Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Thơ Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn |
Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC | |
<< phần trước Trang of 195 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 17/Jul/2024 lúc 2:50pm |
Xóm nhỏ
Khi gia đình Mai dọn về Ngã Tư Bình Hòa thì nó vừa lên tám. Anh
Tú hai mươi và chị Thơ mười tám, đang mang bầu thằng Phương. Trước đó hai năm, chỉ có một mình ba lên Sàigòn ở tạm nhà chú Sáu Tuấn bên Thị nghè. Ba giữ chân kế toán trưởng cho một viện bào chế thuốc tây vào hạng lớn nhứt Sàigòn thuở đó. Ông chủ người Pháp quanh năm ở tuốt bên Kinh đô ánh sáng. Năm thì mười họa mới giá lâm một lần để xem nhân viên mần ăn ra sao ? Mọi việc đều giao cho một quản lý người Việt nên cái màn " vắng chủ nhà gà vọc riêu tôm" cũng có lúc xảy ra. Trong đám phụ tá của ba Mai có chú Thạnh, nhỏ hơn ba năm, sáu tuổi nhưng số nhi đồng lại đông gấp đôi, nên nhà chú thường xuyên thiếu trước hụt sau. Có lần thiếm Thạnh vô nhà thương mổ ruột dư, túng quá chú đành vô văn phòng của ba, gãi đầu gãi tai một hồi mới ấp úng : - Anh Thăng, vợ em nằm nhà thương... (thở dài !), em cũng biết là làm phiền anh lắm, nhưng mà... (chắc lưỡi...), em hết biết tính sao! Ba Mai không nói không rằng, rút đại một cái hoá đơn của một nhà thuốc nào đó còn thiếu tiền, đưa cho chú Thạnh: - Nè, đi đòi đi. Rồi tháng sau ráng trả lại cho đàng hoàng nghe không. Chú Thạnh hởn hở cầm cái hóa đơn cứu mạng, miệng cám ơn rối rít. Ba thích giúp đỡ mọi người nên được các đồng nghiệp yêu mến. Thỉnh thoảng mấy chú kéo đến nhà Mai nhậu nhẹt, cả anh chàng dược sĩ trẻ người Pháp từ Paris qua. Má Mai làm đồ nhậu là số một. Sau này, thấy mỗi lần má dẫn Mai lên Saìgòn thăm ba cực khổ quá, vì phải đi tàu từ Cao Lãnh qua Sađéc. Không muốn phiền người quen nên má và Mai phải ngủ qua đêm trên mui tàu, sáng hôm sau mới lấy xe đò lên Sàigòn. Nội qua cái bắc Mỹ Thuận cũng mất mấy tiếng đồng hồ. Thành thử quãng đường chỉ dài độ 140 cây số mà phải đi cả ngày mới tới. Má còn cụ bị lủ khủ nào gạo, khô, gà vịt, trái cây... Lần nào cũng bị lơ xe cằn nhằn. Đó là chưa kể tình hình dưới quê rất lộn xộn. Lính Quốc gia. Lính Hòa Hảo. Việt Minh. Người dân ở giữa giống như trái độn. Nạn cướp tới thăm có khi một tháng đôi lần. Mai nhớ lần nọ má và chị Thơ chở một ghe xoài qua bán bên tỉnh Bến Tre, Mai phải qua ở với ông bà nội. Đêm đó ngày rằm nên trăng sáng vằng vặc. Mai ngủ chung với bà nội ở gian nhà giữa. Chị Yến con cô Hai ngủ trên bộ ván gỏ cạnh cửa sổ ngó ra vườn. Không hiểu cao hứng gì mà đêm đó chị gác một chân lên thành cửa sổ. Nửa đêm giựt mình, có cảm tưởng như hai cánh cửa nhúc nhích. Chị ngồi bật dậy ngó qua khe cửa thấy một người mặc đồ đen, vai đeo súng đang cố sức kéo cho cánh cửa bật ra. Chị la : - Cướp ! Cướp ! Cậu bảy ơi, ăn cướp ! Cả nhà tỉnh ngủ tức thì. Bà nội kéo Mai chun xuống gầm giường, con nhỏ run như cầy sấy. Bà mò xuống bếp lấy cái mâm thau hay nồi đồng gì đó Mai cũng quên mất, chun trở vô gầm giường, tay vừa gỏ xèng xèng, miệng niệm Phật lia lịa. Ông nội có chổ bí mật để ngủ mỗi đêm, nên không khi nào lên tiếng. Nghe tiếng báo động của bà nội, cả xóm kẻ gõ nồi, người gõ mâm, người khác gõ mõ vang rân cả xóm. Chị Yến gan lì hết sức, vừa chạy vòng vòng vừa ngó qua khe cửa. Trong nhà tối, bên ngoài trăng sáng như ban ngày, mỗi lần thấy bóng một tên cướp, khoảng 3 đứa, đi xung quanh nhà, gặp cửa nào cũng giựt thử là chị lại thét lên - chắc đế cướp tinh thần địch: - Nó nè cậu bảy ơi. Chỉa đâu đưa đây con đâm nó (!??) Chú Bảy cũng phụ họa: - Đâu đâu. Để đó cho tao ! Lính ở đồn Mỹ An bên kia sông, xéo xéo nhà ông nội nghe tiếng báo động bên Tân An liền bắn qua mấy tràng súng thị uy. Bọn cướp thấy không xong bèn rút lui có trật tự... Mờ sáng hôm sau, vị hôn phu của chị Yến, ở tuốt luốt bên xã Mỹ Ngãi, lật đật qua vấn an người yêu. Chị cười lỏn lẻn hỏi sao biết, thì anh Dương cũng rất thiệt thà thổ lộ rằng, tối hôm qua, lẫn trong tiếng xèng xèng, cóc cóc, anh còn nghe tiếng cướp cướp được phát ra từ cái giọng Soprano "vượt bức tường âm thanh" của chị, bay qua tận bên nhà của anh. Tuy rằng hai nhà cách nhau một cánh đồng xa độ cây số rưỡi. Vì vậy anh thấp thỏm đợi hừng sáng là qua "thăm dân cho biết sự tình ". Thấy chị bình an vô sự anh rất mừng. Mai không biết khi khám phá ra cô vợ tương lai có cái giọng "cao hơn người" này - chị Yến vốn cao chưa tới thước rưỡi - anh Dương có lo sợ cho hai cái màng nhỉ của anh không nữa ?!. Cứ vậy, không thành công lần này chúng tiếp tục trở lại hỏi thăm sức khỏe lần khác. Tuy không tổn thất vật chất, nhưng tinh thần lại thiệt hại trầm trọng. Ba thấy vậy kêu cả nhà lên Sàigòn ở luôn. Ba má mua lại một căn nhà mái tôn, vách bổ kho nho nhỏ trên đường Lê Quang Định. Sau này buôn bán khá, căn nhà được nới rộng thêm ra. Nhà cách ngả tư độ trăm thước đi về hướng chợ Cây Quéo. Cũng nhờ bác Ba Đại của Mai an cư lạc nghiệp tại xóm này hơn hai mươi năm rồi. Bác có tám ngừơi con - năm trai, ba gái. Lớn nhứt là anh Hai Jean. Nhưng bị mọi người "nhất trí" kêu là Răng. Lúc ông Diệm lên chấp chánh bắt phải đổi lại quốc tịch Việt. Không hiểu do óc khôi hài cao độ hay vì lý do nào khác, anh lấy tên là Nguyễn Văn Vàng. Từ đó tên anh trở thành Hai Răng Vàng, tuy cả hai hàm, kiếm bảy ngày cũng không ra cái răng vàng nào hết. Anh giống bác Ba trai, đẹp như tài tử Mỹ, cái miệng lại trơn như thoa mỡ. Mỗi lần anh ghé thăm là cả nhà cười nghiêng cười ngửa. Ông bà già vợ quý anh như vàng. Hai ông bà trước sau chỉ có hai cô con gái rượu. Chị Tâm và chị Nguyệt. Anh lấy cô em là chị Nguyệt. Tin tưởng tuyệt đối nơi chàng rể quý, nên năm ba bữa bà má vợ lại nhờ: - Răng à, chở dùm chị hai con vô Chợ Lớn khui hụi cho má. Bữa nay má ể mình đi hổng đựơc ! - Răng à, chở chị hai con vô nhà bà Tôn đòi tiền dùm má. Trời Phật ngó xuống mà coi. Thiếu có năm ngàn mà đi mòn đường cũng hổng chịu trả. Ứ hự !! Cho tới một hôm chị Tâm khăn gói ra đi không một lời từ biệt cha mẹ già. Tra khảo riết, cuối cùng anh Răng cũng phải thú thiệt là đã đem chị Tâm dấu một chỗ chờ ngày đập bầu. Vì ngoài những chuyện bà má vợ nhờ làm, anh còn thày lay làm luôn những chuyện bả không hề nhờ tới mới là khổ !! Nghe tin động thiên đình bà già lăn ra sàn gạch khóc lóc thảm thiết, nhưng cuối cùng cũng đành chấp nhận thương đau !! Nhưng từ đó hai chị em không thèm nhìn mặt nhau nữa. Riêng cái mục sản xuất nhi đồng thì không bà nào chịu thua bà nào. Cứ chị Tâm một đứa thì chị Nguyệt một đứa cho huề! Nhà bác ba Đại ở ngay mặt đường cái. Kế đó là quán cà phê, hủ tiếu của vợ chồng chú ba Lâm. Mỗi buổi sáng quán này đông nghẹt khách tới ăn điểm tâm. Phần lớn là dân thợ thuyền hoặc phu xích lô. Hai ông bà không con, nuôi một con chó vàng khôn hết sức. Không hiểu sao một bữa cao hứng, chú cẩu ta chạy băng qua đường (chắc thấy một bóng hồng nào đó đang nhởn nhơ bên kia chăng ? Vì chỉ có tình yêu mới khiến cho muôn loài đâm ra mù quáng, không còn sợ trời sợ đất gì hết ! ) bị xe xích lô máy cán chết tươi. Thiếm ba khóc quá chừng vì thương chú cẩu này như con... Nhà Mai kế bên nhưng thụt sâu vô trong. Khoảng sân trước giáp với quán cà phê. Mỗi buổi sáng, Mai chỉ cầm cái ly bước vô sau bếp chú ba Lâm là có cà phê sữa nóng hổi và khi thì cái bánh tiêu, khi cái giò chéo quảy, dĩa xíu mại đem về cho ba ăn sáng trước khi đi làm. Gần đường, sát vách quán má Mai chất đống củi khô bán cùng xóm. Vì thời đó nhà nào cũng chụm củi hoặc chụm than. Mỗi tối, cơm nước xong, cả nhà quây quần ở chiếc bàn tròn trước sân. Nói chuyện tầm phào hoặc nghe ké mấy tuồng hát bội từ cái ra dô bên quán cà phê. Vì vậy ngay từ nhỏ, Mai đã thuộc lòng chuyện Bà Chung Vô Diệm với lão vua dê xồm Tề Tuyên Vương. Mỗi lần nghe cái giọng khẩn cầu thảm thiết của lão khi giặc tràn tới biên cương: - Hậu ơi Hậu. Hậu ráng cứu trẫm chuyến này. Trẫm thề sẽ...v..v..và v..v... để rồi sau đó, khi bà dẹp xong giặc trở về, lão ta lại nghe lời mấy con Thứ phi xí xọn dèm xiểm, kiếm mọi cách tống bà vô lãnh cung là Mai lại tức cành hông. Có lần nhỏ hỏi má: - Má à, sao bà Chung Vô Diệm giỏi võ như vậy, mà lúc bị đày vô lãnh cung, bả hổng chém cho ông vua một nhát để ổng chết phứt cho rồi ? Chị Thơ háy một cái lạnh lùng luôn: - Vậy cũng nói ! giết "thằng chả" chết rồi là hết chuyện, lấy đâu cho mày nghe mỗi buổi tối ? Má cũng nói ối chuyện người ta đặt ra mà, hơi đâu thắc mắc ! Vậy chớ Mai cũng cứ ấm ức ! Cái bà Chung Vô Diệm ngoài chiến trường thì oai phong lẫm liệt, trước mặt lão vua già lại yểu xìu như cái bánh tráng ướt ! Lão chỉ cần "thở" ra vài lời đường mật là bà ta lại hồ hởi đem thân xông pha ra chiến trường dẹp giặc. Có lần vác cái bầu gần ngày sanh ra trận. Bị kẹt trong vòng vây, bèn đẻ rớt luôn một hoàng tử giữa trận tiền. Trong khi đó lão vua già phây phây ở nhà ôm ấp mấy con Thứ Phi cà chớn ! Bà Chung Vô Diệm hiền chớ Mai là chém ráo trọi. Từ lão dâm tặc cho tới mấy mụ thứ phi cà chua. Chị Thơ nói con nhỏ này mới nứt mắt mà đã dữ như bà chằn. Mai mốt chắc ở giá hổng ai dám rước! Sát vách nhà Mai là nhà cô Bảy Huệ. Lúc gia đình Mai tới định cư thì họ đã ở đó rồi. Bà mẹ lúc đó độ ngoài năm mươi, tóc hoa râm, rất đẹp người. Cô bảy độ chừng hăm lăm, hăm sáu tuổi và thằng Bảo là con người anh ruột của cô. Nghe bác Ba gái nói ông này theo lính Bình Xuyên đóng bên kia cầu chữ Y. Nó bằng tuổi Mai mà sáng nào cũng ngồi trước hàng ba khóc nhèo nhẹo cho tới khi bà Hai Cần, bà nội no,ù xì tiền ra cu cậu mới chịu nín. Ba cấm không cho Mai chơi với nó. Ông nói ba nó là giặc Bình Xuyên. Mai thấy thiệt là vô lý. Ba nó theo Bình Xuyên có phải tại nó xúi đâu mà bắt lỗi nó? Vì vậy sau giờ học, Mai hay lén qua sân nhà cô Bảy Huệ để chơi nhảy lò cò với thằng Bảo. Trường Mai học ở gần nhà trong khi ba đi làm tuốt ngoài đường Catinat. Nhưng phải canh chừng, hể thấy bóng chiếc Alcion trờ tới trứơc cửa nhà nhỏ Kim Châu, cách nhà Mai hai căn, là phải lẹ lẹ nhảy phóc qua cái lan can mà về tức thì, nếu bị bắt tại trận tối đó sẽ bị phạt quỳ... Thật ra cho tới bây giờ, nghĩ lại tình cảnh cô Bảy Huệ lúc bấy giờ, Mai không biết nên thương hay nên trách ? Cô Bảy người tầm thước, nước da bánh mật, miệng hơi móm duyên, cười khoe hai hàm răng nhỏ rức. Không phải sắc nước hương trời, nhưng là một nhan sắc hiền diệu, ưa nhìn. Cô nói năng rất nhỏ nhẹ, chừng mực. Sáng nào Mai cũng thấy cô mặc bộ đồ nữ quân nhân , đúng giờ một chiếc xe nhà binh tới ngừng trước ngõ, rước cô đi làm. Chiều cũng chiếc xe nhà binh đó đưa cô về. Ngoài giờ làm việc Mai chưa thấy cô đi chơi với bạn trai bao giờ, tuy rằng thời đó, ở tuổi cô, có thể nói là đã lỡ thời ! Mai không biết lương hướng của cô ra sao, chỉ biết ngoài mẹ cô là bà Hai Cần (mắc bịnh ghiền đánh tứ sắc) cô phải cưu mang thêm thằng Bảo. Mất mẹ sớm, ba nó lại đi lính Bình Xuyên giao đứt nó luôn cho má con cô nuôi. Thấy nó côi cút tội nghiệp, đôi khi bà Hai cưng chiều quá đáng. Sau này, khi quân chính phủ dẹp tan đám Bình Xuyên, ba thằng Bảo bị bắt ở tù. Vì vậy ngoài má con cô Bảy Huệ và thằng Bảo, nhà không bao giờ có bóng đàn ông... Vậy mà một bữa đi học về, mới tới đầu ngõ Mai thấy một người đàn ông trọng tuổi từ trong nhà cô Bảy đi ra. Dáng người hơi thấp, mập mạp, trắng trẻo, tóc hoa râm. Nhìn ông, người ta đoán ngay được là dân có tiền. Tò mò Mai đứng lại nhìn. Ra tới cổng, ông ta còn dòm bên trái, bên phải như kiếm ai rồi mới đeo cặp kiến đen, bước hối hả ra đường, đi về hướng ngã Tư Bình Hòa. Mai vô nhà gặp chị Thơ đang nấu cơm chiều, nhỏ kể luôn: - Em mới thấy có một "ông già" từ nhà cô Bảy Huệ đi ra. Chị Thơ thì thầm, vì bếp nhà Mai sát vách nhà cô Bảy: - Ổng là "mèo" của cô Bảy đó. Mai nhảy dựng như bị phỏng lửa: - Cái gì ? Mèo của cô Bảy ? Chị Thơ cú lên đầu Mai một cái đau điếng: - Nhỏ họng chút coi. Mày la om sòm bên kia "họ" nghe được làm sao ? Mai vừa vò đầu vừa nhăn nhó: - Chị có lộn hông đó. Chắc ổng là "mèo" của bà Hai... Chị Thơ xì một cái: - Mày biết gì mà nói. Hôm kia bà Hai qua đây "tâm sự", khóc lóc một trận quá trời với má đây nè. Bả nói tại nghèo, lại cần tiền lo cho ba thằng Bảo ra khỏi tù, nên có người bà con làm mai cho cô Bảy làm bé ông này, cổ đành ưng thuận. Ổng có vợ mà gần hai mươi năm nay bả cứ trơ trơ, chẳng chịu chửa đẻ cho ổng đứa con nào hết trơn. Mà ổng thì giàu quá trời. Chủ một hãng xe đò, tới cả chục chiếc lận. Ổng ham con lắm nên chịu bảo bọc hết gia đình cô Bảy. Hổm nay tao thấy ổng vô đây mấy lần rồi đó. Nghe đâu ổng gần năm mươi tuổi , nhưng nhờ giàu có tẩm bổ nhiều thành thử còn "chiến" lắm. Mày hổng để ý lúc này cô Bảy đâu còn đi làm nữa. Ờ há, cả tháng nay Mai không thấy chiếc xe nhà binh mỗi sáng tới rước cô Bảy như thường lệ. Nhưng ai đâu để ý "chiện" người lớn ? Bữa nay chị Thơ nhắc Mai mới nhớ ra. Rồi sau những lần gặp gỡ lén lút tại nhà cô Bảy, kết quả là cái bụng cô mỗi ngày một lớn thêm ra. Ông Kiện mừng hết lớn luôn. Bình thường ông ta đến và đi đều trong giờ làm việc, chắc để bà vợ khỏi nghi , đậu xe xa xa rồi mới tà tà đi bộ đến cái "tổ oan ương". Mỗi lần người khách quý này tới là bà Hai Cần phải kiếm cớ, khi thì xách giỏ đi tuốt xuống chợ Bà Chiểu, lúc lại dọt qua nhà Mai ngồi tán dóc với má ít lâu cho "đôi trẻ" mần việc - Mà họ làm việc này rất nghiêm chỉnh, vì đối với ông Kiện, thì giờ thật sự là tiền bạc! Có lẽ sung sướng quá nên ông đâm ra bất cẩn, không coi chừng cẩn thận như trước. Một ngày đẹp trời đi học về, Mai thấy một bà đứng tuổi - cở má - phốp pháp, mặt mày đầy son phấn đứng trứơc cổng nhà cô Bảy (đương nhiên là được cài móc phía trong rất kỹ để phòng hờ...). Bàn tay có những móng sơn đỏ chót, đang xiûa xói vô nhà, miệng chửi dòn tan. Lối xóm bu lại coi đông nghẹt. Bả phân bua : - Từ mấy tháng nay tui biết là thằng chả có mèo. Theo dõi riết bây giờ mới bắt được tại trận. Tui biết chắc là tụi nó đương hú hí với nhau ở trỏng. Rồi bả nghiến răng trèo trẹo rít lên: - Trời ơi thằng già dịch. Đầu hai thứ tóc rồi mà còn ngu (?) đem tiền cho"con ngựa" đáng tuổi con nó ăn. Trời ơi là trời ! Tui có lầm lỗi gì đâu mà bị đối xử tàn nhẫn như vầy? Đồ ác nhơn thất đức! Tội nghiệp, bả quên là trong xã hội Việt Nam, vợ chồng lấy nhau không con cũng là một vấn đề trọng đại. Có được bao nhiêu người đàn ông rộng lượng? Phần nhiều là các ông hay chụp ngay cái cớ đó để lập phòng nhì, phòng ba. Réo đôi gian phu dâm phụ ra chửi tơi bời hoa lá mà thấy trong nhà vẫn áng binh bất động, bả đâm mất hứng đành lui binh, sau khi ném lại một câu đe dọa xanh dờn : - Rồi tụi bây sẽ biết tay tao ! Nghe nói chiếc Peugeot 203 của ổng đậu tuốt ngoài ngả tư, gần rạp Cao Đồng Hưng bị bà Hoạn Thư đập tan tành hết mấy cái kiếng. Thôi thì không bị đốt như chồng cô Hườn là may rồi, nhằm nhò gì ba cái kiếng xe ! Sau đó, không biết ổng về điều đình với bà vợ ra sao mà không thấy bả trở lại đánh ghen cô Bảy Huệ nữa. Thằng Toàn ra đời trong sự vui mừng tột cùng của ông Kiện. Đầy tháng của nó, cô Bảy cúng nguyên một con heo quay to tướng. Bà Hai đem biếu hàng xóm mỗi nhà một phần ăn lấy thảo. Mai còn nhớ lúc nó được đâu năm, sáu tháng gì đó, ông Kiện bị tai nạn gẫy một chân phải nằm nhà thương. Vậy mà ngày nào ổng cũng bắt tài xế chở tới đậu trước cổng nhà, cô Bảy Huệ ẳm thằng Toàn ra cho ổng nựng nịu, hôn hít một hồi rồi mới chịu trở vô nhà thương. Thấy đống đồ chơi của nó mà bắt thèm. Chị Thơ sanh thằng Phương trước nó năm tháng, mà tội nghiệp quanh đi quẩn lại chỉ có hai ba món đồ chơi quèn. Bù lại nó là đứa cháu đầu nên được cả nhà cưng như cưng trứng. Nó lại đẹp quá trời nên ba lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng móc.... hình thằng cháu ngoại ra khoe !... Ngay phía sau hè nhà cô Bảy là gia đình bác Hân, người Bắc, mới di cư vào Nam được gần năm nay. Bác trai độ bốn mươi tuổi nhưng gầy còm, mặt mũi nhăn nheo như trái táo khô. Con trai lớn nhứt mới mười sáu và đứa út bảy tuổi. Cả nhà từ lớn tới nhỏ cộng thêm hai người thợ suốt ngày đánh vẹc ni đàn. Đủ thứ : guitare, mandoline, violon. Chỉ đánh vẹc ni thôi, xong rồi đem giao chỗ khác. Vì vậy hể mở cửa sau là nghe "nồng nàn" mùi vẹc ni, bắt nhức cái đầu ! Mai không hiểu sao cả nhà bác Hân có thể hít thở cái mùi khó ngửi này quanh năm ngày tháng? Chị Thơ nói thì quen lỗ mũi chớ sao. Giống như bác ba gái nhà mình ghiền dầu cù là, lúc nào cũng thủ một chai trong túi áo. Bác Hân trai mắc bịnh suyển. Đôi khi đang làm, bác ngưng tay, vói lấy cái điếu cầy rít thuốc lào ròng rọc, sau đó lại nổi cơn ho sù sụ, cái lưng cong như con tôm luộc! Bác Hân gái hiền, cũng ốm o, hàm răng trên hô, chìa ra khỏi cặp môi dày lúc nào cũng sẵn sàng toét ra cười. Tội nghiệp bác, tối ngày chúi đầu trong bếp nấu ăn cho chồng con và đám thợ. Cạnh bác Hân, tức ngay sau hè nhà Mai, chỉ cách cái sân rộng độ ba thước là nhà bà cụ Hiền. Cụ cũng khoảng sáu mươi, người nhỏ bé ( bây giờ gọi những người sáu mươi bằng cụ dám bị vác chiếu ra tòa vì tội... phỉ báng!). Tóc còn đen mượt, được vấn trong chiếc khăn nhung đen. Lần đầu, Mai giựt mình khi thấy cụ cười khoe hai hàm răng đen thủi đen thui. Mai tưởng cụ bị sâu răng, nhưng sau mới biết tại cụ nhuộm. Theo phong tục ngoài Bắc, đàn bà phải răng đen mới đẹp. Hổng giống "người Việt" mình, răng trắng chừng nào đẹp chừng nấy, má nói. Cụ có một người con duy nhứt là cô Lành, trắng trẻo, mảnh khảnh, trái