Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 194
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22806
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Sep/2024 lúc 8:45am

Đi Đâu Loanh Quanh Cho Đời Mỏi Mệt 

Con%20đường%20Hoa%20Phượng%20tuyệt%20đẹp%20ở%20Đồng%20Tháp%20-%20ALONGWALKER

Tôi và anh bạn đi men theo đường cát ven biển để đến khu chợ nhỏ. Đoạn đường nầy mọc đầy cây bông điệp xen kẻ cây bàng biển lá to tàn rộng như những cây dù. Vào mùa nầy hoa điệp nở đỏ rộ che kín cả một góc trời. Các khu nghi dưỡng sang trọng mọc san sát nhau, du khách tấp nập dập dìu, tây đầm trẻ trung khỏe mạnh, tụi nó ăn cái gì không biết, sao mà đẹp quá trời.  Còn tôi và bạn là hai ông già, phải nói cho rõ hơn là già khằn, già ngắc già ngơ, mặc quần cụt ở trần nên thấy cả chưn cẳng ốm o như hai ống điếu, da dẻ nhăn nheo, cũng may là đầu đội nón, mình quấn khăn kín bưng, người ngoài nhìn khó mà biết được tuổi tác cùng những nét xấu xí già nua. Cứ tới mỗi hè dù đã đi chơi ở bất cứ nơi đâu thì tôi và bạn cũng dành một tuần để đến bãi biển xứ nầy để nghỉ ngơi thư giản, phơi cái gì được thì phơi... Phải lợi dụng mùa hè rực rỡ nơi đây kiếm được nắng ấm chút nào hay chút nấy, chớ cái xứ Canada của tôi thì chỉ có tuyết trắng xóa quanh năm, lạnh lẽo teo ruột teo gan, làm sao dám mặc quần áo mong manh mà ra phơi nắng, bạn ơi!

Nói thêm một chút là chúng tôi tôi tổ chức đi chơi chung gồm một nhóm bạn chừng trên một chục đủ đầu. Có nam có nữ, có trẻ có già. Mỗi khu du lịch có nhiều phòng cho du khách thuê. Giá cả mỗi phòng có hai giường dành cho hai người cư ngụ chung. Nếu ở một mình thì cũng phải chịu giá cao đó. Đó là lý do tại sao năm nào cũng vậy, tôi và ông bạn già, tuy khác Viện Dưỡng Lão, nhưng cả hai đều độc thân, chung nhau giữ lấy một phòng ở khu du lịch nầy, tiền phòng rẻ hơn được một chút, đỡ được chút nào hay chút nấy, tại ai biểu... nghèo mà ham.

Đường càng lúc càng quanh co, có lúc đi sát bãi nước, cát trắng xóa, nước xanh rờn, sóng vổ chập chùng, có lúc vách đá đồ sộ với nhiều hình thù kỳ quái. Phong cảnh đẹp như tranh vẽ, tôi nhìn ngắm mê man. Anh bạn không biết có sở thích ngắm cảnh như tôi không, nhưng thấy anh hăm hở những bước đi lẹ làng. Len qua khu du lịch nầy, xuyên qua khu du lịch kế bên và đi miết, không nghe anh nói một tiếng nào. Tôi cũng không đoán được anh nghĩ gì trong đầu, lệt bệt cố theo sau, mệt muốn nín thở, tuy tôi nhỏ hơn anh gần chục tuổi... Coi già vậy chớ anh còn khỏe hơn tôi, ra biển còn lội được và lội rất xa. Khi xuống nước thì tôi quơ quơ đập tay vài cái, sau đó đứng thở dốc, rồi quay sang nhìn ngắm mấy con đầm non...

Cuối cùng thì hai anh em cũng tới khu chợ trời.  Nói là chợ chớ thiệt ra là một khu đất trống dưới những tàn cây xanh, loe hoe chừng chục cửa hàng được dựng tạm bợ, bán các vật dụng khăn, nón, áo, túi xách cùng các món đồ kỷ niệm địa phương cho du khách, màu sắc sặc sở. Nhìn sơ qua, thiệt tình tôi không biết nên mua món gì. Giá cả thì khá cao, còn hàng hóa thì dáng vẻ đơn sơ và bình dân, không có một nét nghệ thuật nào ráo trọi. Không phải mình tôi mà các du khách khác cũng khá thờ ơ... Tuy vậy, anh bạn tôi thì khác. Anh vào một cửa hàng và hăm hở lựa món nầy chọn món kia. Tôi cũng theo vào trong cho đỡ nắng nóng, không để ý bất cứ chuyện mua bán ra sao. Sau khi lựa chọn, anh đã mua một món trong đống đồ vật ngổn ngang trên mặt bàn. Bận về, đoạn đường có vẻ ngắn hơn hai anh em đi thật lẹ. Anh ôm xách kỹ lưỡng món quà được gói ghém kỹ bằng giấy có hình bông hoa xanh đỏ.  Giờ nầy nắng nóng như đổ lửa, nắng nóng trên đầu và nắng phỏng dưới chưn. Hải đảo như bị bỏ vô lò nướng mà hấp, hai anh em tôi mồ hôi đã tươm ra khắp người.

Sau khi cơm nước xong xuôi trở về phòng, anh mở bao giấy ra và cầm món quà lên ngắm nghía. Đến lúc nầy thì tôi mới biết anh mua cặp chim có cặp mỏ vàng được đục đẽo chạm trỗ bằng cây, thân chim được sơn xanh, sơn đỏ, đậu trên một cành cây màu nâu. Hai con chim trống mái châu đầu vào nhau ríu rít, dáng vẻ thương yêu, âu yếm nhau. Hình ảnh hai con chim sao mà dễ thương đến vậy!  Trời, anh bạn tôi năm đó cũng đã trên tám chục cộng thêm năm, sáu năm tuổi nữa, bỗng dưng thích chơi chim. Coi bộ anh vui và nằm dài trên giường, ngắm nghía hồi lâu đôi chim tha thiết lắm. Ngộ thiệt, anh bạn tôi bỗng dưng yêu đời hết biết. Nếu cho tôi cặp chim nầy thì tôi không biết làm gì, đem về nhà chưng ở đâu. Tôi nghĩ thầm trong đầu, nếu phải mua tôi sẽ mua một tượng người thổ dân da đen hoặc cái kim tự tháp xứ nầy nặn bằng đất nung.  Rõ ràng là mỗi người một ý, một sở thích, không ai giống ai.  Miễn sao vui là được. Thấy anh bạn vui thì tôi cũng vui lây.

Sáng hôm sau vừa thức dậy thì bỗng chợt anh bạn đề nghị:
- Anh em mình sáng nay đi chợ trời.
Tôi ngạc nhiên hỏi lai:
- Đi chợ trời nữa làm chi, mới đi hôm qua mà?
Anh nhẹ nhàng trả lời:
- Tôi muốn mua thêm con chim.
Tôi trố mắt:
– Anh đã mua rồi, mua thêm chi nữa.

Thiệt tình tôi không hiểu, con chim đó đâu có quí báu gì, mua thêm nữa để làm gì. Một con kiếm chỗ để chưng đã mệt rồi, thêm một con nữa rồi để đâu, cái phòng trong Viện Dưỡng Lão nhỏ xíu. Trong đầu tôi bây giờ chỉ muốn đi ăn, rồi ra biển tắm. Chỉ còn vài ngày là hết một tuần lễ nghỉ ngơi ở hải đảo phương xa nầy.
Anh từ tốn nhẹ nhàng giải thích:
- Tôi muốn mua thêm một cặp nữa để tặng cho bà bạn bác sĩ mới quen, còn cặp nầy thì để đầu giường. Bên phòng tôi một cặp, bên phòng bả một cặp... cho giống nhau.

À, hiểu rồi, hiểu rồi, ai cũng khen tôi thông minh nhạy bén, vậy mà chuyện hấp dẫn như vầy lại đoán không ra. Yêu đương là phải như vậy, như vậy.  Thi sĩ Vũ Hoàng Chương có lần đã nói “Yêu nhau ai tính tuổi bao giờ”. Mừng cho ông bạn già của tôi. Vui thiệt là vui. Bạn nào đã nói mấy ông già, bà già hổng có tình yêu thì nên suy nghĩ lại nghen.
- Ồ, vậy thì đi sớm sớm một chút, anh em mình đi trễ như hôm qua nắng nóng quá...
***

Năm sau, tôi lại đi nghỉ hè như thường lệ. Nhưng căn phòng tôi mướn rộng rinh chỉ ở có một mình. Ông bạn già quen thuộc đi phương trời nào không thấy. Tôi lo lắng và nhớ bạn, bèn hỏi anh trưởng nhóm tổ chức:
- Bạn tôi đâu rồi sao không thấy, chuyến nầy ảnh không đi hay có bịnh hoạn gì?  
Anh trưởng nhóm cười cười, trả lời ngay:
- Ảnh đâu có bịnh gì nhưng bận lắm vì suốt ngày... phải đẩy xe lăn cho bà bạn hàng xóm mới quen.

VÕ KỲ ĐIỀN

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Sep/2024 lúc 8:59am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22806
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Sep/2024 lúc 8:09am

Người Chạy Xe Ôm Bến Ninh Kiều 


Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn trễ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với bà xã và mấy đứa cháu ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm. Bà xã thì trưa nay đã theo mấy đứa cháu gái đi “làm đẹp”: làm tóc gội đầu, móng tay và cả m***age. Nghe nói những loại dịch vụ này gần đây rất phổ biến và giá cả rất “mềm”, các bà tha hồ mà chăm sóc mặt mày, tóc da. Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cả chương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước. Bến nước Ninh Kiều còn có một đội ngũ đò máy cho khách du lịch thăm viếng chợ nổi Cái Răng, những khu sinh thái nhà vườn và các cù lao, cồn vùng lân cận… Trong tiếng động của nhịp sống chung quanh tôi thấy thật gần gũi, quen thuộc nhưng cũng có chút gì đó ngập ngừng, bỡ ngỡ. Trên đường ồn ào xe máy, dưới sông rộn ràng ghe đò tạo khu công viên bến Ninh Kiều mang hình ảnh đặc trưng của một thành phố đô thị miềnTây.

Loáng thoáng đã gần bốn mươi năm, tôi trở lại nơi này. Trưa ngày mùng bốn Tết năm 1978 là lần đầu tiên tôi ghé Tây đô. Mùi hương khói tỏa, màu vàng của những chậu cúc và mai vàng vẫn còn cùng khắp những con đường. Bến đò Ninh Kiều thưa thớt, trống vắng vào mấy ngày mùng. Không khí Tết tuy trầm mặc nhưng vẫn phảng phất đâu đó cuộc sống đời thường đang trỗi dậy chung quanh. Tìm đến bến đò đi về thị xã Vị Thanh, mà tôi chưa hề biết. Địa chỉ đến của tôi chỉ là một lời dặn dò. Đúng hơn là một lời hứa tưởng chừng như vu vơ, vậy mà tôi vẫn giữ. “Làm sao để gặp lại Nguyệt?”. “Anh cứ đến bến đò Vị Thanh, Chương Thiện hỏi bất cứ ai: nhà của cô N.H. Nguyệt. Là sẽ gặp lại em thôi”. “Anh hứa sẽ đến!”. Chỉ có vậy, võn vẹn có vậy cho chuyến đi năm đó của tôi.

Người con gái có đôi mắt to tròn biết nói, tên N.H. Nguyệt, tôi làm quen trên chuyến xe qua phà Mỹ Thuận. Rồi vài năm sau mới chợt nhớ và tôi đã trên chuyến đò vượt “Mười Bốn Ngàn” kinh xáng Xà-No để tới. Một đời người có bao nuối tiếc, để một lần tôi đánh vỡ chiếc bình thủy tinh thời gian không hàn gắn lại được. Để rồi đêm nằm quạnh quẽ trong nhà nghỉ bên dòng kinh xáng, tôi cuộn tròn lòng mình sâu thẵm trong đáy mắt ai một lần gặp mặt. Căn nhà có tên người con gái tôi quen đã trở thành cửa hàng thương nghiệp. Người chung quanh cho biết cả gia đình của N.H. Nguyệt đã ra đi hơn nửa năm qua. Gió đêm thổi từ dòng kinh xáng thì thầm lời cảm ơn em, cám ơn đầm sen hồ thủy tạ nằm giữa thị xã Vị Thanh cho tôi một đời thương tưởng không nguôi.

“Ông anh đi xe ôm hông?… Tui lấy giá thiệt hữu nghị…”

Tiếng mời hỏi quanh đây, kéo tôi trở về thực tại. Tôi quay lại, người đàn ông khắc khổ đội chiếc nón vải, cười nhe cả hàng răng cái mất cái còn. Tôi chưa kịp lắc đầu từ chối, người đàn ông nói vội:

“Cả ngày ế ẩm… ông anh đi một cuốc giúp tui nghen”.

Thật là khó đoán tuổi của người chạy xe ôm. Không trẻ hơn và cũng không quá già hơn tuổi tôi, dù trên khuôn mặt anh in hằn nhiều vết nắng gió bụi đường. Mấy món đồ lưu niệm để chập tối hoặc mai mua cũng còn kịp. Nhưng nhớ lời “căn dặn” nhiều lần của bà xã, “đi đâu phải bằng taxi, nhất định không được đi xe ôm. Rất nguy hiểm”. Nếu biết tôi liều mạng, không “nghe lời” chắc chắn là bà ấy sẽ giam lỏng tôi suốt chuyến đi còn lại. Nhìn ánh mắt, khuôn mặt người đàn ông chạy xe ôm, lòng tôi lại thương cảm. Thôi đành dối vợ lần này, nhưng bây giờ thì tôi chưa biết phải đi đâu? Tôi ngập ngừng, nói thật:

“Muốn đi giúp anh… Nhưng thiệt tình tui hổng biết đi đâu?”

“À… nhìn là biết ông anh là khách du lịch. Để tui chở ông anh đi vòng quanh Cần Thơ cho biết. Tui lấy rẻ 110 thôi”.

Mắc hay rẻ tôi nào biết, chỉ gật đầu cười. Thoáng ánh vui mừng trong mắt, anh đưa tôi chiếc mũ bảo hiểm. Cũng như anh, chiếc xe không mới cũng không cũ. Người và xe cứ như hai đôi bạn dạn dày mưa nắng của thời gian.

“Tui chở ông anh đi đại lộ Hòa Bình, qua tòa nhà ủy ban nhân dân tỉnh, công viên Lưu Hữu Phước. Lòng vòng đường Lý Tự Trọng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Đình Chiểu… rồi mình qua khu dân cư Hưng Phú, nam đô thị mới của thành phố Cần Thơ… cho biết”.

“Dạ… Anh cứ chạy tới chỗ nào đẹp, nổi tiếng của Cần Thơ là được… Anh chạy xe ôm lâu chưa dzậy? Vợ con, gia đình anh ở đâu?”. Tôi bắt chuyện, khi chiếc xe ôm rời khỏi bến Ninh Kiều.

“Chạy xe ôm cũng tầm 10 năm rồi ông anh. Nhà cửa tui ở bên kia Xóm Chài. Hai vợ chồng tui có ba đứa, hai gái một trai. Tụi nó lớn hết rồi…”


Rồi anh chuyển qua giới thiệu cảnh quang hai bên đường. Thành phố Cần Thơ như khoắc lên người chiếc áo mới, vừa lộng lẫy lại vừa vừa lem nhem đến lạ lùng. Những con đường chen chúc con người, xe cộ ngột ngạt mà hầu hết là thế hệ trẻ, dưới tuổi bốn mươi. Chạy lòng vòng một lúc, khi qua khỏi công viên Lưu Hữu Phước, hướng về ty bưu điện thì trời đang nắng bỗng lất phất mưa. Anh hỏi tôi có cần áo mưa không, sẽ dừng lại. Tôi nói không cần, nhưng cảm thấy chừng như anh run nhè nhẹ và sôi bụng. Anh đang đói hoặc ăn quá ít bữa trưa? Nói anh ghé vào quán ăn nào đó dọc đường, tôi làm như mình cũng đói và tìm chút gì lót dạ. Anh liền cho xe vào con đường nhỏ (hình như là Ngô Văn Sở) có nhiều hàng quán dọc bên đường. Tôi mời anh vào ăn chung cho vui, có bạn.

Một dĩa cơm thịt nướng bì trứng và chén canh cải ngọt cho anh, tô bún nước lèo cho tôi. Lúc này thì không còn e ngại nữa, anh ăn thật ngon lành. Tôi nhìn anh rõ hơn, ốm cao và ngoài hàm răng chiếc còn chiếc mất, khuôn mặt anh rắn rỏi đường nét. Tóc nhiều cứng dợn cao, đôi mắt sâu dù có mờ sương gió vẫn còn đó nét sáng rạng chập chùng. Tôi nghĩ, lúc còn trẻ chắc chắn anh rất sáng sủa, đẹp trai.

“Rồi vợ con anh làm gì? Mấy cháu có gia đình con cái gì chưa anh?”

“Vợ tui trước làm phụ nấu cho nhà hàng, lương cũng khá lắm. Có lần qua phà vấp té, bể xương hông chậu, nay bả đi đưng khó khăn nên nghỉ làm”!

Bên ngoài trời đổ cơn mưa lớn… Anh xuất thân con nhà nghèo ở Xóm Chài, năm lớp 10 phải nghỉ học đi làm phụ giúp gia đình. Gặp chị, vừa đẹp vừa là con gái nhà buôn bán khá giả ở Phụng Hiệp. Hai người yêu nhau thắm thiết. Ba má chị ngăn cấm vì thấy anh nghèo, không tương lai. Nhưng chị quyết tâm một lòng yêu thương anh, về làm dâu Xóm Chài mặc cho gia đình quay lưng từ bỏ… Giọng anh kể ngập ngừng, khó nhọc.

“Tui làm mọi nghề, đụng đâu làm đó. Đến nay vẫn chưa lo cho bả được một lần ăn ngon mặc đẹp. Nói thiệt với ông anh, nhiều khi tui hổng dám về nhà nhìn mặt vợ con”.


Tôi thấy đôi mắt anh đượm buồn, sũng nước. Ly trà đá trong tay anh cũng run nhẹ. “Thấy tui làm quần quật, bả đòi đi làm nhưng cả nhà đều cản. Sợ có chuyện lần nữa, tiền đâu lo thuốc thang… Tháng trước bả nhận đan giỏ bện lục-bình tại nhà. Hổng bao nhiêu tiền nhưng cũng đở tù túng tay chân…”, mắt anh Nhân (tên anh) dù buồn nhưng tràn ngập yêu thương mỗi lần nhắc đến vợ. Không hiểu sao, tôi muốn được nắm tay và ôm anh với lòng ngưỡng mộ. Có lẽ đã lâu lắm rồi tôi mới nhìn thấy được ánh mắt, được tấm chân tình của tình yêu. Tình yêu thật đẹp và quý giá có thật, đang hiệu hữu trước mặt tôi, của người chạy xe ôm ở bến Ninh Kiều.

“Thằng con trai lớn làm thợ hồ chánh công trường, lương hướng rất khá. Mấy năm trước bị đá đè, gãy một chân mặt. May mà người ta thương, vẫn còn cho nó làm bảo vệ. Lương ít ỏi nhưng vẫn hơn thất nghiệp nằm nhà”.

Sợ anh chạnh lòng nhiều hơn, tôi hỏi lãng sang chuyện khác: “mỗi ngày chạy xe ôm anh kiếm được bao nhiêu?”. “Thời taxi đầy đường, trừ xăng dầu tiền bến kiếm được sáu, bảy chục là mừng. Nhằm bữa ế ẩm, chạy xe không còn lỗ cả tiền xăng…”, anh cho biết. Lúc trước anh còn ráng chạy thêm ban đêm, nhưng mấy tháng trở lại đây hổng dám nữa vì nạn cướp bóc hoành hành. Nhiều bạn chạy xe ôm ban đêm, mất tiền mất xe và đôi khi mất cả luôn mạng. Rồi anh tâm sự tiếp về hoàn cảnh gia đình mình:

“Đứa con gái kế làm công nhân ở Bình Dương, đủ ăn đủ mặc. Lâu lâu cũng gửi dzề vợ chồng tụi chút đỉnh. Còn con út tui thì lấy chồng xa… Được cái, mấy đứa nó thương vợ chồng tui lắm…”

Bên ngoài trời cũng bớt mưa, tôi hỏi anh thức ăn ở đây có ngon không? Anh cười, “cơm chỗ này là nhứt rồi”! Tôi gọi thêm 3 phần cơm để anh mang về. Anh ngại ngùng từ chối, rồi cũng nhận với lời lúng túng cám ơn.

“Chắc ông anh là Việt kiều phải hông?”

“Hông… tui là dân buôn bán trà ở Đà Lạt”, tôi đành phải nói dối anh cho qua chuyện. Điện thoại di động của tôi rung liên hồi trong túi. Chắc bà xã đang gọi, gần năm giờ rồi. Tôi nói anh Nhân chở tôi trở lại bến Ninh Kiều. Trên đường về anh trầm ngâm và ít nói hơn. Sau cơn mưa không khí những đường phố Cần Thơ trở nên dễ chịu và thơm mùi đất mới. Có lẽ cũng như tôi, anh đang cố sắp xếp lại câu chuyện anh và tôi gặp gỡ, để về kể lại cho vợ con nghe. Rồi chừng như tôi cũng ngồi im lặng phía sau không biết nói gì thêm. Chiếc xe ôm chạy rong ruổi trên những mặt đường, còn tôi và anh đang bên nhau chạy mênh mông trên những mặt đời nghiệt ngã.


Tôi nhắc anh để tôi xuống hơi xa khách sạn, phòng khi bà xã bất ngờ bắt gặp. “Ông anh cho bao nhiêu cũng được… Hổng cần trả cũng hổng sao…”, anh nói lí nhí khi tôi đưa lại chiếc mũ bảo hiểm. Tôi nhìn anh cười nhẹ, rồi móc túi quần gom hết món tiền bà xã đưa tôi dằn túi nhét trọn vào tay anh, “anh Nhân nhớ lấy tiền mua cho chị nhà vài bộ đồ mới cho đẹp nghen”! Anh nhìn tôi ngẩn người. Không để anh khó xữ, tôi định quay đi, thì nghe anh nói nhanh:

“Dạ, cảm ơn ông anh thiệt nhiều. Nhưng chắc hổng dám lấy tiền mua quần áo đẹp cho bả được đâu..!”. Giọng anh nghèn nghẹn, xót xa: “Đứa con gái út, tui nói nó lấy chồng xa… Thiệt ra nó đi lấy chồng Đài Loan, rồi chết vì tai nạn giao thông bên đó. Vợ chồng tui phải chắt mót dành dụm, để trả nợ số tiền mang hài cốt nó về nhà mấy tháng trước…”

Tôi khựng người, chợt nghe trái tim mình như đang bị ai bóp nghẹn. Không dám quay lại nhìn anh, tôi cố bước chân đi thẳng và thấy lòa nhòa công viên màu nắng tắt. Số phận đời người sao cứ như cơn gió thoảng vô tình…

Rồi anh sẽ qua chiếc phà về bên kia Xóm Chài, với cuộc đời mỏi mòn còn lại. Rồi tôi sẽ trở về bên kia xứ lạ, một đời đầy vơi kiếp sống tha hương. Anh có thể quên tôi, một người khách trên chuyến xe ôm giữa muôn vàn dòng người tất bật. Nhưng chắc chắn tôi sẽ không thể quên anh, chuyến xe chở cả một trái tim sâu thẳm, một cuộc đời có thật của người đàn ông chạy xe ôm ở bến Ninh Kiều. Buổi chiều như một nốt nhạc trầm buồn, chảy vàng vọt trên dòng sông quê hương tôi muôn thuở…”


Nguyễn Vĩnh Long
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22806
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Sep/2024 lúc 9:14am

NHỮNG MÙA TRUNG THU


Trung%20thu%20ở%20Tây%20Ninh%20-%20Báo%20Tây%20Ninh%20Online

Em ra đời mùa thu năm 1970, vào ngày rằm tháng tám Âm lịch. Đem so với ngày dương lịch đúng y chang trong tờ giấy khai sanh của em. Mẹ thường kể cho cả nhà nghe, vào những lúc vui vẻ, hạnh phúc hay là ngày mừng sinh nhựt của em, mẹ thường bảo:

-  Nằm trong nhà bảo sanh mẹ nghe tiếng hò, tiếng hát, tiếng reo vui rộn rã của thiếu nhi cùng tiếng phèng la, tiếng chiên trống múa lân của đoàn dâng cộ đèn mừng Tết Trung Thu, hay Tết Nhi Đồng của nước ta thuở đó, vào thời Việt Nam Cộng Hòa. Theo lẽ mẹ đặt cho con cái tên là Thu, là Nguyệt, là Hằng, là Nga, là Thu Nga, là Thu Hằng, là Nguyệt Thu hay Thu Nguyệt… Mới đúng nghĩa với ngày sanh tháng đẻ của con gái mẹ. Nhưng lần về thăm đâu hai tháng trước khi con chào đời, lúc ra đi, ba đưa cho mẹ phong thư, bảo chừng nào làm khai sanh thì dở ra mà xem... Trong thư, ba đã đặt cho con cái tên rồi!

