Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 200 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 21/Mar/2025 lúc 8:48am


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 21/Mar/2025 lúc 8:50am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 22/Mar/2025 lúc 8:32am

Cam Chua Chanh Ngọt


Tôi bước xuống phi trường Orlando vào một buổi sáng trời xanh và trong vắt. Nắng vàng như màu hổ phách và ấm như một tấm chăn nhẹ quấn lấy toàn thân. Trong hương gió nghe như thoang thoảng mùi biển mặn. Florida, vùng đất cực Đông-Nam của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, tiểu bang của mặt trời và bãi biển đã chiếm cảm tình của tôi ngay từ phút ban đầu.

Tại Florida, tôi có những người bạn thật hiền và dễ thương. Có những người bạn, chúng tôi đã gặp gỡ nhau trên con đường hướng về lý tưởng. Có những người bạn, chỉ biết nhau qua thư từ và điện thoại, chưa hề biết mặt, nhưng dường như đã thân quen tự thuở nào. Có những người bạn đang sống cuộc đời tận hiến với con đường phục vụ trải dài phía trước. Có những người bạn đang len lỏi trong các cảnh đời, sống cuộc sống chứng nhân cho Tình Yêu và Chân Lý. Cảnh và người Florida như có một cái gì cuốn hút khiến tôi náo nức, hân hoan tìm gặp.

Gặp các bạn, tôi thấy trái tim reo vui. Có một cái gì ấm áp; không phải là cái ấm áp của nắng, nhưng là cái ấm áp của tình người. Có một cái gì tươi tắn; không phải là cái tươi tắn của một ngày trời xanh gió nhẹ, nhưng là cái tươi tắn của hoa nhân ái đang nở trong nụ cười và ánh mắt.

Trên đường về nơi cư ngụ, chúng tôi ghé vào một trại ươm cây, Bạn tôi làm việc trong trại ươm cây đó. Người ta bảo cây cỏ vốn hiền, ai chơi với cây cỏ tính cũng hiền. Đối với tôi điều này quá đúng, ít nhất là trong trường hợp của bạn tôi. Bạn thật hiền và thật tốt, ít nói và thường lấy nụ cười làm câu trả lời. Trong cái vẻ hồn hậu, hiền lành của bạn, hình như có chứa một tấm lòng quảng đại, bao dung.

Trại ươm cây bạn tôi làm việc là một trại thí nghiệm các giống cây cam, chanh, quýt, bưởi… Một khu vườn bát ngát với không gian ướp đẫm hương hoa. Tôi như chìm ngập trong niềm vui và kỷ niệm. Ngày xưa còn bé, tôi đã thích hương hoa bưởi, cái mùi hoa mộc mạc và tinh khiết. Trong đêm, hoa bưởi tỏa hương thơm ngát, khiến một thi nhân tiền chiến đã ước định giờ giấc, không phải bằng đồng hồ, không phải bằng ánh mặt trời, cũng không phải bằng tiếng gà gáy hay bằng nhịp sinh hoạt của con người, mà bằng hương hoa bưởi: “Hoa bưởi thơm rồi, đêm đã khuya.” Hoa bưởi còn làm tôi nhớ tới những ly thạch trắng ăn trong một buổi trưa hè. Ăn vào, như ăn cả sự mềm mại, ngọt ngào, tươi mát, thơm tho của cuộc đời. Rồi còn hoa chanh, hoa cam nữa. Đều là những hương hoa dễ thương của kỷ niệm. Nhớ một ngày xa xưa, đặt chân đến vùng đất cao nguyên Ban Mê, tôi đã lên đồi cam của một người bạn. Thật đúng là trái vàng hoa bạc, và cái hương hoa làm cho người ta ngây ngất, đến độ tôi có ước muốn ngông cuồng và rồ dại là được nằm chết êm đềm giữa một vườn cam.


Tôi không thể tin nổi tai mình khi nghe bạn cho biết trong vườn ươm cây này có trên 450 loại chanh, cam, quýt, bưởi khác nhau. Để chứng minh điều đó, bạn dẫn chúng tôi đi thăm vườn. Thật lạ lùng và kỳ diệu! Nhiều loại trái cây tôi chưa từng biết đến bao giờ, đang có mặt trong vườn cây này. Nó vẫn có đó, vẫn hiện diện trên mặt đất, nhưng tầm nhìn hạn hẹp của tôi khiến tôi chưa biết chúng. Cơ man là bưởi! Thứ nhỏ nhất trái chỉ nặng chừng một phần tư pound, còn thứ to nhất thì… không thể tưởng tượng được! Tôi muốn thay bạn tôi để giới thiệu với bạn một vài chi tiết lạ lùng: có những thứ quýt, trái nặng chừng 5 pounds, to hơn bưởi nhiều. Bưởi thì đủ loại to, nhỏ khác nhau. Có thứ bưởi ruột màu đào, có thứ vàng ươm, có thứ trắng trong. Bưởi Biên Hoà cũng có mặt. Chanh thì có thứ trái nhỏ xíu và dài như một trái ớt, được gọi ngay là chanh ớt. Có thứ chanh quả nặng chừng… 9 pounds. Có thứ chanh ăn ngọt lịm như đường. Cam cũng thế, cam đường ăn thơm và ngọt, nhưng cũng có thứ cam chua lè, chua hơn chanh nhiều. Có thứ cam vỏ lấm láp bẩn thỉu như mới nhúng bùn, nhưng bóc ra, múi vàng ươm, ăn vào thơm, ngọt vô cùng! Có thứ cam vỏ vàng nhạt mà cắt ra ruột đỏ tươi như máu! Có thứ cam trái nhỏ hơn quả trứng gà, mà cũng có thứ cam trái lớn dị thường như một trái bưởi!

Tôi muốn giá mà có mẹ tôi ở đây bây giờ. Bà cụ rất thích cây cối và trồng trọt. Tôi đã được nghe không biết đến mấy trăm lần mẹ nói về “vườn cam nhà mình” hồi còn ở nhà quê, với mấy trăm gốc cam đường. Nếu mẹ tôi ở đây, tôi sẽ khệ nệ bưng đến trước mặt mẹ quả quýt nặng 5 pounds, quả chanh nặng 9 pounds mà trịnh trọng thưa rằng: “Thưa mẹ, đây là quả chanh, quả quýt.” Tôi sẽ bóc cho mẹ một múi chanh ngọt và một múi cam chua, rồi tinh nghịch đố mẹ xem thứ nào là cam, thứ nào là chanh.

Đêm hôm đó, tôi không ngủ được. Trong đầu tôi lộn xộn đầy những thứ chanh, cam, bưởi, quýt, và cũng lộn xộn đầy những ý tưởng lạ kỳ. À, thế ra không phải chanh nào cũng chua, như kiểu người ta nói “ớt nào là ớt chẳng cay…, chanh nào là chanh chẳng chua.” Thế ra không phải quýt bắt buộc phải bé hơn bưởi. Hoá ra cũng không phải cứ trái nào vỏ đẹp thì ruột mới ngon. Cái vườn ươm cây của bạn tôi làm cho mọi sự đảo lộn hết.

Những quả cam, quả chanh, quả quýt, quả bưởi trong vườn ươm cây của bạn tôi dạy cho tôi một bài học lớn về những định kiến. Cam thì phải ngọt. Chanh thì phải chua. Quýt thì phải bé hơn bưởi. Những định kiến ấy cũng chẳng khác gì những định kiến về con người và sinh hoạt của xã hội loài người. Tôi vẫn thường có định kiến rằng người này ngu dốt, người kia xảo quyệt không chơi được, người nọ nói cái gì cũng đáng tin không cần suy nghĩ, Tôi vẫn đánh giá rằng tổ chức này bê bối không nên tham gia, cô ca sĩ kia giọng không nghe được, đoàn thể nọ tổ chức cái gì thì cũng thất bại. Và những cái đánh giá đó ăn nếp trong trí óc tôi, trở thành một định kiến, không còn thay đổi được nữa. Khi đã có định kiến như vậy, hình như tôi không cho người ta cơ hội để thay đổi, để tốt hơn, để thăng tiến. Tôi để cho người ta nằm chết gí trong cái nếp đánh giá của mình.

Thế nhưng ngày hôm nay, chính mắt tôi nhìn thấy trái quýt to hơn trái bưởi. Chính lưỡi tôi nếm vị ngọt ngào của một trái chanh. Trong tôi có một cái gì đổ vỡ. Thường những cái đổ vỡ đem đến cho người ta cảm giác đau thương, mất mát. Nhưng đêm hôm ấy, cái đổ vỡ trong tôi làm tôi hân hoan vui sướng và cảm thấy lòng thanh thản nhẹ nhàng. Cái đổ vỡ của định kiến. Tôi biết rằng tôi vừa được giải thoát. Định kiến làm cho trí tôi nhỏ lại và lòng tôi trở nên hẹp hòi, chai cứng. Định kiến làm tôi mất đi cái bỡ ngỡ, thích thú, vui mừng trước sự đổi mới và vươn lên của một con người, trước sự cải thiện và thăng tiến của một tổ chức. Định kiến khiến tôi không biết nói lên một lời khích lệ, không biết làm một cử chỉ nâng đỡ, không biết thứ tha cho một lỗi lầm, không biết góp phần vào việc cải tiến và làm hữu hiệu hóa một tổ chức. Định kiến làm cho tôi khe khắt và thiếu bao dung. Cho đến bây giờ, tôi đoán ra được nét quảng đại, bao dung của bạn tôi từ đâu mà có. Dĩ nhiên, đó là bản chất của bạn tôi, nhưng chắc chắn nó cũng được tăng thêm nhờ bạn tôi hằng ngày tiếp xúc với những cây chanh, cây cam, cây quýt, cây bưởi, trong vườn ươm cây của bạn.

Đêm đen mà tôi như nhìn thấy ánh sáng. Và khí trời lạnh mà tôi thấy lòng ấm áp lạ lùng. Ánh sáng của sự tỉnh thức và sự ấm áp của tình yêu. Phải, tôi biết mình đang được Thiên Chúa yêu thương. Nếu Ngài không yêu thương tôi, chắc Ngài đã có định kiến về tôi từ lâu rồi. Biết bao lần tôi hứa với Ngài điều nọ điều kia rồi không làm. Vậy mà Thiên Chúa không có định kiến rằng tôi là kẻ bất trung. Biết bao lần tôi chối bỏ tình Ngài. Vậy mà Thiên Chúa không có định kiến rằng tôi là kẻ phản bội. Biết bao lần tôi cãi lại ý Ngài để rồi chịu đau khổ. Vậy mà Thiên Chúa không có định kiến rằng tôi là một kẻ cố chấp. Biết bao lần tôi ươn lười không muốn tiến bước trên đường tu đức. Vậy mà Thiên Chúa không có định kiến rằng tôi là người tội lỗi không tha thứ được. Nếu Thiên Chúa có định kiến về tôi và về nhân loại, chắc không một ai đến được với Ngài khi bước chân vào cõi đời đời. Vậy mà tôi lại có đủ mọi thứ định kiến với biết bao nhiêu người, bao nhiêu tổ chức.

Nghĩ đến đây, tôi khám phá ra được một điều này: để bỏ đi những định kiến, người ta phải biết yêu, cũng như Thiên Chúa không có định kiến với tôi, bởi vì Ngài yêu Tôi. Khi yêu thì người ta bỏ qua tất cả và tìm cách giúp cho người mình yêu trở nên tốt hơn, đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Nếu tôi yêu người nào thực, tôi sẽ không còn định kiến về người ấy nữa. Và tôi sẽ chờ đợi để khám phá ra những đổi mới, những vươn lên của người tôi yêu.

Cám ơn những quả cam, quả chanh, quả quýt, quả bưởi. Cám ơn miền đất Florida. Cám ơn bạn tôi, người bạn dễ thương và đầy quảng đại. Và cảm tạ Thiên Chúa, Đấng yêu tôi rất mực và không bao giờ có định kiến về tôi. Tôi cũng cảm tạ Ngài, qua vườn ươm cây của người bạn, dạy tôi bài học quý báu và đầy hữu ích: “Đừng giữ những định kiến trong trí óc và trái tim con.”


Quyên Di



Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 27/Mar/2025 lúc 7:50am

Bến Cũ Chiều Xuân

Cảm%20nhận%20bài%20thơ%20Chiều%20xuân%20%28dàn%20ý,%205%20mẫu%29

Ga Phủ Lý chiều 28 tết, một đoàn người ăn mặc lếch thếch, áo quần vá chằng vá đụp, tay xách túi nhỏ đựng lon, hủ nhựa lỉnh ca lỉnh kỉnh từng cặp một, mang chung còng tay mỗi bên trái, phải. Bên kia đường, dân chúng hiếu kỳ với dáng vẻ sợ sệt, đưa mắt nhìn tò mò về phía đám đông hơn hai trăm người đang ngồi duổi chân trên vạt đất thấp dọc theo dốc đường ray xe lửa. Mặt trời đỏ thẳm đang dần tắt sau dãy núi Ba Sao gồ ghề đen như mực. Chúng tôi đang chờ tàu xuôi Nam.

Lúc xếp hàng chuẩn bị lên xe tải để ra ga, một anh bạn chen tới gần nói nhỏ với tôi vì anh thuận tay tráí nên muốn được còng tay phải với tôi. Ừ thì tôi thuận tay phải nên đồng ý ngay. Anh là sĩ quan trẻ, cấp bậc Thiếu tá, nguyên Tiểu đoàn trưởng thuộc Sư đoàn 7 Bộ Binh. Tôi quen anh hồi mới chuyển về trại Hà Nam Ninh được mấy tháng, trước khi xếp thành tổ đội để chuẩn bị về Nam. Trước đây, các trại cải tạo thường được phân chia ra làm hai loại dành riêng cho quân nhân và công chức ở những địa điểm khác nhau trong miền Nam cũng như sau nầy ra miền Thượng du Bắc Việt. Mãi cho đến khi Trung quốc tiến đánh các tỉnh sát biên giới phía Bắc, các trại cải tạo mới được di dời về một số tỉnh miền Trung du mạn phía tây bắc Hà Nội và các thành phần cải tạo được sát nhập lại với nhau không còn phân biệt dân hay quân nữa. Từ đó các trại chiếm đa phần là quân nhân đủ mọi cấp bậc, trừ cấp Tướng và Đại tá được xếp ở riêng còn tất cả cấp bậc còn lại đều được đưa vào các tổ đội lẫn lộn với thành phần dân sự.

Suốt gần năm năm trời bị giam giữ, từ trại cải tạo Long Thành, Đồng Nai cho đến khi ra tận ngoài Phú Sơn, Bắc Thái tôi luôn được xếp vào tổ đội thuộc thành phần dân sự chế độ cũ. Nay sinh hoạt chung với thành phần quân đội có rất nhiều điều khác biệt, vui vẻ và năng động hơn. Tính gan dạ và mưu trí của họ đã giúp “mưu sinh thoát hiểm” cho rất nhiều người đồng cảnh tù.

Trong suốt mấy ngày trên tàu tôi mới biết thật gia cảnh hiện nay của anh, vợ gởi quà thăm nuôi được mấy lần khi còn ở trại cải tạo Long Giao, rồi sau đó biệt tăm luôn cho đến khi ra miền Bắc, họa hoằng lắm anh mới nhận được một ít quà do mẹ anh gởi ra theo những người quen đi thăm nuôi chồng ở cùng trại. Nhà quê nghèo, còn nuôi thêm bốn đứa con nhỏ của anh thì làm sao đủ sức mà đi thăm nuôi. Anh lặng lẽ cam chịu thân phận người “tù mồ côi.” Dù khó khăn đến mấy cũng phải sống, anh rất giỏi cải thiện rau dại và thường khi còn mò bắt được nhiều con “rạm” (cua nhỏ to bằng ngón chân cái), đồng thời ngày nào anh cũng giấu được một ít củi khô, chẻ nhỏ quấn trong người, qua mặt được cán bộ gát cổng để đem vào trại. Người có gạo, bột ngọt hay tôm khô, anh có củi, rau, cua cá và công nấu nướng cùng nhau chia sẻ qua ngày.

Cho đến khi gia đình được phép thăm nuôi sau năm năm trời chịu đựng với đói rét và bệnh tật, tình hình cải tạo mới bắt đầu đỡ khổ. Nhờ thăm nuôi mà số người chết giảm dần. Dân chúng sinh sống quanh các trại cải tạo bắt đầu cảm thông và hiểu biết nhiều hơn về thành phần tù nhân chế độ cũ nên một số lén lút quan hệ với tù nhân để “mua bán đổi chác” đủ thứ, thông thường là cung cấp thực phẩm, thuốc men để đổi lấy quần áo, đồ dùng, dĩ nhiên là mấy tù nhân “đại lý” cũng phải biết điều với cán bộ. Về phần anh em tổ đội trưởng, trừ một số bản tính ác tâm, không lương thiện, còn lại đa phần đều ra sức giúp đỡ nhau để cùng sống sót mà chờ ngày về. Tôi còn nhớ hồi ở trại Mễ (Nam Hà) có anh Nhà trưởng nguyên là Trung tá Công binh, sau khi kiểm tra nhân số để nhập buồng giam, cán bộ ra lệnh nhắc nhở anh kiểm soát nội qui, giữ gìn yên lặng, không được tụ tập ồn ào hay nấu nướng linh tinh. Anh gật đầu.

– Thưa vâng.

Khi cán bộ đóng cửa buồng giam và áng chừng đã đi xa, anh quay ra đầu nhà, hướng về phía anh em.

– Tự do.

Thế là cả buồng mọi người cười che miệng, lục đục lên lò tự chế bằng lon guigoz cắt đôi, đốt củi nhỏ, có khi đốt bằng ny lông nấu cà phê, trà lá với nhau. Ra lao động hay ở buồng giam, cán bộ nói gì anh cũng nghe, bảo gì anh cũng vâng, đôi khi trước mặt cán bộ anh còn quơ tay nói lớn bảo anh em cố gắng làm cho xong, nhưng khi cán bộ đi rồi thì đâu cũng vào đấy, lao động cầm hơi. Cải tạo lâu dài mà. Ít lâu sau, khi tôi đã chuyển trại vào Nam, nghe anh em nói lại rằng anh đã chết trong trại giam ngoài miền Bắc.

Khi xe lửa từ ga Phủ Lý lần lượt qua khỏi ga Thanh Hóa … đến Đồng Hới, anh em vui mừng vô hạn vì biết chắc rằng mình đang trên đường xuôi về miền Nam thân yêu. Tới nhà ga Quảng Trị, Huế, anh em cầm tay nhau mà ứa nước mắt. Nhớ hồi di tản tháng 3 năm 1975, càng đi xa vào trong Nam bao nhiêu càng an toàn bấy nhiêu, mọi người chạy bán sống bán chết bằng đủ mọi phưong tiện để về tới Sài gòn, nhưng than ôi … vận nước đã đến hồi mạt vận, chỉ chạy thôi mà thua trắng tay. Giờ tâm trạng cũng giống y như vậy, mong tới ga Bình Triệu nhưng khi xe lửa vừa qua Tháp Chàm một đỗi thì dừng hẳn lại.

Chúng tôi xuống ga Thuận Hải và được xe tải đưa về trại Z30 (Hàm Tân). Trời nắng nóng, mồ hôi nhễ nhại, anh em muốn cởi bỏ những bộ quần áo chống rét ngoài miền Bắc mà không được … vì tay bị còng. Gió thổi thốc tung bụi mù. Bước xuống xe chao đảo mà ai nấy cũng cố gắng nhìn quanh, lòng vui khôn tả. Sự sống tưởng chừng như đang được hồi sinh. Rừng xanh bạt ngàn, đất đai, hoa màu bát ngát …

Anh và tôi được xếp chung vào đội lao đông nông nghiệp, làm rẫy trồng khoai, bắp. Về đến Hàm Tân ăn uống được cải thiện rất nhiều. Nhớ hôm sáng đầu tiên mới tới trại, trực cơm mang về một thau khoai mì tươi nấu chín, anh em rất đỗi ngạc nhiên vì suốt mấy năm ở ngoài Bắc, hai bửa ăn chinh chỉ có khoai mì lát, phơi khô mốc xanh hoặc bo bo còn nguyên võ, chứ làm gì có cái khác mà ăn sáng. Đã thế, tương đối gần nhà, non một ngày đường nên gia đình đi thăm nuôi thường xuyên, mỗi tháng một lần và tù nhân được tiếp tế thực phẩm rất dồi dào. Tù nhân được đăng ký tiền mặt nên thứ gì cũng có, miễn là có tiền. Lao động có kết quả, ngoài phần thu hoạch cho trại, anh em giỏi và có sức được canh tác riêng trên những vạt đất ven đường ra rẫy trại để cải thiện như bầu, bí, mướp, cải xanh… Anh bạn thuận tay trái chung còng với tôi hôm về Nam nay đã trở thành người hùng ngang dọc, trồng trọt cải thiện tứ phía. Anh chọn vạt đất gần suối để tranh thủ tưới nước, chăm sóc vì sau khi hết giờ lao động, cán bộ thường hay cho xuống suối tắm trước khi về nhập trại. Lớp ăn, lớp chia hoặc đổi lấy thực phẩm khô, riêng tôi được anh đặc biệt biếu không.