với ông chồng tên Thịnh, mang lon trung sĩ, nghe đâu lớn hơn cô cả một con giáp. Chú Thịnh to lớn, mặc đồ nhà binh đầy vẻ oai vệ. Có lần cụ than với má : - Khổ lắm bà ơi. Thân tôi góa bụa, lại chỉ có một mụn con gái, không ở với nó thì ở với ai ? Ông rể thì suốt ngày lầm lầm, lì lì không nói một lời, nên mình cũng chẳng biết nó thương hay nó ghét. Thôi thì cứ cắn răng mà chịu! Nói xong cụ rơm rớm nứơc mắt. Đều đều, sáng sớm cụ bưng một thúng xôi bắp nóng hổi, đi một vòng vô xóm trong độ hai tiếng đồng hồ là hết nhẵn. Thú thật cho tới bây giờ Mai cũng chưa hiểu tại sao người Bắc kêu xôi bắp là xôi lúa? Có lần Mai ngây thơ hỏi cụ ơi, lúa làm sao mà nấu thành xôi được hả cụ ? Cụ cười khoe hàm răng đen nhánh : - À, thì từ xưa người ta vẫn gọi thế! Nhà cụ còn một nhân vật mà Mai rất thích là chú Phong, em họ chú Thịnh. Chú Phong thuộc loại bạch diện thư sinh, tuổi chỉ độ ba mươi, ăn nói duyên dáng. Đôi khi chú qua nhà Mai chơi, gặp bữa cơm, má mời: - Mời chú Phong dùng ba hột cơm với gia đình tui cho vui. Chú giả bộ sửng sốt: - Trời, bà chị chỉ mời em đúng có ba hột cơm thôi à? Chưa đủ cho em nhét kẽ răng nữa là!! Cả nhà ai cũng cười má, vì tuy ở Saigòn mấy năm rồi mà vẫn không bỏ được cái câu "ăn ba hột cơm cho chắc bụng". Ba nói ba hột cơm của má bây chắc là ba hột cơm Thạch Sanh! Cụ Hiền kể cho má nghe hồi còn ngoài Bắc, gia đình chú Phong ở dưới quê giàu lắm. Chú bị tảo hôn nên mới lên mười đã bị nhà cưới cho một cô vợ tới hai mươi cái xuân xanh. Lúc hết tiểu học, chú phải lên Hà Nội ở trọ để học tiếp. Mỗi lần về quê chơi trở lên, cô vợ có phận sự phải theo hộ tống ông chồng hỉ mũi chưa sạch này. Có điều rất mất mặt bầu cua là chú đi vé trẻ con và cô vợ thì phải mua vé người lớn. Khỏi nói, với làn sóng di cư năm năm tư, chú rất hồ hởi đơn ca bản: Tung cánh chim tìm về tổ...khác. Chú âm thầm theo gia đình chú Thịnh xuống Hải Phòng lên tầu há mồm đi một lèo vô Nam. Khít vách nhà cô Bảy Huệ là gia đình cô Tư Kim Anh, em bà con của thiếm Ba Lâm, chủ tiệm cà phê kế nhà Mai. Cô Tư ốm yếu xanh xao, lúc nào cũng buồn rười rượi ! Chớ vui sao đựơc mà vui ? Mới ba mươi hai cái xuân xanh mà cô đã phải "quản lý" một đàn con bảy đứa! Con Mỹ Lan lớn nhứt lên mười và thằng cu út mới biết bò. Ông chồng lính kín của cô tối ngày nồng nực mùi rượu, lại mắc chứng bịnh ghen kinh niên. Đi làm thì thôi, về nhà là ổng kiếm chuyện gây gỗ, đánh đập cô rất tàn nhẫn. Tiếng chưởi bới, la hét, khóc lóc từ nhà cô vọng ra thường lắm. Mới đầu chú thiếm ba Ba Lâm còn nóng ruột em, chạy qua can gián, nhưng bị ông em rể trời đánh này "xực" luôn: - Bộ anh chị là đồng lõa của con vợ tui hay sao mà binh nó? Muốn ở tù rục xương hả ? Chú thiếm đành phó mặc cô em với định mệnh đau thương ! Mai có gặp cái thằng cha ác ôn đó vài lần, mà lần nào cũng thấy cặp mắt, chắc là đỏ ngầu, của chả dấu kỹ sau cặp kiến đen, mặt mũi sần sùi coi rất dữ dằn, sặc mùi... lính kín ! Giữa tiệm cà phê chú Ba Lâm và nhà bác ba Đại là con hẽm chạy ngoằn ngoèo vô rất sâu trong xóm. Sở dĩ nó ngoằn ngoèo là vì bà con trong hẽm khi cất nhà không thèm theo một nguyên tắc nào cả mà tùy hứng, lồi ra thụt vô một cách rất "tự ro". Vì vậy mà tất cả các con hẽm ở cái đất Sàigòn đều ngoằn ngoèo như những cái ruột gà! Phiá mặt đường, ngay góc tiệm cà phê là giang sơn của bà Năm Hậu. Đối với Mai lúc đó thì bà đã già lắm rồi. Chiếc khăn rằn đỏ quanh năm trùm mái tóc bạc trắng. Khuôn mặt và hai bàn tay nhăn nheo, đen sạm vì suốt ngày dãi nắng, dầm mưa. Không chồng cũng chẳng có con, bà thui thủi một mình trong căn nhà lá ngay phía sau nhà bác Ba Đại và sống nhờ vào cái sạp hàng nhỏ xíu trước quán cô Ba Lâm. Cái sạp gỗ cao hơn mặt đường độ hai tấc. Trên đó bày đủ thư,ù mà trăm phần dầu là nhằm vào các bà, các cô và các đấng... nhi đồng: cóc được gọt vỏ, tỉa ra từng cánh để xơi cho lẹ, ổi mận, chùm ruột, me, soài sống... bên cạnh tô muối ớt giã đỏ tươi và tô mấm ruốt để chấm những thứ kể trên. Vài hũ kẹo bột, thèo lèo cứt chuột, bánh in, bánh tai heo... và cái món mà bà moi tiền tụi nhóc nhiều nhứt là món khô mực nướng. Từng miếng khô cắt vuông vức độ bốn ngón tay, được nướng trên lửa than. Than cháy đỏ đựng trong cái soong nhôm cũ móp méo thảm hại. Lúc chín tới, bà để lên trên cái thớt me dày cộm, rồi dùng cái búa nhỏ đặp nhẹ cho tới khi miếng khô mực tơi ra, sau đó mới phết lên trên một lớp tương ớt mỏng. Chèn đét, mới hồi tưởng lại đã chảy nước miếng ! Tội nghiệp bà, bữa nào nắng ráo thì khá, mhững hôm mưa dầm, chẳng có ma nào mua, lại còn bị nước mưa tạt vô ướt nhẹp, phải dọn hàng về sớm. Phần lớn số tiền má cho Mai đều chạy tuốt vô túi bà năm Hậu qua những trái cóc, ổi, khô mực nướng. Phần còn lại nộp mạng cho cái xe nước đá nhận trước nhà con Bích Thủy. Má cấm không cho Mai với nhân vật này vì trên đầu nó có nuôi khoảng ... một triệu con chí ! Chỉ cần vén một nhánh tóc lên thôi, là cả một sư đoàn chí đực, chí cái, chí mén rơi xuống ào ào như sao sa lá rụng ! Về sau nó phải cạo trọc đầu mới thanh toán nổi cái đám chí khổng lồ đó. Vậy mà ở trường, thầy nào, cô nào cũng cố gắng nhét cho bằng đựơc vô đầu đám học trò vô tội cái câu : ở đời có... chí thì nên ! Hay có lẽ tại má chưa từng nghe câu này nên mới cấm Mai không được có chí? Hỡi ơi bà đâu có biết cái hậu quả tai hại Mai phải gánh chịu là cho tới bây giờ, Mai chẳng có một ly ông cụ ý chí nào hết. Làm cái gì cũng bỏ dỡ nửa chừng! Phải chi hồi nhỏ... Buổi tối, khi đèn đường bắt đầu bật sáng, không biết từ đâu một chiếc xe mì được đẩy tới trấn thủ ngay phiá trước nhà bác Ba Đại, dưới tàn cây trứng cá. Bao giờ cái tiếng tắc xịt, tắc xịt của hai thanh gỗ cũng vang lên từ xa, trước khi bóng dáng chiếc xe mì xuất hiện. Mùi thơm từ mấy thùng nước lèo xông lên điếc mũi. Chiếc xe đẹp hết ý. Bên trên những thùng nước lèo và dưới cái mái nho nhỏ che mưa nắng là một giàng kiếng có bốn mặt. Một mặt được vẽ sự tích Tề Thiên Đại Thánh - Một mặt vẽ sự tích Tiết Đinh San cầu Phàn lê Huê và hai mặt nhỏ hai bên chỉ vẻ chim chóc, hoa lá, tất cả đều tô mầu sắc rực rỡ. Chủ nhân là chú Woòng, người dong dỏng cao, trạc độ ba mươi ngoài, trên môi lúc nào cũng có sẵn nụ cười cầu tài, tay thì xóc mì lẹ như người ta múa kiếm. Mỗi lần anh Hai Răng vô thăm bác Ba đều đựơc đám em út "queo - cơm" hết mình, vì mười lần hết chín anh cho phép "xực" mì thả cửa. Tới trể hơn xe mì một chút là gánh cháo huyết của một ông Tàu già. Mai không biết tuổi, nhưng thấy ông già lắm, lại ốm yếu hom hem. Tuy vậy tiếng rao cháo... huy...ết... ết... của ổng còn vang rất xa. Cho tới bây giờ, Mai chưa được ăn lại một tô cháo huyết nào ngon như những tô cháo huyết của Ông Tàu già ngày xửa ngày xưa. Những hạt gạo trắng ngần, nở bung, đặc sánh lại với nhau. Những miếng huyết màu đỏ sậm không bao giờ vỡ vụn khi cháo bị khuấy lên, mềm dịu trên đầu lưỡi. Cái kéo trong tay ông cắt xầm xập những miếng dầu cháo quẩy vàng rợm, dòn tan lẹ thoăn thoắt. Rắt chút tiêu, thêm chút hành lá đã có một tô cháo huyết thơm ngon, béo ngậy dù chẳng có một miếng thịt nào... Sau này nghĩ lại Mai thấy thiệt hú vía. Vì ngoài hai cái địa danh rất ư là bất lợi : ngã Ba Chú Ía và ngã Năm Chuồng Chó, ba má lại chọn đúng cái ngã Tư Bình Hòa để cư ngụ. Giống y như tên, cái xóm nhỏ của Mai thiệt là hiền lành, dễ thương. Ngoài cái ông lính kín say sưa và hay ghen ẩu kia, mọi người đối xử với nhau rất thân tình. Ngay cả cô Bảy Huệ, tuy mang tiếng làm bé ông Kiện mà cả xóm cũng không ai nhìn cô bằng cặp mắt khinh khi rẻ rúng. Mai cũng không hề thấy chuyện trộm cướp xảy ra lần nào. Chỉ có một lần cả xóm náo loạn vì cô Loan con bà Ba Trà Huế ở ngay phía sau nhà bác Đại bị đáng ghen. Cô có một đời chồng nhưng người này bỏ vô bưng theo Việt Minh. May mắn chưa có mụn con nào nên cô về ở với mẹ. Bà ba có sạp bán nước trà huế dưới chợ Bà Chiểu, nhưng cô Loan lại theo người quen đi buôn hàng chuyến miệt Ban Mê Thuộc. Đi buôn lâu ngày cô cặp với một anh tài xế xe hàng. Mấy ông này phần lớn thuộc giống đa tình. Mấy bà lại muốn lợi dụng chở hàng vừa nhiều vừa rẻ, nên hai bên đều sẵn sàng kẻ cho người nhận. Vui vẻ cả làng! Trung bình một tháng cô Loan đi buôn chừng hai ba chuyến. Mỗi chuyến độ năm ngày. Thời gian còn lại cô ở nhà hoặc ra quán phụ mẹ chút đỉnh. Khi nào ông bồ cô tới hú hí thì hai người đóng cửa ở lì trong nhà suốt ngày. Cả xóm ai cũng biết vì ông ta tới bằng chiếc xe mô tô, máy nổ bành bạch rùm trời đất. Một bữa nọ ông ta vừa tới độ nửa giờ thì một đám ba bà trên dưới ba mươi tuổi, mặt mày hầm hầm đi vô hẻm. Tới trước cửa nhà cô Loan, nhìn thấy chiếc xe mô tô thì một bà nói đúng chỗ này rồi. Chắc chắn thằng khốn nạn đó đang hú hí với con ngựa bà ở trỏng. Chị em, tụi mình tiến vô. Vừa nói bà này vừa đạp cửa rầm rầm, miệng réo tên chồng và tình địch chưởi um sùm. Nhà bà ba Trà Huế vách bổ kho, mái lá. Cánh cửa bằng cây thô sơ coi bộ chống không được mấy lăm hơi. Cả xóm nghe ồn ào bu lại coi đông nghẹt. Bỗng cánh cửa mở bất thình lình, một người đàn ông đi chân đất, mặc trần sì cái quần xà lỏn, tay ôm áo sơ mi và cái quần tây chạy ào ra, vẹt mấy người đang bu trước cửa, phóng lên chiếc mô tô giông mất. Mấy bà đánh ghen bất ngờ phản ứng không kịp đành để tên gian phu cao bay xa chạy. Bắt tên này không được họ bèn trút giận lên đầu con dâm phụ. Vậy là a lê hấp ba bà Hoạn Thư xông vô nhà đè cô Loan xuống đánh một trận tơi bời. Mái tóc dài đẹp đẽ bị xởn nham nhở như người bị đau ban mới dậy! Lối xóm còn xầm xì với nhau là cô Loan bị mấy bà chằng lột trần truồng, xát muối ớt vô ... Vì họ nghe bà vợ bị cắm sừng la lớn sặc mùi thù hận: tưởng cái của mày dát vàng dát ngọc gì mà thằng chồng tao mê đắm mê đuối. Trận này bà cho mày tởn tới già, hết dám quyến rũ đàn ông. Và tiếng thét đầy sự đau đớn của cô Loan khiến mọi người nổi da gà, nhưng không ai dám vô can. Khi bà Ba hay tin tất tả chạy về thì chỉ gặp cô con gái nằm trên giường, thân thể bèo nhèo như chiếc mền rách. Sau trận bị đánh ghen tơi bời này, cô Loan mắc cỡ bỏ xóm đi luôn. Khi cô út của Mai dọn nhà ra Nha Trang buôn bán, cô nhường cái tiệm tạp hóa của cô lại cho má trông coi. Ba má Mai bán căn nhà ở Bình Hòa dọn về Bến Chương Dương, gần nhà đèn Chợ Quán. Mai không thích lắm, vì cái tiếng u u từ nhà đèn phát ra rất là khó chịu. Má nói riết rồi cũng quen. Tụi bây thử tưởng tượng những ngừơi không nhà cửa ở dưới gầm cầu chữ Y, sát bên nhà đèn, họ còn chịu được huống chi mình ở xa gần hai cây số. Thỉnh thoảng cả nhà trở về xóm cũ thăm bác Ba Đại. Bác gái ráp bo : ông Kiện đã ly dị bà vợ, chia đôi số xe đò và bây giờ chánh thức ở luôn với cô Bảy Huệ. Để đền đáp cái tình sâu nghĩa nặng này, cô sanh thêm cho ổng hai đứa con gái nữa. Hèn chi đi ngang nhà cũ thấy đã lên thêm một từng lầu. Thôi cũng mừng cho cổ. Bà cụ Hiền theo con rể đổi về miệt Hậu giang, mất liên lạc luôn. Chú Phong nhứt định ở lại Sàigòn, tiếp tục cuộc đời độc thân vui tính. Gia đình bác Hân làm ăn khấm khá, đổi ra căn nhà ngoài mặt tiền đường, có trương bản hiệu đàng hoàng và hai ông bà cũng phát tướng, mập mạp hơn xưa. Cô Tư Ánh sau lần sẩy thai vì bị ông chồng lính kín "âu yếm" hơi nặng tay, đợi thằng chả đi làm, cô dẫn bầy con bảy đứa trốn luôn về nhà cha mẹ cổ ở tuốt dưới Trà Vinh. Ông ta tìm xuống, năn nỉ cách mấy cổ cũng nhứt định hát bài "Kiếp nào có yêu nhau" của nhạc sĩ Phạm Duy, trong đó có những câu rất hợp với cô như : Đừng nhìn nhau nữa anh ơi - Xa nhau đã xa rồi, quên nhau đã quên rồi - Đừng "tìm" chi, đừng tìm chi nữa anh ơi....! Ông ta đành trở về Sàigòn tiếp tục tìm vui trong men rượu đắng và trút mối hận lòng bằng cách "hỏi han sức khỏe" một cách tận tình mấy người bị lính kín bắt... Phần bà Năm Hậu sau một trận sưng phổi nặng vì trúng mưa, tuổi già sức yếu chịu không nổi cũng đã từ trần. Hàng xóm láng giềng kẻ ít người nhiều, đóng góp lại, làm cho bà một cái đám tang nho nhỏ. Vậy cũng xong một đời cô quạnh ! Chỉ có xe mì chú Woòng và gánh cháo huyết của ông Tàu già vẫn bền theo năm tháng... Ôi cái xóm nhỏ thân thương. Với muôn vàn nhớ nhung, nhưng Mai không thích sống lại cái cảnh ngỡ ngàng của Từ Thức, khi giã biệt chốn Thiên Thai để trở lại làng xưa... Biết bao vật đổi sao dời. Mai muốn cái Xóm Bình Hòa nhỏ xíu muôn đời là một kỷ niệm long lanh trong tâm tưởng của mình mà thôi ! Tiểu Thu Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 17/Jul/2024 lúc 2:52pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 18/Jul/2024 lúc 1:50pm |
< method="post" ="http://www.thukhoahuan.com/index.php/truyn-ngn/22649-b-n-dinh-lang-tr-nga-n?hitcount=0" ="-inline">
>
Bến Đình Làng “Cây đa bến cũ, con đò năm xưa” là hình ảnh quê hương như dấu ấn đã in đậm trong tiềm thức của tôi, là kỷ niệm thuở thiếu thời, dầu lưu lạc nơi đâu cũng không thể nào phai nhòa được. Như sợi dây huyền nhiệm trói buộc trái tim mình nhớ mang mang, rưng rức giữa đêm trường quạnh vắng, chợt nghe tiếng chèo khua nước là muốn quay về tắm nước mát bến sông xưa. Bến Đình làng tôi nằm ngay trên đoạn hẹp nhất của dòng Trà Giang. Bên kia bờ là lũy tre xanh chạy dài soi mình trên mặt nước trong xanh thăm thẳm. Rời khỏi con đò bước lên bờ dốc thoai thoải gặp con đường làng đất mịn phù sa. Hai bên là hàng tre, ngọn kết thành vòng cung như cái cổng tam quan đón chào khách thập phương. Ẩn dưới bụi tre gai là chiếc lều của người đưa đò ngủ đêm đợi khách sang sông. Cái sạp thay giường ngủ đơn sơ bện bằng những vạc tre ngâm đã lên nước bóng lẫy. Không biết lý do nào đã kích thích tôi mỗi lần theo mẹ qua đò thăm Ngoại là tôi phải trèo lên đó để rờ vào các thanh tre trơn láng và nghe mùi mồ hôi hăng hắc của ông lái đò. Bên đường làng là cái quán cốc của bà lão bán nước chè tươi. Cây sào gác ngang trên cao treo lủng liểng vài nải chuối, chục chiếc bánh ú, bao đựng bánh tráng nướng. Bên dưới là những thẩu đựng kẹo, thèo lèo và rổ trái cây bán theo từng mùa như mận, ổi, xoài và những miếng mít chín vàng ối với chiếc lồng bàn đậy lên trên chiếc mâm đồng. Bà cụ có mái tóc bạc, búi tó như cái củ tỏi gắn sau ót và nụ cười móm mém. Khoé miệng cụ dính đầy nước trầu đỏ tươi. Chiếc trã đất đựng lửa than hầm để nướng bánh tráng cũng vừa là lò sưởi để chống cái rét của cơn gió bấc mùa Ðông. Quán hàng đơn sơ nhưng cần thiết cho khách bộ hành đường xa, nghỉ chân giải khát. Mỗi lần qua đò, mẹ tôi thường ghé vào quán uống giúp bà cụ bát nước chè tươi, mua cho tôi vài trái mận hay mấy viên kẹo chặt. Ông lão chèo đò màu da sạm nắng đã quá cái tuổi lục tuần mà sức lực xem chừng còn dẻo dai. Cứ nhìn đôi tay gân guốc và gương mặt rắn rỏi là đủ nói lên kinh nghiệm mấy mươi năm chèo đò của ông. Bên này hữu ngạn là bãi cát trắng trải dài đến tận chân Núi Cấm đình làng. Cây đa cổ thụ với vô số dây leo tầm gởi chằng chịt biến cái gốc trở nên đồ sộ cả chục người ôm không xuể. Những chiếc rễ sần sùi thoạt trông như những con trăn nước thả mình xuống vực sâu tìm mồi. Hàng trăm tảng đá khổng lồ chồng chất lên nhau xây quanh chân Núi Cấm như do bàn tay của Thượng đế sắp đặt để cản lại dòng nước chảy xiết từ bên tả ngạn con sông đổ qua. Thầy địa lý, thầy phong thủy cho rằng dải đất làng tôi có các mặt Thanh long, Huyền vũ, Minh đường. Phía sau lưng làng (Huyền Vũ) nhờ ba ngọn núi nhỏ vươn lên, đó là núi Chợ, núi Nhàn và Rừng Dê liên kết như con rồng (Thanh Long) bao bọc án ngữ, long mạch vững vàng. Minh Ðường của làng là con sông Trà Khúc uốn mình dọc theo lũy tre xanh. Hàng năm nước lụt mang phù sa bồi đắp cho cánh đồng lúa chạy dài dưới chân ba ngọn núi đến tận con kênh đào cắt ngang. Đồng ruộng lúa tốt, vườn trái xanh tươi. Gái hiền lành, trai phát tuấn tú. Tuy nhiên, núi Cấm đầu làng bị chếch về mặt Tây Bắc chạm vào hướng Ngũ quỷ Lục sát thêm dòng nước chảy xiết từ bên tả ngạn đổ qua trực chiếu vào đầu làng gặp dòng nước bên này hữu ngạn tạo thành vực xoáy. Nước chảy cuồn cuộn gây tiếng ồn ào xôn xao như họp chợ suốt bốn mùa. Các thầy phong thủy cho rằng đây là hiện tượng thất thoát, hao tán của dân làng. Quan sát hướng gió thổi về núi Cấm đầu làng, nơi tiếp nhận cả hai ngọn gió bấc và nồm nên bị chế ngự. Khoa Phong thủy giải thích : “Nước giúp dẫn khí đến, nhờ nước cản mà khí tụ lại. Còn gió thổi thì khí tan đi. Ðất mà có gió ẩn tàng (Tàng phong) thì hung thần, ác quỷ hay đến trú ẩn.” Hàng năm đến mùa nước lụt, dân làng tôi kẻ ghe người xuồng tập trung về Núi Cấm để vớt cũi rều theo ngọn nước bên tả ngạn quật qua tấp vào bờ. Nỗi đau của dân làng là năm nào cũng có người chết chìm tại khu vực nước xoáy nguy hiểm này. Theo lời pháp sư, cây đa là nơi thần linh trú ngụ. Hàng năm dân làng bị tổn hao nhân mạng. Các vị chức sắc trong làng kiểm chứng lại, quả thực những người chết chìm tại đây đều cùng chung một thời điểm trong mùa nước lụt. Từ đó dân đóng góp tài chánh cộng với hoa màu thu hoạch của công điền công thổ để xây dựng một ngôi đình uy nghiêm. Mặt tiền ngôi đình làng hướng về cây đa, nơi đây được xây một bức bình phong lớn để trấn yểm tà khí. Thuở còn là học sinh lớp đồng ấu trường làng, cha mẹ cấm tôi không được chơi đùa gần cây đa linh thiêng và cái miễu thờ oan hồn tử vong hay bắt người thế mạng. Nhưng tính tò mò và nghịch ngợm của tuổi học trò không ngăn được cả bọn ôi đột nhập vào khu bí ẩn đó. Trước phong cảnh đẹp như chốn thần tiên khiến cho đứa nào cũng kinh ngạc và thích thú. Tán lá cây đa tỏa bóng mát cả một vùng rộng lớn. Những rễ phụ mọc từ cành đa thõng xuống thoạt trông như hàng trăm con rắn treo mình ngủ quên. Sân đình lát gạch rộng thênh thang, tha hồ chơi trò đá banh, u mọi. Chung quanh khuôn viên đủ loại hoa thay nhau nở suốt ba mùa Xuân Hạ Thu. Ngọn gió mát từ sông thổi vào như quạt trời gặp gió đẩy bạt cái nóng mùa hè. Tiếng gió ngân vang trên ngọn cây đa reo suốt bốn mùa. Những ông táo, bình vôi do dân làng đem đặt dưới gốc cây đa reo làm tăng thêm vẻ thần bí. Ðôi tượng thần bạch hổ đứng hai bên bệ thờ dưới gốc đa có lư hương, chân đèn đã làm cho chúng tôi chùn bước ngại ngùng. Nhưng tuổi thơ đã cảm nhận được không khí bình an nên không còn sợ hãi, lại càng yêu thích cảnh mát mẻ nơi này. Núi Cấm còn là địa điểm hẹn hò của những cặp gái trai làng, là nơi hứng gió mát của các cụ già trong những buổi trưa hè oi bức. Mùa trái chín của các loại cây rừng như trâm, bứa, xoài là lũ trẻ tựu về đây hái quả, vui chơi. Từ đó, cây đa reo, sân đình làng là điểm tập trung thường xuyên suốt những mùa hè tuổi dại của chúng tơi. Bến đò cách xa Núi Cấm vài mươi cây sào. Lợi dụng dòng nước từ bên kia đổ qua chân núi, người lái đò đỡ phần vất vã phải chống chèo. Bến đò gắn liền với hình ảnh thân thương của quê Ngoại tôi. Là kỷ niệm những chuyến theo mẹ về quê thăm Ngoại ở tận bên kia sông cách bến đò nửa giờ đi bộ. Thích nhất là ngày giỗ của ông Ngoại tôi vào ngày mồng 9 Tết. Các dì dượng cháu chắt tụ họp về đông đủ. Ba ông rể theo Nho học, ăn vận áo dài khăn đóng. Ba ông rể sau ảnh hưởng Tây học trang phục bộ Veston giầy da. Các dì tôi thì tha hồ trổ tài nấu nướng. Mẹ tôi khéo tay về các loại chả. Ðặc biệt là chả ba màu cắt thành hình trái tim, hình ngơi sao tám cạnh rất đẹp mắt. Ðây là món cao lương mỹ vị dành cho vua chúa nơi cung đình mà mẹ tơi đã học được từ bà bác dâu. Dì Ngọc, em kế mẹ tôi nổi tiếng làm bánh tét năm nhân. Lát bánh tét của dì đặc biệt đường kính lớn hơn một tấc rưỡi tây đặt tròn trĩnh trong chiếc đĩa lớn. Màu nếp trắng nõn mịn kết chặt vào nhau làm nổi bật năm màu nhân làm bằng các loại đậu hài hoà cân đối ở giữa vòng tròn màu xanh của lá chuối non. Dì Châu, người con gái thứ bảy có chồng là sếp lục lộ ( Quản lý về đường sá thời Pháp) thì chuyên làm bánh thuẫn, loại bánh bằng bột mình tinh đánh với trứng gà đổ vào khuôn đặt trên trã cát nóng. Bánh thuẫn của dì nở to, vàng hươm xoè ra như những cánh hoa đẹp tựa bông lan vừa dòn vừa mịn lại thơm mùi quế pha hương vị dầu chuối. Bánh in của bà dì thứ Tám (Dì Lộc) lại càng công phu hơn. Năm nào dì cũng dành nửa sào ruộng nhà cấy nếp hương. Gạo nếp phải giã cho thật trắng. Khi chấy, nồi rang không được nóng quá để tránh hột nếp lên màu vàng. Bột nếp xay thật nhuyễn, bỏ bột vào miệng là tan trong nước miếng. Chiếc bánh in của dì vừa trắng lại vừa mịn làm nổi bật các hình hoa quả in trên mặt bánh. Ăn bánh in của dì Tám chưa kịp nhai bột đã tan ra nghe mát rượi cả lưỡi. Hương thơm của nếp rang, ngọt thanh của đường, chất dẻo của nếp quyện vào nhau lưu lại trong lưỡi, dính vào chân răng hấp dẫn lạ lùng, ăn một cái là muốn ăn cái nữa. Bà dì thứ Chín (Dì Tuân) được ngoại tôi truyền lại kỷ thuật làm bánh nổ. Ðây là loại bánh đặc biệt thổ sản của quê hương Quảng Ngãi. Gia đình dì dượng Chín tôi chuyên nghề dệt lụa, ươm tơ tằm và nhuộm vải. Năm nào dì cũng đặt tiền cọc trước cho người làm rẽ ruộng cấy nếp ba trăng bán cho dì vài gánh phơi thật khô, quạt thật sạch. Dì cất vào chiếc lu đậy kín. Chỉ có loại nếp ba trăng khi bỏ vào nồi rang hột nếp mới nổ bung ra hết cỡ khoe màu trắng như bông. Nong nếp nổ, dì loại bỏ những hột nào nở chưa hết. Giai đoạn xên đường, dì tách chất bẩn trong đường bằng cách cho lòng trắng trứng gà làm nổi chất cặn bã lên trên rồi vớt bỏ cho đến khi nước đường tinh chất trong veo mới tưới vào nổ trộn đều. Đổ nổ vào khuôn, đích thân dì thực hiện cùng một người cầm vồ đóng bánh. Những lát bánh nổ được dì cắt ra vuông vức sắc cạnh, mịn màng như chiếc hộp giấy, vừa dòn, vừa thơm mùi gừng lại giữ được màu trắng tươi của nếp. Ăn bánh nổ, nhấm pháp tách nước trà ướp sen là cái thú của ba ngày xuân ở quê tôi. Các thầy thuốc Đông Y xếp bánh nổ vào loại thức ăn rất tốt cho người đau nặng mới bình phục, mau tiêu và không độc . Sau nầy, những năm tháng lớn khôn tôi theo học ở Sài Gòn nên ít có dịp được về quê ăn Tết là thấy lòng mình trống vắng lạ lùng. Tôi nhớ Mẹ, nhớ Ngoại, nhớ các Dì và nhớ cả những chiếc bánh khô của các bà Dì. Biết vậy, nên sau Tết là mẹ tôi gởi vào một xách đủ loại bánh trong ngày giỗ ông ngoại . Riêng dì Út tôi (Dì Mừời ) có chồng ở tỉnh thành nên năm nào Dì Dượng cũng mang về cúng ông Ngoại cặp rượu Pháp, vài hộp bánh Tây mà hàng năm bầy cháu của Dì trông chờ để được thưởng thức. Ở thôn quê mà được ăn bánh tây có lớp kem màu sữa trắng đục hay màu nâu sơ-cơ-la ngọt lịm khiến cho lũ trẻ hàng xóm trố mắt nhìn thèm thuồng. Năm nào cũng vậy, chúng tôi vui hưởng ba ngày Tết nhưng vẫn nôn nao mong chờ đến ngày giỗ ông Ngoại. Ðó là dịp họp mặt bà con bên ngoại mỗi năm một lần đã kết chặt tình yêu thương của toàn thể anh chị em. Khi lớn lên, kẻ góc biển, người chân trời lưu lạc khắp nơi nhưng đến ngày mồng Chín tháng Giêng, đàn cháu của ngoại không tránh khỏi lòng rưng rưng khi nhớ về cảnh cũ người xưa ! ***** Rồi một hôm, tại bến đò làng tôi chứng kiến một cảnh hãi hùng. Buổi sáng mùa Thu năm 1945, sau ngày Việt Minh khởi nghĩa cứơp chính quyền (19/8/1945), trời chưa sáng tỏ , dân làng tôi được lệnh đình công bãi thị. Tất cả đồng bào nam phụ lão ấu phải tập trung về tại bãi Xoang để dự phiên Tòa Nhân dân khởi tố “ tên Ðịa chủ cường hào”. Khi mặt trời lên quá cây sào, đội tự vệ áp giải cha con ông Phan Quang Thao đến địa điểm đã đông nghẹt dân làng. Trên bãi Xoang cạnh bến đình làng đã đóng sẵn hai cây cọc chỉ cao trên tầm thắt lưng. Họ ấn hai nạn nhân quì xuống rồi quấn chặt dây thừng quanh người vào cọc. Một người đàn ông nhỏ thó, khuôn mặt loắt choắt tiến ra trước đám đông đọc bản cáo trạng lên án ông Tú Thao là một đại điền chủ gian ác bóc lột tá điền, cậy quyền hiếp đáp đồng bào. Người con trai cả Phan Quang Trì là Việt gian thân thiện với Pháp và Nhật. Ủy ban khởi nghĩa tuyên bố hai cha con ông Tú có tội với cách mạng, với nhân dân. Cả rừng người im thin thít. Ðột nhiên, lão ta la lớn: - “ Ðồng bào tha hay g.i.ế.t ?” Tiếng g.i.e.ê.t sau cùng kéo dài là ám hiệu dứt mạng sống của hai nạn nhân. Cả pháp trường như chết lịm. Bỗng có tiếng “g-i-ế-t, g-i-ế-t” của một người nào đó giữa đám đông vang lên đã lôi cuốn lượng sóng người cùng cất tiếng hô theo : - “G-i-ế-t, g-i-ế-t” “Cách mạng” thường hay dùng cò mồi để làm nhân tố kích thích tâm lý quần chúng. Chẳng một ai dám lên tiếng ngược lại lời hướng dẫn của cò mồi. Tên loắt choắt kia là hiện thân của “thẩm quan địa ngục” và bọn “cò mồi” là “quỷ sứ ngưu đầu mã diện”. Một đao phủ không biết từ đâu xuất hiện. Ðầu trùm một bao vải màu đen, đôi mắt đỏ ngầu hiện ra sau hai lỗ tròn. Hắn cầm một thanh mã tấu sáng lấp loáng dưới ánh mặt trời bước đến phía sau nạn nhân, hai chân đứng thế trung bình tấn. Bất thần, tiếng hét vang lên “Sát.. !”. Người ta chỉ thấy một đường sáng trắng đi vào gáy ông Tú Thao. Lưỡi đao cắt ngọt chiếc cổ trắng ngần, đầu nạn nhân văng ra xa, máu phụt lên thành vòi. Máu nhuộm đỏ cả bộ bà ba trắng nạn nhân đang mặc. Máu tưới đỏ cả một vùng cát rộng. Dân chúng khiếp sợ, kẻ bịt mắt, người bụm miệng nôn thốc, nôn tháo, tiếng trẻ con khóc thét ! Ðến phiên người con, đao phủ có lẽ yếu tay nên phải chém đến hai lần. Ðầu ông Ðại Hào Trì vẫn còn dính lớp da cổ treo lủng lẳng trước ngực. Cái cổ bày ra những sợi gân bầy nhầy trắng hếu. Có một điều khiến cho đám đông ngạc nhiên là không có giọt máu nào chảy ra. Người ta thầm thì: “ Ông Trì lên cơn đau tim lại sợ quá nên tắt thở truớc khi bị hành quyết !” Dù chưa đạt được nghệ thuật chém treo ngành như nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả, nhưng tên đao phủ đã thể hiện bản lãnh giết người chuyên nghiệp. Lần đầu tiên, làng tôi, mảnh đất của những người nông dân hiền lương, chất phác suốt mấy mươi đời lấy nghĩa tình đối đãi với nhau giờ đây phải chứng kiến cảnh tàn bạo sắt máu tưởng chừng như một cơn ác mộng ! Những ngày tháng sau đó, ủy ban khởi nghĩa quê tôi giam giữ chí sĩ Ngô Ðình Diệm, và nhà Cách mạng Cộng sản Ðệ tứ Tạ Thu Thâu tại nhà ông Tú Thao nơi “Uỷ Ban Khởi Nghĩa” chiếm giữ làm cơ quan của ủy ban Cách Mạng lúc bấy giờ. Chỉ một thời gian ngắn họ đưa ông Tạ Thu Thâu qua đò làng tôi rồi giết ông ấy bên kia sông trên đất quê ngoại tôi. Không biết lý do nào họ không giết cụ Diệm nên được thoát chết ngày đó. Mặt nước sông Trà cũng phải rùng mình nổi sóng. Bờ tre như cúi mình thấp hơn để tiển đưa những oan hồn ra đi trong hoang lạnh. Lũ trẻ không còn ngụp lặn nô đùa nơi bến sông. Và khách kêu đò về đêm cũng bặt tiếng. Hai chiếc đầu của nạn nhân và máu nhuộm đỏ bến Đình Làng là hình ảnh kinh hoàng đã khắc sâu trong ký ức của tuổi thơ tôi đến tận bây giờ. Khi trưởng thành, tôi ngẫm nghĩ về khoa địa lý phong thủy mà ông thầy Tàu đã giải đoán. Tôi càng thấy thấm thía vô cùng. Người ta nói Quảng Ngãi là đất địa linh nhân kiệt nhưng làng tôi có hai ngọn gió kết hợp với hai luồng nước đổ về đầu làng tạo thành vực xoáy tích tụ Tàng phong là hai mặt xấu trong môn Phong thủy khiến cho hung thân quỷ dữ ẩn trú, thường xuyên tác hại gây biết bao đau thương cho dân làng. Quê tôi từ đây thuộc vùng Liên Khu 5 Việt Minh chiếm giữ chạy suốt chiều dài 4 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Miếu thờ bị đập phá, ngôi đình làng bỏ hoang phế không người chăm sóc. Núi Cấm làng tôi trở thành nơi hoang vu vắng bước chân người. Cây đa cổ thụ già nua rễ mọc từ trên cao buông dài tua tủa như người đàn bà xõa tóc sầu muộn bên sông. ***** Ðồn Komplong do quân Pháp trấn đóng giáp ranh hai tỉnh Quảng Ngãi và KonTum như ngọn giáo thường trực đâm vào yết hầu Liên Khu 5. Ngày đầu mùa thu năm 1952, bến Đình làng tôi bỗng nhiên tấp nập người là người. Bộ đội và dân công lũ lượt qua sông bằng hàng chục chiếc ghe trưng dụng. Ðó là những đêm điều quân của Bộ tư lệnh Liên Khu với hai sư đoàn cùng với lực lượng địa phương thuộc hai tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam chuẩn bị tấn công đồn Komplong. Trong suốt nửa tháng trời họ bí mật vận chuyển lương thực, đạn dược súng ống tiến về hướng tây nam Quảng Ngãi thuộc các huyện giáp ranh với Kontum. Qua mấy ngày công đồn, kết quả Việt Minh chiếm được đồn, nhưng hai bên đều bị tổn thất nặng nề. Bệnh viện không đủ chỗ chứa. Quê ngoại tôi, nhà nào cũng biến thành một “quân y viện bỏ túi” . Ngày Tết đã gần kề, tôi theo chân anh nuôi bộ đội sang sông thăm đồng đội của anh bị thương đang nằm điều trị tại Quân y viện. Nhân dịp này, tôi ghé thăm Ngoại và mang cho bà ít thức ăn của mẹ tôi bới. Ðã từ lâu, ngày Tết, ngày giỗ huy hoàng của Ngoại tôi không còn nữa. Khi trở về, chúng tôi qua chuyến đò An Mỹ. Ðò đến giữa sông, chợt hai khu trục cơ của quân Pháp bay dọc theo bờ sông đột nhiên đảo lại. Theo kinh nghiệm, anh bộ đội đoán biết máy bay sẽ bắn đò, liền hối thúc mọi người rời bỏ đò. Một khắc sau, những loạt đạn đại liên từ trên máy bay thay nhau bắn xối xả vào chiếc đò trôi lềnh bềnh giữa sông. Ðây là mục tiêu không thể bỏ qua khi tình báo Pháp biết được Việt Minh đã dùng tuyến đường này để chuyển quân đánh đồn Komplong. Bị trúng đạn, đò chìm, oanh tạc cơ bỏ đi. Ðồng bào ùa ra sông tiếp cứu. Hậu quả đau đớn là hai người phụ nữ không biết bơi nằm lại trên đò tử thương. Ông lái đò mất tích đến hai ngày sau xác ông mới nổi lên trôi tấp vào bờ, cuối bãi dâu. Hình ảnh ông lái đò có nụ cười móm mém tận tụy đưa khách sang sông dù là đêm đông lạnh giá hay trưa hè nắng gắt, cái sạp tre nằm đợi khách gọi đò về đêm lên nước láng bóng dưới mái lều đã khiến cho lòng tôi ngậm ngùi mỗi lần qua đó. Nước vẫn trôi, đò vẫn đưa nhưng ông lái đò xưa không còn nữa. Con đò bây giờ đối với tôi trông lạc lõng, vô tình như những ánh mắt của người chèo đò trong tổ hợp hiện giờ do chính quyền địa phương cắt cử . Họ lấm lét, xoi mói, dò xét để phát giác gián điệp của địch qua sông .Vẫn chống vẫn chèo nhưng trái tim họ chẳng hề gắn bó với chiếc đò, với bến sông. Khác xa với ông lão chèo đò lúc trước, ánh mắt ông lúc nào cũng nồng ấm chan chứa tình dành cho khách đi đò và gởi cả hồn ông trong mỗi nhịp chèo khuấy nước hòa cùng nhịp đập trái tim mình. Trái tim đầy ắp tình người mênh mông, êm ả như nước sông lặng lờ trôi. Lòng ông lái đò cũng cuồn cuộn buồn nhớ theo từng con nước đục ngầu trong mùa nước lụt đổ về dâng tràn, ngăn cách đôi bờ khiến cho con đò ông bất lực trước sức cuốn xô tàn bạo của con nước nguồn. Con đò và bến sông đã gắn chặt cả cuộc đời lão. Ông yêu nó và vĩnh viễn không xa rời nó như người thuyền trưởng giữ đúng trách nhiệm của mình nhất định không bỏ thuyền khi gặp nạn và ông đã chết theo con đò. Hiệp Ðịnh Geneve 1954 chia đôi đất nước, nền Tự do được phục hồi trên toàn cõi Miền Nam. Dân hai bên bờ sông thương tiếc ông lái đò đã tự động lập miễu thờ trên bờ sông. Ông xứng đáng là vị Thần Hoàng của bến sông này. Mỗi lần qua sông thăm Ngoại là mắt tôi rưng rưng khi thấy miễu thờ ông lái đò khói hương lên nghi ngút. Hàng ngày khách qua đò không quên ghé vào miễu đốt nén hương để tưởng nhớ người lái đò đã chết theo chiếc đò như người cha đã hy sinh để bảo vệ và che chở đứa con yêu của mình. Có người đã chứng kiến, ngày đó, ông lái đò lặn xuống nước cố đẩy con đò tấp vào bờ để tránh đạn nhưng chẳng may đạn của máy bay bắn xuyên qua thuyền trúng vào đầu ông. Thân xác ông lão chèo đò không còn hiện hữu trên cõi đời này, nhưng linh hồn ông hẳn còn lẩn quất bến sông xưa và hình bóng ông vẫn còn lưu mãi trong lòng tôi. Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 23/Jul/2024 lúc 1:14pm |
DẠO VỀ QUÁ KHỨ. Mấy
bữa rày khí trời oi bức, phần thì mình mẫy bị rêm mấy năm nay, phần thì
lu bu công việc nên tui ít có dịp đi "Ta bà" trong xóm, sẵn hôm nay có
cơn mưa khá nặng hạt, nó đã đẩy lùi cái nóng hàng ngày khiến tui hứng
chí cuốc bộ một vòng trong xóm để nhớ về những ngày xưa của mình. *
Vừa bước khỏi cổng nhà tui ngó ra đầu hẻm, trong tâm trí tui lại quay
về thập niên sáu mươi, vì bên phải hẻm nhà tui ở hiện nay, ngày xưa là
tiệm cà phê "Cây Điệp", tiệm này do ông bà Tư làm chủ, ông Tư có tài pha
cà phê vợt ngon số dách, tui còn nhờ hồi đó cứ trời vừa hừng sáng là
tui đã thấy ông già tía mình lọ mọ thức dậy để đi uống cà phê ở tiệm ông
bà Tư, có hôm tui kèo nài tía tui: - Ba cho con đi uống cà phê với, con nghe nói cà phê thơm ngon lắm đó. Ba tui rầy liền: -Thôi đi bây, con nít con nôi mà uống cái giống gì, uống vô lỡ ghiền thì mắc công lắm. Tui đâu dễ chịu thua, tui giậm chân ỏng ẹo rồi kèo nài tiếp: - Ba cho con uống đi, chứ sao Bác Tư Chuông cho thằng Lạc Lớn uống cà phê hà rầm có sao đâu. Biết
có cự tuyệt với thằng con cũng khó, hơn nữa tui đã chứng minh bạn tui,
thằng Lạc Lớn nó uống được thì tui uống được, nên tía tui chắc lưỡi rồi
nói: -Thôi được, ba cho bây đi nhưng không được đòi đi mỗi ngày nghe chưa, ghiền là chết luôn đó biết không? Dĩ nhiên tui gật đầu một cái rụp, vậy là tui được theo tía đến tiệm cà phê của ông bà Tư là như vậy đó. Lần
đầu ngồi trong tiệm cà phê tui hồi hộp lắm, vì toàn chú bác cô dì lớn
tuổi trong xóm có mặt nơi này, họ vừa uống cà phê vừa nói chuyện với
nhau, uống cà phê cũng có nhóm, mấy bà thì ngồi chung cái bàn tròn, bên
cạnh là bàn của mấy người chạy xích lô hoặc xe Lam ba bánh, thỉnh thoảng
có một vài ông đánh xe ngựa ở đâu đó ghé lại đậu sát hàng rào phía bên
kia đường, rồi vô tiệm ráp với mấy ông tài xế kia, tui thấy nào là chú
Hai Hữu, Chú Hai (Ba Tàu) ba của thằng Tàu Móm là dân xích lô máy, còn
chạy xe Lam tui thấy ông Tám Sanh, chú Hai Lợi, còn vài ba người nữa mà
tui chẳng nhớ tên, phía bàn dân "Thầy chú" thì có Ông Bê Thiếu tá, chú
Kỳ, tía tui, bác Tư Chuông, Đại úy Bình, ông Năm Vàng. Còn dân thợ thuyền thì có ông Tư "Đờ mi", chú Năm Hải, chú Ba Thợ mộc. Tui
kể ra các thành phần như vậy, không phải họ cố tình phân biệt, nhưng họ
ngồi như vậy mọi người nói chuyện với nhau mới hợp "rơ". Ông Tư cà Phê thấy lần đầu tiên tui tới đây, ông bèn chọc ghẹo: -Cha
chả, nay anh Năm (Tía tui) dẫn "Anh nhỏ" này uống cà phê hả, biết uống
hông "ông", thôi để tui pha bạc xỉu cho dễ uống, mơi mốt từ từ hãy uống
cà phê sữa, lần đầu uống cà phê đậm nó ép tim lắm đó đa. Nghe ông Tư nói vậy, ba tui gật đầu ra hiệu cho ông Tư làm theo lời ông mới nói. Ly
bạc xỉu được đem ra, tui lấy muỗng khuấy cho đều rồi bưng ly kê miệng
hớp, cái vị bạc xỉu nó ngon vô cùng, tía tui lấy cái "Giò cháo quảy" đưa
cho tui rồi ông nói: -Bây chấm vô bạc xỉu ăn thử coi, ngon lắm đó nghe. Tui
làm theo lời tía, phải nói nó ngon tận mạng, vì cái béo của bánh "Giò
cháo quảy" nó cộng với hương vị bạc xỉu vừa thấm vô đầu lưỡi tui thấy
ngon quá chừng, thấy bộ dạng tui ăn ngon lành khiến ba tui vui lòng. Vừa
ăn vừa liếc qua bàn của mấy bà mấy cô, tui thấy có người đỗ cà phê ra
cái dĩa nhỏ rồi kê lên miệng hút nghe rồn rột, tui thắc mắc liền hỏi ông
già tía mình, được ông cho biết : -Cà phê còn nóng bưng cái ly uống có khi bị phỏng miệng, nên họ đỗ ra cái dĩa cho nó nguội lẹ một chút rồi uống cho dễ đó mà.