Mẹ em chép miệng trầm ngâm một hồi, tiếp:

-  Quê hương mình chinh chiến triền miên. Ba con theo đơn vị đóng quân mãi ở miệt rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ… tận Cà Mau lận. Tội nghiệp ba, biết khoảng giữa tháng đó đứa con đầu lòng chào đời, mà ông hằng mong đợi nhưng vẫn không ở nhà được, để nghe “Con khóc oa, oa… khi lọt lòng mẹ. Còn ông bà, họ hàng thì cười tươi vui mừng đón con…” 

Em lớn khôn dần trong vòng tay mẹ, tình thương yêu vô bờ của hai đấng sanh thành. Ba em làm lính chiến luôn xa nhà, cả trong những mùa Trung Thu là ngày ra đời con gái cưng của mình, mà ông cũng ít khi có dịp về nhà vui với vợ con...

Rồi mùa Trung Thu năm em vào học lớp Năm (lớp một) của trường nữ Tiểu học Trưng Vương. Đó là ngôi trường nữ, hai tầng có vách tường, mái ngói màu gạch tôm, khang trang nằm trên đường ông bà Nguyễn Trung Long (Mỹ Tho). Đường nầy đi ra bến bắc Rạch Miễu qua sông có nhiều cồn nhỏ, cồn lớn… cồn Ông Đạo Dừa, rồi đi về tỉnh Bến Tre...

Địa phận tỉnh Định Tường có Thành phố Mỹ Tho, nổi tiếng hiền hòa nằm mơ màng trên nhánh của dòng sông Cửu Long… Mà những câu hò, câu hát bình dân khen ngợi ở nhiều khía cạnh nào đó về thành phố thanh bình và êm ả nầy: “Mỹ Tho đẹp lắm, đi tắm Cầu Dầu/ Anh hỏi em đang ở nơi đâu? Để cha mẹ anh đến cau trầu cưới em…” Hoặc: “Mỹ Tho có kẹo hột điều/ Có cô thôn nữ mỹ miều dễ thương/ Ai về Chợ Cũ, Trung Lương/ Hồng đào chín mộng, có đường mạch nha/ Đêm thu đẹp ánh trăng ngà/ Mái chèo dưa đẩy qua nhà thăm em…” Và miệng truyền miệng trong dân gian: “Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ/ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu/ Anh về học lấy chữ nhu/ Chín trăng em đợi, mười thu em chờ…”  

Ở xứ mình, thường tiệm buôn bán trong các chợ, chủ nhà ở phía sau, hoặc trên lầu, còn phía trước, mặt tiền thì bày hàng để buôn bán. 

Mỗi năm, cứ vào cuối tháng sáu, đầu tháng bảy Âm lịch là thành phố Mỹ Tho trong các cửa tiệm thấy rõ rệt màu sắc tươi vui rộn ràng. Bởi các dãy phố tiệm ở chợ gần như đều trưng bày bán các loại bánh Trung Thu. Họ còn treo bán đầy đủ các loại lồng đèn giấy màu sặc sỡ, có vẽ thêm hoa, bướm hoặc những nét đặc biệt lên hình dáng mỗi thứ lồng đèn như: Đèn kéo quân, đèn cá chép, đèn con rồng, đèn ngôi sao, đèn máy bay, đèn xe tăng, thiết giáp, đèn tàu, đèn chuồn chuồn, đèn trái bí, đèn xếp…

Bánh trung thu thập cẩm có bốn trứng, ba trứng, hai trứng, một trứng hột vịt muối để trong nhưn có lạp xưởng, thịt khô, vi cá… đó là những bánh mặn. Còn bánh trung thu thập cẩm chay không có thịt và hột vịt, bánh nhưn đậu đỏ, nhưn mứt… cùng bánh dẻo nhưn hột sen, nhưn đậu xanh… 

Riêng em thích nhứt vẫn là bánh ông Địa. Chắc là bánh có hình dáng như ông Địa trên bàn thờ nên gọị là bánh ông Địa? Trên đầu bánh có sợi chỉ đỏ dài để xách trên tay, để đeo vào cổ. Bánh ông địa ăn ngọt, giòn thơm mùi trái vị, ngũ vị hương, mùi quế… rất đặc biệt!

Trong dãy phố công chức ở ngã ba đường Nguyễn Trãi và đường ô. bà Nguyễn Trung Long, có nhà của gia đình em. Vào tối mười ba, mười bốn, rằm tháng tám là trẻ con đốt lồng đèn cầm tay chạy chơi quanh xóm. Nhà nhà treo lồng đèn trong nhà ngoài ngõ, hương khói nhang, mùi bánh trung thu thơm tho cúng ở bàn thờ Ông Thiên, cùng mùi trà Tàu, hoa, quả… thơm lừng phảng phất trong gió thoảng bay. 

Em vui vẻ tung tăng chạy nhảy, theo đuôi các bạn quanh quẩn trước sân của năm bảy căn nhà quen biết gần bên, ở trong xóm chớ không dám đi xa hơn. Vì mẹ đã căn dặn em từ mấy ngày trước:

-  Tối con được đốt lồng đèn chơi trong vài nhà gần, để khi mẹ gọi thì nghe mà lên tiếng… Không được đi xa, mẹ gọi không có tiếng trả lời của con mẹ sẽ lo, thì sẽ có đòn nghe chưa...

Em vâng dạ nghe lời, vì không phải mẹ em không có lý do… Bởi gần đây giặc giã càng sôi động… Đêm đêm Việt cộng thường pháo kích ầm ầm vào thành phố… Đạn pháo vô tình tàn phá nhà cửa, thây phơi, máu đổ… khiến sanh linh đồ thán, trời sầu, đất thảm. Và từ đó tuổi thơ em cũng sớm nhuốm màu chinh chiến đau thương!


Đã hai mùa Trung Thu rồi, bận rộn ba em không về! Vì đoàn quân ba em trấn giữ, chặn thù… khi ở Vị Thanh, Cờ Đỏ (một địa danh ở mền Tây), khi Tịnh Biên, Đồng Tháp Mười nơi nổi tiếng “đỉa lội như bánh canh”. Còn thường trực ở chỗ có “muỗi kêu như sáo thổi” và nhiều con vắt… Đó là rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ (ở Cà Mau) Bởi ba em là lính chiến thuộc Sư Đoàn 21/BB, còn có biệt danh nghe hay và oai hùng lắm là Sét Miền Tây đó mà. 

Hôm nay, vài ngày rằm tháng Tám “Mùa Trung Thu, Tết nhi đồng” của chúng em. Khi trời nhá nhem chạng vạng thì phố xá đã lên đèn… Tiếng hát vang vang rền vọng, tiếng chiên trống lân giục giã trên các nẻo đường của thành phố, làm lòng dạ em nôn nao, náo nức, rồi em cũng nhãy lưng tưng, hát líu lo bài ca về Trung Thu như mấy đứa nhỏ nhà kế bên… 

Mấy đứa cùng xóm đến trước hàng rào nhà, rủ rê em nhập bọn đi dâng cộ đèn, hoặc cầm đèn qua nhà chúng chơi. Nhưng nghe lời má dặn, và nhớ ba khiến em muốn khóc quá! Em lắc đầu xua tay nguầy nguậy có ý bảo với chúng là em không đi đâu. 

Ba em đang dãi dầu ngoài trận tuyến! Với những người lính chiến như ba thì làm sao có ngày lễ. Cho dù là lễ Tết hay phép thường niên cũng vậy, ít khi được như ý… Ba em chợt đi, chợt đến bất ngờ ghé thăm nhà chớ không hẹn trước khi nào sẽ trở về. 

Đêm nay các nhà trong xóm đều đốt lồng đèn trước cửa. Hương trầm, bánh, trái, hòa với mùi thơm của nước trà Quam Âm Kỳ Chưởng… Nhà nhà ấm cúng mừng đón Trung Thu. Riêng nhà em lạnh lẽo vắng vẻ buồn tênh, má không đốt đèn ở sân trước dù là đèn điện có bóng tròn nhỏ. 

Chiều đi học về sau khi ăn cơm, má còn căn dặn em:

-  Con ra sân đốt lồng đèn chơi một mình, đừng đi đâu nghe. Nhà mình ba không về, nên đêm nay không có mừng Trung Thu. Ít bữa ba về mình sẽ ăn Trung Thu muộn, nghe con…

Em cầm lồng đèn đi tới đi lui trong sân nhà với chú mèo tam thể, “meo, meo…” tiếng kêu, quấn quít bên chân em. Gió hiu hiu mát rượi, đưa đẩy cây lệ liễu hông nhà, làm những cành lá tha thướt lay động lồng bóng trăng tròn in trên sân. Trăng thu đêm nay rực rỡ tỏa ánh sáng thanh thoát xuống muôn loài trên trần thế, nhẹ nhàng êm ả...

Em nghe trẻ hàng xóm hát những bài Trung Thu: “…Đêm Trung Thu em đốt đèn đi chơi… Em đốt đèn đi khắp phố phường… Đèn Ông Sao với đèn cá chép, đèn thiên nga với đèn trái bí…” 

Và em còn nghe anh chị con nhỏ Bạch Nhạn nhà bên cạnh hát ca... khiến em ganh tị thấy mắc ghét lắm! Em cũng biết hát vậy chớ bộ! Em liền rống họng, cất tiếng hát lanh lảnh, vang vang... cố tình cho tụi nó ngán chơi: 

“Hôm nay đêm rằm, rằm là rằm tháng Tám? Ông Trăng kia đã lên cao rồi ông nhìn chúng em ông tủm tỉm cười! Ông Trăng ơi, nầy ông Trăng ơi, xuống đây với chúng em cùng vui chơi! Ông Trăng ơi nầy ông Trăng ơi, Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang trời… Có chi nữa không? Có trống ếch cà lùng tùng xèng… Có chi nữa không?  Có bánh ngọt thơm phưng phức… Có chi nữa không? Có những đèn Trung Thu ở miền Nam tự do, ấm no hạnh phúc… ông Trăng ơi! Ông Trăng ơi, xuống đây với chúng em cùng vui chơi… Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang trời… ông Trăng ơi… nầy ông Trăng ơi, ơi…”

Tiếng vỗ tay lớn và nhanh, làm em ngạc nhiên quá đỗi! Mèn ơi, ai mà vỗ tay khen tặng em dữ vậy cà? Chắc chị anh mấy con nhỏ hàng xóm chớ gì? Chớ tụi nó thì còn khuya à, chúng nó ganh tị chẳng thèm nghe em hát, thiếu điều muốn bịt hai cái lỗ tai lại nữa kìa, chớ ở đó mà chúng vỗ tay khen em hát bao giờ… Nhưng chao ôi, sừng sững lồng dưới ánh trăng rằm lộng lẫy! Người lính chiến hiên ngang, oai phong đứng đó! Ông mặc bộ trây-di màu cỏ úa, đầu đội nón sắt, và trên thắt lưng cây súng nhỏ… Giầy sô cao ống bám bụi đường xa, mùi nắng cháy khen khét quen thuộc… ông trìu mến nhìn em mỉm miệng cười, rồi hơi khum lưng xuống, đưa hai tay đón chờ em… 

Thảy cái lồng đèn dưới sân, em phóng tới ôm chầm thật chặt lấy ba. Hôn tứ tung lên mặt, lên mũi, lên ngực, lên áo ba… Giọng em rộn ràng, vui mừng và ơi ới gọi lớn:

-  Mẹ ơi, mẹ ơi ba về! Ba về, ba về mẹ ơi… 

Trong nhà nhanh chân bước ra tới hàng ba. Mẹ nhìn hai cha con em nở nụ cười mà mắt hoen dòng lệ hạnh phúc! Thế là đèn điện nhà em được thắp sáng! Lồng đèn treo hai bên cửa trước, sân sau được ba châm lửa đốt đèn cầy. Ánh lửa dạ giấy màu, hồng, vàng, tím, xanh… tươi trẻ, vui mắt. Trong nhà mẹ lúi húi nấu nước châm trà, cắt bánh trung thu… Em vui mừng chạy qua mẹ, rồi chạy sang ba… Em ôm cổ ba, nói cười líu lo như con chim chích chòe vào buổi bình minh nắng ấm… 

Nhà em, những nhà trên trần thế được thắp sáng ánh trăng vàng thanh thoát của đêm Trung thu.


Ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam bị giặc cưỡng chiếm! Năm đó trẻ con chúng em không có lễ Trung Thu! Ba em bị bắt tù cải tạo… nhà cửa em trống trơn vì phải bán lần, bán hồi các đồ vật trong nhà… Rồi má em đi bán chợ trời… Đó là kế sinh nhai duy nhứt của mẹ con em, và chắt chiu dành dụm để dành đi thăm nuôi ba.

Những năm về sau, vào đêm rằm tháng tám không ai còn nghe tiếng hát hò, trống múa lân của đoàn dâng cộ đèn nữa. Chợ búa không có bánh trung thu bày bán tự do khắp nơi như xưa. Có chăng họ chỉ làm chui, bán lén… vì đó là mặt hàng xa xí phẩm! Thành phố em ở nhà nhà xác xao, cửa đóng then gày dưới trăng. Mặc dù ánh trăng thu vẫn sáng tỏ nhưng lòng em sao cảm thấy dìu dịu hắt hiu buồn! Những đứa nhỏ hàng xóm sống gần nhà em thưa dần, vì chúng theo gia đình về quê ngoại, quê nội, hoặc đi kinh tế mới… Và em không có đèn lồng trái bí dễ xếp cất, dễ đốt mẹ mua cho như những năm qua! 


Sau bao nhiêu năm giặc chiếm miền Nam. Là bấy nhiêu năm ba em bị giặc nhốt trong tù cải tạo! Hôm nay không định trước, mẹ dắt em đi thăm ba, lại lọt đúng vào ngày rằm của mùa Trung Thu. 

Mẹ con em vượt qua biết bao nhiêu chặng đường lồi lõm có khi đi bằng xe hơi. Có lúc lội bộ, có lúc bằng xe tàu mo, đò chèo… Khi thì mẹ gánh em ngồi trong thúng bên đầu gióng nầy, đầu gióng kia chất chồng đồ ăn, áo quần cũ, thuốc men. 

Mẹ và em đi từ một hai giờ khuya đến chiều tối ngày sau mới đến nơi! Khi đến trại tù thì đã quá giờ thăm nuôi, mẹ con em và một vài bà khác cùng cảnh ngộ cũng đi thăm nuôi chồng con. Những kẻ lỡ bước chúng em được chủ vườn ở gần trại tù (cách mấy cây số) tốt bụng cho ngủ trong trại ruộng của nhà họ. 

Tối đó, mọi người lỡ đường vùi mình vào đống cỏ khô dưới nền đất sét nứt nẻ, thiếp đi vì mệt mỏi… May mà cả đêm qua trời không mưa, nhưng gió núi tê tái lạnh lùng rung cây lá, âm thanh nghe ào ào. Hai mẹ con em nằm chèo queo một góc trong tại ruộng không vách, không phên. Em nhìn trăng qua nhiều lỗ trống không trên mái chòi. Trăng rằm lên cao, càng lên cao ánh trăng càng sáng vằng vặc. Sương khuya xuống mịt mù đỉnh núi và chập chờn trên dải đồi mờ ảo xa xa. Tiếng côn trùng về đêm, hòa cùng tiếng dế tỉ tê… Những con chim ăn đêm bay qua ẩn hiện mịt mờ, kêu oang oác trên trời cao, cùng tiếng gió hú qua đồi làm xào xạc nhành cây lá chung quanh, khiến em sợ hãi rúc vào lòng mẹ. 

Để rồi sáng dậy ra mặt, tay, chân… người nào cũng đầy vết muỗi cắn. Bầy muỗi đêm qua được ăn bữa giỗ no nê! Chúng thiệt là ác độc, nỡ đành hút máu của những kẻ lỡ đường ngủ trong trại ruộng!

Mẹ em lồm cồm ngồi dậy khi nghe vẳng tiếng gà gáy trong xóm xa… Bà sửa soạn lại túi nải chờ rạng đông đi vào trại tù thăm chồng. Bỗng bà thấy hai bóng đen lù lù xuất hiện khi mờ khi tỏ trong màn sương sớm. Càng lúc họ đến càng gần… mẹ em sợ quá gọi mấy người kia thức dậy, để cùng đối phó nếu rủi gặp kẻ xấu, hoặc chuyện không may! 

Họ càng đến gần trời cũng sáng thấy rõ hơn… Thì ra là hai người thanh niên đi giỡ bẫy chim, chuột, gà rừng… Nói chuyện một hồi thì mấy bà cùng mẹ con em vào nhà cha mẹ họ là chủ trại ruộng nầy để xin nước uống…

Mẹ em nhớ lại đã bao nhiêu năm rồi, đây là lần đầu đi thăm nuôi chồng. Biết ba đói khổ lắm mẹ liền cởi chiếc nhẫn cưới bằng vàng 18K đang đeo trên ngón tay áp út ra. Đó là di vật sau cùng của ba tặng mẹ em trong ngày đính hôn! Mẹ đem đổi lấy con gà giò (gà mới lớn nhổ lông xong, còn hơn nắm tay) và lít gạo trắng của chủ nhà… Rồi mượn nồi niu của họ làm gà rô ti và nấu nồi cơm còn nóng hổi đem cho ba em! 

Bao nhiêu năm tù tội… Đến bây giờ vợ, chồng, con mới gặp lại nhau! Má em khóc sướt mướt chẳng nói nên lời! Ba ôm em vào lòng nghẹn ngào thổn thức… Ba trông thật tiều tụy, ông ốm gầy, tay chân lỏng thỏng, mặt mày hốc hác, mắt hõm sâu, da đen chì, mét chẹt, nắng cháy nám đen… Chân tay ghẻ chốc, thẹo vít chỗ lành, chỗ lở… Ba già quá nhiều! Nếu bất ngờ gặp ngoài đường không ai nói, chắc em sẽ không nhận ra, và sẽ không tin tù nhân đó chính là cha của mình! Em xót xa thương ba vô cùng, ôm chặt ba nức nở khóc òa… 

Gần hết giờ thăm nuôi, mẹ đưa cho ba tất cả đồ đem theo, trong đó có con gà được chặt ra làm bốn và nồi cơm đầy… Ba em múc hết nồi cơm, cạo lấy luôn cơm cháy, đưa nồi không còn dính một hột để chút nữa đây trên đường về má em ghé trả lại người cho mượn. Ba lấy hai cục thịt gà (nửa con) đưa cho má và em. Mắt u buồn và lệ hoen mi, ông nhẹ giọng bảo:

-  Em và con đem theo ăn trên đường về. Chắc con và em đói khổ lắm? Thôi mẹ con về đi, anh sẽ giữ gìn sức khỏe. Đường quá xa xôi, khó khăn đừng… đừng có lên thăm nữa! 

Mẹ em nước mắt dâng tròng, lật đật lấy gà để trở vào gói cho ba, mếu máo nói:

-  Ở nhà không gì vất vả cả, chỉ lo cho anh thôi. Anh đem gà vào ăn đi. Mẹ con em tới bến xe sẽ mua ăn, thiếu gì đồ ăn họ bán…

Dáng ba thất thểu đi vào trại tù… Và cửa tù từ từ kéo đóng lại! Mẹ em nát dạ tan lòng đứng nhìn theo, rồi lủi thủi dắt con ra về. Vừa đi bà vừa lau dòng lệ đau thương lã chã chảy dài xuống má, còn em nước mắt cũng trào tuôn… Đường về nhà em còn xa xôi lắm, lại gặp cơn nắng cháy, mưa sa! Hai mẹ con không ai nói với ai lời nào, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình… Trong đầu óc thơ ngây bé nhỏ của em lúc bấy giờ! 

Ba em ngày xưa là sinh viên, bởi “Đất nước lâm nguy/ Thất phu hữu trách” nên học nửa chừng thì vào quân ngũ. Ba em có giành dân lấn đất hay cướp giựt của ai đâu! Vậy thì ba em có tội tình gì, phải chăng tội ông làm bổn phận người trai trong thời loạn vì an nguy của gia đình và bảo toàn lãnh thổ? Giờ đây họ bắt nhốt trong tù nơi xa xôi hiểm trở? Để ba em và đồng đội đau không thuốc uống, đói không có ăn, lạnh không đủ ấm! Lại bị nhốt trong vùng hoang dã đìu hiu đi cả ngày không thấy bóng người như thế nầy... 

Đi gần đến tối mà mẹ con vẫn chưa đến nhà. Giờ đây em vừa khát và mỏi mệt cả tứ chi, và đói bụng lắm! Mẹ chép miệng bảo:

-  Ráng nhịn về nhà sẽ có đồ ăn, vì mẹ chỉ còn đủ tiền để đi xe thôi. Lúc nãy mẹ định bới cơm cho ba, còn miếng cơm cháy mẹ con ăn cho đỡ dạ trên đường về. Nhưng thấy ba vét sạch nồi cơm nên mẹ làm thinh! Tội nghiệp ba ở trong tù đói khát nhọc nhằn lắm con ơi…

Nói đến đó, mẹ em nghẹn lời sụt sùi dòng lệ khổ! Về đến nhà, em không sao ngủ được. Hoàn cảnh trại tù, ba em và đồng đội của ông bị hành hạ đọa đày cứ lởn vởn trong đầu óc thơ dại của em. Từ đó nỗi hờn oán nhen nhúm ngày càng lớn trong tâm hồn: “Em sẽ không bao giờ! Phải, không bao giờ quên, và không bao giờ tha thứ cho những kẻ đã đày đọa ba, cùng  những đồng đội của ba em…”


Vào rằm tháng Tám năm sau, em thẫn thờ ngồi bên cửa sổ vò võ nhìn bầu trời cao rộng, trong sáng ánh trăng thu! Và con mèo tam thể dễ thương đó, vẫn cào, kéo lai quần em. Nó chạy nhảy tung tăng, kêu “meo, meo…” giỡn trăng như để làm vui lòng cô chủ nhỏ. Thấy em buồn, má cũng chẳng vui gì hơn! Một lúc sau, bà tìm ra cái lồng đèn trái bí mấy năm trước đã cũ mèm, giấy dán đổi màu và bị chuột cắn tưa mấy lỗ. Nhớ lại lâu lắm rồi, em đã cẩn thận nhét cái lồng đèn đó dưới chót, ở trong thùng tập vở, sách truyện, và báo cũ của ba em.

Đã mấy mùa Trung Thu qua đi, ba em vẫn chưa được thả về. Em lơ là nhìn cái lồng đèn nghe chừng xa lạ, mà cảm thấy lòng xao xác héo hắt buồn loang! Làm sao em vui được khi ba em còn bị đày nơi rừng sâu Việt Bắc, nơi nổi tiếng rừng thiêng, và nước độc! Nước độc đến nỗi, từ bờ suối bên nầy, lội qua bờ suối bên kia thì lông chân bị rụng hết! Ở đó họ chỉ uống được nước mưa... và có khi đi cả mấy tháng trời, cũng không thấy bóng sơn nhân, hay lâm nhân… 

Em lại càng xót xa đau buồn nhức nhối hơn! Mỗi khi nửa đêm trở giấc, em nghe mẹ khóc lén, khóc thầm! Thế nhân dù có buồn vui! Nhưng đêm nay trăng thu vẫn ngạo nghễ lên cao. Càng lên cao, trăng càng trải ánh sáng ngà ngọc xuống muôn loài. Gió thu vẫn nhè nhẹ man mác và mây thu vẫn bàng bạc bay bay về phương trời vô định... Những cánh chim đêm thu in chập chờn trên không gian và hối hả bay đi… Chúng như ngầm hiểu nỗi thống khổ đoạn trường của con người theo vận nước nổi trôi! Và cảm thông trời miền Nam tự do ấm no đã không còn nữa… Ôi đến cả loài chim muông mà còn biết buông tiếng kêu áo não, oán, hờn, trách, hận... đau thương!


Sau khi ba em được thả về, gia đình đùm túm theo thuyền chài vượt biển Đông! Mười mấy ngày lênh đênh trên biển cả, gió dồn, sóng dập, đói khát thảm thê. Tưởng chừng cả gia đình dìm dưới mồ huyệt lạnh của đại dương rồi… Hành trình vượt biên trùng trùng hiểm nguy thừa chết thiếu sống! Nhờ Ơn Trên, rồi gia đình em cũng trôi giạt vào Nam Dương (Indonesia) quần đảo, với những thuyền nhân chung chuyến tàu, và những chuyến tàu vượt biên khác... 

Sống lang thang từ đảo nầy qua đảo khác: Pacikata, Terrempa, Ku Ku, rồi Galang (Trung tâm tị nạn Cộng sản vùng Đông Nam Á) Tại trại tị nạn Galang, nếp sống của người tị nạn Cộng sản có quy củ và khá hơn về nhiều mặt. Nhứt là vấn đề y tế! Nơi đây có trường học dạy Anh văn, có nhà thương, có nhà thờ, có chùa… Có văn phòng Cao ủy tị nạn làm việc, để nhận người vào đệ tam Quốc Gia… Và nhiều tiệm buôn bán gia dụng nấu ăn của dân bản xứ… dần dà có quán phở, quán hủ tíu, quán nhạc, quán cà-phê, quán sinh tố…

Galang là một trong những hòn đảo đẹp của Nam Dương. Chùa được cất trên đồi cao gần các dãy trại, để dân tị nạn dễ dàng chiêm ngưỡng và cúng bái. Ngôi chùa khang trang có nhiều tượng phật cao lớn hơn người… được tàu và trực thăng chở đến… Phí tổn của ngôi chùa nầy, nghe đâu do các thương gia ở Nam Dương và Singapore góp gom để xây cất.

Sáng sớm và chiều tối nào em cũng theo ba má lên chùa. Vì trên chùa gió mát, và đôi khi em được các sư cho trái cây hoặc bánh, kẹo… của bá tánh đã cúng Phật. Ở đảo đói khát thấy mồ, em thèm đủ mọi thứ, hôm nào được các sư cho đồ ăn dư của Phật thì em mừng húm! Em nghĩ bụng đồ ăn thừa của Phật sẽ được phước đức (và má em cũng nói như vậy). 

Phía sau chùa chừng hơn trăm thước cao, phóng tầm mắt nhìn, chúng ta có thể thấy rõ bốn hướng của biển cả mênh mông vô bờ, vô tận… Và em cảm thấy tâm hồn mình dạt dào hạnh phúc mỗi lần có dịp đứng bên ba má em nhìn hoàng hôn xuống. Mặt trời chiều ráng màu đỏ nghệ có hình bầu dục như quả trứng gà, treo lơ lửng trên nền trời nhiều mây có vân ngũ sắc ở hướng tây. Nắng vàng trải trên mặt thủy triều của đại dương bao la xanh ngát một màu, và ánh nắng lung linh chấp chóa lúc mây tạnh gió yên. 

Vào những buổi sáng mờ sương, biển thanh thoát và hiền dịu vô cùng… mặt nước lăn tăn gợn sóng theo từng đợt gió đùa… Nền trời trong như ngọc, lác đác từng làn mây trắng mỏng như nằm bất động có pha những sắc màu rực rỡ do những tia nắng bắn ra từ mặt trời cao ngạo vừa nhú lên ở phương đông. Rồi sương mờ dần tan, chỉ trong chốc lác thôi… biển tịnh yên, mặt biển xanh lơ, và vầng hồng rạng rỡ cho nắng ấm... gió the the man mác lay nhẹ chòm lau, khóm đước hòa cùng lá thông reo dọc bờ biển tạo ra âm thanh êm ấm dễ chịu vô cùng… 

Hải âu xoãi cánh bàng bạc loang loáng trong ánh bình minh… “Chim én không làm thành mùa xuân/ Nhưng có chim én mùa xuân thêm phần ý nghĩa” Ở chốn hải đảo nầy, em xin nói lên thiển ý của mình rằng: “Nếu biển không có cánh hải âu thì biển cả mất đi phần thi vị”.

Có hôm dưới mái hiên chùa, em phóng tầm mắt nhìn trời biển động! Gió thổi vùn vụt, cây cối ngả nghiêng. Sấm ầm ầm, sét nổ giòn, những tia chớp sáng lòe lên rồi phụt tắt! Mưa nặng hột tầm tã ào ào. Biển nộ cuồng từng cột sóng dâng cao như muốn đảo lộn càn khôn! Thật dễ sợ cho sự nổi trận lôi đình của Thủy Long Vương trong lòng biển cả(?) Em ngồi co ro, chợt nhớ câu: “Đời không đau khổ đời vô vị/ Biển chẳng phong ba, biển chẳng hùng”. 


Thuở đó gần cuối năm 1979, đảo Galang có mấy chục ngàn người dân tị nạn Cộng sản, đại đa số là từ miền Nam Việt Nam. Họ bôn đào khi miền Nam bị Cộng sản và Việt cộng cưỡng chiếm! Nơi trại tị nạn, ba khéo tay làm cho em cái lồng đèn trái bí bằng lon nhôm coca-cola, trong mùa Trung Thu ở trên hải đảo Galang. Lon nhôm sau khi rửa sạch, lau khô, ba em kiên nhẫn dùng nhiều cục đá có cạnh nhọn, bén… Ông đục từng đường dài, nhắm sao cho ngay và đều… Ba ngồi cả ngày trời tẳn mẳn đục, chà cạnh cho hết bén… Rồi nhẹ tay bóp cho những cọng lon nhôm cong (không gãy) mà ông đã bỏ không biết bao nhiêu cái lon nhôm. Bị xuể tay, rướm máu mới làm được một cái lồng đèn trái bí, tạm vừa ý cho con gái mình! 

Chiều đến cầm lồng đèn trái bí ba làm cho, lòng em tươi vui phơi phới như hoa nở mùa xuân. Lon ton theo bọn trẻ con (tị nạn) trên đảo đi dâng cộ đèn vòng vòng trong các trại do những anh chị hướng dẫn... Ôi hải đảo phủ ánh trăng thanh thoát giữa vùng mây nước, có tiếng sóng biển bủa rạt rào, tiếng gió vi vu hòa cùng tiếng hát mừng Trung Thu vang dội, rền vọng ngút trời xanh… Của những đứa trẻ đã cùng gia đình trốn chạy khỏi vùng Cộng sản để đi tìm phương trời tự do… 

Đêm Trung Thu đó, chúng em được ăn nhiều bánh kẹo, uống nước trái cây thơm ngọt, từ các nhà hảo tâm của xứ người chở cả tàu, cả xe đến tặng. Họ còn đem cho cả lồng đèn làm đủ kiểu hình thù các con vật… được sơn phết, dán giấy, vẽ, tô đẹp đẽ, màu sắc rực rỡ, chói lộng hấp dẫn và quyến rũ vô cùng… Nhưng em không nhận đâu, bởi ba đã làm cho em lồng đèn trái bí bằng lon nhôm rồi. Em quý cái lồng đèn nầy hơn tất cả mọi lồng đèn trên thế giới, trong mùa Trung Thu. Bởi cái lồng đèn trái bí bằng lon coca làm thành đó, ngoài tốn nhiều công sức, còn là tâm ý và gói ghém cả tình cha thương con của ba em… 

Mùa Trung Thu ở trại tị nạn Cộng sản Galang, khắc ghi đậm nét trong đời, và cho em niềm nhớ không nguôi… Nó sẽ làm hành trang em mang theo trong ký ức trên khắp quãng đường lưu lạc.


Thời gian qua mau quá, mới đó mà đã mấy mươi năm ở xứ người. Ba má vất vả nuôi dưỡng chăm lo cho con học hành đỗ đạt nên người. Ngày nay em đã thành nhân, ông bà có cháu ngoại để bồng bế thương yêu, nuông chiều. Dòng thời gian thắm thoát cứ trôi mãi trôi, nay ba má em đã ngoài tám mươi! Ông bà ở tuổi “Bát thập cổ lai hy” Cái tuổi dễ bịnh hoạn, và gần đất xa trời khiến em buồn đau thắm thía trong lòng, mỗi khi nghĩ đến! Nhưng phải làm sao đây? Vì đó là định luật của tạo hóa, mà trót sanh ra làm kiếp con người thì kẻ trước, người sau không một ai tránh khỏi!

Rồi ngày đó cũng đã đến, một mất mát lớn cho gia đình! Má em đã qua đời! Giờ đây, đêm đêm em luôn nguyện cầu, xin Ơn Trên cho ba em ăn ngon, ngủ khỏe. Và em cố gắng làm mọi thứ để ba được an ổn tâm hồn, vui vẻ hạnh phúc trong thời gian ngắn ngủi của đời người còn lại bên cháu con! Dẫu biết rằng, trong cuộc đời có đầy dẫy hỉ, nộ, ái, ố… thăng trầm, dâu bể, phế hưng, nhứt là trên quê hương khốn khổ Việt Nam của em sau ngày Cộng sản và Việt cộng chiếm đóng! 

Giặc đã mang nền giáo dục (ở mọi khía cạnh, mọi phương diện) của làn sóng đỏ từ ngoài Bắc tràn vào miền Nam. Hoàn cảnh xã hội miền Bắc mấy mươi năm theo chế độ Cộng sản đã gây và ảnh hưởng tác hại mọi mặt về tâm lý, văn hóa, xã hội nhập vào đời sống. Đã thấm nhuần, và ăn sâu trong tâm hồn, trong máu huyết của con người từ trong gia đình, ra ngoài xã hội người miền Bắc. Với những điều nghịch lý, giả nhân, giả nghĩa, lừa bịp, dối gian, tính toán, tinh ma, ác hiểm… đã xẩy ra hàng ngày với cha con, anh em, bạn bè, thì nói chi đến tình nghĩa xóm chòm, hay nặng nợ với ngọn rau tấc đất, nước non… 

Vì thế, những đổ vỡ của gia đình hiếu thảo con cái, tình nghĩa vợ chồng nhan nhản xẩy ra hàng ngày trước mắt, và khắp nơi, không sao đếm cho xuể! Khuôn ngọc thước vàng từ nghìn xưa ông cha ta để lại “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” dưới chế độ Cộng sản vô thần, giờ đây đã bị thui chột, vô nghĩa hết rồi! Thì thử hỏi xã hội Việt Nam ngày nay làm sao không rối bời, và quê hương đất nước Việt Nam làm sao không nát tan, không bị chia năm xẻ bảy… Đó cũng chỉ vì lợi riêng của những kẻ cầm quyền hiến dâng, bán đất, biển... cho ngoại bang!


Hôm nay là ngày rằm tháng Tám, đã vào chánh mùa Trung Thu. Em đẩy ba ngồi trên xe lăn chầm chậm rẽ vào chợ (vì cả hai chân ba đều yếu). Vùng gia đình em tạm cư, có rất nhiều chợ Á Đông. Cả tháng nay, tiệm nào cũng bán đầy dẫy bánh trung thu. Bánh trung thu đủ loại ở địa phương, nội địa sản xuất… và bánh từ các nước khác nhập vào. Bánh trung thu nằm phơi phới trong các hộp vẽ hoa bướm màu sắc tươi trẻ rực rỡ. Các hộp đều có nắp đậy bằng kiếng, nhìn thấy rõ bánh bên trong, gợi thèm cho khách vào ra chợ.

Em nghĩ, năm nay các bánh được làm từ nước Tàu Cộng, Việt Cộng chắc hẳn ít ai dám rớ tới? Vì lợi ích riêng, họ không nghĩ đến sức khỏe của người tiêu thụ, đã dùng quá nhiều hóa chất … Ăn vào dễ, lấy ra khó, sẽ hại cho thân thể, và có khi còn chết người! 

Ba em nhìn từng hộp bánh trong tủ kiếng. Ông lựa rồi chỉ tay, muốn mua một hộp bánh Trung Thu có trứng, và lấy thêm hộp bánh dẻo nữa. Nhà em ngoài ba, chỉ có hai vợ chồng em và hai đứa nhỏ (nhưng chúng không thích bánh trung thu) Ai cũng sợ ngọt, nên chắc chắn sẽ ăn không hết… Chỉ cần mua một hộp, hai bánh nầy, hai bánh kia đủ rồi. Nhưng em lấy cả hai hộp bánh người bán đặt vào bao xách, máng trên xe cho ba vui lòng. Ba em chỉ hai chiếc lồng đèn treo trên vách. Em nghĩ chắc ba mua cho hai cháu ngoại… Trả tiền xong em định đẩy ba đi ra, nhưng ông chỉ thêm cái lồng đèn trái bí, làm em ngạc nhiên nhìn ba? 

Ông nhìn em mỉm cười, trìu mến:

-  Ba mua lồng đèn trái bí cho con! Nhớ thuở con còn bé nhỏ thích chơi đèn Trung Thu với đám trẻ con trong xóm. Năm đó đi lính xa, bất ngờ được về thăm nhà trong đêm Trung Thu. Ba đứng sau lưng cả buổi mà con không hay! Khi thấy ba, con phóng tới ôm chầm thật chặt như sợ ba vuột mất... rồi con mừng rỡ, líu lo gọi mẹ báo tin ba về.

Mắt già nua trắng dã, ba em cảm động nghẹn lời! Ông tiếp:

-  Ba mua bánh về cúng má, lúc sanh thời bả ưa bánh Trung Thu và bánh dẻo lắm. Cho dù con gái ba bây giờ tuổi đời có lớn hay già đi nữa, nhưng trong mắt ba lúc nào con cũng còn nhỏ bé! Còn tình thương con trong lòng ba càng ngày càng lớn vô bờ, vô tận con ơi...

Em dang đôi tay ôm chầm lấy ba! Hôn lên trán ba em, mà mắt rưng rưng dòng lệ kính yêu và hạnh phúc ngập cõi lòng! Em may mắn được sanh ra trong miền Nam! Em diễm phúc được thừa hưởng rất nhiều, rất nhiều thứ mà chỉ ở miền Nam tư do dưới Chánh thể Cộng Hòa mới có… Em đã nghe được câu nói của ai đó, để riêng mình thẩm thấu và nghiệm thấy rằng: Trên cõi đời nhiều hệ lụy khổ ải nầy, có hai người đàn ông để cho em kính nể và yêu thương nhứt. Đó là ba em và chồng em!”

Đường phố đã lên đèn, nhưng ánh trăng thu rực rỡ cao ngạo, thanh thoát áp chế ánh đèn đường vàng võ. Cha con em dừng lại bên lề nhìn đoàn múa lân dẫn đầu, các thiếu nhi dâng cộ đèn náo nhiệt đi qua. Trên đất nước tự do, các em vô tư, thảnh thơi, mặt mày hớn hở nhịp nhàng cất tiếng hát vang vang: “Đêm Trung Thu em đốt đèn đi chơi/ Em đốt đèn đi khắp phố phường/ Đèn ông sao với đèn trái bí/ Đèn xe tăng với đèn cá chép…Em đốt đèn đi khắp phố phường…”





DƯ THỊ DIỄM BUỒN

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22806
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Sep/2024 lúc 8:39am

Mơ Về Một Tết Trung Thu Xưa



tettrungthuxua
 
Những ngày cuối tháng 9, khi những vệt nắng cuối hạ phai nhạt dần trên từng kẽ lá, cũng là lúc những cơn gió thoảng đưa mùa thu sang. Với nhiều người, thu đến lúc nào cũng mang niềm nhớ, mùa thu đến như là một quy luật thời gian tiền định của thiên nhiên đất trời buộc con người ta phải xao lòng về những kỷ niệm, những ký ức. Cuộc sống quay cuồng nơi xứ người, thời gian nhẹ nhàng trôi theo những mùa thu thay lá, từ bao giờ tôi không còn thói quen đếm từng tháng năm xa quê hương như những ngày mới bắt đầu cuộc sống xa quê. Nhưng mỗi độ thu về, dù muốn dù không, kỷ niệm chất chứa trong ký ức của tôi cứ chợt hiện về. Nếu nói về kỷ niệm mùa thu ở nơi quê nhà của tôi thì nhiều lắm, mùa thu, mùa tựu trường với màu áo trắng học trò, mùa thu với niềm hân hoan rộn ràng với tiếng trống khai giảng năm học mới, và hơn bao giờ hết là những mùa trung thu đoàn viên bên gia đình nơi quê nhà ngày xưa.
 
Đã xa rồi những mùa trung thu ngày xưa. Xa rồi đêm trăng rằm tháng Tám với tiếng trống rình rang khắp xóm làng của những đoàn lân sư rồng, với ánh sáng lung linh từ ngọn nến trong chiếc đèn ông sao làm bằng giấy kính đỏ, xa rồi mâm cỗ trung thu với mấy chiếc bánh nướng, bánh dẻo, bình trà bên ông bà, cha mẹ, và cả khoảng khắc đêm trung thu ngồi trong sân chùa cũng lũ bạn hàng xóm nghe kể chuyện chị Hằng, chú Cuội.
 
Tuổi thơ tôi nghèo lắm, đó là khoảng thời gian xã hội Việt Nam vừa đi qua thời bao cấp, bánh trung thu là một thứ xa xỉ với nhiều gia đình. Cả nhà gần chục người, cùng nhau ăn một hộp bánh trung thu bốn cái. Mỗi người chỉ được ăn một miếng nhỏ cho có không khí trung thu. Vậy mà tôi nhớ có năm, lần đầu tiên có một tiệm bánh duy nhất trong thành phố bày bán bánh trung thu hình con heo ngộ nghĩnh với đôi mắt đen láy làm bằng hai hạt đậu đen. Biết chị em tôi thích, ba lặn lội đạp xe mấy cây số đi mua về. Kể từ mùa trung thu năm đó, chị em tôi chỉ cần một cái lồng đèn giấy ba làm và một cái bánh trung thu hình con heo như thế là đủ.
 
Trung thu ngày xưa vẫn thường được gọi là Tết Thiếu Nhi, Tết Trung Thu, đó dường như là một ngày hôi lớn trong năm của đám trẻ con chúng tôi. Cái ngày mà chúng tôi chưa được biết đén trò chơi điện tử, hay đồ chơi công nghệ như lũ trẻ con bây giờ thì niềm háo hức ngồi tỉ mỉ làm chiếc lồng đèn cho riêng mình để chờ đến đêm rằm đi khắp xóm làng rước đèn cùng chúng bạn, ca hát líu lo bên trong sân chùa vẫn mãi là những kỷ niệm tuổi thơ đi theo miền ký ức của những đứa trẻ lớn lên trong cảnh cơ cực, thiếu thốn ở nơi quê nhà ngày nào.
 
Còn Trung Thu giờ đây, lồng đèn điện được bày bán khắp nơi, bọn trẻ con chẳng còn háo hức thắp nến rước đèn đêm rằm như ngày nào. Những chiếc bánh trung thu được bày bán khắp nơi, chẳng còn mang ý nghĩa thiêng liêng trên mâm cỗ trung thu theo truyền thống của mỗi gia đình như ngày xưa, mà thay vào đó, bánh trung thu như một món quà, một tặng phẩm để thể hiện các mối quan hệ trong xã hội, người mua để mang tặng nhau thì nhiều, mà người thật sự muốn ăn bánh trung thu thì lại chẳng có bao nhiêu vì sợ ăn vào bị bệnh. Dần dần rồi với nhiều người, mỗi năm dịp Trung Thu có ăn bánh Trung Thu hay không cũng không còn là điều quan trọng.
 
Tháng ngày qua đi, tuổi thơ xa dần phía sau nhưng nó không mờ đi mà càng hiện hữu mỗi khi nhớ lại. Sau nhiều năm xa cách, xóm nghèo, bạn cũ giờ cũng đã thay đổi. Lũ con nít bây giờ ít có đứa nào được tận hưởng đúng không khí trung thu của ngày xưa. Trung Thu của bọn trẻ con bây giờ chắc sẽ không bao giờ biết được cái hay, cái thú vị của Trung Thu những năm tháng cũ mà thế hệ chúng tôi đã được đi qua. Ngày đó, vật chất, tiền bạc thiếu thốn nhưng chúng tôi đã được hưởng trọn vẹn niềm hân hoan, vui sướng bên mâm cỗ đêm rằm với gia đình, gia đình nào ngày đó dù có khó khăn mấy cũng cố mua cho bằng được hộp bánh trung thu để ăn. Và nhớ cả niềm hạnh phúc được ngồi cùng ba cả ngày tỉ mỉ làm chiếc lồng đèn để đêm rằm đi rước đèn khắp xóm làng cùng chúng bạn, rồi cùng nhau ngồi trong sân chùa chia nhau miếng bánh, vài ba cây kẹo để đón ngày Tết trung thu đúng ý nghĩa của nó.
 
Tuổi thơ tôi đi qua rồi. Giờ đây cuộc sống nơi xứ người quay cuồng với cơm áo gạo tiền, tôi cũng chẳng còn cảm giác mong chờ Trung Thu như ngày còn thơ bé nữa. Người ta nói đúng, có những cái mất đi vẫn lấy lại được nhưng thời gian, kí ức, tuổi thơ mãi mãi là hoài niệm trong tâm trí của mỗi người. Tôi vẫn mong được một lần sống lại trong giấc mơ xưa cũ ấy. Có lẽ, sẽ chẳng bao giờ tôi có thể đi qua hết được nỗi nhớ của mình để đo được chiều dài của ký ức tuổi thơ cùng ánh trăng rằm đêm Trung Thu. Nơi ấy tôi có gia đình, có ông bà, có mẹ cha, có người em trai cùng lớn lên từ những ngày thơ ấu cơ cực nhưng đầy tình thương yêu. 
 
Vương Vi
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22806
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2024 lúc 12:15pm

Cải Ơi (Nguyễn Ngọc Tư).mp3       8876     <<<<<<

Hình%20tượng%20con%20trâu%20trong%20văn%20hóa%20–%20Wikipedia%20tiếng%20Việt



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/Sep/2024 lúc 12:53pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22806
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Oct/2024 lúc 9:49am

Những cây hoa Vông Vang

 Vông%20vang

Chú phương là chú họ xa, nhưng rất thân tình với gia đình chúng tôi, tại vì xa quê hương bản quán, may mắn chú ở gần chúng tôi, cùng một cư xá râm mát.


Tọa lạc trong vùng ngoại ô Saint Maur, kề bên là bờ sông Marne hàng hiên ngang cửa nhà chú, chú đổ đầy đất đen đất vụn phải đi mua từng bao ở siêu thị bán cây trồng đất mua chú đổ vào lưng một cái bac ciment rộng lớn chạy ngang hàng hiên nhà.


BM

Trong bac chú trồng đầy hoa vàng, hoa nở thì lớn bằng đồng 50 xu, có năm cánh y hệt mai vàng ở Việt Nam, lá xanh non to bằng bàn tay con nít 5, 3 tuổi. Lá cũng rất thưa, hoa rất đẹp, vàng trong như mai ngày tết. Khi nắng gắt, màu vàng có đậm thêm tí chút, sáng hé nở, trưa ấm nở rộ. Chiều chiều hoa cụp lại ngủ, ngày mai sáng sớm lại mãn khai, thân cây hoa chỉ cao lắm là đến đầu em bé 5, 6 tuổi.


BM

Nên hoa và cây không che vướng tầm nhìn từ trong nhà ra ngoài trời. Chú Phương yêu quý những cây hoa đó lắm. Vun tưới thường xuyên. Hỏi tên hoa đó là hoa gì? Chú trả lời ngon ơ: Đó là hoa vông vang của Đỗ Tốn, Chúng tôi không nhớ và cũng không biết ông Đỗ Tốn là ai. Nhưng cô Dung, vợ chú trả lời như giải nghĩa là, hoa Đỗ Tốn là đỡ tốn, vì không phải đi mua mỗi mùa, hạt hoa có rụng xuống nằm im dưới đất, qua một mùa đông, thân cây tàn tạ được gom lượm đi sạch sẽ, mùa xuân năm sau cây lại tự mọc lên, rồi nảy mầm rồi nở hoa rực rỡ lóng lánh. Chẳng biết người Âu Tây gọi tên nó là gì, nó không có hương, nhưng sắc thì đẹp lộng lẫy và chú Phương nâng niu yêu quý nó lắm. Chú thường nói hoa vông vang là tình yêu đầu đời, rất hồn nhiên trong sáng dù không có đoạn kết. Hay đoạn kết phiêu bạt lung tung bay theo gió.


BM

Chú nói vu vơ vậy chớ không phải là không có chủ ý. Là khi xưa, rất xưa, chừng nửa thế kỷ trước, khi chú mới chừng 20 tuổi, lúc chú được đi du học, chú đã bỏ lại quê hương Sài Gòn một người yêu đầu đời là cô Loan, bạn học suốt sáu năm trung học, không nhắc lại thôi, nhưng chắc không thể quên dễ dàng. bằng cấp, coi như là thành đạt với sự cố gắng của bản thân và đem lại niềm vui cho ba mẹ gia đình mong đợi. Năm 1973-1974 chú hí hửng thu xếp hành trang tính trở về Việt Nam, cùng với hy vọng dạt dào gặp lại cố nhân. Nhưng gia đình quyết liệt phản đối không cho về cố hương, vì chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn thô bạo và giằng co quyết liệt giữa Việt Nam Cộng Hòa, cộng sản  Bắc Việt và mặt trận Miền Nam.


BM

Chú đành ở lại Tây, xin việc làm rồi cũng an cư lần lần theo ý bà bác, mẹ chú. Rồi lần nữa nhiều năm độc thân qua đi, chú may mắn gặp được cô Dung là bạn đồng hương làm người yêu rồi thành vợ chồng. Họ sống hạnh phúc bên nhau cả bao tháng ngày. Chú làm công chức cho bộ tài chánh, cô là một dược sĩ hiền hòa xinh xắn. Họ mua sắm nhà cửa, xe cộ với cuộc sống đầy đủ ấm êm, chỉ tiếc là họ không có con cái chi cả. Họ đã thử chạy chữa nhiều lần mà không có kết quả tốt. Họ cũng bao dung tính đi xin con nuôi, nhưng rồi công việc làm bận rộn, vacances chênh lệch, nên cứ hẹn lần hẹn hồi mà chưa đi xin cho được một đứa con. Họ dở ở điểm này, mẹ chú ở Việt Nam cũng nói không có con hơi uổng, nhất là khi chú đã gần già rồi.


Cô Dung trông coi quản lý nguyên cả một tiệm thuốc tây nên cô bận rộn, bận luôn cả ngày thứ bảy. Cô làm việc nhiều thời gian hơn chú, chú có những cuối tuần dài hai ngày, nói chung là chú được rảnh rỗi hơn và do đó chú có nhiều thời gian mơ mộng suy nghĩ đến có lúc lẩn thẩn, là có lúc chú nói không chừng mà chú thành gia thất sớm thì chú đã có con cái rồi, cũng có thể con cái đã 20 hay ngoài 20 tuổi rồi, cũng có thể sắp được làm ông bà nội hay ngoại gì đó…


BM

Đàn ông mà nói năng suy nghĩ đến lẩn thẩn. Cô Dung nói chồng cô vậy, nhưng cô hiền, dễ tha thứ và dễ quên… cũng là bận một phần vì công việc luôn tay. Còn ông chồng, bên cạnh, mơ mộng, lúc rảnh, có lúc cũng lười làm việc nhà, mà cứ ngắm hoa vàng và tấm tắc khen: hoa vông vang như là tình yêu trong sáng, ngập ngừng, mong manh, có cũng như không, đó là thứ tình yêu ngây ngất dại khờ, của tuổi mới lớn lên, mà bất cứ ai cũng từng có rồi cũng từng quên.


Cô Loan hiểu, vì cô chú không có con, nên đôi khi chú buồn, trống rỗng và tiếc nuối… phải khi xưa thế này, thế khác… à, thì ra, không chỉ đàn bà, mà đàn ông, không con, có lúc họ cũng thiếu. Không chừng mà chồng cô còn nghĩ là nếu được sống chung với cô Loan, cuộc tình biết đâu đã đơm hoa kết trái?


Ý nghĩ của chú Phương, cô Dung đâu có thể hiểu hết? Chú luôn nhẹ nhàng, có lúc hơi lơ là trong câu trả lời. Dung bận rộn, nhưng cô biết chồng vẫn yêu quý cô và có khi người đàn ông buồn lẩn thẩn, cũng là bộc lộ một tình yêu sâu nặng, thấm thía với quê hương, vì đã ra đi và khi ra đi, đâu có nghĩ là một lần đi là mất lối quay về.


BM

Tuy nhiên họ vẫn là đôi vợ chồng hạnh phúc. Cũng có lẽ vì không có con cái nên họ ít va chạm xung khắc. Hoàn cảnh nào cũng có cái giá của nó. Cũng có đôi lúc, rảnh cùng nhau, họ rủ nhau đi đánh cầu lông trên bãi cỏ rộng sau nhà, cùng đi bơi vùng vẫy trong piscine, hay đi dạo phố. Có lần đi chơi cùng nhau, Dung hỏi Phương:


Anh muốn đi tìm tin tức của Loan không? Tụi mình đi Việt Nam đi, em cũng thích đi về đó. Rồi cả hai thuận ý, họ sắp đặt lịch đi về quê hương.


Trước khi đi, Dung cẩn thận nhờ người thân, một cô em họ xóm cũ Nguyễn Huỳnh Đức dò tìm xem gia cảnh thân thế của Loan giờ ra sao. Dung được người quen tìm biết và cho hay Loan cũng đã lớn tuổi như Phương, ngoài 55 tuổi Loan đã lập gia đình và hiện tại góa bụa, sống một mình, bà không con cháu, chồng đã mất vì chiến trận đã nhiều chục năm qua. Phương nghe kể, thẫn thờ ngó qua song cửa, tia nhìn thấp xuống rặng hoa hoa vàng đang vô tư đu đưa:


Tội nghiệp, nếu mà như vậy, Loan với anh có sống chung cũng chẳng có con cái gì, không chừng anh còn chết ngắc từ lâu!


Thôi, lớn rồi, già rồi, nói năng cho cẩn thận.


Em nghĩ là mình lớn rồi, già rồi thì phải nói năng cho cẩn thận hả? Không cần đâu, vì khi chúng ta chưa phải là cha là mẹ, thì chúng ta vẫn chỉ là trẻ con.


BM

Ok, thôi không nói lăng nhăng nữa. Vậy tháng sau, nghỉ năm tuần lễ, dứt khoát đặt vé về thăm Việt Nam thăm ba mẹ, mình sẽ đi thăm chị Loan sau đó, Sau đó, mình coi kiếm ra cho tụi mình một đứa con nhe.


Nè, mình kiếm con còn nhỏ, còn bế bồng trên tay được, thì sau này nó thương mình, mình thương nó…


… Anh không dại vậy, anh kiếm đứa con nuôi lớn lớn đặng còn giúp việc nhà cho mình chút chút… cứ thế, cả hai cười giỡn với nhau rất vui vẻ. Cho tới một bữa không lâu sau đó, sui làm sao, hôm đấy Dung leo lên một cái thang nhôm, xếp vài thùng thuốc mới giao lên cao cho gọn lối đi, chẳng may cho cô, trượt chân té xuống đất, đầu va mạnh vô cái tủ gỗ đặc chắc chắn ở dưới thấp. Cô choáng váng một lúc, rồi cũng tỉnh lần, cũng nhức đầu sơ sài và cẩn thận vô bệnh viện rọi phim, phim không cho thấy có vết thương nào quan trọng.


Nhưng từ đó, Dung nhớ nhớ quên quên không đúng lúc. Lúc cần nhớ thì quên, lúc nhớ ra điều gì thì nhớ lộn xộn như thể trạng thái rối loạn trong noãn cầu. Cũng tới lui bệnh viện chẩn đoán, cũng chữa trị, cả năm trời, bệnh quên quên nhớ nhớ ở Dung không giảm không tăng, cứ dùng dằng mãi. Họ phải bán pharmacie đi vì Dung như thành ngơ ngẩn dở người.


BM

Phương phải mượn một người chăm sóc luôn bên cạnh Dung trong lúc anh đi làm việc.


Thì anh vẫn phải làm việc để có tiền lương sinh hoạt hàng ngày. Có lúc Dung tự ý mở cửa đi ra ngoài đường, đi lang thang. Có lần chồng và chị Bé nuôi kiếm mãi mới ra, cô đang ngồi ở một ghế đá công viên khá xa nhà, chị Bé hỏi cô muốn đi đâu?


Em phải đi kiếm anh Phương. Em phải đi kiếm ảnh!


Nhưng lúc tỉnh táo, trời sáng nắng đẹp, thì Dung không có biểu hiện gì bất thường. Cô vẫn có thể cùng chị Bé lau nhà, phơi quần áo, chuẩn bị nấu cơm cho cả ba người ăn và nói chuyện rôm rả.


BM

Những lần ra ngoài, có lúc Dung nhờ Phương thoa hộ cô crème fond de teint lên mặt cô, sau đó nhờ Phương trang điểm dùm, cô nói là cô lo sợ rồi một ngày kia cô sẽ quên đi hết không tự làm được nữa. Phương sợ vợ quên lần mất thói quen, nên hay bắt cô làm lấy một mình, anh ngồi bên cạnh quan sát, chỉ ra chỗ đúng sai.


Anh buồn nhất là có một lần, hai người đã sửa soạn xong để cùng đi shopping, anh đi đóng các cửa, thì quay vào, anh thấy Dung đang xỏ giày, mà xỏ ngược, chân phải cứ cố ấn vào giày bên trái, còn chân bên trái cố lồng vào giày bên phải. Làm mãi không xong, ôm mặt khóc hu hu. Phương phải đến giúp và vỗ về an ủi.


Cuộc sống cứ thế, đúng sai sai đúng, Phương chán nản buồn thấy tháng ngày vô vị, anh cũng như rơi vào trầm cảm vì không còn bám víu vào một hy vọng nào.


Anh đã nghĩ đến, có lẽ cả hai đứa phải ra đi một lần để giải thoát cho nhau và cùng được giải thoát.


Tuy nghĩ là vậy lúc chán nản, nhưng đâu phải ai cũng có can đảm đi đến cực điểm.


Đang lúc anh lúng túng, thì mẹ anh, vẫn còn ở Việt Nam, bà cũng còn là hàng xóm với Loan. Bà báo tin là thấy con và dâu không khỏe, bà đang lo giấy tờ sang Pháp thăm các con. Bà cũng hỏi ý hai con là nếu cô Loan muốn đi chơi sang thăm hai con và thăm Paris cho biết, thì có tiện không và các con có ưng ý không? Phương phải hỏi ý vợ, anh cũng không ngờ là Dung vui vẻ đồng ý ngay… có lẽ vì tò mò, muốn coi mặt người xưa của Phương ra sao. Phương hỏi kỹ hai, ba lần, sợ Dung lúc tỉnh lúc mơ, lỡ sau này sinh chuyện rầy rà. Nhưng không, Dung dứt khoát đồng ý:


Tụi mình không về được thăm chị ấy, thì mời chị sang đây chơi… đi cùng má cho vui.


À, đúng, có Loan đi về cùng má, anh yên tâm hơn, vì bà già quá rồi, đã có lúc bà lẩn thẩn không nhớ cả lối nào đi ra, lối nào đi vô.


Rồi sau mấy tháng trời, gần nửa năm lo xong visas, hộ chiếu. Họ sang Tây gặp nhau. Bà mẹ và cô bạn xưa mang sang làm quà nhiều sản phẩm Việt Nam như cốm bỏng, thịt chà bông, hồng khô.


BM

Phút đầu gặp gỡ nhau sau nhiều năm xa cách, họ hơi ngỡ ngàng, không ngờ còn có ngày tái ngộ, nhưng sau đó cả ba Dung, Loan và Phương vui vẻ trò chuyện tâm tình như những bạn trẻ xa cách lâu ngày, cơ may gặp lại nhau, có bao nhiêu chuyện để nói với nhau, Loan kể lại chuyện chồng cô mất ở mặt trận. Phải mất một tuần lễ sau gia đình mới mang được quan tài về mai táng trong nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Dung nghe kể, mủi lòng, chậm nước mắt. Loan không muốn Dung buồn lây, sẵn biết họ có ý kiếm con nuôi, Loan đề nghị vợ chồng Phương hãy nhận nuôi một đứa cháu, con bà chị ruột cô, cháu, nhà nghèo, con đông, ở với cộng sản tương lai mù mịt. Khi vợ chồng Dung gật đầu, thì Loan nói bà chị muốn là vợ chồng Phương phải nên về quê Việt Nam coi cháu ra sao, rồi làm giấy tờ ở tòa án.


Bà mẹ chồng có ý ngăn cản, viện cớ là đã trễ rồi, vả lại sức khỏe Dung không còn được như xưa, thì xin làm gì con người ta, ốc còn không mang nổi mình ốc, đèo bòng chi con sên, nhưng Dung có lúc rất tỉnh táo, cô còn đoan quyết với má là có con, con sẽ khỏe mạnh mà nuôi con.


Vì nghe Dung quả quyết như vậy, nên Phương thuận ý theo tháp tùng mẹ và cô Loan về quê, luôn tiện xin và mang con nuôi về cho Dung. Cô nàng yếu và sợ đi máy bay nên chịu ở nhà một mình và chờ.


Phương rất chu đáo tìm một trung tâm săn sóc người neo đơn, không tự sống một mình, trung tâm ở ngay cạnh nhà già. Phương muốn để Dung ở đó khoảng một thời gian ngắn hạn vài ba tuần lễ, nhiều là một tháng, để chờ chồng đi Việt Nam xin con và mang con về lại Paris.


Cô cũng nói với chồng là cứ để cô ở nhà một mình, cô tự quản được. Em tỉnh rồi, trò chuyện với má, nhứt là với chị Loan, em đã hiểu ở cõi đời này, còn cơ mang là người khốn khó đau thương hơn mình.


Nhưng mà em ở nhà một mình là anh không yên tâm lỡ có lúc đi ra ngoài em đãng trí quên khóa cửa rồi sao, ai mà không có lúc lơ là, thêm xã hội lúc này nhiều bất an… và cuối cùng thì cô chịu vô tạm trú ở một trung tâm đón, trung tâm Cécile nhận nuôi người yếu và neo đơn trong ngắn hạn.


Ở đỡ trung tâm và phải trả tiền ăn ở như ở khách sạn. Không rẻ đâu, Phương phải làm một số giấy tờ và ký một chi phiếu chi trả trước là 6000 euros.


Bàn bạc rồi cũng đồng thuận. Riêng có bà má, bà hơi ngao ngán, bà ái ngại cho con trai nhiều thứ bấp bênh mà chính bà, bà cũng không biết sự thể nó bấp bênh ở chỗ nào.


Ngày mai ra đi, thì hôm nay Phương mang vợ đến gửi trung tâm tạm trú. Đó là một khu nhà sang trọng, tọa lạc ở rue Dombasle quận 15, cổng ra vào có an ninh, camera, bảo vệ và còn có căn phòng khách đặc biệt rộng rãi, vừa là nơi làm, ký mọi thủ tục giấy tờ hành chánh vừa là nơi trao gửi thân nhân.


BM

Đến phút cuối cùng chia tay, Dung vẫn tươi cười vui vẻ nắm tay chồng khuyến khích đi sớm, lo công chuyện sớm và mau mau mang con cùng trở về với em. Rồi cô đẩy vali đi theo một ma sœur đi vào couloir phía trong, đi nhận phòng ở.


Phương đợi vợ và sœur Anna quẹo khuất vào lối ngang, anh đứng im tần ngần 5, 3 phút. Anh thầm mong cho Dung ở yên đây và mạnh giỏi chờ ngày anh trở về.


Rồi khi dậm bước chân đi, không hiểu sao, Phương chợt bùi ngùi thương Dung và xót xa cho nàng vừa kéo hành lý đi một mình lẽo đẽo theo sau sœur… chẳng biết, rồi ở đây nàng có khóc mếu không?


Anh cứ nghĩ lẩn thẩn rồi không chủ định, chân bước lững thững vòng ra phía sau ngôi nhà đồ sộ và chỉnh trang ấy. Phía sau này, có nhiều cây râm bóng mát, hình như đó là một khuôn viên thu hẹp cho mọi người tạm trú đi ra đi vào dạo mát, đón gió.


Anh chợt tò mò và không vội, anh đi vòng ra phía sau một lần nữa, ở đây toàn là cửa sổ và cửa sổ. Chắc cứ hai cửa sổ là một phòng riêng. Anh tò mò nhìn, chợt, anh khựng người lại, đau nhói trong ngực, anh vừa nhác thấy vợ anh, hai tay níu chặt lấy 2 chấn song cửa sổ và nàng đang nức nở khóc, khóc và người nàng rũ xuống!


Anh nhìn Dung mấy giây rồi quyết định quay lại phía trước, anh gõ cửa phòng tiếp tân, anh gõ có ý hối hả như thúc giục vì sắp đến giờ đóng cửa cuối ngày làm việc.


Ma sœur giám đốc hiện ra, mau mắn hỏi anh còn thắc mắc gì nữa không?


BM

Anh chỉ nhỏ nhẹ thưa rằng, anh không thắc mắc gì cả, anh chỉ xin ma sœur cảm phiền cho anh đón vợ anh về lại nhà ngay lúc này. Vì anh đồ chừng là Dung không thể ở đây, nàng đang khóc rất tuyệt vọng.


Ai mới xa nhà cũng vậy mà. Mai là quen ngay! Nhưng mà anh thưa, anh cầm lòng không đặng. Anh cũng xin không lấy lại chi phí đã đóng, vừa đóng.


Nhưng sœur cảm động trả lại anh tất cả và ưng bụng xóa bỏ contrat… con có nhiều từ tâm như ý chúa!


Trước lúc chia tay, sœur giám đốc dặn theo:


Khi nào cần thì quý vị lại trở lại nhe.


Thưa sœur, có lẽ là không khi nào con bỏ vợ con lại đâu một mình nữa đâu.


Đúng vậy, những ngày sau đó và sau đó nữa, Dung đã tìm được sự bình an, cơ thể đã tự có thể chữa lành sau nhiều giao động. Nàng khỏi bệnh.


BM

Những cây hoa vông vang trước hàng ba, bao lâu không ai chăm sóc, nhưng theo mùa, chúng tàn tạ đổ rạp, rồi lại tự mọc lên, những cây non, cây mới mọc lên tươi tốt và rực rỡ đu đưa nở bông lóng lánh làm sáng cả một khoảng không gian sau những ngày đông hàn u ám.




Chúc thanh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22806
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Oct/2024 lúc 7:51am

Hoài Niệm 


Pin%20page

Reng! Reng! Từng hồi chuông điện thoại reo inh ỏi như thúc dục, khiến bà Khanh vội vàng lau tay vào chiếc khăn làm bếp, nhấc điện thoại ghé vào tai. Vừa mới a-lô là đã nghe tiếng bà chị Cả xổ một tràng dài:

-Ủa, chị tưởng em đi ra ngoài sớm dữ vậy chớ…

Bà Khanh cười:

-Đâu có. Em đang hâm nồi bánh canh giò heo để anh Thanh thức dậy ăn sáng. Sau đó tụi em mới đi Ottawa . Ở đây mấy chục năm rồi mà tụi em chưa đi ngắm hoa Tulip lần nào. Sẵn thăm cặp bạn luôn thể.

– Gì mà quê òm vậy! Anh chị đi mấy lần rồi đó. Đẹp hết biết luôn.

Đoán trước cái tính hay “đi vào chi tiết” của bà chị thân mến, bà Khanh chặn ngang:

-Chị kêu em sớm bộ có chuyện gì hả?

Đầu dây bên kia im lặng mất vài giây, rồi giọng bà Bá cất lên, buồn buồn:-

-Khanh à, em có nhớ ngày chị em mình đặt chân xuống thành phố Montréal này là ngày nào hay không?

Bà Khanh bỗng nhiên thấy lòng chùng xuống, bùi ngùi:

-Quên sao được. Hai gia đình mình tới đây ngày 14-5-75. Còn một tuần nữa là đúng ba mươi ba năm rồi! Lẹ quá hả chị!

-Ừ, nhớ hồi nào, chị em mình còn ngồi khóc như mưa ở Sài Gòn, ngày 28-4-75. Chị cám ơn Trời Phật đã độ trì cho gia đình mấy chị em mình chạy thoát. Em nghĩ coi, miền Nam mình lúc đó có bao nhiêu triệu người, vậy mà mình được may mắn ở trong số ít oi những người vượt thoát được.

– Chị nói đúng. Em còn nhớ lúc ngồi xe chạy ra Tân Cảng, thấy ngoài đường dân chúng cũng chạy lao xao, mặt mày hớt hãi. Có đám còn tay xách, nách mang những đồ hôi được trong mấy cơ quan của Mỹ bỏ lại. Tiếng súng đì đùng khắp nơi thấy sợ quá chừng.

Nói đến đây, bà Khanh thở dài, đầu óc hiện lên dày đặc những hình ảnh thê thảm năm xưa.

-Xe chạy vô bến Tân Cảng – bà Bá tiếp lời– nghe nói Việt Cộng đang chiếm bên kia cầu, ai cũng xanh máu mặt hết trơn. May mà mình đến đúng lúc. Chậm chút xíu là tàu tách bến rồi!

Tuy đang buồn nhưng bà Khanh cũng cười:

-Chị nhớ cái gia đình đông nghẹt cả mấy chục mạng ngay bên cạnh gia đình mình hay không?

– Cái gia đình khuân theo cả đống đồ ăn đó chớ gì? Lại còn nằm nệm nữa chớ!

-Đúng rồi. Họ có con gái là vợ một người Đại Hàn trên tàu, nên họ đã lên tàu từ mấy hôm trước. Đem theo cả chục thùng mì gói, bánh trái lu bù…

-Ừ, ai như gia đình mình, chạy mình không lên tàu. Mấy đứa nhỏ đói meo đói mốc. Chị còn nhớ cảnh thằng Cu Tâm với con Bé Ngà nhà mình dòm lom lom cái thằng nhỏ bên cạnh nhai nhóc nhách suốt ngày. Nghĩ lại mà đứt ruột!

Bà Khanh cười

-Chị quên là thằng nhỏ đó có cho hai nhóc tì nhà mình mấy hột nho khô hay sao? Của ít lòng nhiều mà!

Tiếng bà Bá chép miệng:

-Nhớ lại hồi đó nhà mình cả chục người chia nhau có 1 hộp cá mòi với cơm sấy khô. Đói quá cũng nuốt ào ào! Lúc đói thấy cái gì cũng ngon. Chẳng bù bây giờ, thịt cá ê hề lại ngán tới cổ! Ứ hự!

-Chị có nhớ dưới hầm tàu nóng như thiêu như đốt, người nào cũng kiếm thứ gì đó để quạt phành phạch, khiến lòng tàu như có một đàn bướm đang chớp cánh hay không? Rồi lúc tàu chạy ngang Rừng Sát mọi người hầu như nín thở, làm như nếu thở mạnh, Việt Cộng trên bờ sẽ nghe thấy. Hì hì hì!

-Trời! Lúc đó tình hình nghiêm trọng quá mờ – chị Bá phản đối – lỡ tụi nó thụt cho 1 trái B40 là tàn đời. Em không nhớ tàu Việt Nam Thương Tín bị Việt Cộng pháo kích theo ra tuốt ngoài biển, khiến nhà văn Chu Tử bị chết thảm đó sao?

-Vậy mà tàu mình chạy lên chạy xuống từ Vũng Tàu tới Cà Mau ba, bốn ngày trời mà vẫn bình yên vô sự. May mà cuối cùng cái ông nội Cố vấn Mỹ thoát ra được. Nghe đâu đây là một tay C.I.A hạng gộc. Cố Vấn An Ninh Vùng IV Chiến Thuật. Anh Thanh em nói ông ta thoát ra biển bằng một chiếc ghe nhỏ. Nếu nhân vật “trầm trọng” này không ra tới, hổng biết chiếc tàu còn trôi nổi lên xuống bao nhiêu ngày nữa mới chịu đi qua Subic Bay , mà dân chúng trên tàu đã lây nhau bịnh đau mắt. Người nào cặp mắt cũng đỏ lòm như mắt tôm luộc. Thiệt là trần ai khoai củ! May mà mấy ngày sau anh Thanh ra tay đỡ đẻ cho 3 bà trên tàu nên gia đình mình mới được thuyền trưởng ưu ái mời lên boong ở. Đúng ra mấy bả đâu đã tới ngày sanh, nhưng bị căng thẳng quá độ thành ra chuyển bụng luôn. Trên tàu chẳng có dụng cụ y khoa gì hết, vậy mà ông Thanh cũng làm tròn trách nhiệm. Ba bà đều mẹ tròn con vuông.

-Tức cười nhứt là những ngư phủ của các làng chài lưới ven biển, khi được vớt lên tàu, đã đem theo lủ khủ quang gánh, TV, có người còn đem theo xe Honda, thủy thủ Đại Hàn liệng tòm xuống biển luôn! Chị sợ nhứt là lúc có một vị tu hành nhân danh những người lên sau, đòi chia tiền của Mỹ viện trợ. Khanh có nhớ ổng nói gì hông?

– Sao mà hổng nhớ. Ổng nói tiền Mỹ viện trợ cho những người di tản đâu? Phải đem chia đều cho mọi người. Đại diện Ban Điều Hành hỏi tiền gì? Thế là Ngài Tarzan nổi giận, giở giọng hăm dọa, sau khi đã kết án Ban Điều Hành đã chia chác nhau số tiền viện trợ đó. Bên phe ổng đông gấp ba lần những người xuống tàu trước, nên cũng đáng nể lắm chớ bộ!

-Hì hì! Bởi vậy họ mới trình lên thuyền trưởng Đại Hàn. Công nhận là ông này gồ ghề thiệt. Ổng bèn nói với vị tu hành kia, nếu lộn xộn họ sẽ bắt ổng quăng xuống biển. Rồi còn cho đám thủy thủ cầm súng đứng canh cả đêm nữa chớ. Vậy là im re!

– Chị thấy không, ngay một người lãnh đạo tinh thần cho cả một cái làng, mà đầu óc còn hủ bại, hẹp té như vậy biểu sao đám dân ngu khu đen khá lên được?

-Thôi, chị em mình hổng khá thì có! Những người kia qua Mỹ, sau này họ làm nhiều tiền tới nỗi đốt chị em mình cháy tan xác còn được nữa à!

Bà Khanh cười :

– Chị biết tánh em lè phè mà, lại không có duyên buôn bán như chị, thành ra thôi thì cứ đi làm lương ba cọc ba đồng cho chắc ăn. Bây giờ về hưu non cũng khỏe. Ở xứ này có ai chết đói đâu mà sợ. Bề gì cũng có chánh phủ lo mà…

– Chớ hổng phải như bên Việt Nam : Nhân dân đừng no, để nhà nước no hén!

Bà Bá sực nhớ ra, vội nói với em:

– Chị mới gặp chị Đáng dưới phố Tàu hôm kia. Chỉ gởi lời thăm Khanh đó. Năm nay tóc chỉ bạc trắng hết trơn. Đi đường phải chống gậy, nhưng mặt mũi vẫn hồng hào, đẹp lão quá chừng. Chị nhớ lúc ở đảo Guam , chỉ một mình với mười đứa con và một bà mẹ già. Người đâu mà can đảm phi thường!

– Em chỉ nhớ lúc tàu vừa cặp bến Subic Bay , cả nhà mình sau bảy ngày đói khát dưới tàu, đã ăn uống tận tình tất cả những gì ban tiếp tân Mỹ dọn ra mời. Ô hô! Ai tai! Hậu quả là vừa xuống phi trường Đảo Guam là cả nhà bị Tào Tháo rượt chạy trối chết. Nếu không nhờ chai thuốc Élixir parégorique của chị Đáng thì nguy to!!! Hì hì hì. – Bà Khanh không nín cười được khi nhớ lại cái cảnh người chạy ra, kẻ chạy vô chiếc lều, người nào người nấy ôm bụng, mặt mày nhăn nó như khỉ ăn gừng. Sữa tươi, sandwich và cam Mỹ ngon quá mà. Ai cũng chiếu cố nên mới ra nông nỗi!

– Chị nhớ đã gặp nhiều người quen trên đảo mà không nhận ra nhau. Với cái nóng hừng hực như lửa thiêu, mà mỗi ngày hai lần đứng sắp hàng để lãnh cơm thì ai mà hổng thành Chà Và Ma Ní cho được! Với lại khẩu phần cơm trắng cộng với hột gà bột khuấy lên đều đều thì chị em phụ nữ trở thành mình hạc xương mai ngay. Khỏi phí công, phí sức đai-ết đai-iếc khổ sở như bây giờ! Mà dân Việt Nam mình cũng kỳ. Bếp Mỹ bỏ chai maggi nào ra cho dân chúng xịt vô cơm là bị chôm chai nấy. Riết rồi họ không thèm bỏ maggi ra nữa. Thật đáng xấu hổ! May mà chị em mình chỉ ở Guam có 1 tuần rồi được phái đoàn Canada nhận cho qua định cư ở Québec.

– Bây giờ nghĩ lại em còn rùng mình đó chị à. Dám dắt díu nhau ra đi mà trong túi chỉ có vài chục đô la. Lại còn không biết đi đâu nữa chớ! Cứ nhắm mắt mà bước lên tàu. Thiệt là đánh liều nhắm mắt đưa chân. May thay Con Tạo xoay mình qua xứ Canada đất lạnh tình nồng nầy! Em không bao giờ quên được sự tiếp đón nồng nhiệt, thân thiện của người dân Québec. Họ thật sự là những người giàu lòng bác ái hén chi. Hồi trước, khi mình còn ở Mỹ Luông đó, người Việt ở Campuchia bị lính Miên cáp duồn, phải chạy về Việt Nam nương náu. Nhưng họ có được nuôi nấng đàng hoàng đâu nà. Em thấy buồn cho dân mình ghê! – Bà Khanh thở dài.

– Cũng bởi chiến tranh liên miên mà em. Như xứ Iraq bây giờ, ngày nào cũng bom nổ đạn rơi, người chết như rạ. Chị nghĩ chắc ông bà mình cũng tu nhơn tích đức dữ lắm, nên đám con cháu mới được như ngày nay. Chị em mình ở Canada , con Bác Ba ở Úc, con chú Sáu ở Ý, còn con cô Út đều ở Mỹ.

Hồi đó mới chân ướt chân ráo tới thành phố Montréal là được chính phủ đưa vào ở trong một khách sạn thật sang. Ngày ba bữa toàn cơm tây. Mấy ngày đầu còn thấy ngon, sau đó ngán muốn chết luôn! Lần đầu được nếm món spaghetti chan sốt cà chua, thịt băm, nấm…ngon ơi là ngon. Rồi pizza cũng lạ miệng. Tụi nhỏ ăn như điên. Chỉ có đám già là mau ngán.

– Phải rồi. Nhớ nước mắm chảy nước miếng luôn. Lúc đó chỉ cần có cơm trắng chan nước mắm cũng ngon chết giấc, nói chi tới món canh, món xào, món kho! Nhứt là ông Thanh nhà em ngày nào cũng phải “xơi” cơm mới chịu nổi!

-Thì anh Bá em cũng gốc “guộng” mà. Mỗi ngày đúng bốn chén cơm mới đủ “đô’! – Bà Bá nói đùa.

-Em nhớ từ hôtel Queen, em theo anh Bá với anh Thanh lần hồi hỏi thăm đường mà cũng mò tới Phố Tàu Montréal. Trời ơi, nói sao được cái hạnh phúc, cái thống khoái của ba người khi bước chân vô tiệm, mỗi người ăn một tô hoành thánh mì. Em chắc đó là tô mì ngon nhất trong cuộc đời của em. 





Sau khi ăn xong, ba anh em mới tà tà làm một màn “thăm dân cho biết sự tình”. So với phố Tàu các nơi, chắc phố Tàu Montréal là nhỏ nhất. Bằng cái bụm tay. Giống như phố núi Pleiku, đi dăm phút đã về chốn cũ. Phố này đi quãng mươi phút là hết đường. Vậy mà tụi em cũng vác về cho mỗi gia đình một cái nồi cơm điện National và một chai xì dầu.

Bà Bá ngắt ngang:

-Ờ, chị nhớ rồi. Thấy hai anh em mỗi người ôm về một nồi cơm điện chị mừng hết lớn. Mong mau mau dọn ra khỏi hôtel để nấu cơm ăn. Chị còn nhớ cái “bin đinh” chị em mình ở đường Alma đó. Trời ơi, đông nghẹt Việt Nam . Sau này mùi nước mắm đuổi tụi da trắng đi hết ráo!

-Đó là sau này. Em nhớ hôm ra nhà mới, mình đi chợ Steinberg mua một bịch gạo, một con gà và một cây xà-lách. Bữa cơm đầu tiên với thứ gạo chi cứng ơi là cứng, thịt gà luộc chấm xì dầu, nước luộc gà bỏ rau xà-lách làm canh, vậy mà mọi người ăn quên thôi. Còn ngon hơn cao lương mỹ vị!

Bà Bá cười :

– Hèn chi hồi xưa có một vị vua, bị ông Trạng Quỳnh chơi khăm bỏ đói cả ngày trời. Lúc bụng đói meo, Trạng Quỳnh mời ổng ăn cơm với tương chao, vậy mà ông ta thấy ngon hơn sơn hào hải vị trong Cung đình! Sau đó Khanh có nhớ ai đã chỉ cho chị em mình hàng tuần đi chợ thịt Saint-Laurent không?

-Lâu quá em không nhớ ai. Chỉ nhớ là hồi đó thịt cá sao mà rẻ khủng khiếp. Rẻ nhất là cánh gà. Xương heo, xương bò cho không. Dân Mít tha hồ vác về nấu súp. Nhưng còn nói mẻ là xin cho chó ăn, để khỏi mất mặt bầu cua!

– Chị thì thỉnh thoảng vác một cái đầu heo có hai đồng, về nhà cạo sạch sẽ, xắt ra làm dưa đầu heo ngâm dấm cho mấy ông nhậu lai rai. Cánh gà rẻ nhất nên tuần nào cũng cánh gà chiên bơ, cánh gà luộc chấm muối tiêu chanh. Khổ nhất không có nước mắm, món nào cũng nêm muối. Chấm thì chấm xì dầu. Mà cũng tức cười, bên Việt Nam đường mắc đắng, qua đây đường tính ra còn rẻ hơn muối!

Bà Khanh chép miệng:

-Em nhớ hôm thèm món bún bò xào. Thịt bò bên này mềm mại, chớ không dai nhách như bò bên mình. Bữa đó em xào thịt bò với cần tây (céléri), rồi luộc spaghetti cọng nhỏ để thay bún, rau thơm thì chỉ có rau húng quế của Ý, mùi nồng hơn rau húng của mình. Thay nước mắm tỏi ớt bằng xì dầu tỏi ớt, vậy mà cả nhà cũng ăn một bữa ngon thấu trời xanh.

Tiếng bà Bá cười hí hí bên kia đầu dây:

-Khanh còn nhớ cái lần chị bị đau cổ tay hết một tuần lễ không? Tại chị chặt quai da để làm món bì. Chị đãi cả nhà Khanh ăn bì bún đó nhớ chưa?

-A, em nhớ ra rồi. Mà ai dạy chị làm da bì vậy? Cũng ngon hết sẩy con cào cào đó nghen.

-Má mình dạy chớ ai. Hồi xưa dưới quê, đâu có ai bán thứ đó. Muốn ăn thì phải làm lấy mà thôi. Làm cực lắm đó nghen em. Chị phải dặn tụi bán thịt quen dưới Saint Laurent cho chị da heo tươi. Đem về rửa sạch. Lạng bỏ lớp mỡ dưới da. Xong rồi cuộn lại đem nấu. Khi da chín vớt ra ngâm vào nước lạnh có pha chút phèn chua cho da dòn. Vài tiếng đồng hồ sau mới đem ra lạng từng miếng mỏng, dài độ hai lóng tay. Sau cùng dùng dao thiệt bén xắt từng cọng nhỏ cỡ cây tăm xỉa răng. Chị vừa lạng vừa xắt, da heo dai nên sau đó bị đau cổ tay cả tuần. Anh Bá cứ chọc quê chị:”cái miệng mà kiện cái thân”. Vậy mà lúc làm món bì bún, cơm bì, ổng ăn còn nhiều hơn ai hết!

-Em nhớ chị cũng luộc spaghetti thế bún để ăn với bì phải không? Vậy mà cũng ngon quá trời. Em không biết tại lúc đó mình thèm quá hay sao, mà ăn món gì cũng thấy ngon, tuy rằng cứ phải lấy món nọ thế món kia lung tung cả lên.

-Hình như là cả nửa năm sau mới có người Việt Nam mở tiệm, nhập cảng đồ từ Thái Lan qua phải không Khanh?

-Hình như vậy. Chị nhớ không, cách đây ba mươi ba năm, một chai nước mắm dở òm mà họ bán tới $3.75. Bây giờ có cả chục hiệu, hiệu nào cũng ngon mà chưa tới $ 2.00 một chai. Giá một chai nước mắm hồi đó còn mắc hơn một giờ làm lương tối thiểu. Em nhớ như in lương tối thiểu hồi đó là $2.25.

-Ngộ biến phải tùng quyền chớ sao? – Chị Bá xổ nho chùm! – Bây giờ chỉ có gan rồng là không có bán, còn thứ gì cũng ê hề. Mà lạ, giờ đây chị thấy cơm với rau dưa lại ngon miệng Khanh à. Hôm nào lên Chùa ăn cơm chay, chị thấy ngon cách gì. À, tuần này là rằm lớn. Khanh đi chùa Huyền Không với chị nghen. Chùa này có món bún bò chay ngon nổi tiếng lắm.

Bà Khanh định hỏi chị đi chùa lễ Phật hay để ăn bún bò, nhưng chưa kịp nói thì có tiếng ông Thanh cất lên thình lình từ cửa bếp:

-Đang nói chuyện với ai mà say sưa vậy bà nó?

Bà Khanh vội vàng từ giã chị, móc điện thoại lên giá rồi quay qua trả lời chồng:

– Còn ai trồng khoai đất này! Chị Bá với em đang nhắc lại những ngày mình rời Sài Gòn, qua Guam rồi qua Montréal đó mà. Nhiều kỷ niệm buồn quá. Nhớ lại còn rùng mình!

Ông Thanh chọc quê vợ:

-Chị Bá có biết là nhờ kết duyên với một ông Bắc Kỳ thứ thiệt như anh, em mới có cái may “xuất ngoại” hay không? Nếu lấy một ông Nam Kỳ, anh nghĩ chắc em đã bị ở lại với bác và đảng rồi! Tha hồ xơi bo bo, sắn, khoai lang sùng!

-Xì, tưởng bở! Trong tử vi của em có sao Thiên Di. Hổng chừng nhờ số của em mà anh mới đi ra nước ngoài được đó. Hổng cám ơn còn nói!

Ông Thanh cười xí xóa:

-Thôi thôi, xin chịu thua bà xã yêu dấu! Kiến bò bụng rồi nè. Em nấu món gì mà nghe mùi thơm lừng vậy? Anh ăn được chưa?

Bà Khanh múc nước lèo trong vắt đổ lên những cọng bánh canh trắng nuột, điểm vài lát giò heo xắt mỏng, vài con tôm lột vỏ đỏ au. Sau cùng rắc một nhúm hành tím chiên vàng rộm lên trên:

-Xin mời ông Tướng xơi cho nóng. No rồi còn lái xe cho tui đi Ottawa thăm anh chị Nghĩa mà tụi mình gặp hôm tham gia Đêm Thắp Nến nhớ ngày 30-4 ở Cộng Đồng đó. Sẵn ngắm hoa Tulip luôn. Thôi em đi tắm rửa, sửa soạn trước.

Vừa nói bà Khanh vừa đi vô phòng. Ông Thanh gọi với theo:

-Em ơiii, còn cà phê cái nồi ngồi trên cái cốc của anh?

Bà Khanh ném lại mà không cần nhìn lui:

-Bữa nay cho phép anh tự lực cánh sinh!…

Tiểu-Thu

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22806
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Oct/2024 lúc 10:23am

Tình người nơi chiến địa

Tình%20người%20nơi%20chiến%20địa%20-%20Hội%20Quán%20Phi%20Dũng

Tình%20người%20nơi%20chiến%20địa%20-%20Hội%20Quán%20Phi%20Dũng
                    *
Có lẽ cuộc gặp gỡ định mệnh trên chiến trường trong thời chiến tranh, một thời kỳ đầy đau thương và mất mát, nhưng cũng là nơi tình người tỏa sáng. 

Tôi vốn là một người lính của một đơn vị Biệt Động quân bình thường, tôi đã có những trải nghiệm không thể nào quên trong những năm tháng chiến đấu ác liệt, và trong ký ức của tôi, hình ảnh anh Hưng, vị đại úy phi công trẻ trung của Phi đoàn 243 Mãnh Sư, sự gan dạ của anh mãi luôn in đậm trong tâm trí tôi.
                   *
  Tam Quan vùng đồi núi chập chùng ở phía Tây, phía Đông giáp Biển chạy dài xa tít, nơi đơn vị tôi đóng quân là khu căn cứ đối diện chi khu Tam quan cách bởi Quốc lộ 1.

 Vào một ngày nọ  trời vừa hừng sáng tôi đã nghe tiếng động cơ trực thăng của Phi Đoàn 243 tăng phái cho đơn vị chúng tôi,  chẳng bao lâu cả ba chiếc UH-1 đã đáp xuống bãi đáp trong căn cứ .

 Ra bãi đáp tôi gặp ngay anh Hưng, và đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau tại chiến trường ác liệt ở Tam Quan. 

 Anh Hưng gốc là người miền Bắc, mang trong mình vẻ đẹp của chàng trai Hà Nội. Đôi mắt sáng, nụ cười ấm áp và sự điềm tĩnh lạ thường mỗi khi gặp những tình thế hiểm nguy trên không, nó đã khiến tôi bị cảm phục ngay từ khi cùng anh quần thảo trên bầu trời Tam Quan Bồng Sơn. 

 Ra đón các anh gồm các vị sĩ quan trong đơn vị, sau một hồi giới thiệu thân thế của hai bên , các anh được mời vào Trung tâm hành quân của đơn vị tôi để nghe thuyết trình tình hình và phối trí lực lượng của ta và địch.

 Khoảng một giờ sau tôi cùng Sếp lên chiếc C and C do Đại Úy Hưng làm phi công chính, thấy tui lần đầu anh Hưng vỗ vai hỏi:

- Chú em mầy tên gì, chắc chuyên mang PRC 25 theo ông Trung tá Lạc liên đoàn trưởng phải không ?

 Lấy làm lạ, vì lần đầu tiên đi bay cùng các anh không quân, có bao giờ họ chú ý đến mấy thằng "Cắc ké" như tôi đâu, tôi trả lời anh:

 -Dạ em tên Hùng đó đại úy, đại úy nói đúng rồi, thằng em chuyên mang máy cho Sếp em từ lúc về đơn vị này đến giờ.

 Đến lượt anh Hưng giới thiệu:

- Mình là Hưng , tương lai chắc "Ăn cơm tháng" với Liên đoàn của chú em mầy hoài đó, mà tôi hỏi thiệt nghe, chú em mầy đi trực thăng có sợ không, lên ngồi nhớ vịn cho chắc chớ không gió nó thổi là rớt xuống biển đó nghe.

 Biết anh nói chơi cho vui, tôi dạ rân:

 - Dạ tuân lệnh Đại úy ...

  Sau nhiều chuyến đi bay với anh Hưng, tự nhiên hai anh em tôi thân thiết hồi nào chẳng hay, mỗi khi các  đơn vị  trực thuộc của Liên đoàn tôi chạm địch, thì trong tích tắc chiếc UH-1 mang số hiệu 0777 của anh lại xuất hiện trên bầu trời, anh chở thầy trò tôi bay lên  quan sát chiến trường từ trên cao, nhờ đó sếp tôi đã chỉ huy giải tỏa áp lực địch  một cách hiệu quả hơn.

  Có lần, khi một đơn vị trực thuộc của đơn vị tôi bị phục kích, đại úy Hưng đã không ngần ngại lao vào bầu trời có những  làn đạn phòng không phía bên dưới, anh điều động hai chiếc Gunship bắn rốc kết và những tràng Miligun trên trực thăng, các  anh  pilot đã cứu các chiến hữu tôi trở về an toàn. 

 Từ đó tình Huynh đệ chi binh giữa chúng tôi từ đó trở nên khăng khít hơn bao giờ hết. Có những buổi chiều tĩnh lặng, khi không có bận bịu nhiệm vụ, chúng tôi thường cùng nhau ngồi bên chiếc bàn nhỏ, nhâm nhi ly cà phê nóng và trò chuyện. Anh kể cho tôi nghe về bầu trời, về những khoảnh khắc nghẹt thở khi đối mặt với kẻ thù. Còn tôi, tôi chia sẻ với anh về cuộc sống của một người lính bộ binh, về những nỗi sợ hãi, những ước mơ và cả những kỷ niệm đẹp.

Một lần nọ, sau một phi vụ thành công, anh Hưng chở tôi về đơn vị của anh ở phi trường Phù Cát. Hai anh em tôi ghé vào một quán nước nhỏ bên ngoài phi trường, gọi vài chai bia Larue uống giải khát kể chuyện đời cho nhau nghe, chiều hôm đó, chị Hưng đã chuẩn bị một bữa cơm tối thịnh soạn cho chúng tôi, trong căn nhà nhỏ đơn sơ, chúng tôi cùng nhau thưởng thức những món ăn dân dã, trò chuyện vui vẻ, khiến cho tôi có được cảm giác ấm áp, gần gũi như gia đình, nó đã làm cho tôi quên đi những mệt mỏi, những lo âu của chiến tranh đang hiện diên trên đất mẹ.

 Sáng hôm sau trước khi ra về anh Hưng tặng tôi một chiếc đồng hồ đeo tay, chiếc đồng hồ Timex thật mỏng có khắc tên anh ở mặt sau.

Đưa cho tôi chiếc đồng hồ anh Hưng nói:

- Hùng mang nó đi, cứ mỗi khi nhìn vào chiếc đồng hồ này, anh muốn em nhớ rằng luôn có một người bạn ở bên cạnh em nhé.

Chiếc đồng hồ ấy đã trở thành kỷ vật quý giá của tôi, luôn theo sát tôi trong suốt những năm tháng chiến tranh, tiếc rằng trong thời gian di tản chiến thuật, sau một lần lội qua Sông Ba ở quận Cũng Sơn ( Phú yên) tôi đã làm rớt nơi nào chẳng hay, chừng phát hiện ra điều này khiến tôi buồn vô hạn vì mình đã đánh mất một báu vật không dễ gì có được .

 Cuộc chiến kết thúc thật đột ngột, vừa đúng một tháng rưỡi kể từ khi đơn vị tôi giã từ Thị xã Kontum,  Thời gian trôi qua thật nhanh, tôi trở về đời sống dân sự ở Sài gòn, anh Hưng thì sau khi phục vụ ở Phi trường Phù Cát anh được thuyên chuyển về một phi trường ở Vùng bốn chiến thuật, đúng vào ngày gãy súng anh Hưng và đồng đội đã bay ra Hạm đội Bảy của Hoa kỳ bắt đầu cho cuộc đời của người tị nạn, sống mỗi người một nơi. Nhưng tình bạn giữa tôi và anh Hưng tôi nghĩ nó vẫn luôn bền chặt. 

 Nhờ mạng Internet toàn cầu, nhờ mạng xã hội Facebook chúng tôi  liên lạc thường xuyên với nhau ôn lại những kỷ niệm đẹp.

Chiến tranh đã qua đi, nhưng những kỷ niệm về anh Hưng và những người đồng đội vẫn luôn sống mãi trong trái tim tôi. Tình bạn giữa chúng tôi, một người lính bộ binh và một phi công, là một minh chứng đẹp đẽ cho tình Huynh đệ chi binh, tình bạn vượt qua mọi khó khăn thử thách.
                    *
 Đại úy Hưng năm nay ngoài tám mươi, tuy không còn phong độ một thời khiến các em nữ sinh thầm ao ước kết giao, nhưng tinh thần anh còn rất minh mẫn, qua trò chuyện tôi hỏi anh:

 - Bây giờ cho anh lên UH-1 anh vẫn lái ngon lành không anh Hưng.

 Anh phá lên cười, anh nói:

 - Mình bây giơ mắt mờ, chân tay run rẫy rồi , dễ gì lái được như hồi xưa nữa Hùng ơi!

 Rồi anh nói tiếp:

 -Cuộc chiến vừa qua nó khốc liệt quá, nhất là anh em mình ở nơi vùng hai chiến thuật, nơi bom đạn kinh hoàng nhất vậy mà mình còn nguyên vẹn hình hài này, quả là phước đức ông bà để lại cho mình dữ lắm.

 Sau câu nói của anh Hưng , trong video Call tôi thấy anh nghẹn ngào như mình không kém.

 Tôi và anh Hưng thầm ước mong có dịp nào  đó, hai anh em tôi được gặp lại nhau ngoài đời để nhắc lại những buồn vui đã qua trong thời chinh chiến, thời gian mà chúng tôi đã cống hiến tuổi trẻ  của mình để gìn giữ quê hương.

Hai Hùng SG
Sài gòn một sáng mưa buồn .2024.

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 08/Oct/2024 lúc 10:25am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22806
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Oct/2024 lúc 8:05am

Anh Đi Vào Mùa Thu

Các%20lưu%20ý%20khi%20đến%20Lệ%20Giang%20-%20Shangrila%20và%20cảnh%20đẹp%20mỗi%20mùa

(Tưởng nhớ anh Nguyễn Trọng Đạt. Bút danh Trọng Đạt)

Một người quen đến nhà tôi chơi trong lúc chuyện trò bạn kể thứ bảy vừa rồi mới đi dự đám tang hỏa táng người bạn và vô tình hỏi tôi:

- Anh Trọng Đạt, tác giả những bài viết đăng trên báo mạng báo giấy chị có quen không?

Tôi giật mình hỏi tới:

- Có phải anh Trọng Đạt Quốc Gia Hành Chánh không?

- Đúng rồi, anh ấy. Báo Người Việt Dallas có đăng phân ưu.

Tôi bàng hoàng, buồn và tự trách mình đã không biết tin sớm hơn để có thể đến viếng anh, “gặp” anh lần cuối. Tôi là người khi đọc tờ báo giấy nào sẽ đọc từ trang đầu tiên cho tới trang cuối cùng, mục quảng cáo, vui cười, tìm bạn bốn phương, tin buồn phân ưu hay tin vui chúc mừng đám cưới của bất cứ ai tôi cũng không bỏ qua, vậy mà lần này tôi sót không đọc được tin anh Trọng Đạt qua đời, một người bạn hơn tuổi mà tôi quý mến.

Cách đây mười mấy năm tôi gặp và quen anh Trọng Đạt trong một lần họp mặt tại nhà anh Nguyễn Đức Nhơn tại thành phố Arlington và có anh Túy Hà cùng vài anh chị khác từ Houston đến. Tuy ở cùng thành phố Arlington, thậm chí “rất gần” mà phải nhờ cuộc họp mặt ấy tôi và anh Trọng Đạt mới nhìn ra nhau là “hàng xóm”. Tôi và anh Trọng Đạt trao đổi địa chỉ email và số điện thoại để khi nếu cần sẽ dùng đến.

Sở dĩ tối biết hàng xóm rất gần vì sau đó thỉnh thoảng tình cờ tôi gặp lại anh Trọng Đạt, không ở chốn họp mặt bạn bè nói chuyện văn thơ mà ở… nơi chợ búa. Tôi và anh không biết nhà nhau nhưng tôi tin chắc nhà anh cùng zip code nhà tôi vì toàn gặp nhau quanh quẩn một chợ. Khi chợ Nam Hưng chưa dời đi tôi gặp anh đi chợ Nam Hưng, anh vào chợ không cần xe đẩy, không cần xách giỏ chợ, chỉ tay không, mua vài món bỏ bịch cầm tay là xong. Tính tôi hay đùa vui hỏi anh tại sao sống độc thân hoài vậy để cứ phải đi chợ cho mệt tấm thân già còm cõi, để Thanh làm mai cho anh một bà. Tính anh không đùa, anh nghiêm trang đáp lời: ”Tôi thích sống một mình cho khỏe, không dám làm phiền chị”

Lần nào gặp, hai anh em trước là hỏi thăm sức khỏe nhau sau là hỏi thăm bạn bè văn thơ cũ hôm họp mặt nhà anh Nguyễn Đức Nhơn rồi nói chuyện về văn thơ, anh nhắc nhở tôi gởi bài cho “Thông Reo” của Quốc Gia Hành Chánh và trước khi chia tay anh lại xin địa chỉ email và số điện thoại để khi cần trao đổi chuyện gì. Tôi mở xách tay lấy bút và mảnh giấy ghi ghi chép chép xong đưa cho anh.

Mùa Thu năm trước, một hôm tôi đang chăm chú lựa chọn từng quả hồng dòn trong chợ Bến Thành. Cuối tháng mười mùa thu là mùa hồng, chợ Bến Thành có cả một combo lớn toàn hồng chín cây còn hương phấn tươi ngon. Khi tôi chọn xong một bịch hồng mới nhận ra anh Trọng Đạt đang đứng thù lù trước mặt, tôi ngạc nhiên hỏi:

- Ủa, nãy giờ anh đứng đợi để mua hồng hả? để Thanh chọn cho.

- Tôi không mua hồng, gặp chị đây thì hỏi thăm chuyện trò thôi. Chị cẩn thận quá, chọn một bịch hồng chừng vài pound mà mất 15 phút.

Tôi... quê quê:

- Cám ơn anh đã kiên nhẫn đợi, may mà Thanh mua 1 bịch hồng, nếu nhiều hơn thì cho anh chờ tới chiều luôn.

Và chuyện trò xong giã từ nhau anh Trọng Đạt lại xin địa chỉ email và số điện thoại của tôi. Anh cẩn thận quá, có lẽ anh sợ mất liên lạc một người bạn vai em, luôn lắng nghe anh nói và khích lệ anh viết.

Tôi và anh Trọng Đạt hay gặp nhau trong chợ vì cùng sở thích đi chợ ngày thường, không thích đi vào thứ bảy chủ nhật chợ búa đông người bát nháo làm mình mất thì giờ.

Thế rồi cách đây vài tháng có một lần tôi vừa ra khỏi chợ Bến Thành thì thấy bóng dáng anh Trọng Đạt đang rẽ vào khu hành lang mall Bến Thành. Tôi tiếc rẻ không kịp gặp anh để chuyện trò, thôi thì để lần khác vậy.

Tôi nào ngờ đó là lần cuối cùng tôi thấy anh, bóng dáng còm cõi mất hút trong dãy hành lang chợ Bến Thành và anh mất hút luôn trong cõi nhân gian này.

*
***

Tuần sau tôi lấy báo Người Việt Dallas và đọc thấy “Cảm tạ” của gia đình anh Trọng Đạt. Anh mất vào chiều thứ bảy 30 tháng 9 năm 2023 tại bệnh viện Medical City of Arlington, Texas. Tôi lại thêm day dứt nếu biết tôi đã đến bệnh viện thăm hỏi anh, nói chuyện được với anh đôi câu những giây phút cuối đời.

Anh sinh năm 1942 tuổi mùa Thu cuộc đời và anh đã trở về cát bụi cũng vào mùa Thu .

Từ nay trở đi tôi sẽ không còn được đọc bài viết mới nào của anh về thời cuộc thế giới, về hiện tình đất nước Việt Nam nữa và nhất là tôi sẽ không còn dịp tình cờ nào gặp anh đi chợ.

Hôm nay tôi thắp nén hương muộn viếng vong linh anh Trọng Đạt, xin lỗi anh và kính chúc anh ngàn Thu yên nghỉ.

Ngày lễ Halloween sắp tới đây anh có linh thiêng “trở về” đi chợ Bến Thành, đi vào quầy trái cây đợi tôi chọn mua hồng để anh em chuyện trò như mùa Thu năm trước nữa không? Và chắc chắn rằng anh vẫn còn giữ địa chỉ email và số điện thoại của tôi vì anh đã xin mấy lần nhưng chưa bao giờ dùng đến, lần này anh có cần dùng đến không? gởi tin nhắn một lời chào vĩnh biệt gì đến tôi không?

Nguyễn Thị Thanh Dương
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22806
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Oct/2024 lúc 8:14am

Gả Thiếp Về Vườn 

Truyện%204:%20GẢ%20THIẾP%20VỀ%20VƯỜN%20%28Tập%20truyện%20ngắn%20GẢ%20THIẾP%20VỀ%20VƯỜN%29%20TG:%20Hồ%20Trường%20%20An.%20N.đọc:Thái%20Hoàng%20Phi

Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh

Ca dao

**** 

Bà Phán Hoành bảo con gái:

- Không phải má ép uổng con, nhưng má thấy thằng Ba Thoại hiền lành lại con nhà khá giả, có của ăn của để nên má mới tính gả con cho nó.

Cô Hai Phụng Cơ e dè:

- Con không muốn cãi má, nhưng lấy chồng miệt đó con ngại lắm. Má ơi đừng gả con xa, chim kêu vượn hú biết nhà má đâu! Nội nghe ba tiếng U Minh Thượng là con rùng rợn rồi!

Ngọn đèn đặt trên chiếc bàn dài giữa cặp trường kỷ chạm nai, khỉ, chim, sóc, chùm nho bỗng kêu một tiếng tách, tóe bông đèn rực rỡ như chùm pháo bông. Bà Ký Banh trấn an:

- Cháu đừng lo, Ông bà Hội đồng Huờn, ba má thằng Toại giàu sụ, có toà cao lẫm lớn, dãy dọc nhà ngang. Dinh cơ họ rộng minh mông, đầy cây cao bóng mát. Ổng bả tuy ở miệt khi ho cò gáy nhưng biết cách ăn ở theo người tỉnh thành, nuôi nhiều tôi trai tớ gái. Cháu mà về làm dâu nhà họ, cháu khỏi làm động tới móng tay, sẽ có ba con tớ gái hầu hạ. Một đứa lo việc chải đầu rửa mặt, một đứa lo việc bếp nước, một đứa để cháu sai vặt. Con vợ thằng Hai Tường sao thì cháu cũng được như vậy.

Cô Hai Phụng Cơ liếc xéo bà Ký Banh. Bà nầy có tật ít xít ra nhiều. Vận sự nào mà lọt qua miệng bả cũng được bả nhơn lên gấp rưỡi, gấp đôi sự thiệt. Ðó là vận sự thường. Còn đối với việc làm mai làm mối, làm áp-phe để sanh lợi biết đâu bả chẳng nhơn lên gấp ba gấp bốn, một nhúm gạo bả nấu thành nguyên nồi cháo, nghe tiếng pháo bả sẽ hô tiếng pháo thần công cũng không chừng. Chèn ơi, lúc kể về cái bề thế giàu sang quí phái của ông bà Hội đồng Huờn, mặt bà Ký Banh như mê đi. Bà Phán Hoành ngồi giảo tai ra nghe, miệng nín khe nhưng cặp mắt long lanh háo hức, coi không giống ai.

Cô Hai Phụng Cơ là bạn cô Tư Nguyệt Yếng, con gái của bà Ký Banh. Cô nầy có người chị con nhà bác tên Hai Nguyệt Thanh lấy con trai lớn của ông bà Hội đồng Huờn là Hai Tường. Song thân cô Hai Nguyệt Thanh là ông bà Phủ Bảnh chẳng những có tước trọng quyền cao mà lại là bực đại điền chủ ở Vĩnh Long, có 200 mẫu ruộng tốt ở miệt An Hương, Mỹ An. Khi cô Hai Nguyệt Thanh về làm dâu ông bà Hội đồng Huờn thì ông bà Phủ Bảnh cho cô hai đứa tớ gái là con Xiêm, con Lài theo hầu.

Theo lẽ thường, khi sanh con đầu lòng, con gái phải về nhà cha mẹ, xổ bầu, tịnh dưỡng cho tới khi cứng cáp mới về lại nhà chồng. Cô Hai Nguyệt Thanh vừa về tới nhà tía má mình, véo von với lũ em liền:

- Chèn ơi, được về đây, tao tưởng chừng ở chín tầng địa ngục trồi lên dương gian. Bởi tao lụy ảnh nên tao mới chịu về U Minh Thượng chớ xứ gì mà đầy rừng tràm, nước đỏ au, đất phèn khô khao khô khốc, trồng chuối còn chưa được, nói chi tới trồng cam, quít, ổi, mận... Hãy day qua bên nầy thì gặp rừng tràm; day bên nọ thì gặp sóc Thổ; ngó về bên kia là đồng đầy cỏ lác, cỏ năng; ngước qua đàng trước gặp đám điều lộn hột; ngoái lại đàng sau là thấy ao, bàu, lung, vũng, đám sậy, rừng lau…

Về tới Vĩnh Long, cô Hai Nguyệt Thanh ăn hàng để báo thù những ngày thèm lạt ở chốn khỉ ho cò gáy. Cô ăn quít đường, cam hồng mật, đu đủ, xoài, mận, ổi xá lỵ…Cô ăn ốc gạo, thịt heo quay, thịt vịt quay…Nhưng hôm cô Hai Phụng Cơ theo cô Tư Nguyệt Yếng tới thăm ông bà Phủ Bảnh, được mời ăn cơm, mới rõ được phần trù phú của quê chồng cô Hai Nguyệt Thanh. Vừa ngồi vào mâm, cô Hai Nguyệt Thanh đã trề môi nhún mỏ, ỏng ẹo chê bai:

- Xời ơi, con cá lóc xứ Vãng mình sao mà ốm o đèo đẹt! Tôm trứng cỡ ngón tay thì nhiều mà tôm càng cỡ cườm tay thì ít nên mắc như vàng. Xứ sở của chồng tui bị thiệt hại về trái cây nhưng được xôm về tôm cá. Tôm càng dưới đó rẻ rề, mỗi lần ăn tôm, lấy gạch ra cầu cả chén. Cá lóc, cá bông bự bằng bắp chơn, trứng lớn cả ngón trỏ…Còn loại cá lụn vụn như cá chốt, cá rói, cá linh ai mà thèm ăn! Thứ đó chỉ dùng làm phân bón rẫy. Từ hôm về đây, bà con có thấy tui đi ăn cá nướng trui, bún tôm nướng, chạo. suông bao giờ chưa? Mấy món đó, chị bếp của tía má chồng tui làm hà rầm, ăn tới ngán ngược…

Cô Hai Nguyệt Thanh vừa sanh xong thì tuần lễ sau Hai Tường và Ba Thoại đi đò máy rồi đi xe đò lên thăm ở chơi nhà ông bà Phủ Bảnh vài ngày. Cô Hai Phụng Cơ tháp tùng cô Tư Nguyệt Yếng đến đó chơi nên cô lọt vào mắt xanh chàng công tử miệt vườn Ba Thoại.

Hai Tường trắng trẻo, cao lớn, đẹp trai, ăn nói mềm mỏng duyên dáng, cô Hai Nguyệt Thanh vui lòng về làm dâu chốn khỉ ho cò gáy cũng phải. Còn Ba Thoại tuy cao lớn như anh, mặt mũi không có gì đáng chê trách, nhưng sắc diện lầm lì, cặp mắt soi mói, nhìn ai là như muốn xoáy vào da thịt, tim gan đương sự. Vừa mới chạm mặt chàng ta, cô Hai Phụng Cơ đã nghĩ thầm: «Cái thứ tẩm ngẩm tầm ngầm như tên nầy dám làm chuyện động trời động đất lắm đa. Xời ơi, cái miệng thằng chả khi cười coi sao mà nham nhở! Tui có giành trâu cướp ruộng hắn đâu mà hắn cứ nhìn tui gườm gườm như muốn ăn tươi nuốt sống vậy cà! »

Ba Thoại muốn ăn tươi nuốt sống cô Hai Phụng Cơ thiệt. Chàng nhờ chị dâu mình cậy bà Ký Banh làm mai cô Hai Phụng Cơ cho chàng sau khi viết thơ về tỏ tường trong đục cho cha mẹ hay.

° ° °

Cô Hai Phụng Cơ lấy chồng mà lòng bất mãn lắm. Không phải cô chê Ba Toại xấu trai hay dị dị, nhưng khi nghĩ đến cảnh đi làm dâu tại vùng cực nam đất nước, chốn đĩa vắt muỗi mòng, trên có rừng cọp, dưới có sấu mà tay chơn cô bủn rủn, hồn phách cô bàng hoàng.

Ðám cưới được tổ chức tại nhà hương hoả của ông bà Cai Tổng Viên, anh ruột của bà Hội đồng Huờn, thuộc quận Cái Răng, tỉnh Cần Thơ. Cô dâu chú rể ở đó chơi một tháng hoặc đi Sài gòn, Vũng Tàu tùy ý rồi mới trở về U Minh Thượng.

Trước ngày vu qui, cô Hai Phụng Cơ khóc với cô Tư Nguyệt Yếng:

- Tao lấy chồng mà lòng lạnh ngắt. Trời đất thánh thần ơi, rồi đây về U Minh Thượng nếu tao không bị muỗi tha xác thì cũng bị đĩa hút hết máu, sống sao cho nổi để về thăm mẹ cha, chòm xóm cùng bạn bè xứ Vãng nầy?

Bà Ký Banh bảo bà Phán Hoành:

- Rồi đây con Hai của chị sẽ ăn nên làm ra. Từ của cải ruộng đất của chồng, nó sẽ làm ra cơ nghiệp đồ sộ cho chị coi. Hôm tui tới nhà chị làm mai thì thấy ngọn đèn trổ bông chói loà. Ðiềm hên đó đa chị!

Cô Hai Nguyệt Thanh bảo cô Tư Nguyệt Yếng và cô Hai Phụng Cơ:

- Má chị có lần đi xuống U Minh Thượng dự đám tang của bà mợ dâu, có dịp viếng nhà ông bà Hội đồng Huờn. Bả thấy gia cảnh của họ rỡ ràng nên muốn gả chị cho anh Tường, không cậy ai mai mối. Khi trở về đất Vãng, bả rủ chị tới thăm cậu của chị, rồi tổ chức cho anh Tường gặp chị. Vừa gặp chị, cả hai bị tiếng sét ái tình long trời lở đất, dội ngực thốn tim. Bởi đó chị mới chịu về cái xứ quê mùa hẻo lánh đó làm dâu.

Ai cũng nói vô thì cô Hai Phụng Cơ làm sao lộn nài bẻ ống tháo ra đây? Vào thập niên 30, các cô gái đều phải chịu cảnh cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Vả lại Ba Thoại chẳng những có ăn học mà còn dễ coi, vóc mình liền lạc, tay chơn cứng cáp, phải thế trượng phu, cho nên cô đành ngâm hai câu:

Ra đi là sự đánh liều,

Mưa mai nào biết nắng chiều nào hay

Cô Hai Phụng Cơ đi lấy chồng thì cảnh nhà ông bà Phán Hoành lạnh ngắt. Bởi tánh cô bãi buôi vui vẻ, ưa nói véo von, ưa cười giòn khấm khứu, ca hát lảnh lót nên cảnh nhà ấm áp, vắng cô là vắng tất cả sinh động. Cây khế ngọt trổ bông tím quanh năm ngoài bến nước từ đó vắng bóng cô chiều chiều ra hóng mát hoặc thêu thùa. Có chàng trai chiều chiều chèo tam bản dọc trên sông Long Hồ, khi qua đó thường ngâm nga:

Trèo lên cây khế mà rung

Khế rớt đùng đùng không biết khế ai!

Khế của ông Phán chẳng sai

Khế vừa có trái, cô Hai đi lấy chồng…

Hôm đám cưới, cô Hai Phụng Cơ mặt mày ủ ê bất mãn. Lũ chị em cô cậu, lũ chị em bạn dì, lũ chị em chú bác với cô kẻ thì lấy chồng cùng tỉnh, người thi lấy chồng Sài gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ, Sa Ðéc…ai cũng được hưởng ánh sáng thị thành, ai cũng có dịp khoe thú ăn chơi, những chuyện giao du của mình với xã hội…Riêng cô phải lấy chồng xa mút tí tè. Ðã vậy khi xe nhà trai tới thì trời bắt đầu mưa lâm râm, tới lúc ông bà mai lên cặp đèn sáp chạm rồng phụng thì bên ngoài mưa như cầm tĩn mà đổ. Tuy nhiên hai ngọn đèn cháy đều, sáng phừng như hai búp sen bằng lửa.

Trên đường về Cái Răng qua bắc Cần Thơ, tới nhà ông bà Cai Tổng Viên, trời vẫn mưa lai rai. Trước khi ra xe để về Vĩnh Long, bà Ký Banh vịn vai cô Hai Phụng Cơ, cười ngỏn ngoẻn:

- Ðám cưới mà gặp mưa là điềm tốt đó đa cháu. Lại nữa, khi bác trai và bác lên cặp đèn, thì ngọn đèn cháy đều và sáng quắc. Thêm một điềm tốt nữa, cháu có thấy không?

Cô Hai Phụng Cơ miệng thì dạ dạ nhưng cặp mắt kín đáo liếc xéo bà mai, tại bà thày lay mà tui xa xứ, tại bà ham đầu heo bự mà tui lìa quê.

Cô Hai Phụng Cơ hai tuần sau, từ Vũng Tàu gởi thơ cho cô Tư Nguyệt Yếng:

Ô Cấp, ngày….

Bớ con Nguyệt Yếng,

Chồng tao dắt tao đi Ô Cấp, ở khách sạn để hưởng tuần trăng mật. Sau đó ảnh sẽ đưa tao qua Long Hải ở chơi thêm một tuần nữa. Tụi tao sẽ leo núi Bồng Lai, viếng am cốc..

Giờ đây tụi tao tắm biển đã đời, ăn sò huyết, cua biển, ghẹ, nghêu, chem chép, ăn đủ món cá…Tao thức thiệt khuya, dậy thiệt trể, đêm ngắm trăng biển, ngày nghe nhạc phi lao. Tao phải nói rằng tao hạnh phúc. Chồng tao cưng tao lắm Yếng à. Trung tuần tháng tới tao sẽ theo chồng về chốn U Minh Thượng xa lắc tí tè. «Có chồng thiếp phải theo chồng. Nắng mưa thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam ». Có tình yêu của chồng, tao thấy cuộc đời nơi quê hương mới không còn ghê gớm như tao đã nghĩ trước kia. Rồi đây mầy và tao mỗi người mỗi ngả, hướng rẽ càng dang xa. Tao chỉ biết cầu cho mầy hạnh phúc viên mãn, cầu luôn cho trăm năm sau, hạnh phúc của tao vẫn tròn trịa như bây giờ, không sứt mẻ, không trầy trụa, Yếng à.

Tao tạm dừng bút. Hẹn khi về tới U Minh Thượng sẽ gởi thơ tiếp. Nhớ cầu Trời Phật phò hộ cho hai đứa mình nghen mậy.

Bạn mầy,

Trần thị Phụng Cơ

Bà Ký Banh nhân một hôm đến nhà bà Phán Hoành ăn giỗ, cười bảo bạn:

- Con gái đứa nào cũng như đứa nấy, hễ đi lấy chồng xa là mặt mày ủ dột, oán ghét ông bà mai cắc cớ trớ trêu xô tụi nó ra khỏi nhà cha mẹ. Ðó, chị coi đó, con Hai bây giờ cơm ngon canh ngọt với chồng, nó viết thơ về tháo trút tâm sự với con gái tui mà tâm sự nào cũng hân hoan ráo trọi.

° ° °

Cô Hai Phụng Cơ vừa đút đầu vô nhà chồng ở U Minh Thượng là gặp cái không khí nghiêm trọng rồi. Ông bà Hội đồng Huờn mặt như tráng một lớp thép mỏng nguội ngắt. Hai Tường tuy cười mà nụ cười kềm hãm không để lộ nguyên hàm như hồi chàng đến thăm ông bà Phủ Bảnh. Còn cô Hai Nguyệt Thanh chưa chi đã đổi gương mặt nhí nhảnh hồn nhiên thành vẻ mặt trịch thượng của bậc kẻ cả, thấy mà ngứa gan.

Dinh cơ của ông bà Hội đồng Huờn cách chợ làng khoảng năm cây số. Chợ nầy có nhiều gian hàng lợp lá của người Tàu, có tiệm mì, hủ tiếu, có tiệm chạp-phô tiệm vải. Từ nhà họ, khách bộ hành có thể vượt qua đám điều lộn hột hoang dã, vượt qua bãi lau sậy, qua cánh đồng cỏ năng để đến sóc Thổ của người Miên rồi đến xóm Cây Da của người Việt dọc theo dòng kinh đào. Từ vàm kinh đào giáp với lòng rạch song song với rừng tràm, du khách có thể vượt sáu cây số là tới chợ Chắc Băng, nơi thị tứ sầm uất.

Nhà ông Hội đồng gồm ba căn hai chái, nóc lợp ngói âm dương, nền đá da qui cao tới ngực, ở hàng ba thì lót gạch men trắng vẽ bông xanh, bên trong lót gạch trắng chen gạch đỏ. Bên trái ngôi nhà từ ngoài ngó vô là sân lót gạch tàu, kế đó là lẫm lúa gồm ba căn, vách bổ kho, mái lợp ngói móc. Lẫm lúa cũng có hai chái. Chái bên trái dành để nông cụ, chái bên mặt để cối xay lúa và cối giã gạo. Trong sân nhà có cây mù u tàn rậm, che bóng mát một vùng. Sân trước bày hòn non bộ, mấy chậu cau kiểng, tóc tiên, kim quít. Phía sau nhà là cây da xà cũng để lấy bóng mát. Trong vườn, ông Hội đồng Huờn cho trồng dừa Tam Quan, cau xiêm, mãng cầu xiêm. Ông cũng đang thử trồng chuối nhưng vì đất còn nhiều phèn nên chuối còi cọc lắm. Chung quanh khuôn viên nhà, ông cho đào mương, mỗi hướng có chiếc cầu tre bắc qua bên kia đường đê của đám ruộng. Dọc theo mương, ông trồng làm hàng rào bên ngoài, trồng cây xương rồng và cây độc trụ bọc bên trong.

Vợ chồng Hai Tường chiếm căn phòng ở chái bên trái, có cửa sổ trổ ra sân gạch tàu và lẫm lúa. Vợ chồng Ba Thoại chiếm căn phòng ở chái bên mặt, có cửa sổ ngó ra mương nước thả dây ấu xanh tươi,

Cô Hai Phụng Cơ từ nhỏ tới lớn chỉ lo ăn học. Tư tưởng tự do lãng mạn nơi mấy cuốn tiểu thuyết từ năm nầy qua năm nọ chui vô óc cô rồi mắc kẹt luôn trong đó. Song nó chưa có dịp ngo ngoe vẫy vùng. Bởi lẽ cô chưa va chạm với đời nhiều nên cô còn nhút nhát. Bởi lẽ ba má cô giáo dục cô theo lối xưa nên cái tánh quật khởi của cô chưa có dịp cháy phừng. Về nhà chồng, cô chẳng biết nấu nướng chi ngoài các món cá kho, thịt kho, vài món canh, món xào thông thường. Trong khi đó, cô Hai Nguyệt Thanh là con ông Phủ, địa vị bên cô ta trội hơn bên chồng nên cô được thung dung tự tại, làm bếp hụ hợ, thêu may cầm chừng. Cô Hai Nguyệt Thanh ngoài con Lài, con Xiêm là hai tớ gái cô mang theo, cô còn được bà má chồng cho thêm con Kim Heng lai Miên để cô sai vặt. Trong khi đó, cô Hai Phụng Cơ chẳng mang theo tớ gái nào, mà bà Hội đồng Huờn cũng chẳng nghĩ tới việc mướn cho cô một mụ nào để phụ bếp, để coi sóc nhà cửa giúp cô. Từ khi cưới cô cho Ba Thoại, bà Hội đồng Huờn cho mụ bếp Năm Cánh nghỉ việc. Con Lài, con Xiêm tuy có phụ cô việc bếp núc, việc coi sóc nhà cửa, nhưng tụi nó không phải là đầy tớ của cô nên cô không dám sai bảo tụi nó nhiều hay cằn nhằn rầy la chi cả.

Một hôm, cô Hai Phụng Cơ nấu cơm gạo mới. Cô vô ý đổ nhiều nước và đợi cơm sôi ba dạo mới chắt nước. Cô Hai Nguyệt Thanh khi mở nắp vung ra liền cười bảo bà Hội đồng Huờn:

- Mèn ơi, con tưởng đâu hôm nay thím Ba khuấy bánh đúc chớ!

Bà Hội đồng Huờn xáng cho cô Hai Phụng Cơ một cái nhìn nháng lửa:

- Xời ơi, ai coi con dâu út của tui! Nó nấu cơm chẹt nhẹt, nhão nhừ làm như ai nhai cơm rồi nhổ phẹt vô nồi vậy!

Khoảng đời làm dâu ba năm của cô Hai Phụng Cơ tốn biết bao là nước mắt. Nhưng trời bù đắp là Ba Thoại yêu thương cô rất mực, thường che chở cho cô nên cô cũng nguôi ngoai phần nào. Lại nữa cô Hai Nguyệt Thanh chỉ đẻ một mụn con gái rồi nán một thời gian dài. Còn cô Hai Phụng Cơ đẻ liên tiếp hai đứa con trai. Nhờ sanh đẻ, máu huyết thay đổi, cô Hai Phụng Cơ phốp pháp và trắng phau phau.

Ít lâu sau, ông bà Hội đồng Huờn cất nhà cho vợ chồng Ba Thoại ở xóm Cây Da để cả hai trông nom sở ruộng ba mươi mẫu, loại ruộng gò. Nhà của họ cũng ba căn hai chái, vách bổ kho nhưng mái lợp ngói móc, nền lót gạch tàu. Chung quanh khuôn viên là hàng rào đóng bằng cây tràm khô dầy bịt.

Ngay khi về nhà mới, cô Hai Phụng Cơ ỏn ẻn với chồng:

- Em thiệt không ngờ mình cưng em nên khi thì òn ỉ, khi thì làm trận làm thượng với ba má để giờ đây vợ chồng mình có giang sơn một cõi. Có vậy em mới tìm lại đời sống riêng cho em, cho anh…

Trong lúc bồng bột vì sung sướng, Ba Thoại ôm vợ hun trơ hun trất:

- Em càng ngày càng mơn mởn nuột nà, nhìn hoài không chán, nhìn suốt tháng cũng chưa bưa. Hễ chỗ nào em vui là anh vui. Ba mươi mẫu ruộng nầy là của chú Tư anh để lại cho anh chớ không phải của ba má anh đâu.

Về ở xóm Cây Da, cô Hai Phụng Cơ sắm chiếc ghe hầu, mui sơn xanh da trời, mũi ghe chạm trổ, khung cửa khoang cũng chạm trổ. Hễ buồn buồn, cô kêu bạn chèo ghe đưa mẹ con cô ra chợ Chắc Băng ăn mì, cháo, hoành thánh, nem nướng đã đời. Ðôi khi cô cùng chồng đi viếng các sở rẫy của người Triều Châu, mua bông bí đem về luộc chấm nước cá kho hay chấm mắm nục, mắm nêm. Có lần đi ngang Cầu Ðúc Cái Xình mua dưa hấu về ăn Tết, gặp trái ruột hường lợt, cô xắt ra để nấu canh tôm thịt rồi rắc tiêu, hành, ngò gai. Rừng tràm bên kia dòng rạch đầy dây choại, hễ khi ăn chay cô sai con Tím qua bên đó hái đọt choại nõn mềm về luộc. Khoai lang ở đây rẻ rề, cô sai bà vú Dần mài khoai ra nhào với nước rồi vắt nước cốt lược qua lớp vải the mỏng. Bột trong nước cốt lắng xuống, cô chỉ cần gạn bỏ nước trong rồi đem bột ướt phơi khô. Thứ bột nầy khuấy nước sôi, trong văn vắt, có màu nâu tím lợt, pha với đường phèn là trở thành một môn thuốc giải nhiệt thần sầu, chẳng những ngon miệng mà còn trị được chứng mụn nhọt, đổ ghèn…

Cô Hai Phụng Cơ khi về xóm Cây Da, đẻ lần thứ ba con tiểu tỳ song sanh, ba năm sau cô rặn thêm một con oắt tì nữ. Còn bên U Minh Thượng, cô Hai Nguyệt Thanh đẻ thêm một đứa con gái đèo đẹt nữa rồi nín luôn.

Cô Hai Phụng Cơ biết địa vị của mình trong gia đình chồng đã vững lắm rồi. Cô ngoả nguê trong hạnh phúc với người chồng lúc nào cũng một lòng một dạ yêu cô. Nhưng cô vẫn còn vài điều bất mãn. Trước hết là cuộc đất ở xóm Cây Da khô khao, đất chỉ có thể làm rẫy chớ không thể lập vườn. Ở đây chỉ có cây da, cây gừa, cầy bình bát sống được. Nhìn quanh quất cô chỉ thấy rừng tràm dầy bịt, còn là đồng chua, đất khô nứt, hoa đũa bếp nở rộ khi mùa mưa lướt thướt kéo về. Chợ Chắc Băng thì xa, rồi đây hai đứa con trai cô phải rời xóm Cây Da ra ngoài học, sáng đi chiều về bằng tam bản, thiệt không tiện chút nào. Thêm nữa, cái sóc Thổ gồm toàn là người Miên khiến cô ngại lắm. Người Miên vốn giỏi bùa chú, thư ếm. Biết đâu họ thấy vợ chồng cô giàu có sẽ thư ếm cho cả hai điên khùng hoặc đỏan mạng để đoạt của.

Bà Hội đồng Huờn tuy thương yêu hai thằng cháu nội nhưng vẫn không hề thông cảm với nàng dâu út. Bà tức ấm ách vì từ khi về xóm Cây Da, cô Hai Phụng Cơ tìm cách đuổi hết tôi trai tớ gái bà đưa đến. Từ chị bếp, cô tớ sai vặt, chị vú, các anh lực điền đều là người quen biết của cô Hai Phụng Cơ, của bà Phán Hoành đưa về. Bà Hội đồng Huờn ghim mối bất mãn trong bụng nên lâu lâu bà giả đò đến xóm Cây Da để thanh tra và quan sát nếp sống của vợ chồng Ba Thoại. Bà lấy cớ ở cuối xóm có ông thầy thuốc Miên giỏi tài trị phong thấp bằng ngải và lá thuốc cứu nên lâu lâu bà cần đến xóm Cây Da vài ngày, truớc trị bịnh, sau để tiện đường ra chợ Chắc Băn nhờ ông Bang Xạch Hui ở tiệm thuốc Khương Kiện Ðường coi mạch hốt thuốc ích khí bổ thần cho bà.

Cứ mỗi lần bà Hội đồng Huờn cùng con ở tên Thia tới nhà là cô Hai Phụng Cơ như cá mắc cạn. Cô quay mòng phục dịch mẹ chồng, không dám nhõng nhẽo với chồng. Bà Hội đồng Huờn đụng đâu là chê đó:

- Nè vợ thằng Ba, đây là chỗ tạm, mầy sắm chi chén kiểu dĩa kiểu nhiều dữ vậy? Còn đồ chứa nước mưa, mầy chỉ cần sắm hai chiếc mái dầm là đủ rồi, ai coi nó đã sắm hai chiếc mái dầm rồi còn đến thêm lu bầu, rồi khạp, rồi bồn, rồi ảng…Nhà ông Thiên Hộ, nhà ông Vạn Hộ chưa chắc xuê xoang bằng nhà nầy. Chèn ơi, cái sân thì nhỏ, để dành phơi lúa chớ, sao mầy trưng bày bùm sụm, cau kiểng, mít kiểng làm chi? Theo mép rào mà mầy không biết trồng bông đũa bếp là mầy quê lắm…Nhà nầy sao mà không phép tắc gì hết! Tôi trai hễ rảnh là nhậu nhẹt, tớ gái bạ đâu nằm đó, rồi tụm năm tụm bảy ngồi lê đôi mách, không thèm lý tới việc nhà…

Rồi vào một lần thăm viếng của bà Hội đồng Huờn, cô Hai Phụng Cơ bắt đầu phản kháng. Cô thấy mẹ chồng cô cư xử vượt quá giới hạn hơi xa. Hễ tức nước vỡ bờ, già néo thì đứt dây, cho nên cô đợi dịp trả đũa.

Trưa hôm đó, sau một chầu chỉnh lý nàng dâu, bà Hội đồng nằm trên võng đong đưa thiu thiu dỗ giấc. Trong khi đó cô Hai Phụng Cơ ngồi trên chiếc divan cẩm lai, cắt chiếc quần đáy giữa bằng cẩm nhung trắng. Cô liếc xéo về phía mẹ chồng. Xời ơi, người gì mà khuôn mặt lưỡi cày, cặp môi củ ấu, đôi chơn mày xiên xiên, cái bên mặt dấu sắc, cái bên phải dấu huyền. Mặt mày như vậy hèn gì tánh tình khó khăn! Tui vốn nghiệp dầy đức mỏn, phước cạn nghiệp sâu nên mới nhào vô làm dâu mụ mẹ chồng khó tánh hay chấp nhặt chấp thưa như bà thái hậu Ðịch Thiên Kim…Tui phải làm sao cho bả từ đây nể mặt tui, lần lần tránh xa tui, để tui thở khoan khoái, ợ ngáp tự do, duỗi co mặc ý…

Cô Hai Phụng Cơ vừa thấy thằng Khương đi ngang qua liền hét lên:

- Khương, tại sao bà nội mầy vừa ngủ mầy làm lộp cộp lạc cạc vậy? Ðồ bất hiếu, không sợ trời đánh hay sao chớ?

Bà Hội đồng Huờn giật mình choàng dậy thì cô Hai Phụng Cơ bồi liền:

- Ðời nay con cháu gì kỳ quái! Bà nội tụi nó già cả giấc ngủ càng lúc càng ngắn, bữa ăn càng lúc càng vơi, vậy mà khi bả mới dỗ giấc là tụi nó chạy rần rần, khua động rầm rĩ thì bực già cả làm sao ngủ ngon được!

Bà Hội đồng Huờn thở dài, đưa võng qua lại, mắt khép mà miệng lầu bầu. Cô Hai Phụng Cơ xuống bếp kiếm cái dĩa nhôm rồi trở lên chiếc divan cẩm lai. Vừa khi nghe mẹ chồng ngáy se sẽ, cô lấy chiếc kép đập vô dĩa nhôm, và dù không thấy thằng Ninh ở đâu, cô cũng la oai oải:

- Thánh thần thiên địa ơi! Mầy làm giống gì vậy Ninh? Bà nội mầy vừa ngon giấc kia cà, bộ mầy đui hay sao mà cứ làm ầm ầm loảng xoảng, bưng đầu nhức óc vậy Ninh? Mầy gan quá mà, mầy không sợ lưỡi búa Thiên Lôi mà!

Bà Hội đồng Huờn choàng tỉnh dậy, giựt mình thảng thốt, cô Hai Phụng Cơ giả nhơn giả nghĩa:

- Xin má cứ ngủ ngon giấc. Bởi hai thằng cháu khỉ khọn rắn mắt cứ chạỳ giỡn làm đồ đạc rớt bể tùm lum không cho má ngủ suông sẻ nên con phải la rầy tụi nó.

Bà Hội đồng Huờn lại tiếp tục dỗ giấc. Vừa nghe bà ngáy như cưa cây, như thụt ống bễ lò rèn, cô Hai Phụng Cơ ré lên:

- Tiên nhơn tổ đường ơi, diều tới kia cà! Bây đâu? Mau đuổi diều mau coi nào. Tụi nó bay qua sân thế nào cũng xớt gà con ăn thịt. Ê! Ế! Diều! Diều! Ê! Ế! Bay chỗ khác chơi!

Bà mẹ chồng lồm cồm ngồì dậy, nguýt nàng dâu một cái nháng lửa rồi đứng dậy phủi đít bước ra hàng ba.

° ° °

Dòng lịch sử chảy qua biết bao khúc quanh biến động. Từ khi ra riêng ở xóm Cây Da, cô Hai Phụng Cơ cứ òn ỉ chồng mua vé quốc trái và gởi tiền vào Ðông Dương ngân hàng. Riêng cô, cô lo sắm vàng, sắm hột xoàn và gởi cho má cô giữ.

Trước năm 1945, nào Nhựt đảo chánh Tây, nào giặc Ðàng Thổ dậy lên giết chóc người Việt, nào bọn Việt Minh đêm bắt hào phú trong làng đem đi thủ tiêu...Riêng ở xóm Cây Da, nhờ ngài lục cụ và mẹ sóc hiền đức, tu hành tinh tấn nên dân Ðàng Thổ không nổi lên làm giặc. Tuy vậy cô Hai Phụng Cơ vẫn sợ lắm, cô òn ỉ chồng bán ba chục mẫu ruộng cho ông bà Bang Biện Hanh rồi dọn về Vĩnh Long mở tiệm bán đồ tạp hoá nhập cảng từ bên Tây.

Năm 1945 khi Việt Minh lên nắm chánh quyền, vợ chồng Ba Thoại bị bọn Quốc gia Tự vệ cuộc bắt tống giam về tội giao du với Tây. May nhờ có Ba Tốt, chồng Tư Nguyệt Yếng vốn có công trạng với Việt Minh, ra tay can thiệp nên cả hai chỉ bị cạo đầu và giam hai tuần lễ rồi được thả ra.

Riêng ông Hội đồng Huờn thì bị bọn Việt Minh bắt đem thủ tiêu. May cho Hai Tường nhờ theo ghe lúa đem bán cho chành ở Cái Răng nên thoát nạn. Cô Hai Nguyệt Thanh tom góp của cải rồi cùng hai con chèo ghe than len lỏi đến chợ Vàm Xáng, Hoả Lựu rồi đi đò máy về Cái Răng. Sau đó, vợ chồng Hai Tường lên Lèo làm ăn, mở hãng xuất nhập cảng, công việc buôn bán càng lúc càng phát đạt.

Khi Tây trở lại, Ba Tốt phải bỏ nhà vào khu Tám. Ðể nhớ ơn cứu mạng, cô Hai Phụng Cơ giúp vốn cho Tư Nguyệt Yếng mở một tiệm chạp phô bán đồ nhậu kèm với món cháo cá giò heo đối diện với miễu Quốc Công.

Khương, Ninh vừa lớn thì tỉnh Vĩnh Long đã mở trường Cao Tiểu. Cả hai trúng tuyển vào năm đệ nhứt. Cô Hai Nguyệt Thanh cũng cho hai đứa con gái mình là Nguyệt Hiên, Nguyệt Phố về ở với ông bà Phủ Bảnh. Nguyệt Hiên học sau Khương, Ninh một năm, còn Nguyệt Phố học chung trường Long Hồ với ba cô con gái của Ba Thoại là Phụng Kiều, Phụng Các, Phụng Song.

Trước khi người Thổ dậy giặc khắp Hậu Giang thì bà Hội đồng Huờn bị té, mang chứng bán thân bất toại. Chính cô Hai Phụng Cơ đến U Minh Thượng săn sóc mẹ chồng. Chính cô huấn luyện con Thìn trong việc chăm nom bà trước khi cô trở về xóm Cây Da. Sau khi bà chết đi, tình bạn giũa cô và cô Hai Nguyệt Thanh nẩy nở chơn thành. Rồi đó, những cơn gia biến đã thắt chặt thâm tình của hai chị em bạn dâu thêm chặt chẽ.

Thù giết tía chồng, thù bị sung công ruộng đất, thù bị cạo đầu xâm chàm vào tâm khảm cô Hai Phụng Cơ. Tuy thương yêu, biết ơn cô Tư Nguyệt Yếng nhưng cô vẫn không làm sao có cảm tình nổi với phe kháng chiến mà cô biết rằng cùng một phồn một lũ với bọn Việt Minh cộng sản. Cô Tư Nguyệt Yếng từ chỗ có chồng vào bưng kháng chiến, đâm ra có cảm tình với Việt Minh và chịu đứng ra truyền nọc cộng sản khắp nơi. Chói tai gai mắt cho cô Hai Phụng Cơ biết bao khi cô thấy Ba Thế Phụng, em trai cô, đi cưới Năm Huỳnh Mai, em gái Ba Tốt. Cả hai vợ chồng nầy hễ gặp Tư Nguyệt Yếng là xúm vô nói xấu Tây, ngắt véo địa chủ, xỉa xói cái xa hoa của những người giàu có như vợ chồng cô. Xời ơi, nói vậy mà nghe được! Nhà giàu sang cũng có kẻ tốt người xấu, người nghèo hèn cũng có kẻ hiền lương người trật búa chớ bộ! Cái bọn Việt Minh dưới mắt cô Hai Phụng Cơ là bọn ăn cướp cạn, vừa sát nhơn vừa điêu ngôn xảo ngữ để tự phong thánh phong thần. Tía má chồng cô tuy nghiêm khắc nhưng đối đãi với tá điền tá thổ vẫn có lòng nhơn đạo. Còn nhà nước Bảo Hộ theo cô thấy chẳng có chỗ nào đáng chê trách hết. Thời họ, dân Nam kỳ dù nghèo mạt rệp trên mâm cơm cũng có món canh, món mặn, món xào. Từ khi có vụ chống Pháp, bề sinh sống bắt đầu khó khăn, mua gì cũng mắc. Cô Hai Phụng Cơ vốn không ưa chánh trị nên cô không để ý gì đến thời sự. Cô nhìn những người ái quốc qua những tên Việt Minh đã cạo đầu còn mắng nhiếc bêu xấu cô đủ điều. Tụi khốn nạn đó sẵn dao bén còn cạo đôi chơn mày lá liễu của cô trụi lủi.

Hiện giờ cộng sản, Việt Minh ở đâu không thấy, cô chỉ thấy vợ chồng Ba Thể Phụng, cô Tư Nguyệt Yếng và lũ bạn cô Tư xúm lại bàn tán mấy cuốn tiểu thuyết đề cao kháng chiến của Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, Liên Chớp, Dương Tử Giang, cô Hai Phụng Cơ hầm lắm, đợi dịp chỉnh lý cái thứ ăn no rồi bày đặt ủng hộ bọn siêu mưu làm loạn kia.

Hôm đó nhà ông bà Phủ Bảnh có đám giỗ. Vợ chồng cô Hai Phụng Cơ, Ba Thể Phụng được mời tới dự tiệc. Cô Tư Nguyệt Yếng là con cháu trong nhà nên có mặt từ hôm bữa giỗ tiên qua bữa giỗ chánh. Từ khi con gái út của bà Phủ Bảnh là cô Út Ngọc Dung si tình một thanh niên khuynh cộng thì Tư Nguyệt Yếng thường theo vợ chồng Ba Thể Phụng đến rủ rê cô mỗi tháng đóng nguyệt liễm cho trạm y tế của phe kháng chiến ở Cái Ngang. Họ còn giới thiệu cô Út bọn công tác thành, bọn nội ứng mà cô Tư Nguyệt Yếng gọi bằng cái tên mỹ miều dũng cảm: "Những kẻ chiến đấu trong lòng địch" để cô Út mở rộng tầm hoạt động.

Sau bửa tiệc thịnh soạn, cô Út Ngọc Dung mời vợ chồng Ba Thể Phụng, cô Tư Nguyệt Yếng và cá cô bạn đồng tâm đồng chí ra nhà mát, giáp mé sông Cái Cá để dùng trà bánh. Cô Hai Phụng Cơ liếc xéo về phía họ rồi cất giọng rổn rảng hỏi bà Phủ Bảnh:

- Thưa bác, mấy năm nay bác có góp được lúa ở mấy sở ruộng miệt Tam Bình, chợ Thầy Phó không?

Bà Phủ Bảnh xụ mặt:

- Có được hột nào đâu, cháu! Hồi năm 45, hai bác nhờ ông bà khuất mày khuất mặt phò hộ nên trốn khỏi cuộc lùng bắt của bọn quỉ vương đó, kể là may lắm rồi. Giờ đây mình vác thây vô vùng đó để góp lúa thì có khác nào dưng thây vào miệng cọp, miệng chằn tinh cháu ơi!

Giọng cô Hai Phụng Cơ rổn rảng một thì giọng bà Phủ Bảnh rổn rảng mười. Giọng bà rót vào tai đám thanh niên rõ mồn một. Bà Phủ Bảnh tuyệt nhiên chưa rõ sự kết ước của cô gái út mình với chàng thanh niên khuynh cộng. Bà chỉ thấy cô trưởng nữ mình là cô Hai Nguyệt Thanh đã bao phen bị trầy vi tróc vẩy vì bọn Việt Minh, cùng sự điêu đứng của vợ chồng bà hồi năm 1945, cho nên bà hung hăng khạc từng tràng từng lọn lời ác, lời thô:

- Ai sao kệ mồ tổ họ, chớ riêng bác, bác thích Tây ở xứ mình hoài. Tụi Tây mà xuống tàu về nước, những kẻ chết trước là vợ chồng bác đó cháu. Hai bác làm sao sống nổi với bọn đầu trâu mặt ngựa Việt Minh đó!

Cô Hai Phụng Cơ cười hăng hắc, ôm chầm lấy bà Phủ Bảnh:

- Thiệt tình, sao bác nói hạp ý cháu quá!

° ° °

Nhiều đêm nằm gác tay lên trán để suy nghĩ nỗi nọ đường kia, cô Hai Phụng Cơ mới thấy dù đời sống thị thành hạp với óc cầu tiến và tánh ham hoạt động của cô, nhưng tâm hồn cô đã mọc rễ vào vùng đất U Minh Thượng, xóm Cây Da, chợ Chắc Băng khó mà bứt ra. Ðành rằng đất phèn khô khan, trồng lúa thì được mà lập vườn phải đợi vài chục năm nữa, nhưng đó là cuộc đất hứa hẹn vì nhà nước bắt đầu đào thêm rạch, khơi thêm ngòi mới. Chất phèn trong đất mỗi mùa mưa, theo nước mưa trôi xuôi ra biển mỗi lúc một nhiều. Trong những chuyến đi thăm bà con bên chồng ở miệt Hóc Hoả, Hoả Lựu, vịnh Chèo, vịnh Trà Bay, cô Hai Phụng Cơ thấy đất cát vùng đó bắt đầu trồng được chuối, mãng cầu xiêm, dừa, cau, khó...Những vùng đó nào có xa xôi gì với quê chồng cô, vậy thì cái ngày U Minh Thượng lập thành vườn chắc cũng không mấy lâu. Nhưng Việt Minh đã xô đẩy vợ chồng cô Hai Nguyệt Thanh và vợ chồng cô khỏi cuộc đất hứa hẹn đó. Sau hiệp định Genève, cô dò dẫm về thăm quê chồng thì nghe rằng trước khi tập kết ra bắc, Việt Minh gài bọn nằm vùng rất đông. Chúng đã nửa đêm tới nhà bắt thầy Tư Thạnh con ông Bang Biện Hanh đem đi thủ tiêu. Chúng còn liệng lựu đạn vào đám tiệc của Xã trưởng Thọ. Cảnh sát hương thôn yếu quá, không dám vô sâu trong lán trong bưng nên bọn nằm vùng vẫn tiếp tục lộng hành.

Ðường về quê chồng đối với cô Hai Phụng Cơ kể như mất lối. Thuở ở xóm Cây Da tuy cô siêng năng lo việc tề gia nội trợ nhưng không quá nô lệ vào thời giờ như khi ra thị thành buôn bán. Ðối với cô, nó là thiên đường vì vợ chồng cô đã sống đời tự lập, đã nếm mùi hạnh phúc lứa đôi ở đó. Hai thằng con cô không hề giữ lại một chút gì về quãng đời thơ ấu của chúng nơi quê cũ. Thằng Khương thi đậu tú tài liền ghi tên học Y khoa, còn thằng Ninh thì học Dược. Thằng anh đãi bôi:

- Con ráng kiếm tiền để về già chuộc lại ruộng vườn xưa, sửa lại mái nhà hương hoả. Từ đây tới đó, tình hình thời cuộc sẽ đổi khác, má tin đi!

Thằng em cũng nói xạo:

- Hễ lúc nào đầu óc căng thẳng, con đọc truyện đồng quê của Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam là đầu óc con mát rười rượi. Kiếm nhiều tiền, con sẽ mua vườn ở ven đô hay vùng phụ cận tỉnh nhà, con sẽ nhường cho má sắp đặt khuôn viên giống như nhà cửa, khuôn viên ở xóm Cây Da.

Ôi, tất cả còn là lời hứa, còn là dự định, bao giờ mới thực hiện được đây? Cô Hai Phụng Cơ dẫu sao cũng bằng bụng lắm. Cô nghĩ con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Cô chẳng có cái tài gì đặc biệt để cho các con giống, cô chỉ có niềm yêu đất quê. Tụi nó mà biết noi theo chí hướng và tấm lòng tha thiết với cố hương thì tụi nó sẽ tạo được một cơ nghiệp, một giang san cho con cháu sau nầy.

Con Phụng Kiều thi đậu xong trung học đệ nhứt cấp thì chọn học ban A. Nó thường khoe với cả nhà:

- Chèn ơi, thầy Toản dạy toán lý hoá ăn nói đậm đà, có duyên ác!

Con Phụng Song chõ mỏ:

- Em biết mà, thẩy là người Bắc kỳ.

Con Phụng Kiều trợn mắt nhìn em, táp liền:

- Bắc kỳ rồi sao? Bộ Bắc kỳ không có quyền hát hay, nói giỏi hay sao? Tao thử hỏi mầy: ca sĩ hát tân nhạc xứ mình, người Bắc nhiều hay người Nam nhiều? Trong mấy cuộc họp, ai lên phát biểu ý kiến hay? Tao thấy người Nam mình hát vọng cổ thì mùi, còn hát tân nhạc thì lạt nhách. Hễ vô hội họp thì người Nam mình ngồi thù lù một đống, quan bảy cũng ừ, quan tư cũng gật...

Cô Hai Phụng Cơ hoảng kinh nhìn cô trưởng nữ. Coi vèo nầy, con nha đầu kia mê trai Bắc kỳ rồi. Cái thứ Bắc kỳ vô đây ở nhờ mà luôn coi mình là khách. Họ ăn vú sữa, xoài, tôm càng, cá chái mà miệng cứ luôn luôn ca tụng đào, mơ, mắm rươi, cá chép...Cô nhứt định rồi, không cho nó kết hôn với kẻ khác xứ. Ai chê cô kỳ thị Bắc Nam cô chịu, chớ cô nhứt định chọn rể nếu không là người sông Hậu thì cũng là người sông Tiền, biết rành tập tục miền Nam, biết thưởng thức cải lương, vọng cổ, biết nhậu rượu đế với thịt chuột, dơi, rắn, lươn...Nhưng rồi con Phụng Kiều của cô tuy khen thầy Toản nói giỏi, hát tân nhạc hay mà nó lại chọn thằng sinh viên Bắc kỳ học trường Nông lâm súc. Thằng nầy tuy khôi ngô nhưng ít nói, giọng thùng thiếc bể nên hát tân nhạc rất dở. Cô Hai Phụng Cơ bực mình lắm vì bọn Tư Nguyệt Yếng, Ba Thể Phụng cứ theo eo sèo chì chiết.

Sự chia rẽ Bắc Nam càng lúc càng phai lợt dần trong tâm tưởng hai bên, Bắc cũng như Nam. Ðó là lúc vợ chồng cô ghiền nghe ngâm thơ Tao Ðàn, mê trà mạn sen, ưa ăn bánh cuốn, phở, bánh tôm chiên, bánh cốm, bánh xu xê...Nhìn thằng rể Bắc kỳ ăn thử một múi sầu riêng mà nhợn tới nhợn lui, cô Hai Phụng Cơ thông cảm:

- Cũng có nhiều người Nam không ăn được sầu riêng vì chê hôi, để má gọt xoài cát, đu đủ cho con ăn.

Tía má chàng rể Bắc kỳ vốn hấp thụ nho phong nên cư xử đứng đắn, ăn nói mực thước khiến trước mặt họ, cô Hai Phụng Cơ cảm thấy mình quê mùa kém cỏi. Dù họ không có chỗ nào đáng chê trách, nhưng cô vẫn kiếm chuyện để hạ họ xuống ngang hàng thì cô mới bằng bụng. Bởi đó, trong bức thư gởi cho vợ chồng Hai Tường, cô viết: "Ông suôi bà suôi của tụi em mặt mày chim bỉm. Xời ơi, theo người Nam mình, suôi gia gọi nhau bằng anh chị. Ðằng nầy họ gọi tụi em bằng ông bà..Xí, cái thứ trôi sông lạc chợ vô tới quê người mà không chịu nhập giang tùy tục, cứ ăn nói kiểu cách, nghi lể rườm rà thấy phát ghét!"

Con Phụng Kiều tuy được làm kỹ sư phu nhơn nhưng cô Hai Phụng Cơ coi con gái mình như Chiêu Quân cống Hồ. Cô chỉ còn cậy trông vô sự hiểu biết của hai đứa kế. Nhưng ông bà ông vải ơi, trái tim con người vốn dại dột. Nghe con Phụng Các mở miệng ra là khoe dân Nam mình thế nầy, dân Nam mình thế nọ, ai có dè nó lên Sài gòn gặp một thằng Bình Ðịnh là lậm liền. Nó ỏn ẻn khoe với con Phụng Song:

- Ảnh sanh trưởng tại làng Tây Sơn, quê hương của vua Quang Trung Nguyễn Huệ đó đa. Ảnh còn biết võ nữa. Em còn nhớ câu: "Ai về Bình Ðịnh mà coi. Ðờn bà cũng biết múa roi đi qườn" không?

Cô Hai Phụng Cơ sẳn lòng chiêm ngưỡng vua Quang Trung cùng chiến công hiển hách của vị anh hùng ấy. Cô cũng rất ái mộ văn tài của nhà văn Võ Phiến. Nhưng nếu hoàng đế Quang Trung có tái sanh, ông Võ Phiến có chưa vợ mà đi hỏi con Phụng Các, chắc cô cũng hoang mang lắm. Làm sao cô ưa nổi cái quê hương nghèo nàn cùng cách phát âm bù chả bù chẹt của một vùng trên dải đất Trung kỳ?

Phụng Các và gã sinh viên Bình Ðịnh kia vừa tốt nghiệp xong thì được bổ đi dạy ở Bình Dương. Có thêm thằng rể không phải là dân Nam kỳ quốc, lại chỉ là nhà mô phạm lương ba cọc ba đồng, cô Hai Phụng Cơ bất mãn ra mặt.

Trong chiến tranh, vùng kiểm soát của phe quốc gia sau chiến dịch Phụng Hoàng càng lúc càng thu hẹp. Cô Hai Phụng Cơ hết mong lập vườn ở ven đô hay các vùng phụ cận tỉnh Vĩnh Long vì vùng nào cũng có đánh nhau, có lộn xộn. Tuy bị cuốn theo mệnh nước nổi trôi, cô Hai Phụng Cơ vẫn hy vọng mong manh, hy vọng vô căn cứ. Nhiều đêm nhớ về U Minh Thượng, cô trằn trọc với nỗi u hoài khó hiểu trong khi chồng cô, Ba Thoại, ngủ ngáy pheo pheo bên cạnh. Từ lâu sống ở đô thị, tiếp xúc với thị dân miền Nam, với người Bắc trung lưu, nghe cách phát âm ráo rẻ của người Sài gòn, cô Hai Phụng Cơ nhớ tha thiết giọng nói quê mùa đả đớt của dân Hậu giang. Họ không phát âm đúng được những tiếng khởi đầu bằng chữ r và bằng chữ kh. Ôi làm sao cô quên câu "con cá gô bỏ vô gổ nhảy nghe gột ghẹt" và câu "phia phia ăn phai cho phẻ" của các anh nông dân, của các chị thương hồ? Vậy mà khi ra đồng làm ruộng hoặc lúc chèo ghe nới sông rộng, họ "mùi" sáu câu vọng cổ, vần và chữ được phát âm trúng phóc, nghe giống Út Trà Ôn, Hữu Phước thất kinh. Ôi Hậu Giang! Ôi quê xưa xa lắc! Có nhiều lúc cô tưởng chừng nó lọt ra ngoài giấc mộng qui khứ lai từ của cô khiến cô đau thắt ruột gan.

° ° °

Sau 30.4.75, đứa con trai lớn của cô Hai Phụng Cơ đi học tập năm năm rồi được thả về sống nhờ tiền cấp dưỡng của thằng cháu đích tôn của cô gởi về. Thằng thứ nhì nhờ vợ có quốc tịch Pháp nên được qua Pháp theo chính sách hồi hương. Con Phụng Song nhờ làm chiêu đãi viên hàng không nên bay qua đảo Guam trước ngày 30.4.75. Vợ chồng con Phụng Kiều liều thân vượt biển, trên chuyến hải hành phải thủy táng thằng con bốn tuổi vì thiếu nước. Sau đó gia đình nó định cư bên Úc. Vợ chồng con Phụng Các may mắn vượt biên êm xuôi qua Nam Dương rồi lập nghiệp ở Hoa kỳ. Con Phụng Song làm giấy tờ bảo lãnh cho cha mẹ qua Mỹ. Ba Thoại bắt đầu lẩn thẩn, ưa moi đống rác, lượm chai lọ, đồ phế thải chất đầy góc nhà. Còn cô Hai Phụng Cơ mạnh dạn mở tiệm bán sách báo, kèm thêm bánh mì nên sống rất vững.

Phụng Song làm quen được một chàng bác sĩ, dắt về nhà giới thiệu với cha mẹ:

- Nam kỳ chánh cống đó ba má.

Cô Hai Phụng Cơ bằng bụng lắm, lòng phơi phới. Chàng rể nầy chào đời ở Ô Môn thuộc Cần Thơ. Chàng có kiến thức sâu rộng về miền phù sa sông Cửu. Cô Hai Phụng Cơ có nhiều dịp kể cho chàng ta nghe về quê hương của chồng mình. Từ đó chàng lân la tới nhà cha mẹ vợ tương lai, chàng khuyến khích Ba Thoại viết hồi ký cho nên chồng cô có việc làm để giải trí. Cô Hai Phụng Cơ tưởng như ông trời vừa lì xì cho mình một đứa con mới, hồn quê lúc nào cũng sáng vằng vặc như bóng trăng rằm trong tâm tưởng. Cô gọi điện thoại qua Washington DC để báo cho anh chồng chị dâu, giọng háo hức:

- Anh chị ơi, con út của em tìm được thằng nầy thuộc gốc gác Nam kỳ để trao thân gởi phận rồi. Nam kỳ muôn năm!

Cô gọi điện thoại qua Pháp để báo tin cho đứa con trai thứ nhì bằng giọng đắc thắng:

- Con Phụng Song em con từ bấy lâu nay bưng rổ may đi nửa vòng trái đất mới tìm được một chàng dõng tướng Nam kỳ. Con nên mừng cho em con!

Cô gọi cho Phụng Các ở Texas, cho Phụng Kiều ở Sydney, khoe bằng giọng sôi nổi nồng nàn:

- Chèn ơi, Phật Trời nhận lời cầu xin của má nên mới lì xì cho má thằng rể bác sĩ sản sanh ở Ô Môn, tâm hồn mát rượi như giòng sông B***ac. Ai dè con Phụng Song có phước phận dường ấy. Biết đâu nay mai cộng sản bị tiêu diệt, nó sẽ về làm dâu đất Ô Môn. Từ Ô Môn đi U Minh Thượng bằng đò máy chỉ chừng một ngày là cùng.

Những khi chàng rể Nam kỳ tới chơi, cô đãi hết bánh tầm bì chan nước cốt dừa tới món suông, chạo tôm, gỏi gà...Cô mua tôm đông lạnh bự cỡ cườm tay để làm tôm bùn, cô mua cá hồi để thế cá lóc làm bún nước lèo...

Cha mẹ chàng rể tương lai ở chung với người anh kế chàng ta tận tiểu bang Ohio. Cô Hai Phụng Cơ kèo nài để được gặp ông bà suôi cho biết. Chàng rể cứ ừ hử cầm chừng, thái độ không mấy sốt sắng.

Thế rồi một hôm, Phụng Song mặt mày chù ụ, tiết lộ với má:

- Má à, ảnh thú thiệt với con rồi. Ba má ảnh là Bắc kỳ. Ba ảnh vốn là nhơn viên nhà dây thép vô Nam năm 1935. Thuở đó, lưu dân Bắc kỳ chỉ có mấy ông làm việc nhà dây thép và dân cạo mủ cao su. Má ảnh vô Nam một lượt với chồng. Bởi ảnh biết con kén chồng gốc Nam kỳ nên ảnh giấu giếm cội nguồn của ảnh. Mà cũng bởi sanh trong Nam nên ảnh nói tiếng Nam, ăn giá sống, húp nước dừa rồn rột không kém chi người Nam hết, do đó con mới lầm. Nhưng mà con thương ảnh lắm, xa ảnh chắc con chết...

Cô Hai Phụng Cơ hơi cau mày. Thiệt ra cô đã bớt kỳ thị Bắc Nam từ lâu. Cô chỉ muốn có chàng rể Nam kỳ để huấn luyện lũ cháu ngoại cô yêu miền Nam sâu sắc đậm đà hơn vậy thôi. Thôi duyên nợ biết sao mà lường được! Số các con gái cô là gặp duyên thiên lý, cô làm sao cưỡng lại ý trời? Vả lại mẹ nào mà nỡ ngăn cản nhơn duyên tốt lành của con? Cho nên, cô Hai Phụng Cơ sau phút do dự, hăng hái bảo:

- Ối, chánh quán mà nhằm nhò chi con! Chỉ có sanh quán là đáng kể! Như thẳng đây, sanh ở Ô Môn, học trung học Cần Thơ, đại học ở Sài gòn. Từ thuở nhỏ tới lớn nó hít thở không khí miền Nam, uống nước sông miền Nam, ăn cơm gạo, bột bún cùng con cá lá rau miền Nam, như vậy nó là người miền Nam rồi. Ðứa nào dám lôi nó về phe người Bắc là phải bước qua xác chết của mụ vợ Ba Thoại nầy. Thôi thì má cũng đành hô: "Bắc kỳ muôn năm" cho nó gọn!


Hồ Trường An

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 15/Oct/2024 lúc 8:22am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 194
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.873 seconds.