Sinh hoạt hằng ngày anh ăn cơm chung với “Bố già”, Thiếu úy cảnh sát, nguyên Trưởng cuộc ở Quảng Ngãi, luôn tự xưng mình là già hơn hết. Mà già thiệt, năm ấy cũng đã gần sáu mươi. Cứ hết đợt nầy đến đợt khác có khi gồm cả sếp cũ. Đại úy cảnh sát trẻ về nhiều rồi mà “Bố già” vẫn còn ở mãi. Mỗi lần có đợt thả về là có khiếu nại, ban đầu còn viết đơn, riết rồi cũng chán bèn đâm ra than phiền với cán bộ quản giáo. Cuối cùng cũng có kết quả là theo đội ra rẫy nhưng không lao động mà chỉ đun nước uống cho đội nên có thì giờ cải thiện, nấu nướng linh tinh.

Sinh hoạt trong buồng giam ở Hàm Tân tương đối thoải mái. Buồng giam lợp tôn thấp lè tè, láng gỗ ở trên, sạp dưới đúc xi măng, lối đi ở giữa nền đất, vách ván trống thưa. Số tù nhân giam giữ gồm hai hoặc ba đội hơn trăm người. Sau khi cán bộ đóng cửa, anh em tụ tập nhau thành nhóm, lập “bàn đèn” chiếu phim miệng, thường là tiểu thuyết của Kim Dung, “Tiếu Ngạo Giang Hồ” hay “Cô Gái Đồ Long.” Phim kiếm hiệp đôi lúc cũng bị ngưng, cắt đoạn khi máy chiếu được thăm nuôi chuyển qua tin tức thời sự: Phục quốc đã về tới Cà Mau hay Tướng lãnh VNCH đã về tới Thái Lan.

Ngoài những rạp chiếu phim kiếm hiệp còn có những “bàn đèn” văn nghệ nho nhỏ, chỉ năm ba anh em đàn hát trong buồng giam. Nhớ hồi còn ở trại Hà Nam Ninh, cứ mỗi sáng Chủ nhật nghĩ lao động, anh em thường hay tụ tập ngoài sân, sau khi nấu nướng ăn uống xong là tụ tập đàn hát và các rạp chiếu phim ngoài trời bắt đầu, máy chiếu rãi rác từng nhóm nhỏ, nhiều bộ phim rất hấp dẫn với đề tài là những câu chuyện thuộc “thâm cung bí sử” của VNCH do chính người có thẩm quyền trong cuộc kể lại.

“Bố già” không tham gia vào các “bàn đèn” chiếu phim hay văn nghệ bỏ túi vì đau lưng không thể ngồi lâu được, nhưng cung cấp đèn dầu tim nhỏ và thuốc lào với điều kiện là khi ra lao động, anh em phải thay phiên nhau ra suối gánh nước về cho Bố để nấu nước pha trà giảo cho toàn đội giải lao. Anh bạn thuận tay trái cũng ít khi tham dự “bàn đèn” viện cớ là lao động vất vả, lớp nào cho đội, lớp nào lo cho mấy vạt đất cải thiện nên mệt phờ râu, ngũ sớm để ngày mai cày tiếp. Nhưng từ trong sâu thẳm, anh em cũng đoán biết anh có cả một trời tâm sự buồn. Rất ít nói, khi xếp chỗ nằm, anh tình nguyện chọn trong góc khuất, tối thui ờ cuối buồng giam. Có hôm, khi các “bàn đèn” máy chiếu phim bị rè do cảm cúm, sổ mủi nên tắt sớm, về ngũ, anh em mới phát hiện ra là anh vẫn còn thức.

“Bố già” luôn đem niềm vui đến cho anh em, nhất là cánh trẻ có nhiều dịp đùa giởn. Nhớ những buổi chiều ra suối tắm, mình trần như nhộng, quần đùi ướt đẫm, té nước về phía “Bố già.”

– Bố xem các con còn ngon lành không? Khi về bố chọn đứa nào?

– Tau gả hết rồi.

“Bố già” kể có đứa cháu gái kêu bằng Dượng, lỡ thời, chồng chết hồi Tết Mậu Thân, ở vậy nuôi con. Vừa nói Bố vừa ngóng lên vạt đất cải thiện trên bờ suối. Anh em cười vang hiểu ý Bố. Cán bộ ra lệnh còn năm phút nữa tập trung về trại. Anh bạn thuận tay trái, nãy giờ lo tưới nước đám rẫy ở trên bờ mới lật đật xuống suối tắm giặt. Anh luôn là người vội vả sau cùng nên có nghe được gì đâu.

– Bố định làm mai cho anh đấy.

Anh cười cho vui với anh em thôi, chứ vợ con gì nữa, vết thương lòng còn chưa nguôi …

“Phương trời mình đi xa thêm xa.

Nghe vàng mùa thu sau lưng ta.

Em ơi, em ơi thu thiết tha…

Ôi người vì ta qua phong ba.

Có còn gì sâu trong tâm tư. Mắt lệ, mờ hoen, dư âm xưa…”

(Tình Lỡ)

Khi chuyển trại về Nam, anh em ai cũng tràn đầy hy vọng là sắp được thả vì theo kiểu gối đầu, trước khi có tù nhân từ miền Bắc chuyển vào thì trại đã có đợt thả đại trà hằng trăm người, đông đến độ sau khi thả tù rồi, nhiều buồng giam còn lại trống trơn, nhất là khu trại C và D dã chiến ở vòng ngoài, chỉ rào bằng dây thép gai, không có tường xây chung quanh. Thật ra, khi đã bị giam giữ nhiều năm, hơn sáu, bảy năm rồi còn gì, mà lại không biết thời gian thụ án là bao nhiêu nên anh em cũng không còn nôn nóng như trước nữa. Thôi kệ cứ vui qua ngày, có thế mới sống được chứ. Vả lại, khi về Nam không còn cảnh đói rét như ở miền Bắc nên không khí trong tù cũng khác hẳn.

Không biết bên ngoài có can thiệp gì hay không mà các đợt thả tù lại dồn dập với số lượng rất đông so với hồi năm năm về trước, mỗi năm chỉ thả một hai đợt nhỏ giọt vài ba chục người mà nghe nói toàn là bảo lãnh không thôi, chứ làm gì có học tập cải tạo tốt. Có khi là do đổi mới hay sửa sai không chừng? Tù gì mà nhiều lắm thế. Chủ hảng nước tương nỗi tiếng hiệu con mèo cũng vào tù vì tội làm ăn giàu có. Chủ hảng sản xuất xe đạp cũng vào tù vì tội cạnh tranh với thương nghiệp quốc doanh, chuyên nhập khẩu xe đạp Trung quốc. Có cả sư thầy ờ các chùa chiền địa phương. Đặc biệt nhất là có Giáo sư hội trưởng Hội Khổng học Sài gòn vào tù chỉ vì biết xem Tử vi, bốc quẻ như thần. Mỗi tối, khi cửa buồng giam vừa đóng lại, anh vỗ tay ba tiếng, ngày nào cũng vậy. Anh em tò mò, gạn hỏi năm lần bảy lượt vì ngại đến tai cán bộ, anh giải thích: Vỗ tay ba tiếng là để mừng rằng mình đã từng ngày một, trả hết nợ vay kiếp trước hay kiếp nầy. Hai là tội nghiệp cho những người gây nghiệp mới, không biết chừng nào họ mới trả được. Ba là nên tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm. Anh đoan quyết là “chúng mình sắp về hết rồi.” Thế là anh em yên chí chờ ngày về.

Ban đầu còn nói đùa chơi cho vui thôi, nhưng sau đó từng đợt tù được thả càng ngày càng khít dần nên “Bố già” sợ mất cơ hội làm mai cho đứa cháu gái. Thật tình Bố rất thương và thích bọn trẻ trong tù nhưng Bố chọn anh bạn thuận tay trái là vì cho xứng đôi vừa lứa, chứ không chê bai gì bọn trẻ, giờ cũng đã ngoài ba mươi. Tội nghiệp “Bố già” lo khi được thả về rồi, đâu còn có dịp nào gặp lại nữa. Quảng Ngãi xa xôi quá, đâu có đứa nào chịu ra. Hơn nữa, sinh hoạt hằng ngày cơm nước và nhất là chiều nào cũng giúp Bố gánh nước về trại để nấu ăn hay rửa chén bát. Chỉ có anh bạn thuận tay trái là bền bỉ nhất. “Bố già” từ từ gợi chuyện.

Anh tốt nghiệp khóa 22 trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức, ra trường chọn về Tiểu khu Quãng Ngãi và trở thành sĩ quan tác chiến thuộc Tiểu đoàn địa phương đóng quân trên địa bàn quê hương của “Bố già” gọi là thôn Bình An mà không Bình An. Tết Mậu Thân năm 1968 anh bị thương trong lúc giao tranh và bị địch bắt, sau đó chuyển lên giam giữ ở vùng Datsut, Kontum. Sáu tháng sau, anh vượt ngục thành công về tới Dakto và ra trình diện với chính quyền VNCH. An ninh quân đội điều tra (giam lỏng) và làm việc hơn sáu tháng. Sau khi hồ sơ bạch hóa anh được phục hồi cấp bậc cũ và thuyên chuyển về vùng IV, khu chiến thuật Tiền Giang làm sĩ quan tác chiến thuộc Sư đoàn 7 Bộ Binh. Khi vừa đổi về đơn vị đóng gần nhà, gia đình liền nhờ người mai mối và tổ chức đám cưới ngay trong năm.

Để đánh dấu cho sự trở về của anh như một phép mầu, gia đình tổ chức đám cưới thật lớn, thật linh đình. Cô dâu con nhà khá giả, học hành tử tế sánh vai bên anh chàng Trung úy trẻ, đẹp trai, oai phong lẫm liệt. Cả phố ai cũng mê… “Bố già” sốt ruột không muốn nghe tiếp, chỉ ngắn gọn có chịu không thì Bố nhắn về cho vợ, kỳ tới thăm nuôi sẽ dẫn cháu theo vào cho có bạn, rồi sẵn dịp coi ra sao. Còn người đã bỏ đi rồi thì kể làm chi. Nhưng anh bạn thuận tay trái bỏ lững, coi như không muốn bàn tới nữa. Sự đời đã tắt lửa lòng. “Bố già” buồn năm phút.

Tưởng đâu như thế là quên đi, nhưng có một hôm dưới bóng mát tàng cây trong trại nhân ngày nghĩ không lao động, anh em tụ tập nhau ăn uống, “Bố già” kể rằng tội nghiệp con nhỏ mới lầy chồng chưa được bao lâu thì chồng nó tử trận. Chồng mất rồi mới biết mình có thai và sau đó sanh ra một bé gái, nó lập bàn thờ chồng và ở vậy nuôi con cho đến ngày nay. Nghe cảm động và ngưỡng mộ quá, anh em bèn hỏi:

– Hiện nay cô ấy đang làm gì ở đâu Bố?

– Cô giáo Lan dạy học ở quê vợ tau từ trước tới giờ.

Đang rít một bi thuốc lào, ém hơi chờ nhả khói, anh bạn thuận tay trái bỏ dựng đứng điếu cày, chống tay lên, mặt mày xanh mét y như người say thuốc lào. Bình thường, khỏe như anh có khi phải hai bi mới đã điếu. Giọng nói hơi lạc đi.

– Võ thị Lan ở Sông Vệ phải không Bố?

– Ừ, sao mi biết?

Hồi mới còn là Thiếu úy ở Quảng Ngãi, anh theo đơn vị hành quân thường hay qua lại những bến đò ngang sông Vệ. Rồi một hôm tình cờ anh gặp cô giáo Lan là người có nhan sắc trong vùng, vừa đi dạy vừa phụ giúp mẹ có quán nước và bán thêm môt ít đồ chạp phô ở gần bờ sông. Trong đơn vị có người quen giới thiệu, tới lui nhiều lần rồi dính luôn. Đơn vị đứng ra tổ chức “đám cưới nhà binh” chỉ có cô dâu chú rễ và anh em cùng đơn vị tại hậu cứ của tiểu đoàn. Chưa tròn năm, trận Mậu Thân xảy ra anh bị thương và bị địch bắt, đơn vị báo cáo mất tích nhưng anh em cùng đại đội báo riêng cho gia đình biết là chắc chết vì bị phi pháo của ta truy kích. Sau đó, anh sống sót về trình diện An ninh quân đội và theo lời khuyên ngầm gần như bắt buộc của sĩ quan an ninh là không nên quan hệ với đơn vị cũ để bịt tất cả các đầu mối truy tầm của địch. Anh chấp hành lệnh trên và được chuyển đi nơi khác, không còn môt mối quan hệ nào ờ Quảng Ngãi nữa. Ra đi không một lời từ giả với người vợ trẻ. Rồi biền biệt qua bao năm tháng, theo đời quân ngủ anh chưa một lần nào trở lại chốn xưa…

* * *

Thế rồi vào một buổi sáng trời vừa tạnh mưa, anh em đang ngồi chờ thăm nuôi, kẻ có người không, trể hẹn là chuyện thường. “Bố già” được gọi ra nhà thăm nuôi cùng lúc với anh bạn thuận tay trái. Có khi gần tám năm rồi anh chưa được một lần thăm nuôi. Anh em rất ngạc nhiên và vui khi thấy anh đi sóng đôi với Bố ra nhà thăm nuôi. Đây là một kỳ tích của “Bố già.”

Hôm ấy cuối tuần có đông tù nhân được thăm nuôi, anh em nhường cho vợ chồng “Bố già” chọn đầu dãy bàn ở gần góc nhà, khuất tầm nhìn của cán bộ đang bắt ghế ngồi ở ngoài cửa ra vào. Chưa ngồi xuống, anh bạn thuận tay trái đã nhủn người muốn đổ xuống ghế. Đứng bên cạnh vợ “Bố già” là người đàn bà trung niên khẳng khiu mặc chiếc áo bà ba màu mỡ gà với khuôn mặt sạm nắng nhưng có nét, đôi mắt to đen lay láy đang tràn đầy nước mắt.

– Anh Mai, anh còn sống.

Anh ngồi xuống gật đầu ứa nước mắt vói tay qua dãy bàn nắm lấy tay “người ấy” mà tưởng chừng như còn xa xôi lắm…

Tối hôm đó, “bàn đèn” của đội lao động nông nghiệp ngoài thuốc lào, trà đậm còn có thêm một ít kẹo gương Quảng Ngãi. Chuyện như “châu hoàn hợp phố” gây nhiều xúc cảm khiến buổi chiếu phim anh em ngồi đầy mấy sạp, máy chiếu hơi bị rè và ngắt quảng vì không quen kể và cảm động. “Bố già” ngồi bên kia sạp xi măng thỉnh thoảng quay qua chen vào:

– Cái tưởng là của mình có khi không phải là của mình. Còn cái mình bỏ đi, tưởng không phải là của mình đôi khi chính lại là của mình.

– Con rơi con rớt hả Bố?

– Già rồi mới thấm.

Tới khuya, anh em trong ban “cổ nhạc nam phần” của Thầy Lai phụ họa thêm vài câu vọng cổ…

“Tôi đứng đây mà tưởng chừng như đứng trên bờ sông Mỹ Thuận, khi mình quay xuồng tách bến để trở lại với hai con. Bờ cây xa mờ nhuộm khói hoàng hôn, con nước lớn lục bình trôi rời rạc … Chiều đã xuống mặt trường giang bát ngát, mà bóng người thương cũng khuất dạng giữa … sông đầy …” (Tuyệt Tình Ca)

Thời gian qua nhanh, thăm nuôi mấy lượt, đường đi Quảng Ngãi – Hàm Tân không còn xa nữa. Vợ chồng con gái trùng phùng. Cô giáo Lan ngày càng mượt mà, sắc diện tươi tỉnh, vui mừng vô hạn. Mười mấy năm qua tường đâu đã mất, ai ngờ người vẫn còn đây, còn có ngày nầy…

Đến cuối năm, trại có đợt thả tù nhân hằng mấy trăm người, gần hết láng trại. Lại đúng đợt thăm nuôi vào dịp gần Tết nên thân nhân đều nán ở lại nhà thăm nuôi vài ngày chờ làm xong thủ tục để cùng về. Không khí thật rộn rịp, tràn đầy niềm vui, nhất là cánh tù nhân trẻ.

Chúng tôi ra khỏi trại vào buổi chiều, anh em cùng nhau đến xóm nhỏ trước cổng trại ghé vào quán nước bên đường. Riêng anh chị Mai Lan từ giả sớm để về Sông Vệ cho kịp Tết.

Thấy hai anh chị nắm tay nhau dìu lên xe, bất giác một anh bạn nhớ lại chuyến xuôi Nam hồi hai năm trước buột miệng lên tiếng.

– Tự do rồi muốn nắm tay nào cũng được. Tình yêu đâu cần trái phải.

Nghe thế cả bọn cười vang. Ngoài kia gió xuân đang về.

Trần Bạch Thu





Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 27/Mar/2025 lúc 7:55am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23596
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Mar/2025 lúc 9:29am
BLOG%20CHUYÊN%20VĂN:%20%5bBÀI%20VIẾT%5d%20NGHỆ%20THUẬT%20TẠO%20VẺ%20ĐẸP%20CHO%20DÒNG%20NƯỚC%20MẮT...


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Mar/2025 lúc 9:34am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23596
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 31/Mar/2025 lúc 10:40am

Khúc Bể Dâu

 

Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!

Từ ngày tôi về hưu non, kế hoạch trong đầu là đi du lịch khắp thế giới, nhưng chưa đi được bao nhiêu, thì con dâu sanh, bây giờ lại phải trông cháu một tuần hai ngày cho các con đi làm, chưa kể cuối tuần chúng lại bế nhau về “làm phiền” bà. Bà ngoại của cháu lớn tuổi hơn tôi nhiều nên sức khỏe không cho phép bà chạy theo cháu, bế cháu như tôi, do đó tôi trở thành nhân vật chính trong vụ giữ trẻ này.

Các con tôi muốn chờ thằng cu bé được hơn một tuổi, biết đi, mới cho vào nhà trẻ vì sợ cho cháu vào sớm quá, lây bệnh, khó ăn uống lại xuống ký thì tội nghiệp. Tôi cũng đồng ý, ráng chờ vài tháng nữa, thằng cháu sẽ lớn hơn đi nhà trẻ sẽ biết tự túc hơn.

Cả người mỏi nhừ vì “vần vũ” với thằng bé từ sáng sớm tới giờ, ngồi xuống ghế nghỉ ngơi, bên ngoài cửa sổ những ụ tuyết còn cao quá đầu, tháng ba đã đổi giờ, ngủ ít đi một tiếng, nhưng đi làm được về sớm hơn một tiếng, ra khỏi công sở mặt trời vẫn chưa lặn.

Con dâu tôi đã từng tâm sự:

- Chắc con phải nghỉ nhà trông con nếu có đứa thứ hai… Làm một lúc rồi nghỉ luôn!

- Nếu có đứa thứ hai thì nên nghỉ thêm một năm trông cháu, thay vì chỉ có 6 tháng, rồi sau đó đi làm lại, vì nếu nghỉ hẳn, khi các cháu đi nhà trẻ, con sẽ buồn lắm, sẽ thấy tiếc sự nghiệp của mình.

- Nhưng nếu nghỉ một năm rồi vào làm lại, mình sẽ không còn thạo việc nữa, mọi thứ thay đổi, nếu vậy phải lấy thêm course nữa mới update được ạ.


Những lời tâm sự của con dâu làm tôi nhớ về những ngày tháng sau khi tôi nghỉ sanh đứa con trai thứ hai, tôi lấy một năm rưỡi ở nhà trông cháu, khi nó được hơn một tuổi thì cho vào nhà trẻ và quay lại công việc ngân hàng.

***

Ngày đầu tiên trở lại ngân hàng sau mười tám tháng nghỉ sanh con, lẽ ra tôi phải được hoàn lại chức vụ cũ, giám đốc ngân hàng trong nhà thương nhi đồng ở thành phố Montreal, Quebec. Khi vào đến nơi, tôi mới phát hiện ra tất cả ngân hàng tại Quebec đã được phân chia theo phân khoa đặc biệt, ví dụ: ngân hàng sức khỏe, ngân hàng công nghiệp, ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng khoa học v.v.