(Thì ra là vậy, sau này khi đi vô mấy tiệm nước của người Hoa trên chợ
Gò vấp, tui thấy họ cũng uống cà phê kiểu như vậy, có lẽ vì mắc công
chuyện gấp gáp nên họ uống kiểu đó cho kịp thời gian để đi mần việc.) Ngồi một lúc tui nghe Thiếu tá Bê lên tiếng: - Nghe nói ấp mình lập cái trạm gác cho Thanh niên Cộng Hòa chỗ hàng rào Tầm vong nhà ông Hai Biểu phải không anh Năm. Ông già Tía tui vốn chơi thân với mấy ông làng xã, nên khi nghe Thiếu tá Bê hỏi thì tía tui nói:
- Tui cũng nghe mấy anh trên ấp Chí Linh nói lập một vài chỗ để canh
phòng, lóng rày hỏa hoạn tứ tung nên cắt cử gác để đề phòng đó mà. Vậy
ngoài Cần giờ chỗ Thiếu tá có tổ chức canh gác gì không? Ông Bê chậm rãi nói: - Chi khu tụi tui cũng đang cho mấy làng xã tổ chức canh gác vậy đó..
Câu chuyện chưa tới đâu thì ông Hai Biểu từ bên ngoài bước vô tiệm,ông
lên tiếng chào mọi người rồi kéo cái ghế đẩu sề xuống ngồi kế bên ông
già tía tui, thấy tui ngồi kế bên, ông Hai Biểu lấy tay vuốt đầu tui rồi
ông lên tiếng: -
Trên ấp mấy anh có ghé gặp tui rồi, tui sẽ đốn bớt một vài bụi tầm vong
rồi cất cái chòi nho nhỏ cho mấy anh em gác đêm có chỗ tránh sương
tránh gió... Thấy bàn bên đây bàn chuyện thời sự có phần rôm rả, nên phía bàn mấy bà mấy cô cũng lên tiếng phụ họa, bà Sáu Giày lên tiếng: -Chèn ơi tổ chức vậy tốt lắm đó đa, tiếc cái tụi tui đã già khú đế bằng không tui kêu mấy bà phụ gác với mấy ông cho vui. Chú Năm Hải ngồi gần đó nghe bà Sáu Giày nói vậy chú cười sằng sặc rồi nói: - Chị Sáu nói giỡn chơi (quài), mần gì có vụ cho mấy bà đi gác chung với đám tụi tui, làm (dậy)lỡ đêm hôm hứng bất tử thì ... Chú Năm Hải mới nói được nhiêu đó, liền bị ông Tư "Đờ mi" giơ tay bụm miệng lại, ông Tư nói nhỏ: - Chú Năm nè, chỗ đám đông nói huỵch toẹt thì ky cục lắm đó...
Mấy bà mấy cô cũng đoán được chú Năm Hải dự định nói cái gì, mặc dầu bị
ông Tư Đờ Mi bụm miệng nên các bà cùng cười muốn xập cái tiệm cà phê...
Tiệm cà phê của ông bà Tư là vậy đó, vừa là nơi để mỗi sáng mọi người
trong xóm xúm xít lại với nhau để vừa cà phê cà pháo vừa thăm hỏi nhau
hàng ngày. Các
món ăn trong tiệm của bà Tư tui thích nhất là món bánh mỳ hấp ăn với
bì, cuốn chút rau sống , mỡ hành, rồi chấm vô chén nước mắm chua ngọt,
nhớ lại món này đến giờ tui vẫn còn chảy nước miếng, vì lâu lắm rồi chưa
được ăn lại món này, món cơm Tấm ông bà Tư bán cũng rất ngon, tui thích
nhất là dĩa cơm sườn bì chả, cái mùi thơm đặt biệt của dĩa cơm ngày
xưa ông bà Tư bán, cho tận đến bây giờ tui chưa bao giờ được thưởng
thức lại cái hương vị đó khi ăn cơm tấm ở nơi nào, tiếc rằng ông bà Tư
đã xa rời nhân thế, họ mang theo công thức riêng của mình xuống Tuyền
đài coi như thất truyền từ đó... Mấy
chục năm trôi qua như "Bóng Câu cửa sổ", những ông bà cô chú tui kể tên
phía trên họ không còn hiện diện trên cõi đời này, nhưng trong tâm trí
tui lúc nào cũng còn nhớ như in khuôn mặt của họ. * Rồi
đây đến một ngày nào đó , lứa của tụi tui như thằng Lạc Lớn bạn tui
cũng trở thành quá khứ, nhưng liệu đám hậu thế có còn nhớ đến tụi tui
như tui đã nhớ đến các ông bà cô chú ngày xưa không.
Thời thế thay đổi con người ngày càng tiến bộ, có thể các em cháu sau
này nó sẽ hướng đến tương lai nhiều hơn thay vì dạo về quá khư như tui
hiện tại. Ngẫm nghĩ lại thấy buồn buồn lắm thay... Hai Hùng SG
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 24/Jul/2024 lúc 8:46am |
Ông Sáu Chèo Đò... - Fr Trần Ngọc Hiếu <<<<<< Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 24/Jul/2024 lúc 8:48am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 26/Jul/2024 lúc 3:21pm |
CHÙM HOA TÍMMãi đến sau nầy, khi tất cả qua đi và tôi bình tâm lại thì mọi chuyện đã chấm dứt. Cái ga xép cạnh thị trấn heo hút hàng ngày xì xịch đoàn tàu tỏa khói đen ngòm đã thay bằng nhiều ngôi nhà lầu hai tầng khang trang, rọi mấy ô cửa kính màu trà từ xa đã nhìn thấy. Những cây hoa dại màu tím sẩm rải rác mọc từng chùm theo lối đi dọc đường ray. Không biết tên nó là gì, làm sao chúng có thể sống và nở hoa được dưới ánh nắng gắt mùa hè đầy bụi bặm ở đây. Mùi ngai ngái khó chịu ở sân ga thường giống nhau xộc vào mũi làm tôi thoáng rùng mình, chỉ muốn thoát khỏi không gian ngột ngạt của buổi trưa cháy nắng không cơn gió thổi qua… *** … Lần đầu tôi đến thị trấn nhỏ nầy khi tốt nghiệp xong khóa sư phạm ngắn ngày mà người ta bắt học chỉ mấy tháng. Mớ kiến thức chấp vá như bọt xà phòng nên tôi chỉ nhận dạy các lớp tiểu học mà đám trò lớn tồng ngồng gần như thầy giáo. Mười đồng nghiệp trạc tuổi tôi suốt ngày quẩn quanh trong mấy lán trại lơ thơ, nhếch nhác như đám học trò ham đi rẫy và uống rượu hơn là đi học. Không hiểu sao tôi lại trụ đây được gần ba năm mặc dù đến cuối khóa, đếm đi đếm lại chỉ còn non nửa giáo viên ở lại trường. Trong các cô giáo đồng nghiệp, tôi thân với Thơ. Cô ở gần nhà và chung khóa ra trường trở về đây dạy học một lúc với tôi. Thơ không đẹp nhưng có duyên, nhất là giọng nói có sức cuốn hút kỳ lạ. Mái tóc cô cắt ngắn tôn lên vầng trán thông minh nhưng bướng bỉnh, miệng cười tươi tắn, ánh mắt luôn nhìn thẳng người đối diện. Những ngày nghỉ dạy, phần vì buồn, phần không làm gì, tôi thường rủ cô lang thang ra thị trấn cách vài cây số. Chúng tôi đèo nhau trên chiếc xe đạp cà tàng, quẩn quanh ở mấy quán nước, ghé vào chợ chỉ nhóm vài tiếng đồng hồ buổi sáng và sau cùng là đến ga xép, chờ con tàu từ xa lừng lững về ga cùng bánh xe nghiến trên đường ray và tiếng còi tàu kéo lên hồi dài trước khi dừng lại. Không biết tôi đợi gì ở con tàu kia nhưng cứ hướng mắt vào những người xuống sân ga. Thơ cũng vậy. Hình như trong chúng tôi ai cũng có niềm riêng nào đó chỉ mình hiểu. Chúng tôi ngồi ở ghế phòng chờ, mắt đuổi theo những người khách. Chuyến tàu chỉ dừng lại ga một lát, lơ thơ vài người lên xuống rồi nhanh chóng rời bến, bỏ lại sân ga chúng tôi cùng những người bán rong. Nắng chang chang hắt vào mặt, trên các quầy vé và trần nhà đầy bụi bám. Chúng tôi im lặng hồi lâu, không ai nói với ai câu gì. Chỉ sau khi con tàu nặng nề phun một làn khói trắng từ đầu toa và từ từ chuyển bánh rời ga, tôi nhìn sang Thơ, bất giác thấy mắt cô nhòa lệ. Còn tôi.. Một cõi lòng trống rỗng, nặng nề, tựa như hy vọng nào đó bị đánh rơi, cố dấu tiếng thở dài thất vọng và cuối cùng hai đứa đứng lên lầm lũi đạp xe về. Thật ra, Thơ với tôi chỉ là bạn, một tình bạn đúng nghĩa. Cô ấy đã có người yêu. Ba năm trời dạy chung trường, tôi biết cô đang chờ Thiệp. Mối tình với Thiệp nghe đâu nhiều bất trắc nhưng cuối cùng, cô vượt qua được. Thiệp đang chờ làm xong thủ tục ly dị người vợ cũ sống không hạnh phúc và hứa ngày nào sẽ đến với cô. Có lẽ, cô chờ những chuyến tàu là vậy. Không biết ngày nào nhưng cô chắc chắn anh ấy sẽ đến. Tình yêu làm cho người ta vững tin, chờ đợi, thiết tha hy vọng dù có thể dau khổ, mỏi mòn. Tôi biết điều nầy vì trong mắt Thơ, Thiệp là người duy nhất không ai thay thế. Tình yêu là điều mà không phải ai cũng giải thích được. Tại sao người nầy chứ không phải người khác trong tim Thơ. Tôi chịu… Càng ngày, hình như tôi càng nghĩ nhiều về Thơ. Chúng tôi gập nhau thường xuyên, khi thì ở lớp, khi họp hội đồng và những ngày nghỉ đèo nhau ra thị trấn đợi tàu về. Có ai đó trong trường nói về mối quan hệ này. Tôi bối rối nhưng Thơ tỉnh bơ, xem như không chuyện gì xảy ra. Có lần tôi hỏi Thơ. -Anh nghe người ta đồn đại về chúng ta? Em ngại không? - Kệ người ta, mình là bạn đâu phải gì phải sợ, phải phân bua! Hay anh sợ? Thơ ngoặc lại. Tôi cố dấu tiếng thở dài: -Không! Nhưng dẫu sao… mình… không nên ra thị trấn nữa… Ở đó… đám học trò của anh… hay chĩa mũi vào chuyện của người khác… -Tùy anh. Thơ nhìn tôi, mắt ánh lên vẻ coi thường. Khi nào Thiệp đến, em sẽ giới thiệu cho anh biết người em yêu. Anh ấy không nhút nhát như anh… Tôi nghe lòng đau nhói và hỗ thẹn nhưng làm như không chuyện gì xảy ra. Trong mắt Thơ, tôi là người bạn yểu điệu thậm chí yếu ớt. Nhưng biết làm gì hơn khi tôi không có sự can đảm, mạnh mẽ như Thơ muốn. Ngay từ nhỏ tôi đã rụt rè, do dự về mọi thứ. Chắc đó là nhược điểm của một thằng đàn ông, tôi biết nhưng không khác được vì tính tôi vốn thế. Tình cảm tôi với Thơ cũng vậy. Yêu cô ấy nhưng không hề dám mở miệng. Từ ngày không còn đèo cô ra thị trấn để đón những chuyến tàu, tôi như đánh mất thứ gì, hụt hẫng, trống vắng, tựa như đã lầm lẫn và ân hận về những gì đã nói với cô. Ngày nghỉ dài lê thê. Tôi nằm thượt trong phòng, buổi cơm cũng không buồn ăn, thơ thẩn trong cảm giác vừa cay đắng vừa tiếc nuối. Thời gian trôi đi, chậm và buồn trong thị trấn heo hút, ngôi trường nhếch nhác, học sinh đi học ngày càng ít. Hình như chẳng ai quan tâm đến chúng tôi. Với lại, trường vắng tênh, lèo tèo dăm bảy chục học sinh thì có gì đặc biệt. Thi thoảng, tôi vẫn vào thị trấn nhưng một mình. Sân ga vắng vẻ chỉ nhốn nháo một chút khi con tàu dừng lại rồi trở về với cơn ngái ngủ thường lệ. Những chùm hoa vẫn nở tím ngắt như run lên mỗi lần bánh xe sắt chạy qua tạo thành đợt sóng, lấp loáng nắng trưa trên sân ga buồn man mác. Có hôm tôi đến sân ga từ rất sớm. Khi con tàu nặng nề chuyển bánh, một cô gái từ phòng đợi bước ra và tôi nhận ra ngay là Thơ. Cô đang lấy khăn tay chầm chập lau nước mắt và nhìn quanh quất. Tôi muốn chạy lại nói điều gì đó nhưng hai chân nặng như chì và cuối cùng, hình như có gì ngăn lại, tôi quyết định không gập cô lần nữa, lên xe đi thẳng. Tối ấy, tôi uống rượu say mèm. Trước mặt, chập chờn trong ánh sáng của cây đèn cầy cháy dở, tôi thấy cô đứng trước mặt đôi mắt buồn đẫm nước. Thiệp cuối cùng rồi cũng tới trong chuyến tàu tôi không hề mong đợi. Anh chàng trông vẻ bề ngoài cao lớn, miệng rộng, khá hoạt bát, nghe nói làm chức gì đó bên xuất khẩu, kiếm được khá nhiều tiền. Tạng đàn ông như vậy nhiều cô mê là phải. Tôi mừng thầm cho Thơ, cố dấu nỗi thất vọng riêng mình. Từ ngày có Thiệp, Thơ vui hẳn, gương mặt lúc nào cũng đẹp ra. Cô và Thiệp ở hẳn trong khu nhà tập thể. Họ như đôi chim cu, lúc nào cũng quấn quýt, say đắm bên nhau. Hạnh phúc của người nầy đôi khi lai là nỗi buồn của người kia, tôi trong tâm trạng ấy. Thôi thì mình chấp nhận, tôi tự an ủi và làm vui khi họ đến nhà hoặc thi thoảng gập hai người sánh vai đi đâu đó, Cuộc sống cứ trôi đơn điệu và buồn tẻ. Những ngày nghỉ, chỉ một mình, tôi ra ga mà không biết làm gì. Tôi có hẹn đưa đón ai đâu, thơ thẩn đi trên con đường ray sau khi tàu chạy, nhìn những cây hoa dại mọc trên những lối đi. Những bông hoa nở tím thẩm từng chùm, mọc hai bên đường ray như cố vươn ra, quấn vào tôi theo mỗi bước chân. Thỉnh thoảng tôi cúi xuống, hái một vài bông, vò nát ra. Chúng có mùi ngai ngái, cay xè hắt vào mặt mũi làm nước mắt tôi ưá ra. Tôi buồn và nhớ Thơ. Ở ga xép nầy, không biết bao lần, tôi và em ngồi đây đợi chuyến tàu về, cùng lang thang trên con đường ray, hái những chùm hoa dại. Giữa nắng rát và bụi mịt mờ, không hiểu sao chúng vẫn nở hoa, bướng bỉnh lê dài cành ra dù mỏng manh, yếu ớt. Tôi tự hỏi mà không thể trả lời. Giá mà có Thơ ở đây. Cô ấy biết nhiều chuyện, thế nào cũng tìm cách giải thích cho tôi. Lúc nầy, với tôi, em cần thiết biết chừng nào. Ít lâu sau khi chung sống với nhau, khu tập thể thường nghe tiếng cãi vã, tiếng mắng mỏ và tiếng vỡ rổn rảng vang từ phòng Thơ ngày càng nhiều. Hình như cô và Thiệp có chuyện. Có hôm họp hội đồng, tôi thấy mặt Thơ đậm vết bầm, mắt cô hoe đỏ. Nhiều lời bình phẩm đoán già đoán non từ đám giáo viên chúng tôi nhưng không ai biết chuyện gì. Một hôm, sau cuộc họp, Thơ kêu tôi ra nói nhỏ: -Lát nữa em muốn gặp anh! Về chỗ anh nhé! -Ừ! Cũng được… Tôi đồng ý, trong thâm tâm cũng rất muốn gặp cô. Chúng tôi ngồi cạnh nhau trong phòng tôi. Thơ nói trong tiếng khóc: -Em khổ lắm, anh ơi! Chưa bao giờ em tuyệt vọng bằng lúc nầy… -Em cứ kể anh nghe… Tôi bùi ngùi nói. Dù sao em cũng nhẹ bớt khi tâm sự với bạn bè… Như không còn chịu nổi sự nín nhịn lâu ngày, Thơ gục đầu vào vai tôi nức nở: -Anh Thiệp… Anh ấy… Thực ra, Anh ấy không hề yêu em… -Có chuyện ấy sao? Không phải đâu. Một người từ thành phố thôi vợ, bỏ tất cả công việc về đây với em, sao laị có chuyện ấy được. Nhưng sao em lại nói thế, anh không tin. Tôi nói và ngồi thừ ra. Thơ nhìn tôi, cái nhìn của ngày chúng tôi còn thân nhau, thường đèo nhau ra ga đón tàu vào những hôm nghỉ dạy, ám ảnh tôi nhiều đêm không ngủ. Cô nói trong những giọt nước mắt đọng lại quanh mi: -Em biết diều ấy. Trái tim em mách bảo em biết rõ về Thiệp. Hình như tính tình, cách sống em không hợp với Thiệp thì đúng hơn. Em đã cố chịu đựng nhưng rồi không thể. Chúng em lúc nào cũng xào xáo. Thiệp bắt em phải nghỉ dạy, về thành phố với anh ấy… Mà em lại thích ở đây. Không ai có thể bắt em rời bỏ nơi nầy được. Tôi thật sự không biết nói gì để an ủi Thơ. Tốt hơn hết, với cô gái bướng bỉnh và đầy cá tính nầy thì nên im lặng vì trước sau gì, cô ấy cũng tìm cách giải quyết chóng vánh những vướng mắc. Theo tôi, cuộc hôn nhân của Thiệp và cô ấy xuất phát từ tình yêu, chắc sau những sóng gió tạm thời, mọi việc sẽ đâu vào đấy. Nghĩ vậy nhưng không phải. Mỗi ngày qua, mâu thuẫn giữa họ càng gay gắt. Tôi biết được điều nầy vì mỗi lần xảy ra chuyện, Thơ đều kể tôi nghe. Phụ nữ họ có cách nói chuyện sao đó mà ta không dứt ra được. Ngồi nghe Thơ tâm sự hàng giờ những điều không liên quan gì đến mình để cuối cùng, trước khi chi tay, tôi đành xuôi tay buông tiếng thở dài bất lực. Họ chia tay đột ngột như lúc nồng nàn chờ đợi nhau theo những chuyến tàu. Thiệp bỏ đi bất ngờ giống như anh đến. Người ngỡ ngàng nhất không phải Thơ mà là tôi. Tình yêu sao lại dễ cắt đứt nhanh chóng và đột ngột như vậy? Họa có Thơ điên. Sống với một anh tráng điển trai, có sự nghiệp, tương lai như vậy mà đùng một cái lại chia tay, quả tôi không hiểu. Kể từ ngày Thiệp đi, Thơ thường hay lại chỗ tôi chơi, không nói gì chuyện cũ. Cô muốn quên Thiệp và cuộc tình nông nổi kia. Chúng tôi lại cùng đèo nhau ra thị trấn và vào ga vào những ngày nghỉ. Bên Thơ, tôi như tìm lại được niềm vui, hạnh phúc mà có lúc tưởng mất đi mãi mãi. Chúng tôi lần theo đường ray nóng bỏng giữa nắng trưa đầy bụi mù, hái những chùm hoa tím đầy dưới chân và tranh nhau xem ai hái nhiều hơn. Chúng tôi đuổi bắt, chạy nhảy và tung lên trời những chùm hoa, chán chê nô đùa và sau cùng vào quán quen uống nước rồi đèo nhau về. Không biết Thơ nghĩ gì nhưng ánh mắt cô lấp lánh, đôi má hồng đỏ và nụ cười tươi tắn. Có hôm tôi và Thơ còn đi xa hơn. Sau cái nhà kho vắng tênh của sân ga, tôi ôm cô, đắm đuối trên miệng, trên môi. Thơ ngã người vào tôi, nhắm mắt lại trao những chiếc hôn nóng bỏng. Chiếc áo cô mặc trễ xuống đủ cho tôi thấy làn da trắng mịn, nõn nà hiện ra trên bờ ngực mẩy. Tôi dúi mặt vào đó, say đắm hít hà. Mùi vị nồng nàn của da thit và hương thơm quyến rũ từ người Thơ làm tôi ngây ngất. Tình yêu diệu kỳ, thơ mộng quá. Tôi như bay lên cùng hạnh phúc của mình. Trước mặt tôi ánh nắng nhún nhảy trên sân ga và những chùm hoa tím dường như rực rỡ hơn trên đường ray dài tít tắp. Tôi và Thơ yêu nhau được một năm và vẫn thường ra ga vào những ngày nghỉ. Sân ga buồn tênh, ngột ngạt trong nắng trưa khi đoàn tàu đi ngang qua tỏa khói mịt mù. Những cánh hoa tím dại vẫn mọc cạnh đường ray ngày càng nhiều. Chúng vẫn sống mặc nắng rát và gió bụi. Nhưng mối tình tôi thì không. Thơ chỉ xem tôi như một điều gì đó lấp khoảng trống tuyệt vọng mình khi tình yêu đổ vỡ. Chỉ thời gian sau, Thiệp xuất hiện trở lại và họ làm lành với nhau. Thơ đồng ý theo anh về thành phố. Tôi như người bị đánh cắp tình yêu (hay tôi lấy cắp tình yêu của họ ) hụt hẫng, chán chường. Ngày Thơ đi, tôi tiễn cô ra ga. Chúng tôi hầu như không nói gì. Lúc tàu sắp chạy, tôi chỉ nói với cô một câu: -Dù thế nào, anh cũng không quên sân ga buồn tẻ nầy. Cả em nữa… Thơ ơi… Đôi mắt cô đẫm nước nhưng gương mặt thì hân hoan. Có trời mà hiểu phụ nữ. Tình yêu làm họ đau xót, ngậm ngùi nhưng nhanh chóng phôi pha khi lấy chồng. Hay họ giấu đâu đó trong cõi lòng ngàn ngăn kéo khép mở, làm sao biết được. Tôi đứng chôn chân trên sân ga khi con tàu mang Thơ đi chỉ còn một chấm đen nhỏ xíu. Và về ngang qua đường ray. Những bông hoa tím vươn dài theo bước chân. Tôi cúi xuống hái, vò nát trong lòng bàn tay. Ôi, những bông hoa thời yêu nhau say đắm của chúng tôi. Kỷ niệm đâu đó ùa về. Chiếc tàu mang tình yêu đi mãi, chỉ còn tôi trên sân ga và những chùm hoa tím buồn tênh. Tôi rời trường mấy năm sau đó. Công việc ở nơi làm mới cuốn tôi ngày này đến ngày khác, thị trấn bé nhỏ và sân ga buồn tênh năm xưa lãng quên dần trong trí nhớ. Thơ giờ đang sống bên chồng hạnh phúc ở thành phố, sát chỗ làm của tôi. Thỉnh thoảng tôi vẫn thường gặp họ trên đường. Cô và Thiệp đèo nhau trên chiếc xe gắn máy, mặt mày hớn hở, vui tươi. Chạnh nhớ tình yêu xa xưa và chiếc xe đạp lọc cọc ngày nào, tôi nghe lòng chùng xuống. …Mới đây, tôi có dịp ngang qua thị trấn. Giờ nó thay đổi quá nhiều sau thời đất nước mở cửa. Nhà cao tầng, khách sạn, nhà hàng bung ra như nấm sau mưa khiến không còn nhận ra nơi cũ. Sân ga hiu hắt buồn tẻ đã dời đi và thay vào đó là những căn biệt thự mới xây nằm rải rác trên sườn đồi. Chẳng hiểu sao những đường ray là còn nguyên vẹn nằm chỏng chơ, đứt khúc trên lối đi ghồ ghề, trơ ra những thanh tà vẹt đoạn còn đoạn mất. Tôi bùi ngùi nhìn vào sân ga. Bây giờ là chỗ người ta đang xây dựng chung cư mới. Ánh nắng chói chang, nóng hổi tỏa xuống buổi trưa ngột ngạt đầy nắng. Tiếng động cơ, tiếng máy nổ, tiếng người hò hét vang động trên sân ga đìu hiu vắng vẻ ngày nào. Dưới nắng trưa, những chùm hoa tím sẫm vươn theo đường ray, ánh lên sắc màu rực rỡ. Chúng vẫn nở hoa dưới cái nóng như thiêu đốt và đầy bụi mùa hè. Không hiểu sao lòng tôi cứ bồi hồi nhớ bao kỷ niệm ngày xưa đầy ấp ứ ./. Nguyễn Minh Phúc |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 27/Jul/2024 lúc 11:55am |
Trả Nợ Ân TìnhĐầu
mùa hè, vợ chồng tôi đến thăm gia đình cô con gái và ở lại chơi khoảng
một tháng. Vợ chồng cháu phải đi theo sở làm, một công ty lớn, di chuyển
đến thành phố Las Vegas, và vừa mua được ngôi nhà ở vùng ngoại ô, với
khu vườn khá rộng nằm bên bờ hồ Mead. Đây là thành phố du lịch có những
sòng bài nổi tiếng. Tôi không hứng thú mấy với chuyện bài bạc, nên chỉ
ghé lại các nơi này một vài lần cho biết. Hơn nữa, dù mùa hè chỉ mới bắt
đầu, mà khí hậu đã nóng bức, tôi ngại ra ngoài, chỉ muốn nằm nhà nghỉ
ngơi và đọc sách. Thỉnh thoảng ra vườn tưới cây hay xuống bờ hồ hóng mát
và ngắm trời xanh. Một
hôm, trước khi đi làm, cô con gái đưa cho tôi cái chi phiếu, nhờ giao
lại cho người làm vườn. Tiền trả cho ông hàng tháng. Cứ ngày thứ ba mỗi
tuần là ông ghé lại làm việc ở khu này, cắt cỏ, tỉa cây và dọn dẹp, làm
vệ sinh hồ tắm. Cô con gái còn bảo, bác ấy rất đàng hoàng tư cách, mọi
người ở đây đều rất tin cậy và quý mến bác. Tuần trước, tôi cũng đã
trông thấy ông đến làm việc trong vườn, nhưng vì ngoài trời khá nóng và
đúng lúc đang mải mê đọc một cuốn sách, nên tôi chưa có dịp gặp ông. Khi
thấy ông gom dụng cụ bỏ lên xe, tôi nghĩ ông đã xong công việc, mở cửa
bước ra chào, cám ơn và đưa cho ông cái chi phiếu, bảo cô con gái nhờ
trao lại. Thấy trên mặt đầm đìa mồ hôi, tôi mời ông vào nhà uống với tôi
một lon bia lạnh. Ông nhìn đồng hồ, đưa tay phủi ít bụi cỏ vướng trên
áo quần, ngần ngừ, định từ chối. Tôi nắm tay ông kéo lại bộ ghế nhựa nằm
dưới gốc một cây bơ phủ bóng, bảo: – Hay là mình ngồi ở đây để anh thoải mái hơn. Tôi chạy vào nhà lấy bia, nghe tiếng ông nói vọng theo: – Tôi chỉ uống với anh đúng một lon, để tí nữa còn phải lái xe đi Tôi
mang bia và mấy cái nem chua ra. Chúng tôi vừa uống bia vừa nói chuyện.
Đúng như lời cô con gái, ông là một người hiểu biết và có tư cách. Mái
tóc bạc màu muối tiêu và khuôn mặt đượm buồn mang ít nhiều khắc khổ, đã
không làm mất đi cái vầng trán cao, đôi mắt sáng, khuôn mặt biểu hiện
một con người khí khái và nghị lực. Ngồi với nhau khoảng hơn mười phút,
ông cám ơn và đứng dậy xin cáo từ vì còn phải sang làm vườn cho các nhà
kế cận. Ông bắt tay tôi và hẹn thứ ba tuần sau ông sẽ đến sớm để tâm
tình nhiều hơn. Dù chưa biết nhau nhiều, nhưng qua cái bắt tay, tôi có
cảm giác là ông cũng có chút cảm tình, quí mến tôi. Lần
thứ hai gặp nhau, chúng tôi có nhiều thì giờ tâm tình và biết về nhau
nhiều hơn. Chính điều này đã làm chúng tôi trở thành bạn, khá thân tình. Trước
kia, anh phục vụ trong Binh chủng Lực Lượng Đặc Biêt. Sau khi binh
chủng này giải thể anh được bổ sung cho một đơn vị Biệt Động Quân. Một
năm sau anh được thăng cấp thiếu tá. Bị thương trong một cuộc hành quân
qua Cam Bốt, anh được thuyên chuyển về một Tiểu Khu miền duyên hải Quân
Khu 2, quê anh, và phục vụ ở đây cho đến ngày mất nước. Vợ
của anh là cô giáo dạy ở trường tiểu học quận lỵ. Ngày anh vào tù vợ
anh mang thai đứa con đầu lòng hơn năm tháng, và cũng không được “lưu
dung” trong chế độ mới bởi ảnh hưởng lý lịch của chồng. Sau
đó, những ngày cuối tuần rảnh rỗi, anh thương hú tôi sang nhà anh chơi.
Anh bảo:- Tôi thường ở nhà một mình, ông cứ sang đây, bọn mình nhậu
thoải mái và kể chuyện xưa chơi. Căn
nhà cũ nằm giữa khu vườn khá lớn có nhiều cây ăn trái, và những khóm
hoa được anh cắt tỉa rất công phu. Có cả một hòn non bộ, nước chảy róc
rách, trông rất yên ả, thơ mộng. Cùng độ tuổi với anh, nhưng tôi thua
anh rất xa về chuyện cần cù với bàn tay khéo léo. Nhìn khu vườn nhà, tôi
biết là anh đã bỏ ra rất nhiều thì giờ và công sức. Lần nào đến chơi,
anh cũng làm cơm, nướng thịt và hai anh em uống cạn mấy lon bia. Có khi
tôi phải ngủ một giấc, đến gần tối mới về nhà. Một lần, được tin anh bị
bệnh, vợ tôi theo tôi đến thăm anh, giúp anh làm vài món ăn và dọn dẹp
nhà cửa bếp núc. Mấy
năm sau này, từ khi cô con gái sinh đứa con đầu lòng, vợ chồng tôi
thường xuyên lên ở giúp cháu, nên thường gặp anh hơn và dần dà trở nên
thân thiết như anh em. Quen
biết đã khá lâu, nhiều lần đến nhà thăm và tâm tình với anh, nhưng
chúng tôi chưa hề gặp vợ anh, chỉ biết chị ấy qua tấm ảnh gia đình treo
trên vách, anh bảo chụp cách đây hơn mười năm, sau một thời gian định cư
ở Mỹ. Trong ảnh, ngoài vợ chồng anh còn có ba đứa con, hai gái một
trai.Chị là một người phụ nữ đẹp, trông có nét đài các. Một đôi lần tôi
có hỏi, anh ngần ngừ, bảo là vợ anh thường đi làm xa, vắng nhà. Tôi nhớ
có lần anh đã kể việc vợ chồng anh có mở một quán ăn ở đâu đó, sau một
thời gian đến định cư ở vùng này. Nhìn tấm ảnh, tôi khen: –
Trông ông bà rất đẹp đôi. Lúc trẻ chắc chị nhà là cô giáo hoa khôi của
một trường nào đó. Mấy cháu cũng đều rất dễ thương. Anh ngượng ngùng một tí, rồi làm tôi bất ngờ: – Đây là bà vợ thứ nhì và hai cháu lớn là con riêng của bà. Chỉ có thằng nhỏ nhất là con chung của bọn tôi. Tôi tò mò, không kịp giữ ý: – Chắc bà chị trước đã qua đời khi còn ở Việt nam? – Không, bà vẫn còn sống và đang ở trên Houston. Tôi vội vàng nói lời xin lỗi. Thấy tôi tròn mắt ngạc nhiên, anh giải thích: – Bà bỏ tôi sau hơn một năm vào tù, lấy một người đàn ông khác, sau đó dắt theo đứa con gái vượt biên từ năm 1979. Trầm ngâm giây lát, anh nói tiếp: –
Và từ đó bà không hề liên lạc với tôi, mặc dù có vài lần tôi viết thư
riêng nhờ người mang đến cho bà, để chỉ hỏi tin tức đứa con, nhưng không
hề nhận được hồi âm. Bây giờ, nếu còn sống, đứa con gái của tôi cũng đã
gần bốn mươi tuổi, nhưng chắc chắn nó không hề biết tôi là cha của nó. Tôi cố tìm một lời an ủi: – Với vợ con và niềm hạnh phúc mới sau này, chắc anh cũng đã nguôi được nỗi buồn? Anh cười: –
Thực ra khi mới biết tin, dĩ nhiên tôi buồn lắm, nhưng rồi sau đó lại
mừng cho mẹ con bà. Chứ nếu ở vậy mà chờ tôi, thì cuộc đời của mẹ con bà
không biết sẽ ra sao? Lúc còn ở trong tù, đêm nào tôi cũng nằm cầu
nguyện cho mẹ con bà được yên lành, hạnh phúc với gia đình và quê hương
mới. Tiếc là khi ấy tôi không thể liên lạc được để nói lên điều này cho
bà được yên lòng. – Tôi nghĩ điều đó chắc không còn cần thiết, bởi đã đối xử cạn tình với anh như vậy, chắc bà cũng chẳng có hối hận điều gì. Anh trầm ngâm: – Xem vậy chứ đàn bà cũng dễ xúc cảm, nặng lòng trắc ẩn lắm. Dù gì, tôi cũng thấy thương và tội nghiệp cho bà. Đến
chơi khá nhiều lần, nhưng vợ chồng tôi chưa bao giờ gặp người vợ của
anh bây giờ. Một hôm chúng tôi bất ngờ và vô cùng ngạc nhiên khi nghe
anh tâm sự về bà: – Bà ấy rất ít
khi có ở nhà. Bà sống ở các sòng bài. Khi nào không kiếm được tiền bà
mới về đây, nhưng sau đó, khi có được đồng nào bà lại đi ngay. Trước
kia, tôi bỏ ra tất cả tiền bạc dành dụm và vay mượn thêm của ngân hàng
để sang lại cái tiệm ăn, cho bà làm chủ. Buôn bán cũng khá lắm, nhưng
sau đó phải bán để trả nợ cho bà. Đồ đạc trong nhà này, cái gì còn bán
được bà cũng đã bán hết, nên chẳng còn một thứ gì đáng giá. – Sao anh và các cháu không khuyên giải, can ngăn bà? Vợ tôi hỏi. –
Cũng may, tôi đã cố gắng hết sức lo cho hai cháu đầu, con của bà được
vào đại học. Cả hai đều học xa nhà, nên tôi tìm cách nói dối để các cháu
yên lòng mà học hành, còn thằng con trai út, lúc ở với tôi còn nhỏ, nên
chẳng chú tâm điều gì, cứ tưởng mẹ nó đi buôn bán làm ăn. Sau này, khi
thấy cháu lớn khôn, không muốn ảnh hưởng đến chuyện học hành và tương
lai của nó, tôi gởi cháu vô nội trú một trường Công giáo. Không thấy mẹ,
lâu lâu cháu cũng hỏi thăm, không biết là cháu có biết gì không, nhưng
chẳng thấy nó buồn hay thắc mắc điều gì. Tôi nghĩ có cho các cháu biết
cũng vô ích, chỉ làm hại các cháu. Hơn nữa, khi đã lâm vào con đường cờ
bạc rồi, cũng giống như thuốc phiện, khó mà quay lại được. – Đến bây giờ hai cháu lớn cũng chưa biết? Tôi hỏi anh. –
Sau khi tốt nghiệp, hai cháu về nhà sống một thời gian chờ xin việc.
Lúc ấy hai cháu mới biết. Năn nỉ, can ngăn, rồi làm dữ cũng đều vô
ích. Sau này hai cháu có việc làm rồi lập gia đình, ra ở riêng. Khi hết
tiền bà chạy đến xin, xin vợ không được bà xin cả chồng. Tội nghiệp hai
thằng chồng đều là Mỹ hết. Cuối cùng tụi nó sợ quá, phải dọn nhà đi nơi
khác và không cho bà biết. Sau này, thấy tôi quá khổ sở với bà, hai
cháu rất giận mẹ, đề nghị rồi hối thúc tôi bỏ bà, chuyển đi nơi khác ở.
Hai cháu thương tôi, lúc nào cũng xem tôi như cha ruột và luôn tỏ ra
biết ơn tôi đã hết lòng lo lắng cho hai cháu. – Chắc anh không nghe theo hai cháu, nên bây giờ vẫn còn ở lại đây. Tôi hỏi Anh cười, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra: –
Không được! Tôi bảo với hai cháu là ba còn nợ mẹ rất nhiều, mà dù có
phải khổ sở, chịu đựng suốt cả đời vì mẹ con, cũng chưa trả hết được.
Hơn nữa đã là vợ chồng, ba đâu có thể nhẫn tâm bỏ bà trong lúc bà bị sa
lầy. Sau đó anh ngồi kể cho vợ chồng tôi nghe: –
Bà là cứu tinh của tôi. Trước kia, có một thời nhà cha mẹ bà ở gần nhà
tôi. Bà là con một của một gia đình giàu có. Khi ra tù, vợ con đã bỏ đi,
tôi không có chỗ để ở, lại mang theo bệnh tật từ trong tù, nên chẳng
làm được việc gì. Không hiểu sao lúc ấy bà lại cưu mang tôi, và can đảm
lấy tôi làm chồng. Lúc ấy bà có tiền, làm chủ một vựa trái cây và buôn
bán thuốc tây, cà phê. Lúc đầu, thấy tôi khổ sở, bà nhận tôi vào làm
công và bảo dọn tới nhà bà ở vì căn nhà sau, có một phòng bỏ trống. Cả
hơn nửa năm tôi mới khỏe lại và bắt đầu phụ giúp công việc buôn bán với
bà. Nhưng bà chỉ giao cho tôi lo việc sổ sách. Bà thường lo lắng chăm
sóc cho tôi, và cuối cùng tỏ tình với tôi. Khốn khổ hơn là có một tay
cán bộ kiểm lâm CS từ miền Bắc chuyển vào, đã theo đuổi, tán tỉnh bà,
thỉnh thoảng mang đến cho bà những bộ bàn ghế được đóng bằng gỗ quí,
nhưng bà nhất quyết chối từ. Ban đầu hắn tưởng tôi là người làm công hay
bà con trong nhà, nhưng sau này, khi biết bà đã lấy tôi, hắn tìm mọi
cách hãm hại tôi. Bà bỏ tiền mua cả đám công an, nên tay kiểm lâm sợ, bỏ
cuộc. Hơn nữa nghe nói hắn đã có vợ con ở ngoài Bắc. Có lần tôi hỏi, vì
sao bà thương và lấy tôi khi tôi trong cảnh thân tàn ma dại. Bà cười,
bảo là ngày xưa, lúc còn là cô con gái mới lớn lên bà đã thầm yêu tôi,
bà thích lính chiến, nhất là bộ áo quần bông với cái bê-rê xanh của
LLĐB, oai hùng lắm, nhưng tôi không để ý đến bà. Đúng vợ chồng là cái
số. Sau này bà lấy một thương gia, nhưng ông mất sớm. Nhờ vậy, sau 75,
bà còn giấu được một số vàng để bây giờ có vốn buôn bán nuôi con. Những
lần chính quyền địa phương gọi tôi, diện tù “cải tạo” đang trong thời
quản chế, đi làm công tác thủy lợi, bà đều thuê người đi làm thay. Sợ
bọn chúng cưỡng bách tôi đi Vùng Kinh Tế Mới, bà làm hôn thú và dù rất
khó khăn, bà cũng chạy cho tôi được vào chung hộ khẩu với gia đình bà.
Với lòng biết ơn và quí mến, tôi đã hết lòng yêu thương bà và hai đứa
con của bà. Tôi dạy kèm thêm, nên hai cháu đều là những học sinh giỏi
của trường, luôn vâng lời, lễ phép dễ thương. Tôi xem hai cháu như con
ruột của mình. Một năm sau, chúng tôi rất vui mừng khi có một đứa con
chung, là thằng con trai, giống tôi như đúc. Tuy nhiên, cứ mỗi lần nhìn
nó, tôi lại nhớ đến đứa con gái đầu lòng với người vợ trước. Từ lâu rồi
tôi không liên lạc đươc, nên chẳng biết bây giờ nó ra sao. Chỉ mong ông
trời thương, để có một ngày cha con được gặp lại. Anh
ngừng câu chuyện ở đây, lim dim đôi mắt, nhưng ngay sau đó lại nở nụ
cười. Tính anh như thế, tôi chưa khi nào thấy anh buồn điều gì lâu. Tôi
thầm nghĩ, khi người ta chịu đựng quá nhiều thử thách trong cuộc đời,
thì dường như buồn vui gì cũng như nhau thôi. Tôi cười theo anh, và nói đùa: – Không ngờ ngày xưa ông anh cũng đào hoa ghê. Đến bước đường cùng mà vẫn có người đẹp yêu tha thiết. Anh quay sang tôi cười, giải thích thêm: –
Bọn mình là lính mà. Người lính lại càng không thể phụ ơn những người
đã từng cưu mang, sống chết với mình. Cũng như anh em mình đâu có thể
quên những đồng đội đã chết, đã hy sinh một phần thân thể vì mình, phải
không? Tôi
im lặng, không trả lời, chỉ thấy thương và càng quý trọng anh. Người
lính chưa bao giờ bại trận, nhưng cuối cùng đã phải làm người thua cuộc.
Qua bao nhiêu thử thách vẫn còn giữ được cái sĩ khí, lòng bao dung và
nhân cách của mình. Những
lần gặp tôi, trong các câu chuyện anh thường nói về chuyện lính. Anh kể
cho tôi nghe những trận chiến mà anh đã từng tham dự. Từ lúc những buổi
đầu trong các toán Delta, sau đó đóng đồn biên phòng, rồi sau này ra
Biệt Động Quân, và cuối cùng là Địa Phương Quân. Anh say sưa kể từng chi
tiết, địa danh, từng tên của những người lính đến các cấp chỉ huy.
Trong lãnh vực này, trí nhớ của anh lại trở nên phi thường. Tất cả như
nằm sẵn đâu đó trong lòng anh. Nhiều lần anh bảo với tôi là anh đã sống
với nó, với cái quá khứ ấy. Anh còn ví von: “lúc trước ông nhà thơ Phùng
Quán đã từng tâm sự là khi ngã nhờ vịn những câu thơ mà đứng dậy, còn
với tôi thì đã bao lần thất chí, đã nhờ những hình ảnh quá khứ này để có
thể đứng lên. Không có một thời làm lính, một thời trong chiến trận,
chắc tôi đã quỵ ngã từ lâu rồi.” Cuối
cùng thì vợ chồng tôi cũng gặp được bà vợ bây giờ của anh. Mùa hè năm
ngoái, anh làm đám cưới cho cậu con trai út. Đứa con chung duy nhất của
hai người. Cô dâu lại là con của một người bạn HO của anh, mà tôi cũng
quen biết, vì từng ở chung một trại tù ngoài Bắc. Anh nhờ vợ chồng tôi
đi họ bên phía đàng trai, và phụ giúp anh sắp xếp công việc trong ngày
hôn lễ. Ngày đám cưới, chúng tôi đến nhà anh sớm hơn giờ hẹn để phụ sắp
xếp bàn thờ và lễ vật. Rất bất ngờ khi thấy có cả chị ra đón bọn tôi
ngoài cửa. Có lẽ anh đã giới thiệu trước ít nhiều về vợ chồng tôi, nên
chị nở nụ cười thật tươi chào đón và gọi đúng tên chúng tôi. Vợ chồng
tôi khá ngạc nhiên, bởi chị khác hoàn toàn với hình ảnh người đàn bà mà
chúng tôi tưởng tượng bấy lâu nay với không mấy cảm tình. Xinh đẹp, vui
vẻ nói năng lưu loát, và dễ thân thiện. Chỉ có ốm hơn so với trong ảnh,
và thoáng một chút mệt mỏi, bơ phờ. Buổi chiều, trong tiệc cưới, khi
người MC giới thiệu gia đình nhà trai, anh chị cùng vợ chồng hai cô con
gái bước lên sân khấu đứng bên cô dâu chú rể, cúi đầu chào khách. Tiếng
vỗ tay của thực khách như thay cho lời hâm mộ một gia đình đẹp đẽ, hạnh
phúc. Tôi bỗng thấy một chút xót xa, tiếc nuối trong lòng và thầm mong
là biết đâu nhờ đám cưới của cậu con trai, mà chị sẽ trở về với con
người cũ, để hai người còn có bên nhau trong hạnh phúc ở những năm tháng
cuối đời. Cuối
tuần sau ngày đám cưới, anh đưa chị ghé đến chơi, mang biếu chúng tôi
hai chai rượu và một hộp trà. Anh bảo là quà “lại quả” hôm đám cưới, anh
chị chia cho chúng tôi để mừng cho hai cháu. Khi vợ tôi ngồi chỉ cho
chị cách thức làm nem Ninh Hòa, mà chị rất thích, anh rủ tôi ra ngoài
vườn, vui mừng bảo là chị ấy đã hồi tâm, vì sau ngày đám cưới thấy các
con hạnh phúc vui vẻ, sau đó các cháu tâm tình khuyên giải bà, nên từ bỏ
mọi thứ đam mê sai lầm để sống với tôi trong tuổi già, vợ chồng săn sóc
hôm sớm có nhau. Anh hy vọng lần này bà đã thức tỉnh. Hơn nữa tuổi tác
cũng đã nhiều, bà thấy sức khỏe sa sút thường hay mệt mỏi.Tôi nắm hai
tay anh mừng rỡ, và nói vài lời, ngưỡng mộ sự bình tĩnh, chịu đựng và
tấm lòng bao dung của anh. Tôi lấy trong túi áo ra bốn tờ vé số Power
Ball vừa mới mua trưa nay. Đặc biệt số độc đắc xổ chiều nay, sẽ hơn ba
mươi triệu Mỹ kim. Tôi chia cho anh ba tờ, bảo: – Hy vọng ông trời sẽ cho thêm anh chị điều may mắn. Anh cười: – Cám ơn bồ, nhưng thường là “phúc thì bất trùng lai, mà họa thì vô đơn chí!” Tiễn anh chị ra xe, bắt tay nhau trong tiếng cười rộn rã. Khoảng
ba tuần sau, anh gọi phone báo cho chúng tôi một tin không vui. Chị ấy
đang nằm trong bệnh viện. Bác sĩ vừa khám phá chị bị ung thư vú trong
thời kỳ cuối. Vì quá lâu, không khám bệnh, nên không phát hiện được, bây
giờ đã di căn, không biết có cần giải phẫu hay không. Chúng tôi chạy
lên bệnh viện thăm chị. Thấy chúng tôi, chị nở nụ cười, nhưng trông khá
mệt mỏi, bơ phờ. Anh luôn bên cạnh, đút thức ăn, săn sóc an ủi chị. Anh
bảo tối nào, theo yêu cầu của chị, anh cũng ngồi bên cạnh đọc các
chuyện chiến trường, chuyện lính cho chị nghe. Bệnh
viện quyết định không giải phẫu, chỉ cấp cho một số thuốc để đưa chị về
nhà. Các cháu đều về thăm. Sống bên cạnh chồng cùng đầy đủ các con, chị
vui và hạnh phúc lắm. Chúng tôi đến thăm, dù không được khỏe, nhưng chị
rất tỉnh táo, nằm kể cho các con nghe về cuộc đời mình, ân hận đã có
một thời sa ngã vào con đường bài bạc, làm khổ sở và xấu hổ gia đình.
Chị cũng nắm chặt tay anh, nói rất yêu và biết ơn anh đã hết lòng lo
lắng đùm bọc vợ con trong những năm tháng khó khăn, xin anh tha thứ về
thời gian chị đã có lỗi lầm. Anh ngồi bên cạnh, cúi xuống hôn trên trán chị: –
Lúc nào anh cũng yêu em, cầu xin ơn trên cho em sống khỏe mạnh để anh
tiếp tục lo lắng, trả nợ cho em. Món nợ ân tình lớn lao, mà cả đời này
anh cũng không thể trả hết được cho em. Nước mắt của chị ràn rụa trên đôi gò má hóp. Tôi thầm nghĩ đó là những giọt nước mắt của hạnh phúc. Cho dù có chút xót xa. Chị
đã mất vào khuya hôm ấy. Theo lời anh kể lại, suốt đêm anh nằm với chị,
ôm chị trong vòng tay rồi ngủ mê lúc nào không biết. Khi giật mình thức
dậy thì chị đã ra đi tự lúc nào. Vợ chồng tôi có mặt trước khi đưa chị vào nhà quàn bệnh viện. Chị nằm như đang say ngủ, nét mặt bình yên, thanh thản. Và lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh khóc. Phạm Tín An Ninh Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 27/Jul/2024 lúc 12:07pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 03/Aug/2024 lúc 10:51am |
@myhanchannel Bán chồng cho bạn | Truyện ngắn hay | Tác giả: Thuy Van || Giọng đọc Tuệ Tâm <<<<<<Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 03/Aug/2024 lúc 10:56am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 08/Aug/2024 lúc 12:11pm |
SÀI GÒN KHÔNG CÒN NƠI TRÚ MƯA
ĐỖ DUY NGỌC Sài gòn đang vào mùa mưa. Mưa Sài Gòn bất chợt và đỏng đảnh như cô gái mới lớn. Chẳng có lịch trình, không một báo trước, muốn là làm cái ào, rồi tạnh, nắng lại lên. Cho nên nhiều khi khách đi đường thường quên mang theo áo. Mà nhiều khi có áo cũng chẳng muốn ngừng lại để mặc. Chỉ cần trú đâu đó một lát, tạnh mưa lại tiếp tục đi. Sài Gòn có những hàng hiên đụt mưa dễ thương. Mưa rớt ào xuống, chạy tấp vào. Nhìn mưa, nghe gió tạt, đốt điếu thuốc, nhìn người xe lướt thướt giữa giòng nước cũng là điều thú vị. Đứng được chỗ mái hiên có gốc cây già, nghe mưa tí tách rơi trên lá, buổi chiều đẹp hơn một chút, đời lãng mạn hơn một tí cho quên buồn của thực tại. Mưa hơi lâu một tí nữa, nhìn người bên cạnh, nói bâng quơ vài chuyện là thành một câu chuyện về đủ thứ trên đời. Khi người ta còn trẻ, có thể người ta cùng lúc trú mưa với một cô gái lạ, cười làm quen, vài ba câu qua lại, có khi lại thành một chuyện tình. Những cặp tình nhân đang yêu, vội vã chống xe vào chỗ trú, ríu rít nói cười, những bàn tay che mưa cho nhau, những chiếc khăn lau tóc cho nhau, tất cả sẽ thành kỷ niệm cho một cuộc tình, sau này lại kể cho con cháu nghe chiều mưa ông bà suýt hôn nhau dưới hàng hiên trong buổi chiều mưa Sài Gòn vì nước mưa đọng đẹp quá trên mái tóc của người yêu, vì giọt nước bám trên má người yêu làm em đẹp bội phần. Có khi gió hơi lạnh, hai người trẻ nắm tay truyền hơi ấm qua bàn tay, hay cái quàng vai làm cho tình thêm đậm. Tuổi chớm già, gặp người cùng thế hệ, nhắc chuyện cũ, tiếc nhớ một thời. Những câu chuyện qua lại làm cơn mưa ngắn lại, đôi khi nối kết thành một tình thân. Cũng có khi, chủ nhà mời vào trong, rót ly trà mời, bàn chuyện thế sự và cơn mưa níu chân người lại, hai kẻ xa lạ hàn huyên như những người bạn cũ. Chỗ trú mưa thành một nối kết. Rồi toả đi khi cơn mưa tạnh, nhưng vẫn sót lại những tình cờ của một cái duyên. Cái hàng hiên ấy còn là chỗ trú của các chị, các bà gánh hàng rong. Vài tấm nhựa che vội những món hàng linh tinh nhưng nuôi sống cả một gia đình, đôi khi vào trốn mưa, gặp lúc đông người lại bán được vài món ăn chơi chờ mưa tạnh. Những lúc đấy họ lo vì sợ mưa ướt hàng hoá nhưng cũng vui vì bán được thêm mấy món hàng. Đời bán hàng rong sợ nhất là gặp những cơn mưa giữa đường, những chỗ trú mưa là cứu tinh của họ. Nhưng rồi, những hàng hiên trú mưa của Sài Gòn bỗng một ngày bị đánh mất. Những căn nhà trơ trụi phô mặt ra đường nhìn trống trải và vô duyên như chân dung không tóc. Người Sài Gòn đi đường bắt chợt gặp mưa, loay hoay không chỗ trú, đành làm kẻ đi dưới mưa hay vội vã tấp vào lề mặc áo. Những người bán hàng rong loạng quạng nhìn quanh, rồi ngước mắt buồn đau nhìn trời, còn chỗ nào để nấp những cơn mưa ào ạt, những tấm nilon sao bảo vệ được mấy món hàng. Bỗng nhiên bị cướp mất chỗ trú dưới mưa, một chút hụt hẫng, một chút tiếc nuối. Làm đẹp cho thành phố, phố vẫn chưa đẹp hơn mà phải ngậm ngùi vì Sài Gòn đã không còn chỗ trú mưa. Saigon. Chiều 15.5.2017. Trời đang mưa DODUYNGOC |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 09/Aug/2024 lúc 9:11am |
Tình LạnhNăm 2015, Milana đã ba mươi tuổi, đang làm việc trong một công ty Network ở California. Mẹ nàng tỏ ra lo lắng tại sao tuổi này mà không chịu lấy chồng, mà cũng ít thấy có bạn trai; bà e rằng phụ nữ sau ba mươi lăm tuổi khó sanh nở. Nhưng nàng có lý do riêng không nói được với ai. Vào tối ngày 25 tháng 4 năm 2015, khi xem truyền hình tin tức về trận động đất 8.Mw đang xảy ra tại thị trấn Gorka cách tám mươi cây số về phía Bắc thủ đô Kathmandu của Nepal, nàng rùng mình kinh sợ, nước mắt chảy ròng-ròng nhìn cảnh nhà cửa sụp đổ, người chết vùi thây trong đống gạch đá lổn-nhổn, trẻ em tán lạc mẹ cha, loi-ngoi bò lê-lết trên đường phố. Mặc dù trung tâm động đất ở xa nhưng thủ đô cũng bị chấn động; đền đài, dinh thự, chùa tháp ngả nghiêng. Những lời kêu gọi cứu trợ từ khắp nơi trên thế giới khiến nàng quyết định xin nghỉ việc một thời gian, tình nguyện ghi tên vào Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế. Mặc dù mẹ nàng lo sợ, cản không muốn nàng đi, nhưng bà biết “cái con bé ương ngạnh, càng cấm cản nó càng làm tới, năm nay ba mươi tuổi đầu chẳng chịu lo lập gia đình, bạn trai nào mon-men đến tính chuyện đều bị nó cho là không hợp với nó”. Bà biết cái con bé hồi trung học giỏi toán lý, luôn luôn điểm A+, không bạn trai nào bằng nó được, nó kiêu ngạo lắm, đến độ những bạn gái cũng ghét nó. Vào độ tuổi mười bảy mười tám, đứa học sinh Mỹ nào chả cặp bồ, thậm chí phải có kinh nghiệm tình dục mới được cho là bình thường. Còn cái con Milana này nó như tượng đá. Mặc dù bà còn cái thành kiến Việt Nam “chữ trinh đáng giá ngàn vàng, món quà trong trắng dâng chàng tân hôn”, nhưng bà vẫn e ngại nó bị bệnh thời đại, bệnh lãnh cảm đối với người khác giới tính. Bà cảm thấy sợ hãi nếu một ngày nào nó cặp bồ với một cô nào! Xã hội sẽ cho nó nhãn hiệu L. Milana biết hết những ý nghĩ của mẹ cũng như những xi-xào của họ hàng, bạn bè. Nhưng nàng tự biết, mình là một thiếu nữ đẹp nhiều chàng mê, vẫn có những đòi hỏi tình dục nam nữ bình thường, nhưng nàng cảm thấy “ghê-ghê” nếu một chàng trai không hợp ý nàng đụng đến thân thể mình. Người đàn ông đầu tiên mà nàng thấy không hợp với nàng, chính là ông anh cả của nàng, Tòng, hơn nàng hai tuổi. Tòng tốt nghiệp đại học ngành kinh doanh, mở văn phòng địa ốc kiếm nhiều tiền, lúc nào cũng diện kẻng, vênh váo; về Việt Nam lấy cô vợ trẻ mới đậu tú tài, tên Trang kém nàng hai tuổi. Tòng tỏ ra mãn nguyện với đời sống, nhưng anh ta đâu biết Trang đã tâm sự với nàng : “Mình kém tuổi Milana, nhưng vì là chị dâu, nên phải xưng là chị với cô. Nhà mình không khá nên mong đi Mỹ học ngành gì kiếm ra tiền gởi về giúp gia đình; nào ngờ hai năm sinh hai cháu, tối tăm mặt mũi suốt ngày, tiền anh Tòng đưa chỉ đủ trang trải tối thiểu vật chất hàng tháng, lấy đâu dư giả cho chính bản thân huống hồ cho cha mẹ; nhiều khi muốn mua riêng một vài thứ mà không đủ tiền;mình buồn lắm, nhiều đêm khóc thầm”. Cơn giận trong Milana bùng lên ; “Chị yên tâm, em sẽ cho anh ấy một trận, đồ ích kỷ”.Trang chưa kịp ngăn cản thì Milana đã bấm phone gọi Tòng ; “Em không cần anh phân bua, anh là một người ích kỷ, chỉ nghĩ đến hưởng thụ bản thân, anh nghĩ anh lấy vợ để làm gì ? để làm ô-sin cho anh hả ? Chị Trang cần được đi học, từ tháng sau, anh phải mướn người về chăm sóc hai đứa trẻ; em sẽ đich thân dẫn chị Trang đi học”. Nói là làm, Milana lo ngay hồ sơ học đại học cộng đồng cho Trang. Mẹ nói thằng Tòng nó sợ con Milana lắm, không dám hó hé. Milana dằn mặt Tòng : “Anh mà đối xử không tốt với chị Trang, em sẽ giúp chị ấy làm đơn ly dị anh luôn, chị ấy dư sức lấy một người khá hơn anh”. Sau năm năm Trang đậu bằng kỹ sư điện toán, làm việc trong công ty của Milana. Trang nói : “ Chị hàm ơn Milana không biết lấy gì trả; anh Tòng cũng biết điều nhiều lắm, có lần còn nói với chị là bây giờ anh ấy mới biết mình xử sự sai với chị “. Người đàn ông thứ hai mà Milana cũng không hợp ý, là một chuyên viên kỹ thuật số, tên Bennett, da trắng gốc Anh. Bennett có cái kiêu ngạo ngầm của một kẻ học giỏi, lương bổng cao. Khi Milana học ban cao học vật lý, thường cùng Bennett đàm luận nhiều vấn đề. Bennett tự hào về gia tộc Anh mấy trăm năm, con giòng cháu giống, về nền văn minh kỹ thuật siêu đẳng của người da trắng . Đối với hắn, kỹ thuật cao chính là văn minh đích thực của loài người. Có lần hắn quả quyết với nàng, dân tộc nào có kỹ thuật cao sẽ bách chiến bách thắng. Mặc dù hắn giỏi trong ngành của hắn nhưng những lãnh vực khác của đời sống, hắn ngơ-ngơ nhiều khi ngờ-nghệch. Nàng cho là hắn bất bình thường, tâm lý bất quân bình. Còn một anh chàng tên Darius, học ngành sử, nàng gặp trong thư viện, cũng hay tìm cơ hội gặp nàng, tỏ ra thích nàng. Darius, Mỹ da trắng gốc Đức, tính tình trầm lặng điềm đạm có kiến thức rộng về sử. Có lần hắn hỏi nàng “Bạn là người Việt Nam, bạn có biết nhiều về lịch sử nước bạn không ?”. Nàng bối rối, cảm thấy hơi đỏ mặt, quả thật nàng gần như mù tịt, đành phải thú thật : “Bố mẹ tôi là người Việt , nhưng tôi sanh ra ở Mỹ, theo học ngành toán lý nên ít để ý đến khoa học nhân văn”. Từ đó nàng để nhiều thì giờ đọc sử Việt, tự nhủ một ngày nào đó sẽ tranh luận với Darius. Nhờ vậy nàng dần dần hiểu rõ hơn về nguyên nhân khiến bố mẹ mình phải vượt biển tìm cái sống trong cái chết. So sánh đối chiếu, nàng thấy suy nghĩ của anh chàng Bennett sai lệch nhiều; nếu kỹ thuật cao là bách chiến bách thắng thì sao nước Mỹ lại thua trận, rút lui trong rối loạn ? Nàng nghĩ sẽ hỏi Darius xem anh ta nghĩ sao về vấn đề này. Darius miệt mài trong thư viện vì đang viết một tiểu luận gì đó. Nàng tìm gặp và mời anh ta vào quán nước nói chuyện. Nàng nói : “Tôi đã bỏ nửa năm để đọc lại lịch sử nước tôi nói riêng và lịch sử thế giới nói chung. Tất nhiên sao có kiến thức bằng bạn được, nhưng tôi muốn biết bạn nghĩ sao về vấn đề này”. Sau này nàng nhớ lại buổi nói chuyện hôm đó, nàng thấy Darius có vẻ lúng túng, kết án những thành phần phản chiến hồi những năm 1960 tiếp tay cho phe cộng sản thắng thế. Nàng nghĩ, ngay thành phần trí thức Mỹ cũng mù mờ chối quanh thì nói chi quần chúng Mỹ. Từ đó nàng cũng không tìm Darius nữa. Không chỉ Darius hỏi nàng về lịch sử Việt. Có những bạn người Nhật, Đại Hàn cũng có lần hỏi nàng : “Tôi là người Đại Hàn, bạn là người Việt Nam, hai dân tộc chúng ta có nhiều điểm giống nhau ở chỗ trong lịch sử thường bị Hán tộc Trung Hoa xâm lăng đô hộ,nhưng bạn còn có những phụ nữ giỏi giang như Hai Bà Trưng, Bà Triệu lãnh đạo chống Tàu; lúc nào bạn tiện thì kể cho chúng tôi nghe chuyện các Bà nhá”. Milana đã từng cảm thấy mắc cỡ vì nàng say mê môn toán lý ít để ý đến sử học. Nàng thấy rõ người bạn Đại Hàn hãnh diện về lịch sử dân tộc, còn nàng hầu như không có gốc rễ gì, sinh ra ở Mỹ, học toàn tiếng Mỹ, nhưng chẳng phải người Mỹ. Hồi nhỏ đôi khi nghe mẹ kể về quê ngoại Vĩnh Long nằm giữa giòng Tiền Giang và Hậu Giang của sông Cửu Long, về cù lao An Bình êm đềm thơ mộng, nơi bà sinh ra đời; nàng nghe qua rồi quên luôn vì bài vở học hành tràn ngập. Khi đã đi làm thảnh thơi, nhớ lại lời mẹ kể về quê ngoại, tự nhiên nàng ao ước về thăm cù lao An Bình. Lại một chàng trai khác hình như theo đuổi nàng. Hắn ta tên Liệt, du học sinh Việt Nam ban toán. Hắn có vẻ săn đón nàng. Có lần sau giờ học, hắn mời nàng đi ăn trưa trong một tiệm Mỹ sang trọng. Hắn nói : “Để cho tiện, xin mời bạnlên xe của tôi”. Xe của hắn hiệu BMW mới toanh; nàng nghĩ xe mình hiệu Toyota cà- cộ, đang đi học lấy tiền đâu tậu xe xịn; anh chàng du học sinh này hẳn là con nhà giàu bên Việt Nam. Khi trả biên lai, thay vì thẻ tín dụng, hắn lôi một xấp tiền mặt giấy một trăm mới tinh, gọi cô phục vụ một cách thiếu lịch sự. Sau buổi ăn trưa hôm ấy, nàng thấy rõ hắn muốn khoe của. Tự nhiên nàng cảm thấy chán, không muốn gặp lại hắn nữa; nàng nghĩ chắc xưa kia nhà hắn nghèo khổ, bây giờ làm ăn phất lên được muốn đè bẹp cái mặc cảm thấp kém bằng cách khoe của ? Hắn muốn tán tỉnh nàng bằng cái cách khiếm nhã ấy à? Nàng điên tiết, nghĩ sẽ cho hắn một bài học. Hắn đâu biết ông bà ngoại nàng trước 75 từng là nhà bán vật liệu kiến trúc nổi tiếng ở Sài Gòn, nhà lầu ba tầng chứa đồ không hết. Hơn nữa, hình như hắn không có những tư tưởng của riêng mình; về bất cứ đề tài nào, hắn suy nghĩ nói năng theo một khuôn sáo có sẵn, nghe phát chán. Một lần sau bữa cơm chiều, mẹ nàng nói : “Con đã xong đại học, có việc làm rồi, cũng nên tìm bạn trai tính chuyện hôn nhân đi chứ”. Nàng cười thầm, bà cụ lại dò hỏi xem mình có mang nhãn hiệu L không? “ Mẹ yên tâm, con nhiều bạn trai lắm, Mỹ cũng có, Việt cũng có , vì con chưa muốn đấy thôi”. Mắt mẹ nàng như sáng lên : “Có bạn trai Việt hả, hôm nào dẫn anh ấy lại chơi”. Nàng biết tỏng, bà cụ khoái rể Việt hơn. Vừa nghĩ đến Liệt là nàng lại muốn nổi nóng, nhưng nhân thấy mẹ vui , nàng nói : “ Anh ta là du học sinh Viêt Nam, đây anh ta có đưa danh thiếp tiệm buôn của nhà anh ta ở Sài Gòn”. Nàng lục trong ví tấm danh thiếp của Liệt đưa cho mẹ. Bà cầm đọc, bỗng nàng thấy tay bà run lên, mặt bà tái đi, bà buông tấm danh thiếp rơi xuống, hai tay ôm ngực như nghẹt thở. Milana hoảng sợ vuốt lưng mẹ : “Ô mẹ sao thế, để con gọi 911 ngay”, Bà xua tay : “ Không sao con à, mẹ chí xúc động một tí thôi, cho mẹ ly nước ấm”. Bà nói, trước đây mẹ mới chỉ kể cho con biết ông bà ngoại ngày xưa lao động cần cù, làm ăn buôn bán lương thiện, không cướp giật của ai mà trở nên giàu có, xây căn nhà ba tầng; nhưng chưa kể cho con năm 1975 người cộng sản không lao động gì mà lại vu cáo ông bà bóc lột của người khác, họ cướp nhà, đuổi ông bà xuống góc vườn, chờ xúc đi vùng kinh tế mới ở bờ rừng chân núi không tiện nghi gì. Ông bà uất ức hai năm sau theo nhau qua đời. May là bà ngoại có kinh nghiệm năm 1954, dành giụm một số vàng, giục mẹ tìm đường vượt biển, tìm xứ tự do văn minh mà sống. Qua Mỹ, mẹ vẫn theo dõi tin nhà; căn nhà đó bây giờ có chủ mới là một cán bộ cao cấp; vừa nhìn địa chỉ trên tấm thiếp là mẹ xây xẩm mặt mày; chính là nhà khi xưa của ông bà ngoại đó. May mà con cho mẹ biết, nếu không thì.... Milana sững-sờ, may mà hắn ta xử sự một cách thô lậu, chứ nếu hắn ta lịch sự tế nhị thì nàng mắc lừa rồi. Bao năm nay nàng hiểu sai về mẹ, bây giờ mới vỡ lẽ. Hóa ra trong tâm khảm bà u-uẩn một nỗi uất-ức; căn nhà của ông bà ngoại trị giá ít nhất cũng hai triệu đô-la, chưa kể bao nhiêu vật liệu mới tinh, đáng lẽ thuộc về bà. Mấy lượng vàng bà ngoại cho đã chi vào ghe thuyền hết; qua Mỹ gần như tay trắng, mua được căn “townhouse” này cũng may-mắn lắm rồi. Hơn nữa, bà đang học ngành dược khoa thì nửa đường đứt gánh, qua Mỹ phải kiếm sống bằng nghề may vá. Từ những năm bảy, tám tuổi nàng đã quan sát liên hệ giữa bố mẹ. Nàng luôn nghe mẹ than thở, trách móc, oán hờn đối với bố; một lỗi nhỏ của bố cũng làm mẹ nổi giận, tuồng như bố trách nhiệm về mọi đau khổ đời mẹ. Sau mỗi lần đi dự tiệc hội ái hữu này nọ, mẹ lại than thở “Nhà con X, con Y, con Z gần biển to đẹp, còn nhà mình như cái hộp diêm”. Nàng thấy thương bố vô cùng; ông chỉ im lặng nhẫn nhịn. Bố và mẹ học chung thời trung học; khi thi xong tú tài, mẹ học dược, bố nhập ngũ sau biến cố Mậu Thân, 75 đeo lon đại úy, phải đi tù cải tạo cộng sản; khoảng 1980 hai người tình cờ gặp nhau tại Mỹ và đi đến hôn nhân, Ông làm hai “job”, quần quật suốt ngày, chưa kể phải đưa đón hai con đi học. Năm nàng mười tuổi, ông muốn cho hai con đi học võ; ông nói học võ để phòng thân thôi, không phải để đánh người ta là phạm pháp; vào trung học dễ bị bắt nạt, các con phải biết tự vệ. Anh Tòng nhất định không học võ, chỉ thích học nhảy đầm. Còn nàng thì hăng hái học nhu đạo, vài năm lên được đẳng cấp cao, không bạn nào biết. Mẹ nói, con Milana tính như đàn ông. Bố chăm sóc nàng cẩn thận, chở đi học võ ban đêm không hề than thở. Khi ông mất vì bệnh tim, Milana suy sụp tinh thần, ngày đêm thổn thức nhớ bố. Trong cơn đau khổ, nàng nghĩ ông chết sớm vì nỗi buồn không kiếm được nhiều tiền để mua nhà lớn làm hài lòng mẹ. Nàng âm thầm trách mẹ, nghĩ mẹ là nguyên nhân khiến ông buồn chết sớm. Dần dần nàng xa lánh mẹ, xin đi học xa, thuê phòng tự túc. Nàng nhờ chị Trang chăm sóc mẹ, bà không thể nào hiểu được tâm tình con trẻ. Những đêm thao thức trong phòng trọ một mình, nàng tự hỏi nguyên nhân gì khiến nàng ngại lập gia đình. Có lẽ mẹ nàng và chị dâu là nguyên nhân trực tiếp. Nếu nàng không can thiệp thì Trang sẽ mãi mãi là một thứ ô-sin cho Tòng. Còn mẹ nàng dằn vặt bố nàng khiến ông nhẫn nhịn quá sức không chịu nổi. Nàng nghĩ nếu lấy chồng, mình sẽ có rơi vào vết xe của mẹ không? Nàng tự thấy tính cách mình không thể như chị Trang, không thể như mẹ. Nhưng sau này, khi biết chuyện ông bà ngoại uất ức mà chết vì bị cướp mất nhà thì nàng hiểu và phân tích rõ tâm lý của mẹ. Vì nỗi uất ức trong tâm khảm của bà không giải tỏa được nên bố nàng là nạn nhân, một thứ thùng rác cho bà trút cơn hận. Có gì bí mật trong đời sống vợ chồng khiến nhiều cặp tan vỡ nhanh chóng. Có lẽ hai bên mong đợi nhau quá nhiều so với thực tế nên dễ thất vọng. Thường thì một cô gái, nếu trong ấu thời coi bố là thần tượng, khi lấy chồng sẽ phóng chiếu một cách vô thức hình ảnh bố vào người chồng; nếu anh chồng không đáp ứng đủ những tiêu chuẩn, người vợ dễ sinh lòng bất mãn, làm tan biến tình yêu ban đầu; cái tình yêu mà theo nàng nên gọi là tình mê thì đúng hơn; mê thì mau tàn. Nàng không muốn dính vào những bi kịch nhỏ-nhặt vô ích ấy. Không lệ thuộc vào ai thì đời sống nhẹ-nhàng, thong-dong. Có lần, nhớ bố quá, buồn rũ rượi, thì có đám bạn trung học cũ cả trai lẫn gái rủ đi hộp đêm ; nàng không tự chế, uống nhiều; bỗng có một đám thanh niên khác say ngất- ngưởng tự nhiên đến gây chuyện; nhà hàng ra can thiệp không được, họ còn có thái độ sàm sỡ với phái nữ. Men rượu đang bừng-bừng, nàng tung nhu đạo quật ngã từng thằng, cũng may cảnh sát đến kịp. Nhà hàng làm chứng, nên bọn nàng thong thả ra về. Từ đó nàng vang danh với biệt danh “Milana judo”. Có cô bạn nói : “Lão nào mà còn dám lấy con Milana”. Nàng quyết định âm thầm nộp đơn thi làm phi công, mong hưởng những giờ phút gay cấn trên bầu trời bao la. Nàng luyện nhu đạo hàng ngày giữ cho thể lực ổn định. Cám ơn bố đã cho con học võ để có lòng tự tin trước những nghịch cảnh. Khám tổng quát tâm lực và thể lực đều tốt, nhưng một sự cố xảy ra. Bác sĩ cho biết Test về đường hô hấp ở một cao độ có vấn đề, dường như nàng thở khó khi lên cao. Nàng về leo dốc cao dần, quyết tâm luyện tập tự chữa bệnh. Nàng nghĩ ta sẽ qua Nepal gần Hy Mã Lạp Sơn, sống ở độ cao mấy ngàn mét để tập luyện cho buồng phổi quen với không khí trên cao. Nhân vụ động đất đang diễn ra tại đây, nàng quyết định kết hợp hai việc. Khoảng đầu tháng sáu năm 2015 nàng đã theo đoàn HTT bay qua thủ đô Kathmandu. Nàng được phân công làm trong ban lập bản đồ cứu trợ bằng kỹ thuật số gọi là “crisis mapping”, nhưng tùy nhu cầu hiện trường, phải đi phát quần áo, thuốc men, thực phẩm, coi sóc trẻ em lạc cha mẹ... *** Nàng tỉnh giấc, đảo mắt nhìn chung quanh, trời có lẽ gần trưa; không phải một căn phòng hay một căn nhà, mà là một kiểu nhà tiền chế tạm dựng lên; có chừng ba chục giường đơn xếp thành ba hàng; mỗi giường có một người nằm. A ! hoá ra là một bệnh xá dã chiến. Nàng ngóc đầu tính ngồi dậy; bỗng có bàn tay đỡ lấy vai nàng, một giọng nữ với tiếng Anh khá trôi chảy : “Xin cô vui lòng từ từ ngồi dậy”. Một phụ nữ gầy-guộc, gương mặt xạm đen, một tay ôm vai nàng, tay kia đỡ sống lưng nâng nàng ngồi trên giường. Nàng ngạc nhiên hỏi : “ Có phải tôi bị thương không” ? “ Không phải, cô đang trong đoàn đi cứu trợ nạn nhân động đất, thì bỗng té ngất xỉu, sốt cao mê man ba ngày rồi, may quá cô đã tỉnh, để em hâm chén cháo nóng cho cô nhé”. Người phụ nữ chắc khoảng ba mươi, trạc tuổi nàng, mặc đồng phục y tá, đi xuống cuối căn nhà nơi để máy microwave và chén bát. Những bệnh nhân khác, người thì ho, người thì rên. Nàng mắc cỡ, tự trách cái thói kiêu ngạo của mình, dương dương tự đắc đi giúp người ta, mà bây giờ hóa ra người ta lại phải giúp mình. Nàng nhớ lại khi theo đoàn cứu trợ nạn nhân trên một sườn núi vừa bị một trận tuyết lở cuốn phăng nhà cửa, nàng quên bẵng mình bị bệnh khó thở trên độ cao, thành ra ngất xỉu bất ngờ. Đã thất bại trong ý định làm phi công, bây giờ lại thất bại trong việc đi cứu trợ, không xấu hổ với chính mình sao được ? Cô y tá người Nepal bưng chén cháo lại, cầm muỗng tính múc cháo cho nàng. Cử chỉ của cô ta dịu dàng làm sao, nàng xúc động đỡ lấy chén cháo, nói : “Cô tên gì? Cám ơn cô đã chăm sóc tôi mấy ngày nay, đây là bệnh xá khẩn cấp phải không? “Em tên Trisha. Phải, bệnh xá cũ bị sụp đổ trong kỳ động đất đầu tiên, bao nhiêu dụng cụ y tế bể nát hết, giường bệnh cũng hư hại” “Chính phủ lập ra bệnh xá dã chiến này phải không?” “Không phải chính phủ, mà một ông Mỹ giàu bỏ tiền giúp dựng nên, may là cũng tạm cho mấy chục bệnh nhân, nhưng còn nhiều nạn nhân khác lắm cô ạ. Em nghe nói ông Mỹ sẽ giúp chính phủ xây lại bệnh xá này”. Nàng nghĩ, người Mỹ hào phóng. Nàng lại cảm thấy mình bất lực, bao nhiêu kiến thức khoa học lý thuyết của nàng chẳng giúp gì được trong việc này. Tiền, phải có tiền mới mua thêm thuốc, thêm giường, xây lại bệnh xá, tuyển thêm y tá... Trisha nói : “Em không phải y tá, chỉ là y công thôi, những y tá giỏi phải đi các bệnh viện lớn có bệnh nhân nặng. Người ta cho em ở đây chăm sóc bệnh nhẹ, nhưng ngay cả bệnh thông thường cũng thiếu thuốc. Cô bị sốt mấy hôm mà cũng không có đủ liều Tylenol cho cô đấy; ông Mỹ phải bay sang New Delhi mua sắp về tới”. Nàng thấy lòng bồi-hồi xao-xuyến thầm nghĩ sao có người tận tụy như thế. Ăn chén cháo nóng, nàng cảm thấy khỏe ra, thể lực nàng vốn sung mãn mà. Nàng nói : “Cám ơn em, tôi không sao, khỏe lại rồi, chắc mai đi làm lại”. Trisha rối rít xua tay : “Không được, không được, hôm qua bác sĩ ghé thăm nói cô phải uống ba ngày thuốc nữa, không phải chỉ thuốc sốt mà thuốc về phổi. Chờ mai ông Mỹ mang thuốc về đã”. “Xin lỗi, em có gia đình chưa?” “Cha mẹ em chết vì bệnh mấy năm nay, chồng em mới chết trên núi trong kỳ động đất đầu tiên, bây giờ chỉ còn hai mẹ con, con gái em mới có mười tuổi”. Nàng bỗng nghẹn ngào, hai giọt nước mắt lăn trên gò má : “Trisha tội nghiệp quá, cho tôi gặp cháu bé được không, mà tên cháu là gì” “Dạ , Kanchan, cháu sắp đi học về tới”. Một bé gái từ ngoài cửa bước vào chào bằng tiếng Nepal, Trisha nói: ‘ Đây là con gái của em, Kanchan, con chào cô đi”. Bé gái ốm tỏng ốm teo, mặt trái soan đẹp nhưng da xanh mét, hai mắt tròn như mắt bồ câu nhưng quầng mắt thâm, hẳn là cháu thiếu ăn. Mịlana bỗng cảm thấy trong đáy sâu hồn mình một bản năng mẫu tử nhú lên; nàng đã ba mươi tuổi mà chưa lập gia đình trong khi bạn bè cùng lớp đứa nào cũng tay bế tay bồng. Nàng xúc động bất giác đưa hai tay : “ Cho cô bế cháu nhá”. Trisha đẩy nhẹ Kanchan lại gần, Milana ôm lấy bé tuồng như ôm con đẻ của mình. Trisha kể dòng tộc cô thuộc tầng lớp Dalits là tầng đáy cùng xã hội Nepal, bao nhiêu đời ông cố, ông nội, bố cô chỉ làm nghề gánh phân quét cầu tiêu , đói rách, khổ cực , nhục nhã. Mấy chục năm nay, tuy chính phủ có luật bãi bỏ đẳng cấp xã hội, nhưng luật pháp là môt chuyện, còn truyền thống xã hội vẫn mạnh mẽ; tầng lớp Dalits cũng đuọc đi học nhưng chỉ học được đến một cấp nào thôi, không thể học để làm lớn trong xã hội được. Khi Trisha học đến lớp 9 thì cha mẹ cô chết vì nghèo đói bệnh tật, cô phải xin vào bệnh xá làm chân lao công quét dọn cầu tiêu, giặt giũ quần áo bệnh nhân, tấm ra trải giường... được cho ở dưới chân cầu thang. Mỗi tháng cô được trả lương tính ra khoảng một trăm đôla. Cô thích học lắm, nên dù không đến trường, cô vẫn tự học nên tiếng Anh cũng khá, kín đáo học hỏi nghề y tá, các cách lấy nhiệt độ, đo huyêt áp, cân sức nặng, tên thuốc...Trong bệnh xá, không ai ngờ con bé thông minh, chiụ khó . Một hôm bỗng có phái đoàn y tế Liên Hiệp Quốc đến thăm bệnh xá quận để xét viện trợ, đi thăm mấy bệnh nhân; con bé mười bảy tuổi nhanh nhẩu thông dịch . Từ ngày đó, Trisha được ưu đãi hơn, lương tăng lên hai trăm đô la một tháng, không phải quét cầu tiêu, mà phụ cho các y tá. Milana nói : “Tôi thích bé Kanchan lắm, nếu tôi nhận cháu làm con nuôi thì em có bằng lòng không?”. Qua một giây sửng -sốt, Trisha quỳ xuống ôm lấy chân nàng : “Xin cảm ơn cô, nếu cô đỡ đầu cho cháu thì em đội ơn cô suốt đời” “ Vậy khi tôi khỏi bệnh, chúng ta sẽ ra luật sư làm giấy tờ nhá”. Sáng hôm sau, Trisha báo ông Mỹ bảo trợ sẽ từ New Delhi về vào buổi chiều. Milana cảm thấy xốn-xang trong lòng, ông ta sẽ mang thuốc phổi về cho ta theo toa bác sĩ. Ôi con người hào phóng và tận tụy biết bao. Buổi chiều, Milana thấy bác sĩ giám đốc đi cùng một thanh niên trạc bốn mươi có Trisha theo sau đến từng giường bệnh thăm hỏi. Thanh niên này không phải là người da trắng, có vẻ như người Á châu; không lẽ anh ta là người sẽ xây tặng chính phủ Nepal một bệnh xá mới ? Khi ba người đến chỗ nàng, người thanh niên reo lên vui mừng bằng giọng Mỹ chuẩn : “Hay quá, cô Milana đã tỉnh táo rồi, tôi đã mang thuốcsưng phổi từ New Delhi về; theo bác sĩ cho biết, phổi của cô có chút khiếm khuyết bẩm sinh đễ bị mất hơi thở khi lên độ cao; vừa rồi cô lên sườn núi cao, lạnh quá nên sưng phổi khiến lên cơn sốt, uống thuốc vài ngày sẽ hết”. Nàng lúng túng nói lời cám ơn; Trísha nói : “Thưa cô Milana, đây là ông Alex từ Mỹ qua hứa sẽ xây tặng bệnh xá mới cho dân Nepal đấy”. Thiệt tình, mấy bữa nay nàng cứ tưởng ông Mỹ hào phóng là một ông già da trắng với khuôn mặt hiền hậu, hóa ra lại là một thanh niên trẻ măng gốc Á. Trisha cứ thấy ai từ Mỹ qua thì gọi là ông Mỹ! *** Sau khi bình phục, Milana dẫn mẹ con Trisha lên thủ đô Kathmandu gặp luật sư làm giấy tờ nhận con nuôi, mua sắm thực phẩm, quần áo sách vở cho bé Kanchan, vào trường học gặp ông hiệu trưởng và cô giáo cho biết cô là mẹ nuôi của bé. Nàng biết xã hội Nepal từ ngàn xưa phân chia bốn đẳng cấp tùy theo dòng tộc chứ không theo tài năng đức độ. Hai giai cấp Ba-La-Môn và Sát-Đế-Lị nắm những chức vụ cao cấp thống trị; giai cấp Vệ-Xá làm nghề nông, buôn bán; giai cấp Thủ-Đà-La làm đầy tớ hầu hạ ba hạng trên; hạng cuối cùng bị coi như ngoài xã hội gọi là hạng Dalits, chỉ được làm những việc hạ tiện như gánh phân, quét cầu tiêu. Mặc dù từ năm 2008 nước Cộng Hòa Dân Chủ Liên Bang Nepal đã phế bỏ chế độ quân chủ, ban hành hiến pháp bãi bỏ sự phân chia giai cấp, nhưng trên thực tế, người thuộc dòng tộc hạ tiện bao đời vẫn bị giai cấp trên theo huyết thống khinh rẻ. Milana cố ý vào trường để nâng cao giá trị của hai mẹ con Trisha trước mặt ban giảng huấn và cả lớp học trò, hy vọng bé Kanchan đỡ bị khinh rẻ. Tuy bận rộn cả tháng trời vừa lo cho hai mẹ con, vừa làm công tác cứu trợ, nhưng trong tâm nàng cứ vơ vẩn hình bóng chàng trai Alex. Nàng cảm thấy Alex có nhân cách khác với những anh chàng mà nàng quen từ xưa. Việc cứu trợ càng ngày càng khó khăn và phức tạp vì số người chết lên tới cả chục ngàn, bị thương cả hơn hai chục ngàn, thêm những cơn hậu chấn nữa thật vô cùng đáng thương cho dân chúng , nhất là đám con nít mất cha mất mẹ. Bé Kanchan mặc dù bố chết, được may mắn có nàng cưu mang cho ăn uống bồi bổ. Một tháng trôi qua, nàng tới bệnh xá thì Trisha hớn hở dắt Kanchan ra chào; ôi, trông nó đã có da có thịt đẹp đẽ trong bộ quần áo mới, bé nhảy vào lòng nàng ôm chặt lưng nàng gọi mẹ; nàng cảm động rơm-rớm nước mắt, tự nhiên nhớ mẹ mình đang cô đơn lủi thủi trong nhà vắng bố. Nàng đã hết giận bà rồi sau khi hiểu tâm lý mẹ. Nàng nhủ thầm, tối nay phải gọi về cho mẹ. Hóa ra nàng đã ở Nepal gần ba tháng rồi. Nàng dọ hỏi Trisha : “Em có tin tức gì về ông Mỹ bảo trợ không? “Dạ có, ông vửa báo cho bác sĩ giám đốc là đã chuẩn bị tiền bạc mang qua tiến hành xây bệnh xá mới, em mừng quá cô ạ; mấy tuần nay số bệnh nhân tăng nhiều quá mà không đủ chỗ chứa, thât khổ” Trí óc nàng xoay chuyển nhạy bén, nàng nghĩ ngay, mình phải giúp chàng một tay xây dựng bệnh xá cho lẹ kịp đáp ứng nhu cầu. Nàng bảo Trisha khi nào ông Mỹ đến thì báo cho nàng ngay. Quả nhiên, đúng như nàng nghĩ, Alex mừng rỡ chấp nhận ngay đề nghị hỗ trợ của nàng : “Chính tôi đang cần một người thay mặt tôi điều hành việc xây cất, vì công việc của tôi ở Mỹ quá bận; tôi tin tưởng cô lắm ngay từ khi biết cô ở bệnh xá, là thiện nguyện viên của Hồng Thập Tự. Cô sẽ thay tôi quản lý tiền bạc trả lương nhà thầu, kiểm soát đôn đốc công nhân; bản vẽ tôi đã trình ông giám đốc theo phác họa của ông. Ngày mai tôi sẽ làm giấy tờ rõ ràng ủy quyền cho cô làm trưởng công trình” Chàng nói một hơi giống như một ông tướng phác họa chiến dịch hành quân. Nàng hồi hộp tự nghĩ không hiểu sao chàng lại tin tưởng nàng đến thế dù chưa bao giờ nàng làm công việc này. Nhưng nàng tự nhủ, cưỡi lưng cọp rồi, phải ráng tự học hỏi mọi cái mới, mình thừa sức hoàn thành việc chàng giao phó. Trưa hôm sau Alex mời ban giám đốc, hai mẹ con Trisha cùng Milana dự bữa ăn trưa tại thủ đô trong một nhà hàng sang trọng. Chàng giới thiệu Milana, từng tốt nghiệp cao học vật lý học, đang làm việc trong một công ty Network Mỹ, nghỉ việc qua Nepal giúp cứu trợ nạn nhân động đất; nàng sẽ thay mặt chàng làm trưởng công trình xây cất bệnh xá. Ban giám đốc đều biết nàng vừa ra khỏi bệnh xá vì ngã bệnh trên sườn núi. Họ vỗ tay chúc mừng nàng, hứa sẽ cộng tác trong việc xây cất cho mau hoàn thành. Alex mời riêng nàng đến một quán nước, giở bản vẽ bệnh xá chỉ dẫn tổng quát; chàng sẽ trông coi giai đoạn đầu trước khi về Mỹ. Tất nhiên nàng sẽ lãnh lương theo tiêu chuẩn Mỹ. Milana hỏi : “Anh làm nhà thầu xây cất ở bên Mỹ sao?” “Hơn mười năm nay tôi làm trong một công ty mua bán cơ sở dưỡng lão và dưỡng trí viện. Tôi quen vơi việc sửa chữa nhà cũ, tân trang và bán lại. Hiện công ty của tôi đang quản lý năm cơ sở trong năm tiểu bang, với khoảng chừng năm trăm nhân viên. Tuần nào cũng bay đi bay lại năm tiểu bang điều hành công việc; mỗi cơ sở có chừng trăm giường cho trăm bệnh nhân, với hàng chục y tá, nhân viên linh tinh nên công việc khá phức tạp. Mặc dù tôi đang ở đây nhưng vẫn làm việc với ban quản lý của năm cơ sở để kịp thời giải quyết những sự cố bất ngờ” “Công việc vất vả thế anh phải có phụ tá chứ? Chàng cười dòn “ Cô rất thông minh, tôi đang tìm phụ tá, là cô đấy”. Nàng dè dặt nói : “Tôi xin lỗi tò mò, vì thắc mắc lâu nay rồi, có phải anh là người Việt không? “Vậy chắc tôi trông giống Đại Hàn rồi. Tôi sinh năm 1980 tại Mỹ, bố mẹ tôi vượt biển năm 1978 từ Sài gòn, không hiểu sao nhiều người cứ tưởng tôi Nhật hay Đại Hàn, chắc là mắt sắc lắm, nhưng nhìn cô tôi biết ngay là người Việt”. Bất ngờ, nàng nói tiếng Việt, thấy giọng mình như có vẻ trách móc : “Anh biết vậy, sao không nói tiếng Việt với em, em kém anh đến năm tuổi”. Hai người cười vui, tưởng như quen nhau từ lâu lắm. Alex đưa nàng đến nhà băng làm thủ tục chung trương mục để nàng chi tiền dễ dàng. Nàng kinh ngạc thấy số tiền mấy trăm ngàn đô-la. Chàng nói bằng tiếng Việt khá rõ : “Anh có ba căn nhà cho thuê, vừa về Mỹ bán đi một căn lấy tiền xây bệnh xá” “Anh chưa biết em nhiều mà để em quản lý nhiều tiền thế, không sợ em tiêu hết sao?” “Anh có mắt thần, nhìn người rõ lắm, em sẽ là phụ tá tốt của anh” Tự nhiên chàng kể về gia đình mình. Mẹ chàng vốn là cô giáo dạy môn văn chương Việt Nam thường kể cho chàng nghe nhiều chuyện cổ tích; bố chàng lại thiên về môn sử, hay kể truyện Tàu như Đông Châu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng, Tam Quốc Chí, Anh Hùng Lương Sơn Bạc... Khi vào thương trường cạnh tranh,giao dịch đối phó với nhiều hạng người, trải qua bao lần vỡ nợ, ngã bệnh vì làm việc quá sức, vì áp lực mạnh của công việc...mới thấy những bài học mà bố chàng kể qua những câu chuyên lịch sử thật là quí giá giúp chàng vươn lên từ những thất bại. Hấp dẫn nhất là chuyện thực về cụ cố của chàng; cụ sinh năm1890 ở một làng quê Bắc Việt, nhà nghèo, học được ít chữ Nho, không biết chữ Quôc ngữ, lớn lên bị anh em cùng họ khinh bỉ, chịu nhiều sỉ nhục; khi cha mẹ lần lượt qua đời khoảng 1910, cụ bỏ làng đi làm lính trong chiến khu Yên Thế của cụ Hoàng Hoa Thám chống Pháp. Năm 1913 cụ Đề Thám bị Pháp giết, chiến khu tan rã, lính của cụ Đề tản mát mỗi người một phương. Cụ cố lưu lạc về tỉnh Thái Bình, tứ cố vô thân, xin tạm trú trong môt làng ven tỉnh. Dân làng này có thói quen khinh bỉ người lạ, gọi họ là dân ngụ cư, tức là dân thất cơ lỡ vận đi ở đợ đây đó. Cụ cố phải dựng một túp lều bên ngoài lũy tre làng, gần nghĩa địa. Có vài ba dân làng thuộc loại cùng đinh trong làng tỏ ra thương hại người cùng cảnh ngộ, giúp cụ cố những vật dụng lặt- vặt. Cụ cố sinh sống bằng nghề buôn tạp hóa; hàng tuần gánh đôi bồ bằng đòn gánh lên chợ huyện mua đồ kim chỉ về bán trong chợ làng. Đường lên huyện phải qua một khúc sông mà cái dốc từ bến thuyền lên mặt đê cao lắm; những hôm trời mưa trơn trượt rất vất vả gánh đôi bồ lên. Cụ cố người lùn nhỏ mà rất khỏe, gánh đôi bồ nặng mà leo được; có lẽ nhờ lao động quen và được huấn luyện võ nghệ trong chiến khu. Cụ buôn bán nhỏ, ba cây kim sợi chỉ, chả ai thèm để ý; nhưng thực ra cụ kiếm lời nhiều lắm; dành giụm nhiều năm để dành đươc một số vốn; tung tiền lấy cảm tình của dân làng; trong vòng mười năm mua được môt khoanh đất trong làng. Cụ giúp đỡ mọi người thiếu ăn thiếu mặc, trả ơn những dân làng trước kia đã giúp cụ; những dịp giỗ Tết trong làng cụ đều hào phóng đóng góp nhiều tiền. Hai mươi năm qua đi, cụ đã thành một ông địa chủ có tiếng phúc đức, không hề bóc lột của ai để trở nên giàu có. Năm đói Ất Dậu 1945, cụ cầm cố cho những nhà nghèo với giá rất rẻ cho những đồ thờ cúng, tủ bàn, trâu bò.. Khi nạn đói qua đi cụ trả lại hết; dân làng đều hàm ơn cụ. Đến những năm 1953-54, khi xảy ra những cuộc đấu tố địa chủ, chính những thành phần cùng đinh trong làng đã báo cho cụ biết trước để cụ kịp thời trốn lên tỉnh lánh nạn, bỏ lại hết nhà rộng, vườn ruộng di cư vào Nam, cuối đời lại tay trắng. Alex nói : “Bố anh kể lại cụ cố giỏi võ lắm, hàng đêm đều dùng đòn gánh làm đao kiếm tập luyện, nhưng cụ giấu tông tich, trong mấy chục năm không ai biết là lính của cụ Đề. Cụ cố đã đi từ tay trắng làm nên sự nghiệp do cần cù tiết kiệm khéo léo không ai ghen ghét. Anh coi cụ cố như thần tượng trong đời, đã về Việt Nam thăm ngôi làng nơi cụ sinh trưởng từ thế kỷ trước. Bản thân anh cũng đi từ tay trắng vì cha mẹ anh đến Mỹ có tiền bạc gì đâu”. Milana tỏ vẻ kinh ngạc : “Anh đã về Việt Nam à? Em thì muốn về thăm quê ngoại ở cù lao An Bình tỉnh Vĩnh Long, nhưng nghe mẹ em kể ngôi nhà ba tầng của ông bà ngoại ở Sài Gòn bị chính quyền cộng sản vu cáo là tư sản bóc lột, cưỡng chiếm mất rồi, còn nhà đâu mà về?. “Khi nào xong việc, anh sẽ đưa em về thăm quê ngoại nhá” *** Milana gọi về thăm mẹ. Bà nói : “Nửa năm rồi con không về thăm mẹ, mẹ nhớ con lắm; chị Trang đã kể hết chuyện con rồi; mẹ có lỗi với bố con nhiều, con đừng giận mẹ nữa”. Milana nghĩ đến bé Kanchan; ô, chỉ là con nuôi mà mình còn thương, huống hồ mẹ đẻ, tình mẹ sâu thẳm làm sao đo lường được. Người mình thường nói “nuôi con mới biết lòng cha mẹ”. Nàng nghẹn ngào trả lời : “Nhiều đêm suy nghĩ về số phận ông bà ngoại, con đã hiểu và hết giận mẹ lâu rồi, nhưng con đang bận ở Nepal trông coi xây dựng lại một bệnh xá bị tàn phá trong động đất nên chưa về Mỹ được. Khi nào gần xong con sẽ về thăm mẹ, sẽ dành cho mẹ một ngạc nhiên”. Nàng cũng nhận được email của ba bạn trai, Bennett, Darius, Liệt. Cả ba đều có ý mong gặp nàng vì lâu không thấy nàng liên lạc. Bennett khoe vừa được nhận vào làm tại NASA; Darius báo sắp trình tiểu luận cao học mời nàng tham dự, sẽ bàn tiếp với nàng về đề tài trước kia sau khi nghiên cứu kỹ hơn; còn Liệt xin lỗi nàng về thái độ khiếm nhã. Nàng trả lời chúc mừng Bennett, hứa với Darius sẽ tham dự, cám ơn Liệt nhưng không hứa gặp lại. Cho tới lúc này nàng mới nhìn rõ tâm mình kể từ khi nàng gặp Alex. Quả thật, nàng “lạnh” với ba bạn kia, tuồng như nàng là một người nam như họ; nhưng với Alex, nàng cảm nhận mình là một người nữ. Trong ba tuần lễ đầu khởi công, chàng và nàng gần như suốt ngày bên nhau; chàng chỉ dẫn cặn kẽ từng việc theo dõi nhà thầu và công nhân. Khi ra phi trường tiễn chàng về Mỹ, hai người từ biệt, ôm nhau theo lối Mỹ give me a hug, nhưng lần đầu tiên trong đời, nàng cảm thấy muốn được chàng ôm siết, ôm mãi. *** Sau lễ khánh thành bệnh xá mới, Trisha được ban giám đốc chính thức đề cử đi học khóa y tá, cũng một phần do Alex đề nghị. Milana bay về thăm mẹ. Bà nói : “Con nói sẽ dành cho mẹ một ngạc nhiên, là gì vậy?” “Con đã có đứa con gái”.Thấy mẹ biến sắc mặt, lộ vẻ kinh hoàng : “Cái gì? Có con với ai”? “Dạ, với Ông Trời, mới sinh ra đã lớn phồng thành trẻ mười một tuổi, như Phù Đổng Thiên Vương”. Nàng cười ròn-rã, đưa mẹ coi tấm hình nàng chụp với Trisha và bé Kanchan. Nàng kể lại đầu đuôi sự việc. Bà tươi tỉnh, mừng rỡ nói : “ Vậy con bảo lãnh nó qua Mỹ đi cho mẹ có cháu ngoại vui nhà”. “Bé phải ở với mẹ nó cho hết bậc trung học rồi con mới bảo lãnh cho nó qua học đại học, nhưng hè sang năm con sẽ cho nó qua du lịch thăm bà ngoại” Điện thọai reo, tiếng Alex vang lên ; “Chào Milana, em đã về Mỹ rồi hả? Một tháng nữa anh sẽ về Việt Nam làm việc cho công ty; nếu em muốn, anh sẽ dẫn em về thăm quê ngoại Vĩnh Long của em, về cù lao An Bình đó. Cho anh gởi lời hỏi thăm sức khỏe của bác gái” Nàng mừng rỡ : “Nếu có anh dẫn đi thì em yên tâm, em sẽ sửa soạn hành lý”. Mẹ ngạc nhiên hỏi Alex là ai mà lại biết cù lao An Bình. Nàng chậm rãi kể cho mẹ nghe mọi chuyện ở Nepal trong năm vừa qua. Nét mặt bà rạng rỡ tươi vui : “Mẹ nhớ thời thơ ấu nơi quê xưa, con về thăm quê thay mẹ thì mẹ cũng được an ủi rồi....Thế...con và anh ấy đến đâu rồi ? ” Nàng cười thầm, nghĩ “Bà cụ cứ lo mình ế chồng...nhưng vội vàng mà gặp phải anh chàngkhông hợp ý thì hỏng một đời, thà ở vậy còn hơn”. *** Milana về quê được ba tuần thì bà nhận được một bì thư Fedex chứa một xấp hình chụp Milana và Alex ở cù lao An Bình và nhiều nơi khác. Một bức thư viết tay của Milana : “Anh Alex đã dẫn con về quê ngoại Vĩnh Long, đã thăm viếng cù lao An Bình suốt ngày, thuê riêng một chiếc thuyền đi vòng quanh cù lao, con thích lắm. Khi về Mỹ, chúng con sẽ trình mẹ là chúng con đã quyết định đi đến hôn nhân, sang năm sẽ tổ chức đám cưới; anh nói con sẽ là phụ tá suốt đời của anh”. Bà áp bức thư lên ngực, hai dòng nước mắt hạnh phúc lăn trên gò má nhăn-nheo. Đào Ngọc Phong |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 13/Aug/2024 lúc 8:59am |
Số phậnTôi – con gái – cao một mét sáu mươi chín. Hắn – con trai – cao một mét năm mươi chín. Hai đứa gặp và thân nhau ngay ngày đầu tiên đặt chân đến giảng đường. Trong lớp, hắn học giỏi hơn tôi. Bước ra khỏi trường, tôi khôn lanh hơn hắn. Có lẽ, cả hai sinh ra để bổ sung cho nhau nên lúc nào tôi với hắn cũng có đôi và có cặp – Dĩ nhiên, vì tôi và hắn ở chung nhà trọ. Nhưng rõ ràng và dứt khoát, tôi với hắn không phải là tình nhân, bởi tôi vốn có ác cảm với câu hát “ầu ơ, ví dầu, chồng thấp vợ cao…” từ hồi còn bé. Giữa tôi và hắn là một tình bạn rất trong sáng. Bạn bè đâu dễ tin nên có ý nghi ngờ nhưng sau một thời gian ngắn ngủi dò xét và chứng kiến cách chúng tôi cư xử với nhau, tức khắc họ tin rằng tôi là người chân thật nhất thế giới, không hề gian dối một câu. Mãi cho đến khi tôi có người yêu hắn mới lủi thủi khăn gói đi “share” phòng với người bạn trai khác và khi tôi kết hôn thì hắn biến mất không thấy tăm hơi cho đến 30 năm sau, khi nhà tôi qua đời tôi mới nhận được tin hắn. Hắn vừa lập gia đình cách đây 2 năm. Tôi vừa ngạc nhiên, vừa mừng khi biết hắn có được cuộc tình đầu tiên ở tuổi 50. Ngày hắn gọi điện thoại báo tin sẽ một mình đến thăm tôi và ở lại 2 tuần tôi hơi chột dạ. Dĩ nhiên tôi và hắn vẫn là bạn thân như ngày còn cắp sách đến trường nhưng hai con của tôi sẽ nghĩ sao khi mẹ chúng – người đàn bà góa chồng – bỗng nhiên mang về nhà một người bạn trai. Phân vân mãi cuối cùng tôi cũng phải ngập ngừng hỏi ý bọn trẻ. Đứa con gái nheo mắt dễ dãi: – Có sao đâu mẹ. Còn thằng anh thì cười tủm tỉm: – Mà nếu có sao thì… tụi con mừng vì mẹ không còn cô độc. Tôi nghiêm mặt gạt ngang: – Mẹ với chú Hội là bạn học từ mấy mươi năm trước. Hai đứa không được nghĩ bậy. Gặp nhau ở phi trường tôi ngỡ ngàng khi nhìn thấy bộ dạng tiều tụy, xơ xác của hắn. Trời ạ! trông hắn không khác gì thuyền nhân tỵ nạn mấy mươi năm về trước. Thân hình nhỏ thó ngày xưa dường như càng teo lại với cái trán trống hoác lơ thơ vài cọng tóc. Khuôn mặt thuộc loại dễ nhìn của hắn như chảy xuống, chỉ có nụ cười vẫn còn nguyên nét hiền từ và phúc hậu. Nỗi thắc mắc vẫn chập chờn trong đầu tôi trên suốt đoạn đường trở về nhà “Vợ đâu mà hắn lại đi một mình? Người đàn bà đó có biết chồng mình đi đâu không? Và nếu có sự hiểu lầm nào xảy ra liệu bà ta có tin rằng tôi với hắn chỉ là bạn?”
Bảo Huân o O o – Ồ!… em trả giùm anh đi, khi về anh sẽ hoàn tiền lại cho em. -.. Anh mới quên có một lần mà sao em vội nghĩ anh cố ý? Em hơi quá đáng rồi đó nghe. -… – Từ trước đến giờ, có khi nào anh giựt tiền của em chưa? Là vợ chồng mà sao em tính toán quá vậy? -.. – Tùy em. Có gì thì đừng trách anh. Hắn buông điện thoại, mặt dài ra thảm não. – Chuyện gì thế? – Thì… ba cái chuyện trời ơi đất hỡi, chẳng đâu vào đâu để vợ chồng có cớ gây gổ cho vui nhà, vui cửa vậy mà. Tôi nhìn hắn và im lặng kịp thời để khỏi đặt câu hỏi “Vui mà sao mặt “You” nhăn nhó như khỉ ăn ớt thế?”. Kể từ hôm gặp nhau, tôi và hắn thường ngồi ôn lại những kỷ niệm vui buồn đáng nhớ của thời cắp sách đến trường. Trong câu chuyện chưa bao giờ hắn nhắc đến vợ và tôi cũng chưa có cơ hội để hỏi hắn một câu mà tôi rất muốn hỏi, “You” có hạnh phúc với cuộc hôn nhân muộn màng này không?. Hai hôm sau, nửa khuya ra bếp tìm nước uống, đi ngang phòng ngủ dành cho khách tôi nghe giọng hắn vang lên đầy giận dữ: – Chuyện dễ hiểu như vậy sao em còn thắc mắc. Vợ chồng với nhau, anh chỉ nhờ em ứng 2 trăm để trả tiền điện mà em còn sợ mất, huống chi công ty điện, họ có biết mình là ai đâu, không trả tiền thì dĩ nhiên phải cắt. Anh đã nói mà em không tin, bây giờ than thở, trách móc gì. -…. – Em chỉ muốn làm khó anh chứ em đã từng nói với anh, ma sợ em chứ em chẳng đời nào sợ ma. Ha! Ha! gan lì cỡ em ở trong bóng tối vài hôm nhằm nhò gì. Tôi quá đỗi ngạc nhiên với lối nói chanh chua và gai góc của hắn. Thì ra, hắn chẳng còn khù khờ như thuở xưa. Cái thuở mà tôi thường trợn mắt, cung tay với tụi bạn cùng lớp để bênh vực hắn. – Người vô trách nhiệm là em. Em vô trách nhiệm với chính bản thân của em, chỉ vì lúc nào em cũng bo bo giữ túi tiền. Anh có lấy của em một xu nào đâu mà em tính toán đến phát sợ. Từ ngày sống với anh, em chưa bao giờ bỏ ra một xu nhỏ. Bao nhiêu chi phí trong nhà anh lo hết… -… – Em nói sai rồi. Làm được bao nhiêu tiền em cất giấu để gửi về Việt Nam nên người keo kiệt là em chứ không phải anh. Thật ra, anh biết bổn phận làm chồng là phải lo cho vợ. Nhưng chỉ cần em biết điều một chút, chỉ cần em tỏ ý muốn góp phần với anh để cùng lo cho gia đình nhỏ của mình thì anh sẽ rất vui lòng mà nói với em “thôi em cứ giữ tiền để lo cho ba má và mua sắm những gì em thích” và anh nhất định không nhận một món tiền nào của em dù rất nhỏ. Nhưng chính sự vô tâm và ích kỷ của em đã cho anh nhìn thấy rõ bản chất con người của em. Mỗi lần anh nhờ em ghé chợ mua vài món cần dùng, bao giờ em cũng ra điều kiện “anh phải nhớ trả tiền lại cho em”. Trong khi những món anh cần mua đâu phải chỉ dành cho riêng anh. Quả thật, em muốn tiền bạc của em không bị sứt mẻ đồng cắc nào. Chưa kể đến việc cửa phòng của em lúc nào cũng khóa kín, không cho anh bước chân vào. Hành động tom góp của em khiến anh nghĩ rằng em đang chuẩn bị rời khỏi anh. -… – Anh không đổ tiếng oan cho em. Bởi vì em và anh, chúng ta đều biết rõ, mình đến với nhau không phải vì tình. Dù vậy, anh vẫn cố gắng thu ngắn cái khoảng cách giữa hai đứa. Anh muốn sống với em cho đến hết cuộc đời nhưng em thì không. Em tự ý làm mọi chuyện mà không hề quan tâm đến cảm giác của anh. Ngay cả việc em thường xuyên đi chơi đêm rồi ngủ lại ở nhà bạn và những chuyến du lịch nhiều ngày của em với ai anh không hề biết… Có tiếng chân hắn đi dần ra cửa, tôi chạy vội đến tủ lạnh kịp lúc hắn vừa bước ra. Tôi rút vai, nheo mắt với hắn ngụ ý “giấu đầu lòi đuôi rồi đấy nhé”. Hắn gấp máy, giọng xụi lơ: – Nghe hết rồi phải không? Tôi cười thích thú: – Ha! Ha nhờ vậy mới biết “You” khôn lanh hơn xưa nhiều. – Nhưng với vợ thì mãi mãi tôi vẫn là một thằng lù khù. Giọng nói và ánh mắt đầy vẻ cam chịu của hắn khiến tôi nao lòng. – Thôi ráng ngủ một giấc thật ngon. Chuyện ngày mai để ngày mai tính. o O o – Tôi gặp Nhan trong một lần theo bạn về Việt Nam. Những lần đi chơi chung nhóm, Nhan luôn là người chở tôi bằng xe gắn máy. Thật ra, tôi cũng chẳng để ý đến Nhan vì chưa bao giờ tôi có ý định về Việt Nam cưới vợ. Nhưng khi trở về Mỹ, Nhan nhiều lần gọi điện thoại than thở, vì tôi mà Nhan bị bạn bè cười chế giễu “con Nhan bị thằng bồ Việt kiều đá cho một phát đau điếng”. Tôi hoảng hốt phân bua “Nhưng đâu có bao giờ tôi tự nhận là bồ của Nhan”. “Em biết nhưng cho dù đó là sự lầm lẫn đi nữa em cũng cảm thấy rất xấu hổ nên phải trốn tránh mọi người. Có lẽ mặc cảm này sẽ đeo đẳng em cho đến hết cuộc đời”. Tự dưng, tôi cảm thấy mình có trách nhiệm với tai tiếng ác nghiệt mà Nhan phải mang lấy trong một xã hội còn nặng thành kiến nên có một lần tôi thẳng thắn đặt vấn đề “Tôi muốn về bên đó làm đám cưới với Nhan, Nhan có đồng ý không?”…. Tôi nóng nảy ngắt lời: – Và cô ta im lặng không trả lời? Ánh mắt xa xăm của hắn đột nhiên vụt sáng dưới đôi mày nhíu khẽ: – Sao “You” biết? – Chỉ có mình “You” là không biết chứ ai mà chẳng đọc được ý nghĩ của cô ta. Cô biết “You” đã sa vào bẫy nên cứ làm ra vẻ bất cần để “You” tin là cô ta không có ý đồ. Đôi vai hắn như thõng xuống. Tiếng thở dài của hắn dù rất nhẹ tôi vẫn cảm nhận được nỗi buồn sâu sắc trong đó. Tự dưng tôi thở dài theo hắn. – Thì ra “You” cưới vợ chỉ vì trách nhiệm chứ không phải vì tình. Cô ta có mục đích nên cũng chẳng thiệt thòi gì, chỉ tội nghiệp cho “You”. – Số phận tôi là vậy mà. “You” không nhớ có lần tôi và “You” cùng thằng Khan đi xem bói à. Ai cũng tình duyên êm đẹp chỉ có tôi là đường tình trắc trở, số canh cô mồ quả nên dù có vợ cũng rất cô độc. Hồi đó tôi không tin nhưng càng ngày càng thấy đúng. – Bây giờ “You” tính sao? – Sao nữa! số phận của tôi mà. Chữ nợ lớn hơn chữ duyên nên phải trả cho đến hết đời. – Đồ điên! thời đại này là thời đại nào mà còn tin nhảm nhí. “You” có thể hy sinh tất cả cho một tình yêu chân thật, nhưng nếu người ta dùng chữ nợ để trói buộc “You” với mục đích lợi dụng thì đừng phí cuộc đời với kẻ không có trái tim. – Nhưng dù sao tôi cũng còn trách nhiệm. Tôi muốn hét to vào mặt hắn, “You” đúng là thằng khùng khi đeo riết bên mình hai chữ trách nhiệm, thứ trách nhiệm đặt không đúng chỗ. Nhưng hơn ai hết tôi hiểu rằng không ai có thể thay đổi được ý nghĩ của người khác. Ngày xưa, mỗi khi hắn than thở: – Tôi lù khù nên đi đâu cũng bị ăn hiếp. Tôi ân cần an ủi: – “You” không nghe người ta nói, lù khù có ông Cù độ mạng sao. Đừng lo, sau này “You” sẽ được vợ bao bọc, chở che. Chắc thời đại a còng này ông Cù không còn nữa nên chẳng có ai độ mạng cho hắn. Và như thế hắn sẽ khổ cho đến chết vì cái trách nhiệm lãng xẹt mà hắn đã khờ khạo kê vai gánh lấy. Ngân Bình |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 195 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |