt đầu nhận hiểu đôi điều ở quanh mình. Rồi không bao giờ bà nhắc lại nữa. Hưng có hai ông cậu, em của mẹ, nhưng ít khi gặp mặt. Ông cậu nhỏ đi làm xa ở đâu đó, còn ông cậu lớn thì đi lính quân dịch, một năm chỉ về phép đôi ba lần. Ông có vợ, nhưng gởi vợ lại cho ngoại. Bà mợ thì hiền lành, nhưng ông cậu lần nào về cũng ghen tương, gây gổ với mợ, với ngoại, mặc dù ông rất thương và lo lắng cho ngoại. Có lần ngoại buồn, hờn cậu, dắt Hưng theo ra tận vùng quê Xuân Tự, ngoài Vạn Giã ở với gia đình người em của ngoại. Sau hơn nửa tháng, nguôi ngoai và nhớ nhà, nhớ biển, nhớ cả đôi gánh tần tảo của mình, bà cháu lại dắt díu trở về làng cũ. Đó là kỷ niệm một lần đi xa độc nhất trong tuổi thơ của Hưng. Mười lăm năm sống bên cạnh ngoại, trừ chuyến đi xa duy nhất ấy, Hưng chỉ quanh quẩn ở làng quê Bá Hà hay trong khu vực Hòn Khói. Một khu làng nghèo thuộc huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, nằm bên bờ một cái vịnh nhỏ xa xôi, cách biệt thị tứ. Thời Pháp thuộc, chưa có nhiều phương tiện giao thông, nơi này chẳng khác nào một ốc đảo. Muốn đến nơi khác phải di chuyển bằng ghe thuyền. Dân chúng đa số sống bằng nghề đánh cá, làm muối, một ít làm ruộng. Nghèo, nhưng để bù lại, ông trời đã ban cho họ sự kiên nhẫn, trí thông minh, lòng hiếu học, cùng những cô con gái mặn mà nhan sắc. Đầu thập niên 60, Bá Hà, Hòn Khói có khá nhiều người trẻ vươn lên, thành đạt bằng con đường chữ nghĩa, tốt nghiệp bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, đã tạo một làn sóng đưa con cái vào các thành phố lớn Nha Trang, Sài Gòn theo học. Nhà nào cũng hy vọng con cháu mình sẽ bước ra khỏi cái nghiệp nghèo khổ, ít học, quanh năm chỉ soi mặt dưới biển, trên đồng từ mấy đời của dòng họ, cha ông. Điều đáng buồn là cùng với cái đà vươn lên ấy cũng là lúc xảy ra nhiều biến động đau thương của đất nước. Bá Hà, Hòn Khói lại là nơi có nhiều anh em ruột thịt và bạn bè thân thiết, kẻ đứng bên này, người đứng bên kia, trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Chủ nghĩa Mác-Lê một thời đã hấp dẫn một số người trí thức trẻ, vươn lên từ những tầng lớp nghèo khổ, khi “đấu tranh giai cấp” trở thành mục tiêu và lý tưởng của họ. Họ không hiểu là người ta đã lợi dụng điều này, dẫn dắt họ vào con đường lầm lạc để cuối cùng chỉ phục vụ cho một nhóm người ác độc, chẳng hề có lý tưởng mà chỉ khát khao quyền lực, bạc tiền. Hương là một trong số những người đi theo con đường cam go đầy bất trắc ấy. Có điều không nổi đình, nổi đám như mấy người họ Đỗ cùng xóm. Một anh giáo sư có vợ bác sĩ và mấy người cháu ruột đều có bằng cấp cao, kẻ vào bưng, người hoạt động nội thành, sau 75 làm nhiều chức rất lớn trong đảng. (Nhưng cũng chỉ vài năm sau thì giật mình thấy “lạc đường” nên quay lại chống đảng để bị tù tội và mất hết bổng lộc) (*). Việc ra đi của cô gái tên Hương này kín đáo, thầm lặng và từ một lý do đặc biệt hơn, không ai biết được. Hưởng ứng phong trào cho con cái tiến thân theo con đường sách vở, cha mẹ Hương chắt chiu tiền bạc cho cô con gái của mình vào Sài gòn học. Thương cha mẹ nghèo mà phải vất vả lo lắng cho mình, sau khi vào Sài Gòn một thời gian, Hương kiếm việc làm thêm; vừa làm vừa học. Công việc chỉ là phụ giúp trong một nhà máy dệt, nhưng sau một tháng, ông chủ thấy Hương vừa hiền lành thật thà, vừa có chí học hành nên cho Hương làm sổ sách, kế toán. Biết Hương thuê phòng trọ trong khu lao động nghèo, sống một mình giữa Sài Gòn ồn ào đầy bất trắc, ông chủ tốt bụng động lòng thương cho về ở chung với đám con cái trong ngôi nhà rộng lớn của mình. Vừa làm cho xưởng dệt vừa phụ giúp những chuyện lặt vặt trong nhà. Ông Bùi Văn Trụ, chủ xưởng dệt Bắc Hà là một kiến trúc sư tài ba, từng thiết kế nhiều khu đô thị và nhận lãnh công trình xây cất khu chợ Hòa Bình Đà Lạt. Gia đình trước ở Hà Nội và đã mấy đời làm chủ nhiều xưởng dệt. Năm 1954, cả nhà di cư vào Nam, sống ở khu Phùng Hưng, Chợ Lớn. Sau khi tạm ổn định đời sống và việc học hành cho con cái, ông gầy dựng lại Xưởng dệt Bắc Hà này. Được sự giúp đỡ của chính quyền trong bước đầu, nhưng chính yếu là nhờ vốn liếng và nhiều kinh nghiệm của ông, xưởng dệt ngày càng phát triển, không bị thất thế giữa những xưởng dệt lớn khác ở chung quanh mà hầu hết do Hoa kiều làm chủ. Biết ông Trụ là người có khả năng và tâm huyết, chính phủ Ngô Đình Diệm đã yêu cầu ông cộng tác trong chương trình tái định cư và kiếm công ăn việc làm cho hơn một triệu người đồng cảnh với ông. Xưởng dệt Bắc Hà cũng là nơi quy tụ nhiều người di cư có kinh nghiệm trong nghề dệt. Vợ mất, để lại cho ông bốn người con, ba trai một gái. Ông tục huyền với bà vợ mới, là bạn thân của vợ ông và cũng chính là người quản lý mấy xưởng dệt của ông ngoài Hà Nội. Khi di cư vào Nam, gia đình ông, ngoài vợ chồng và cậu con trai nhỏ của bà vợ sau, còn có cả bốn đứa con của bà vợ trước. Vào Sài Gòn ông bà có thêm một cô con gái út. Các con đều theo học các trường Tây: Jean Jacques Rousseau hay Marie Curie. Ông Trụ rất cưng con, nhưng thường bận đi xa trong nghề kiến trúc, hay giúp việc định cư cho những bà con khác, nên giao cho vợ chăm sóc, dạy dỗ đàn con, ngoài việc quản lý xưởng dệt Bắc Hà. Có lẽ một phần do ảnh hưởng nghề nghiệp, nhiều năm với cương vị quản lý mấy xưởng dệt lớn, nhân viên lên đến mấy trăm người, nên bà khá nghiêm khắc với con cái. Trong mấy cậu con trai có Hoành, con út của đời vợ trước, rất giống bố, khá đẹp trai, hiền lành, học hành chăm chỉ và luôn vâng lời cha mẹ. Hoành không những giống bố về khuôn mặt, dáng đi mà còn ở đức tính rộng lượng, thương người. Thấy Hương con nhà nghèo, nhưng xinh xắn, nhu mì và hiếu học, Hoành rất quí mến, thương yêu lo lắng cho Hương như cô em gái. Hoành thường dạy kèm thêm cho Hương. Những ngày nghỉ, khi đưa các em gái đi chơi, Hoành luôn rủ Hương cùng đi. Thường chỉ đi dạo trong Sở Thú, ăn kem hoặc xem ciné. Sự gần gũi, thân tình và hợp tính nhau dần dần đã làm tình yêu nẩy nở. Cuộc tình đẹp nhưng thầm lặng kéo dài gần hai năm, càng lúc càng say đắm, nồng nàn với kết quả là Hương mang thai. Hoành đem sự việc thưa cùng cha mẹ và xin được cưới Hương làm vợ. Lúc ấy Hoành đang học năm cuối trường Jean Jacques Rousseau và chuẩn bị thi BAC II. Cha của Hoành, sau khi la rầy rồi cũng đồng ý. Ông bảo Hương là đứa con gái hiền hậu dễ thương, lỗi là ở con trai mình. Cha mẹ phải có trách nhiệm, nhất là trong bụng Hương đang có giọt máu của họ Bùi. Nhưng bà kế mẫu của Hoành thì vừa nghiêm khắc, vừa bảo vệ nếp nhà “môn đăng hộ đối”, quyết liệt khước từ. Sau nhiều lần bàn cãi, cha của Hoành phải tạm thời nhượng bộ để giữ hòa khí gia đình. Cuối cùng ông bà đi tới quyết định: Thuê chỗ ở khác cho Hương sống để chờ sinh đẻ. Sau khi sinh xong, ông bà sẽ bắt đứa con và chu cấp tiền bạc như một đền bù để Hương về quê sinh sống, cắt đứt mọi liên lạc với gia đình cũng như với Hoành. Thực ra, trong thâm tâm ông Trụ, cha Hoành, đây chỉ là kế hoãn binh với bà vợ kế, chờ sau này, mọi việc lắng xuống, ông sẽ mua nhà riêng cho Hoành và tìm cách đưa Hương trở về sống với Hoành và con. Tiếc là ông không nói sớm điều ấy với Hoành. Hoành quá thật thà đem hết mọi việc kể cho Hương nghe, và khuyên Hương cứ ở lại sinh đẻ rồi sau này sẽ tính. Vừa bất bình trước sự khinh miệt giai cấp của gia đình Hoành, vừa giận thái độ khiếp nhược của Hoành, và nhất là sợ bị mất đứa con, hôm sau Hương viết để lại cho Hoành một lá thư từ biệt, trút bao đớn đau trách móc, rồi lặng lẽ ra đi. Để đánh lạc hướng gia đình Hoành, ngừa việc sau này họ đi tìm để bắt đứa con, Hương bảo sẽ về quê ở Diên Khánh (Thành) thay vì về Hòn Khói. Vì xưa nay, mọi người chỉ biết Hương là người từ Nha Trang vào học, thế thôi. *** Mười lăm năm chưa biết mặt mẹ, chưa hề biết cảm giác của một đứa con có mẹ. Bây giờ bỗng dưng gặp một người bảo là mẹ mình, Hưng không có cảm xúc. Ngồi nghe mẹ kể lại cuộc đời bà và nguyên nhân sự có mặt của mình trên thế gian này, Hưng ngậm ngùi nhưng vẫn không hiểu hết được những điều đã xảy ra. Sao giống chuyện trong mấy cuốn tiểu thuyết mà mình đã đọc. Hưng thầm nghĩ như thế rồi hỏi mẹ: - Vậy tại sao mẹ lại bỏ con lại cho bà ngoại khi con chỉ mới lên ba? - Đó là điều đau xót và ân hận nhất của mẹ, đã dằn vặt mẹ bao nhiêu năm nay. Nhưng xin con hãy hiểu và tha thứ cho mẹ. Lúc ấy mẹ không có con đường nào khác. Phụ lòng bà ngoại, xấu hổ với bà con láng giềng vốn còn rất đậm nề nếp cũ, con gái không chồng mà có con là cái tội xấu xa, cái án vô hình nhưng nặng nề lắm, con ạ. - Đã bao nhiêu năm, sao mẹ không tìm cách liên lạc với bà ngoại và với con, để bà ngoại vừa một mình khốn khổ nuôi con vừa buồn vì tưởng mẹ đã chết thật rồi. - Thực ra thì lúc ấy mẹ cũng muốn chết lắm. Viết lá thư để lại cho ngoại, bảo là mẹ xuống biển tự tử. Khuya hôm ấy mẹ có ra biển, nhưng khi lội xuống biển, nhìn thấy biển mênh mông, đen sẫm, nghe tiếng sóng thét gào, mẹ bỗng giật mình sợ hãi, không còn một chút can đảm. Mẹ bước lên bờ với ý nghĩ bỏ đi, nhưng chưa biết đi đâu, mẹ ra trốn ngoài ghềnh đá bên động cát, thì bất ngờ gặp mấy người du kích trong xã, trong đó có cô Tám, bạn học của mẹ lúc nhỏ, rủ vào bưng theo kháng chiến. Mẹ đi theo cô ấy. - Sao mẹ không ở trong đội du kích cho gần nhà mà lại đi ra tận ngoài Bắc? - Mẹ được cô Tám dắt lên núi để học tập. Nghe nói cách mạng là thực hiện triệt để cuộc đấu tranh giai cấp, mẹ thấy rất hợp với ước nguyện của mẹ nên đã xin tình nguyện để được kết nạp vào đảng. Hơn nữa, mẹ cũng muốn rời xa quê hương, để không ai còn biết đến mình. Mẹ được đưa ra Liên Khu 5, ba năm sau chuyển ra Bắc. Và cũng ở tại Liên Khu 5 này mẹ đã gặp cha của con bây giờ. Đưa tay chỉ người đàn ông cao lớn, mặc bộ áo quần bằng vải kaki Nam Định, vai mang xắc-cốt, nãy giờ ngồi yên lặng trên bộ phản, bên cạnh bà ngoại, và hai đứa trẻ lạ, mẹ Hưng tiếp tục: - Chú Ba đây là chồng của mẹ. Và con Hồng, thằng Hà đây là em của con. Trước khi vào Nam, chú Ba nhất quyết bảo mẹ phải nói với con, chính chú ấy là cha ruột để cho con vui, nhưng mẹ không chịu. Mẹ muốn con biết rõ sự thật, vì chuyện cha con là chuyện máu mủ thiêng liêng. Con có nghĩ về mẹ thế nào cũng được, nhưng mẹ muốn con biết rõ lai lịch của mình. Ông Ba đứng dậy, bước lại ôm vai Hưng thân mật : - Mặc dù trước đây chưa được gặp con, nhưng mẹ con đã kể cho chú nghe về con từ khi mẹ và chú mới quen nhau. Chú rất thương con, và mong là con luôn xem chú như là ba của con. Nếu được, xin con cho chú cái vinh dự làm cha của con trong giấy khai sinh. Chú thực lòng không muốn trong khai sanh của con đề cha là vô danh, như mẹ đã kể cho chú nghe. Nói xong ông Ba gọi hai đứa con lại, bảo anh Hưng đây là anh hai của hai đứa con. Từ nay phải gọi là anh hai và thương yêu, vâng lời anh ấy. Hai đứa nhỏ bước đến vòng tay, bẽn lẽn chào Hưng. Cái giọng Bình Định lai Bắc kỳ của ông Ba hơi khó nghe. Nhưng Hưng hiểu được những điều ông muốn nói và tin những tình cảm ấy là chân thật. Mặc dù sau tháng 4/75, Hưng nghe người trong làng kháo nhau: Đừng nghe những gì Cộng Sản nói. Sum họp được hai ngày, thời gian chưa đủ để Hưng cảm giác có mẹ, có em, thì mẹ Hưng cùng chồng và hai con phải vào Cam Ranh để nhận nhiệm sở mới. Nghe nói ông Ba làm ở Phòng Địa Chính còn mẹ Hưng thì làm hiệu trưởng một trường phổ thông cấp 1. Trước khi đi ông bà để lại cho bà cháu Hưng mấy bao gạo, một số tiền và ít áo quần. Sự thay đổi qua bất ngờ và khá lớn lao đó vẫn chưa đủ làm cho Hưng mất đi cái cảm giác mồ côi. Mười lăm năm, đã quen và yêu cuộc sống tuy vất vả nhưng rất yên ả với ngoại, với biển cùng đám bạn bè ở cái làng nghèo Bá Hà này nên Hưng không muốn có một sự đổi thay nào nữa. Từ ngày người mẹ xuất hiện, với một lai lịch khá mơ hồ về cha, cùng với sự xáo trộn từ đầu tháng Tư, kéo theo bao âu lo của bà con trong xóm, đầu óc Hưng lúc nào cũng căng thẳng, chẳng khác nào những đêm biển lặng, theo thuyền đi lưới cá ngoải khơi, đột nhiên bị dông tố bất ngờ. Bao nhiêu năm sống với ngoại, Hưng ví ngoại như cây cổ thụ đầu làng, quanh năm phủ bóng che mưa, che nắng cho mình. Hưng không muốn có ngày bị người ta kéo ra khỏi cái bóng thần tiên ấy, cho dù người ấy là ai. Bỗng dưng Hưng thấy thương ngoại hơn. Tối tối, Hưng chui vào nằm bên ngoại, ôm ngoại thật chặt như sợ bà sắp tuột mất khỏi vòng tay bé nhỏ của mình. Còn ngoại thì khác, bà tỏ ra phấn chấn, vui mừng, thường nắm tay Hưng bảo nhỏ: - Hãy vui lên nghe con, bây giờ thì con đã có mẹ. Trước đây ngoại rất lo sợ, vì ngoại đã già rồi, nếu có bề gì biết có ai lo lắng cho con. Bây giờ con có mẹ, ngoại yên lòng. Ngoại nói là ngoại mừng, nhưng nhìn vào mắt ngoại, Hưng thấy ngoại đang khóc. Hơn một tháng sau, mẹ và chú Ba đưa xe con về đón ngoại và Hưng vào Cam Ranh. Gia đình ông bà được cấp ngôi nhà khá rộng trong khu cư xá, nghe nói của một công chức VNCH bị tịch thu. Mới làm việc chỉ hơn một tháng, nhưng ông bà tỏ ra chán ngán. Ông bảo làm trong ngành địa chính nên biết rõ nhiều điều bất công, khuất tất. Từ việc tịch thu tài sản của nhiều người dân vô tội đến việc giành giật chia chác từ chức tước đến nhà cửa, đất đai giữa những cán bộ trong các ban quân quản và guồng máy chính quyền mới vừa “biên chế”. Mẹ Hưng thì dễ dàng nhận ra hệ thống giáo dục và trình độ của các giáo chức miền Nam, hơn hẳn bây giờ và cả ngoài Bắc. Tuy phải chấp hành cấp trên, nhưng với chức vụ hiệu trưởng, bà cảm thấy e thẹn, nhất là những khi phải họp hành “giao ban” với các giáo chức cũ. Hưng nghe mẹ thường buồn bã tâm sự với ngoại : - Điều buồn nhất sau bao nhiêu năm trở lại quê nhà là con cảm thấy thật cô đơn. Láng giềng, bạn bè cùng lớp cùng trường ngày xưa dường như đều muốn xa lánh con. Có ai bất ngờ gặp con giữa đường, họ giả vờ vồn vã nhưng con nhìn thấy rõ sự dè dặt trong mắt họ. Ông bà luôn chăm sóc ngoại, vỗ về an ủi Hưng. Nhiều đêm bà ngủ cùng phòng với Hưng để mẹ con tâm sự. Nước mắt của mẹ dần dà đã thấm đẫm trong lòng Hưng, làm Hưng xúc động. Nằm trong vòng tay, với những cái nhìn âu yếm, cùng những giọt nước mắt ấy của mẹ đã làm Hưng thấy gần gũi, thấu hiểu được nỗi lòng và ước mơ của mẹ. Nhiều lúc, thấy mẹ ngồi thẫn thờ nhìn xa xăm, Hưng biết là cả một quá khứ đau buồn đang trở về với mẹ, nhưng không hiểu là hình bóng của cha Hưng đã hiện lên như thế nào trước mắt mẹ. Mẹ có còn thương cha, có dành một ngăn nhỏ nào trong trái tim của bà cho người tình xưa, hay chỉ có oán trách, hận thù? Còn chú Ba, chồng của mẹ bây giờ, thực ra cũng là một người tốt, chân chất hiền lành, thường tâm tình khuyên bảo, năn nỉ Hưng ở lại với ông bà và hai em. Ông sẽ lo cho Hưng đi học trở lại, có mẹ kèm thêm để Hưng học nhanh hơn. Ông cũng tỏ ý muốn thay mặt cho cha Hưng để bù đắp những gì mà hơn 15 năm qua Hưng bị mất mát quá nhiều. Ông tha thiết mong được Hưng gọi mình là ba như hai đứa em của Hưng. Hai tuần ở đây, tình cảm trong Hưng có nhiều biến chuyển. Hưng bắt đầu gọi ông Ba bằng cha, và cũng là lần đầu tiên Hưng cảm giác mình có mẹ. Hưng thấy hạnh phúc và cũng có chút hãnh diện về mẹ, một người đàn bà lớn tuổi nhưng còn nhan sắc và hiểu biết. Có một điều Hưng vẫn mơ hồ, không biết con đường gai góc mà mẹ đã đi trong gần mười lăm năm, bỏ Hưng côi cút với ngoại, có phải mẹ đã thực sự tìm đúng lý tưởng của mẹ ? Hưng thấy cái làng Bá Hà này vốn cũng đã nghèo, giờ lại càng nghèo khổ xơ xác hơn. Các chủ ghe mà Hưng đã từng đi theo phụ lưới, giờ phải đem ghe thuyền giao nộp hết cho hợp tác xã. Các anh chị từng vươn lên trong học hành, có cả ông thầy trẻ từng dạy Hưng, một thời làm hãnh diện cho Bá Hà, giờ một số bị tù đày, số còn lại thì quay về nghiệp cũ; đánh cá, làm muối, làm ruộng. Chẳng lẽ học hành, giỏi giang chữ nghĩa lại có tội ? Mọi người ai cũng ngờ vực, sợ sệt lo âu. *** Tháng 5/78, một chiếc thuyền nhỏ vượt biển tắp vào một hoang đảo ở Nam Dương. Trên thuyền gồm có 18 người, đa số là thanh, thiếu niên. Tất cả được Cơ Quan Cao Ủy Tị Nạn LHQ đón nhận đưa về tạm trú tại trại tị nạn Tandungpinang. Trong số 18 người này có Hưng, cậu bé đánh cá vùng biển Hòn Khói năm nào, bây giờ đã 18 tuổi. Được phái đoàn Mỹ nhận, Hưng đến định cư tại Tiểu bang Florida vào đầu tháng 10/79 với sự bảo trợ của một gia đình người Mỹ tốt bụng. Nhờ có sẵn đức tính cần cù chăm chỉ, từng trải qua cả một thời tuổi thơ cơ cực, và cũng nhờ vào trí thông minh của ông trời ban cho người dân nghèo Hòn Khói, Hưng vừa đi làm giúp đỡ gia đình, nhất là bà ngoại ở Việt Nam, vừa theo học tại một trường Cộng Đồng dành cho người lớn tuổi. Hưng học rất nhanh và luôn đạt điểm cao, được khích lệ của các thầy cô giáo. Hưng theo gương Nguyễn Xuân Nam, một người bạn nghèo cùng làng Bá Hà, sang Mỹ trước Hưng một năm, nổi danh hiếu học (**). Trong chuyến đi của Hưng có cậu em ruột của Nguyễn Xuân Nam. Khi được Cao Ủy Tị Nạn và Phái Đoàn Mỹ phỏng vấn, hỏi do động cơ nào mà Hưng vượt biển ra đi. Hưng trả lời là chính bà ngoại đã khuyên và giúp Hưng tìm mọi cách, bà bảo : - Chỉ mới sau mấy năm “giải phóng” mà coi bộ dân chúng khốn khổ quá chừng. Ai cũng lo sợ, oán than cách mạng. Ngoại già rồi, nhưng con còn trẻ phải tìm mọi cách ra đi. Ở lại coi bộ khó sống lắm con ạ. Đó là lời khai hoàn toàn thành thật, vì xưa nay Hưng không hề biết nói dối. Có điều Hưng hơi ngạc nhiên khi nghe ngoại bất ngờ nói ra điều này, mà trước đó Hưng chưa bao giờ nghe bà nói tới. Sau này, Hưng mới biết đó là quyết định của mẹ và ông cha kế. Cả số tiền để Hưng trả cho chủ ghe cũng do ông bà đưa cho ngoại. Lá thư đầu tiên nhận được của mẹ, có cả ông Ba, người cha kế viết chung trong đó, Ông bà chúc mừng Hưng đã đến xứ tự do, nơi bảo đảm tìm thấy tương lai, nếu ở lại, giờ này Hưng đã bị đi nghĩa vụ quân sự và có thể bỏ xác oan uổng ở chiến trường Campuchia trong cuộc tranh giành quyền lực giữa những người Cộng Sản. Hai năm sau, tháng 12/81, Hưng được tin ông xin phục viên, viện cớ chứng đau nhức đến buốt óc do một mảnh đạn còn nằm trong đầu, bị thương trong trận tấn công Quảng Trị 1972, không thể giải phẫu lấy ra được. Mẹ Hưng còn dạy học thêm vài năm nữa, sau này xin nghỉ vào Bình Dương làm nghề trồng cây ăn trái. Năm 1992, sau khi tốt nghiệp đại học và đã có công việc làm ổn định, được tin ngoại ốm nặng, Hưng vội vã về Việt nam thăm ngoại. Xin bảo lãnh ngoại sang Mỹ để chữa bệnh và sống với Hưng, nhưng ngoại nhất quyết chối từ, bảo là bà đã sống ở làng quê Bá Hà cả một đời người, như cây đa mọc rễ không dễ gì mà bứt ra được. Không ngờ đó là lần cuối cùng Hưng gặp ngoại. Bà qua đời vào năm 1998. Được tin ngoại mất, Hưng có cảm giác như cả bầu trời sập xuống. Hưng tưởng tượng cái cây cổ thụ xum xuê to lớn ở đầu làng Bá Hà vừa bị bật gốc. Dù bây giờ Hưng đã thực sự trưởng thành, có một gia đình hạnh phúc với vợ con, công ăn việc làm ổn định, nhưng Hưng vẫn cảm thấy như vừa mất đi cái bóng mát vĩ đại để tâm hồn mình trú ẩn. Bởi mỗi khi buồn, cảm thấy cô đơn lạc lõng trên xứ lạ quê người, nghĩ tới ngoại là tinh thần Hưng phấn chấn. Nhớ những ngày mình còn bé, ngoại thường dắt lên chùa lễ Phật. Hưng chấp tay trước ngực, đứng nép bên ngoại trước tượng Phật, nghe ngoại chỉ cầu xin bao điều may mắn tốt đẹp cho đứa cháu côi cút của mình. Có lẽ nhớ những lời cầu xin này của ngoại mà cuộc đời mình mới được như hôm nay. Bây giờ trang sách cuộc đời như vừa bị ai đó xé đi mất nửa trang đầu, để nửa sau không còn ý nghĩa gì nữa. Hưng khóc hết nước mắt và hụt hẫng đến suy sụp cả tinh thần. Ông Ba, người chồng sau của mẹ cũng qua đời mấy năm sau đó. Hưng dắt vợ con về Việt Nam để chịu tang ông như người cha ruột của mình. Hưng xin xây mộ phần cho ông, an ủi mẹ và hai em. Trước khi rời Việt Nam, Hưng gởi lại cho mẹ một số tiền và hứa mỗi tháng sẽ gởi thêm về để phụ cho hai em ăn học đến nơi đến chốn. Trong lần về Việt Nam lo đám tang cho ngoại, Hưng có dịp tâm tình riêng với mẹ. Mấy ngày hai mẹ con nằm trong khách sạn Hải Yến ở Nha Trang, khi ngoài trời gió mưa tầm tã, mẹ đã kể lại tỉ mỉ hơn về cha ruột của Hưng, về cuộc tình thật đẹp, thật lãng mạn nhưng kết cục quá đau đớn của ông bà. Mẹ cũng không còn trách cha. Bảo ông ấy là người tốt, hiểu biết, thương người, nhưng lúc ấy còn đang đi học, lệ thuộc nhiều vào gia đình, hơn nữa lại là đứa con luôn vâng lời cha mẹ. Hôm ấy, lần đầu tiên mẹ ngỏ ý muốn Hưng đi tìm cha, dù điều ấy bây giờ rất nhiêu khê, nhất là sau tháng 4/75, những người giàu có đã phải bỏ nhà cửa, bỏ Sài gòn ra nước ngoài hay đến một vùng quê xa xôi nào đó để mong còn giữ được cái thân. Nghe lời mẹ, trước khi trở lại Mỹ, Hưng thuê xe đến khu Phùng Hưng trong Chợ Lớn. Đúng như lời mẹ nói, tất cả đã đổi thay, không ai biết gì về gia đình ông chủ xưởng dệt Bắc Hà ngày trước. Vừa thất vọng, vừa nghĩ là nếu có tìm được ai đó trong gia đình cha, chắc gì họ đã đón nhận mình. Bởi trong mười lăm năm Hưng sống côi cút khổ cực, cũng không hề thấy có ai đi tìm đứa con, đứa cháu lạc loài bất hạnh. Hưng quyết định bỏ hết, cố quên đi cái quá khứ đau buồn và phiền muộn ấy để cho lòng thanh thản. Hưng nhủ thầm “không ai thay đổi được quá khứ, mình nên dồn hết trí óc và thời gian còn lại để xây dựng tương lai”. Hôm ấy, khi máy bay lấy cao độ để rời khỏi không phận Sài gòn, Hưng nhìn xuống, qua khung cửa kiến nhỏ, nhận ra khu vực Chợ Lớn nằm xa xa phía dưới, bất giác Hưng đưa tay lên chào. Hưng nghĩ đó không chỉ là cái vẫy tay từ biệt khu phố Phùng Hưng, mà còn từ biệt luôn một quá khứ mơ hồ. bất hạnh với một người cha chỉ nghe như huyền thoại. *** Cách đây hai tuần, khi đang say ngủ Hưng giật mình bởi chuông điện thoại reo. Xem đồng hồ, đã hơn hai giờ sáng. Giờ này mà ai gọi chắc là có điều khẩn cấp lắm. Hưng bốc ống nghe. Bên kia đầu dây là Hà, đứa em trai cùng mẹ khác cha đang gọi từ Sài gòn. Hà gọi từ một trạm internet, nên hiện lên trên khung điện thoại của Hưng một dãy số lạ hoắc. Hà báo tin đã tìm được một người biết gia đình ông bà Bùi văn Trụ, chủ xưởng dệt Bắc Hà. Việc đi tìm tin tức về người cha ruột của Hưng hy vọng có nhiều manh mối. Cái tin bất ngờ đó làm cho Hưng lo lắng hơn là vui mừng. Không biết khi tìm được rồi họ có nhận mình không? Cái vẫy tay từ biệt hôm nào trên máy bay, Hưng tưởng đã bỏ lại cho khu phố Phùng Hưng tất cả quá khứ buồn thảm. Hưng muốn xoá sạch hết tất cả, như cái xưởng dệt Bắc Hà giờ cũng chẳng còn một dấu tích nào. Nhưng rồi một giấc mơ đã làm Hưng thay đổi. Một giấc mơ kỳ lạ. Trong giấc mơ, có tiếng điện thoại reo, Hưng bốc máy lên nghe. Giọng một người đàn ông : - Có phải Hưng đó không con ? Ba là Hoành, cha của con đây. Bao nhiêu năm đi tìm con khắp nơi mà không gặp. Ba rất thương nhớ con. Hãy tha thứ cho ba nghe Hưng! Hưng giật mình tỉnh giấc, trong tai vẫn còn văng vẳng tiếng người vừa nhận là cha mình. Giọng nói trầm ấm, hiền lành, xúc động. Giấc mơ đã làm Hưng nhớ lại câu nói “cha con là máu mủ thiêng liêng” của mẹ trong ngày đầu tiên khi hai mẹ con gặp nhau tại căn nhà tranh của ngoại ở làng quê Bá Hà hơn 36 năm trước. Chính giấc mơ đã thôi thúc Hưng đi tìm lại cha mình Hưng nghĩ ngay tới Hà, đứa em trai một mẹ khác cha, nhưng rất giống Hưng và luôn kính trọng, thương yêu, giữ tình nghĩa với Hưng chẳng khác nào anh em ruột. Từ hơn mười năm nay, Hà làm việc cho một công ty xuất nhập cảng lớn tại Sài Gòn, chắc chắn quen biết nhiều người. Hưng liền gọi điện thoại về Việt Nam, bảo Hà hỏi mẹ rõ ràng chi tiết về gia đình ông bà chủ xưởng dệt Bắc Hà để tìm ra tông tích của cha Hưng. Hà hết lòng ủng hộ mẹ và Hưng về việc này. Ngày nào, sau khi đi làm về, Hà cũng chạy ngay xuống khu phố Phùng Hưng. Qua bao biến cố, thăng trầm, Sài Gòn - Chợ Lớn bây giờ đổi thay nhiều quá. Cả khu xưởng dệt Bắc Hà không còn lại một dấu tích gì. Người ta đã phá hết để xây khu chung cư mới. Hầu hết dân chúng ở khu vực này từ ngoài Bắc mới vào sau 75. Dường như chẳng còn ai biết có một xưởng dệt tên Bắc Hà từng hiện diện ở nơi này. Hơn nữa, mọi người đang tất bật rượt đuổi theo thời gian để tìm cơ may trong cơn sốt đổi đời, thì còn đầu óc và thời giờ đâu mà nhớ tới ngày xưa, ngay cả cái thời đẹp đẽ hạnh phúc mà họ đã mất. Sau mấy ngày, Hà may mắn gặp được một ông già tốt bụng. Ông thuê lại căn nhà của một người Bắc 54 đã ở đây hơn 30 năm kể từ ngày di cư vào Nam. Hy vọng ông ấy biết nhiều về gia đình chủ nhân xưởng dệt Bắc Hà. Ông tìm địa chỉ đưa cho Hà. Hà chạy ngay lên tận Biên Hòa và gặp được người chủ nhà gốc Bắc 54 ấy. Ông cụ đã trên 85 tuổi, nhưng trí nhớ còn rất tốt. Ông biết rất rõ về gia đình ông bà kiến trúc sư Bùi văn Trụ và xưởng dệt Bắc Hà nhưng ông bảo sau 75, cả nhà cửa và xưởng dệt đều bị tịch thu. Có lẽ tất cả đã ra nước ngoài. Vì từ ngày ấy ông không còn gặp và cũng chẳng nghe ai nói tới gia đình ấy nữa. Tuy nhiên, ông có biết một bà bác sĩ hiện ở bên Pháp, là bà con với gia đình ông bà chủ Bắc Hà. Bà có về Việt nam thăm thân nhân và bạn bè một đôi lần. Ông hứa sẽ tìm một người quen, là bạn thân của bà bác sĩ ấy, để hỏi giùm tin tức. Hà mừng quá, xin số điện thoại của ông cụ rồi chạy ngay đến một trạm internet ở gần đó để gọi cho Hưng, mặc dù biết ông anh của mình giờ này đang ngủ say. Hà bảo : - Em báo tin để cho anh “phấn khởi” và tốt nhất là em cho anh số phôn của ông cụ, để anh gọi về trực tiếp nói chuyện. Sẽ hấp dẫn, hồi hộp và chính xác hơn là em. Sáng hôm sau, Hưng gọi về và gặp được ông già Bắc Kỳ 54 khả kính. Nhưng ông bảo phải chờ ông hỏi thăm, vì chưa gặp được người ấy. Ông hẹn Hưng tuần sau gọi lại. Trong một tuần ấy, lòng Hưng rối như tơ vò. Không biết người cha ấy như thế nào, vợ con ra sao. Nhà giàu và học hành như thế đối với mẹ con Hưng họ là giai cấp thượng lưu. Hơn nữa còn bà vợ. Liệu bà có cho chồng nhận Hưng là con, khi sợ bị chia mất một phần gia tài, và nhất là tình cảm của mẹ con bà? Hưng tâm tình với vợ. Là một người hiểu rõ tính tình, suy nghĩ và cả một quá khứ bất hạnh buồn thảm của chồng, vợ Hưng luôn an ủi, khích lệ và chia sẻ cùng chồng mọi tâm sự, nỗi niềm: - Em nghĩ anh nên vui và nắm lấy cơ hội này để tìm gặp lại cha. Vì hoàn cảnh của anh, của chúng mình hiện nay, em không sợ gia đình cha sẽ hiểu lầm. Mình không cần bất cứ tài sản gì nữa, còn tình cảm, đó là sự thiêng liêng như mẹ đã nói, không ai có thể nhẫn tâm chia cách được. Hơn nữa nếu còn sống, cha cũng đã già rồi. Em tin là dù trước kia có thế nào, bây giờ bất ngờ gặp được anh, chắc là cha sẽ vui mừng ghê lắm. Hơn nữa, đó chính là điều ước mong của mẹ. Những lời nói của vợ làm cho Hưng bớt căng thẳng và vui vẻ hơn, nhưng chưa hết hẳn lo âu. Sau một tuần lễ dài nhất trong đời, Hưng gọi điện thoại về Biên Hòa gặp ông cụ Bắc Kỳ 54. Rất may mắn ông đã có số điện thoại của bà bác sĩ ở bên Pháp. Đó là bà bác sĩ Tuyết, trước kia là học trò của ông bác sĩ Bùi Huy Lâm hiện ở bên Mỹ. Hưng rụt rè gọi cho bà Tuyết. Một người đàn ông bốc phôn. Nhưng mới nói vài câu, Hưng nghe bên kia đầu dây im lặng, rồi cúp máy. Hưng đoán có lẽ ông là chồng của bác sĩ Tuyết, tưởng ai gọi nhầm số. Cũng có thể ông không muốn nghe, ngại dính vào câu chuyện phiền toái của Hưng. Suy nghĩ mãi, cuối cùng Hưng hỏi vài người quen ở Cali, xin số phôn của bác sĩ Bùi Huy Lâm. Ông này khá nổi tiếng ở đây. Ông Lâm thật nhân từ, tốt bụng, vui vẻ và chịu khó nghe Hưng trình bày một câu chuyện khá dài. Ông tỏ ra xúc động. Khi đang khóc trong điện thoại, Hưng nghe bên kia đầu dây có tiếng sụt sùi. Ông hứa sẽ liên lạc ngay với bà Tuyết để kể lại đầy đủ sự việc và bảo đảm bà sẽ sốt sắng trong việc này. Ông còn an ủi Hưng: - Cháu yên tâm. Bây giờ không phải chỉ có cháu, mà còn có cả bác nữa, chúng ta nhất định sẽ tìm ra bố của con. Tấm lòng của bác sĩ Lâm làm Hưng thực sự cảm kích. Hưng nghĩ mình đã may mắn gặp một người nhân từ, nên hy vọng mọi điều sẽ tốt đẹp. Cuối cùng thì Hưng cũng gặp được bà bác sĩ Tuyết. Lần này bà lắng tai, thăm hỏi an ủi và cho Hưng số điện thoại của người cô út, em cùng cha khác mẹ với cha Hưng. Bà sống ở Thụy Sĩ. Hôm nói chuyện với cô, tự dưng Hưng xúc động đến nghẹn ngào. Bà chỉ lớn hơn Hưng có bốn tuổi. Tuy hoàn toàn không biết gì về Hưng, không hề được nghe người anh tên Bùi văn Hoành của bà đã từng có một đứa con như thế, nhưng bà rất vui vẻ, thân thiện và dành cho Hưng những lời thương yêu, quí mến. Chính tấm lòng và giọng nói của bà đã làm cho Hưng có cảm giác người này thực sự có liên hệ máu thịt với mình. Hưng gởi ngay cho bà vài tấm ảnh của Hưng qua email và ngược lại bà cũng gởi cho Hưng tấm ảnh của người anh, mà Hưng bảo là cha. Xem ảnh xong, bà bảo là Hưng giống cha Hoành như đúc. Còn Hưng, khi nhận tấm ảnh của cha, tấm ảnh lúc ông còn trẻ, nên cả vợ chồng Hưng đều giật mình tưởng người trong ảnh chính là Hưng bây giờ. Bà cũng báo tin cho người chị cả của bố, bác Hương, hiện định cư ở Canada gọi sang Mỹ thăm và vui mừng đón nhận Hưng. Tối hôm ấy, Hưng rất xúc động nhận được một email ngắn của cô út : - Hưng đã quậy trời, quậy đất đi tìm bố, từ bác sĩ Lâm ở Cali, đến cô Tuyết, bác Túc ở Pháp. Tất cả đã biết và cùng chia sẻ niềm hạnh phúc. Cô ở Suisse và bác Hương ở Toronto đã mở rộng vòng tay đón Hưng vào gia đình họ Bùi. Cô rất vui vì Hưng tìm được dòng suối trong, và Hưng sẽ như dòng thác đổ, như sông Cửu Long chẩy về ôm hết những người Hưng muốn thương yêu Có một điều không phải như Hưng nghe mẹ và ông cụ Bắc Kỳ 54 ở Phùng Hưng ước đoán trước đây, cha của Hưng không định cư ở Pháp sau 75, mà vẫn còn ở Sài Gòn. Điều ngạc nhiên hơn ông từng là đại úy phi công VNCH. Bị tù 7 năm sau tháng 4/75. Ông đủ điều kiện đi Mỹ theo diện HO, nhưng bà vợ, nhờ chôn giấu được một số vàng của cha mẹ để lại sau 75, nên còn vốn để buôn bán làm ăn, điều quan trọng hơn là cả cha mẹ bà đều bị bệnh nặng nằm một chỗ cần đến sự săn sóc của bà, nên bà không thể bỏ đi. Cuối cùng bố Hưng phải đành ở lại. Bà cô út rất tế nhị, vừa muốn tránh việc phiền muộn có thể ảnh hưởng tới cuộc kỳ ngộ, và cũng muốn dành trọn cảm giác ngạc nhiên cho ông anh, nên bà bảo sẽ không trực tiếp cho cha Hưng biết, mà chỉ cho Hưng số điện thoại và địa chỉ của ông, đề nghị Hưng nhờ đứa em ở Sài gòn tìm cách hẹn ông ra ngoài, kể chuyện về Hưng, rồi sau đó gọi điện thoại để hai cha con nói chuyện. Hưng nghe theo lời cô, nhờ Hà giúp mình mọi việc. Chiều hôm sau, từ một quán cà phê trong giờ vắng khách, ông Hoành lần đầu tiên nghe tiếng nói của đứa con hơn 51 năm chưa hề biết mặt. Giọng nói đôn hậu pha lẫn chút đùa cợt, có lúc lại nghẹn ngào đứt đoạn của ông đã gây cho Hưng cảm giác gần gũi, thân thiết ngay từ phút ban đầu. Ông kể chuyện về bố ông và ông, đau buồn thế nào khi biết mẹ Hưng bỏ đi, vã đã vất vả kiên nhẫn đi khắp nơi tìm mẹ con Hưng mà không gặp. Khi nghĩ là mẹ Hưng đã tự tử mang theo dòng máu của mình, cha con ông đã ân hận đau đớn như thế nào. Trong phòng riêng ông có để tấm ảnh nhỏ của mẹ Hưng trên kệ thờ. Thấy ông đau buồn tiều tụy, bố ông xin giấy tờ cho ông sang Pháp du học. Nhưng khi ông chuẩn bị lên đường thì bố ông đột ngột qua đời do một tai nạn ở Lâm Đồng. Ông phải ở lại, phụ bà kế mẫu lo cho xưởng dệt và mấy đứa em. Khi đến tuổi động viên, xin vào trường Không Quân ở Nha Trang và làm phi công quan sát (L19) cho đến ngày mất nước. Thời gian biệt phái công tác ở Trà Nóc, ông quen cô con gái của một thương gia ở thành phố Cần Thơ. Sau này trở thành vợ của ông. Bây giờ ông bà có bốn người con, hai trai hai gái. Tất cả đều đã trưởng thành và có gia đình riêng. Những điều ông kể, nhiều lần bị gián đoạn. Không phải ông quên, hay ái ngại, mà vì phải dừng lại để lau nước mắt. Bên kia đầu dây, Hưng cũng sụt sùi. Ông nhờ Hà về thưa lại với mẹ xin cho ông được đến thăm mẹ. Được bà đồng ý, sáng hôm sau ông lái xe lên Bình Dương. Vợ chồng Hà giúp trang điểm, thay áo quần mới cho mẹ. Vừa vui mừng, vừa xúc động khi nép vào cánh cửa nhà sau, nhìn lén cuộc trùng phùng kỳ diệu của mẹ mình với người tình xưa, Cả hai đều bạc tóc. Ông nắm tay bà : - Bà còn giận tôi không ? Mẹ Hưng không trả lời mà bật khóc. Đôi mắt của bà đã bị mờ từ hơn bốn năm nay, bây giờ càng mờ hơn qua làn nước mắt. Nhưng dường như bà đã nhận ra ông, nhìn thấy ông rất rõ qua ký ức và cả tâm hồn bà. Ông ôm lưng, dìu bà ngồi vào chiếc ghế bành bên cửa sổ. Khi thấy bà ngồi bỏ hai chân trên ghế, ông đùa : - Bà ngồi cái kiểu này, hèn gì Thái Lan đang bị một trận lụt kinh hoàng bên ấy. Bà hiểu ý, vội bỏ thòng hai chân xuống, đưa tay lau nước mắt rồi nhoẻn miệng cười. Vợ Hà véo nhẹ tay chồng khi thấy mẹ đã trên 70 nhưng vẫn còn giữ chút thẹn thùng của thời con gái. Ông nói tiếp : - Chắc bà thương tôi lắm hay sao mà đặt tên cho mấy đứa con sau này cũng bằng vần H, và cháu Hà trông cũng giống tôi lắm? Bà lảng sang chuyện khác: - Nghe nói ông là sĩ quan Cộng Hòa, khi biết tôi theo Việt Cộng ông có thù ghét tôi không? Ông cười thật to : - Nhiều lần bay trên trời, tôi phát hiện mấy cô du kích tắm truồng dưới suối. Tôi sà xuống thật thấp định phóng mấy trái hỏa tiễn, nhưng bỗng nhận ra có bà dưới đó, nên tôi vội vã bay đi. Chứ hồi đó tôi bắn một phát thì làm sao bây giờ hai đứa còn gặp nhau đây. Không biết vì giọng bông đùa rất tự nhiên hay vì chữ “hai đứa” của ông vừa nói, bà bỗng im lặng, đưa đôi mắt đục mờ nhìn xa xăm. Trong ký ức của bà, hình ảnh anh học trò Hoành 19, 20 tuổi tuấn tú ngày xưa vừa sống dậy, tạo cảm giác trẻ trung, cùng một chút lãng mạn trong lòng bà. Dường như ông đã đoán trước và chờ đợi thời điểm kỳ diệu này, bước ra xe lấy bó hoa vào trao cho bà : - Xin bà nhận cho tôi vui. Đây là bó hoa đáng lẽ tôi trao cho bà trong ngày đám cưới, giờ lại trở thành bó hoa xin tạ tội, dù rất muộn màng. Cái lỗi lớn nhất của tôi là đã đẩy bà đi lạc vào một con đường, để đến cuối đời bà vẫn mãi ăn năn. Khi thấy bà ôm chặt bó hoa vào lòng, rưng rưng nước mắt, ông bỗng trầm xuống: - Tôi xin cám ơn bà. Dù bà không nói ra, nhưng tôi biết là bà đã tha thứ cho tôi. Thằng Hưng, đứa con bất hạnh của chúng ta, dù ở thật xa, nhưng tôi đang nhìn thấy nó mỉm cười. Tôi đang chờ để đón vợ chồng nó và hai đứa cháu nội của mình. Nay mai tụi nó sẽ về đây để cùng với bà và tôi ôm nhau mừng cho cuộc trùng phùng kỳ diệu này. Trước khi chia tay, ông xin phép bà được thắp một nén hương trên bàn thờ ông Ba, chồng của bà. Khi tôi ngồi viết lại câu chuyện này theo lời kể của Hưng, thì Hưng cùng vợ và hai cô con gái đang có mặt tai phi trường Tampa, bắt đầu cuộc hành trình về Việt Nam để tìm lại nguồn cội và quá khứ của mình. Cầu mong cuộc trùng phùng sẽ làm lành được những vết thương trong lòng mỗi người, trải qua bao đổi thay, tan thương dâu bể. Phạm Tín An Ninh Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 16/Apr/2012 lúc 8:51pm |
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
<< phần trước Trang of 101 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |