![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Lịch Sử - Nhân Văn | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 11 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
TẮC THỨ CHÍN
BỐN CỬA CỦA TRIỆU CHÂU THÙY: Gương sáng trên khung, xấu đẹp tự hiện. Gươm quí trên tay, tha hồ sinh sát. Hán đi hồ đến, hồ đến hán đi. Trong chết được sống, trong sống được chết. Thử nói xem, đến mức độ này thì thế nào? Nếu không có con mắt nhìn thấu quan hay chỗ để chuyển thân, đến mức độ này hiển nhiên người ta chẳng biết phải làm gì. Thử nói xem, thế nào là con mắt nhìn thấu quan và chỗ để chuyển thân. Xin thử nêu lên xem. CỬ: Có ông tăng hỏi Triệu Châu, “ Triệu Châu là gì? “ Triệu Châu nói, “Đông môn, nam môn, tây môn, bắc môn.” BÌNH: Phàm việc tham thiền hỏi đạo là để tự thấy rõ mình, song phải tránh so đđo ngôn ngữ. Tại sao? Há không nghe Triệu Châu tụng cử rằng, “Đạo thật không khó, miễn đừng so đo” sao? Hoặc Vân Môn từng nói, “ Ngày nay những kẻ học thiền, tụm năm tụm ba, huyên thuyên bát sách rằng, “đây là những lời đặc biệt, đây là những lời có liên hệ đến bản thân mình,” Đâu có biết rằng cổ nhân dựa vào phưong tiện thiện xảo, bất đắc dĩ mà lập văn tự ngôn ngữ là chỉ vỉ để dẫn dắt những kẻ hậu học non kém, chưa rõ tâm địa, chưa thấy bổn tính, chưa thoát khỏi chấp trước. Tổ Sư ( Bồ Đề Đạt Ma) từ Tây Trúc qua, chỉ để truyền tâm ấn ( của Phật), chỉ thẳng vào tâm, thấy tính thành Phật, làm gì có những cái dây dưa như vầy? Cần phải cắt đứt ngôn ngữ, để đặc biệt thấy sự thật. Có thoát ra khỏi mọi chấp trước, mới như rồng gặp nước, hổ dựa núi được. Những bậc cổ đức xưa tham Thiền lâu mà chưa thấu, thấu mà chưa sáng,[22]gọi đó là “hỏi thêm”[23]. Nếu như đã thấu mà vẫn hỏi thêm, thì phải xoay chuyển mãi trong ngôn ngữ cho đến khi nào không còn trệ ngại nữa. Người đã tham Thiền lâu và vẫn hỏi thêm, ấy là đưa thang cho giặc. Kỳ thực, việc này không ở nơi ngôn ngữ, cho nên Vân Môn mới nói, “ Việc này nếu ở nơi ngôn ngữ , ba thừa và mười hai phần giáo há không phải là ngôn ngữ, cần gì mà Tổ Đạt Ma phải từ Tây Trúc qua? Trong mười tám loạicâu hỏi của Phần Dương[24]thì đầy được coi là loại câu hỏi để thử thách chủ. Cũng còn được gọi là loại câu hỏi để thăm dò. Ông tăng đặt câu hỏi này, quả là đặc sắc, ngoài Triệu Châu ra hẳn ai cũng càm thấy rất khó mà đương đầu với ông ta. Ông tăng hỏi, “ Triệu Châu là gì?” Triệu Châu bản thân vốn là tay thành thạo, cho nên bèn trả lời, “Đông môn, nam môn, tây môn, bắc môn.” Ông tăng nói “Đệ tử không hỏi Triệu Châu này.” Triệu Chấu nói, “ Thế chú hỏi Triệu Châu nào?” Sau này có người gọi đó là vô sự Thiền”, lừa dối thiên hạ không phải ít. Tại sao vậy? Ông tăng hỏi Triệu Châu, Triệu Châu đáp, “Đông môn, nam môn, tây môn, bắc môn.” Cho nên mới có người bảo rằng thầy ta chỉ trả lời về Triệu Châu kia.Nếu mà ông hiểu như thế thì bọn nhà quê cũng hiểu Phật Pháp. Chỉ như vậy cũng đủ làm Phật pháp diệt vong. Như thế thì có khác gì đem mắt cá đi so sánh với ngọc trai, giống thì có giống nhưng mà không phải là một. Như lão tăng đã nói, không ở Hà Nam thì ở Hà Bắc. Thử nói xem, là hữu sự hay vô sự? Cần phải cẩn trọng lắm mới được. Lục Công Viễn nói, “Câu cuối cùng mới đến gần cửa đóng, yếu chỉ chính không ở tại ngôn ngữ:mười ngày một cơn gió, năm ngày một cơn mưa. An bang lạc nghiệp, vỗ bụng âu ca. Đây gọi là thời tiết thái bình. Cái gọi là vô sự, không phải giả đui mà gọi là vô sự. Phải nhìn thấu được then chốt, vượt qua được rừng gai góc, tự tại thánh thoát, giống như một người bình thường trước đó, song lúc ấy tùy mình, hữu sự cũng được mà vô sự cũng được. Bốn phương tám hướng tung hoành, không còn chấp không làm có nữa. Có người nói, “ Vốn dĩ chẳng có việc gì cả, có trà uống trà, có cơm ăn cơm.” Đây đúng là đại vọng ngữ, tôi gọi đó là chưa đắc mà tưởng là mình đắc, chưa chứng mà tưởng là mình chứng. Nguyên lai vố vốn chưa tham thấu được, lúc nghe người ta nói tâm nói tính, nói huyền nói diệu bèn bảo, “Đó chỉ là cuồng ngôn bản lai vốn chẳng có gì cả.” Đây đúng là một kẻ mù dắt một bọn mù. Đâu có biết rằng lúc Tổ Sư chưa tới, có đời nào người ta lại gọi trời là đất, gọi núi là sông? Tại sao Tổ Sư còn phải từ Tây Trúc đến nữa? Các nơi nhập thất thăng tòa để nói cái gì? Toàn là tri thức cảm quan và khái niệm hóa. Chỉ khi tri thức cảm quan và khái niệm hóa dứt bặt mới có thể nhìn thấu được. Nếu nhìn thấu được rồi thì y như xưa trời là trời, đất là đất, núi là núi, sông là sông. Cổ nhân nói, “Tâm là căn, pháp là trần[25], cả hai giồng như tỳ vết trong gương.”Tỳ vết sạch hết gương mới sáng, tâm pháp đều quên tính là chân[26]. Đến giới cảnh giới này tự nhiên được tự tại thánh thoát. Dù cho là cùng cực của lý luận đi nữa cũng chưa hẳn là chốn an ổn. Đến chỗ này người ta thường hay hiểu lầm, cho nên Phật cũng không lễ mà hương cũng chẳng thắp. Giống thì có giống song làm sao mà đã có thể gọi là thánh thoát tự tại được? Mới hỏi họ, thì họ làm như là đã đạt đến cùng cực, nhưng mà hỏi dồn thêm nữa, họ lại đâm ra lúng ta lúng túng.Họ ngồi đó với bụng trống tâm cao, song khi ngày cuối tuần gần kề thì có xoa tay đập ngực đi nữa cũng đã quá trễ. Ông tăng hỏi như thế, Triệu Châu trả lời như thế. Thử nói xem, phải rờ rẫm như thế nào? Như vầy không được, không như vầy cũng không được. Rốt cuộc như thế nào? Mấy cái này chính là chỗ khó. Cho nên Tuyết Đậu mới nêu ra để chỉ cho thiên hạ. Một hôm Triệu Châu đang ngồi, thị giả vào bảo rằng, “Đại vương đến”. Triệu Châu ngạc nhiên nói, “Đại vương vạn phúc.” Thị giả nói, “Bạch hòa thượng đại vương chưa đến, Triệu Châu nói, “ Thế mà chú lại bảo là đã đến.” Thầy đến chỗ này quả là kỳ đặc. Nam Thiền Sư niệm rằng, “ Thị giả chỉ biết báo khách, không biết thân tại đế hương. Triệu Châu rẽ cỏ tìm người, không khỏi thân đầy bùn nước.” Các ông muốn biết sự thật về vấn đề này chăng? Xin đọc tụng của Tuyết Đậu. TỤNG: Trong câu vấn để trình thẳng đến, Trong mắt kim cương[27] không hạt bụi. Đông nam tây bắc đối diện nhau, Bao nhiêu trùy đập mở không ra. BÌNH: Triệu Châu xử trí với hoàn cảnh giống như Kim Cương Bảo Kiếm. Ông vừa định suy nghĩ nói đã cắt mất đầu ông rồi. Nó lại thường móc mắt ông ngay trước mặt ông. Tuy nhiên ông tăng này dám vuốt râu cọp mà đặt một câu hỏi. Giống như không có chuyện lại đi bày vẽ ra chuyện như thể trong câu có vấn đề. Ông ta đã đặt vấn để ra, Triệu Châu cũng chẳng phụ lòng ông ta, cho nên cũng đáp lại vấn đề. Không phải thầy ta đặc biệt như thế, bởi vì thầy ta là người đã thấy suốt, cho nên mới biết hòa điệu với ông tăng kia, tựa như thể có an bài trước. Há không nghe nói có một ngoại đạo cầm một con chim sẽ trong tay đến hỏi Phật, “ Thử nói xem, con chim trong tay tôi là sống hay chết?” Phật bèn ra đứng giữa ngưỡng cửa hỏi, “Ông thử nói xem tôi đang ra hay vào?”[28]. Ngoại đạo không nói được, bèn cúi lạy.Câu chuyện này cũng giống như công án trên, từ đó huyết mạch của cổ nhân không bị đứt đoạn. Cho nên có lời nói rằng, “ Câu hỏi nằm trong câu trả lời, câu rả lời nằm trong câu hỏi.” Tuyết Đậu nhìn thấu sự vật như thế cho nên nói”. Trong câu vấn đề trình thẳng tới”. Trong câu có vấn đề lại giống như có hai nghĩa. Giống như hỏi người lại cũng giống như hỏi cảnh. Triệu Châu chẳng di dịch một mảy may bèn trả lời, “Đông môn, nam môn, tây môn, bắc môn.” Trong mắt kim cương không hạt bụi.” Câu tụng này Triệu Châu đoạt cả người lẫn cảnh, đặt vấn đề trong câu cũng như trả lời ông tăng. Đây gọi là có vấn đề, có đối tượng. Thoáng một cái đã trông thấy tâm can ông tăng kia. Nếu không như thế Triệu Châu khó mà so nổi với câu hỏi của ông tăng kia. Thược –ca-la tiếng Phạn có nghĩa là kiên cố, cũng có nghĩa là kim cương, ngụ ý đôi mắt chiếu sáng vô ngại. Không những chỉ có thể nhìn thấy một sợi lông cách xa ngàn dặm mà còn có thể quyết định tà chính, phân biệt đắc thất, thấy được hoàn cảnh thích hợp, biết được đúng sai. Tuyết Đậu nói, “Đông tây nam bắc đối diện nhau, bao nhiêu trùy đập không mở ra, “Đã đập đến bao nhiêu nhát trùy cớ sao lại không tập trung ra được? Phải chăng chổ thấy của Tuyết Đậu là như thế? Các ông làm thế nào để mở cửa này ra đây? Xin suy niệm cho cặn kẽ. |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
TẮC THỨ MƯỜI
BA TIẾNG HÉT CỦA MỤC CHÂU THÙY: Như vầy như vầy, không như vầy không như vầy. Luận việc chiến, ai cũng nắm chỗ then chốt. Cho nên mới có câu nói, “ Nếu như hướng thượng mà đi, thì ngay cả Thích Ca , Di Lặc, Văn Thù, Phổ Hiền, ngàn vạn bậc thánh, và các bậc tông sư trong thiên hạ đều phải ngậm miệng ấm ức cả. Nếu hướng hạ mà đi, thì côn trùng giòi bọ cùng tất cả mọi sinh vật đều phóng đại quang minh, mọi vật đều vươn mình như núi cao vạn trượng.” Nếu như không hướng thượng mà cũng cũng không hướng hạ thì sao? Nếu có nguyên tắc thì dựa vào nguyên tắc, nếu không có nguyên tắc dựa vào thông lệ. Thử nêu ra xem. CỬ: Mục Châu hỏi ông tăng, “Ông mới từ đâu đến vậy?” Ông tăng bèn hét. Mục Châu nói, “ Lão tang bị ông hét một lần.” Ông tăng lại hét nữa. Mục Châu nói, “Ba bốn tiếng hét, sau đó thì sao?” Ông tăng không nói gì được. Mục Châu bèn đánh rồi nói, “ Cái gã vô tích sự này.” BÌNH: Bất cứ ai muốn chống giữ tông môn của chúng ta đều cần phải có đôi mắt của bậc tông sư cũng như khả năng của bậc tông sư. Mục Châu linh hoạt sắc bén, như thể điện chớp, thích thử mấy vị tòa chủ. Thường thì một lời hay nửa câu mà thầy ta thốt ra , đều giống như các bụi gai góc, không thể nào mà dẫm chân sờ tay vào được. Mỗi khi có ông tăng nào đến liền nói, “ Công án đã thành , tha cho ông ba chục gậy.’ Hoặc thấy có ông tăng nào đến, Mục Châu liền gọi, “Thượng tọa!” Ông tăng vừa quay lại, Mục Châu lại nói, “Đồ khiêng gỗ”. Mỗi lúc dạy chúng lại thường nói, “ Chưa có chỗ vào, cần phải tìm chỗ ra chỗ vào. Đã có chỗ vào rồi, không được phụ lòng lão tăng.” Mục Châu vì người khác thường là như vậy cả. Ông tăng này cũng điêu luyện lắm, có điều đầu rồng đuôi rắn. Lúc ấy nếu không phải là Mục Châu bất cứ người nào khác hẳn đã bị ông ta làm cho lúng túng một phen rồi. Chẳng hạn như lúc Mục Châu hỏi ông ta, “Ông mới từ đâu đến vậy?” Ông tăng bèn hét. Thử hỏi xem, ý ông ta là thế nào? Song lão hán này lại chẳng vội vàng mà vẫn thong thả nói, “ Lão tăng bị ông hét một lần.” Tựa như một mặt chấp nhận lời ông tăng một mặt thử thách ông ta, nghiêng mình nhìn xem ông ta như thế nào. Một lần nữa ông tăng lại hét, ông ta có vẻ đúng song thật ra lại chẳng đúng. Ông ta kể như đã bị Mục Châu xỏ lỗ mũi khi lão hán này hỏi, “ Ba bốn tiếng hét , sau đó thì sao?” Ông tăng này quả nhiên không nói gì được. Mục Châu bèn đánh rồi nói, “ Cái gã vô tích sự này.” Thử người rốt ráo thật, há miệng đã tri âm. Đáng tiếc thay, ông tăng này lại không nói được gì, khiến Mục Châu phải gọi ông ta là gã vô tích sự. Nếu như các ông bị Mục Châu hỏi, “ Ba bốn tiếng hét, sau đó thì sao?” Các ông phải trả lời thế nào để khỏi bị Mục Châu gọi là đồ vô tích sự? Nếu như là bậc biết còn mất, phân biệt được đúng sai, chân đứng trên sự thật, ai thèm lo sau ba bốn tiếng hét thì sao. Song chỉ vì ông tăng này không nói gì được, cho nên mới bị lão hán này dựa trên mà kết thúc được cho nên mới bị lão hán này dực trên các dữ kiện mà kết thúc công án. Thử lắng nghe tụng của Tuyết Đậu xem. TỤNG: Hai hét với ba hét, Thành thạo biết cơ biến. Nếu như cưỡi lưng cọp, Cả hai thành ra mù. Ai mù đâu? Nêu lên cho cả thiên hạ xem! BÌNH: Tuyết Đậu luôn luôn đặc biệt vì người khác. Nếu như không phải là một chuyên gia hẳn thầy ta đã chỉ hét lung tung. Có lúc một tiếng hét không dùng như một tiếng hét, có lúc một tiếng hét dùng như một tiếng hét, có lúc một tiếng hét như sư tử ngồi xổm, có lúc một tiếng hét như Kim Cương Bảo Kiếm.” Hưng Hóa nói, “ Tôi thấy các ông dưới hiên đông cũng hét, dưới mái tây cũng hét, hét loạn xà ngầu để làm cái gì? Lâm Tế nói, “ Tôi nghe nói các ông bắt chước tôi hét, tôi thử hỏi các ông, đông đường có ông tăng bước ra, tây đường có ông tăng bước ra, cả hai ông tăng đều hét một tiếng, ai là chủ ai là khách? Nếu như các ông không phân biệt được chủ khách, từ rày về sau đừng bắt chước tôi hét nữa. Cho nên Tuyết Đậu tụng rằng, “ Thành thạo biết cơ biến.” Ông tăng kia tuy bị Mục Châu bao vây, song cũng vẫn còn biết chỗ cơ biến. Thử nói xem, chỗ nào là chỗ ông tăng kia biết chỗ cơ biến? Lộc Môn Trí Thiền Sư phê bình ông tăng này rằng, “ Người biết Pháp sự?” Nham Đậu nói,” Luận việc chiến, ai cũng nắm then chốt.” Hoàn Long Tâm nói, “Cùng tắc biến, biến tắc thông”.[29] Đây chính là chỗ mà các tổ sư làm cho người trong thiên hạ phải líu lưỡi. Nếu như các ông là người hiểu cơ biến thì vừa nêu lên đã hiểu ngay chỗ cốt yếu. Có lắm kẻ nói, “cần phải bận tâm đến việc Mục Châu nói ba bốn tiếng hét làm gì, cứ tiếp tục hét. Nói gì hai chục ba chục tiếng hét, cứ việc hét cho đến khi Phật Di Lặc hạ sinh, gọi là cưỡi lưng cọp. Nếu các ông có tri kiến như thế, tức là chẳng hiểu Mục Châu. Dù cho muốn hiểu ông tăng kia đi nữa, các ông cũng quá xa vời. Giống như người cưỡi lưng cọp, cần phải trong tay có đao cũng như biết uyển chuyển thì mới được. Tuyết Đậu nói nếu như thế thì “ cả hai thành ra mù.” Tuyết Đậu giống như thanh ỷThiên trường kiếm, uy phong lẫm lẫm. Nếu như hiểu được ý của Tuyết Đậu tự nhiên hiểu được ngàn điều vạn điều cùng một lúc. Lúc ấy sẽ thấy rằng phần cuối tụng của Tuyết Đậu chỉ là cước chú mà thôi. Lại nói, “ Ai mù đâu?” Chủ mù hay là khách mù? Chứ không phải là chủ khách đều cùng mù sao? Tôi xin nêu ra để người trong thiên hạ cùng thấy.” Đây chính là chỗ sống động, Tuyết Đậu một lúc tụng ra luôn. Nhưng mà tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Nêu lên cho cả thiên hạ xem?” Thử nói coi, các ông xem như thế nào? Nhắm mắt cũng được, mở mắt cũng được, song còn có ai tránh được chăng? [1] “Thánh đế đệ nhất nghĩa”. Triết học Phật giáo phân biệt hai sự thật (satyadvaya,nhị đế), (a) paramàrtha (chân đế, hay đệ nhất nghĩa đế) tức là sự thật cứu cánh, thuộc phạm vi (gocàra) của trí giác ngộ, ( ![]() [2] Ở đây chúng tôi theo bản của Ito Yuten. Bản của Cổ Phương Thiền Sư không có chữ “Phật”. [3] Nhị Tổ tức Huệ Khả hay Thần Quang. Về tiểu sử của Huệ Khả xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, cùng một dịch giả sẽ xuất bản. [4] Kinh Phóng Quang Bát Nhã (Pancavimsatisahàsrikàpraj-nàparàmità), một trong những bản kinh quan trọng của Bát Nhã Bộ. xem Taishò 221. [5] “Tất dũng”: cái thùng đen. Chữ trong Thiền học ám chỉ sự vô minh. [6] Bản của Cổ Phương Thiền Sư không có đoạn này. [7] Bản của Cổ Phương Thiền Sư: “ toại bất phục cứu” có vẻ đúng hơn. [8] Ở đây chúng tôi theo bản của Cổ Phương Thiền Sư [9] Tam Tổ tức Tăng Xán .Về tiểu sử xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục cùng một dịch giả, sẽ xuất bản. [10] Nguyên văn “đả thành nhất phiến”, ngụ ý không còn phân biệt giữa tâm và cảnh, nhân và ngã. [11] Tức Mã Tổ Đạo Nhất, về tiểu sử xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, cùng một dịch giả, sẽ xuất bản. [12] Theo Phật danh Kinh thì trong một ngàn vị Phật thuộc hiền kiếp vị Phật thứ hai trăm lẻ hai tên là Nguyệt Diện Phật, còn vị Phật thứ tám trăm năm mươi tám tên là Nhật Diện Phật. [13] Kinh Kim Cương (Vajracchedikàprajnàpàramità Sùtra) cũng là một kinh quan trọng thuộc Bát Nhã Hệ. [14] Tâm là chủ của vạn pháp” có thể so sánh với kệ số 1 trong Dhammapada: Manopubbángamà dhammà manosetthà manomayà, manasà ce padutthena bahàsati va karoti và tatonam dukkham anveti cakkam va vahato padam.(xem V,Fausboll. The Dhammapada. London: Luzac & Co.1900 trang 3). [15] Tào Khê là nơi Lục Tổ Huệ Năng cư ngụ, cho nên trong truyền thống Thiền chữ Tào Khê thường được dùng để chỉ Lục Tổ. [16] Không Sinh tức là ngài Tu Bồ Đề (Subhuti). [17] Thuấn-nhã-đa tức là dịch âm của chữ Phạn “sùyatà”có nghĩa là không. [18] Có nghĩa là câu hỏi và câu trả lời trực tiếp chạm nhau như thể hai đầu mũi tên. [19] Pháp môn của phái Thiền Tào Động. [20] Pháp môn của phái Thiền Lâm Tế. Xin xem thêm trong Lâm Tế Lục, cùng một dịch giả, sắp xuất bản. [21] Hai đoạn này không có trong bản của Cổ Phương Thiền Sư. [22] “minh”.Bản của Ito Yeten: “viên” (viên mãn). [23] Thỉnh ích, có nghĩa là tham khảo thêm với bậc thầy. [24] Phần Dương Thiện Chiểu (947-1024) thuộc dòng Lâm Tế, có công trong việc tổng hợp các giáo lý của nhiều tông phái Thiền khác nhau.. [25] “Trần” có nghĩa là đối tượng của cảm quan. [26] Bản của Cổ Phương Thiền Sư không có câu này. [27] Thược-ca la phiên âm của chữ Phạn “súkla” có nghĩa là trong sạch. [28] Theo bản của Ito Yuten: “ Phật đưa nắm tay lên hỏi, “mở hay đóng?” [29] Lời nói từ Kinh Dịch |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Phần 2
TẮC THỨ MƯỜI MỘT KẺ UỐNG CẶN RƯỢU CỦA HOÀNG BÁ THÚY: Phật Tổ đại cơ,nắm cả trong tay. Mạng sống người trời, đều chịu sai sử. Một lời vẩn vơ, cũng làm kinh động quần chúng. Một cơ một cảnh, đánh tung xiềng xích. tiếp nhận cơ hội hướng thượng, bàn đến sự siêu việt. thử nói xem, từng có ai đến như thế? Có ai biết cốt yếu của việc này chăng? Xin nêu lên xem thử. CỬ: Hoàng Bá dạy chúng rằng, “ Các ông chỉ là những kẻ uống cặn rượu. Hành cước như thế, ở đâu có ngày hôm nay? Có biết là trong xứ Trung Quốc này không có Thiền Sư chăng?” Lúc ấy có ông tăng bước ra nói, “ Thế những người hướng dẫn đồ chúng ở khắp các nơi thì sao?”Hoàng Bá nói, “ Tôi đâu có bảo là không có Thiền, chỉ có điều không có những bậc thầy mà thôi.” BÌNH: Hoàng Bá thân cao bảy thước[1], trên trán có cục thịt nhô ra trông như thể viên ngọc tròn. Bẩm sinh thông hiểu Thiền. có truyền thuyết nói rằng đã từng đồng hành với La Hán [2] . Hồi xưa Sư đi lên núi Thiên Thai, giữa đường gặp một ông tăng, hai người cười nói với nhau như thể thâm giao. Hoàng Bá nhìn kỹ ông tăng, thấy ông ta có đôi mắt sáng quắc, có vẻ dị tướng.Hai người đồng hành với nhau, đến khi gặp dòng suối nước lũ kia, Hoàng Bá chống gậy, cởi nón đứng đó. Ông tăng kia thúc Sư cùng qua sông , Sư nói, “Ông cử qua trước đi Ông tăng kia bèn vén áo nhón bước trên sông như thể đi trên đất bằng, vừa quay đầu lại nói,”Qua đi,qua đi!” Hoàng Bá hét, “Đồ ích kỷ! Tôi mà biết ông dở trò như thế, tôi đã sớm chặt phăng chân ông đi rồi!” Ông tăng kia thở dài nói, “Đúng là bậc Pháp khí [3] của Đại Thừa!” Nói xong biến mất. Lúc Hoàng Bá mới đến gặp Bách Trượng, Bách Trượng nói, “ Nguy nga hùng vĩ, từ đâu đến vậy?” Hoàng Bá nói, Nguy nga hùng vĩ, từ đỉnh núi tới.” Bách Trượng nói, “Đến có việc gì vậy?” Hoàng Bá nói, “ Không vì việc gì khác cả.” Bách Trượng coi trọng là bậc Pháp khí. Hôm sau từ giã Bách Trượng, Bách Trượng nói, “Đi đâu vậy?” Hoàng Bá nói, “Đi Giang Tây để ra mắt Mã Đại Sư.” Bách Trượng nói, “ Mã Đại Sư đã qua đời rồi.” Hoàng Bá nói, “ Không hiểu lúc sinh thời, Mã Đại Sư có nói những gì? Mong được nghe lại.” Bách Trượng bèn thuật lại nhân duyên gặp Mã Tổ: “ Lúc Mã Tổ thấy tôi tới, ngài dơ phất trần lên. Tôi hỏi, “ Thầy là một hay khác với hành động này?” Mã Tổ bèn treo phất trần nơi đầu giường Thiền. Mãi lâu sau Mã Tổ mới hỏi, “ Sau này ông khua môi múa mỏ, vì người như thế nào?” Tôi dựt lấy phất trần dơ lên. Mã Tổ nói, “ông là một hay khác với hành động này?” Tôi treo lại phất trần nơi đầu giường Thiền. Mã Tổ thị uy hét một tiếng khiến tôi lúc ấy bị điếc tai suốt ba ngày.” Hoàng Bá bất giác rùng mình le lưỡi.Bách Trượng nói, “ Sau này ông còn muốn thừa tự Mã Đại Sư chăng?” Hoàng Bá nói, “ Không. Hôm nay được nghe thầy thuật lại đại cơ đại dụng của Mã Đại Sư, nếu như thừa tự Mã Đại Sư, e rằng sau này tôi sẽ tuyệt tự mất.” Bách Trượng nói, “Đúng thế, đúng thế. Nếu kiến giải của một người mà bằng với thầy mình, đó là làm giảm mất một nửa đức của thầy. Phải có trí huệ vượt hơn thầy của mình, mới xứng đáng được truyền thụ. Chỗ kiến giải của ông hiện giờ, có căn cơ để vượt hơn thầy lắm.” Các ông thử nói xem, Hoàng Bá hỏi như thế là đã biết mà còn cố hỏi, hay là không biết mà hỏi? Phải biết hàng trang của cha con trong môn phái của họ thì mới hiểu được. Một hôm Hoàng Bá lại hỏi Bách Trượng, “ Tông thừa của chúng ta từ xưa đến nay, được chỉ thị như thế nào?” Bách Trượng nói, “ Tôi cứ nghĩ ông là người đó.” Rồi đứng lên bỏ vào phương trượng. Hoàng Bá với tướng quốc Bùi Hưu là bạn thân. Sư thường giảng tâm yếu cho Bùi Hưu.[4] Lúc Bùi Hưu làm tổng trấn Uyển Làng có mời Sư đến quận , trao cho Sư một thiên sách viết về chỗ kiến giải của mình. Hoàng Bá tiếp lấy để xuống ghế chẳng hề mở ra xem. Mãi lâu sau mới nói, “ Hiểu không?” Bùi Hưu nói, “ Không hiểu.” Hoàng Bá nói, “ Nếu ông hiểu như thế thì còn có chút chỗ đắc. Nếu như ông nệ vào giấy mức bề ngoài, thì có chỗ nào là tông của tôi? Bùi Hưu bèn làm bài tụng tán thán rằng, “ Từ khi Đại Sĩ truyền tâm ấn, trán có viên châu thân bảy thước. Treo gậy mười năm bên sông Thục, trôi nổi hôm nay ghé bến Chương.Tám ngàn rồng voi theo bước lớn, vạn dặm hương hoa kết thắng nhân. Những muốn theo thầy làm đệ tử, chưa biết thầy trao Pháp cho ai?” Hoàng Bá chẳng tỏ vẻ vui mừng, nói, “ Tâm như biển lớn không ngằn mé,miệng nhả hoa sen nuôi thân bệnh. Ta có một đôi tay vô sự, chẳng từng vái chào kẻ rỗi hơi.” Hoàng Bá trù trì, cơ phong cao vút. Lâm Tế cũng có trong chúng hội, Mục Châu là thủ tòa.Mục Châu hỏi Lâm Tế, “ Thầy ở đây bao lâu rồi, tại sao không vào hỏi gì đi?” Lâm Tế nói, “ Xin cho tôi hỏi cái gì mới đúng?” Mục Châu nói, “ Tại sao không vào hỏi ý chỉ của Phật Pháp là gì?’ Lâm Tế vào hỏi ba lần, ba lần bị đáng đuổi ra. Lâm Tế bèn giã từ Mục Châu, “ Nhờ thủ tòa dạy ba lần tôi vào hỏi đều bị đánh đuổi ra. E rằng tôi không có nhân duyên với chốn này. Thôi thì tạm thời hạ sơn vậy.” Mục Châu nói, “ Nếu ông muốn đi, ông nên vào từ biệt Hòa thượng mới phải.” Rồi vào trước nói với Hoàng Bá. “ Vị thượng tọa vào hỏi kia là một người kiếm có lắm, tại sao Hòa thượng không dùi mài cho ông ta trở thành một cội cây che mát cho thiên hạ?” Hoàng Bá nói. “Ta biết rồi”. Lâm Tế vào từ biệt, Hoàng Bá nói, “Ông không cân phải đi đâu cả, chỉ cần đến thẳng bến Cao An mà gặp Đại Ngu.” Lâm Tế đến gặp Đại Ngu thuật lại câu chuyện trước đó rồi nói, “ Kẻ hèn này không hiểu mình có lỗi ở chổ nào?” Đại Ngu nói, “Hoàng Bá mới từ bi làm sao, vì ông mà tận lực như thế, ông còn lo đi nói lỗi phải cái gì.”. Lâm Tế đại ngộ nói, “ Phật Pháp của Hoàng Bá chẳng có gì là nhiều nhặn.” Đại Ngu nắm lấy Lâm Tế nói, “ Vừa rồ! ông mới nói mình có lỗi, bây giờ lại nói Phật Pháp chẳng có gì nhiều nhặn.” Lâm Tế đánh vào hông Đại Ngu ba lần. Đại Ngu đẩy Lâm Tế ra nói, “ Thầy của ông là Hoàng Bá, chuyện này chẳng có gì nhằm nhò đến tôi cả.” Một hôm Hoàng Bá dạy chúng nói, “ Ngưu Đầu Pháp Dung Đại Sư nói ngang nói dọc, song vẫn chưa biết then chốt của con đường hướng thượng. Ngày nay những kẻ học Thiền với Thạch Đầu và Mã Tổ huyên hoa nói Thiền nói Đạo.” Tại sao Sư lại nói như thế? Cho nên mối dạy chúng rằng, “ Các ông chỉ là một lũ uồng cặn rượu. Các ông mà hành cước như thế chỉ tổ khiến thiên hạ cười cho. Thấy chỗ nào qui tụ tám trăm một ngàn người là tới. Chỉ lo đi tìm nhiệt náo như thế đâu có được, nếu như ở đây ai cũng thích dễ dãi như các ông thì đâu còn có chỗ như ngày hôm nay.” Thời nhà Đường người ta có thói mắng người khác là “đồ uống cặn rượu.’ Đa số thiên hạ bảo là Hoàng Bá thích mắng người. Song những ai có mắt tự nhìn thấy cốt ý của Hoàng Bá. Cái ý chính là thả móc đế câu câu hỏi của người ta. Trong chúng hội có một người học Thiền không tiếc thân mạng cho nên mới bước ra hỏi rằng, “ Thế những người hướng dẫn đồ chúng ở khắp nơi thì sao?” Kể cũng là một câu hỏi hay. Lão hán này quả nhiên không giải thích được cho nên bèn mập mờ nói, “ Tôi đâu có bảo là không có Thiền, chỉ có điều là không có những bậc thầy mà thôi.” Thử nói xem ý của Hoàng Bá ở chổ nào? Tông chỉ từ xưa là có lúc bắt, có lúc buông, có lúc giết, có lúc cứu, có lúc thu, có lúc thả. Dám hỏi chư vị, thế nào mới là bực thầy trong Thiền ? Sư núi tôi vừa nói thế, kể như đã mất cả mặt mũi rồi. Lỗ mũi của chư vị ở đâu? Lâu sau mới nói, “ Bị xỏ cả rồi.” TỤNG: Lẫm liệt siêu quần chẳng tự khoe, Biển đời ngồi nghiêm phân rồng rắn. Đại Trung thiên tử từng coi nhẹ, Ba bận đích thân đụng móng vuốt. BÌNH: Câu tụng này của Tuyết Đậu có vẻ như thực sự tán thán Hoàng Bá. Song người ta không được hiểu là tán thán thật. Ngay trong câu của thầy ta đã có chỗ xuất thân. Tuyết Đậu rõ ràng nói, “ Lẫm liệt siêu quần chẳng tự khoe. Hoàng Bá dạy chúng như vậy đâu phải để tranh với người khác, tự phô trương, tự phụ, tự khoe đâu. Nếu như ông hiểu được vấn đề này, ông tha hồ tự tại tung hoành. Có lúc đứng một mình trên đỉnh cao, có lúc lăng xăng giữa chợ. Há cần phải hẹp hòi chấp nhặt một xó? Ông càng xả ông càng bất an, càng kiếm càng không thấy, càng ôm đồm thì càng chìm đắm. Cổ nhân nói, “ Không cánh bay khắp thiên hạ, có danh truyền khắp thế gian.” Tận tình xả hết các đạo lý huyền diệu kỳ đặc trong Phật Pháp, một lúc buông bỏ cả thì cũng còn tạm được. Lúc ấy bất cứ ở đâu tự nhiên ( Phật Pháp) sẽ hiện thành. Tuyết Đậu nói, “ Biển đời ngồi nghiêm phân rồng rắn.” Rồng hay rắn? Bất cứ ai vừa bước vào cửa, đã thử thách người ấy ngay, đó gọi là đôi mắt phân rồng rắn, khả năng bắt hổ tê. Tuyết Đậu còn nói, “ Mắt phân rồng rắn hề sao đúng, tài bắt hồ tê hề bất toàn.” Lại nói, “Đại trung thiên tử từng coi nhẹ, Ba bân đích thân dụng móng vuốt.” Hoàng Bá đau phải bây giờ mới thế, thầy ta lúc nào cũng vậy cả. Còn về Đại Trung thiên tử thì theo Tục Hàm Thông Truyện có ghi rằng Đường Hiến Tông (trị vì 847-860) có hai người con, một tên là Mục Tông một tên là Tuyên Tông. Tuyên Tông tức là Đại Trung. Năm mười ba tuổi, tuy còn trẻ song thông minh đỉnh ngộ, thích ngồi kiết già. Lúc Mục Tông còn tại vị, một hôm sau khi bãi triều buổi sáng, Đại Trung mới đùa lên ngôi trên ngai vàng giả chào các quần thần. Một vị đại thần trông thấy ngở là Đại Trung điên mới bẫm lại cho Mục Tông. Lúc Mục Tông trông thấy thế, mới tán thán rằng, “Em ta quả thật là bậc anh hào của dòng dõi.” Mục Tông mất vào năm thứ tư niên hiệu Trường Khánh (842), để lại ba người con là Kính Tông, Văn Tông và Vũ Tông. Kính Tông kế vị cha trị vì được hai năm, cho đến khi nội thần âm mưu truất phế.Văn Tông lên kế vị được mười bốn năm. Lúc Tông lên lế vị thường gọi Đại Trung là thằng điên. Một hôm Vũ Tông vẫn còn giận chuyện Đại Trung đùa lên ngôi ngai vàng của cha mình, sai người đánh cho một trận gần chết rồi đem quẳng ở phía vườn sau tưới nước bẩn lên chotỉnh lại. Đại Trung mới bỏ trốn vào chúng hội của hòa thượng Hương Nghiêm Nhàn, sau đó cắt tóc làm sa di, song chưa thụ giới cụ túc. Sau khi du phương với Chí Nhàn.Lúc đến Lô Sơn Chí Nhàn làm một bài thơ về thác nước như sau, “ Xuyên mây xẻ đá ngại gì sao, đất xa mới biết chốn này cao.” Chí Nhàn ngâm hai câu ấy, rồi trầm tư hồi lâu, muốn khích Đại Trung thổ lộ để xem ông ta là người như thế nào. Đại Trung đọc tiếp, “ Khe suối làm sao giữ lại được? Về biển làm nên sóng dãt dào.” Chí Nhàn mới biết rằng ông không phải là người tầm thường, thầm lấy làm cảm kích. Sau đến chúng hội của Diêm Quan, Đại Quan được mời làm thư ký. Hoàng Bá làm thủ tòa ở đó. Một hôm Hoàng Bá lễ Phật, Đại Trung trông thấy hỏi, “ Không chấp trước vào Phật mà cầu, không chấp trước vào Pháp mà cầu, không chấp trước vào tăng mà cầu, lễ bái để cầu cái gì vậy? Hoàng Bá nói, “ Tôi chẳng chấp trước vào Phật mà cầu, chẳng chấp trước vào Pháp mà cầu, chẳng chấp trước vào tăng mà chỉ lễ bái như vậy thôi.” Đại Trung hỏi, “ lễ báo để làm gì?” Hoàng Bá bèn tát. đại Trung nói, “ Thô suất quá.” Hoàng Bá nói, “Ở đây là đâu để mà ông nói thô tế?” Hoàng Bá lại tát. Sau này lúc Đại Trung lên kế vị ngai vàng phong Hoàng Bá là Thô Hành Sa Môn. Sau này lúc Bùi Hưu có ở triều đình xin phong cho Hoàng bá là “Đoạn Tế Thiền Sư.” Tuyết Đậu biết chỗ huyết mạch xuất xứ, cho nên mới sử dụng được một cách khéo léo như thế. Hiện giờ còn ai muốn dơ móng vuốt ra chăng? Tôi đánh cho đấy! |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
ẮC THỨ MƯỜI HAI
BA CÂN GAI CỦA ĐỘNG SƠN THÙY: Đao giết người, kiếm cứu người, là phong qui đời xưa, là cốt yếu của thời nay. Nếu luận về giết, chẳng hại một sợi lông. Nếu luận về cứu, liền tang thân thất mạng. Cho nên mới có lời nói, “ Một đường hướng thượng, ngàn thánh không truyền, kẻ học mệt thân, như khỉ bắt bóng.” Thử nói xem, đã không truyền thì tại sao lại có đến lắm công án dây dưa như vậy? Để những người cómắt thử nêu lên xem. CỬ: Có ông tăng hỏi Động Sơn, “ Phật là gì?” Động Sơn nói, “ Ba cân gai.” BÌNH: Công án bị khá nhiều người hiểu lầm. Quả là khó nhai bởi vì không có chỗ để cho các ông ghé miệng.Tại sao vậy? Bởi vì nó vừa nhạt nhẽo vừa vô vị. Cổ nhân có rất nhiều câu trả lời cho câu hỏi, “ Phật là gì?” Có vị nói, “Ở trong chánh điện đó.” Có vị nói, “ Ba mươi hai tướng.” Có vị nói, “ Ngọn roi trúc dưới núi.” Đến Động Sơn thì lại nói, “ Ba cân gai”. Đúng là làm líu hết lưỡi cổ nhân. Thiên hạ bàn luận nhiều về công án này, có người nói rằng. “Lúc ấy Động Sơn đang ở trong nhà kho cân gai, vừa lúc ông tăng hỏi cho nên mới trả lời như thế. Có người nói Động Sơn hỏi đông đáp tây. Có người nói mình đã là Phật còn đi hỏi Phật cho nên Động Sơn mới trả lời vòng vo như thế. Trong bọn người chết kia lại có kẻ nói ba cân gai chính là Phật. May mà chẳng có gì là đúng cả. Nếu như các ông lo đi tìm tòi trong lời của Động Sơn như thế, có tham nghiệm cho đến lúc Di Lặc hạ sinh đi nữa cũng chẳng thấy được gì. Tại sao vậy. Ngôn ngữ chỉ là dụng cụ để chở Đạo. Đàng này đã không hiểu ý cổ nhân lại chỉ lo tìm tòi trong ngôn ngữ của họ, có dáng dấp gì đâu? Há không nghe cổ nhân nói, “Đạo vốn vô ngôn, nhân ngôn hiển đạo. Thấy đạo tức quên lời.” Đến đây phải cùng tôi trở lại vấn đề nguyên thủy mới được. Ba cân gai này cũng giồng như đại lộ l6en Trường An vậy. Dơ chân để chân không có hành động nào đúng. Câu chuyện này cũng khó hiểu giống như Vân Môn nói, “ Bánh”, Ngũ Tổ tụng rằng “ Gã khiêng ván bán rẻ, cân ra ba cân gai. Hang động trăm ngàn năm, chẳng có chốn nương thân.” Các ông cần phải trong một chặp rũ sạch tư tưởng cảm quan, ý tưởng, so đo, được mất, thị phi, thì tự nhiên sẽ hiểu. TỤNG: Kim ô cấp[5] Ngọc thố[6] Đáp khéo làm sao có cơ suất? Triển sự hợp cơ thấy Động Sơn. Miết[7] què rùa đui thung lũng trống. Hoa xum xuê, Rừng rậm rạp. Trúc phương nam hề phương bắc, Nghĩ tời Trường Khánh, Lục Đại Phu[8] Biết nói phải cười chứ không khóc. Ôi! BÌNH: Tuyết Đậu nhìn thấu hết, cho nên nói thẳng ra, “ Kim ô cấp, ngọc thỏ tốc.”Không khác với ĐộngSơn nói, “ ba cân gai”. Mặt trời mọc, mặt trăng lặn, ngày nào cũng vậy. Thiên hạ hay hiểu theo tri thức cảm quan mãi nói, “ Kim ô là mắt trái, ngọc thỏ là mắt phải.” Vừa bị hỏi đã trợn trừng mắt nói, “Ở đây đây.” Song chẳng có nhằm nhò gì cả. Nếu như các ông hiểu như thế thì tông môn của Đạt Ma hẳn sẽ bị tận diệt mất. Cho nên mới có câu nói, “ Thả câu bốn biển, chỉ câu mãnh long. Huyền cơ đặc biệt, để tìm tri kỷ.” Tuyết Đậu là người đã vượt lên trên cõi vực của ngũ ấm[9], há lại có thứ kiến giải như thế sao ? Tuyết Đậu nhẹ nhàng đi vào những chỗ vi diệu nhất để vạch ra chút nào cho các ông thấy, cho nên mới thêm cước chú rằng,” Đáp khéo làm sao có sơ suất?” Động Sơn không hề trả lời ông tăng kia một cách lơ là, thầy ta giống như cái chuông được đánh, như thung lũng, đáp lại tiếng vang. Lớn nhỏ gì cũng dội lại. (Động Sơn cũng thế) đâu có giám khinh suất. Tuyết Đậu trong một lúc đột nhiên thổ lộ tâm can ra cho các ông xem. Tuyết Đậu có câu tụng tĩnh lặng xong khéo tương ứng: “ Gặp nhau thẳng mặt, không gì rắc rối, rồng rắng dễ phân, nạp tăng[10] khó lừa. Bóng trùy vang động, ánh bảo kiếm lạnh, bộ xương trực tiếp, mau ghé mắt xem!” Lúc Động Sơn mới gặp Vân Môn, Vân Môn hỏi, “Ông mới ở đâu tới vậy?” Động Sơn nói, “ Tra-Độ”. Vân Môn nói, “Kiết hạ ở đâu?” Đông Sơn nói, “Ở chùa Báo Từ, Hồ Nam.” Vân Môn nói, “ Kiết hạ ở đâu?” Động Sơn Từ, Hồ Nam. Vân Môn nói, “Ông rời đó lúc nào?” Động Sơn nói, “ Hăm lắm tháng tám.” Vân Môn nói, “ Tha cho ông ba trận gậy đó, mau vào sảnh đường tham thiền đi.” Tối đến Động Sơn vào phòng của Vân Môn, mon men đến gần hỏi, “ Kẻ hèn này có lỗi ở chỗ nào?”Vân Môn nói, “Đồ bị gạo, Giang Tây với Hồ Nam thì cũng thế mà thôi.” Nghe lời ấy, Động Sơn hốt nhiên đại ngộ, nói, “ Sau này tôi sẽ đến một nơi không bóng người, tự xây một am thảo, không trữ một hạt gạo, chẳng trồng một cành rau, chỉ thường tiếp các đại thiện tri thức từ thập phương lui tới. Tôi sẽ tận lực nhổ đinh bật chốt cho họ, dở mũ sờn, cởi áo bẩn cho họ, khiến ai nấy siêu thoát tự tại mà trở thành những kẻ vô sự.” Vân Môn nói, “ Con người ông chỉ bằng trái dừa mà sao ông mở miệng lớn lối thế. “ Động Sơn bèn từ giã Vân Môn. Chỗ giác ngộ của thầy ta lúc đó trực tiếp và khoảng khoát, há giống như các thứ kiến thức hẹp hòi sao? Sau này lúc Động Sơn ra đời để tiếp dẫn thiên hạ[11],câ nói “ ba cângai” kia thường được thiên hạ các nơi hiểu như là đế đáp cho câu hỏi “ Phật là gì”. Đó là dùng tri thức lý luận ra mà hiểu Phật. Tuyết Đậu nói nếu người ta hiểu câu đáp của Động Sơn như là một cách khoáng trương dữ lkiện cho hợp với hoàn cảnh thì thật chẳng khác gì con ba ba què hay con rùa mù lạc vào thung lũng thênh thang, đến năm tháng nào mới tìm được lối ra đây? Còn câu “ hoax um xuê, rừng rậm rạp” là do ở câu chuyện sau đây: Có ông tăng hỏi Trí Môn Hòa Thượng, “Động Sơn nói ba cân gai, ý nghĩa của lời ấy là gì?” Trí Môn nói, “ Hoa xum xuê, rừng rậm rạp. Hiểu không?” Ông tăng không hiểu. Trí Môn lại nói, “ Trúc phương nam hề gỗ phương bắc.” Ông tăng về thuật lại cho Động Sơn. Động Sơn nói, “ Tôi không chỉ giải thích cho ông, mà sẽ giải thích cho cả chúng hội.” Rồi thượng đường nói, “ Ngôn ngữ (tuy là) để giải bày sự vật, song ngôn ngữ không phải lúc nào cũng thích hợp với hoàn cảnh. Bám vào ngôn ngữ là lầm lạc, còn vương vào chữ nghĩa là mê mờ.”[12] Tuyết Đậu có ý muốn phá tan hết các kiến chấp của thiên hạ cho nên mới xâu tất cả lại thành một chuỗi mà tụng ra. Song người đời sau lại càng thêm kiến chấp nói rằng, “ (Vải) gai là tang phục, trúc là gậy tang, cho nên mới nói “ trúc phương nam hề gỗ phương bắc.” Còn “hoax um xêu, rừng rậm rạp” là hoa lá vẽ trên quan tài. Họ còn biết xấu hổ chăng? Họ đâu có biết rằng “ trúc phương nam hề gổ phương bắc” với lại “ba cân gai” cũng tựa như “ba” với “bố” mà thôi. Cổ nhân đáp ra một lời then chốt, ý của họ quyết không phải là như thế. Cũng giống như khi Tuyết Đậu nói, “ Kim Ô cấp, ngọc thỏ tốc,” cũng khoảng khoát như vậy. Có điều vàng thau lẫn lộn, “ ngư” “lỗ”[13] chập chùng. Tuyết Đậu từ bi cùng tột, muốn phá vỡ mối nghi của các ông cho nên mới dẫn lời bọn dở chết. “ Nghĩ tới Trường Khánh, Lục Đại Phu; biết nói phải cười chứ không khóc.” Nếu như luận bài tụng của Tuyết Đậu thì chỉ ba câu đầu là đã tụng hết rồi. Nhưng mà tôi muốn hỏi các ông, cả thế giới này chỉ giống như ba cân gai, tại sao Tuyết Đậu lại phải dây dưa như thế? Chỉ vì từ bi quá đỗi cho nên mới như thế. Lúc Lục Hoàn đại phu làm Quán Sát Sứ Tuyên Châu có tham học với Nam Tuyền. Lúc mà Nam Tuyền mất, Hoàn nghe tin vào chùa chịu tang. Vào đến noi Hoàn lại cười ha hả. Viện chủ hỏi, “ Tiên sư với Đại Phu có nghĩa sư sinh,tại sao đại phu lại không khóc?” Hoàn nói, “ Thầy nói gì đi rồi tôi khóc.” Viện chủ không nói gì được. Hoàn bật khóc nói, “ Trời ơi, trời ơi, Tiên sư khứ thế đã lâu quá rồi,” Sau này Trường Khánh nghe chuyện ấy nói, “ Lục đại phu lẽ ra phải cười chứ không phải là khóc”. Tuyết Đậu mượn đại ý của câu chuyện này mà nói rằng nếu các ông lo hiểu theo kiến chấp như thế thì quả là đáng cười chứ không đáng khóc. Đúng thì đúng thật, song cuối cùng có một chữ không khỏi có hơi dư thừa, ấy là lúc Tuyết Đậu nói, “Ôi” Tuyết Đậu có tự rửa mình sạch sẽ được chăng? |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
TẮC THỨ MƯỜI BA
CHÉN BẠC CỦA BA LĂNG THÙY:Mây đọng trên đồng,không che trời đất, Tuyết phủ hoa lau, khó phân dấu vết. Chỗ lạnh lạnh như băng tuyết, chỗ nhỏ nhỏ như bột gạo. Chổ sâu mắt Phật khó nhìn, chỗ kín ngoại ma khó dò. Nếu một hiểu ba tạm dẹp qua, làm cả thiên hạ líu lưỡi thì như thế nào? Thử nói xem đó là việc của ai? Xin thử nêu lên xem sao. CỬ: Có ông tăng hỏi Ba Lăng, “ Thế nào là tông của Đề Bà?”[14] Ba Lăng nói, “ Tuyết đầy trong chén bạc.” BÌNH: Công án này thường bị người ta hiểu lầm mà bảo rằng đây là tông của ngoại đạo. Đâu có gì là đúng. Tổ thứ mười lăm Đề Bà vốn cũng đã từng là một trong các ngoại đạo, nhân trông thấy tổ thứ mười bốn là Long Thụ Tôn Giả[15] lấy kim bỏ vào bát. Long Thụ cảm kích sâu xa mới truyền tâm ấn của Phật cho Đề Bà làm tổ thứ mười lăm. Kinh Lăng Già nói, “ Phật dạy tâm làm tông, vô môn làm pháp môn.” Mã Tổ nói, “Phàm có ngôn cú thì là tông của Đề Bà, chí lấy đó làm chủ mà thôi.” Các ông đều là khách trông tông môn của nạp tăng, các ông đã từng nghiên cứu thấu suốt tông của Đề Bà chưa? Nếu như đã thấu suốt thì cả chín mươi sáu thứ ngoại đạo của Tây thiên[16] đã bị các ông hàng phục một lúc. Nếu không thấu suốt thì các ông khó tránh khỏi phải mặc áo cà sa ngược mà đi. Thử nói xem như thế nào? Nếu nói là ngôn ngữ cũng không đúng, mà bảo không phải là ngôn ngữ cũng chẳng đúng. Thử nói xem ý của Mã Đại Sư là ở chỗ nào? Vân Môn nói, “ Mã Đại Sư nói hay lắm có điều chẳng có ai hỏi cả.” Có ông tăng bèn hỏi, “Thế nào là tông môn của Đề Bà?” Vân Môn nói, “Trong chín mươi sáu loại ngoại đạo, ông là loại thấp nhất.” Hồi xưa có ông tăng từ giã Đại Tùy. Đại Tùy nói, “Chú đi đâu?” Ông tăng nói, “Đi đảnh lễ Phổ Hiền.” Đại Tùy dơ phất trần lên nói, “ Văn Thù Phổ Hiền đều ở đây cả”. Ông tăng vạch một vòng tròn rồi lấy tay đẩy về phía Đại Tùy, rồi lại ném về phía sau. Đại Tùy nói, “Thị giả, chuẩn bị trà cho ông tăng này ngay!” Vân Môn cũng nói, “Ở Ấn Độ người ta chặt đầu chặt tay, ở đây chỉ tự mình đi ra mà thôi.” Lại nói, “ Cờ đỏ trong tay ta.” Phàm ở Ấn Độ khi có luận nghị (giữa các tôn giáo), người thắng cầm cờ đỏ, kẻ thua thì phải mặc áo cà sa ngược mà đi ra bằng cửa hông. Muốn luận nghị trước tiên phải có sắc lệnh của vua, rồi đóng chuông đánh trống trong tự viện lớn, sau đó mới bắt đầu luận nghị. Lúc ấy ngoại đạo phong kín chuông trống trong tự viện của Phật giáo, nói là để sa thải. Ngài Cà Na Đề Bà biết rằng Phật Giáo có nạn, bèn vận thần thông lên lầu đánh chuông để đuổi các ngoại đạo ra. Ngoại đạo nói, “ Ai đánh chuông trên lầu vậy?” Đề Bà nói, “Thần.” Ngoại đạo hỏi, “ Thần là ai?” Đề Bà nói, “ Thần là ta.” Ngoại đạo nói, “ Ta là ai?” Đề Bà nói, “ Ta là ngươi.” Ngoại đạo nói, “ Người là ai?” Đề Bà nói, “ Ngươi là chó.” Ngoại đạo hỏi, “ Chó là ai?”. Đề Bà nói, “ Chó là ngươi.” Sau bảy vòng như thế, ngoại đạo tự biết là mình thua hèn mở cửa lầu. Do đó Đề Bà từ trên lầu cầm cờ đỏ bước xuống. Ngoại đạo nói, “ Sao ông không đi sau?” Đề Bà nói, “ Sao ngươi không đi trước?” Ngoại đạo nói, “Ông là người hạ tiện.” Đề Bà nói, “ Người là kẻ lương thiện.” Cứ thế mà hỏi đáp, song Đề Bà dùng biện tài vô ngại của mình mà bẻ ngoại đạo. Ngoại đạo do đó mới chịu qui phục. Lúc ầy Đề Bà tay cầm cờ đó, kẻ thua cuộc thì đứng dưới cờ. Lúc ấy Đề Bà tay cầm cờ đó, kẻ thua cuộc thì đứng dưới cờ. Lúc ấy ngoại đạo có tục lệ chặt đầu chuộc lỗi, song Đề Bà bèn chấm dứt cái tục ấy. Chỉ bảo họ cạo đầu theo Phật giáo. Từ đó tông của Đề Bà đâm ra hưng thịnh. Tuyết Đậu sau dùng tích này để tụng. Trong chúng hội Ba Lăng có biệt danh là Giám Đa Khẩu, thường đem tọa cụ đi hành cước, lại đắc được chỗ uyên áo của giáo lý Vân Môn, cho nên hết sức là đặc sắc. Sau này ra đời với tư cách là người truyền thừa của Vân Môn. Trước tiên ở Ba Lăng, Nhạc Châu. Sư không có viết gì về việc truyền thừa Pháp, chỉ dùng ba chữ then chốt để dâng lên Vân Môn: “Đạo là gì? Người mắt sáng rơi xuống giếng.”Thế nào là lưỡi kiếm chẻ sợi tóc? Từng nhánh san hô chống mặt trăng?” Thế nào là tông của Đề Bà? Tuyết đầy trong chén bạc. Vân Môn nói, “ Sau này vào ngày giỗ kỵ, của lão tăng, các ông chỉ cần đọc ba lời then chốt này là kể như đã trả ơn đầy đủ.” Sau này quả nhiên ( Ba Lăng) không làm lễ giỗ kỵ,mà y theo lời Vân Môn chỉ tụng ba lời then chốt trên. Sau này các nơi trả lời câu hỏi này thường dựa vào các sự kiện trên, chỉ có Ba Lăng là nói như vậy, thầy ta thật là siêu quần bạt tụy, hết sức là khó hiểu. Thầy ta chẳng để lộ chút nào chỗ sắc bén của mình, chịu sự tấn công của kẻ địch từ tám hướng, và dưới bất cứ đòn nào cũng vẫn có chỗ né tránh. Thầy ta có khả năng bẫy hổ,cũng như tước đoạt tất cả các kiến chấp của thiên hạ. nếu luận về việc một vấn đề này[17], đến chỗ này người ta cần phải tự mình thấu suốt lấy, song cũng vẫn còn cần phải được bậc thiện tri thức mới được. Cho nên mới có câu nói, “Đạo Vũ khoa trương, đồng lứa hiểu; Thạch Củng giương cung thức giả thấu.” Nguy6en lý này mà không có bậc thầy ấn thủ cho, biết dùng giáo lý nào để nói chỗ huyền diệu của nó đây? Sau đó Tuyết Đậu vì người khác mà nêu lên, cho nên mới tụng: TỤNG: Lão Tân Khai, Ghê gớm thật Biết nói trong chén bạc đầy tuyết. Chín mươi sáu loại cần tự biết. Không biết phải hỏi trăng trên trời. Đề Bà Tông, Đề Bà Tông! Dưới lá cờ đỏ gió phất phơ. BÌNH: Tân Khai là tên của tự viện. “ Ghê gớm thật” là lời tán thán của Tuyết Đậu. Thử nói xem ghê gớm ở chỗ nào? “ Tất cả ngôn ngữ, đều là Phật Pháp.” Sưnúi tôi nói như thế có nghĩa là gì? Tuyết Đậu hé mở ra một chút khi thầy ta nói Ba Lăng ghê gớm thật. Sau đó thầy ta lại mở tung ra khi thầy ta nói, “ Biết trong chén bạc đầy tuyết.” Rồi lại cho các ông thêm cước chú rằng: “ Chín mươi sáu loại cần tự biết.” Song người ta phải có thua trước thì mới biết được ( thắng là thế nào). Nếu như các ông biết, thì cứ đi hỏi mặt trăng trên trời. Cổ nhân từng đáp câu hỏi này rằng, “Đi hỏi trăng trên trời.” Cuối bài tụng Tuyết Đậu phải khai mở ra lối thoát cho một câu giống như con sư tử quay ngược lại ( nhảy xổ tới các ông). Cho nên thầy ta mới nêu lên với các ông rằng, “Đề Bà Tông, Đề Bà Tông, Dưới lá cờ đỏ gió phất phơ.” Ba Lăng nói, “ Trong chén bạc đầy tuyết.” Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Dưới lá cở đỏ gió phất phơ?” Các ông đã biết là Tuyết Đậu giết người mà không dùng dao chăng? |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
TẮC THỨ MƯỜI BỐN
MỘT LỜI ĐÚNG CỦA VÂN MÔN CỬ: Có ông tăng hỏi Vân Môn, “ Thế nào là giáo lý của cả một thời đại (của Phật)? Vân Môn nói, “Một lời đúng.” BÌNH: Các người học Thiền, nếu như muốn biết ý nghĩa của Phật tính, cần phải quán thời tiết nhân duyên. Đấy gọi là giáo ngoại biệt truyền, trao riêng tấm ấn, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật. Đức Phật Thích Ca suốt bốn mươi năm trụ thế, trong ba trăm sáu mươi hội, nói Pháp về đốn tiệm quyền thực. Đó gọi là giáo lý của cả một thời đại. Ông tăng nếu vấn đề ấy lên mà hỏi, “ Thế nào là giáo lý của cả một thời đại?” Vân Môn tại sao không giải thích cặn kẽ cho 6ong tăng mà chỉ nói với ông ta, “ Một lời đúng”.Cái mà thông thường chúng ta gọi là một câu gồm đủ ba câu của Vân Môn là: câu bao che trời đất, câu tùy theo sóng, câu cắt đứt các dòng nhánh. Buông ra thu lại, kỳ đặc một cách tự nhiên. Như thể chật đinh bẻ sắt, khiến người ta không biết đường nào mà hiểu ý nghĩa của câu nói hay đoán ra được con người của thầy ta. Một kho giáo lý chỉ ở nơi ba chữ này, bốn phương tám hướng không có chỗ nào đế các ông dùi đục cả. Người ta thường hiểu lầm mà nói rằng (giáo lýcủa Đức PHật) chỉ được dạy để thích hợp với một hoàn cảnh nhất định nào đó mà thôi.lại nói, “Sâm la vạn tượng chỉ chổ ẩn nấp của Pháp,” rồi bảo rằng đó chính là ý nghĩa của “ một lời đúng”. Có kẻ nói, “ Chỉ là nói về một Pháp đó mà thôi.” Song chẳng có gì là đúng cả.Nói như thế không những là không hiểu mà còn xuống địa ngục nhanh như tên bắn. Đâu có biết rằng ý cổ nhân đâu có phải là như thế. Cho nên mới có câu nói, “ Tan xương nát thịt, cũng chưa đủ trả; hiểu được một câu, vượt qua trăm ức.” Kỳ đặc hết sức. “ Thế nào là giáolý của cả một thời đại?” tại sao lại chỉ nằm ở “một lời đúng”? Nếu như hiểu được câu nói, các ông có thể về nhà ngồi yên. Nếu không hiểu được, xin lắng nghe lời phân xử: TỤNG: Một lời đúng Quá siêu tuyệt! Đóng chốt vào tấm sắt không lỗ, Dưới cây Diêm Phù[18] cười ha ha ! Đêm qua rồng hiển bị gẫy sừng, Thiều Dương lão nhân[19] được một sừng. BÌNH: “ Một lời đúng quá siêu tuyệt!’ Tuyết Đậu tán thán Vân Môn không xiết. Những lời này đúng là siêu quần xuất loại, không tiền khoánghậu, giống như thể vách đá vạn trượng. Lại cũng giống như một đội quân trăm vạn người, không có chỗ nào đế các ông vào cả, chỉ vì nó cao vút lừng lững quá. Cổ nhân nói, “ Nếu như ông muốn vào gần được, đừng dùng câu hỏi ra mà hỏi câu hỏi, câu hỏi nằm trong câu trả lời, câu trả lời là đầu mối của câu hỏi.”Quả là cao vút lừng lững, song thử nói xem chỗ nào cao vút lừng lững ở chỗ nào? Cả thiên hạ chẳng ai làm gì được cả. Ông tăng này cũng là một tay thông thạo, cho nên mới hỏi như thế được. Vân Môn lại trả lờinhư thế, giống y như đóng chốt vào một tấm sắt không có lỗ. Tuyết Đậu sử dũng văn chương một cách khéo léo hết sức. Ông tăng này cũng là một tay thông thạo, cho nên mới hỏi như thế được. Vân Môn lại trả lời như thế, giống y như đóng chốt vào một tấm sắt không có lỗ. Tuyết Đậu sử dụng văn chương một cách khéo léo hết sức. “ Dưới cây Diêm Phù cười ha ha!” Kinh Khởi Thế nói, “Ở phương nam của núi Tu Di, có cây lưu ly chiếu sáng Diêm Phù Đề Châu khiến mọi vật đều có màu xanh . Châu này do cây này mà có tên, cho nên mới gọi là Diêm Phù Đề Châu. Cây này cao bảy ngàn do tuần[20], phía dưới là các Diêm Phù đàn cao hai mưoi do tuần. Vi vàng sinh ra ở dưới cây chonên cây này mới có tên là cây Diêm Phù. Tuyết Đậu tự nói rằng thầy ta cười ha hả dưới cây Diêm Phù. Thử nói xem, thầy ta cười cái gì vậy? Thầy ta cười con rồng biển đêm qua bị gẫy sừng. Tuyết Đậu chỉ biết chiêm ngưỡng mà hết lời tán thán Vân Môn. Khi Vân Môn nói, “ Một lời đúng,” thì như thế nào? Giống như thể bẻ gẫy một sừng của con rồng biển vậy. Đến chỗ này , nếu như không có việc như thế thì tại sao thầy ta lại nói như thế? Tuyết Đậu một lúc tụng tất cả, song đến cuối lại nói, “Đặc biệt thật, đặc biệt thật. Thiều Dương Lão Nhân được một sừng.” Tại sao không nói là được cả hai? Tại sao lại chỉ được một sừng? Thừ nói xem , còn một sứng kia ở đâu? |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
TẮC THỨ MƯỜI LĂM
MỘT CÂU NÓI NGƯỢC CỦA VÂN MÔN THÙY: Đao giết người,kiếm cứu người. Phong qui của người xưa, cốt yếu của đời nay. Thử nói xem, đao giết người là gì? Kiếm cứu người là gì? Thử nêu lên xem . Có ông tăng hỏi Vân Môn. CỬ: “Không phải là tâm cơ trước mắt, cũng chẳng phải là sự việc trước mắt, lúc ấy thì như thế nào?” Vân Môn nói, “ Một câunói ngược.” BÌNH: Ông tang này quả là một tay thông thạo cho nên mới biết hỏi như thế. Câu hỏi thoạt tiên có vẻ như là hỏi thêm, song thật ra là để giải bày chỗ hiểu biết của mình. Đó cũng gọi là câuhỏi có ẩn tàng mũi nhọn trong ấy. Nếu như không phải là Vân Môn, khó có ai biết phải đối xử như thế nào với ông tăng này. Song có khả năng như Vân Môn thì khi có câu hỏi đặt ra không thể không trả lời. Tại sao vậy? Vị thầy thành thạo thì giống như thể một tấm gương sáng trên giá. Nếu như có người Hồ[21] đi ngang thì có bóng người Hồ hiện trên gương , có người hán đi ngang thì có bóng người Hán hiện trên gương. Cổ nhân nói, “ Nếu như muốn hiểu thấu, đừng nên lấy câuhỏi ra mà hỏi câu hỏi. Tại sao vậy? Bởi vì câh hỏi nằm trong câu trả lời và câu trả lời nằm trong câu hỏi. Các bậc thánh đâu từng có một vật gì cho người khác đâu? Làm gì mà có Thiền với Đạo cho các ông? Nếu như các ông không tạo nghiệp địa ngục thì sẽ không phải rước lấy quả địa ngục.Nếu như không tạo nhân thiên đàng thì sẽ không đạt được quả thiên đàng. Tất cả các nghiệp duyên đều là tự làm tự chịu. Cổ nhân đã nói rõ ràng với các ông, “ Nếu luận việc này, thì không nằm ở ngôn cú. Nếu như hệ ở ngôn cú th2i tam thừa mười hai phần giáo, há không phải đều là ngôn cú cả sao? Làm gì cần phải có Tổ Sư từ Ấn Độ sang nữa?” Trong tắc trên Vân Môn nói, “ Một lời đúng.” Ở đây Vân Môn lại nói, “Một lời ngược.” Chỉ khác mỗi một chữ mà tại sao lại có thiên sai vạn biệt như thế? Thử nói xem, các rắc rối là ở chỗ nào? Cho nên mới có câu nói, “ Pháp được thực hành theo pháp[22], Pháp tràng được kiến lập tùy theo chỗ.” “Không phải là tâm cơ trước mắt cũng chẳng phải là sự vật trước mắt, lúc ấy như thế nào?” Câu ấy chỉ đáng người ta gật đầu một cái mà thôi. Nếu như là người có mtắ, chẳng thể lừa được người ấy chút nào. Bởi vì câu hỏi hơi rắc rối cho nên câu trả lời cũng phải như thế. Kỳ thực Vân Môn đang cưỡi ngựa của kẻ trộm. Có người hiểu lầm nói rằng, “ Vốn dĩ là lời của chủ, song khách lại nói mất.” Cho nên Vân Môn mói nói, “ Một lời ngược”. Song đâu có gì là đúng. Ông tăng kia hỏi rất hay, “ Không phải là tâm cơ trước mắt, cũng không phải là sự vật trước mắt,lúc ấy như thế nào?” Tại sao Vân Môn không trả lời gì khác mà chỉ nói, “ Một lời ngược.” Vân Môn trong một lúc đập tan hết ( kiến chấp của) ông ttăng kia. Tuy nhiên đến chỗ này rồi mà còn nói, “ Một lời ngược,” thì giống y như thể là khoét một vết thương trên da thịt lành. Tại sao vậy? “Một khi ngôn ngữ khởi lên là lập tức có nhiều dị kiến.” Nếu như không có ngôn ngữ, thì chiếc cột trụ này chiếc đèn giấy kia từng bao giờ có ngôn ngữ? Các ông đã hiểu chưa? Nếu đến chỗ này rồi mà vẫn chưa hiểu, các ông cần phải xoay chuyển lắm mới có thể hiểu được cái cốt yếu của vấn đề này. TỤNG: Một lời ngược, phân từng tiết. Đồng tử đồng sinh cùng quyết đoán, Tám vạn bốn ngàn phải lông phượng? Ba mươi ba người vào hang cọp, Đặc biệt thật! Bóng trăng trong dòng nước chảy xiết. BÌNH: Tuyết Đậu quả là một tay thành thạo. Dưới câu thứ nhất lại nói thêm “ phân từng tiết.” Rõ ràng buông bỏ hết để nắm tay cùng đi với Vân Môn[23]. Tuyết Đậu có khả năng buông bỏ tất cả, thầy ta dám vào bùn vào nước với các ông, dám sống dám chết với các ông. Cho nên Tuyết Đậu mới tụng như thế. Kỳ thực thầy ta chỉ muốn cởi bỏ các dính dấp, nhổ đinh bạt chốt cho các ông mà thôi. Ngày nay thiên hạ lại bị vướng vào ngân ngữ mà sinh ra kiến chấp. Như Nham Đầu nói, “ Tuy Tuyết Phong cùng sinh trong một dòng với ta, song lại không chết cùng một dòng với ta.”Nếu như Vân Môn không phải là người nhìn thấu tất cả mọi tâm cơ làm thế nào thầy ta có thể đồng sinh đồng tử với các ông được? Tại sao thầy ta có khả năng như thế? Bởi vì Vân Môn đã thoát ra khỏi tất cả các lậu pháp như được mất, thị phi rồi. Cho nên Động Sơn nói, “ Nếu như muốn phân biện được cái người tu đạo hướng thượng kia là chân hay ngụy thì có ba loại lậu pháp ( làm tiêu chuẩn): tình lậu, kiến lậu và ngữ lậu. Nếu như còn kiến lậu thì tâm cơ không rời chỗ cổ định được và người ta bị chìm vào biển độc. Nếu như còn tình lậu thì trí thức dao động và chỗ kiến giải của người ta rơi vào thiên chấp. Nếu như còn ngữ lậu thì người ta đánh mất cái căn bản của diệu thể, tâm cơ không phân biệt được thủy chung. Các ông phải tự biết lấy ba lậu pháp này. Ngoài ra cũng có ba cái huyền diệu: huyền diệu bên trong thể, huyền diệu trong câu nói , và huyền diệu trong huyền diệu. Cổ nhân đến chổ này rồi, kể như đạt được toàn cơ đại dụng. Gặp sinh đồng sinh với các ông, gặp tử đồng tử với các ông. Họ (cổ nhân) nằm trong miệng hổ, buông thõng tay chân, ngàn dặm vạn dặm tùy theo sự dẫn dắt của các ông. Tại sao vậy? Các ông phải đối lại với họ một điều này thì mới được. “Tám vạm bốn ngàn phải lông phượng?” Đó là tám vạn bốn ngàn thánh chúng trên núi Linh Thứu. “ Không phải là long phượng”: sách Nam Sử nói rằng đời nhà Lưu Tống (420-479) có Hứa Siêu-tông là người Dương Hạ thuộc Trần quận là con của Hứa Phượng vốn là người bác học, văn tài xuất chúng. Trong triều đình không có ai so sánh được với ông, người đường thời cho là nhân tài độc đáo nhất. Giỏi làm văn cho nên làm chức thượng thị ở Vương Phủ. Lúc Vương Mẫu là Ân Thục mất. Siêu-Tông làm bài văn viếng dâng lên. Vũ Đế (trị vì 454-464) đọc bài văn, tán thưởng nồng nhiệt rằng, “ Siêu-Tông quả thật có lông phượng.” Có bài thơ cổ như sau,Triều bãi khói mây đầy tay áo, thơ thành châu ngọc trong nét bút.Muốn biết lời chiếu vua hay đẹp, hiện giờ trên hồ có lông phượng.” Ngày xưa trên hội Linh sơn, tứ chúng [24] tụ họp đông đảo, đức Thế Tôn đưa cành hoa lên, chỉ độc có ngài Ca Diếp khẽ động nét mặt mĩm cười, tất cả những người khác không hiểu đó là tông chỉ gì. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “ Tám vạn bốn ngàn phải lông phượng, ba mươi ba người vào hang cọp.” A Nan hỏi Ca Diếp, “Đức Thế Tôn ngoài việc truyền lại Kim lam cà sa, có truyền riêng pháp gì nữa không?” Ca Diếp gọi, “ A Nan!” A Nan đáp lại.Ca Diếp nói, “ Gỡ cột treo phán trước cổng chùa xuống.” Sau đó sự truyền thừa từ vị tổ này cho vị tổ khác, kể cả Ấn Độ lẫn Trung Hoa gồm có ba mươi vị. Tất cả đều có khả năng vào hang cọp. Cổ nhân nói, “ không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con?” Vân Môn chính là loại người này, sẵn sàng đồng sinh đồng tử với người khác.Bậc thầy trong Thiền tông muốn giúp người khác, cần phải được như vậy. Ngồi trên ghế của bậc thầy,giúp cho các không đập vỡ được ( các kiến chấp) và dám vuốt râu cọp.Phải đạt đến mức độ này thì mới đủ khả năng làm thầy. Phải có đầy đủ bảy điều kiện nơi mình thì mới có thể đồng sinh đồng tử với người khác được. Cái gì cao thì đè xuống, những kẻ thấp thì nâng lên, những kẻ thiếu thì cho thêm. Những kẻ ở trên đỉnh cao thì cứu xuống nơi đồng hoang, còn những kẻ lạc nơi đồng hoang thì cứu lên đỉnh cao. “ Nếu như các ông vào vãc dầu lò than, ta cũng vào vạc dầu lò than.” Kỳ thực chẳng có gì cả, chỉ vì muốn gỡ những cái dính dấp, nhổ đinh bạt chốt, tháo cương gỡ yên cho các ông. Bình Điền hòa thượng có một bài tụng hết sức tuyệt: “ Linh quang không mờ, kế nay vạn cổ. Vào tông môn này, đừng nuôi kiến chấp.” Đặc biệt thật! Bóng trăng trong dòng nước chảy xiết.” Quả là có cách xuất thân, cũng như có tâm cơ để cứu người. Tuyết Đậu nêu lên, để người khác tự giác ngộ lấy sinh cơ của mình. Đừng có theo lời nói của người khác, nếu như các ông theo lời nói của người khác thì đúng là bóng trăng trong dòng nước chảy xiết. Các ông làm thế nào để đạt được bình an đây? Buông bỏ một lần đi! |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
TẮC THỨ MƯỜI SÁU
NGƯỜI TRONG CỎ CỦA KÍNH THANH THÙY: Đạo không có đường tẻ, đứng nơi đó (là đứng nơi) đơn độc và nguy hiểm. Pháp không thuộc nơi kiến văn, vượt ngoài ngôn ngữ và tư tưởng. Nếu như các ông có thể đi qua được rừng gai góc, giải được các hệ phược của Phật và Tổ, là các ông đã được nơi chốn an ổn, chỗ chư thiên không có lối để dâng hoa, ngoại đạo hết cửa để nhòm ngó. Lúc ấy suốt ngày đi mà không từng đi, suốt ngày nói mà không từng nói, tha hồ tự do tự tại mà khai triển phương tiện sử dụng sát hoạt kiếm. song dù có đạt được mức độ như vậy đi nữa các ông vẫn nên biết rằng bên trong cánh cửa phương tiện có một tay nâng lên một tay đè xuống. Tuy nhiên như thế hãy còn có chút (chấp trước). Nếu nói về sự việc căn bản, thì điều này chẳng có gì là nhằm nhò cả. Thế nào là sự việc căn bản? Xin thử nêu lên xem. CỬ: Có ông tăng hỏi Kính Thanh, “Đệ tử cắn, xin thầy mổ.” Kính Thanh nói, “ Còn sống được không?” Ông tăng nói, “ Nếu không sống được thế nào cũng bị người ta chê cười.” Kính Thanh nói, “Ông cũng là một người trong cỏ.” BÌNH: Kính Thanh thừa tự Tuyết Phong và sống đồng thời với Bổn Nhân, Huyền Sa, Túc Sơn , và Thái Nguyên Phù. Lúc đầu gặp Tuyết Phong đắc được tông chỉ, sau đó thường dùng phương tiện cắn mổ để khai thị những kẻ hậu học. Thầy ta rất khéo thuyết pháp hợp với căn cơ của người nghe. Một lần kia Kính Thanh dạy chúng rằng, “Phàm những kẻ hành cước cần phải có đôi mắt “ cắn mổ” cùng với đại dụng “cắn mổ” thì mới xứng đáng để xưng mình là nạp tăng. Giống như lúc gà mẹ cắn thì gà con không thể mổ, lúc gà con mổ thì gà mẹ không thể không cắn”. Có ông tăng bước ra hỏi, “ Lúc gà mẹ cắn gà con mổ, theo quan điểm của hòa thượng thì như thế nào?’ Kính Thanh nói, “ Tin lành thật.” Ông tăng nói, “ Lúc gà con mổ gà mẹ cắn theo quan điểm của người học thì như thế nào?” Kính Thanh nói, “Để lộ diện mục.” Cho nên mới nói là trong môn hạ của Kính Thanh có phương tiện “cắn mổ” là thế. Ông tăng này cũng là khách của họ, cho nên mới hiểu sự việc trong nhà của họ. Vì vậy ông ta mới hỏi, “Đệ tử cắn , xin thầy mổ.” Trong dòng của Động Sơn loại câu hỏi này được gọi là mượn sự để hỏi về (tâm) cơ.Tại sao lại như vậy? Lúc gà con mổ gà mẹ cắn tự nhiên là phù hợp đồng thời.Kính Thanh cũng rất hay, có thể nói là quyền cước tương ưng, tâm nhãn tương chiếu. Cho nên bèn đáp ngay rằng, “ Còn sống được không?” Ông tăng cũng hay , biết thay đổi theo tình huống. Trong một câu này của Kính Thanh có chủ có khách, có chiếu có dụng, có giết có cứu. Ông tăng nói, “Nếu không sống được thế nào cũng bị người ta cười chê.” Kính Thanh nói, “Ông cũng là một người trong cỏ.” Lúc nào cũng lội trong nước trong bùn, Kính Thanh rất khéo léo trong việc này. Ông tăng đã biết hỏi như thế, tại sao Kính Thanh lại nói, “Ông cũng là một người trong cỏ.” Bởi vì đôi mắt của một tay thành thạo thì phải như thế, giống như ánh đá lửa, điện chớp. Có với được đến hay không cũng khó mà đừng tan thân mất mạng. Nếu như các ông như thế, các ông sẽ thấy rằng Kính Thanh gọi ông tăng kia là người trong cỏ. Cho nên Nam Viện dạy chúng rằng, “ Người các nơi chỉ có đôi mắt “ cắn mổ” đồng thời chứ không có đại dụng “ cắn mổ” đồng thời. Có ông tăng bước ra hỏi, “ Thế nào là đại dụng “ cắn mổ” đồng thời?” Nam Viện nói, “ Kẻ thành thạo không cắn mổ. Cả cắn lẫn mổ đều sai.” Ông tăng nói, “Đệ tử vẫn còn có chỗ nghi.” Nam Viện nói, “ Chỗ nghi của ông là gì?” Ông tăng nói, “Sai”. Nam Viện bèn đánh. Ông tăng không đồng ý, Nam Viện bèn đuổi ông tar a. Sau ông tăng này đến nơi chúng hội của Vân Môn kể lại câu chuyện trên. Có ông tăng hỏi, “ Thế gậy của Nam Viện có bị gãy không?” Ông tăng kia bèn hoát nhiên tỉnh ngộ. Thử nói xem, ý nghĩa của câu chuyện này là ở chỗ nào? Ông tăng kia bèn trở về để ra mắt Nam Viện , song Nam Viện đã mất, cho nên bèn vào gặp Phong Huyệt. Ông ta vừa cuối lạy, Phong Huyệt nói, “Ông có phải là