Chỗ tôi đã được một ông tây người bản xứ thay thế; bà Solange, giám đốc trên tôi một bậc đã từng nâng đỡ, mướn tôi vào những ngày đầu tiên đã được thăng chức thuyên chuyển đi một nơi khác làm, tôi cảm thấy mình như người thừa thãi, lạc lõng, những nhân viên dưới quyền tôi, người đã đổi đến chi nhánh khác, kẻ thì nghỉ vì một công việc tốt hơn, chẳng có ai đón tiếp và không biết phải nói thế nào để lấy lại chỗ cũ của mình.

Bà giám đốc mới ở phòng nhân sự, bà Leclerc, là một người rất quan liêu, bảo thủ và nghe nói rất “phân biệt chủng tộc”, bà cho là những dân tỵ nạn đến đất nước Canada lấy đi những công việc tốt của người bản xứ! Bên cạnh đó bà không bao giờ gởi giấy khen hay động viên những nhân viên có ý tưởng sáng tạo, bà coi những đóng góp đó là chuyện đương nhiên!

Tôi lo lắng đến trình diện bà; sau khi nghe tôi trình bày hoàn cảnh đã nghỉ một năm rưỡi vì gia đình con cái, nay mới vào nhận nhiệm sở với bao thay đổi về nhân sự, bà nhìn tôi một hồi qua cặp mắt kiếng trễ xuống mũi, hai môi mím lại, vẻ mặt nghiêm trang, bà mở máy tính đọc tiểu sử, thành tích của tôi trong tám năm qua trước khi nghỉ đẻ, mặc kệ cho tôi ngồi yên trong chiếc ghế bành bằng da to tướng với bao hoang mang, trong đầu đầy những câu hỏi, không biết bà sẽ điều tôi đi đâu.

Bà ngẩng đầu lên, ánh mắt giá băng, như cái không khí lạnh ngắt của chiếc máy lạnh gắn thêm trong phòng bà mà bên ngoài trời tháng tư chả nóng chút nào.

- Cô làm …cũng khá đấy chứ!... Nhưng bây giờ chỗ cô đã có người thay thế rồi, tôi sẽ tìm một chỗ khác cho cô!

- Thưa bà, người mới chỉ là thay thế chỗ của tôi thôi, trong nội quy ngân hàng có nói sau khi nghỉ sanh dưới hai năm về vẫn làm lại chỗ cũ…

- Nhưng cô mới về lại, chắc chưa có thể làm ngay được, vì nhiều thứ thay đổi lắm, tôi sẽ cho cô đi học thêm ba tháng, sau đó sẽ tính tiếp… Tôi sẽ nói thư ký của tôi liên lạc với cô. Vậy nhé, chúc cô một ngày đẹp!

Bà không muốn nói chuyện với tôi nữa, bà gục đầu xuống xem một hồ sơ khác, như có ý “đuổi” tôi ra khỏi phòng!... Tôi thấy khuôn mặt lạnh như cắt của bà, cũng không dám đứng lâu tranh cãi, đành ra ngoài xem mọi người làm việc ra sao mà bà nói đã thay đổi rất nhiều trong một năm rưỡi qua.

Đúng là phần mềm của ngân hàng có thay đổi đôi chút, có thêm nhiều thứ linh tinh nhưng làm gì phải học thêm đến ba tháng chứ! Chỉ cần cho tôi ngồi bên cạnh một ai đó xem họ làm việc trong một buổi là tôi sẽ update ngay thôi. Đang miên man suy nghĩ, cô thư ký Helen đến gặp tôi nói:

- Bà Leclerc nói trong lúc chưa mời được người đào tạo xuống ngân hàng mình để dạy thêm cho cô thì bà nói cô hãy vào chỗ chứa hồ sơ xếp tất cả mọi hồ sơ trên kệ theo số thứ tự nhé, xin cô theo tôi.

Một phòng rộng lớn với mười dãy kệ bằng sắt để chứa hồ sơ đặc kín được quay bằng tay, một núi hồ sơ dưới đất chờ để được sắp lên kệ mà đã lâu lắm chưa có ai vào xếp cả vì thiếu nhân viên và ai cũng bận rộn tiếp khách. Cô thư ký trẻ, mới vào làm, nhoẻn cười với tôi:

- Cô cứ ở đây sắp xếp hồ sơ nhé, khi nào có sự chỉ đạo nào khác của bà giám đốc Leclerc thì tôi sẽ xuống gọi cô sau!

Cô để mặc tôi một mình trong một căn phòng rộng lớn lạnh ngắt mới xây này, tôi cảm thấy mình bé bỏng, uất ức như cô bé lọ lem bị phải nhặt hết ba thúng đậu đen đỏ!

Khi những ngân hàng gộp lại thì số lượng hồ sơ tăng gấp ba bốn lần so với lúc xưa, phòng chứa hồ sơ với bốn bức tường bằng đá chống cháy, thêm máy điều hòa không khí nên khá lạnh; tôi bắt tay vào công việc mới tuy không trực tiếp với khách hàng như xưa, nhưng qua những hồ sơ này, tôi “thấy” được những thông tin tài chính cá nhân, hoặc doanh nghiệp của họ, những notes để lại trong hồ sơ, tôi đều đọc và biết tình hình của những khách hàng đã từng đến ngân hàng, dưới sự chỉ huy của tôi thuở ấy đã thay đổi như thế nào trong gần hai năm qua. Tôi không còn thấy buồn nữa mà cảm thấy khá thú vị.

***

Một tháng trôi qua, tôi vẫn ngoan ngoãn xếp hồ sơ, một công việc nhàm chán, lẽ ra chỉ để cho một nhân viên thường (không có cấp bậc) làm, nhưng họ lại để một người giám đốc vào làm công việc ấy thì thật tình hơi lãng phí tiền bạc của nhà bank, nhưng tôi không phải là người quyết định, cũng không thể tâm sự cho ai biết được điều này mà chỉ biết kiên nhẫn làm theo sự phân công của cấp trên mà thôi. Tôi nghĩ đây chính là thử thách của tôi khi trở lại làm việc dưới sự chỉ huy của một kẻ khác tiếng nói, văn hóa và lại mang tính tỵ hiềm ganh ghét nữa, và tôi phải ráng làm sao phải vượt qua cái cửa ải này. Tôi tự nhủ phải thật kiên nhẫn đây!

Thấy tôi buồn rầu khi đi làm về, chồng hỏi tại sao, tôi trả lời ỉu xìu:

- Em …bị đì!

- Tại sao bị đì, em lúc nào cũng nói chỗ em làm ai cũng yêu thương em mà, làm sao mà bị đì chứ? Cái bà “đỡ đầu” của em đâu rồi?

- Bả đã đổi đi chi nhánh khác rồi!

-… Hay nghỉ ở nhà trông hai thằng con đi vậy!

- Thôi bao nhiêu công lao em học hành, em ráng chịu một thời gian xem có thể chuyển hóa được bà này không… Chả lẽ sự nghiệp của em vô cớ lại đóng lại ở đây sao chứ!

***

Những cố vấn tài chính trong nhà bank đều là người từ những chi nhánh khác đến, không biết tôi trước đó nên tưởng tôi là nhân viên hạng hai (ngân hàng có nhiều cấp bậc, hạng hai là tellers, cashier), họ gọi tôi lấy hồ sơ này, xếp hồ sơ nọ, nhờ tôi đánh máy những ghi chép, phân tích của họ vào máy sau một buổi gặp khách như đứa lon ton. Tôi vẫn cố vui vẻ làm việc với họ, còn giúp họ thêm vài chi tiết để hồ sơ được rõ ràng mạch lạc hơn nữa. Bên cạnh đó tôi còn đưa ra những đề nghị thêm những khoản đầu tư an toàn cho người lớn tuổi, chuyển phần hưu trí của họ thành tiền tiết kiệm có thể rút ra không cần hạn kỳ nào cả và không bị trừ thuế v.v. Lúc nào cũng phải khéo léo nhỏ nhẹ để đừng làm những người cố vấn mới vào nghề bị tổn thương, và cũng không muốn để người khách hàng phải chịu thiệt thòi vì sự thiếu kinh nghiệm của họ.

Từng chút một, tôi bỗng trở thành người “cứu hộ” về tài chánh bất đắc dĩ, bận rộn, hết chạy qua phòng cố vấn này đến phòng cố vấn khác để giúp họ cho ý kiến về đầu tư, giúp họ đặt vấn đề với những gia đình trẻ nên có plan đóng tiền học cho con từ lúc mới sanh, rồi giúp họ vào máy làm việc nên qua đó tôi cũng tự update cho mình mà không cần phải chờ coach đến nữa vì cả tháng nay người thầy này thật bận rộn với những chi nhánh khác chưa có thì giờ xuống chỗ tôi.

Khi chúng tôi cùng ăn trưa, cô Kate mà tôi thường giúp đỡ, nói với mọi người:

- Chúng mình thật may mắn gặp Lyly có nhiều kinh nghiệm giúp mình làm hồ sơ cho khách!

Người cố vấn khác nói thêm:

- Ủa mà sao Lyly không thi lên chức cố vấn đầu tư mà lại chỉ làm xếp hồ sơ thôi vậy? Tôi thấy phí quá; cô có thích lên chức không? Chi nhánh mình cũng đang cần người đấy, cô mà thi lên được thì chắc chúng tôi sẽ rất hạnh phúc có người bạn giỏi như thế, cô sẽ có nhiều thì giờ dậy chúng tôi thêm kỹ năng!

- Mình phải đem ý tưởng này nói với bà Leclerc, giám đốc nhân sự mới được!

Kate tiếp lời:

- Nhưng… bà ấy khó tính lắm, nói nhỏ thôi nhé, bà chỉ thích người bản địa thôi, người ta nói bà có một quá khứ không đẹp, mẹ bà là người Châu Á, Mã Lai thì phải, cha là người Tây, mẹ đã bỏ bà khi còn nhỏ đi theo một người đàn ông khác giàu có, khi bà mới có hai tuổi nên bà rất ghét người Á Châu nói chung, từ đó có tính phân biệt chủng tộc, lại có cuộc hôn nhân không tốt, bà sống một mình với thằng con trai không thích học hành mà chỉ thích hút sách thôi... Các bạn thấy đó trong chỗ mình làm có ai không phải là người Canadian chính gốc đâu, trừ Lyly!

- Nhưng Lyly lại rất giỏi và dễ thương, từ trước đến giờ chưa có ai chịu vào xếp hồ sơ cả, mà từ ngày có Lyly là cái đống hồ sơ đó được xếp ngay ngắn trên kệ, đã vậy cô ấy còn chu đáo dán từng vần ký tự cho mỗi hàng hồ sơ để tìm cho dễ nữa chứ, tôi phục quá, phải là người có đầu óc sắp xếp và logic đó!

Để cám ơn tôi, mọi người đem cơm trưa cho tôi ăn, kể chuyện gia đình của họ cho tôi nghe, cho tôi xem hình ảnh chồng con, tôi vẫn im lặng nuốt cục ức vào trong, không dám tâm sự bản thân cho ai nghe cả; còn bà giám đốc thì hình như đang trút cơn đau đớn, phẫn nộ của bản thân lên đầu tôi, nên không hề gọi tôi lên để trao trả lại chức giám đốc tuy tôi vẫn cứ nhận lương với chức vụ ấy, mà làm việc “lon ton”.

Mỗi buổi sáng đi làm, ngang phòng làm việc của bà Leclerc, tôi thấy bà đến rất sớm, ngồi yên lặng quay lưng ra phía cửa sổ, nhìn xuống phía sân sau bãi đậu xe của nhân viên, bà ngồi bất động như có nhiều tâm sự lắm, bà chả nói chuyện với ai, đi làm sớm, về đúng giờ, chả bao giờ thấy bà đi ăn trưa với những giám đốc khác; tôi bỗng thấy tội nghiệp bà hơn là oán trách và một chút niềm cảm thông của một người mẹ dâng lên, tôi đưa tay gõ nhẹ vào cửa phòng, bà quay lại ngạc nhiên thấy tôi, đôi mắt bà mở lớn như muốn nói điều gì đó, rồi lại cụp xuống, yên lặng; tôi niềm nở, lên tiếng:

- Chào bà Leclerc, bà khỏe không?

- Tôi nghe nói cô đã xếp hết cả đống hồ sơ vào kệ rồi phải không?

- Vâng, thưa bà!

- Tôi muốn nhờ cô điện thoại liên lạc với những khách hàng để bán những visa VIP mới của ngân hàng mình…Cô làm được chứ?

- Vâng, tôi sẽ làm.

- Vậy đây là danh sách khách, cô đi làm đi!

- …Tôi sẽ làm khi 8:00, bây giờ tôi muốn… mời bà một tách trà xanh, bà thích thử không ạ?

- …Trà xanh?

- Dạ vâng!

- Bố tôi đã từng kể cho tôi nghe, mẹ tôi rất thích trà xanh… Khi chúng tôi dọn nhà, trong tủ của bà ấy chỉ toàn là những túi trà xanh mua tại Việt Nam…

Tôi chưa bao giờ uống thử vì tôi ghét những gì thuộc về kỷ niệm… Nhưng hôm nay tôi sẽ uống…

- Bà chờ tôi một chút nhé, để tôi xuống bếp nấu nước sôi và đem lên cho bà…

- Thôi, để tôi đi theo cô!

Lần đầu tiên tôi thấy bà mỉm cười, chỉ một chút rồi khép lại ngay như giữ cho mình vẻ nghiêm khắc hàng ngày.

Trong lúc tôi nấu nước sôi, bỏ trà vào bình, bà nhìn tôi rồi khẽ nói:

- Đêm hôm qua, tôi nằm mơ một giấc mơ rất dễ sợ, cả nhà tôi bị cháy tiêu, ngọn lửa lên cao quá đầu, tôi sợ hãi la hét trong đêm và bật dậy mồ hôi toát đầy mình, không ngủ lại được nữa nên mới đi làm sớm hôm nay… Tôi không biết có chuyện gì xảy ra không!

Tôi nhìn thẳng vào mắt bà, trấn an:

- Nếu bà tin tôi, hãy chờ từ nay đến một tuần, bà sẽ có tin tốt, một tin vui về gia đình con cái hay người thân nhất của bà. Tôi chỉ biết nói vậy thôi, đó là giác quan thứ sáu cho tôi biết, bây giờ mời bà dùng trà xanh.

- Cám ơn cô rất nhiều nhé, tôi không ngờ cô có giác quan thứ sáu đoán được giấc mơ, tôi sẽ cho cô biết nếu có tin vui. Ah! Hôm nay người đào tạo đến ngân hàng mình, sẽ làm việc với cô đó, tôi quên mất từ sáng tới giờ vì bị giấc mơ ám ảnh mãi, tôi lo cho thằng con trai, nó vẫn mãi không lớn lên được; sau khi uống ly trà xanh này tôi mới tỉnh lại đó. Tôi chắc chắn cô sẽ học rất nhanh với ông ta đấy, ông rất nhiều kinh nghiệm và rất thực tế trong việc giải quyết vấn đề tài chánh.

8:00 chúng tôi trở lại phòng làm việc, Kate đi qua phòng tôi, dừng lại khẽ hỏi:

-Lyly, sao hôm nay tôi lại thấy bà “ấy” mở miệng nói chuyện riêng với cô thế? Chắc chút nữa trời sẽ đổ cơn mưa lớn ngập đường đây!

- Hahaha thì “sông có khúc, người có lúc” mà!

- Thế thì bạn gặp may rồi đấy! Chúc may mắn nhe!

Kate đưa ngón cái số 1 lên, rồi nhanh nhẹn về phòng.

Ông coach đi bên cạnh bà Leclerc xuống phòng tôi, bà giới thiệu:

- Đây là ông Christian Maheu sẽ dạy cho cô về software mới về cách làm sao nhập vào hồ sơ tài chánh của ngân hàng mình và những chi nhánh khác, ngoài ra ông còn chỉ cho cô tất cả công việc gì cô muốn hỏi, ông rất giàu kinh nghiệm…

Bà giám đốc chưa nói hết câu, ông Maheu đã la lớn khi thấy tôi bước ra khỏi phòng chào ông với nụ cười tươi, ông tiến đến ôm lấy tôi hôn lên hai má như hai người bạn thân lâu ngày gặp lại:

- Cô Lyly đây mà! Lâu quá không gặp cô, bây giờ gia đình ra sao rồi, chắc hai cu cậu để nhà trẻ hả? Hay ông bà ngoại canh? Tôi tưởng dậy cho ai chứ dậy cho cô Lyly thì chừng hai tuần là xong hết, cần gì tới ba tháng! Ủa mà chi nhánh nhà thương Ste Justine đóng cửa rồi hay sao cô lại đến đây, thưa cô giám đốc?

Lúc ấy tôi thấy chung quanh là những bạn cố vấn đứng đầy xung quanh vì tiếng nói như cái loa phát thanh của Maheu, họ đều ngạc nhiên nói với nhau:

- Lyly là… giám đốc chi nhánh nhà thương sao?

Ông Maheu gật đầu xác nhận:

- Phải! Sao mọi người lại ngạc nhiên chứ? Tôi đã thường xuống Ste Justine để dậy cho những người cố vấn mới vào đó mà... Bà Leclerc không nói gì sao?

Lúc ấy tôi thấy bà giám đốc vẻ bối rối, lúng túng:

- Tôi …xin lỗi mọi người đã không giới thiệu khi cô Lyly trở về đây làm việc, vì chỗ cô ấy đã có người mới thay thế nên tôi không tiện nói, cô ấy chính là giám đốc của chi nhánh Ste Justine, cô ấy có một quá khứ làm việc rất đáng ngưỡng mộ; sau khóa học này cổ sẽ chuyển đến một chi nhánh khác làm về đầu tư cho những người có cổ phần từ năm triệu trở lên; cô ấy đã từng làm việc với các bạn được hơn ba tháng nơi đây rồi, ai cũng thấy cô là người sống có tấm lòng và rất có trách nhiệm trong công việc phải không?!

Tôi nghe trong đám đông xì xầm:

- Thì ra Lyly là giám đốc…

- Hèn chi…

Tôi quay lại, lần đầu tiên bắt gặp ánh mắt của bà Leclerc đầy thiện cảm với tôi, chứ không còn xa lạ dửng dưng như những ngày đầu nữa, tôi biết mình đã chuyển hóa được trái tim « băng giá » của bà, mỉm cười cảm động:

- Cám ơn bà đã giành cho tôi những lời lẽ quá tốt đẹp, tôi mong đem hết sức mình cống hiến cho xã hội và nơi tôi đang sống!

- Tôi thấy được điều đó qua những việc làm của cô và rất tin tưởng nơi cô!

***

Vài tháng sau đó, một buổi sáng khi tôi vừa vào đến văn phòng, ngạc nhiên thấy trên bàn một chiếc đồng hồ để bàn mạ vàng với logo nhà bank, và một cây bút pilot thật to, nặng, nạm vàng, đề tên tôi với một chiếc card cám ơn; đọc xong tôi ù té chạy lên văn phòng bà Leclerc, nhưng văn phòng bà đã đóng cửa, tắt đèn, bà đã không còn đó nữa, chỉ có cô thư ký gặp tôi, cô gật đầu chào tôi cung kính:

- Thưa cô Lyly, bà giám đốc đã gởi thư từ chức cả tháng nay rồi, bà đã rời sở làm từ chiều qua, bà nói sẽ đến một tỉnh khác ở với con trai, vì con trai bà đã bỏ hẳn hút sách, rượu chè, đã tìm được một công việc phù hợp với anh ta ở Calgary, cậu ta muốn mẹ lên ở với cậu ấy cho có mẹ con; bà nói đây là một tin vui mà bà đã chờ đợi từ lâu lắm rồi, nên bà đã dứt khoát bỏ Montreal, bỏ công việc và đi theo con, bà nói cậu ấy chính là nguồn sống cả đời của bà, bà không muốn con bà lại bỏ nhà đi hoang vì cảm thấy cả đời bơ vơ vì mẹ chỉ ôm ấp công việc, sự nghiệp riêng của bà mà thôi, bà chuyển lời cám ơn cô Lyly rất nhiều vì chính cô đã đem cho bà niềm hy vọng và tin tưởng trong cuộc sống, bà nhờ tôi nhắn với cô như thế!

***

Cây bút pilot, món quà may mắn mãi đi theo tôi cho đến ngày về hưu, mỗi lần nhìn thấy nó, xoa tay lên nó, như có ông thần hộ mệnh vậy, việc khó bao nhiêu cũng giải quyết được; cây viết chỉ là vật vô tri nhưng nó đã cùng tôi trải qua những kỷ niệm vui buồn, đấu trí, chịu đựng, gian nan trong việc kiếm miếng ăn nơi xứ người.

Bỗng tôi nảy ra một ý, phải giữ cây bút cho bóng bảy, màu vàng óng của ban đầu để sẽ trao lại cho thằng cháu nội sau này, thế hệ tiếp nối, nó sẽ tiếp bước bà nội, học giỏi, tạo dựng sự nghiệp, tương lai vững chắc, hơn hẳn thế hệ của chúng tôi:

Sự đời gió cuốn mây trôi,
Lòng người tĩnh tại, vạn lời hóa không.
Bền gan vững chí mà trồng,
Một ngày rễ vững, cây trông hóa rừng. (vô danh)

 

Sỏi Ngọc,

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23596
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Apr/2025 lúc 8:48am

Chị Tôi Bên Bến Sông

wichansumalee%20Portfolio:%20Stock%20Photos,%20Vectors,%20Video,%20Audio%20|%20Depositphotos

Năm tôi lên bốn, chị đã lên mười. Người ta nói chị mãi là đứa trẻ bốn tuổi. Tôi không hiểu vì sao lại thế. Có lẽ vì chị chẳng khôn hơn tôi được bao nhiêu và mẹ lúc nào cũng phải săn sóc chị giống hệt tôi. Lên bảy tuổi, tôi bắt đầu thấy chán ghét chị. Sao chị lại khù khờ như thế, để bạn bè trong lớp trêu chọc rằng tôi có người chị điên, chị tàn. Mỗi lần đi học về ngang nhà tôi, bọn thằng Ân, thằng Tuấn lại hát to: 

Bống tàn ăn quả dưa gang

Ăn nhầm lựu đạn nổ toang cả nhà. 

Tôi nghe mà tức lộn ruột, chỉ muốn lấy đá ném cho chúng một trận. 

Bống là tên chị tôi. Mẹ tôi kể, năm chị bốn tuổi thì bị chó dại cắn, sau bao nhiêu thuốc thang cứu chữa chị vẫn mê man. Hơn nửa tháng sau, chị tỉnh dậy, khỏe mạnh. Nhưng mẹ chưa kịp vui thì nhận ra chị không còn bình thường như trước nữa. Bác sĩ bảo thần kinh của chị bị ảnh hưởng, chậm phát triển trí tuệ nhưng mẹ không tin, nói đúng hơn là mẹ chưa thể chấp nhận được chuyện đó. Tháng tháng đôi lần, mẹ dẫn chị lên chùa khấn vái, cầu trời khấn Phật để chị được bình an vô sự. Chẳng biết trời có thấu, Phật có hay, nhưng chị tôi không biết thêm được gì nữa. Chị tôi mãi bốn tuổi là như thế. Khi tôi bắt đầu hiểu chuyện, tôi thương chị nhiều hơn. Những lời trêu chọc của đám bạn, tôi nghe dần rồi cũng thành quen. 

Năm tôi mười một tuổi, một hôm chị hái trộm xoài nhà người ta, bị đuổi đánh, rách cả vạt áo. Họ chửi: “Điên! Điên cái ngữ gì mà khôn thế!” Tôi nghe thấy liền vội chạy nhanh về nhà. Chị bị mẹ mắng, ngồi thu mình sau hè, thấy tôi, chị xòe tay đưa ra quả xoài xanh. Tôi nghẹn ngào ôm lấy chị, hai hàng nước mắt trào ra. 

Tôi vào trường cấp hai, đi học cách nhà bốn cây số. Tôi học giỏi, có nhiều bạn, nhưng thân với Hưng và Ngọc hơn cả. Một lần, đám bạn cùng lớp kéo nhau về nhà tôi. Mẹ tôi bẻ ngô nấu một nồi to tướng. Nhà tôi lụp xụp, nền đất, nuôi nhiều gà vịt, chúng ị ra khắp sân. Mấy đứa bạn đi cùng khó chịu ra mặt, chúng tụ tập ở gốc cây mít ngoài ngõ, không chịu vào nhà vì nhìn thấy chị tôi thẫn thờ đi trong sân. Đến lúc ngô chín, chúng bỏ về gần hết vì thấy nhà tôi bẩn, chị tôi điên, chúng không dám ăn ngô vì sợ lây bệnh. Thằng Hưng, bạn thân nhất của tôi, bàn tay siết chặt giận dữ: “Một lũ khốn nạn”. Ngọc thì không nói gì, lẳng lặng lấy một bắp ngô đưa cho chị tôi. Chiều hôm đó, nhà tôi ăn ngô thay cơm. Thằng Hưng và cái Ngọc mang về một ít. Số còn lại, mẹ tôi mang biếu hàng xóm. Từ đó, ngoài Hưng và Ngọc ra, tôi không bao giờ dẫn thêm đứa bạn nào về nhà nữa. 

Lên cấp ba, tôi, Hưng và Ngọc mỗi đứa mỗi lớp. Cả ba đứa đều nguyện vọng thi vào trường Sư phạm nhưng Hưng theo khối A, Ngọc khối D, còn tôi khối B. Ngoài giờ học thêm toán cùng nhau vào buổi tối, chúng tôi ít có thời gian gặp nhau. Dẫu vậy, tình bạn của chúng tôi vẫn bền chặt, keo sơn. 

Mùa hè, trời nắng như đổ lửa, chị tôi có lẽ vì thế mà bệnh nặng thêm. Chị hay ôm đầu, tự đập vào tường rồi lại rì rầm những tiếng nghe không rõ. Chị nói suốt ngày đêm. Tôi thương chị nhưng cũng có chút bực dọc vì không thể tập trung học được. Lắm khi, tôi lại ngửa mặt lên trời, muốn hỏi trời cao, chúng tôi, những kẻ sống một đời thiện lương, đến con kiến cũng không nỡ giết, sao ông trời lại nhẫn tâm với chị như vậy. 

Vào đại học, Hưng ngỏ lời yêu tôi. Tôi bối rối tìm cách hoãn binh. Tình cảm của Hưng bao năm qua không phải tôi không biết. Tôi cũng không phải sắt đá đến nỗi không biết rung động. Nhìn mẹ tôi ngày một già đi, tôi ao ước gặp được một người chân thành và chấp nhận được chị tôi để tôi có thể đưa mẹ và chị về sống cùng. Hưng yêu tôi nhưng cậu có đồng cảm với những trăn trở của tôi hay không, tôi không chắc. 

Một hôm, Ngọc bảo tôi đến trung tâm bảo trợ xã hội nuôi dạy trẻ mồ côi, người khuyết tật của thành phố cùng cô ấy. Ngọc chỉ một cậu bé, nói với tôi: 

– Đó là Khang. Nó bị thiểu năng trí tuệ. Lúc mười tuổi được đưa vào đây, hiểu biết của nó như một đứa trẻ sáu tuổi. Được các thầy cô ở đây dạy bảo, mỗi năm, nó lại thêm một tuổi, nó sống ở đây bốn năm rồi. Giờ thì đã khá hơn. 

Ngọc lại chỉ tay về phía một cô gái khác:

– Chị ấy là Bảo Trâm. Chị ấy bị tai nạn, bố mẹ mất cả, đi lại khó khăn nhưng học rất giỏi, đang học năm thứ ba trường Cao đẳng đấy. 

Ngọc bảo rằng cô ấy đã tìm hiểu rất kĩ nơi này. Có rất nhiều người khuyết tật đã trưởng thành từ nơi này và khuyên tôi nên đưa chị vào đây. Tôi hiểu sự chân thành của Ngọc và đằng sau ấy có thể là sự quan tâm tế nhị của Hưng dành cho tôi vì cả ba chúng tôi vẫn thân thiết với nhau. 

Nhưng suy đi tính lại, khi bàn bạc, mẹ tôi cương quyết không cho chị vào trung tâm bảo trợ xã hội. Mẹ bảo, chị được mẹ sinh ra thế nào thì sẽ ở với mẹ thế ấy. Nhìn chị sống như một đứa con mồ côi mẹ không đành lòng. Tôi cũng không đành lòng. Chị chỉ như một đứa trẻ, nếu không có mẹ và tôi ở cạnh, không biết chị sẽ thế nào, liệu có được ăn no, có được tắm rửa sạch sẽ, hay lại bị người khác bắt nạt, thậm chí đánh đập vì sự khù khờ của mình. 

Rồi chị vẫn ở với chúng tôi như ngày nào và mẹ nhận thêm việc nấu ăn cho đoàn công nhân ở công trường. Buổi sáng, mẹ nấu luôn cả phần cơm trưa cho chị rồi đi làm, chiều muộn mẹ mới về. Còn tôi, sau khi nhận làm gia sư cho một cậu học trò lớp chín và một cô bé lớp bảy, tôi có thể tự trang trải chi phí sinh hoạt của mình. Cuộc sống của ba mẹ con tôi khá hơn. Tối tối, bên chiếc ti vi, chị ngồi trong lòng mẹ xem phim. Tôi mải mê với sách vở. Cuộc sống thanh đạm nhưng thật bình yên. 

Một dạo, chị tôi bỗng lười ăn, mỗi bữa chỉ lưng bát cơm. Được mấy hôm, chị bảo không muốn ăn nữa. Mẹ tôi mua cho chị lọ nước yến hay hộp sữa nhưng uống vào chị nôn ra hết. Mẹ tôi mặt tái xanh đưa chị đến bệnh viện. Người ta khám cho chị rồi bác sĩ bảo, chị đang mang thai. Cái thai đã được mười một tuần tuổi. Cái tin như một cú sét đánh ngang tai. Mẹ tôi sững sờ, run rẩy, chân như muốn khuỵu xuống. Mẹ trừng mắt nhìn chị, cố kìm giận dữ nhưng vẫn gằn lên từng tiếng: “Là ai? Từ khi nào?”. Chị run sợ, nép mình vào chân tường, ngồi co ro như chú cún con bị ướt mưa. Mẹ hết dỗ ngọt lại đến dọa nạt, nhưng tra hỏi kiểu gì chị cũng không nói. Rồi mẹ bắt đầu khóc. Mẹ gào lên như một đứa trẻ. Mẹ trách ông trời, mẹ trách cuộc đời, rồi lại tự trách mình. Lòng tôi đau như cắt. Tôi hận ông trời, hận cuộc đời này và hận cả bản thân mình. Giá mà tôi ở bên chị nhiều hơn, quan tâm đến chị nhiều hơn thì đâu đến nông nỗi. 

Sau một đêm thức trắng, mẹ ngậm ngùi nói những lời dứt khoát: “Bỏ cái thai đi. Đã không biết bố đứa bé là ai, nó lại điên điên khùng khùng như vậy, làm sao nuôi được con. Đẻ ra chỉ tổ làm tội con mà thôi. Đời nó khổ quá rồi, đừng để phải khổ thêm nữa”. Tôi chưa hết bàng hoàng thì chị tôi đã lao đến ôm chân mẹ, nấc lên từng tiếng một: “Không! Không! Con của Bống. Không được bỏ. Bống nuôi con”. Mẹ dỗ dành chị, rồi lại chuyển sang la mắng nhưng không lay chuyển được ý muốn của chị. Chị muốn có con. Lúc này, chị không còn là một đứa trẻ nữa. 

Mẹ tôi tâm hướng Phật, đâu muốn tạo nghiệp nhưng đời chị khổ quá, mẹ tôi xót xa. Hai ngày chị bỏ ăn, chống đối. Nhìn thấy sự thay đổi của chị, mẹ cũng phải suy nghĩ lại. Ừ thì đầu óc nó như một đứa trẻ nhưng nó cũng đã gần ba mươi. Cái đầu nó không theo kịp tuổi, nhưng trái tim nó, biết đâu, lại theo kịp. Thôi đành, con dại cái mang. Ngày qua ngày, mẹ chăm chút chị nhiều hơn. Hàng xóm tiếng xì xào bán tán nhưng mẹ và chị mặc kệ. Chị hay nhìn xuống cái bụng bầu của mình, áp tay vào đó, đôi mắt lim dim như thể cảm nhận được nó – đứa bé ấy. Những lúc thế này, nhìn chị chẳng có vẻ gì là điên cả. 

Rồi cũng đến ngày mãn nguyệt khai hoa, chị tôi sinh một bé trai kháu khỉnh. Mẹ tôi ẵm đứa bé, đặt vào lòng chị, bày chị cách cho con bú. Ngày đêm mẹ không rời chị nửa bước, sợ chị ngủ quên lúc cho bú, sẽ đè ngộp con. Căn phòng nhỏ tôi hay ngồi học, mẹ kê thêm chiếc giường cho mẹ con chị một chốn riêng tư trong thời gian ở cữ. Xóm giềng, cô bác, người ta cũng dần cảm thông, vừa mừng, vừa thương cho chị. Họ hay biếu chị khi chục trứng gà, khi đôi lốc sữa để chị bồi dưỡng. Không giống như cách chị chơi với con búp bê ngày trước, với đứa bé, chị nâng niu nó một cách kì lạ. Mỗi lúc nó cười, trên gương mặt chị toát lên vẻ rạng rỡ, dịu dàng. Đứa bé dường như biết thương mẹ, nó ít quấy khóc và bú nhiều, ngày càng phổng phao trông thấy. Mẹ tôi đặt tên nó là Minh, mong sao nó có một tương lai tươi sáng. 

Thấy cảnh nhà cửa chật hẹp, lại thêm một đứa trẻ, mẹ tôi dành dụm xây thêm một gian nhà ngang dành riêng cho mẹ con chị. Tuy gọi là nhà riêng nhưng chị vẫn ăn cùng cả nhà, chỉ có buổi tối mẹ con chị mới về phòng để ngủ. 

Rồi một thời gian, tôi thấy chị rạng rỡ hơn, chị chăm lo cho đứa bé tốt hơn và trên khuôn mặt người đàn bà nửa điên dại dường như có một niềm vui giấu kín. Tôi thấy chị dần trở nên sạch sẽ, gọn gàng. Một linh cảm trong tôi lớn dần. 

Một buổi tối, tôi thức dậy giữa đêm. Mẹ tôi khó ngủ nên gần sáng bà mới ngon giấc. Cảm giác một điều gì đó rất lạ, tôi nhè nhẹ mở cửa, bước sang bên nhà ngang. Dưới ánh trăng mờ sáng, qua cánh cửa sổ khép hờ tôi nhìn thấy chị tôi và một người đàn ông đang quấn chặt vào nhau. Những âm thanh rên rỉ và tiếng da thịt chạm vào nhau khiến tôi đỏ mặt. Nhưng chị không giống bị người ta cưỡng bức, chị cũng hòa quyện, đung đưa theo hắn. Không lẽ đó là bố đứa trẻ? Tôi đứng chôn chân, nhìn hai bóng đen hòa quyện dưới ánh trăng. 

Cả đêm hôm ấy, tôi không sao ngủ được. Mỗi lần nhắm mắt lại, hình ảnh hai cái bóng mờ ảo quấn quýt vào nhau lại hiện ra. Tôi không biết có nên nói với mẹ chuyện này hay không. Nhìn những thay đổi gần đây của chị, tôi biết, chị đang yêu. Chị sạch sẽ, ít nói những câu vô nghĩa hơn. Người điên, họ vẫn có thể yêu chứ, bởi vì họ cũng có trái tim. Nhưng tôi lo lắng, không biết chị có bị người ta lợi dụng hay không. Dù sao, về bản chất chị vẫn là một kẻ điên. Trên đời này, có người đàn ông nào lại ngu ngốc đi yêu một kẻ điên dại chứ? Tôi quyết định im lặng, tự đi tìm cho mình một câu trả lời. 

Đúng như tôi linh tính, hôm sau, hắn lại đến. Hắn cúi xuống thơm nhẹ má đứa bé đang say giấc. Rồi hắn mò sang nằm bên cạnh chị, ôm ấp, vuốt ve. Nhìn cách hắn mơn trớn chị, tôi tựa hồ như đang có kiến bò khắp người. Một cảm giác rất lạ dâng lên khiến tôi hoang hoải, mất phương hướng. Tôi dám khẳng định hắn chính là cha của bé Minh. Nhưng vì sao hắn không đến nhận? Hắn có thật sự yêu chị tôi? Hắn xấu hổ khi yêu một kẻ điên hay hắn tìm đến chị chỉ để thỏa mãn dục vọng? Lòng tôi giằng xé giữa bao ngổn ngang. Tôi quyết định nếu có lần nữa sẽ ra mặt, gặp hắn để làm rõ mọi chuyện. 

Khi ánh trăng lên đến đầu ngọn tre, một bóng đàn ông lẻn vào. Tôi toan gõ cửa thì linh cảm có người đang đứng ngay sau lưng. Bất giác, tôi quay lại. “Mẹ!” Tôi kêu lên, bàng hoàng. Nghe có tiếng người, hắn lao vọt ra khỏi cửa, bỏ chạy. Nhờ ánh trăng chiếu rọi, tôi nhận ra bóng hắn xiêu vẹo, khập khiễng. Một bên chân hình như bị thọt. Chị đứng ngây dại giữa màn đêm tối đen. Mẹ tôi tra hỏi dữ dội: “Là ai, đấy là thằng nào?” Cuối cùng, chị cũng nhận, hắn chính là cha của bé Minh. Ngày đó, chị đang tắm ở sau chòi, hắn vô tình đi ngang qua khi cả nhà đều đi vắng. Hắn chiếm đoạt chị. Một lần đó rồi thôi và chị có bầu. Nhưng sau khi chị sinh bé Minh, hắn đã quay trở lại, mang trứng, mang sữa, mang bánh trái cho chị. Và rồi, đêm đêm, hắn lại đến, để sống giây phút được làm chồng, làm cha lén lút.

Mẹ tôi chửi chị ghê lắm: 

– Mày làm thế mà không biết tởm à, mày có biết nó là ai không, là gã thọt chuyên mò hến ven sông. Thằng ấy cũng dở người nên không ai lấy. 

Chị khóc, tóc chị rũ rượi: 

– Nhưng anh ấy là bố đứa bé. Anh ấy thương con. Cả xóm này không ai yêu con cả, chỉ có anh ấy thôi. 

Mẹ tôi dẫn chị ra bờ sông, bế theo đứa bé, dẫn đến cái nhà tạm bợ của người đàn ông kia. Khi nhìn thấy mẹ tôi và đứa bé, anh ta bỗng trèo tót lên ngọn một cây. Hành động ấy càng làm mẹ tôi điên tiết. 

– Này, cái thẳng dở người kia, mày có chịu xuống đây nói chuyện cho tử tế không hả? 

Nghe mẹ tôi mắng, hắn biết mẹ tôi đã biết mọi chuyện, sợ bị bắt đền, càng ở tít trên cây không chịu xuống. Mẹ tôi giận lắm, nổi đóa lên: 

– Mày mà không chịu xuống đây, tao lấy dao chặt gốc cho mày chết luôn.

Chị tôi tưởng mẹ làm thật, ngăn mẹ lại: 

– Mẹ để con khuyên anh ấy. 

Chị bế con, đứng dưới gốc cây, nước mắt lã chã: 

– Anh xuống đi. Anh mà không chịu xuống, em bế con nhảy xuống sông luôn. 

Rồi chị dịu dàng đưa tay vẫy vẫy. Thằng bé con cũng làm theo mẹ, cái tay bé xíu đung đưa. Người đàn ông ngượng ngùng, tụt xuống, rồi chạy lại bên chị, ôm đứa bé, hôn hít rối rít. 

Mẹ tôi bảo: 

– Chúng mày đã nhận nhau, dù điên dại thì cũng phải ở nơi tử tế. Cái lều ven sông này không hợp. Đứa trẻ cần có bố. 

Rồi mẹ nhìn người đàn ông kia, quyết liệt: 

– Còn mày, mày đã là cha đứa bé, phải có trách nhiệm với mẹ con nó. Mau sửa soạn, gói ghém đồ đạc về đó ở cùng mẹ con nó. Có mắm ăn mắm, có muối ăn muối. Một ngày vợ chồng, nghìn năm ân nghĩa, huống chi chúng mày… 

Mẹ tôi bỏ dở câu nói. Chẳng biết hắn có hiểu được không, nhưng hắn chạy nhanh vào nhà, lấy mấy bộ quần áo cho vào cái túi, hớn hở đứng nép bên chị tôi, rồi lủi thủi theo mẹ về nhà. 

Từ ngày có hắn về, chị tôi vui vẻ, nói cười nhiều hơn. Những lúc ở cạnh bé Minh và người đàn ông kia, trông chị chẳng điên, hắn cũng chẳng dở. Chiều chiều, chị tôi lại bế con ra ngõ, đợi hắn đi cào hến dưới sông về. Từ phía xa, người đàn ông mồ hôi nhễ nhại nhưng gương mặt tươi tỉnh chạy vội về phía hai mẹ con. Thấy cảnh ấy, tôi lại nhớ đến Hưng, thầm nghĩ, có lẽ đã đến lúc tôi phải chuẩn bị cho hạnh phúc của riêng mình rồi. Và mỗi khi ráng chiều tắt hẳn, cả nhà tôi lại quây quần bên mâm cơm. Ngôi nhà như sáng hơn bởi có bóng dáng đàn ông và tiếng bi bô con trẻ./


Diệu Phúc

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23596
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Apr/2025 lúc 11:40am

Hồi Ký Miền Nam | NHẤT QUYẾT VỀ QUÊ (Hai Hùng SG)

<<<<<<

Về%20quê



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/Apr/2025 lúc 11:44am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23596
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Apr/2025 lúc 11:10am

Cái máy phát điện khởi động sình sịch mấy tiếng ngắn rồi chạy đều. Bóng đèn trên trạm thu mua nối nhau bật sáng lên. Trong bóng đêm, nhà lưa thưa, đèn vàng leo lét, gian nhà sàn bây giờ phựt sáng. Ánh đèn sáng choang một góc xóm biển. Cơm chiều xong, công nhân tụ lại làm việc, chuẩn bị để chuyển hàng xuống ghe. Tiếng thùng kéo lôi, thảy nện trên sàn nhà, tiếng cười, tiếng nói, gọi nhau ồn ào. Gian nhà này dùng làm nơi nhận và chuyển hàng. Không có hàng lên, hàng xuống, hay không có ai bày ra ăn nhậu, thì nơi này thường vắng vẻ lắm; thỉnh thoảng mới có người ra ngồi hút thuốc, nhìn sóng đùa cùng biển nước một lúc, rồi cũng bỏ đi.

Có một văn phòng nhỏ, kế bên là kho chứa và giữ lạnh cho các cây nước đá, cùng các thùng tôm đã ướp lạnh. Chính giữa chừa trống, để có chỗ cho các thứ công việc chính như: thu nhận nước đá, hải sản, vô thùng, chuyển hàng xuống ghe… Cái máy xay giờ được kéo ra khoảng trống, gần bên cửa kho. Tiếng máy chạy rầm rĩ. Mỗi lần nó ngốn cây nước đá khua nghe rổn rảng, inh ỏi. Tôi lấy cái thùng xô, bước lên trên trạm. Chú Miên, công nhân chạy máy, hiểu ý ngay, cười tươi:

- Nước đá?

Hỏi để hỏi, để chào hỏi. Miệng hỏi tôi, tay chú Miên đã đón lấy cái thùng đưa ngay vào máy và hứng nước đá. Soạt cái là được nửa thùng. Chú Miên lấy tay ém đá xay xuống, rồi hứng tiếp.

- Dà, lưng thùng được rồi chú!

Tôi nói xong thì thùng xô đã đầy. Chú Miên đưa lại cho tôi:

- Kệ nó, nhầm nhò gì

- Cám ơn chú… anh Thà cho mớ cá với mực hồi chiều, tính để sáng mai mới mần…. Sắp xuống hàng chưa chú?

Tôi giải thích cho có chuyện để nói; không ai thèm thắc mắc với vài xô nước đá. Chú Miên hất mặt hướng về hàng thùng đã đậy nấp, sẵn sàng chuyển xuống ghe, và chừng hơn một lố còn mở nấp, chờ ướp thêm đá xay:

- Gần xong rồi, … còn hơn chục thùng gì đó thôi!

Tôm thu mua từ mấy hôm trước, được cho vào thùng và ướp lạnh ngay, để giữ cho tươi trong kho. Khi đến hạn, hoặc đủ số lượng chuyển về công ty; trước khi xuống hàng, thùng tôm được mở ra để kiểm lại, rồi đổ thêm nước đá mới xay cho đầy thùng, cùng lúc với số tôm mới thu mua trong ngày.

- Ngon lành…. Tụi tui chuẩn bị để xuống hàng!

Tôi cám ơn chú Miên thêm, rồi đi trở về ghe.

Ngó Vũ đang đứng ngóng tin bên trên mui, tôi vui vẻ báo tin:

- Sắp xong!

Nằm chờ cho đủ hàng ngoài trạm thu mua chán lắm; vừa buồn vì không có chuyến chở hàng, vừa buồn vì ngoài này buồn lắm. Gì chớ, có hàng, có chuyến chạy và được chạy về thành phố thì vui rồi. Vũ cũng vui lắm, chỉ chờ nghe vậy, tuột ngay xuống mui cho máy chạy, rồi mở đèn lái trên mui và các đèn trong khoang ghe, để công nhân chuyển hàng xuống. Tôi dọn dẹp khoang ghe; chỉ cần kéo gom mấy tấm bạt ra phía sau, thế là lòng ghe trống ngay. Ba mươi sáu thùng tôm. Chất ba thùng ngang, chừa lối đi hai bên trong lòng ghe, hàng dọc để sáu thùng; chỉ cần hai tầng là xong. Vẫn còn nhẹ, so với trọng tải 15 tấn của ghe. Được trả tiền theo chuyến. Mình cầu cho ít hàng, nhẹ ghe, dễ lái, ít hao dầu. Nhiên liệu là một trong các thứ cần thiết hàng đầu, khi trốn đi. Nhầm những lúc biển động, thu mua ít tôm, thì “nhà nước” phải chịu. Họ không thể neo ghe vận chuyển, hay giữ tôm tồn kho lâu ngày, tôm sẽ bị hư. Công nhân trên trạm và hai đứa tôi, phụ nhau chuyển các thùng hàng xuống ghe, chỉ một lúc ngắn thì xong. Vũ và tôi lấy mấy tấm bạt, phủ trùm lên khối thùng tôm sắp gọn giữa lòng ghe, cho kín gió, giữ đá chậm tan. Xong, Vũ vào trong mui ghe sẵn sàng điều khiển máy, tôi leo lên mũi ghe đi lên trạm để tháo dây.

Như thông lệ, xuống hàng xong, thì dọn dẹp và kế đến, ít nhiều cũng có… lai rai, để giải lao. Tối nay, không phải vô nhiều thùng tôm mới. Chỉ cần chuyền vài thùng nước biển lên, dọn rửa nước tôm trên sàn nhà, là xong việc. Cái máy xay nước đá đã được kéo dẹp vô vách kho hàng. Phía trong sàn nhà, nơi còn khô ráo, nhóm công nhân đang bao quanh cái bàn nhỏ có mớ mực khô và chai rượu trắng. Thấy tôi, anh Bền ngồi bên ngoài, cầm cái ly trên tay, bóc miếng mực khô, nhanh nhẹn đứng dậy đi xuống cầu tàu, gọi lớn:

- Để đó đi!... tui mở dây cho mà!... Nè!.. làm miếng cho ấm!

Tôi vói tay đón lấy miếng khô mực và ly rượu, cho anh Bền rãnh tay tháo dùm đầu dây cột trên trạm.

Luật bất thành văn, “làm (một) miếng” cũng có nghĩa là cạn ly. Rượu trong veo, “nước mắt quê hương” đấy, lấp lánh, sóng sánh ngang đường ngấn của ly “xây chừng”. Tôi cám ơn anh Bền và đưa ly hướng về nhóm công nhân trong bàn: “Dzô!”

Tôi uống cạn cái “xây chừng”, cho cạn tình, cạn nghĩa.

Anh Bền tháo dây, cuộn tròn và thẩy xuống mũi ghe.

Tôi cám ơn anh Bền và vẫy tay từ giả chung:

- Tụi tui dìa nghen!

Quấn nhanh sợi dây, tóm cho gọn chặt vào mũi ghe. Tôi kéo cây sào lên, chống đẩy cho mũi ghe xoay hướng ra ngoài lòng sông. Chiều tối, sông và biển trống vắng như lúc này; mình tắt máy, làm như ghe hư máy, cứ để dòng nước đưa dần ra ngoài khơi... Tôi nuối tiếc, quay về với thực tại và chạy nhanh lên mui ghe để giữ cần lái. Chờ tôi cầm lấy cần lái, Vũ đạp “embrayage” và tay gài cần số cho ghe chạy tới; điều khiển cái động cơ John Deere của ghe, giống như nó còn đang chạy chiếc máy cày. Chân vịt khởi động, đạp nước phùn phục. Sức đẩy cuộn vòng thành sóng, đập mạnh vào bánh lái. Cần lái rung động trong lòng bàn tay, cùng rung động, lao chao, thúc dục trong lòng tôi. Tôi ngước nhìn biển khơi. Biển của tôi đây. Biển của ước mơ đang rộng mở, đợi chờ. Tự do trong tầm mắt, nhưng xa quá, hãy còn ngoài tầm tay. Tay kéo tăng dần tốc độ máy, tay đẩy nhanh cần lái sang phải; tôi đưa chiếc ghe khẻ nhóng mũi lên và nghiêng mình quanh vòng sang trái, để chạy trở về thành phố.

Sau lưng tôi, đèn trên trạm thu mua rồi cũng mờ khuất trong màn đêm. Biển khơi lùi xa dần. Biển của tôi rất thật, thật gần, nhưng còn ngăn cách. Mỗi lần quay tàu trở về, tôi bồi hồi, nao nao; cứ quay nhìn biển khơi sau lưng, lòng đầy nuối tiếc. Hơn một năm rồi. Ra đến biển, nhìn đại dương mênh mông, mong chờ, để rồi lại quay trở vào. Cái nao nao, bồi hồi hôm nay càng thêm bồn chồn với chuyện ghe của anh Bá, ba con Lượm, mới đi. Chữ “đi” bây giờ rất là phổ thông, sau khi cộng sản chiếm miền Nam, nhất là trong xóm ven biển này. Chỉ mỗi một chữ “đi” ngắn ngủi ấy, nó kể lại cả một chuyện dài đầy nước mắt. Nước mắt của người đi cùng người ở lại; và cho dù người ra đi có tìm đến được bến bờ tự do, hay ra đi mà không bao giờ đến.

Trạm thu mua không phải lúc nào cũng là nơi an bình, vui vẻ. Chỗ trống trên trạm cũng từng là nơi của công an dùng để giam giữ, để lục xét các nạn nhân trên tàu vượt biên, không may bị chúng nó bắt được. Những lúc ấy thì ồn ào lắm, mà xót xa lắm. Không ai muốn chứng kiến đồng bào mình bị tra tấn. Sàn nhà rung chuyển. Không gian náo loạn. Trạm đầy ấp người. Công an, lính võ trang ở địa phương hung bạo la hét, xoay quần những người bị bắt. Thuyền nhân xác xơ, tay bị trói, ngồi co ro, mắt sợ hãi nhìn những khuôn mặt vênh váo khoái trá đang ghìm mũi súng với lưỡi lê đầy hăm dọa. Thêm một dịp, những kẻ xưng danh “quân đội nhân dân” và “công an nhân dân” cùng chia chát tiền vàng cướp được, vừa lập công với đảng, dâng thành tích lùng bắt những "thằng phạm", "con phạm" vượt biên.

Chữ nghĩa của cộng sản gọi đồng bào mình như thế đấy!

Thế đấy, đồng bào đã "phạm" cái tội mà cái đảng và bạo quyền cộng sản rất là căm thù cấm kỵ, đấy là "tội" đi tìm Tự Do!
. . .
Hồi ký của một linh mục Dòng Jesuit, người trước đây từng phục vụ ở vùng Đông Dương và đã quay lại để giúp các thuyền nhân, cung cấp một tường thuật sinh động về tình trạng vô cùng bi thảm tại một trại tỵ nạn ở gần bãi biển của Thái Lan:

“Mỗi buổi sáng, khi chúng tôi đi xuống các bãi biển, sẽ có những thi thể - đàn ông, phụ nữ và trẻ em – trôi dạt vào bờ trong đêm qua. Đôi khi, có đến hàng trăm xác người, trông như những mảnh gỗ trên bãi biển. Trong số xác người đó, có nhiều cô gái đã bị hãm hiếp sau đó ném xuống biển để rồi chết đuối. Bi thảm tột cùng mà ngôn từ không thể nào kể lại được ... Đôi khi, cũng có người, với một phép lạ nào đó, họ vẫn còn sống sót. Họ nằm trên bãi biển vì kiệt sức hoặc bất tỉnh. Họ trôi dạt vào bờ trong đêm, chúng tôi đã giúp họ hồi sinh và chăm nom họ, khi chúng tôi tìm thấy.

Tất nhiên, thời tiết đã gây nhiều tai hại cho thuyền nhân. Có nhiều chiếc thuyền vượt biển thật nhỏ bé, mong manh, tồi tàn. Cũng có nhiều khi, người tỵ nạn bị nhà cầm quyền Việt Nam bắn chận và kéo tàu họ về Việt Nam, những người phạm tội vượt biển còn sống sót thì bị tù đày. Thế nhưng, thảm nạn cướp biển có lẽ là nguyên nhân trầm trọng nhất, trong các vụ giết người. Bọn cướp biển chận bắt gần như tất cả ghe thuyền vượt biên. Trước tiên, chúng nó tìm kiếm vàng, thậm chí còn tàn bạo đến mức kéo cạy lấy vàng bọc răng từ trong hàm răng của mọi người. Điều tiếp theo thu hút chúng nó, chính là những cô gái trẻ. Những tên cướp biển lo ngại bị bắt, và cách tốt nhất để không bị bắt với tang chứng là phá hủy chiếc thuyền và giết hết tất cả những người mà chúng đã hãm hại, và thậm chí chúng nó còn ném các cô gái xuống biển, khi đồng bọn đã thỏa mãn ... Sau đó, các thi thể thuyền nhân bị cuốn trôi vào bờ biển hoặc chỉ chìm mất vào trong lòng biển.”

Đoạn hồi ký trên được trích từ trang 105 & 106, trong quyển Running On Empty, Canada and the Indochinese Refugees, 1975-1980, cùng biên soạn bởi các tác giả Michael J. Molloy, Peter Duschinsky, Kurt F. Jensen, và Robert J. Shalka. Đây là một bộ tài liệu lịch sử dày đến 582 trang, được biên soạn rất công phu. Trong đó, có ghi lại biết bao chuyện thương tâm về người tỵ nạn cộng sản tại Đông Dương, về thuyền nhân Việt Nam. Những thảm cảnh đã được thế giới biết đến và gọi là “Asian Holocaust”; như thời Holocaust, 1941-1945, khi người Do Thái bị quân Nazi lùng bắt và tàn sát. Trang 112 có một tường thuật về chế độ man rợ của cộng sản như sau:

“Vào cuối tháng Mười Hai năm 1978, có gần 200.000 người tỵ nạn trong các trại tạm cư trên khắp Đông Nam Á …

Các phương tiện truyền thông trên toàn thế giới có đăng tin về những hành động và thái độ vô nhân đạo của bạo quyền Việt Nam đối với thuyền nhân. Thời báo New York Times đã kể lại một câu chuyện thật, thật kinh hoàng:

Các nguồn tin chính thức của Philippines hôm nay cho biết rằng quân đội cộng sản Việt Nam đã giết 85 người tỵ nạn người Việt, trong đó có 45 trẻ em, khi thuyền đánh cá của họ mắc cạn ... trên một hòn đảo ở Biển Đông. ... 8 người may mắn sống sót sau vụ thảm sát ngày 22 tháng Sáu này và cuối cùng trôi dạt đến được đất liền và ẩn náu ở Philippines ... Tài liệu đáng tin cậy đã cho biết quân đội cộng sản Việt Nam đã nổ súng vào chiếc ghe của người tỵ nạn bằng súng cối, súng máy và các thứ vũ khí tự động."

Theo Cao Ủy Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc, khoảng 200.000 đến 400.000 thuyền nhân đã chết trên biển.

Bao chuyện thương tâm của thuyền nhân Việt Nam đã được nghe biết. Hãy còn biết bao nỗi hãi hùng, đã theo thân xác của người vượt trốn chế độ cộng sản, vùi chôn trong rừng hoang hay dưới đáy biển. Biết bao chuyến đi đã không bao giờ đến được bến bờ tự do. Họ ra đi mà không bao giờ đến!

Người ta không thể quên, nhưng với lòng nhân từ, có thể tha thứ cho bọn cướp biển; họ chỉ vì ham muốn nhục dục, lòng tham nhất thời mà gây nên tội ác. Trái lại, chính sách bất nhân của chế độ cộng sản man rợ, đối với đồng bào mình, thì cả dân tộc phán quyết và sử sách muôn đời khắc ghi.

Chuyện người, như chuyện mình, như sóng uất hờn muôn đời còn cuộn dậy trên Biển Đông.

Chiều nay, xóm biển sau lưng tôi lại xót xa đau, mong chờ tin người đã ra đi!

“Chiều ra biển đứng ê chề
Tìm trên ngọn sóng… có về xác em
Vớt rong rêu… ngỡ tóc mềm
Quay về hướng gió… tưởng em thơ dại
Tìm trong bọt trắng… thân người
Nghẹn ngào dấu vết còn phơi lõa lồ
Xác em… nay ở phương nào
Tấp sang đất Thái hay vào Nam Dương
Có khi xác vượt trùng dương
Trôi về Bắc Mỹ trách hờn người yêu
Biển lớn cuốn em đi… Biển lớn cuốn em đi…
Rời xa, rời xa,… rời xa mãi!
Biển ơi, trả cho ta... Biển ơi, trả cho ta...
xác em yêu!... xác em yêu!
Chiều ra biển đứng ngậm ngùi!
Nhớ em và… nhớ cả trời Việt Nam!” *


Bùi Đức Tính



Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23596
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Apr/2025 lúc 8:37am

Núi Vẫn Xanh


Núi Vẫn Xanh là tên một tập truyện của nhà văn Hà Kỳ Lam, trong đó tác giả thuật lại chuyện một sĩ quan Mũ Xanh, chỉ huy một toán thám sát bị địch quân bao vây. Sau khi chống cự kịch liệt, bị quân địch tràn ngập với quân số gấp trăm lần quân mình, nghĩ không thể thoát được, ông gọi máy bay dội bom ngay trên đầu mình... Hai bên đều tan nát. May mắn bất ngờ, ông và một đệ tử sống sót. Sau nhiều ngày đêm vượt núi rừng về gần tới trại thì được dân chúng cho biết tin tan hàng, cờ địch đã treo trước trại. Ông sững sờ nghĩ đến sự hy sinh vô ích của mình cùng các bạn đồng ngũ.


Người chiến sĩ Mũ Xanh quay nhìn lại núi rừng, nơi còn nguyên thân xác các bạn đồng đội. Ông không đang tâm trở lại thị thành một mình. Tất cả đều đã thay đổi, nhưng lòng ông không thể đổi thay. Ông lặng lẽ trở lại núi rừng, nơi đất nước đồng đội Ông còn nằm lại. Chỉ ở nơi đó, Ông thấy không có gì thay đổi, Núi Vẫn Xanh như thuở nào.

Bài thơ dưới đây cảm tác sau khi đọc xong đoạn kết tuyệt vời câu chuyện kể trên. Bài thơ để tặng nhũng chiến sĩ vô-danh đã nằm xuống cho xanh núi rừng, và riêng tặng tác giả tập truyện, nhà văn Hà Kỳ Lam.”

Núi Vẫn Xanh

Đất nước ta: đất nước hữu tình,
Lịch sử bao phen đã chuyển mình,
Lòng người thay đổi theo hồn nước
Núi vẫn muôn đời núi vẫn xanh.
Nước vẫn chảy xuôi, nước một dòng,
Lòng người chung thuỷ một con sông.
Nào ai yêu nước ai bán nước,
Ai đẩy đưa ai đến khốn cùng?!
Núi vẫn xanh... và gã chiến binh
Giờ tàn cuộc chiến đứng chênh vênh,
Bạn bè quân ngũ ai còn mất?
Ta kẻ lạc loài, núi vẫn xanh.
Ta biết về đâu? Hỡi Lạc Hồn !
Hỡi dòng máu nóng giống Tiên Long!
Từ đây ta hóa vào sông núi,

Núi vẫn xanh hoài, suối vẫn trong...


Nguyễn Tường Vân


Cả 4 tay súng của toán thám sát Biệt Cách Nhảy Dù vẫn bố trí lưng chừng đồi theo hình cánh cung để bảo vệ người toán trưởng và hiệu thính viên đằng sau lưng họ trên đỉnh đồi từ nãy giờ đang hướng mặt về phía đối diện để quan sát đám người lố nhố dưới kia, trong thung lũng trãi dài hai bên con suối ngoằn ngoèo như con rắn bạc lấp lánh dưới ánh nắng ban trưa chói chan của một ngày đẹp trời tháng tư. Hết quan sát những người xê dịch dưới thung lũng lại cúi nhìn đồng hồ, người trưởng toán có vẻ nôn nóng:

– Ít nhất là 1 tiểu đoàn. Có thể là K25B công binh như tin tình báo cho hay. Mẹ kiếp, máy bay lên chậm thế này để chúng di chuyển hết thì hoài công.
– Không sao đâu, ông thầy. Bọn nầy có vẻ còn ở đây lâu đấy, vì nhiều tên còn đang tắm, thậm chí giặt giũ nữa kia.
Bỗng hiệu thính viên Thịnh đưa ống liên hợp cho thiếu úy Tuấn:
– Thằng L 19 đang lên vùng và cần gặp ông thầy.
Tuấn bóp chặt ống liên hợp, đưa lên miệng:
– Họa Mi đây Thạch Ðộ, trả lời.
Giọng miền Nam của viên phi công vang lên trong ống nghe:
– Thạch Ðộ đây Họa Mi, bạn điều chỉnh hướng bay khi bắt đầu thấy tôi để xác định vị trí bạn, trả lời.
– Họa Mi đây Thạch Ðộ. Tình thế khẩn cấp lắm, tôi sẽ nháy mắt để anh có thể thấy tôi nhanh hơn, trả lời.
– Tôi nhận bạn 5 trên 5, và trực máy.
Tuấn đưa tay vẫy Tâm, một toán viên dưới lưng chừng đồi đang ngoái đầu nhìn lên anh. Khi người lính vừa bò đến gần Tuấn khẻ ra lệnh:
– Mày ra chỗ lúc nãy chờ, khi thấy thằng L19 thì chiếu kiếng cho nó thấy mình.
Lần hành quân nào cũng vậy, Tuấn chỉ giao công tác chỉ điểm này cho Tâm. Không hẳn vì anh chàng làm công việc này giỏi hơn các toán viên khác – Tuấn có bao giờ sát hạch môn này cho cả toán đâu mà chấm điểm được – nhưng tình cờ một lần giao công việc này cho anh lính và thấy được việc nên Tuấn chẳng muốn “thay đổi nhân sự”.

Gài khẩu M16 vào khoen leo núi móc gần vai bên phải, Tâm bò về phía mõm đồi cỏ tranh cách xa bên trái của Tuấn khoảng 100 thước. Lúc mọi người vừa thoáng thấy chiếc máy bay quan sát màu trắng ở nẽo xa thì Tâm cũng vừa quỳ tại bải cỏ tranh ngập nắng, rút từ túi áo trên cái kiếng hình chữ nhật chỉ hơi lớn hơn chiếc hộp quẹt Zippo và nâng lên ngang mắt, nhìn từ phía sau kiếng qua lổ nhắm ở trung tâm kiếng để hướng cái chấm đỏ của tia mặt trời nằm thẳng hàng với phi cơ đang bay. Ðoạn anh ta khẻ lắc nhẹ để tạo sự nhấp nháy. Bỗng một tràng tiếng nổ dòn vang lên, cùng lúc Tâm bật ngữa ra sau rồi nằm bất động. Cả toán biết điều không lành đã đến với người đồng đội, ghìm súng ở tư thế đối đầu với mọi hướng. Thịnh nằm cạnh Tuấn khẻ nói:
– Ð.M. tụi nó ở đầy cả rừng rồi!

Tuấn chưa kịp đáp lời người lính mang máy truyền tin thì những trái đạn sơn pháo 75 ly, đạn cối 82 ly, và những loạt AK47 thi nhau đổ về phía toán đang bố trí trên đồi. Cành cây, đất đá bắn tung tóe vào thầy trò Tuấn. Không cần lệnh của người toán trưởng, mỗi toán viên nằm thủ tại chỗ. Họ biết trong tình thế loại này tháo chạy hoặc co cụm lại với nhau chỉ tổ lãnh thêm thiệt hại. Tuấn nhìn qua các toán viên và thấy tất cả còn “nguyên”. Thịnh trao ống liên hợp cho Tuấn:

– L19 gọi.
Tuấn chụp máy :
– Họa Mi đây Thạch Ðộ.
– Ðây Họa Mi, tôi vẫn chưa thấy bạn nhưng thấy nhiều cột khói và nhiều lằn chớp dưới đó.
– Ðang bị ném đá. Tôi đang ở hướng 3 giờ của anh.
Sau hai lần “bẻ góc” nữa, chiếc máy bay quan sát từ xa gióng chính hướng ngọn đồi lướt tới. Tuấn cho viên phi công biết đang bay đúng hướng và sẽ báo cho anh ta biết khi nào máy bay vừa ngang qua đỉnh đồi. Súng địch vẫn nổ dòn, mưa đạn vẫn tới tấp đổ về ngọn đồi, khiến công việc điều không của anh càng khó khăn. Nằm dài trên mặt đồi để tránh tầm đạn đi, bên chiếc máy truyền tin, tay cầm ống nói áp sát một bên tai, mắt vẫn ngước lên dõi theo chiếc L19 trên không đang tiến gần vị trí mình, rồi ngay lúc nó vừa ở trên đầu, Tuấn bóp ống liên hợp, nói như reo:
– Họa Mi, anh đang ở ngay trên đầu tôi, trả lời!
– Thạch độ đây Họa Mi. Nhận bạn rõ 5. Rất tốt.
– Họa Mi đây Thạch Ðộ. Cứ trực máy, tôi sẽ có việc cho anh.
Tuấn vừa trao ống liên hợp cho Thịnh tiếp tục liên lạc với máy bay để bò gần về phía bìa rừng quan sát trãng cỏ tranh, thì thình lình tiếng súng im bặt. Mấy giây sau cả rừng vang tiếng thét “xung phong”. Rồi trước mặt Tuấn, từ hướng mõm đồi cỏ tranh nơi Tâm quì chỉ điểm cho phi cơ vừa rồi, và từ hướng trước mặt toán lố nhố người cứ ùn ùn tiến tới. Hóa ra đợt bắn phá vừa rồi là trò đánh phủ đầu để bộ binh tiến sát. Bóng dáng những bộ quân phục kaki màu lá cây, nón tai bèo cứ xông lên bất kể những tràng đạn M 16 đốn ngã từng đợt người. Khoảng 1 trung đội địch tiến hàng ngang đã lên tới đỉnh đồi, cách bọn anh không đến 10 thước, với tiểu liên AK kẹp nách bắn xối xả. Một tên địch gần Tuấn hơn ria một tràng đạn về phía anh, nhưng, như một phép lạ, anh vô sự. Thịnh nhanh tay siết cò súng hạ hắn đo đất. Nhiều tràng M16 đáp lễ ngăn được chốc lát sự “tiếp cận” kia. Lúc này 2 chiếc A37 cũng vừa xuất hiện và bay cao hơn chiếc L19. Trung sĩ Hiến báo cáo 2 sự kiện dồn dập: Châu bị nguyên 1 tràng đạn AK vào ngực, chết ngay trên đồi, và địch bây giờ tràn lên đông hơn. 
Tuấn ra lệnh cả toán rút xuống triền dốc về phía thung lũng. Anh biết thung lũng đang có 1 đơn vị lớn của địch. Anh chỉ muốn bỏ ngọn đồi, men theo triền dốc, rồi xin phi pháo đánh ngay trên đồi để toán tiện bôn tẩu. Nhưng di chuyển một đoạn ngắn thì nhiều tràng AK từ dưới chân đồi khạc đạn xối xả về phía bọn anh. Không xong. Tứ bề thọ địch. Chỉ vỏn vẹn 4 tay súng mà tử thủ với biển người hay liều mạng phá vòng vây trùng trùng của địch thì phỏng ích lợi gì? Tuấn bấm ống liên hợp:
– Họa Mi đây Thạch độ.
– Họa Mi nghe. Bạn cho biết cần gì?
– Anh cho đánh ngay trên đầu chúng tôi.
– Không được! Bạn xác nhận lại, đánh ở đâu?
– Tôi, thẩm quyền Thạch Ðộ nhắc lại đánh ngay trên đầu chúng tôi và bất cứ chỗ nào có người. Ðịch tràn ngập rồi, không chần chờ gì nữa. Ðánh ngay đi. Dứt!

Tuấn trả máy cho Thịnh trước vẻ mặt hốt hoảng của anh này. Không có thì giờ và cũng không cần giải thích về quyết định của mình với người lính truyền tin của toán, Tuấn nép sau một thân cây to để tránh các tràng tiểu liên AK từ dưới chân đồi vẫn không ngừng quạt lên. Trên đỉnh đồi bây giờ đã lố nhố người của đối phương. 4 người thám sát Biệt Cách Dù chỉ còn biết tử thủ: Hiến và Sắc chĩa súng về hướng đỉnh đồi, còn Tuấn và Thịnh quay súng xuống chân đồi. Cả 4 tay súng chiến đấu trong một ô vuông mỗi cạnh khoảng 10 thước. Họ bắn dè xẽn từng ba phát một nhưng rất hiệu quả, và nhờ vậy đã làm chậm bước tiến của địch. Trong khi đó chiếc L19 vẫn chưa chịu thi hành điều Tuấn yêu cầu, cứ bay lòng vòng bên trên. Anh “thông cảm” cho người phi công, nhưng không khỏi tức giận vì cảnh dầu sôi lửa bỏng của mình. Anh ta phải xin lệnh từ Trung Tâm Không Trợ về điều yêu cầu “điên khùng” kia, và chắc đang chờ trả lời. Tuấn cũng lấy làm lạ lần này không có biệt đội trưởng hay một sĩ quan của Liên Ðoàn bay L19 hay trực thăng C&C như mọi lần. Thình lình mọi người cùng nghe rõ âm thanh “chéo-éo-éo... đoành!” Một cột khói trắng bốc cao và cuồn cuộn tỏa ra như một đám mây, vươn lên khỏi tàng cây rừng ngay đỉnh đồi mà toán thám sát vừa rời bỏ. Tuấn biết viên phi công quan sát vừa bắn một trái khói chỉ điểm mục tiêu oanh kích. Ðiều yêu cầu của anh đang được đáp ứng. Tuấn vẫn nép sau thân cây. Rồi anh bỗng thấy hành động nấp sau thân cây rõ lẩm cẩm vì biết bom sẽ rơi hướng nào. Nhưng đành phó mặc cho may rũi, anh cứ ngồi bên gốc cây. Tuấn tưởng chừng như anh đang gồng mình lại, các bắp thịt toàn thân như rắn lại, chờ đợi sấm sét giết người từ trời cao... 

Chiếc oanh tạc cơ thứ nhất đâm bổ xuống ngay trên đầu Tuấn, rồi hẳn nhiên đã đạt tới một độ thấp vừa đủ, con chim sắt ấy lại vút lên cao vài giây trước khi 2 trái bom từ dưới cánh đâm thẳng xuống quả đồi của anh. Tuấn không dám tiếp tục ngẩng nhìn lên trời. Anh nằm cúi mặt xuống, thân chịu trên hai cùi chỏ để tránh áp ngực với mặt đất. Anh thấy vài con kiến ung dung bò trên nền lá khô. Thốt nhiên Tuấn cảm nhận được cái mong manh của thân xác mình lúc này – khác gì những cái kiến kia! Chỉ có mỗi một khác biệt là anh đau khổ chờ đón cái chết chóc, cái hủy diệt, còn chúng thì không hay biết gì cả, vẫn thản nhiên, vẫn ung dung cho đến khi nào cái chết xảy ra là xong, không còn cảm giác nữa. Chúng hạnh phúc hơn anh trong lúc này. Từng khuôn mặt thân yêu trong gia đình diễn hành nhanh qua trí anh: mẹ anh, các em, và chị. Rồi anh nghĩ đến Trinh thật xa xăm và cũng thật gần. Anh có còn trở lại cổng trường Trưng Vương nữa không? Rồi bên tai anh nghe mơ hồ giọng 1 ca sĩ quen thuộc với “em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại. Xin trả lời mai mốt anh về..” Tuấn lại nghĩ đến tập thể tuổi trẻ Sài Gòn: không có anh trong đó! Và trong cái khoảnh khắc chờ đón 1 sự hủy diệt khủng khiếp sắp giáng xuống mọi người, 1 khoảnh khắc rất ngắn nhưng cũng rất thiên thu, giác quan anh đón nhận cả 1 trình tự ngoại vật lướt qua chóng vánh: âm thanh động cơ phản lực gầm thét qua đầu, tiếng bom xé gió, hàng loạt tia chớp lóe lên, từng tràng tiếng nổ kinh hồn, và mặt đất rung chuyển. Tuấn bị nhiều nguồn lực từ mọi hướng đẩy bật ngữa rồi xô tới trước hoặc xoay vòng; anh có cảm giác ngực bị ai đấm 1 quả rõ mạnh, tức đến khó thở. Ðất, sỏi ùn lên hắt vào người anh. Khói đen tỏa ra chung quanh, không khí khét lẹt mùi thuốc nổ. Tuấn biết 1 trái bom đã đáp cách anh không xa, đào 1 hố rõ to và làm dạt một mớ cây nhỏ bên trái anh, tung tóe đất lên quần áo anh. Riêng thân cây to vẫn đứng vững và hiển nhiên đã hứng hết những mãnh bom, đất đá và sức ép cho anh. Anh sờ khắp người để thấy mình vô sự. Trái bom khác rơi trên đỉnh đồi đã bật gốc 1 cây cổ thụ, tạo nên một âm thanh phụ nghe đánh ầm và làm trống hẳn một khoảng rừng.

Tuấn bò qua những cành cây gãy đổ ngổn ngang, tìm Thịnh nhưng không thấy hắn đâu cả. Trong mọi tình huống anh phải có máy bên cạnh mình. Nhưng chiếc A37 lại đang đâm bổ xuống đầu Tuấn một lần nữa. Anh vội ngồi nấp sau một thân cây. Có lẽ đây là chiếc thứ hai, đang theo gót phi tuần trưởng của nó vừa rồi. Dù sao thì anh sắp hứng chịu một “trận đòn thù” nữa. Lại “ầm! ầm!” rồi mấy tiếng “ầm” phụ nổi lên. Tuấn lại bị lộn nhào một lần nữa, và anh giật bắn người khi thấy một cây cổ thụ vừa bật gốc ngã sóng soài cách anh không đầy 1 thước. Giá mà nó phang ngay anh thì còn gì nữa! Ngọn đồi bỗng “đổi mới”; cây ngã la liệt. Tuấn vẫn tìm Thịnh, tìm trung sĩ Hiến – người toán phó – và Sắc. Toán may ra thì còn được 4 mạng, kể cả anh. Tâm và Châu đã ra đi rồi! Nhưng sao thế này: im phăng phắc – địch đâu rồi, và ta đâu rồi? Bỗng lá cây lay động sột soạt sau lưng. Tuấn quay phắt lại, khẩu M18 dưới nách chỉ thẳng vào bóng người từ trong bụi rậm vừa đứng lên.
– Sắc đây ông thầy.
Tuấn thở phào một cách dễ chịu. Anh khẻ nói:
– Mày không sao chứ?
Anh lính khẻ lắc đầu thay lời đáp. Tuấn biết mình vừa hỏi một câu không cần trả lời; nó chỉ có nghĩa của một câu xác định, “à, may quá còn có mày.” Anh đang lo cho số phận của các toán viên.
– Trung sĩ Hiến và Thịnh có sao không?
Sắc vừa nói vừa đưa tay chỉ về hướng hơi chếch đỉnh đồi:
– Ông Hiến bị thương nằm ở đằng kia. Ổng hỏi thăm ông thầy, và bảo em đi tìm.

Tuấn muốn đến gặp ngay trung sĩ Hiến xem tình trạng thương tích của ông ta ra sao, nhưng anh phải tìm Thịnh trước vì máy móc truyền tin là linh hồn của toán. 2 chiếc phản lực bây giờ đang ở tít trên mây; tiếng động cơ của chúng nghe nghe rất xa và đứt đoạn. Chiếc L19 vẫn quầng trên đầu hai người. Có lẽ viên phi công đang gọi Thạch Ðộ khàn cả tiếng, Tuấn nghĩ thế. Quái, Thịnh biến đâu mất với chiếc máy truyền tin. Tuấn vẫn nhớ hắn chạy theo sau anh và nấp gần đây trước khi bom rơi. Tuấn bỗng nẩy ra ý nghĩ bới tìm trong mớ cây cối đổ ngổn ngang ngay cạnh hố bom. Và trong lúc hai thầy trò đang len lõi bò vào từng đống cây lá nằm bên trên hoặc bị vùi lấp dưới lớp đất mới thì phía trảng cỏ tranh một tiếng nổ phát ra và một cột khói trắng bốc cao. Anh biết viên phi công máy bay quan sát vừa bắn 1 trái chỉ điểm cho phản lực đánh bom xuống nơi anh ta vừa thấy địch ẩn núp đâu đó. Trong tiếng rít của 2 chiếc A37 trên đầu, tiếng rền và chấn động liên hồi của bom, Tuấn chợt nghe giọng gọi đầy khích động của Sắc:
– Ông thầy ơi.
Tuấn nguớc nhìn theo ngón tay trỏ của người lính và thấy cách họ vài thước khúc cần ăng-ten của chiếc máy PRC25 nhú ra khỏi mớ đất vàng tươi mới tinh khôi dưới mấy cành cây phủ lên. Anh lặng người mấy giây, cảm thấy đôi chân như không đứng vững nỗi. Giọng nói Tuấn nghe yếu ớt qua hơi thở:
– Moi đất ra.

Hai người hì hục lôi các cành cây bỏ sang một bên, dùng tay bới mớ đất bột lên. Chiếc máy truyền tin bị thủng, móp méo, vỡ nhiều chỗ, từ từ lộ ra, rồi màu áo rằn ri bày ra, dính đất và máu. Tuấn và Sắc cùng nâng người Thịnh đang nằm sấp lên. Xông pha trận mạc đã nhiều, đã trông thấy bao nhiêu xác chết của cả đôi bên, nhưng anh phải nhận chưa bao giờ thấy một xác người như thế này, nói chi xác ấy là đồng đội, là thuộc cấp của mình. Cả người Thịnh từ bụng lên vai bị mất tùng mãng thịt lớn, và xương vai một bên bị gãy. Nhưng cái chân, ôi cái chân trái, anh không biết phải nói thế nào... đứt đến trên đầu gối, chỉ còn dính tòn teng với toàn thân bằng một mãnh da rộng bằng một bàn tay, và thịt chỗ hai đầu bị cắt lìa trở nên xám đen giống như vừa bị nướng trên lửa!

Sắc mở thử máy truyền tin. Chỉ là một cục kim khí im thin thít vô dụng. Chợt nhớ tới trung sĩ Hiến, hai người thận trọng di chuyển, và Sắc dẫn đường ngược lên đồi. Họ bước qua nhiều xác lính Bắc Việt nằm đủ vị thế – nghiêng, ngữa, sấp, hay cong queo. Tuấn cúi xuống bên người toán phó, xem xét vết thương ở bụng. Có vẻ một mãnh bom đã cứa một đường dài và sâu trước bụng. Anh thử xốc người thương binh lên nhưng anh ta nhăn nhó một cách đau đớn:
– Ối, ông thầy để tôi nằm đi.
– Trước khi bom nổ anh đã rút xuống triền dốc với toán mà sao lại ở đây?
Trên gương mặt tái xanh vì mất nhiều máu của Hiến, Tuấn thấy một sự cố gắng dùng sức mới bật ra thành tiếng:
– Tôi chạy lên để... kéo xác thằng Châu xuống... kẻo bom dần nát mất nhưng..
Hiến ngưng nói, vẻ mệt nhọc, đưa lưỡi liếm quanh vành môi tái nhợt và khô khốc. Sắc mở nắp bi-đông, khẻ nâng đầu anh lên và kề miệng bình nước vào môi. Tuấn nhắc:
– Cho uống ít thôi để giữ cho máu bớt chảy.
Trong khi tháo cuộn băng cá nhân để băng cho trung sĩ Hiến, Tuấn vẫn thận trọng quan sát chung quanh. Anh thấy nhiều xác chết đối phương rãi rác khắp nơi. Xác Châu nằm cách trung sĩ Hiến khoảng 5 thước, mắt còn nhìn lên trừng trừng. Anh rón rén bò đến bên người toán viên vẫn hay di chuyển hàng đầu trong các cuộc xâm nhập của toán, đoạn từ từ vuốt cho đôi mắt nhắm lại. Rừng im phăng phắt. Có lẽ chúng chỉ di tản những kẻ bị thương. Những người nằm kia đều “câm nín”. Sau khi đảo lại mấy vòng để bắn rocket và đại liên 12 ly 7 xuống một điểm mới dưới thung lũng do phi cơ quan sát chỉ điểm, 2 chiếc phản lực đã rời vùng. Chiếc L19 vẫn còn lượn trên không phận hành quân. Tuấn vừa quay sang bảo Sắc lấy chiếc pa-nô tìm cách trãi để ra hiệu cho máy bay biết mình có mặt tại chỗ thì bỗng rừng núi lại rền vang từng tràng nổ. Tuấn nói:
– 12 ly 7.
Chiếc L19 vụt cất cao lên và mất hút vào khoảng không. Tuấn đề nghị khiêng trung sĩ Hiến men theo triền dốc về hướng Bắc cho xa vùng giao tranh được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Anh đoán địch sẽ chiếm lại đồi này. Bỗng dưng trung sĩ Hiến quàng một tay ôm chặt chân Tuấn và thều thào nói:
– Ông thầy đi đâu anh em cũng đi theo ông thầy. Bây giờ ông thầy bỏ anh em...
Tuấn định thốt một lời an ũi, hay trấn an nhưng bàn tay trung sĩ Hiến đã buông rơi khỏi cổ chân anh, đầu ngoẹo sang một bên, mắt nhắm nghiền như đi vào một giấc ngủ. Anh lay mạnh vai Hiến:
– Anh Hiến! anh Hiến!
Chỉ có tiếng gió ngàn xào xạc đáp lại. Rừng chiều hửng nắng ở những đồi xa. Sắc bỗng vỗ vào cạnh sườn Tuấn và chỉ về hướng trãng cỏ tranh. Lố nhố một đoàn quân dàn hàng ngang đang tiến lên đồi của anh. Họ vận kaki xanh, nón tai bèo, súng kẹp nách, vai đeo ba lô. Hai thầy trò vội lom khom chạy về phía triền dốc, rồi di chuyển về hướng Bắc men theo sườn đồi.
Ði được 1 giờ, vượt qua vài con suối, mấy quả đồi thấp, Tuấn dừng lại xem bản đồ, đoạn bảo Sắc đổi hướng, đi về đông theo phương giác 1800. 5 giờ chiều. Ðêm rừng bao giờ cũng đến nhanh. Trong ánh sáng nhá nhem 2 thầy trò kẻ trước người sau cứ tiếp tục luồn lách qua cây lá, bụi rậm. Rồi sực nhớ phải có 1 độ quan sát tối thiểu mới có thể chọn 1 vị trí ngủ đêm an toàn, Tuấn khẻ nói với người toán viên đồng hành:
– Ta lên đỉnh đồi trước mặt tìm chỗ nghỉ đêm.
Mới hơn 4 giờ sáng Tuấn đã thức giấc. Bao giờ người lính hành quân cũng thức giấc sớm, vì giấc ngủ đến vào khoảng 7 giờ chiều thay vì 1-2 giờ sáng ở những “đêm đô thị”. Trời còn tối mịt. Anh nằm nghe ngóng một lát, đoạn đưa tay sờ lưng võng của Sắc. Một giọng nói rất khẻ:
– Ông thầy thức rồi hả?

Rồi ánh sáng nhờ nhờ đổi dần sang trắng đục. Rồi mọi vật bỗng hiện rõ trước một ngày đang lên. Có vài tiếng chim hót. Có vài tiếng hú đâu đó bên một ngọn đồi khác, rồi không biết bao nhiêu tiếng hú cất lên vang cả một vùng đồi núi, cơ hồ như tiếng hú này lây sang tiếng hú khác, và cứ thế truyền đi khắp nơi. Tuấn đã quá quen với các tấu khúc bình minh của rừng núi. Hai người cuốn võng bỏ vào ba lô, dọn dẹp “sạch sẽ” chỗ đất dưới chân, lùa mớ lá cây chung quanh phủ lên, không để lại một dấu vết nào có thể tố cáo sự hiện diện của 2 thầy trò. Sắc mở 1 bịch gạo sấy, rót nước từ bi-đông vào bao làm một bửa ăn sáng. Tuấn chẳng thấy đói, tuy suốt ngày hôm qua anh chỉ ăn có một gói cơm sấy vào buổi sáng. Tâm trí anh quay về với những gì đã xãy ra. Bị lộ, trận oanh kích, những xác đồng đội bị bỏ lại, và bây giờ 2 nguời lạc lỏng giữa rừng không máy móc liên lạc để biệt đội biết tung tích. Anh có trách nhiệm gì với những thuộc cấp vừa ra đi vĩnh viễn kia? “Ông thầy đi đâu anh em cũng theo ông thầy. Bây giờ ông thầy bỏ anh em...” Tuấn thấy miệng đắng khi nuốt nước bọt. Anh thèm một điếu thuốc, và một ly cà phê. Anh nhìn Sắc đang ngồi ăn, nhìn xuống khẩu M18 gác trên đùi mình, ngước nhìn bầu trời xanh biếc ban mai. Sắc vụt hỏi:
– Bây giờ tính sao, ông thầy?
– Không có máy móc, không biết ở nhà thế nào, còn ở nhà cũng chẳng biết mình sống chết ra sao. Cứ tiếp tục đi về hướng Ðông, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, càng gần nhà càng tốt. Có trực thăng thì trãi pa-nô cho nó thấy mình. Thế nào biệt đội cũng cho máy bay đi tìm.
– Cha con nó bị thiệt hại nặng. 2 chiếc A37 đánh hiệu quả thật. 

Sườn đồi bên kia và trãng cỏ tranh lãnh trọn mấy trái bom. Em thấy chung quanh chỗ ông Hiến nằm ít nhất cũng cả chục xác nằm la liệt. Ông thầy có để ý không? Ðợt bom đầu tiên chận đứng ngay cuộc tấn công. Em nghĩ có lẽ chúng kêu phòng không đến tiếp cứu sau này, vì suốt trong khi oanh kích đâu có khẩu 12 ly 7 nào hoạt động đâu.
Tuấn đồng ý với phần lớn những lập luận của Sắc, nhưng anh chẳng thấy hứng thú bàn luận về chiến trận vừa qua. Tỷ số tử vong của chiến trường và tỷ số tử vong của lòng mình, cái nào làm nên chiến thắng? Ðợi cho người lính ăn xong và đào đất lấp mọi dấu vết, Tuấn đề nghị lên đường.
Sang đến ngày thứ ba 2 người vẫn tiếp tục băng rừng, ngày đi đêm nghỉ. Còn khoảng 20 cây số đường chim bay nữa mới về đến bộ chỉ huy của Liên Ðoàn. Cả hai đều thấy ngao ngán. 20 cây số đường chim bay, điều đó có nghĩa là 4-5 mươi cây số đường núi, mà tốc độ di chuyển băng rừng – chứ không phải theo theo đường mòn – có nhanh lắm cũng chỉ đạt tới 7 cây số một ngày.

20 cây số đường chim bay, điều đó có nghĩa là 4-5 mươi cây số đường
núi mà tốc độ di chuyển băng rừng có nhanh lắm cũng chỉ đạt tới 7 cây số một ngày.

Nhưng điều bất ổn trong lòng họ không phải đường về dịu vợi, đầy đe dọa, bất trắc, lương thực cạn. Cái bất ổn là không trung vắng lặng. Từ cái buổi sáng đầu tiên sau khi bỏ ngọn đồi và đồng đội ở lại anh và Sắc không hề thấy thấp thoáng, dù xa, bóng dáng một chiếc máy bay. Lạ thật. Không 1 chiếc trực thăng, không 1 chiếc L19, không 1 chiếc vận tãi, không 1 chiếc oanh tạc cơ phản lực, thậm chí không 1 chiếc máy bay dân sự, không có gì ráo trên bầu trời quang đảng. Chưa bao giờ như thế, ít ra từ ngày Tuấn vào lính; chưa bao giờ có một ngày không có một hoạt động nào của Không quân. Anh ngồi nghỉ mệt trên một ngọn đồi, tựa lưng vào một thân cây, dựng súng bên cạnh. Sắc ngồi xếp bằng trên mặt đất, cạnh Tuấn. Người lính cảm thấy bồn chồn khi nhìn vẻ tư lự của người chỉ huy. Anh ta không dám hỏi bất cứ điều gì lúc này. Tại sao bầu trời vắng lặng thế này? Sao không nghe một tiếng đại bác, một tiếng bom nổ xa xa? và vân vân. Cuối cùng, không nén nỗi những băn khoăn trong lòng, Sắc lên tiếng:
– Em thật không hiểu nổi. Chắc có chuyện gì đây, chứ không thể nào Liên Ðoàn đem con bỏ chợ như thế này.
– Tao cũng chịu thua, không hiểu nổi. Ðành rằng mình không có phương tiện liên lạc, không biết tình hình ở nhà hay các đơn vị bạn ra sao, nhưng Liên Ðoàn vẫn có thể cho trực thăng đi tìm. Ðằng này bặt vô âm tín. Mà cái điều lạ lùng nhất là không có bóng dáng một chiếc máy bay nào cả, chứ đừng nói trực thăng C&C của biệt đội. Tao cũng nghĩ như mày: chắc có biến cố gì đây. Ðiều cần nhất bây giờ là bằng mọi cách phải gắng về tới bộ chỉ huy Liên Ðoàn. Mầy còn mấy gói gạo sấy?
– Dạ 3 gói, và không tới nửa chai xì dầu.
– Tao còn 5 gói. Tao sẽ đưa thêm cho mày 1 gói. Mỗi thằng như vậy có 4 gói.Tao ước tính từ đây về tới Liên Ðoàn có thể mất 6-7 ngày nữa. Bây giờ tao tạm ấn định kỷ luật dùng lương khô là mỗi thằng chỉ được ăn nửa gói một ngày. Cố gắng chịu đựng như vậy thì mới đủ sức mà lết về tới nhà. Tao nói 6-7 ngày là trong giả thuyết di chuyển vô sự, không đụng địch.
Ðiều Tuấn nói sau cùng nhắc lại sự bất an của hai người. Trong 3 ngày qua thầy trò anh đã né tránh mấy đoàn quân dài dằng dặc. Trong đời nhảy toán của mình Tuấn chưa bao giờ thấy địch chuyển quân rầm rộ như thế. Một điều lạ lùng nữa là những đoàn người cứ nườm nượp hướng về Ðông, cùng chiều với anh và Sắc, chỉ khác là họ dùng đường mòn. Tuấn đứng dậy tháo ba lô đặt xuống đất, lôi một gói gạo sấy đưa cho Sắc, đoạn cả hai lên đường.

Tuấn nhìn đồng hồ tay: 3 giờ chiều. Tuy gần cuối ngày, cái nắng như nung như đốt của tiết trời miền Nam đầu tháng Năm vẫn chưa dịu đi chút nào. Ðưa bi đông lên miệng tu một ngụm nước xong, anh xoay xoay tấm bản đồ, nhìn thật kỷ những vòng cao độ nâu lẫn xanh nhạt, rồi ngước nhìn địa thế chung quanh. Cho chắc chắn, anh mở cái địa bàn, xoay cho hướng bắc của bản đồ trùng với hướng mũi tên của địa bàn, đoạn anh đối chiếu chi tiết bản đồ với địa thế một lần nữa. Anh hân hoan nói với Sắc:
– Tới vùng Tân Uyên rồi!
– Chắc không, ông thầy?
– Bảo đảm!
Hai thầy trò bỗng thấy khỏe khoắn trong người, mặc dù mới trước đó mấy phút họ cảm thấy gần kiệt sức sau 6 ngày băng rừng lội suối với những cơn đói triền miên làm bủn rủn chân tay, hoa cả mắt. Nhìn lại đoạn đường dài gian nan, hiểm nguy, Tuấn thấy thương hại Sắc. Hắn ta to con, ăn khỏe, nên trong mấy ngày qua quả thật là một chuỗi ngày khốn khổ “tận cùng bằng số” đối với hắn. Tuấn bảo:
– Bây giờ mày có thể ăn nốt nửa bịch gạo sấy cuối cùng cho đỡ đói. Còn vài cây số nữa là tới chi khu rồi, tha hồ mà gọi mì, phở, hủ tiếu...
– Lạ thật, không thấy thèm nữa ông thầy ơi. Thôi, mình đi lẹ tới chi khu đặng báo Liên Ðoàn đón.

2 người lội qua một con suối, tiếp tục đi về Ðông. Họ bước đi vững vàng hơn những ngày còn lếch thếch giữa rừng. Sau khoảng 1 tiếng đồng hồ di chuyển, nhìn xuyên qua một khoảng rừng thưa, 2 người thoáng thấy mấy nóc nhà lợp tôn của chi khu Tân Uyên ở tít đằng xa, bên kia sông. Cùng với bước tiến của Tuấn và Sắc, mọi vật rõ dần. Rồi lá cờ phấp phới trên trụ cờ tuy vẫn còn mờ mờ trong quãng xa nhưng đã đủ để thấy không phải lá cờ vàng ba sọc đỏ quen thuộc. Hai người không tin nổi mắt mình: làm thế nào mà lá cờ nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao ở giữa lại ngang nhiên tung bay nơi này. Thầy trò nhìn nhau, nhưng mỗi người theo đuỗi những suy nghĩ riêng. Sắc bỗng vỗ vai Tuấn chỉ về phía con sông trước mặt, vẫn ở nẽo xa và chen vào giữa khoảng cách từ chỗ họ đến chi khu: vài chiếc ghe cũng treo loại cờ đó. Nhìn qua mấy mái nhà tranh gần bờ sông cũng lại thấy những lá cờ đó. Sắc khẻ nói:
– Chắc chúng chiếm vùng Tân Uyên rồi. Không khéo Biên Hòa cũng di tản chiến thuật nốt.
Tuấn nói, để tự trấn an hơn là làm yên lòng người thuộc cấp:
– Không thể có chuyện đó được.
Chợt nhìn bên trái, qua một khoảng rừng chồi lưa thưa, thấy có mấy người nông dân đang cuốc đất trong một thữa ruộng, anh chợt nẩy ra ý nghĩ đến tiếp xúc họ để dò hỏi tình hình. Tiến sát mãnh ruộng, để Sắc ngồi lại trong một bụi cây yểm trợ, Tuấn cầm khẩu M18 trong tay phải, bước đến bên 4 người đang làm việc đồng áng. Họ ngừng tay, nhìn anh chằm chặp. Tuấn hỏi người lớn tuổi nhất trong nhóm người, một ông già khoảng 50, xương xẩu nhưng còn nhanh nhẹn:
– Thưa Bác, hình như chi khu đã rút đi rồi, phải không ạ?
Gương mặt thoáng bối rối, ông nhìn Tuấn từ đầu đến chân rồi nói rất khẻ:
– Chú là biệt kích 81 trong rừng mới ra hả?
– Dạ phải.
– Ông Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng từ 5-6 ngày nay rồi, từ hôm 30 tháng Tư. Ai nấy đều buông súng trở về nhà hết. Chính phủ Cách Mạng chẳng làm khó dễ gì cả. Anh em còn bao nhiêu người?

Tuấn chẳng còn nghe rõ ông già hỏi gì nữa. Anh cúi đầu rất lâu. Dòng ý thức của anh bỗng như ngừng lại – không hẳn là nó đặc quánh lại, cũng không hẳn nó trống rổng, chỉ biết nó tuồng như không còn khả năng suy nghĩ rõ ràng, mạch lạc nữa. Tuấn có cảm tưởng sau bao nhiêu suy đoán, thắc mắc, giờ đây được thực tế trả lời, trí não mình bỗng thấy “no” rồi, không đòi hỏi nữa, cũng không nhận dữ kiện nào từ ngoại giới nữa! Sắc từ trong bụi vội bước ra. Nhìn dáng điệu của người toán trưởng anh đã đoán tình hình hẳn là rất xấu. Trong ánh mắt ái ngại, ông cụ lặp lại cho người lính thứ hai nghe:
– Ông Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng hôm 30 tháng Tư rồi. Các chú nên bỏ súng ống đi, trở về gia đình thôi.
Ðến lược Sắc đứng đờ người ra. Lúc ngồi trong bụi anh đã đoán tình hình phải xấu, anh đã lờ mờ phát họa một vài viễn anh tệ hại, nhưng “xấu” như ông già này cho biết thì thật vượt quá xa dự tưởng của anh.
Ðột nhiên Tuấn ngước lên chào từ giã:
– Tụi cháu cám ơn Bác. Thôi, tụi cháu về.
Tuấn bước đi trước, và Sắc theo sau. Họ tiến về phía bờ sông. Hai người đứng nhìn dòng sông êm ả, trong vắt một hồi lâu. Rồi Tuấn nhìn Sắc, ngập ngừng vài giây, nói với một giọng hơi lạt đi, nhưng không kém dứt khoát:
– Qua bên kia sông, có thể đi bộ ra đến xa lộ, từ đó đón xe về Sài Gòn. Sắc, thôi thầy trò mình chia tay. Kể từ giờ phút này tao không còn là trưởng toán của mày nữa. Cứ tự do về với gia đình. Tao chỉ muốn nói một điều. Trong những ngày mày theo toán, nếu tao có làm những gì khiến mày buồn lòng, hoặc vì trách nhiệm, hoặc vì sai lầm, tao mong mày bỏ qua cho. Cầu chúc mày thật nhiều may mắn.
Sắc cố bậm môi để giữ cho miệng khỏi bị méo xệch. Anh ta muốn nói cả nghìn lời nhưng không thốt được một tiếng. Cúi gầm mặt xuống một lúc như cố đè cơn xúc động cứ chực bật ra thành tiếng nấc, cuối cùng anh ta hỏi:
– Còn ông thầy?
– Tao không thể bỏ toán còn nằm lại trong đó.
– Nhưng họ chết hết rồi mà.
– Chính vì vậy mà tao thấy mình không thể về nhà được. Lời nói sau cùng của trung sĩ Hiến rất đúng.


Tuấn ngập ngừng một lát, định nói thêm điều gì nữa nhưng lại thôi. Anh sẽ mang những đắng cay trong lòng mình vào rừng núi. Có lẽ anh chỉ cần nói điều đó với toán của anh vẫn còn lại trong rừng: người lính ở đâu cũng thế, chỉ là công cụ; thắng bại không phải do họ định đoạt, và vinh quang của chiến thắng cũng không thuộc về họ – có thuộc về họ chăng chỉ là những đau khổ của chiến bại và của hy sinh!

Tuấn quay lưng đi về hướng khi nãy hai thầy trò từ trong rừng ra. Trong một thoáng cõi lòng Sắc như hứng chịu bão táp tơi bời từ mọi hướng. Tìm về xa lộ sao ngập ngừng bước chân. Anh muốn rão bước theo sau người toán trưởng, nhưng hình ảnh những đường phố Sài Gòn thân thuộc giờ đây không xa lắm như níu chân anh, dù anh nghĩ nơi ấy chắc cũng đang phấp phới những lá cờ này. Rồi hình ảnh mẹ anh hiện ra thật rõ và bao trùm cả không gian. Sắc gọi:
– Ông thầy!
Tuấn quay lại. Sắc đứng ở thế nghiêm, đưa bàn tay phải lên ngang mày chào. Tuấn chào đáp lễ, đoạn quay gót tiến bước. Người lính đứng nhìn theo cái dáng gầy, phong sương xa dần rồi khuất sau ngàn lá. Anh ta lại nhìn những dãy núi xa xa ở chân trời.

… cái dáng gầy, phong sương xa dần rồi khuất sau ngàn lá.

Núi ở chân trời bao giờ cũng xanh lơ. Chắc toán của anh đang nằm trên một trong những dãy núi đó. Chắc người trưởng toán lại trèo lên nơi ấy. Sắc không sao ngăn nổi mấy giọt nước mắt từ từ lăn xuống, quyện với mồ hôi làm lưỡi anh mặn chát.


Hà Kỳ Lam
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23596
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/Apr/2025 lúc 11:00am

Phải Chi...

Graveyard%20Woman%20Images%20–%20Browse%2057,394%20Stock%20Photos,%20Vectors,%20and%20Video%20|%20%20Adobe%20Stock

Nửa khuya, tôi giật mình tỉnh giấc, mắt nhắm mắt mở đi vào nhà tắm. Đưa tay đẩy cánh cửa thì nghe có tiếng thì thào ở bên trong. Lắc đầu vài cái cho tỉnh táo, tôi áp tai nghe ngóng.

– Má yên tâm, con sống rất vui vẻ.

– ….

– Má lo chi nhiều vậy. Bộ má không nhớ người ta hay nói, lù khù có ông cù độ mạng sao? Ở đây, ai cũng thương con, ba má vợ đối đãi với con rất tử tế. Mấy đứa em vợ cũng mến con nữa. Má biết mà, từ nhỏ tới lớn con đâu có làm gì mích lòng ai.

– Con Diệu hả, nó lanh lẹ lắm. Bây giờ tiếng Mỹ của nó đỡ lắm rồi... Dạ! vợ con ở nhà lo cơm nước... con thì đang kiếm việc nhưng không biết tiếng Mỹ nên hơi khó. Nói vậy chớ má đừng lo, con sẽ ráng đi làm để có tiền gởi về cho má. Con cũng nhớ má lắm. Má nhớ giữ gìn sức khỏe, bây giờ má có một mình rủi bệnh hoạn con không biết làm sao...

Giọng nói như nghẹn lại ở câu cuối. Tôi vội vàng quay trở lại giường, cố giữ hơi thở thật đều để Tâm tưởng tôi đang ngủ say. Không thể để cho Tâm biết là tôi đã nghe anh nói dối và ngay chính tôi cũng cảm thấy ngượng ngùng vì những điều không thật mà anh đã nói về gia đình tôi. Nước mắt tôi ứa ra với lời thì thầm “Tâm ơi! cho em xin lỗi”.

--------

Tôi là chị cả trong gia đình có 5 chị em. Khi mẹ sinh đứa em kế thì mẹ gửi tôi về sống với ngoại. Ðến bây giờ tôi vẫn thắc mắc, 2 đứa con đâu phải là nhiều, sao mẹ lại đành lòng để con gái của mẹ, một đứa bé mới lên 4 đêm nào cũng khóc tỉ tê:

– Con nhớ mẹ, cho con về với mẹ.

Bà ngoại dỗ dành:

– Ngủ đi, vài bữa mẹ xuống rước con. Giỏi, bà ngoại thương.

Vài bữa mà bà ngoại nói, tôi chờ mãi đến khi 12 tuổi vẫn không được rước về mà đau lòng hơn nữa là mẹ bỏ tôi đi biệt tăm. Năm đó, ba mẹ đưa 4 đứa em đi vượt biên nhưng hình như ông bà không hề nhớ đến đứa con bạc phận đã bị bỏ quên từ thuở bé. Nghe bà ngoại nói, tôi chạy ra phía sau nhà ngồi núp dưới lùm cây khuất nơi góc vườn để giấu những giọt nước mắt tủi buồn vì số phận hẩm hiu của mình. Úp mặt vào hai đầu gối tôi khóc, khóc mãi cho đến khi có tiếng của bà ngoại và cậu Tư lao xao tìm kiếm:

– Nó đi đâu vậy kìa? Cái con nhỏ kỳ cục.

– Kỳ cái gì? Nó giận là đúng. Mấy đứa con dẫn đi hết mà bỏ nó ở lại là sao?

– Thì chắc không đủ tiền, chị mày mới làm vậy!

– Ðủ hay thiếu chuyện đó con không biết nhưng con thấy chị Hai làm mẹ mà thương con không đồng đều. Tội nghiệp con nhỏ, nó chịu thiệt thòi từ bé.

Câu nói của cậu Tư như khơi đúng vết thương trong lòng, tôi òa lên khóc tức tưởi. 

Bà ngoại chạy đến ôm tôi, nghẹn ngào:

– Ðừng buồn con... Bà ngoại thương con.

----------

Năm 20 tuổi tôi lập gia đình. Tâm, chồng tôi, là bạn học, cũng là bạn láng giềng của tôi từ thuở ấu thơ. Tâm mồ côi cha từ lúc chưa chào đời. Mẹ anh, người đàn bà góa bụa ở tuổi 19, đã ở vậy, tần tảo nuôi anh cho đến ngày khôn lớn. Hai mẹ con sống trong căn nhà nghèo nàn ở cuối xóm nhưng dưới mắt tôi Tâm là đứa con hạnh phúc nhất trên đời vì anh đã được yêu thương, bảo bọc bởi người mẹ hiền lành, đôn hậu. Khi còn ở bậc tiểu học, má Tâm thường gửi gắm anh cho tôi:

– Tội nghiệp, Tâm nó bệnh hoạn hoài nên rất yếu đuối và nhút nhát... cũng tại ba nó qua đời lúc cô có thai, cứ khóc lóc, buồn bã vì vậy nó bị ảnh hưởng. Con đi học chung, trông chừng nó giùm cô nghe.

Tôi buồn cười, vì Tâm là con trai lại lớn hơn tôi một tuổi đáng lẽ anh phải bảo vệ tôi mới đúng nhưng vì tôi rất ngưỡng mộ “người mẹ vĩ đại” của Tâm nên nhận lời ủy thác của bà. Từ đó, tôi và Tâm rất thân thiết. Tình cảm ấy theo thời gian lớn dần và chúng tôi đã trở nên vợ chồng như duyên trời đã định sẵn. Bà ngoại và cậu Tư không một lời ngăn cản nhưng mẹ tôi nổi trận lôi đình. Bà cho rằng má con Tâm dụ dỗ tôi vì biết tôi sắp được qua Mỹ. Tôi giận mẹ, tại sao chưa tìm hiểu mà đã vội nghĩ xấu cho người khác. Chẳng hạn như tôi, dù đã được ba mẹ làm giấy tờ bảo lãnh nhưng hình như trong đầu tôi không hề có ý nghĩ sẽ có một ngày tôi đặt chân đến cái xứ sở xa lạ mà tôi chưa từng biết. Tôi chỉ muốn sống với ngoại, với Tâm trong căn xóm nghèo nàn, nơi tôi đã lớn lên với nhiều kỷ niệm gắn bó, thân thương. Mặc cho ngoại khuyên nhủ, tôi cũng quyết định dẹp tất cả giấy tờ vào đáy tủ. Tôi bằng lòng với hạnh phúc đang có dù rằng cuộc sống của chúng tôi thật đơn sơ, đạm bạc.

--------

7 năm sau. 

Bà ngoại đã bắt đầu già yếu, cậu Tư thì luôn bệnh hoạn nên hai người đã giấu tôi, viết thư khẩn thiết xin mẹ làm giấy tờ bảo lãnh gia đình tôi. Khi biết được, tôi quyết liệt phản đối. Cũng như bao năm qua, dù có lúc túng thiếu cùng cực nhưng không bao giờ tôi ngửa tay nhận một đồng của mẹ. Bà ngoại biết nên thỉnh thoảng mua gạo, thức ăn và bánh trái đem cho. Khi tôi tìm cách từ chối thì ngoại nói bằng giọng lẫy hờn:

– Tao không cho vợ chồng bây. Tao cho cháu cố của tao không được sao?

Ðứa con gái lên 6 của tôi mừng rỡ, ríu rít:

– Con cám ơn bà Cố.

Tôi cũng xót xa khi không đem lại cho con mình một cuộc sống đầy đủ nhưng nỗi đau đớn, buồn tủi của đứa con bị bỏ rơi khiến tôi không muốn nhận một ân huệ nào từ ba mẹ.

Trước khi qua đời khoảng 2 tháng, bà ngoại nắm tay tôi rươm rướm nước mắt:

– Nghe lời ngoại, bổ túc giấy tờ của thằng Tâm và bé Diệu. Nếu con không nghĩ đến con thì cũng phải nghĩ đến tương lai của bé Diệu. Không lẽ, con không muốn cuộc đời của nó sau này được sung sướng như người ta sao? Ðâu phải ai cũng có thể đi Mỹ, con có điều kiện sao lại từ chối? Ngoại biết con còn giận mẹ nhưng con không thể hy sinh vì con của con sao?

Sau một tuần lễ suy nghĩ và bàn bạc với Tâm, tôi đã làm theo lời ngoại.

-----------

– Trời ơi! bộ hết người sao mà lấy cái thằng khù khờ này làm chồng!

Tôi nuốt hoài vẫn không trôi được cục nghẹn nằm chận ngang cổ. Tôi muốn nói “Mẹ có biết chính thằng khờ này đã an ủi, đã lau nước mắt cho con trong những ngày mẹ đành đoạn bỏ con ở lại để con không khác gì đứa con côi cút không?”

Nhìn dáng Tâm đứng nép mình bên cửa sổ, hai bàn tay xếp lại, vẻ mặt lấm lét, sợ sệt mà tôi đau thắt trong lòng. Hai ngày trước khi đi Mỹ, Tâm đã nói với tôi:

– Hay là em đi với con nha. Em biết... anh không phải là người giỏi giang lại rất chậm chạp, chữ nghĩa không đến đâu. Hồi trước mẹ đã không bằng lòng cho em lấy anh. Anh sợ... với lại... anh nghĩ, mai mốt má ở lại thui thủi có một mình, anh xót xa lắm. Má đã già, sức khỏe lại không tốt. 

Nhìn nét mặt đầy lo âu, buồn bã của Tâm lòng tôi nặng trĩu. Tính của Tâm xưa nay vốn nhút nhát, bây giờ lại sắp sửa phải sống với gia đình vợ hoàn toàn xa lạ và thiếu thiện cảm với anh, có lẽ đối với anh chẳng khác nào đi vào hang cọp. Tôi cố gắng thuyết phục: 

– Anh không đi thì em và con cũng ở lại. Ði đâu cũng phải có vợ có chồng. Bộ anh nghĩ emcó thể bỏ anh ở lại sao!!! Thật tình em cũng đâu muốn xa má nhưng vì tương lai của bé Diệu. Hơn nữa, qua đó đi làm có tiền mình gửi về cho má thuốc thang, chứ ở đây, lỡ má bệnh nặng hơn làm sao mình lo nổi. Cậu Tư cũng có nói, khi mình đi rồi thì cậu cho em Liên qua ở với má. Anh cũng biết, cậu mợ Tư và các em quý và thương má lắm.

-------

– Xin lỗi mẹ!

– Bộ ngoài câu xin lỗi mày không còn biết câu nào nữa hả?

Tôi không dằn lòng được nên lên tiếng biện minh cho Tâm:

– Mẹ à! cũng là mẹ đưa cho anh Tâm chai thuốc đó chứ có phải là tự ảnh đi lấy đâu mà mẹ rầy la.

Mẹ tôi hét lên:

– Tao đưa nhưng ít ra trước khi xài nó cũng phải nhìn thấy cái nhãn ngoài chai thuốc là cái sàn nhà chứkhông phải chiếc xe. Sao nó ngu si đến độ không biết rằng thuốc dùng để đánh bóng sàn nhà không phải dùng để đánh bóng xe. Trời ơi! còn gì là chiếc xe của tao.

Tôi muốn bật cười vì cách lý luận áp đặt của người làm mẹ:

– Nếu có lỗi trong việc này thì lỗi của anh Tâm chỉ phân nửa, phân nửa còn lại là lỗi của mẹ. Mẹ biết tiếng Mỹ rành rẽ mà còn lộn huống hồ là ảnh.

– Bởi vậy tao mới hỏi mày, tại sao lại đi lấy một cái thằng dốt nát. Hồi đó tao đã không chịu, bảo chờ qua đây hẵng lấy chồng mà mày bị bùa mê thuốc lú nên mới cãi lời tao.

– Mẹ nói vậy mà nghe được. Con hỏi mẹ...

Tâm kéo tay tôi, lôi vào phòng. Ðóng cửa lại, anh nhăn mặt:

– Tại sao em cứ cãi tay đôi với mẹ?

Tôi bật khóc:

– Vì em không chịu được cái cảnh mẹ nhục mạ anh.Hồi ở nhà, má cưng anh biết bao nhiêu. Má cực khổ nuôi anh từ nhỏ tới lớn chưa bao giờ nói nặng anh một lời. Má đối với em cũng hết lòng thương yêu như đứa con ruột thịt, còn mẹ em thì đối với anh tàn nhẫn, bất công.

– Không sao đâu em, anh nhịn được mà, miễn là đừng để mẹ em chửi anh là đồ mất dạy để đau lòng má anh.

Tâm nói thế nhưng những giọt nước mắt của anh đã cho tôi hiểu rằng anhphải nhịn nhục trong sự uất nghẹn.

--------

Nhìn qua một lượt khu nhà bếp sạch sẽ, ngăn nắp bằng cái nhìn hài lòng, tôi vừa định bước đi thì có tiếng chị Dao gọi:

– Ngọc ơi! cho chị gửi cái này.

Nhận phong bì từ tay chị Dao tôi mừng muốn khóc. Ðây là số tiền đầu tiên tôi kiếm được bằng công sức của mình.

– Từ ngày có em giúp công việc nhà và chăm sóc hai đứa nhỏ, chị rất an tâm. Mỗi chiều đi làm về, có sẵn cơm canh nóng sốt chị thấy khỏe hẳn ra. Chị cám ơn em rất nhiều.

Tôi nhìn chị, nước mắt rưng rưng:

– Em cám ơn chị mới đúng. Nếu không có chị thì anh Tâm và em đâu có việc làm. Ðã vậy, chị còn cho tụi em chỗ ở, sửa sang đủ thứ mà không lấy tiền.

Chị vỗ vai tôi cười thân mật:

– Ðâu có tốn kém gì, chỉ là sơn phết lại một chút thôi. Giúp được hai em chị cũng cảm thấy vui, nhất là thấy Tâm lúc này đã thành thạo công việc. Chẳng bao lâu nữa cuộc sống tụi em sẽ ổn định. Mới qua, ai cũng chật vật, khó khăn nhưng rồi đâu vào đó, em đừng lo lắng quá.

– Tụi em mang ơn chị nhiều lắm. Ðúng là trời xui, đất khiến nên tối đó em mới được gặp chị.

----------

Tôi còn nhớ như in ngày ấy........

Sáng nhà có khách, mẹ bảo Tâm vào phòng mẹ để lấy quyển sách cho bác Nhân bạn của mẹ mượn. Khi đưa sách cho mẹ xong, Tâm đi làm.

Chiều, Tâm vừa về đến cửa nhà, mẹ đã níu áo Tâm và đề quyết rằng khi vào phòng mẹ, anh đã ăn cắp 200 đô. Thái độ lồng lộn, hung hãn của mẹ làm Tâm khiếp sợ đến mất hồn. Anh đứng sững sờ nhìn mẹ không nói được một lời nào, điều này càng làm mẹ tin chắc Tâm là thủ phạm dù tôi cố giải thích:

– Chồng con không phải là người gian tham.

Mẹ thở hổn hển vì tức giận:

– Ðừng bênh vực, che chở cho nó. Thứ đồ tham lam ra khỏi nhà tao.

Tâm lắp bắp:

– Con... con không có lấy.

Mẹ nắm tay Tâm lôi đi xềnh xệch, rồi xô anh ra ngoài đóng cửa lại. Tôi tức giận:

– Ít ra mẹ cũng phải hỏi anh Tâm đầu đuôi ra sao chứ chưa gì mà mẹ đã vội kết tội cho anh ấy.

Ba tôi đứng đó, không một lời can ngăn. Hai đứa em bỏ vào phòng. Tất cả những hành động đó có phải là một lời kết tội gián tiếp không? Cơn uất ức như tràn ra sau những đè nén bấy lâu:

– Tại sao trong nhà này có việc gì xảy ra mọi người đều đổ lên đầu tụi con. Tụi con làm gì để bị ba mẹ ghét bỏ như vậy? Nếu không thương con thì bảo lãnh qua đây làm gì cho tụi con phải gánh lấy sự nhục nhã của thân phận kẻ ăn nhờ, ở đậu.

Tôi mở cửa, tất tả chạy theo Tâm. Vợ chồng nhìn nhau nước mắt chan hòa. Không muốn trở lại nhà ngay lúc này, nên hai đứa cùng nhau đi lang thang đến tối. Cuối cùng, Tâm đề nghị ghé “shop” may, là nơi Tâm đang làm việc, vì ngày mai có hàng phải giao gấp, chủ “shop” sẽ ở đó làm việc suốt đêm.

Có lẽ cũng là sự sắp đặt của Ơn Trên nên khi trò chuyện với chị Dao, chủ “shop”, biết chị đang tìm người chăm lo nhà cửa, nấu ăn và chăm sóc hai đứa con nhỏ của chị với điều kiện ở lại đó đến cuối tuần mới về nhà. Tôi chợt nghĩ, có phải đây là cơ hội để chúng tôi rời khỏi căn nhà u ám đó? Tôi kể cho chị Dao nghe hoàn cảnh hiện tại của tôi, chị vui vẻ cho biết, phía sau nhà chị có một cái nhà kho bỏ trống, nếu muốn, chị sẽ gọi người sửa sang, sơn phết lại và chúng tôi có thể ở đó mà không phải trả tiền. Có lẽ trong suốt cuộc đời tôi sẽ không có niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui chị Dao vừa trao tặng, khi nghĩ rằng mình sẽ được sống những chuỗi ngày tự do, thoải mái không phải chịu đựng những sự dằn vặt, oan ức mà nhiều khi có miệng nhưng nói chẳng nên lời.

Ngày tôi dọn đi cũng là ngày bác Nhân đem trả lại quyển sách. Giọng nói rổn rảng của bác cùng tiếng cười vô tư đã cất đi gánh nặng trong lòng tôi:

– Cám ơn chị đã cho mượn quyển sách quá hay. Nhưng 200 đô chị nhét vào quyển sách, tôi được xài hay phải trả lại?

Mẹ tôi tái mặt:

– À! vậy sao? Tôi không nhớ... nên tìm khắp nơi!

Lòng tôi nhẹ hẫng. Nỗi hàm oan của Tâm đã được giải tỏa. Chúng tôi có thể bước đi nhẹ nhàng không chút vướng bận. Vợ chồng tôi chào mẹ. Bà không nói gì chỉ im lặng thở dài.

-------

Ngọc con,

Khi con đi rồi, mẹ hồi tưởng lại những gì đã xảy ra trong thời gian vừa qua mới nhận thấy mẹ đã đối xử bất công với con. Ngày trước, mẹ đưa con về sống với ngoại vì Thầy nói con khắc mạng với ba mẹ. Và cũng vì lý do đó mà khi vượt biên mẹ đã không mang con theo. Sang đây rồi, mẹ cứ áy náy trong lòng nên nôn nóng chờ ngày có đủ điều kiện để bảo lãnh con. Và khi giấy tờ bảo lãnh đang trôi chảy thì con lại lập gia đình. Lúc đó, mẹ rất giận vì như thế thì thời gian con được sang Mỹ đoàn tụ với gia đình sẽ bị kéo dài, vì con có chồng và con, nên giấy tờ phải làm lại.

Khi con được qua đây thật sự mẹ rất vui mừng. Nhưng một lần nữa, vị Thầy khác lại nói, hai mẹ con ở gần sẽ khắc mạng. Mẹ hỏi làm sao để giải, Thầy chỉ nói, nếu khắc khẩu thì đỡ khắc mạng. Câu nói đó ám ảnh mẹ và rồi không biết từ bao giờ mẹ hay la rầy, mắng nhiếc con, nhiều khi chẳng có chuyện gì. Có một điều mẹ không hiểu, tại sao con nói câu nào mẹ nghe cũng trái tai, con làm việc gì mẹ cũng thấy trái ý. Chắc là nghiệp chướng gì đây. Con cũng là đứa cứng cỏi, thẳng thắn, nên những xung đột giữa mẹ con ngày càng lớn. Mẹ lại thêm tính nóng nảy, nên nhiều khi xử sự không được tế nhị, nhẹ nhàng. Khi con rời khỏi căn nhà này mẹ mới nhận ra là lỗi của mẹ.

Bây giờ, trên giường bệnh, mẹ suy nghĩ rất nhiều về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Mẹ mong ước được gặp lại con.Mẹ biết, vết thương mẹ để lại trong lòng con quá lớn, không phải từ bây giờ mà từ lúc con còn thơ ấu. Nếu được quay ngược thời gian lại, thì dù ai có nói gì đi nữa, mẹ cũng sẽ ôm chặt con trong cánh tay để con thấu hiểu được tình thương của mẹ dành cho con.

Giờ đây, tất cả đã muộn màng phải không con?

Tôi xé lá thư ra từng mảnh nhỏ rồi buông tay cho nó bay lả tả trên ngôi mộ còn rất mới.

“Cầu xin cho mẹ được bình an ở bên kia thế giới. Con cũng chẳng còn lý do gì để buồn, để giận mẹ. Chỉ tiếc một điều, phải chi ngày xưa mẹ đừng tin những điều không nên tin thì mấy mươi năm qua con đã được sống trong tình thương ấm áp của ba, của mẹ”.

 

Ngân Bình




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 22/Apr/2025 lúc 11:34am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 200 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.656 seconds.