ông tăng hỏi tiên sư về việc cắn mổ đồng thời không?” Ông tăng nói, “ Vâng”. Phong Nguyệt nói, “ Lúc ấy ông hiểu như thế nào?” Ông tăng nói, “ Lúc ấy kẻ hèn này giống như thể đi dưới bóng đèn.” Phong Huyệt bèn nói với ông tăng, “Ông hiểu rồi.” Thử nói xem như vầy là thế nào? Ông tăng kia chỉ đến mà nói rằng, “ Lúc ấy kẻ hèn này giống như thể đi dưới bóng đèn.” Tại sao Phong Huyệt lại nói với ông ta rằng, “Ông hiểu rồi”? Sau này Thúy Nham niệm rằng, “ Mặc dù Nam Viện bày vẽ kế hoạch trong trại của mình, song đất rộng người thưa, kẻ tri âm ít.” Thúy Nham bình rằng, “ Lúc ấy nếu như ông ta vừa mở miệng Nam Viện lập tức đánh, xem ông ta như thế nào?” Nếu như các ông thấy được công án này thì các ông sẽ thấy được chỗ ông tăng kia và Kiến Thanh gặp nhau. Làm thế nào để tránh khỏi bị Kính Thanh gọi là người trong cỏ? Cho nên Tuyết Đậu vì thích Kính Thanh nói “ người trong cỏ” mới tụng. TỤNG: Cổ Phật có gia phong, Đối đáp bị dè bỉu. Mẹ con không biết nhau, Hỏi ai cùng cắn mổ? Cắn, tỉnh, Còn trong vỏ. Bị đánh thêm, Thiên hạ nạp tăng mõ vô ích. BÌNH: “Cổ Phật có gia phong”, chỉ một câu đó thôi Tuyết Đậu đã tụng hết “công án” này rồi. Những kẻ thò mặt ra chẳng thể nào đến gần được. Nếu như đến gần được thì sẽ bị rơi từ đỉnhcao vạn trượng. Ngay khi các ông vừa thò đầu ra , là các ông đã rơi vào cỏ. Dù cho các ông có tung hoành được đinữa, cũng chẳng đáng để ra sức. Tuyết Đậu nói, “ Cổ Phật có gia phong.” Không phải bây giờ mới như thế.Lúc đức Thích Ca mới sinh ra, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, mắt nhìn bốn phương nói, “ Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.” Vân Môn nói, “ Nếu như lúc đó ta mà thấy ông ta, ta sẽ đập cho một gậy chết tốt rồi ném cho chó ăn, để mong cho thiên hạ được thái bình.” Chỉ như vậy người ta mới trả lời thích đáng được. Cho nên các phương tiện cắn mổ đều là gia phong của cổ Phật. Nếu như các ông đạt được đạo này, các ông có thể một quyền đấm đổ Hoàng Hạc Lâu,một cước đá loạn Anh Vũ Châu[25].Giống như thể một khối lửa, ai đến gần sẽ bị cháy mặt. Giống như Thái A Kiếm, ai đùa rỡn với nó sẽ tang thân mất mạng. Việc này chỉ có những ai đã thấu thoát, đã được giải thoát mới có thể như thế được. Còn nếu như mê mờ căn nguồn vướng mắc ngôn ngữ thì không cách chi mà nắm bắt được cách nói chuyện này. “Đối đáp bị dè bỉu.” Đây chính là một chủ một khách một vấn một đáp. Ngay trong vấn đáp đã có dè bỉu. Đó gọi là “đối đáp bị dè bỉu”. Tuyết Đậu thâm hiểu việc này, cho nên chỉ tụng tất cả trong hai câu. Cuối cùng Tuyết Đậu đi vào bãi cỏ để giải thích thấu triệt cho các ông. “ Mẹ con không biết nhau, hỏi ai cũng cắn mổ?’ Tuy gà mẹ cắn, song cũng không thể khiến gà con mổ ra. Tuy gà con mổ ra, song cũng không thể khiến gà mẹ cắn. Gà mẹ gà con không biết nhau, vào lúc cắn mổ, ai đồng thời cắn mổ? Nếu hiểu như vậy cũng chưa thể thoát ra khỏi câu cuối cùng của Tuyết Đậu được. tại sao? Há không nghe Hương Nghiêm nói, “ Con được. Tại sao? Há không nghe Hương NGhiêm nói, “ Con mổ mẹ cắn, con tỉnh không vỡ. Mẹ con đều quên, ứng duyên không sai. Cùng đường xướng họa, huyền diệu độc hành.” Tuyết Đậu đúng là lạc vào bãi cỏ gây rắc rối nói rằng, “ Cắn” .Một chữ này tụng câu trả lời của Kính Thanh rằng, “ còn sống được không?” “Tỉnh” là để tụng câu trả lời của ông tăng rằng, “ Nếu không sống được thế nào cũng bị người ta chê cười.” Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Còn trong vỏ”? Tuyết Đậu phân biệt được trắng đen trong ánh đá lửa, biện rõ được đầu mối của sự vật với tâm cơ như điện chớp. Kính Thanh nói, “Ông cũng là người trong cỏ” Tuyết Đậu nói, “ Bị đánh thêm.” Chỗ này có hơi khó Kính Thanh nói, “Ông cũng là người trong cỏ”. Có thể bảo là Kính Thanh móc mắt ông tăng kia đi được chăng? Câu này phải chăng nói rằng ông ta vẫn còn trong vỏ? Nhưng mà những điều này chẳng có gì là đúng cả. Tại sao lại thế? Nếu như hiểu được, người ta có thể đi hành cước khắp nơi mà vẫn báo ơn (cho thầy) được.Lúc sư núi tôi nói như thế, thì cũng hóa ra người trong cỏ rồi. “Thiên hạ nạp tăng mồ vô ích.” Ai là kẻ không đặt tên và mô tả? Đến chỗ này Tuyết Đậu không đặt tên hay mô tả được, song lại làm lụy người khác, các nạp tăng trong thiên hạ. Thử nói xem, đâu là chỗ Kính Thanh vì ông tăng kia? Các nạp tăng trong thiên hạ không ai nhảy ra khỏi được cả. |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
TẮC THỨ MƯỜI BẢY
HƯƠNG LÂM NGỒI LÂU THÙY: Chặt đinh cắt sắt, mới có thể là tông sư của bổn môn. Né tên sợ đao, sao có thể là tay thông thạo?Tạm không nói đến chỗ mà mũi kim xuyên không lọt.Thử nói xem lúc sóng rắng cuốn tận trời thì như thế nào? Thử nêu lên xem. CỬ:Có ông tăng hỏi Hương Lâm, “ Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây thiên qua?” Hương Lâm nói, “Ngồi lâu thấm mệt.” BÌNH: Hương Lâm nói, “ Ngồi lâu thấm mệt.” Hiểu không? Nếu hiểu được thì trên trăm ngọn cỏ bãi can qua. Nếu không hiểu thì hãy lắng nghe phân xử. Cổ nhân hành cước, chọn bạn làm đồng hành, thường phác có mà ngóng gió. Lúc Vân Môn hoàng đạo ở Quảng Nam,thì Hương Lâm mới rời đất Thục. Thầy ta là người đồng thời với Nga Hồ vá Kính Thanh. Thoạt tiên đến tham Thiền ở Chùa Báo Từ, Hồ Nam; sau mới đến chúng hội của Vân Môn, làm thị giả cho Vân Môn suốt mười tám năm. Ở nơi của Vân Môn,Hương Lâm tự đắc tự nghe. Thầy ta tuy ngộ trễ, song quả là bậc đại căn khí. Đứng hầu Vân Môn suốt mười tám năm, Vân Môn đã nói, “ Cái gì đây?” Lúc ấy Hương lâm trình kiến giải của mình lên không biết bao nhiêu lần, song rốt cuộc vẫn không khế hợp với ý chỉ của Vân Môn. Một hôm hốt nhiên nói,” Đệ tử hiểu rồi!” Vân Môn nói, “ Tại sao không nói một cái gì siêu việt hơn?” Hương Lâm lại ở thêm ba năm nữa. Những điều Vân Môn giảng về đại cơ, phần lớn là đều vì Hương Lâm. Viễn thị giả ghi lại cả. Sau đó Hương Lâm trở về Thục.Lúc đầu ở Thủy Tinh Cung Tự ở Đạo Giang, sau mới về chùa Hương Lâm ở Thanh Thành. Trí Môn Tộ hòa thượng vốn người Chiết Giang, nghe nhiều về việc hóa đạo của Hương Lâm, mới đặc biệt đến Thục để ra mắt. Tộ là thầy của Tuyết Đậu. Vân Môn tuy rằng dạy vô số đệ tử, song lúc ấy luận về đạo hạnh thì phái của Hương Lâm là thịnh nhất. Sau này trở về Thục ở trong các tự viện suốt bốn mươi năm, đến tám mươi tuổi mới mất. Lúc bình sinh thường nói, “ Ta mãi đến năm bốn mươi tuổi mới thân tâm thuần nhất.” Hương Lâm hay dạy chúng rằng, “ Phàm lúc đi hành cước để tìm kiếm thiện tri thức, cần phải đem theo mắt để mà phân đen trắng, thấy nông sâu thì mới được. Trước tiên hết phải lập chí, giống như đức Thích Ca Mâu Ni lúc hãy còn ở nhân địa. Bất cứ một lời nói thốt ra hay một ý niệm khởi lên đều là để lập chí.” Sau đó có ông tăng hỏi, “ Thế nào là một ngọn đèn trong phòng?” Hương Lâm nói, “ Nếu như có ba người khăng khăng rằng nó là con rùa thì nó là con rùa.” Ông tăng lại hỏi, “ Thế nào là việc dưới áo nạp?” Hương Lâm nói, “ Lửa tháng chạp thiêu núi.” Xưa nay có rất nhiều câu trả lời cho câu hỏi “ thế nào là ý nghĩa của Tổ Sư từ Tây Thiên qua?”Song chỉ có Hương Lâm ở đây là làm líu hết lưỡi thiên hạ. Không còn chỗ để cho các ông so đo lý luận. Ông tăng hỏi, “ Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây thiên qua? Hương Lâm nói, “ Ngồi lâu thấm mệt.” Có thể nói đây là lời vô vị, câu vô vị, chuyện vô vị, làm nghẹn miệng người ta khiến người ta không có chỗ mà thở. Nếu như thấy được là thấy được ngay, còn nếu không kỵ nhất là sinh kiến chấp. Hương Lâm từng gặp các tay thành thạo đến hỏi, cho nên mới có kỹ thuật của Vân Môn cũng như thể điệu của “ba câu”. Người ta hay hiểu lầm nói rằng, “ Tổ sư từ Tây Thiên qua, chín năm ngồi ( Thiền) quay mặt vào vách. Phải chăng đó là ngồi lâu thấm mệt?” Nói vậy đâu có căn cứ gì đâu? Không thấy được rằng cổ nhân đa71c đại tự tại, chân dẫm lên đất thật, chẳng có nhiều tri kiến gì về Phật Pháp cả, chỉ tùy thời ứng dụng mà thôi. Câu nói rằng, “ Pháp tùy pháp hành, Pháp tràng tùy chỗ mà kiến lập.” Tuyết Đậu nhân gió mà thổi thêm lửa vào tụng của thầy ta. TỤNG: Một người hai người ngàn vạn người, Tháo hết giây cương cởi hết yên. Xoay trái xoay phải theo sau đến, Tử Hồ muốn đánh Lưu Thiết Ma. BÌNH: Tuyết Đậu trực tiếp như đá lửa như điện chớp, đẩy cả ra cho các ông thấy, song các ông chỉ có thể thấy được nếu như vừa nghe nêu lên đã hiểu ngay. Thầy ta quả là giòng dõi trong nhà Hương Lâm, cho nên mới có thể nói như thế được. Nếu như các ông có thể hiểu ngay như thế, quả là kỳ đặc hết sức. “ Một cái hai cái ngàn vạn cái, tháo hết giây cương gỡ hết yên.” Thanh thoát tự tại không bị sinh tử nhiễm, không bị trói buộc bởi sự phân biệt vì kiến chấp phàm thánh. Trên không có gì để ngưỡng vọng, dưới cắt đứt ngã chấp. Giống như thể Hương Lâm và Tuyết Đậu,làm sao lại chỉ có ngàn vạn người? đnúg ra tì tất cả mọi người trong trời đất này đều như thế cả. Phật trước Phật sau cũng đều như thế. Nếu như các ông định tìm chổ hiểu trong ngôn ngữ thì cũng giống như “ Tử Hồ muốn đánh Lưu Thiết Ma.” Kỳ thực, ngay khi các ông vừa đáp lại như thế là Tuyết Đậu đã đánh rồi. Tử Hồ tham học với Nam Tuyền, là người đồng thời với Triệu Châu và Đại Trùng Sâm. Lúc ấy Lưu Thiết Ma dựng thảo am dưới chân núi Qui Sơn. Người các nơi chẳng ai làm gì được. Một hôm Tử Hồ dương dương tự đắc đến hỏi, “ Phải Lưu Thiết Ma đó chăng?” Lưu Thiết Ma nói, “ Không dám.” Tử Hồ nói, “ Xoay về bên phải hay xoay về bên trái?” Lưu Thiết Ma nói, “ Hòa thượng chớ có điên đảo.” Chưa trả lời dứt Tử Hồ đã đánh. Ông tăng kia hỏi, “ Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua?” Hương Lâm đáp, “ Ngồi lâu thấm mệt.” Nếu các ông hiểu được như thế là các ông “ Xoay phải trái theo sau đến.” Thử nói xem, Tuyết Đậu tụng như vậy có nghĩa là gì? |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
ẮC THỨ MƯỜI TÁM
TÚC TÔNG THỈNH PHÁP CỬ: Túc Tông Hoàng Đế hỏi Huệ Trung quốc Sư, “ Trăm năm sau cần có vật gì?” Quốc Sư nói, “ Xin bệ hạ xây cho tôi một ngôi tháp không đường vá.” Túc Tông nói, “ Xin thầy cho tôi biết tháp ấy giống như thế nào?” Quốc Sư im lặng hồi lâu hỏi, “ Bệ hạ hiểu không?” Túc Tông nói, “ Không hiểu.” Quốc Sư nói, “ Tôi có người đệ tử truyền Pháp là Trầm Nguyên rất hiểu việcnày, xin Bệ Hạ vời người ấy vào mà hỏi.” Sau khi Quốc Sư mất, Túc Tông vời Trầm Nguyên vào hỏi ý nghĩa của việc trên. Trầm Nguyên nói, “ Phía nam Tương, phía bắc Đàm.” Tuyết Đậu bình rằng, “ Tiếng một bàn tay không kêu lớn.” Ở giữa có vàng cho cả nước. Tuyết Đậu bình rằng, “ Cây trượng cổ quái.” Dưới cây không bóng từng đoàn thuyền. Tuyết Đậu bình rằng “ Biển yên sông trong.” Trong đền lưu ly không tri thức. Tuyết Đậu bình rằng,” Nêu lên rồi.” BÌNH: Túc Tông và Đại Tông đều là dòng dọi của Huyền Tông. Lúc còn là thái tử đều rất thích tham Thiền. Vì trong nước có giặc lớn,[26] Huyền Tông phải trốn qua Thục. Nhà Đường vốn đóng đô ở Trường An, sau vì bị An Lộc Sơn chiếm cứ, cho nên phải thiên đô về Lạc Dương. Lúc Túc Tông lên nắm quyền, Huệ Trung Quốc Sư đangở trong một ngôi am trên Bạch Nhai Sơn ở Đặng Châu. Nay là Hương Nghiêm Đạo Tràng. Mặc dù suốt bốn mươi năm trời Huệ Trung không bao giờ hạ sơn, song đạo hạnh của sư cũng vang dội đến cung vua. Năm Thương Nguyên thứ hai (761) Túc Tông sai sứ mời Huệ Trung nhập nội. Túc Tông đối với Sư đầy đủ nghi lễ như đối với bậc thầy và kính trọng Sư vô cùng, Huệ Trung thường giảng về đao tối thượng cho Túc Tông. Mỗi khi Sư rời triều, Túc Tông đích thân xin xe mà đưa tiễn. Các quan trong triều đều lấy làm bực và muốn tâu điều ấy lên Túc Tông. Huệ Trung có tha tâm thông [27]cho nên vào gặp Túc Tông trước và nói rằng, “ Tôi trước mắt Thiên Đế Thích, thấy thiên tử nhiều như gạo vãi, như ánh điện chớp.” Túc Tông lại còn sinh lòng kính trọng thêm nữa. Lúc Đại Tông lên nối ngôi (762) lại mời Huệ Trung về Quang Trạch tự ở suốt mười sáu năm, tùy cơ thuyết Pháp, cho đến năm Đại Lịch thừ mười (776) thì mất. Sơn Nam Phủ Thanh Thố Sơn Hòa Thượng hồi xưa vốn là bạn đồng hành của Quốc Sư. Huệ Trung Quốc Sư thường tâu với vua vời Thanh Thố vào triều. Vua xuống chiếu mời ba lần Thanh Thố đều không vào. Thường mắng Huệ Trung làm Quốc Sư dưới hai triều vua. Hai cha con vua cùng tham Thiền với nhau. Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục thì câu hỏi trên là do Đại Tông hỏi. Câu hỏi “ Thập thân điều ngự là gì?” Mới là câu hỏi của Túc Tông hỏi Huệ Trung. Lúc Huệ Trung sắp nhập niết bàn mới từ biệt Đại Tông. Đại Tông hỏi, “ Một trăm năm sau. Quốc Sư cần gì?” Cũng chỉ là một câu hỏi thông thường mà thôi. Lão hán này lại gió lặng gây sóng nói, “ Xin xây một ngôi tháp không đường vá cho lão tăng.” Thử nói xem, giữa thanh thiên bạch nhật làm như vậy để làm gì? Xây một ngôi tháp là đủ rồi, cớ sao lại phải nói là một ngôi tháp không đường vá? Đại Tông quả nhiên cũng là một tay thành thạo cho nên mới hỏi dồn, “ Xin thầy cho biết tháp giống như thế nào?” Huệ Trung im lặng hồi lâu mới nói, “ Bệ hạ không hiểu?” Điều kỳ quái là điều này rất khó mà hiểu thấu. Đại Quốc Sư mà bị nhà vua dồn như thế này cũng chỉ biết méo mặt. Tuy là như thế song ngoài lão hán này ra bất cứ ai khác hẳn cũng đã xính vính rồi. Rất nhiều người nói rằng chỗ im lặng của Huệ Trung chính là hình dáng của tháp. Hiểu như vậy, thì cả tông phái của Đạt Ma kể như tiêu tan hết. Nếu nói rằng im lặng là then chốt của vấn đề thì hẳn là những kẻ câm cũng hiểu Thiền. Há không nghe có ngoại đạo hỏi Phật, “ Không hỏi về hữu ngôn không hỏi về vô ngôn.” Đức Thế Tôn im lặng, ngoại đạo cúi lạy tán thán, “ Thế Tôn đại từ đại bi làm tan hết mây mờ khiến tôi thấy được đường vào đạo.” Sau khi ngoại đạo đi rồi, A Nan hỏi Phật, “ Kẻ ngoại đạo kia chứng được gì mà bảo rằng thấy được chổ vào?” Đức Thế Tôn nói, “ Giống như ngựa tốt trên thế gian chỉ cần thấy bóng roi là chạy rồi.” Người ta thường tìm hiểu cái im lặng này, song đâu có gì để bám víu. Ngũ Tổ nêu lên rằng, “ Trước mặt là trân châu mã nảo, sau lưng là mã não trân châu. Phía đông là Quan Âm Thế Chí, phía tây là Văn Thù Phổ Hiền. Ở giữa là một lá phướn bị gió thổi kêu phành phạch.” Huệ Trung hỏi, “ Bệ hạ hiểu không?” Túc Tông nói, “ Không hiểu,” song vẫn còn được một chút. Thử nói xem cái “ không hiểu” này với cái “ không biết” của (Lương) Vũ Đế ( tắc thứ nhất) là một hay khác? Giống thì có giống song chưa phải là một. Huệ Trung nói, “ Tôi có người đệ tử truyền Pháp là Trầm Nguyên rất hiểu việc này, xin bệ hạ vời người ấy vào mà hỏi.” Tuyết Đậu nêu lên rằng, “ Tiếng một bàn tay không kêu lớn.” Chuyện Đại Tông không hiểu, tạm gác qua một bên, Trầm Nguyên có hiểu chăng? Chỉ cần nói,” Xin thầy cho biết tháp ấy giống như thế nào?” Cả trời đất này chẳng ai làm gì được cả. Ngũ Tổ bình rằng, “ Thầy là bậc thầy của cả nước, cớ làm sao không nói mà lại đùn cho đệ tử?” Sau khi Huệ Trung mất, Túc Tông vời Trầm Nguyên vào hỏi ý nghĩa của việc rắc rối mà Huệ Trung đã đề ra. Trầm Nguyên đương nhiên là hiểu lời Huệ Trung đã nói, cho nên chỉ cần một bài tụng, “ Phía nam Tương phía bắc Đàm, ở giữa có vàng cho cả nước. Dưới cây không bóng từng đoàn thuyền, trong đến lưu ly không tri thức.” Trầm Nguyên tên là Ưng Chân, là thị già của Huệ Trung Quốc Sư. Sau mới về ở Trầm Nguyên tự ở Cát Châu. Lúc ấy Ngưỡng Sơn đến tham kiến Trầm Nguyên. Trầm Nguyên nói nặng, tính dữ không thể đụng chạm được. Không ở đó được, Ngưỡng Sơn bèn đến tham vấn Tính Không Thiền Sư. Có ông tăng hỏi Tính Không, “ Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua?” Tính Không nói, “ Giống như một người ở dưới giếng sâu ngàn thước, nếu như ông có thể cứu người ấy lên mà không cần dùng đến một tấc giây, lúc ấy ta sẽ nói cho ông biết thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua.” Ông tăng nói, “ Gần đây Sương hòa thượng ở Hồ Nam cũng nói đông nói tây như thế với thiên hạ.” Tính Không bèn gọi Ngưỡng Sơn, “ Sa si, lôi cái tử thi này ra khỏi đây ngay!” Sau đó Ngưỡng Sơn thuật lại chuyện kia và hỏi Trầm Nguyên, “ Làm thế nào để cứu người dưới giếng lên được?” Trầm Nguyên quát, “Đồ ngốc, làm gì có ai dưới giếng!” Ngưỡng Sơn vẫn không hiểu ý chỉ. Sau này Ngưỡng Sơn hỏi Qui Sơn. Qui Sơn bèn gọi, “ Huệ Tịch!” Ngưỡng Sơn nói, “Dạ” Qui Sơn nói, “ Gã ra mất rồi!” Ngưỡng Sơn do đó đâi ngộ, nói rằng, “ Tôi ở nơi Trầm Nguyên đạt được thể, ở nơi Qui Sơn đạt được dụng.” Chỉ một bài tụng của Trầm Nguyên cũng đã khiến rất nhiều người hiểu lầm. Người ta thường hiểu lầm nói rằng, “ Tương là tương kiến, đàm là đàm luận. Ở giữa có một ngôi tháp không đường vá cho nên bài tụng mới nói,” Ở giữa có vàng cho cả nước.” Đối đáp giữa Túc Tông và Huệ Trung chính là “dưới cây không bóng từng đoàn thuyền”. Túc Tông không hiểu cho nên bài tụng mới nói. “ Trong đến lưu ly không tri thức.” Lại có người nói, “Tương là phía nam của Trương Châu, Đàm là phía bắc của Đàm Châu. “Ở giữa có vàng cho cả nước.” Chỉ còn biết chớp mắt nhìn quanh nói, “Đây chính là ngôi tháp không đường vá.” Nếu hiểu như thế là vẫn chưa vượt ra ngoài được kiến chấp. Còn như bốn lời then chốt của Tuyết Đậu thì phải hiểu như thế nào? Người bây giờ chẳng hiểu được ý cổ nhân. Thử nói xem, “ Phía nam Tương, phía bắc Đàm,” ông hiểu như thế nào? “ Dưới cây không bóng từng đoàn thuyền”phải hiểu như thế nào? Nếu như hiểu được thì quả thật cả đời khoan khoái. “ Phía nam Tương, phía bắc Đàm.” Tuyết Đậu nói, “ Tiếng một bàn tay không kêu lớn.” Bất đắc dĩ nói cho các ông, “Ở giữa có vàng cho cả nước,” Tuyết Đậu nói, “ Cây trượng cổ quái.” Cổ nhân nói, “ Nếu biết được cây trượng việc tham học cả đời kể như xong xuôi.” Dưới cây không bóng từng đoàn thuyền.” Tuyết Đậu nói, “ Biển yên sông trong.” Một lúc mở toang cửa ngõ, tám phía lung linh. “ Trong đến lưu ly không tri thức”. Tuyết Đậu nói, “ Nêu lên rồi,” Một lúc nói rõ tất cả cho các ông. Quả là khó thấy. Song thấy được thì cũng hay, có điều vẫn còn có vài chỗ hiểu lầm, vì hiểu theo ngôn ngữ. Mãi cuối cùng Tuyết Đậu nói, “ Nêu lên rồi,” mới còn có gì đó. Tuyết Đậu rõ ràng một lúc tụng rõ cả, rốt cuộc chỉ là tụng ngôi tháp không đường vá kia mà thôi. TỤNG: Tháp không vá, Còn khó thấy. Hồ trong không để rồng cuộn khúc, Hàng lớp lớp, Bóng chập chùng, Thiên cổ vạn cổ cho người xem. BÌNH: Tuyết Đậu mở đầu nói, “ Tháp không vá, còn khó thấy.” Tuy đứng một mình không có gì che dấu, song muốn thấy nó lại vẫn khó như thường. Tuyết Đậu từ bi cùng tột, cho nên lại nói với các ông rằng, “ Hồ trong không để rồng cuộn khúc.” Ngũ Tổ nói, “Cả một tập tụng cổ của Tuyết Đậu, ta chỉ thích mỗi câu “ hồ trong không để rồng cuộn khúc”. Song vẫn còn có một cái gì đó. Có nhiều người lăng nhăng mãi với cái chỗ im lặng của Huệ Trung Quốc Sư, nếu như các ông hiểu như thế, là các ông sai ngay lập tức. Há không nghe nói, “ Ngọa long không thấy trong nước đọng, chỗ không có nó thì ánh trăng và nước lăn tăn, chỗ có nó thì không có gió sóng vẫn nỗi.” Lại có câu nói, “ Ngọa long thường sợ hồ xanh biếc.” Còn như lão hán này, dù cho sóng lớn gập ghềnh, cuốn cao tận trời, cũng chẳng hề cuộn khúc ở đó. Đến đó là bài tụng của Tuyết Đậu chấm dứt. Sau đó để mắt thêm đôi chút mà xây ngôi tháp không đường vá. Rồi lại nói tiếp, “ Hàng lớp lớp, bóng châp chùng. Thiên cổ vạn cổ cho người xem.” Các ông xem như thế nào? Hiện giờ nó ở đâu rồi? Dù cho các ông có thấy nó rõ ràng đi nữa cũng đừng nhận lầm là điểm giữa cán cân. |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 11 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |