![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Tâm Tình | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 72 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
|||
CON HẠC TRẮNG
Bạn có bao giờ ngắm kỹ một con hạc trắng chưa? Nó trông thật mảnh Chúng tôi mỗi buổi sáng dắt theo con chó đi bộ, vừa đi vừa trò chuyện. Tôi bất giác hỏi: - Sao con người không giống cây cỏ, vào mùa đông héo, úa, rụng, đến xuân, hạ lại hồi sinh nhỉ? Anh tôi cười, nói: - Cứ giữ mãi được Xuân, Hạ trong lòng mình là tốt rồi. Ở tuổi già, không có phương tiện di chuyển, bị trở ngại trong giao tiếp đã làm một số người sống một cuộc sống tẻ nhạt, từ tẻ nhạt đưa tới trầm cảm, khép kín. Bác Sĩ Ornish, tác giả cuốn sách Love &Survival, nói rõ: Tách lìa tình thân gia đình và bạn bè là đầu mối cho mọi thứ bệnh từ ung thư, bệnh tim đến ung nhọt và nhiễm độc. Tình thương và tinh thần lạc quan là gốc rễ làm cho chúng ta bệnh hay khỏe. Ba mươi năm trước mà nghe ai nói cô đơn sinh ra các chứng bệnh thì người ta sẽ chỉ cười nhẹ.. Nhưng bây giờ điều này đã được nhiều bác sĩ công nhận là đúng. Những buổi tĩnh tâm chung, có cầu nguyện, có tịnh niệm (tùy theo tôn giáo của mỗi người) chia sẻ những buồn vui, lo lắng của mình cùng người khác cũng giúp khai thông được những tắc nghẽn của tim mạch như là ăn những thức ăn rau, đậu lành mạnh vậy. Nếu không nói ra được những gì dồn nén bên trong thì chính là tự mình làm khổ mình. Khi nói ra, hay viết ra được những khổ tâm của mình thì hệ thống đề kháng được tăng cường, ít phải uống thuốc. Theo Bác Sĩ Ornish, khi bị căng thẳng cơ thể sẽ tiết ra một hóa chất làm cho mọi sinh hoạt ứ đọng, ăn không ngon, đầu không suy nghĩ, mạch máu trì trệ, mất sức đề kháng, dễ cảm cúm. Nếu bạn không mở tâm ra cho người khác thì bác sĩ bắt buộc phải mở tim bạn ra thôi!!! Tuổi như thế nào thì gọi là già, chúng ta biết khi một người qua đời ở tuổi 60 thì được gọi là 'hưởng thọ'. Vậy sau tuổi 60 mỗi ngày ta sống là một “bonus”, phần thưởng của Trời cho. Chúng ta nên sống thế nào với những ngày 'phần thưởng' này. Lấy thí dụ một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chỗ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh.Trong những lời Phật dạy có câu: Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình. Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng... Chắc trong chúng ta không ai muốn rơi vào hoàn cảnh này. Gặp gỡ bè bạn thường xuyên trong những sinh hoạt thể thao là điều tốt lành nhất cho thể lý. Ði tập thể thao như nhẩy nhẹ theo nhạc, tắm hơi, bơi lội, tennis v.v... đã giúp cho người lớn tuổi giữ được thăng bằng, ít ngã, và nếu có bệnh, uống thuốc sẽ công hiệu hơn, mau lành hơn. Gặp bạn, nói được ra những điều phiền muộn cho nhau nghe, ngồi tĩnh tâm, đến nhà thờ, chùa cầu nguyện giúp được làm chậm lại sự phát triển của bệnh. Bác Sĩ Jeff Levin giáo sư đại học North Carolina khám phá ra từ hàng trăm bệnh nhân, nếu người nào thường xuyên đến nhà nguyện họ có áp suất máu thấp hơn những người không đến nhà nguyện, ông bỏ ra hàng đêm và nhiều cuối tuần để theo dõi, tìm hiểu những kết quả cụ thể của "Tín ngưỡng và sức khỏe "! Cuốn sách ông phát hành gần đây nhất có tên là God, Faith and Health. Trong đó ông cho biết những người có tín ngưỡng khỏe mạnh hơn, lành bệnh chóng hơn, ít bị nhồi máu cơ tim, gặp sự thăng trầm trong đời sống họ biết cách đối diện, họ luôn luôn lạc quan. Lạc quan là một cẩm nang mà chúng ta nên luôn luôn mang theo bên mình. Ðừng bao giờ nói, hay nghĩ là "Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nữa" hoặc "Tôi vụng về, ít học, chẳng làm gì được". Tôi xin kể câu chuyện Hai con ngựa của thầy phó tế George A.Haloulakos. Ðứng bên chúng, bạn chợt nghe có tiếng chuông rung, phát ra từ cái đai nhỏ vòng quanh cổ con ngựa nhỏ hơn, chắc là một con cái. Tiếng chuông báo cho con bạn mù của nó, biết là nó đang ở đâu mà bước theo. Quan sát kỹ một chút bạn sẽ thấy cái cách con ngựa sáng chăm sóc con ngựa mù, bạn nó, chu đáo như thế nào. Con ngựa mù lắng nghe tiếng leng keng mà theo bạn, nó bước chậm rãi và tin rằng bạn nó không để nó bị lạc. Cũng giống như chủ nhân của đôi ngựa có lòng nhân từ, Thượng đế không bao giờ vứt bỏ bạn vì bạn kiếm khuyết, hoạn nạn hay gặp khó khăn. Người luôn luôn đem đến cho chúng ta những người bạn khi chúng ta cần được giúp đỡ. Ðôi khi chúng ta là con ngựa mù, được dẫn dắt bởi tiếng chuông mầu nhiệm mà Thượng đế đã nhờ ai đó rung lên cho chúng ta. Những khi khác chúng ta là con ngựa dẫn đường, giúp kẻ khác nhìn thấy. Bạn hiền là như vậy. Không phải lúc nào ta cũng nhìn thấy họ, nhưng họ thì luôn hiện diện đâu đó. Hãy lắng nghe tiếng chuông của nhau. Hãy tử tế hết sức mình, bởi vì có một người mà bạn gặp trên đời, biết đâu cũng đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó họ phải phấn đấu để vượt qua. Không gì hơn là tuổi già nương dựa vào nhau trong tình bạn. Luôn luôn nghĩ bao giờ mình cũng có cái cho đi mà người khác dùng được. Tính hài hước, làm cho người khác cười cùng với mình cũng là những liều thuốc bổ. Thi sĩ Maya Angelou vào sinh nhật thứ 77, trong chương trình phỏng vấn của Oprah, hỏi về sự thay đổi vóc dáng của tuổi già, bà nói: "Vô số chuyện xẩy tới từng ngày... Cứ nhìn vào bộ ngực của tôi xem. Có vẻ như hai chị em nó đang tranh đua xem đứa nào chạy xuống eo trước". Khán giả nghe bà, cười chẩy cả nước mắt. Những vấn đề chính ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn (qua tinh thần) là: +Sự cảm thông giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà với các cháu. +Tinh thần chấp nhận và lạc quan . +Nghĩ đến những điều vui nhỏ mỗi ngày. +Tham gia những sinh hoạt nào phù hợp với sức khỏe. +Làm việc thiện nguyện. Sinh, bệnh, lão, tử. Con đường đó ai cũng phải đi qua. Nhưng đi như thế nào thì hầu như 80% chính mình là người lựa chọn. +Nhóm bạn: Ðọc sách, kể chuyện, đánh cờ, chơi bài (không phải ăn thua). + Hãy thỉnh thoảng đọc lên thành tiếng câu ngạn ngữ này: 'Một nét mặt vui vẻ mang hạnh phúc đến cho trái tim và một tin vui mang sức khỏe cho xương cốt.' Chúc tất cả anh chị em luôn cảm thấy vui khoẻ và trọn vẹn an lành trong tâm hồn ! Khuyết danh |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Hãy chúc nhau “Hapy New Year” - Đừng Chúc "Sống Lâu Trăm Tuổi"![]()
Cuối
năm tôi nhận được email tâm sự dài dòng tuổi già của một anh bạn sang
Mỹ định cư gần ba năm. Trái ngược những lạc quan vui tươi khi đặt chân
đến xứ sở văn minh như một giấc mơ ngày nào thì giờ đây là những lo
toan, phiền não về những chuyện con cái, nhớ quê và hụt hẫng nền văn hóa
khác nhau khiến trong nhà lúc nào cũng như cái chợ ồn ào, lại có lúc
vắng lạnh như chùa bà đanh. Anh bảo tôi viết gì đó đi, tuổi già chẳng
hạn cho báo Trẻ. Trẻ đăng chuyện tuổi già thật tréo ngoe. Tuy rằng anh
em báo Trẻ ai cũng già... đầu nhưng tâm hồn còn trẻ lắm.
Nội
dung trong thư của anh đọc xong tôi càng thấm thía tuổi già (mặc dầu
tôi chỉ già... đầu) nhất là hết năm ngồi tính sổ nợ đời rồi lại nghĩ đến
năm mới. Anh bảo năm mới đối với tuổi trẻ là thêm tuổi mới, với giới
trung niên sồn sồn lại già thêm một tuổi, còn đối với lớp thất thập cổ
lai hy, năm mới lại thêm tuổi thưởng. Sống thêm được một năm là mừng một
năm. Lần lượt rồi ai cũng xếp hàng đi tới cái lỗ sâu trong lòng đất. Và
khi lúc tuổi đời ngày một thêm chồng chất, nỗi niềm người già sống ở xứ
người luôn là chuyện muôn thuở. Càng đến ngày gần đất xa trời người ta
lại càng muốn trở về quê hương nằm cạnh ông bà. Nếu không, dù con đàn
cháu đống, rất có thể vẫn chỉ vợ chồng già ở với nhau. Buồn hơn nữa,
người ra đi sau - là người khổ đau nhất - phải sống một mình hoặc vào
nhà dưỡng lão. Tình cảnh ấy dường như đã là quy luật sinh tử của kiếp
người không phân biệt màu da, nguồn cội. Đó là cái chuyện sau này, nhưng
chuyện hiện giờ làm anh buồn phiền là chuyện con cái.
Anh
tự trách “cha làm thầy giáo mà con đốt sách”, hiếu lễ đâu chẳng thấy mà
thấy con cái thay đổi cách sống, cách nhìn, cãi lý tay đôi với cha mẹ.
Mới có ba năm mà con cái tiếp cận hoàn toàn văn hóa phương Tây, trong
khi mình lại giữ khư khư nền văn hóa phương Đông trong các cách nhìn
khác nhau về gia đình. Khó có thể dung hòa hai tư tưởng. “Đôi khi tôi
muốn đặt mình vào vị trí con cái để tìm hiểu nguyên nhân sự thay đổi lối
suy nghĩ nhanh chóng này hay là mình già rồi, chậm chạp không kịp tiến
hóa theo trào lưu xã hội với nhịp sống nhanh”.
Anh
gởi cho tôi đoạn viết của Andrew Lam - một biên tập viên của NAM (New
American Media) và cũng là tác giả cuốn Perfume Dreams: Reflection on
the Vietnamese Diaspora (Những Giấc Mơ Hương: Hoài Niệm) với mong muốn
được chia sẻ suy nghĩ gần giống nhau về tuổi xế chiều của những người
già có đầu óc chậm chạp như anh. “Ở xứ Mỹ này, tuổi già đúng là tuổi lỡ
thời; cả hai đều không được người ta kính nể hay cho một chút gì quan
trọng. Ở quê nhà, các ông già bà lão thì được nể vì nhất, vì họ là những
người chia sẻ túi khôn cùng kinh nghiệm cho những người đi sau. Điều đó
không có ở đây. Không ai muốn nghe tiếng nói của người già. Họ cảm thấy
bị cô lập ngoài vòng ranh giới của con cháu Mỹ hóa của họ. Chúng cười
vang về nhiều thứ mà tôi không hoàn toàn hiểu được. Mỹ đúng là một quốc
gia của giới trẻ hơn là giới già như tôi”.
Ngược
lại, cạnh nhà tôi là một người Mỹ hàng xóm. Anh ta làm cho một công ty
điện và thường đi Việt Nam công tác chuyển giao kỹ thuật điện gió. Có
lần nói chuyện qua hàng rào, anh tỏ ra ngưỡng mộ văn hóa coi trọng người
già ở Việt Nam và cũng lo ngại trước ảnh hưởng của phương Tây thâm nhập
vào lối sống và suy nghĩ của giới trẻ. Anh nói: “Đó chỉ là cách nhìn
nhận chủ quan của tôi thôi.
Tuy
nhiên có một điều thấy rõ, ở nông thôn, giới trẻ trọng người già hơn so
với người sống ở thành phố. Cuộc sống chung cùng nhiều thế hệ, tam đại
đồng đường, trong nhà còn giữ truyền thống tôn ti. Con cháu hiểu được
bổn phận, sự vâng lời, và thái độ biết ơn từ các bậc sinh thành. Riêng
giới trẻ thành phố có nhiều khác biệt, có những dấu hiệu đang thay đổi
khi các truyền thống gia đình suy yếu còn văn hóa thanh niên thì trở nên
mạnh hơn. Tôi cho rằng, một trong các giá trị lớn của văn hóa Việt Nam
là gia đình và các mối liên kết chặt chẽ giữa các thế hệ cũng như cộng
đồng chòm xóm láng giềng. Có lẽ giới trẻ bị ảnh hưởng từ Internet, phim
ảnh về lối sống phương Tây. Nhiều người già phải tự đi bươn chải kiếm
sống, có khi cô độc trong nhà chỉ với hai vợ chồng già, con cái ít ngó
ngàng đến cha mẹ. Tôi chợt tự hỏi rồi đây người già ở xứ sở này sẽ ra
sao? Làm thế nào để các giá trị gia đình đó tiếp tục được truyền lại cho
thế hệ sau? Xã hội sẽ chăm sóc như thế nào cho người già không còn giữ
nhiều liên hệ với con cháu và sống khác với con cháu?”.
Tôi
vẫn thường nghe nhiều người nói rằng, Mỹ là thiên đường tuổi trẻ, là
địa ngục giới già. Xứ này có tất cả những sản phẩm dành cho thanh thiếu
nhi: đồ chơi, phim ảnh, máy chơi điện tử thính thị, khu giải trí có chủ
đề. Còn đối với người già, thì chỉ có sự cô lập và nỗi cô đơn. Căn bản
nếp sống của người Việt dựa vào gia đình, cộng đồng, và khi ta mất những
cái đó, ta mất đi một phần lớn cái tôi. Và có lẽ nhiều người cũng biết,
xã hội Hoa Kỳ ít hướng tới gia đình hơn xã hội Việt Nam. Con cái ở xứ
này được khuyến khích sống độc lập, rời khỏi nhà bố mẹ mình sau khi tốt
nghiệp trung học, để đi học đại học, kết hôn, hoặc tách ra sống riêng.
Nếu thanh niên Mỹ mà không làm vậy thì họ sẽ bị coi là “khác người”.
Thực sự thì, trong nền văn hóa coi trọng giới trẻ của Mỹ, thanh niên ít
nhiều đều chịu áp lực phải sống tự lập, tách rời cha mẹ và lựa chọn
hướng đi riêng. Trái ngược với xã hội của người Việt mình, trong xã hội
Mỹ rất hiếm cảnh “nhị đại hoặc tam đại đồng đường”. Hệ quả là, khi cha
mẹ trở nên già cả ốm yếu, họ phải tự lo lấy thân mình.
Tuy
rằng ở đây có các hệ thống xã hội giúp đỡ người dân khi họ cao tuổi,
như là hệ thống hưu trí, an sinh xã hội, Medicare, và các phúc lợi khác.
Tuy nhiên những thứ như thế này thường không đáp ứng được nhu cầu của
cộng đồng người già. Những người con trưởng thành thường chuyển tới các
thành phố khác, cách xa cha mẹ, nên rất khó để họ có thể giữ liên lạc
gần gũi với cha mẹ già của mình và giúp đỡ họ lúc khó khăn. Rất phổ biến
tình trạng các gia đình chỉ gặp nhau một hoặc hai lần trong năm vào các
dịp đặc biệt như Lễ Tạ ơn, Giáng sinh, hay New Year. Thực tế này tạo ra
một bất lợi lớn cho các bậc cha mẹ cao niên. Họ không được con cái đỡ
đần hay ở bên quan tâm hỏi han. Họ cũng thường xuyên không được thấy các
cháu của mình. Như chúng ta đều biết, có cháu chắt trong nhà hay gần
nhà là niềm vui lớn, nhưng nhiều người Mỹ cao tuổi không được hưởng niềm
vui đó. Kết quả là nhiều bậc cha mẹ già cả bị bỏ lại một mình và phải
tự chăm sóc bản thân, nhất là khi chồng hay vợ của họ bị ốm hoặc qua
đời.
Đương
nhiên, vẫn có nhiều người con trưởng thành cố gắng giúp đỡ và quan tâm
đến cha mẹ cao tuổi, nhưng sự chăm sóc đó hiếm khi đủ đầy để có thể đáp
ứng hết nhu cầu của cha mẹ họ và làm vơi đi nỗi cô đơn trong mỗi bậc
sinh thành. Xứ này có những nhà dưỡng lão được lập ra để chăm sóc những
ai không còn khả năng tự chăm sóc bản thân. Bị gửi vào trại dưỡng lão là
một cơn ác mộng đối với nhiều người già. Mặc dù vẫn được con cái thăm
nom, đa phần thời gian của họ là nằm quạnh hiu trên giường.
Anh
bạn tôi cũng chợt nhớ rằng lâu rồi mình không gọi điện hỏi han bà mẹ
già còn ở quê nhà. Tuy rằng bên ấy còn số ít bà con họ hàng nhưng hiện
giờ ai cũng lo toan cho cuộc sống, thời gian thăm viếng thưa dần. Anh
nói xót xa: “Bản thân mình cũng không làm tròn trách nhiệm người con,
làm sao dạy bảo con cái nó nghe lời mình. Chúng có cuộc sống riêng, mình
có cuộc sống của mình theo thời gian sinh hoạt của hội cao niên. Mỗi
ngày đến hội vui chơi, nói chuyện cùng những người già, nhưng sau đó khi
trở về căn nhà quạnh quẽ là nỗi buồn lại đến. Chẳng lẽ cuộc sống của
cha mẹ không dung hòa với cuộc sống của con cái được hay sao?”.
Câu hỏi của
anh bạn thật khó trả lời bởi lẽ mỗi nhà mỗi cảnh. Nhưng nếu nhìn ở khía cạnh
tích cực hơn như một đoạn viết của Andrew Lam. “Thỉnh thoảng vào buổi sáng khi
thức dậy, tôi lặng nhìn cây cối ngoài phố và tự hỏi tôi đang ở nơi nào. Đôi
lúc, tôi đi sang khu chung cư kế cận, nơi có một số mèo hoang, và cho chúng ăn
những thức ăn thừa. Khi tôi cất tiếng gọi, chúng nhận ra giọng nói của tôi và
đổ xô lại. Bây giờ, chúng là những niềm vui nhỏ của tôi. Đương nhiên những ngày
hạnh phúc nhất là những ngày con cháu đến thăm. Nhưng chúng cũng có đời sống
riêng, thỉnh thoảng chỉ đến chơi được một lúc rồi về. Và vào những buổi chiều
mùa đông, tôi ngồi nhìn những hàng cây trơ trụi lá, tâm hồn lạc lõng. Tôi nghĩ
về cái thế giới mà tôi đã biết, nay đã bay xa, như làn khói hương trầm. Tôi
nghĩ đến cố hương, đến những mùa lễ Tết ở Saigon, đến những đám cưới, đám hỏi,
đến những chuyến du lịch, những lần tíu tít họp mặt gia đình, ai ai cũng có
mặt, con nít chạy quanh, người lớn ngồi nói chuyện đời chuyện gẫu, đàn bà con gái
quây quần chung lo việc bếp nước. Và tôi cảm thấy rất khao khát những ngày quá
khứ xa xưa”.
Vậy
thì hãy cố tìm những niềm vui nho nhỏ cho tuổi già, chẳng cần ưu tư cho
tương lai và cũng đừng cầu chúc năm mới sống lâu trăm tuổi mà nên
“Happy New Year” như người Mỹ chúc tụng nhau.
Trang Nguyên
|
||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
|||
|
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||
![]()
Nhìn chồng đang sắp xếp quần áo vào va li, bà Thành buồn rầu hỏi:
- Ông lại đi nữa à? Không buồn trả lời vợ, ông vẫn tiếp tục lẩm nhẩm đếm, kiểm điểm các món đồ đem theo: - Quần dài, áo sơ mi, áo thun bỏ ngoài, đồ lót, dao cạo râu này, thêm hai bộ đồ veste nữa đủ rồi. À chưa, còn thiếu hai đôi giầy nữa, ừ, có lẽ phải hai đôi mới đủ, phòng khi trời mưa… - Phải đem theo thuốc là quan trọng nhất, lại không thấy ông nói tới. Bà nhắc. - Tôi không quên đâu, tôi đã bỏ vào túi sách tay rồi, bà đừng lo. Ông nhìn bà có vẻ áy náy, xong mới đủng đỉnh nói: - Bà đã biết rồi còn hỏi. - Không, tôi chỉ muốn biết kỳ này ông đi bao lâu? - Biết để làm gì? Ông sẵng giọng hỏi. - Ô hay! Bà nói giọng bực mình, vợ chồng lấy nhau đã hơn bốn mươi năm, ông đi bao lâu chẳng lẽ tôi không có quyền hỏi sao? Thế là ông nổi nóng gắt lên: - Tôi ở với bà bấy lâu đủ rồi, sắp cuối đời phải để cho tôi có tự do một chút chớ, tôi đâu phải là tù nhân của bà mà mỗi khi đi đâu phải xin phép, trình báo? Thấy chồng ăn nói bạc bẽo, bà Thanh tức giận ứa nước mắt: - Thế ra ông coi cuộc sống chung với tôi là tù đầy à? Giọng bà nghẹn lại vì tức lẫn tủi thân. Ông quay lại nhìn vợ, bà đang gục đầu vào hai cánh tay mà khóc, vai rung lên trong những tiếng nức nở, mái tóc muối tiêu và hai cánh tay trần đầy những vết tàn nhang của tuổi già trông xấu xí quá chừng. Ông chán nản muốn mặc kệ nhưng rồi lại không nỡ, vả lại ông cũng không muốn gây trong lúc này thêm rắc rối, ông chỉ muốn mọi việc đều suôi chèo mát mái để ông có thể ra đi trong êm đẹp, vì vậy ông nén lòng dịu giọng dỗ dành: - Không phải ý tôi muốn nói vậy đâu. Đừng buồn, chẳng qua vì hôm nay trong người tôi không được khoẻ nên cáu kỉnh đôi chút, bà đừng để tâm nhé? Thấy chồng xuống nước, bà Thành cũng thôi không giận nữa, bà lau nước mắt nói: - Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi. - Ừ nhỉ, nhưng tôi cũng không biết chắc là bao lâu. Có thể là một, hai tháng, mà cũng có thể lâu hơn, đi thăm người bệnh mà, có ai biết trước chừng nào họ sẽ khỏi? Ở nhà bà có buồn thì đến các con mà chơi. - Thế bao giờ ông đi? - Thứ bảy, hôm nay thứ năm rồi, còn hai hôm nữa. Nghĩ ngợi một lúc, bà mới ngập ngừng hỏi: - Ông có thể hoãn đến tuần sau được không? - Để làm gì vậy? - Để đưa tôi đi khám bệnh. Dạo này bụng tôi cứ hơi đau đau làm sao ấy, có một chỗ ấn vào thấy hơi cưng cứng. - Ối dào! cái bệnh đau bụng của bà là kinh niên chứ đâu phải mới đây. Thứ hai bà đến bác sĩ mà khám, mình có phiếu y tế, để làm gì kia chứ? Vé máy bay tôi đã mua rồi, còn có hai hôm nũa, đổi đâu có kịp? - Thôi được, để tôi chờ ông vậy. Ông đi mau mau rồi về, cho tôi gởi lời thăm anh chị Hai ở bển, chúc anh ấy mau lành bệnh. - Ừ, tôi sẽ nhắn. Ông chép miệng, nhà chỉ có hai anh em, anh ấy lớn tuổi rồi lại vừa mới bị mổ xong, lẽ nào tôi không về thăm, rủi có chuyện gì lại ân hận. Thật ra đó chỉ là một cái cớ, vì nói nào cho ngay, ông cũng chẳng tha thiết gì lắm về thăm người anh mà ông biết chắc không đau nặng tí nào, mổ ruột dư mà, có ai chết bao giờ đâu? Cái cớ chính là Bích Liên, một cô gái trẻ trung xinh đẹp ông được dịp quen biết rồi bắt bồ lần về Việt Nam cách đây đã hơn ba năm. Kỳ đó, ông có rủ bà cùng đi du lịch một vòng cho biết các danh lam thắng cảnh của nước nhà, nhưng giờ chót bà bị kẹt không đi được vì đứa con gái của ông bà sanh con đầu lòng đúng một ngày trước khi hai ông bà lên đường. Ở bên Mỹ, sanh con chỉ được nằm bệnh viện có 24 giờ rồi phải về nhà, người mẹ rất cần có người giúp đỡ, ít nhất trong hai tuần đầu. Ông bà Thành là đôi vợ chồng già, ông sáu mươi sáu tuổi, về hưu trí đã được ba năm, bà sáu mươi hai và cũng đã nghỉ việc từ năm, sáu năm nay. Hai vợ chồng tuy không giàu có nhưng cũng thuộc loại khá giả, họ có được ba người con, hai trai một gái đều đã thành gia thất hết, hai ông bà đều về hưu cả nên rảnh rang lắm. Hồi trước, khi còn ở trong nước, ông làm ở ngân hàng. Khoa học càng ngày càng tiến bộ, ngành computer mới phát triển và phổ biến khắp thế giới, ngân hàng cử ông đi Mỹ để nghiên cứu và học hỏi. Thế rồi xảy ra biến cố 1975, ông ở lại luôn, ít lâu sau, ông gặp bà, hai người yêu nhau rồi kết hôn. Hai vợ chồng cần cù chăm chỉ làm ăn cho đến khi con cái thành đạt cả, rồi mới về hưu. Cuộc sống xem ra cũng phong lưu, hạnh phúc, cho tới khi xảy ra một biến cố mới là lần về Sài Gòn kỳ đó, theo bạn bè đi ăn chơi, ông đã gặp Bích Liên tại một vũ trường. Bích Liên hôm đó trông thật là hấp dẫn, nàng mặc một cái áo hở cổ màu đỏ bó sát lấy thân hình khêu gợi, ông nhìn mà mê mẩn. Tối hôm đó, trong lúc khiêu vũ với nàng, ông đã hôn trộm nàng một cái mà không bị phản đối. Thế rồi chỉ hai tuần lễ sau đó, họ đã hẹn hò gặp gỡ nhiều lần rồi thề non hẹn biển. Bắt đầu từ đó, ông cứ nay tìm cớ này, mai tìm cớ khác đi đi về về Việt Nam mỗi năm ít ra hai lần, có năm tới ba, bốn lần. Ông chợt nhận thấy cuộc sống trước đây sao vô vị quá, tiền bạc dư giả để làm gì chứ? nếu cứ phải sống với bà vợ già bèo nhèo như cái bánh tráng nhúng nước, nhan sắc thì tàn tạ như một bông hoa héo. Nghĩ đến Bích Liên đẹp mơn mởn như một trái cấm, lòng ông lại rộn lên một niềm sung sướng, ông khẽ huýt sáo một bản nhạc yêu đời. Bà Thành nhìn chồng với một vẻ tức tối xong không nói gì. Làm bạn với ông đã hơn bốn mươi năm, bà còn lạ gì tánh nết chồng, khi thấy ông đột nhiên thay đổi, để ý đến cách ăn mặc, làm dáng chải chuốt, mái tóc muối tiêu của ông được nhuộm thành đen nhánh, lại năng đi về Việt Nam nhiều hơn đi chợ thì bà hiểu liền là ông đã có nhân tình, mà nhân tình của ông hẳn là đẹp và trẻ hơn vợ rất nhiều. Tình cảnh này xảy ra nhiều lắm, như một căn bệnh truyền nhiễm của những ông già mất nết và mù quáng. Ôi ông Thành! ông thật là tội nghiệp, gần bảy mươi tuổi rồi, tóc tuy nhuộm đen, nhưng mí mắt đã sụp, mặt và cổ đầy nếp nhăn, bụng đã xệ… Đã thế lại còn bệnh tật, huyết áp cao, hay nhức đầu chóng mặt, làm việc gì hơi nặng một tí, thậm chí có khi chỉ đi bộ một quãng ngắn thôi cũng đủ làm ông thở phì phò như kéo bễ, thế mà lúc nào cũng làm ra bộ ta đây trẻ trung, trông thật là buồn cười. Cái cô nhân tình của ông, bà nghe phong phanh chỉ mới hơn hai mươi tuổi, còn trẻ hơn con gái út của ông. Ông tưởng rằng cô ta cảm động vì tình yêu của ông chăng? rằng cô ta thích thú cái thân hình nhão nhẹt của ông chăng? Thật là ngu ngốc, cô ta bắt bồ với ông chỉ vì ông là một Việt kiều lắm tiền nhưng dại gái, dễ lợi dụng. Cô ta có thể bòn rút tiền bạc của ông để nuôi bồ trẻ, hiện tượng này phổ thông tới mức người trong nước, ngoài nước ai cũng biết chỉ trừ những ông già trong cuộc. Có thể họ cũng biết nhưng làm ngơ, họ sẵn lòng đánh đổi tiền bạc để hưởng lấy thân xác trẻ trung, dù chỉ một thời gian ngắn, một bên lợi dụng tiền bạc, một bên lợi dụng thân xác, đúng là một cuộc mua bán mà hai bên đều có lợi. Có ai tin là có tình yêu thật sự giữa một lão già gần đất xa trời và một cô gái đào tơ mơn mởn? hay chỉ có những người tự dối mình. Ông Thành! ông tưởng rằng chỉ có mình tôi già đi sao? ông nhầm rồi đó, ông cũng già đi cùng với tôi, ông thử nhìn ông trong gương xem, ông cũng đâu còn như xưa? Nhưng tình tôi yêu ông vẫn không thay đổi, mà còn tăng thêm, vì bây giờ ngoài tình, còn thêm nghĩa. Tôi có thể hầu hạ ông những khi trái nắng trở trời, mà điều này xảy ra thường lắm với cái tuổi của ông. Tôi biết tôi phải nấu nướng thế nào cho vừa miệng ông, lại không làm tăng huyết áp, tôi có thể chịu đựng được những gắt gỏng vô lý của ông. Tôi vẫn trung thành với ông mặc dù biết ông phản bộI, không phải bây giờ, mà ngay cả lúc tôi còn trẻ. Tôi vẫn đi bên ông cho đến hết cuộc đời, cho dù có những lúc lên voi xuống chó. Liệu cô nhân tình của ông có làm được như tôi không? liệu cô ta có trung thành với ông không? liệu cô ta có còn yêu ông không? khi túi tiền của ông đã cạn. Ồ không! không bao giờ… cô ta chỉ yêu tiền, yêu bạc của ông thôi. Đừng ngốc nữa! tôi đau đớn không phải vì tiền bạc hao hụt ông đem cho gái, mà tôi đau đớn vì ông đã xem nhẹ tình vợ chồng của chúng ta trong hơn bốn mươi năm qua. Bà Thành thở dài ngồi xuống giường, biết chồng ngoại tình, nhưng bà không ngăn cản vì biết có ngăn cũng vô ích, cái thứ đàn ông mê gái thì còn kể gì tình nghĩa? Làm ngơ may ra có lúc họ còn hồi tâm nghĩ lại, làm tới dồn họ vào con đường cùng, có thể họ sẽ cạn tàu ráo máng, rồi đi đến đổ vỡ. Cái gì chứ tai tiếng thì bà sợ lắm, chót đời rồi ai còn nghĩ đến ly dị, để làm gì? Thôi thì cứ để cho ông ăn chơi dối già một thời gian, rồi ngựa lại quay về đường cũ, bà hy vọng thế. Nhưng mấy lúc này bà cảm thấy trong người mệt mỏi lắm, bụng lại cứ đau nhâm nhẩm, đôi khi bà đưa tay rờ thử thì rõ ràng thấy một cục tròn khá lớn. Hay là mình mắc bệnh ung thư? Bà lạnh toát người với ý nghĩ đã mắc phải căn bệnh ghê gớm đó, một căn bệnh nan y không thuốc nào chữa khỏi, hễ mắc phải là chết, mà cái chết sẽ đau đớn khủng khiếp vô cùng. Chính vì nỗi lo sợ đó mà bà không dám đi khám bệnh một mình, bà sợ không dám biết sự thật. Tuy bà cố làm ra vẻ bình thường, nhưng trong lòng lo lắng lắm, chưa bao giờ bà cần sự có mặt của chồng như lúc này, thế mà ông lại sắp sửa đi xa… Bà than thầm một mình, tôi không dám một mình đối diện với cái chết đâu, tôi đợi mình đấy, khi mình về mình sẽ đưa tôi đi. Mình hứa không? mình đừng đi lâu quá đấy nhé? Tôi sẽ không đi khám bác sĩ trong thời gian mình vắng nhà, mặc kệ tới đâu hay tới đó. Tôi sẽ phải làm thế nào khi nghe bác sĩ tuyên bố “ Bà bị ung thư, khối u đang phát triển, cần phải được cắt bỏ càng sớm càng tốt. ” Thế rồi chạy điện và chemo, những phương pháp trị liệu ghê rợn mà bà đã biết qua cách vở, báo chí, và trực tiếp qua những người đã mắc bệnh. Viễn ảnh đen tối đó làm bà rùng mình, mặc dù cố kềm chế nhưng những giọt nước mắt vẩn trào ra. Ông quay lại, bất chợt nhìn thấy thì nổi nóng quát lên: - Bà làm cái gì thế? Ai đời chồng đi vắng có ít lâu mà bà khóc lóc làm như trong nhà có người chết! Ôi câu nói mới tàn nhẫn làm sao, bà vừa định kể cho ông nghe về bệnh tật và những nỗi lo sợ của bà, nghe ông nói thế thì thôi ngay. Ông chỉ muốn yên thân và không muốn nghe những lời than vãn về bệnh tật cuả bà. Mỗi khi nghe bà than dạo này hơi bị sụt kí, ông vẫn thản nhiên không rời tờ báo, và nói cho qua chuyện: - Ôi dào! người ta còn phải mất tiền để làm cho sút cân, còn bà lại than phiền cái nỗi gì? Khi bà kêu đau bụng thì ông nói: - Chắc ăn phải đồ độc không tiêu nên đau bụng, để một hồi sẽ hết. Hoặc nói như hồi nãy: - Chứng đau bụng cuả bà là kinh niên, chứ có phải mới đây đâu? Khi bà than mất ngủ và hay vã mồ hôi đêm thì ông cáu kỉnh nói: - Sao mà bà than lắm thế? lúc nào cũng phải nghe bà than hết chuyện nọ đến chuyện kia, chán quá! Nói xong, ông đứng dậy bỏ ra phòng khách ngồi xem TV. Lần này cũng vậy, bảo sao bà còn mở miệng được nữa? Bà dụi mắt, cố gượng cười: - Tôi có khóc đâu, khói làm cay mắt đó chứ. Bà dụi tắt bếp than rồi mới nói tiếp, mẻ thịt nướng này xong rồi, ông chờ tôi rửa tay rồi đi ăn cơm. Món bún chả hôm nay, nước mắm tôi làm hơi nhạt để ông ăn cho khỏi lên máu. À ông nhớ đem thuốc tiêu chảy và thuốc dị ứng theo nhé! Ở bên đó, không biết ai nấu ăn cho ông? lỡ ăn phải cái gì lạ, đau bụng mà không có thuốc uống thì khổ. Ông nhìn vợ hơi cảm động, nhưng nỗi sung sướng sắp được gặp lại người tình trẻ trung lại làm cho ông quên tất cả, ông chỉ còn nhớ một điều là Bích Liên đang đợi ông, nàng sắp thuộc về ông như đã hứa. Lần này về, ông đem theo một số tiền khá lớn đủ để mua một căn nhà xinh xắn ở Vũng Tàu, nơi có gió biển trong lành, xa hẳn những bụi bặm của Sài Gòn. Căn nhà này sẽ là nơi nghỉ mát lý tưởng của ông mỗi khi về Việt Nam thăm nàng. Trời ơi! ba tháng… Phải, ông định tâm sẽ ở lại ít nhất ba tháng, có thể bốn, hoặc lâu hơn, sống với ngưới tình ở vùng biển xanh cát vàng này thần tiên biết bao nhiêu! Nghĩ tới đây, lòng ông lại thấy lòng háo hức không thể tả, ông có cảm tưởng như trẻ lại cả chục tuổi. Bích Liên ra đón ông ở phi trường với một vẻ nôn nóng lạ thường. Ông bước chân xuống bậc thang chót của máy bay, mới vào đến bên trong, nàng đã chạy tới ngả đầu vào vai ông nũng nịu: - Sao mãi tới giờ này anh mới về? em tưởng anh về vào dịp Tết cơ? - Còn có nhiều việc phải thu xếp. Ông đáp, và nheo cặp mắt ngắm nàng. - Thế anh có đem tiền về mua nhà cho em không? - Có chứ! chính vì vậy mà để em chờ lâu, vì anh còn phải đợi cho tới khi chương mục tiết kiệm đến hạn kỳ, mới rút ra được. Vừa nói, ông vừa quàng tay ôm ngang lưng nàng, bước vào bên trong. Bích Liên hôm nay trông thật khêu gợi trong bộ áo đầm may khéo, để lộ bộ ngực căng phồng, khuôn mặt được trang điểm kỹ lưỡng với quầng mắt vẽ xanh, và đôi môi tô son đỏ mọng. Chỉ nhìn nàng đã thấy toát ra sự trẻ trung quyến rũ, ông nuốt nước bọt và ghé sát vào tai nàng thì thầm: - Cho anh hôn một cái nhé? Vẫn không dừng bước, nàng quay đầu tránh cái hôn của ông và nói: - Thong thả đã, ở đây đông người… À thế anh nói ra sao với chị ấy? - Cần gì phải nói. - Thế làm sao anh lấy ra được một số tiền lớn như thế? - Anh là chủ gia đình, anh làm ra tiền, anh tiêu bao nhiêu mà chẳng được? - Liệu chị ấy có nghi ngờ gì không? - Anh cũng không biết, nhưng nếu có cũng chẳng việc gì phải sợ. - Em ngại lắm, chỉ sợ bà ấy về đây làm ầm ỹ lên, xấu hổ chết. - Không có chuyện đó đâu, bà ấy khôn ngoan thì nên im lặng, làm ầm ỹ anh ly dị liền, con cái lớn khôn cả rồi, có gì ràng buộc nữa đâu? Ly dị càng dễ xử cho anh. - Rồi sau đó anh định thế nào ? - Chúng ta sẽ làm dám cưới và anh sẽ về đây ở hẳn với em . Bích Liên im lặng, nàng không thể nói ra những ý nghĩ của nàng, bởi vì nàng đã có một kế hoạch khác, nàng định bụng sau khi lấy được của ông một số tiền lớn, nàng sẽ cho ông de, để được công khai sống với Khải, người yêu của nàng. Nghĩ dến Khải là nàng lại thấy lòng rạo rực, Khải mới là người nàng yêu tha thiết, chàng khỏe mạnh đẹp trai, chỉ phải tội nghèo, chàng mới là mẫu người yêu lý tưởng của nàng. Nhưng nàng cũng rất cần cái túi bạc của lão già dê này, phải nắm lấy lão để moi càng nhiều càng tốt… Nghĩ vậy, nàng để yên cho lão nắm tay nàng, khi lão cọ má vào tóc nàng thì thầm: - Em yêu, anh nhớ em không biết bao nhiêu! Nàng cố chịu đựng hơi thở nặng mùi thuốc lá của lão, và cũng thì thầm đáp lại: - Em cũng thế, em mong anh ngày này qua ngày khác. - Hôm nay anh về nhà em nhé? - Nhà em chật chội lắm, anh sẽ không thấy thoải mái đâu, anh ở tạm khách sạn vậy, chừng nào có nhà riêng hãy hay. - Nếu vậy anh phải tìm mua nhà gấp. Mai chúng mình đi Vũng Tàu em nhé? - Anh không cần nghỉ ngơi vài bữa cho khỏe à? - Nhìn thấy em là anh khỏe rồi, anh muốn sống chung với em càng sớm càng tốt. - Cũng được, tùy anh. Mười ngày sau họ đã tìm được căn nhà ưng ý, ông Thành xỉa tiền mặt mua liền, để Liên đứng tên. Họ đã sống những ngày thật vui thú, hầu như quên cả thời gian. Mãi bốn tháng sau ông Thành mới về, sau khi nhận được điện tín của Hùng, đứa con trai lớn của ông đánh đi từ Mỹ “ Ba về ngay, mẹ đau nặng sắp chết, hiện đang ở nhà thương Fountain Valley. ” Cầm bức điện tín trong tay, ông Thành bàng hoàng như người đang nằm mơ. Chưa bao giờ ông nghĩ một việc như thế này có thể xảy ra. Không, bà không thể chết được, đồng ý là đã có lúc ông nghĩ đến giải pháp ly dị, nhưng vấn đề hôm nay lại hoàn toàn khác hẳn, bà sắp không còn ở trên thế gian này nữa. Người vợ già của ông sắp bỏ ông để sang thế giới bên kia, người bạn đường hơn bốn mươi năm của ông sắp xa lìa ông vĩnh viễn ư? Ý nghĩ không bao giờ được trông thấy bà nữa làm ông xốn sang trong dạ. Hơn bốn mươi năm qua, bà đã chia ngọt sẻ bùi, sinh con đẻ cái với ông, hơn bốn mươi năm đồng cam, cộng khổ cho đến lúc già, lẽ ra được thảnh thơi, bà lại đau khổ vì sự phản bội của ông, và bây giờ bà sắp bỏ ông, bà đi… Càng nghĩ ông càng đau thắt trong tim, bây giờ ông mới bàng hoàng nhận thấy cái gì mình đang có trong tay, tưởng rằng tầm thường, không bao giờ để ý, chỉ tới khi sắp mất mới thấy nó quí giá biết bao! Vội vã, ông thay áo nhưng run rẩy, lập cập mãi vẫn chưa xỏ được đôi giầy. Bích Liên nãy giờ vẫn theo dõi những cử chỉ của ông, bây giờ mới lên tiếng: - Có chuyện gì thế? anh tính đi đâu? Lẳng lặng, ông chìa bức điện tín cho nàng: - Anh phải về xem bà ấy ra sao, anh ra hãng máy bay ghi tên. Liên vội vã nói: - Mỗi tuần đều có chuyến bay đi Mỹ, anh lấy chuyến sau được không? - Tại sao lại phải chờ đến chuyến sau? Liên nói không ngại ngùng: - Là vì chuyến thứ nhất vào thứ ba, mà đến thứ năm mình mới có hẹn đi lấy cái xe Toyota cho em. Mua xong, mình về chuyến sau còn kịp mà, cách có một tuần, ăn nhằm gì? Ông xửng xốt nhìn nàng như nhìn một con quái vật, lúc nào nàng cũng nghĩ đến cách moi tiền. Ông chợt hiểu là nàng yêu ông không phải vì ông mà chỉ vì tiền. Nhưng nàng có còn nhân tính nữa không? biết vợ ông sắp chết mà nàng chẳng hề động tâm, nàng chỉ lo ông về sớm không kịp mua xe cho nàng. Càng nghĩ ông càng thấy ghê tởm, cho cả bản thân ông nữa, một niềm hối hận vụt dâng lên trong lòng. Lặng lẽ, ông cố xỏ cho xong đôi giầy rồi bước ra cửa, không thèm trả lời. Bích Liên nhìn theo ông với ánh mắt tràn ngập niềm vui: - Trời giúp mình. Muốn chính thức sống chung, chẳng phải chúng ta đã từng mong mỏi điều đó hay sao? Ông rùng mình, không, chưa bao giờ ông có ý nghĩ mong vợ chết sớm, ông đâu đến nỗi tán tận lương tâm đến thế. Ông nhìn người tình, bàng hoàng tự hỏi sao đến bây giờ mình mới nhận ra tâm địa xấu xa, ác độc của ả? Diễm Liên vẫn tiếp tục bằng một giọng hứng khởi: - Cơ hội đã tới rồi, về làm đám ma cho bà ấy rồi bán hết nhà cửa, mang tiền sang đây ở với em. Vừa nói, cô ta vừa bá lấy cổ ông, hôn đánh chụt vào má: - Đồng ý không cưng? Tới đây thì ông chịu hết nổi, ông gạt tay cô ra, nhìn trừng vào mặt và nói giọng khinh bỉ: - Lúc nào cô cũng chỉ biết có tiền. Tôi ghê tởm cô quá, lần này tôi về sẽ không bao giờ trở qua nữa đâu. Tức thì cô ả trở mặt liền, lồng lên xỉa xói: - Đi luôn đi, lão già bẩn thỉu! Cứ làm như báu lắm đấy, ông tưởng tôi hy sinh vô điều kiện tuổi trẻ và cuộc đời tươi đẹp của tôi, để lấy một lão già gấp ba lần tuổi? Đừng có mà nằm mơ, đồ ngốc! Đồ ngốc? ừ, có lẽ ông ngốc thật, ngốc nghếch và ngu muội… Nhưng bây giờ ông đã tỉnh ra rồi, cầu trời đừng cho quá muộn. Lần này, thay vì đi thẳng ra cửa, ông quay trở vào, thu xếp thật nhanh cái va ly, rồi mới xách đi luôn, ông mua vé cấp tốc, bay về với vợ. Về đến nơi trời đã xẩm tối, không kịp về nhà cất hành lý, ông gọi taxi đến thẳng bệnh viện. Ngồi xuống bên giường bệnh của vợ, ông đau đớn nhìn những dây dợ chằng chịt trên người bà, và một miếng băng lớn nơi bụng, ông thì thầm hỏi: - Bị mổ à? Tại sao mình không nói cho tôi biết mình bị như thế này từ bao giờ? - Tôi có nói đấy chứ, nhưng mình có muốn nghe đâu? Bà thều thào, trước hôm mình đi Việt Nam, tôi có yêu cầu mình hoãn lại vài hôm để đưa tôi đi khám bệnh, mà mình đâu có chịu. Ông nhớ ra và cảm thấy hối hận vô cùng, vợ ông đau nặng như thế mà ông nỡ bỏ đi với nhân tình, dã man quá. Ông thở dài, nắm lấy tay bà: - Tôi xin lỗi, tôi thật vô tình quá, cứ tưởng bà chỉ đau bụng xoàng. Thế rồi sự thể như thế nào? - Tôi đợi mình mãi, ba bốn tháng mình không về, những cơn đau thì cứ tăng dần. Một hôm tôi đau quá và bị xuất huyết tới gần ngất xỉu, may nhờ hàng xóm gọi xe cứu thương chở đi bệnh viện. Tại đây, các bác sĩ khám phá ra rằng tử cung của tôi có một khối u và phải giải phẫu lập tức. Tôi chỉ kịp gọi điện thoại báo tin cho các con, thế rồi thằng Hùng đi gởi điện tín cho mình. - Kết quả ra sao? - Không biết! Tôi mới mổ được ba hôm, chả ai nói gì cho tôi nghe cả. Các con cũng vừa mới ở đây ra, chắc chúng nó biết, nhưng dấu… Ngưng một lúc, bà nhìn ông nở một nụ cười héo hon: - Mình ạ, có mình bên cạnh là tôi yên tâm rồi, có chết cũng không sao cả. - Chỉ nói dại! Ông vuốt ve bà, cố gắng an ủi, giọng ông hơi run, rồi mình sẽ khỏi mà, tôi còn cần mình lắm, mình không thể bỏ tôi mà đi như vậy được. Thôi nãy giờ nói nhiều mệt rồi, bây giờ mình hãy ngủ một giấc cho khoẻ. - Tôi chưa buồn ngủ đâu, mình về tôi mừng lắm, như được tiếp thêm sức sống vậy. Ngưng một lúc khá lâu, bà mới ngập ngừng hỏi một điều mà bà muốn biết đã lâu, nhưng chưa bao giờ đề cập tới: - Còn chuyện bên nhà như thế nào? Ông cúi đầu xấu hổ, phải nói thế nào đây để bà hiểu rằng ông đang hối hận? Sau cùng ông thở ra: - Chẳng có gì quan trọng đâu, tôi đã thu xếp xong xuôi, rồi đây mọi việc sẽ đâu vào đấy cả. Mình yên tâm, từ nay tôi sẽ không đi đâu nữa, tôi sẽ ở bên mình mãi mãi, tôi sẽ làm tất cả để dành lại mạng sống cho mình. - Có thật mình muốn cho tôi khỏi bệnh không? Bà yếu ớt hỏi, mắt ngập đầy lệ. Ông giật mình, đau đớn như có người đâm vào ruột, mắt ông cũng rướm lệ: - Sao mình lại nói thế? mình không tin tôi ư? Tôi xin thề trên đầu ba đứa con của chúng ta là bây giờ tôi chỉ biết có mình. Tôi yêu mình lắm, tôi không thể sống thiếu mình được. Nhất định mình sẽ bình phục, chúng ta sẽ làm lại tất cả... Bây giờ khuya rồi, mình đi ngủ đi. - Ừ! Bà che miệng ngáp một cái dài rồi nhìn ông âu yếm, ông cũng nên đi nghỉ đi, trông ông hốc hác lắm đó. Ông gật đầu cho bà vui lòng, bà nhắm mắt lại, một nụ cười sung sướng nở trên môi, bà nhẹ nhàng chìm vào giấc ngủ. Ông Thành ngồi suốt đêm bên giường vợ, canh cho bà ngủ, ông để ý dến từng hơi thở của vợ, và sung sướng thấy bà ngủ êm. Ngắm nét mặt thanh thản của vợ, ông cố tưởng tượng đây là nhà mình, và bà đang ngủ giấc ngủ bình thường như mọi đêm. Sáng mai bà sẽ dậy sớm, đi lại nhẹ nhàng trong bếp làm món điểm tâm, ra lấy cho ông tờ báo, sau đó hai vợ chồng cùng đi dạo mát nơi công viên gần nhà… Ông sung sướng với những cái rất tầm thường đó, nhưng những tiếng chân vội vã chạy trên hành lang đưa ông về thực tế, một con bệnh ở phòng kế bên đang lâm cơn nguy kịch, nhắc cho ông biết là ông đang ở trong nhà thương. Ông giật mình ra khỏi cơn ảo tưởng, đưa mắt nhìn vợ, bà vẫn đang ngủ say, đầu hơi lệch khỏi gối. Nhẹ nhàng, ông sửa lại cho vợ, cố rón rén sợ làm bà thức giấc. Ông ngồi im chờ sáng, sốt ruột chỉ mong được gặp bác sĩ để hỏi rõ bệnh trạng của bà. Sáng hôm sau, ông là người đầu tiên gõ cửa phòng bác sĩ, chào hỏi xong, ông nói ngay: - Thưa bác sĩ tôi cần biết sự thực, vợ tôi bị bệnh gì? Xin bác sĩ cứ nói thẳng, tôi có can đảm chịu đựng. Ông bác sĩ già mỉm cười hiền lành: - Sự việc không đến nỗi nghiêm trọng như ông nghĩ đâu. Ông ngồi xuống đây đi, tôi sẽ cho ông xem kết quả của phòng thí nghiệm mới đưa lên sáng nay, cái bướu là bướu lành, không có gì phải lo cả, duy có điều nó lớn quá nên tôi đã phải cắt bỏ cả tử cung. Lẽ ra bà ấy phải đi khám từ lâu, để lớn như thế này nguy hiểm lắm, có thể bị chảy máu tới chết nếu không cầm được, cũng may cứu kịp. Bây giờ thì xong xuôi cả rồi, bà ấy chỉ cần nghỉ ngơi vài tuần là hoàn toàn bình phục. Ông Thành nghe như vừa được cải tử hoàn sinh, ông muốn nhảy tới ôm chầm lấy bác sĩ nhưng không dám, ông chỉ nói lí nhí: - Cám ơn, cám ơn bác sĩ! Như vừa trút được gánh nặng ngàn cân, ông cảm thấy người lâng lâng, nhẹ nhàng như bay bổng, ông bước đi như chạy trên hành lang dắt tới phòng bà… Vừa mở cửa, ông vừa la lớn: - Tôi vừa nói chuyện với bác sĩ xong, không phải ung thư mình ạ! Bà Thành dụi mắt, tưởng đang nằm mơ, không tin ở tai mình, bà hấp tấp hỏi lại: - Ông nói sao? không phải ung thư thật à? ông không gạt tôi đấy chứ? - Gạt bà để làm gì? lát nữa bác sĩ sẽ tới cho bà hay. Rồi phấn khởi, ông tiếp theo: - Tôi nói có sai đâu, mình bỏ tôi thế nào đuợc? Ông nắm lấy tay bà, cả hai cùng chảy nước mắt. Bà mỉm cười khi ông cúi xuống hôn lên trán bà: - Có phải mình hứa với tôi rằng chúng ta sẽ bắt đầu lại tất cả, phải không mình? - Đúng vậy, tôi yêu mình và nhất định sẽ không bao giờ xa mình nữa. Xin mình tha thứ cho tôi những lỗi lầm trong quá khứ. Chúng ta già rồi, thời gian được sống bên nhau đâu còn bao lâu nữa, phải biết trân quí nó, chúng ta hãy thương yêu nhau, hãy sống cho nhau suốt quãng đời còn lại mình nhé? Bà ràn rụa nước mắt gật đầu, hai mái đầu bạc chụm vào nhau và cùng rung lên vì những tiếng nức nở, nhưng những tiếng khóc đây là tiếng khóc cảm động, và những giọt nước mắt đây là những giọt nước mắt sung sướng. Hạnh phúc đã trở lại với đôi vợ chồng già.
PHƯƠNG LAN Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 05/Mar/2015 lúc 5:25pm |
||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||
![]() |
||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Đọc Để Tìm Giây Phút Lạc Quan Trong Tuổi Già - Ơn Đời Chứa Chan![]()
Hãy tận hưởng khi tuổi về chiều, chúc mọi người an vui
Làm người sướng nhất!!!!
Ngày xưa, có ông lão cứ
vui cười ca hát suốt ngày.
Thấy lạ, có người hỏi:
Tại sao ông vui tươi mãi
như thế?
Ông lão đáp:
-Trời sinh ra muôn loài
muôn vật, trâu chó dê ngựa… Người là sinh vật cao nhất,
“Tối linh ư vạn
vật”. Ta được làm người. Ấy là điều sướng thứ nhất.
-Trời sinh có người tàn
tật, đui què. Ta được lành lặn, ấy là điều sướng thứ hai.
-Người đời thường vì sự
giàu có, danh vọng mà phải gian khổ.
Ta có ăn đủ một ngày ba
bữa, không lo lắng gì cả. Ấy là điều sướng
thứ ba.
-Còn như sinh lão bệnh
tử là điều không ai tránh được. Ta cũng như mọi người,
việc gì phải
buồn.
-Nghĩ tới ba điều sướng
ta có được, ta vui ca cũng là chuyện thường tình,
mắc mớ chi phải hỏi.
(Cổ Học Tinh Hoa – Sách
nầy tôi đọc năm tôi học lớp 7,
tức là năm đệ lục, năm
thứ hai cấp 2)
ƠN ĐỜI CHỨA CHAN
Tuổi
già, buổi sáng thức dậy, nghe gân cốt đau rêm mà mừng, vì biết mình còn
sống. Đại ý viết như vậy, trong một cuốn sách Mỹ mà ông Tư đọc được,
làm ông thấm thía cái hạnh phúc lâng lâng của từng sớm mai khi vừa tỉnh
giấc. Bạn bè cùng trang lứa với ông, nhiều người đã về với Diêm Vương
khi còn trẻ măng, vì cuộc tương tàn khốc liệt dài ngày trên quê hương.
Nhiều người khác gục ngã trong trại tù vì đói khát, bệnh tật, mồ hoang
vùi cạn. Một số khác nữa, vì khao khát tự do mà chôn thân dưới đáy biển,
hoặc chết khô giữa rừng sâu. Không ít người còn lại, tử thần cũng đã
đón mời vì bạo bệnh, khi tuổi năm sáu mươi. Phần ông vẫn còn dai dẳng
sống sót cũng là ân huệ trời ban, không vui hưởng tháng ngày, cũng uổng
lắm sao!
Ý
nghĩ đó làm ông mỉm cười sung sướng. Ông vẫn trùm thân trong chăn ấm.
Tội chi mà dậy sớm cho mệt. Mỗi khi nghe tiếng khởi động máy xe từ hàng
xóm vọng qua trong buổi tinh sương, ông càng vui sướng hơn, vì không còn
phải vùng dậy giữa đêm đen, lặn lội đi kiếm cơm hàng ngày như mấy gã
trẻ tuổi ở cạnh nhà. Về hưu rồi, mỗi tuần hưởng bảy ngày chủ nhật, bảy
ngày thảnh thơi. Hết áp lực của công việc hàng ngày, không phải lo lắng
bị thất nghiệp khi kinh tế khủng hoảng xuống dốc. Khoẻ re.
Cứ
nằm trùm chăn ấm nghe nhạc mềm văng vẳng ru đưa, phát ra từ cái radio
nhỏ, có khi ông chợp thêm được một giấc ngủ ngắn ngon lành. Ngủ chán thì
dậy. Bước xuống giường, dù khớp xương sưng đau, đi khập khễnh ông cũng
thầm cám ơn cái chân chưa liệt, còn lê lết được. Chưa phải nằm dán lưng
vào giường như một số người bất hạnh khác. Những kẻ này mà nhích được
vài bước cà thọt như ông, thì chắc họ cũng sướng rân người. Ông thầm
bảo, có thêm được một ngày để sống, để vui, để yêu đời. Bệnh hoạn chút
chút, thì phải mừng, chứ đừng có nhăn nhó than vãn ỉ ôi.
Mỗi
khi đánh răng rửa mặt, ông lầm thầm: “Mình sướng như vua rồi, có nước
máy tinh khiết để dùng. Giờ nầy, cả thế giới, có hơn một tỉ người thiếu
nước để nấu ăn, để tắm giặt và nhiều tỉ người khác không có nước sạch,
phải uống nước dơ bẩn.” Dù cái bàn chải đánh răng đang ngọ ngoạy trong
hàm, ông cũng ư ử hát ca. Khi áp cái khăn tẩm đầy nước lên mặt, ông cảm
được cái mát lạnh và niềm sung sướng chứa chan đang lan tỏa chạy khắp
người. Ông biết đang được ân sủng của trời đất ban cho trong tuổi già.
Ông cứ nhớ mãi thời đi tù Cộng Sản, mỗi ngày chỉ có được một lon nước
chừng một lít, để rửa ráy tắm giặt. Chừng đó thôi, mà cũng xong việc.
Khi ấy, thấm cái khăn ướt lau khắp người, nghe mát rượi, đã đời, và khi
còn lại một phần nước cặn đen ngòm dưới đáy lon, cầm đổ lên đỉnh đầu,
sướng đến rên lên được.
Ngồi
lên cái bồn cầu êm ái, nhà cầu sạch sẽ, trắng toát, thơm tho, không
vướng một chút mùi vị hôi hám, đèn đóm lại sáng trưng, có nhạc văng vẳng
từ radio, ông cầm cuốn sách thưởng thức chữ nghĩa của “thánh hiền”, tư
tưởng của Đông Tây. Không bao giờ ông quên cùng giờ phút nầy, có hơn ba
tỉ nhân loại không có cầu tiêu để làm cái chuyện khoái lạc thứ tư. Có
người phải ra đồng lồng lộng gió, mà làm chuyện “nhất quận công, nhì ị
đồng”. Phải gấp gấp cho xong chuyện, không nhẩn nha được, vì hai tay
phải múa lia lịa hất ra đàng sau, để xua đuồi lũ ruồi đồng đang vo ve
“oanh tạc”. Xong việc, may mắn lắm thì có lá chuối khô mà lau chùi, còn
không thì dùng đất cày, đá cục, nắm cỏ, que nhánh cây tươi, khô. Ông cứ
nhớ thời làm việc ở quận lị, chỉ có nhà tiêu lộ thiên, hai tấm ván bắt
ngang qua một hầm cầu lộ thiên, nắng xông hơi phân người lên nóng hừng
hực rát cả mặt, bên dưới giòi bọ lúc nhúc lổm nhổm làm thành một tấm màn
trắng-ngà chuyển động. Có con gà ở đáy hầm, nó đang thưởng thức ngon
lành món giòi bọ, thấy ông xuất hiện bất thần, sợ hãi hoảng hốt đập cánh
bay lên kêu quang quác và vung vãi ‘ám khí’ khắp trong không gian, làm
ông cũng khiếp viá, ôm đầu phóng chạy dài. Nghĩ đến chừng đó thôi là ông
đủ cảm được cái sung sướng đang có ngay bây giờ. Ngồi thật lâu, đọc cho
xong mấy trang sách, mới nhởn nhơ rời phòng.
Ông
Tư tự đãi một bình trà nóng, một ly cà phê thơm, rồi nấu nồi cháo gạo
tẻ đặc rền ăn với cá kho mặn. Dọn ra bàn, đèn vàng soi một khoảng ấm
cúng. Ông thong thả vừa hớp nhâm nhi, vừa ăn từng muỗng cháo, chất gạo
béo tạo vị giác đi qua trong cổ họng. Ông lầm thầm:“Ngon, cao lương mỹ
vị cũng không bằng”. Ông thường ngâm nga hai câu thơ :
“Vợ cũ, chó già, tô cháo nóng.
Ba nguồn thân thiết dạt dào thương”.
Mắt
ông dán vào trang thơ đang cầm trên tay, gật gù thưởng thức ý lời hoa
gấm. Ông trầm mình vào những giòng thơ, tim xao xuyến xúc động mênh
mang. Thỉnh thoảng ông dừng lại, và nói nhỏ cho chính ông nghe: “Tiên
trên trời cũng chỉ sướng và thong dong như thế này là cùng”. Ông nhớ đến
cái thời “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa”,
buổi sáng bụng đói meo, vác cuốc đi làm lao động tay chân nặng nhọc,
ráng uống một bát nước lã để cầm hơi và đánh lừa cái bụng đang sôi sồn
sột. Bây giờ được như thế nầy, phải biết cám ơn ân sủng của trời ban
cho. Biết bao nhiêu tỉ người trên thế giới này mơ ước được có một buổi
sáng thảnh thơi và no ấm như ông mà không được nhỉ?
Nhìn
xuyên qua cửa phòng ngủ, ông thấy bà vợ nằm ngủ giấc yên bình, lòng ông
dạt dào niềm thương. Bà đã cùng ông mấy mươi năm dắt dìu nhau trong
phong ba bão táp của giòng đời nghiệt ngã. Đã chia sẻ ngọt ngào cũng như
đắng cay của một thời khói lửa điên đảo. Giờ này, may mắn vẫn còn có
nhau trong cuộc đời, thương yêu thắm thiết, nhường nhịn nâng đỡ chăm sóc
ngày đêm. Không như những cặp vợ chồng già khác, cứ lục đục gây gỗ
nhau, tranh thắng thua từng li từng tí, làm mất hạnh phúc gia đình. Ông
thương bà biết an phận thủ thường, không đứng núi ầy trông qua núi nọ.
Ông thấy bà hiền lành và có trái tim đẹp như thánh nữ. Ông muốn vào
phòng, hôn bà lên trán, nhưng ngại làm vợ mất giấc ngủ ngon buổi sáng.
Ông lại cám ơn trời đã đem bà buộc vào đời ông. Ông cười và nhớ câu nói
của một nhà văn nào đó: “Đời sống không thể thiếu đàn bà, nhưng sống
được với một người đàn bà không phải dễ.”
Ông
Tư ra vườn. một mảnh đất nhỏ trồng vài cây hoa, hương thơm thoang
thoảng, có tiếng chim kêu đâu đó líu lo vọng lại. Mấy đoá hoa sặc sỡ còn
đọng sương đêm lóng lánh. Nắng mai ấm áp phả lên da thịt ông, tạo thành
một cảm giác dịu dàng, êm ái. Ông vươn vai, xoay người trong thế thể
dục chậm, xương sống được thư giãn kêu răng rắc, đã đời. Hít thở và phất
tay chừng mười lăm phút cho máu huyết lưu thông. Loại thể dục nầy đã
giúp ông bớt được những cảm mạo thông thường, ông tin vậy.
Ông
Tư thay áo quần để đi ra đường. Cầm cái áo lành lặn bằng vải tốt trên
tay, ông thường nhớ đến thời đi tù, khâu bao cát làm áo, rách tả tơi,
không đủ che gió lạnh thấu xương của núi rừng. Thế mà cũng có nhiều tù
nhân khéo tay và nghịch ngợm, khâu bao cát thành bộ đồ lớn, đủ ba mảnh,
và làm luôn cả cái “cà vạt”, mang vào trông cũng sang trọng như đi ăn
đám cưới. Nhớ lại thời đó mà rùng mình. Còn sống sót, và đến được đất
nước tự do này, cũng là một điều mầu nhiệm lạ lùng. Ông Tư đi ra đường,
xe cộ vùn vụt qua lại liên miên. Lề đường rộng, phẳng phiu, sạch sẽ. Bên
kia là giao điểm của hai xa lộ, các nhánh cầu cao đan uốn éo chồng chất
lên nhau, vòng vèo trên không, như những nùi rối. Ông Tư thầm cám ơn
tiền nhân đã đổ sức lực, mồ hôi, tài nguyên khai phá và xây dựng nên
những tiện nghi nầy cho ông nhảy xổm vào hưởng dụng, mà không ai có một
lời ganh ghét, tị hiềm.
Ông,
từ một trong những nước lạc hậu nhất của hành tinh nầy, bị chính quyền
cuả xứ ông bạc đãi, kỳ thị, kềm cặp và lấy hết các tự do cơ bản. Đến đất
nước này, ông được bình đẳng, có công ăn việc làm hợp với khả năng, con
cái ông được đến trường, học hành thành tài, có nghề nghiệp vững chắc
và sống với mức trung lưu. Ông cảm thấy còn nợ quê hương mới nầy quá
nhiều thứ, từ tinh thần đến vật chất, mà biết không bao giờ trả lại được
một phần nhỏ nào. Ông Tư vừa đi bộ vừa ca hát nho nhỏ.
Một
người cảnh sát cao lớn dềnh dàng đi ngược đường chào ông, ông chào lại
bằng lời cám ơn đã giữ gìn an ninh cho dân chúng sinh sống. Người cảnh
sát cười và nói đó là bổn phận, vì lương bổng của ông ấy được trả bằng
thuế của dân chúng, trong đó có ông. Ông Tư thấy trong lòng bình an, ông
không làm điều gì phạm pháp, thì không sợ ai cả. Ông đọc trong báo,
thấy có những xứ, dù không làm gì sai quấy cả, cũng bị cảnh sát giao
thông chận lại đòi tiền, nếu không cho tiền, thì bị quy kết đủ thứ tội
mà mình không có.
Nắng
chiếu hoe vàng cả dãy phố của một ngày thu, ông Tư bước đi mà lòng rộn
rã. Gặp ai cũng chào, cười vui vẻ. Nghe ông chào hỏi nồng nhiệt, mọi
người đều vui theo. Thấy một ông cụ mặt mày đăm đăm rầu rĩ đi ngược
đường, ông Tư lớn tiếng:
“Chào
cụ? Có mạnh khỏe không? Hôm nay trời nắng đẹp quá!” Ông cụ trả lời qua
loa: “Tàm tạm, chưa chết! Chán cái mớ đời.” Ông Tư nói to: “Việc chi mà
chán đời cho mệt cụ ơi. Chưa chết là vui lắm rồi. Cụ có biết là chúng ta
đang sung sướng phước hạnh, tội chi phí phạm thời gian để buồn nản?”
Ông cụ thở dài: “Ai cũng có nhiều việc âu lo! Đời đâu có giản dị! À,
nầy, mà hình như ông đau chân, bước đi không được bình thường? Thế thì
vui nỗi gì? ” Ông Tư cười lớn: “Vâng, tôi đau chân, nhờ đau chân mà tôi
thấy được niềm vui hôm nay lớn hơn, vì còn đi được, bước được, chứ chưa
phải nằm nhà. Cụ ơi, nếu lo âu mà giải quyết được những khó khăn, thì
nên lo. Nhưng nếu lo âu, mà không giải quyết chi được, thì hãy vui lên,
cho đỡ phí phạm ngày tháng trời cho” Ông cụ già lắc đầu bỏ đi.
Ông
Tư xà vào ngồi trên ghế đá mát lạnh của công viên dưới tàng cây có bóng
nắng lung linh. Nhìn bọn trẻ con chơi đùa la hét lăn lộn trên bãi cát,
ông vui lây với cái hồn nhiên của chúng. Bên kia đồi cỏ, có đôi nam nữ
nằm dưới gốc cây, kê đầu lên tay nhau, tóc đổ dài óng ánh, thỉnh thoảng
vang tiếng cười rúc rích. Đất nước nầy ấm no và thanh bình quá, sao có
nhiều người còn kêu ca đời sống khó khăn? Phải chăng những kẻ này chưa
biết an phận, muốn được nhiều hơn điều đang có, đang đủ. Không thấy được
phước hạnh là lỗi tại họ. Ông dong tay bắt vài tấm lá rơi đang quay
cuồng trong gió và lấy bút ghi lên mặt lá mấy giòng thơ vừa thoáng qua
trong trí để ca ngợi cuộc đời. Thấy bãi cỏ êm mát, ông nằm dài, những
vòng tròn sáng màu vàng rải rắc trên mgười ông. Gió hiu hiu mát từ hồ
nước vờn qua làm mơn trớn thịt da. Ông Tư rút từ túi quần một cuốn sách
nhỏ có nhan đề “14 ngàn điều làm nên hạnh phúc”. Tác giả tập sách nhỏ
nầy, thấy đâu đâu cũng là hạnh phúc tràn đầy. Vấn đề là cảm nhận được
cái sung sướng, cái hạnh phúc đang có. Từ việc đặt chân lên một tấm thảm
mềm êm ái, đến việc cắn một trái ngọt chín mọng trong miệng, đến mơ
mộng được hát trên bục một hộp đêm, nghe một lời nói dịu dàng yêu
thương…
Hạnh
phúc và sung sướng cảm nhận được từ những điều rất nhỏ nhặt, đơn sơ,
tầm thường nhất trong sinh hoạt hàng ngày. Không cần phải là ôm chặt
người yêu trong vòng tay, cũng chẳng phải vật nhau lăn lộn trên giường,
cũng không cần đến việc cầm trong tay cái vé số trúng độc đắc, hoặc làm
chủ được một tòa lâu đài sang trọng… Ông nghĩ, chắc sẽ có người cho tác
giả tập sách nầy là kẻ “lạc quan tếu”. Nhưng thà lạc quan tếu hơn là bi
quan.
Đời
nầy, có nhiều người đắm mình trong hạnh phúc, mà cứ tưởng đang ngụp lặn
trong bể khổ. Hoặc đang được phước hạnh mà không biết và xem thường,
chỉ khi mất đi, hay đã trôi qua, mới biết, thì đã quá muộn màng.
Nắng
đã xông hơi nồng nóng, ông Tư đón chuyến xe buýt ra về. Cái vé xe cho
người già rẻ rề, chỉ bằng một phần ba vé bình thường. Ông nói lời cám ơn
tài xế, và thấy mang ơn những người cùng đi xe công cộng nầy, vì xem
như họ đã gián tiếp gánh một phần tiền vé cho ông.
Về
nhà, bà Tư đã dọn sẵn cơm trưa, mời ông rửa ráy cho sạch sẽ mà ra ăn.
Thấy ly nước chanh muối, ông cầm uống, chất nước ngọt ngào mằn mặn chua
chua, ngon lành đi qua cổ họng. Ông nhìn vợ với ánh mắt thương yêu và
nói lời cám ơn cho bà vui. Chưa ăn, mà thấy bát canh bông bí nấu tôm đã
biết ngon. Những món ăn thanh đạm này, với ông, còn ngon hơn sơn hào hải
vị.
Ăn
xong, còn chút cơm thừa, bà Tư bỏ vào chén, cất vô tủ lạnh, không dám
đổ đi, vì sợ phí phạm của trời. Bà nhắc câu nói của ông: “Ngay giờ khắc
nầy, trên thế giới có hơn năm trăm triệu người đang đói rã, không có một
miếng gì đề ăn, và có hơn vài tỉ người ăn chưa no bụng, và nhiều tỉ
người khác quần quật ngày đêm, cũng chỉ mong có đủ no mà thôi.” Đã từng
đói, nên ông bà không dám phí phạm thức ăn.
Ông
Tư mừng vì ăn còn thấy ngon miệng, không như một số người khác, ăn gì
cũng như nhai đất sét, không muốn nuốt, vì nhạt miệng, mất vị giác. Một
số người khác còn tệ hại hơn nữa, họ không còn ăn bằng miệng được, mà ăn
bằng bụng, nhờ ống dẫn thức ăn nối với dạ dày, như đổ xăng cho xe hơi.
Ông
Tư ngồi vào bàn mở máy vi tính lướt mau tin tức thế giới biến động. Đôi
khi thấy gía thị trường chứng khoán tụt dốc xuống thấp, làm nhiều nhà
bình luận lo ngại. Nhưng ông Tư cười, ông chẳng thèm để ý, không cần
quan ngại chi cả. Chứng khoán lên hay xuống, cũng thế thôi. Ông có lo
ngại hay quan tâm cũng chẳng thay đổi được gì. Với số tiền hưu khiêm
tốn, và cách ăn tiêu trong khả năng tài chánh, ông bà Tư chưa bao giờ
thấy thiếu thốn cái gì. Có một ông bạn khoe rằng nay đã thành triệu phú.
Bà Tư đùa và hỏi, triệu phú thì khác người không là triệu phú cái gì?
Ông bạn lúng túng ấp úng không biết phải trả lời ra sao. Nhưng ông bà Tư
chắc chắn rằng, họ ít tiền, nhưng được sung sướng, đầy đủ hơn nhiều
người giàu triệu phú khác.
Ông
Tư rà mắt qua các tin tức và các biến cố mới nhất. Thật là tuyệt diệu
và thần kỳ. Chuyện vừa xảy trong giờ trước, đã được tường thuật ngay.
Dạo một vòng tin tức xong, ông quay qua mở vi-thư của bạn bè. Có những
người bạn xa cách hàng ngàn dặm, mấy chục năm nay chưa gặp lại nhau, mà
thư từ qua lại liên miên, tưởng như gần gũi trong gang tấc. Tha hồ hàn
huyên tâm sự. Tình cảm qua lại thân thiết chứa chan. Nhờ máy vi-tính,
khi viết, tha hồ bôi xoá tẩy sửa lung tung, mà không cần phải xé tờ nầy,
viết lại tờ kia, vô cùng tiện lợi. Thư viết xong, chỉ cần một cái nhấp
con chuột, bạn ông nhận được ngay tức thì. Không cần phải nhờ bưu điện
chuyển đi có khi cả tuần mới đến. Hàng chục lá thư của bạn bè khắp nơi
trên thế giới chuyển đến ông đủ điều hay, lạ, nhiều bài thuốc hiệu
nghiệm, trăm bản nhạc du dương, ngàn hình ảnh tuyệt vời của các thắng
cảnh thiên nhiên, các đoạn phim ngắn đủ thể loại của nhiều vấn đề khác
nhau. Ông cám ơn khoa học kỹ thuật tiến bộ, đem thế giới mênh mông lại
gần gũi trong không gian và cả thời gian.
Mỗi
khi nghe tin một người già bệnh hoạn qua đời, ông Tư mừng cho họ thoát
được thời gian đau yếu sống không chất lượng. Nhiều người nằm liệt vài
ba năm, không sống, không chết. Còn có những kẻ phải cưa tay cưa chân.
Ông vẫn thường mong sau này, nếu được chết, thì chết mau chóng, yên
lành, khỏi qua thời gian bệnh hoạn lâu ngày.
Có một bạn già mỉa mai, cho ông Tư là “kẻ tự sướng” ông chỉ cười và nói : “Thà tự sướng hơn là tự khổ”
Ông
Tư thường nghĩ rằng, ông đã và đang được quá nhiều phước hạnh của trời
ban, nhiều ân nghĩa của nhân loại, xã hội, nhiều tình thương của gia
đình, bạn bè, người quen và cả chưa quen. Ông thấy sung sướng hạnh phúc.
Ông tội nghiệp cho những người suốt đời than van, nắng không ưa, mưa
không chịu, và tự bôi đen ngày tháng đẹp đẽ của họ, và dìm đời vào bất
mãn, khổ đau./.
Tràm Cà Mau
|
||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
|||
GIẤC MỘNG VỀ HƯU
Bà lìa đời đúng vào ngày ông chính thức nghỉ việc để về hưu, chắc bà muốn hưởng nhàn một mình một cõi nơi bên kia thế giới, để lại giấc mộng nghỉ hưu mà ông đã lên kế hoạch từ lâu, nay chỉ còn một mình ông với nỗi buồn ngơ ngẩn. Đứa con trai duy nhất của hai ông bà từ tiểu bang khác dẫn vợ con về lo tang lễ của mẹ xong, đã đề nghị ông về ở với chúng , để cha con , ông cháu đoàn tụ , để ông nương tựa lúc tuổi già. Lời đề nghị rất hợp lý hợp tình, nhưng lieu này ông chưa hề nghĩ tới, cả một đời vất vả làm việc, ông chờ đợi cái ngày được nghỉ hưu này để rong ruỗi đó đây, hay để nằm nhà hưởng nhàn, đọc sách báo, coi ti vi, và lên internet là cả một cái thư viện khổng lồ để mở mang kiến thức. chồng sẽ đến New York vào mùa đông, sau những bữa dinner với rượu vang chếnh choáng,ông bà trở về phòng trọ ấm cúng, ngoài kia tuyết rơi, gió lạnh, điều ấy không ảnh hưởng gì đến ông cả, vì ông có phải thức dạy đi làm nữa đâu, ông cứ việc ngủ chán chê, muốn dậy lúc nào thì dậy, rồi ông sẽ vén màn cửa sổ nhìn xuống đường, trong mùa Đông rét mướt kia có bao nhiêu kiếp người đang lao vào cuộc sống, đang tính toán từng giờ từng phút để nghỉ ngơi, để làm việc. Ông buồn thật, nhớ bà, nhớ những bữa cơm, giấc ngủ, những lúc bà hiền dịu, và cả những lúc bà đanh đá mắng mỏ ông. Sự mất mát, đau thương còn mới quá, ông chả biết làm gì cho hết một ngày, thì về với gia đình thằng con trai vậy.. Nhà có hai vợ chồng với hai đứa con, thêm ông nữa là năm người, ra vào gặp nhau cũng thấy vui. Nhưng chỉ mấy ngày đầu thôi, dần dần ông biến thành baby sit cho nhà nó, trông hai đứa cháu nội, đưa đón chúng đi học, chúng muốn ăn cơm, uống sữa cũng gọi ông, chúng vô bathroom cũng gọi ông…Ăn uống thì con dâu ông quyết định, ông thèm ăn cơm với thịt kho mắm, thì nó bảo món ấy hôi nhà, mời bố ăn món khác. Con dâu còn gợi ý khi thấy ông tha thẩn một mình: nếu bố rảnh rang, buồn chân buồn tay không biết làm gì, thì bố cứ việc hút bụi nhà hay ra vườn cắt cỏ, vừa giết thời gian vừa được việc bố ạ. Trời ơi, con trai và con dâu coi như đời ông đang tàn, ở đây làm việc vặt cho nó rồi chờ chết hay sao? Thời gian nghỉ hưu của ông là vô giá, không tiền bạc nào mua nổi, ông cần dùng nó để vui hưởng, đâu có dư thừa mà phải tìm cách giết nó như con dâu ông đã tuyên bố. Một tuần sau ông giã từ gia đình thằng con để trở về ngôi nhà của chính ông. Ông bắt đầu lại cuộc sống độc thân khi tuổi đời đã 66, là một người khoẻ mạnh và nhiều tình cảm, ông muốn về thăm lại Việt Nam sau 25 năm xa cách., 25 năm qua hai vợ chồng ông cùng làm việc chăm chỉ, chẳng những đã giúp cho con trai một món tiền mua nhà khi nó cưới vợ, ông bà cũng có một căn nhà, một ít vốn, và lương hưu này nọ của ông, cộng với 401k…mỗi tháng gần 2000, tha hồ cho ông hưởng một cuộc đời phong lưu. Về Việt Nam , ông ở chơi dưới quê với bà con họ hàng vài tuần rồi lên thành phố Sài Gòn thuê khách sạn, nơi đây là chốn cũ , những con đường, những khu phố, đầy ắp kỷ niệm. Ông như thấy mình trở lại thời trai trẻ, quán cà phê nào ông đã từng hẹn hò, cơn mưa nào còn đọng lại trong hồn ông những vũng nước, những vết bùn của bước chân vội vàng chiều cuối phố ? Những ngày xưa đâu? Những mối tình ngắn dài đâu? Ông bâng khuâng bước vào một quán nước mong tìm lại chút hương vị ngày xưa. Nhưng nay đổi khác quá, các cô gái phục vụ trong quán vây quanh ông, chẳng hiểu sao họ biết ông là Việt Kiều nên rối rít hỏi thăm đủ chuyện, lòng ông tràn trề niềm vui và hãnh diện, ông đâu có ngờ ở tuổi này còn được các cô săn đón chiều chuộng như thế! Họ gọi ông bằng anh và xưng em ngọt xớt. Có một cô xinh nhất đám tiếp chuyện ông lâu nhất, đôi mắt cô liếc, đôi môi cô cười, dù ông luôn khẳng định cô chỉ ở hàng con cháu, mà sao cô vẫn là những ngọn sóng làm ông phải chòng chành chao nghiêng. Vốn hiền lành, thật thà, tin người như tin mình, ông nghe cảm động quá, lấy cô, vừa cứu được một kiếp người vừa có một cô vợ trẻ đẹp. Từ ngày vợ mất đôi khi ông cũng thấy lòng trống vắng, cô đơn, cũng mong muốn có bàn tay người đàn bà ấp ủ. Thế là ông theo cô Bưởi về quê ra mắt cha mẹ vợ tương lai và làm đám cưới. Mối tình không biên giới kể cả về tuổi tác và khoảng cách địa lý, chỉ sau 9 tháng đã thành sự thật, cô Bưởi được sang Mỹ đoàn tụ với chồng. Được vui duyên mới ông đã chịu nhục nghe thằng con trai gọi phone sang đay nghiến, ông già rồi mà còn mê gái, vợ con gì cái thứ gái bia ôm đó! và câu kết luận của con trai là từ bố luôn. Thôi đành, ông thương con thương cháu, nhưng ông cũng phải thương chính cái thân ông chứ. Từ nay ngôi nhà ông lại ấm cúng vì đũa đã có đôi, dù là đôi đũa lệch, ông phải tân trang lại ngoại hình, nhuộm tóc đen, làm răng giả, mặc quần jean áo thun và cả cách ăn nói cho trẻ trung để thích hợp với cô Bưởi. Ông chợt khám phá ra một báu vật vô giá ông đánh mất từ lâu mà không biết, đó là hai chữ “tự do”, vợ ông từ giã cõi đời cũng đồng nghĩa là mang trả lại cho ông sự tự do mà bà đã nắm trong tay suốt bao nhiêu năm qua. Ông tung tăng dẫn cô Bưởi đi phố, đi chợ, đi chợ Mỹ thì không sao, vì chẳng ai để ý đến vợ chồng ông cả, nhưng vào chợ Việt Nam , sao người Việt Nam mình tinh đời thế, ông bắt gặp những cái nhìn tò mò, châm biếm như muốn nói ông già mà còn ham lấy vợ trẻ. Ông đưa cô đi shopping ở Walmart mà cô đã hoa mắt lên, khen quần áo tiệm này sang trọng quá, cô Bưởi vui sướng bao nhiêu lòng ông hạnh phúc bấy nhiêu. Một năm trôi qua, ông vẫn thấy hạnh phúc còn mới mẻ, nhưng cô Bưởi thì không, cô đã biết chê đồ Walmart rổm, chê nhà hàng nọ không ngon, cô đã biết đánh giá cũng là cái xe hơi 4 bánh nhưng loại nào sang hơn,đẹp hơn. Ông chiều cô vợ trẻ , sắm cho cô một xe hơi đời mới đắt tiền, rồi cô đòi đi làm, ở nhà hoài chán quá, cô cần có tiền để mua sắm thêm và giúp đỡ cha mẹ ở Việt Nam . Ông yêu cô, không muốn dời cô chút nào, lương hưu ông dư sức nuôi cô ở nhà với ông suốt đời. Nếu để cô đi làm hãng xưởng ông sợ có ngày mất vợ vì mấy thằng Mễ khoẻ mạnh đẹp trai, may quá cô đòi học làm nail, nghề nail ![]() có mấy thợ là đàn ông! Còn khách hàng thì toàn là phụ nữ. Mộng cô đã thành, cô Bưởi đi làm nail, bản tính dạn dĩ xông xáo, chỉ trong vòng một năm mà cô bay nhảy hết tiệm này sang tiệm khác đến mấy lần, cô đi làm từ sáng đến tối, để ông ở nhà thui thủi và mong ngóng cô như trẻ mong mẹ đi xa về, ông chẳng thể nào kiểm soát được giờ giấc của cô, hôm thì cô nói khách đông, hôm thì cô bận đi shopping với bạn bè…đó là những lý do cô thường xuyên về trể Khi cô Bưởi báo tin đã có thai, ông mừng quýnh quáng hơn cả ngày xưa vợ ông đã mang thai thằng con trai cưng duy nhất của ông, rồi cô sinh một thằng cu tí mà cô nói rằng nó giống ông như đúc. Từ ngày có baby nhà cửa vui thật, ông bận rộn tưng bừng, hết pha sữa lại thay tã, bế con, ông đứng ngồi không yên mỗi khi nó gào khóc, còn mẹ nó lại đi làm nail đến tối mịt mùng mới về nhà như cũ. Nhưng một ngày cô Bưởi không về nữa, ông đợi cô trắng đêm, sáng hôm sau ông lục lọi mọi ký ức để đoán xem cô đang làm nail ở tiệm nào, vì những chủ tiệm nail đều là người Việt Nam nên ông ngại chẳng ra mặt bao giờ và vì cô Bưởi không cho phép. May quá, ông đã đến đúng chỗ, một cô thợ nail nói Betty chơi thân với cháu, Betty tâm sự vì cha mẹ ngăn cản nên Betty phải trốn đi cùng người yêu để xây tổ ấm rồi.Thế hai bác không biết Betty đang yêu Tư Chuột à? Ông ngẩn người, chết đứng ra, vợ ông Nguyễn thị Bưởi đi làm nail với tên Mỹ là Betty đã đi theo thằng Tư Chuột , ông đau đớn vì mất vợ mà cô này tưởng ông đau đớn vì mất con càng làm ông bối rối, ông hỏi một câu vụng về: - Tư Chuột là thằng phải gió nào thế? cái tên Tư Chuột thấy mà ghê thì bà nào dám đến làm nail? Cô gái cười giải thích tên Mỹ nó là Peter, tên Việt Nam là Tư, mặt nhọn hoắc như mặt chuột nên tụi cháu gọi thế\ ![]() .Ông về nhà đành làm thân gà trống nuôi con, giận vợ nhưng con ông có tội tình gì, ông càng ![]() thương con hơn... Thằng bé 8 tháng tuổi, mập mạp khoẻ mạnh, bú vèo một cái hết bình sữa, chắc nó biết thân phận không có mẹ chăm sóc nên chẳng nỡ làm khó dễ cha già, nhưng mỗi lần ông thay diaper cho nó thì nó chẳng biết điều tí nào, hai chân nó vùng vẫy lung tung làm ông lọng cọng dán mãi mới xong miếng băng keo… Ông lo lắm, nếu cô Bưởi đi luôn không bao giờ trở lại thì sao? Ông tưởng tượng một ngày nào ông ngã bệnh, yếu đuối, phải vào Nursing home, thằng cu tí phải vào một nhà trẻ từ thiện nào đó, hai cha con sẽ là hai phương trời cách biệt. Ông thương cu tí quá, đành phải nhịn nhục mà kêu gọi cô Bưởi về thôi, ông liền đăng lên báo mục nhắn tin tìm vợ ‘Bưởi em, ở đâu về gấp, anh sẽ bỏ qua mọi chuyện để chúng mình cùng lo cho con” Ông hi vọng và chờ đợi cô Bưởi hồi tâm trở về, có một cú phone gọi cho ông, nhưng không phải cô Bưởi mà là bạn cô Bưởi, cái người ông đã gặp ở tiệm nail trước kia, cô hỏi địa chỉ đến nhà thăm ông, lần này cô tỏ ra hiểu chuyện: - Cháu xin lỗi bác, lần trước cháu tưởng bác là bố của Betty, nay có người nói với cháu bác là chồng nó, đọc lời nhắn tin tìm vợ của bác trên báo thấy tội cho bác quá, nên cháu đến đây để cho bác biết cái thằng con mà bác đang nuôi đó không phải là con của bác đâu. Ông lắp bắp: - Tại sao cô biết nó không phải là con tôi? Cô ta khẳng định: - Betty nói với cháu mà, bác xem, mặt thằng nhỏ giống Tư Chuột y khuôn, hai mắt lồi đen, cái mặt nhọn hoắc. Ông mở to mắt nhìn thằng bé, nó đang nằm cười toe toét, đâu biết mình đang là cục nợ trong ngôi nhà này. Trời ơi! Đúng quá, cô Bưởi cứ nói nó giống ông, nhưng mắt ông đâu có lồi, mặt ông đâu có nhọn thế kia, ông mê mẩn, mù quáng quá, ngày nào cũng ở bên nó mà không nhận thấy sự khác biệt này. Khi cô làm nail về, ông gục đầu xuống bàn , tức giận và đớn đau ! Hôm sau tỉnh trí , ông lại bỏ vài chục đồng để đăng lời nhắn tin khác trên báo: “Hai cháu Bưởi và Tư Chuột ( tức Betty và Peter) ở đâu về gấp để đoàn tụ với con của hai cháu là thằng Cu Tí .Chúc hai cháu trăm năm hạnh phúc”. Lần này thì cô Bưởi lên tiếng, ông nhận được lá thư của cô vài dòng ngắn gọn: “Đúng thằng cu Tí là con của cháu và anh Tư Chuột, nhưng Tư Chuột đã bỏ cháu, cháu cần rảnh tay để làm lại cuộc đời đầy hoa mộng phía trước, bác đã mang cháu qua Mỹ, mong bác hãy làm ơn cho trót, nuôi thằng cu Tí, để hủ hỉ cùng bác lúc tuổi già xế bóng. Cám ơn bác”. Nguyễn Thị Thanh Dương Minh hoạ : Google Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 24/Mar/2015 lúc 9:43am |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Phiên Phiến Tuổi Già![]() Bạn tôi, có ông tự xưng là Hai Hô. Bởi răng ông hô. Ông rất thích thú với danh xưng nầy. Ông thường nói rằng, ngày xưa còn trẻ, hăng tiết vịt, ai nói gì, đúng hay sai, cũng tìm lời cãi lại . Bây giờ già rồi, nghe ai nói gì cũng thấy xuôi tai, đúng hết....
Bà
mẹ ông đã 92 tuổi, mà thường hay nói câu: "Mai mốt tôi già rồi thì..."
Mỗi lần nghe câu đó, ông vội cắt ngang lời mẹ, và hỏi lại: " Hơn chín
mươi tuổi rồi mà chưa già hở mẹ? Thế thì bao nhiêu tuổi mới là già?" Bà
cụ chỉ cười, không đáp lại. Vợ ông thường nháy mắt, nhìn ông che dấu nụ
cười bí mật. Người em ông nói: " Theo tôi, thì không có ai già, và cũng
chẳng có ai trẻ. Già hay trẻ, là một khái niệm rất tương đối. Hồi tôi
mười bốn, mười lăm tuổi, thấy các chị hàng xóm mười bảy hay mười tám
tuổi là đã già khú đế. Già như sắp mua hòm được rồi. Thế mà khi tôi sáu
mươi tuổi, tôi thấy các bà năm mươi là trẻ, và các bà bốn chục tuổi là
bọn con nít. Thế thì già hay trẻ, không phải tùy theo số tuổi của họ. "
Ông
Hai nói, có một lúc nào đó, con người trở nên già. Nầy nhé, mỗi khi đi
ra đường, nếu chỉ thấy các bà già nhìn mình, mà các cô gái trẻ không dòm
mình nữa, thì phải hiểu là mình đã già rồi. Lại nữa, mỗi sáng đứng
trước gương, thấy trán mình cao hơn, tóc rụng nhiều, đừng tưởng mình trở
nên thông thái, mà phải biết đó là dấu hiệu già. Nếu mình thấy mọi
người dường như trẻ lại, thì chính mình già đã đi, vì mình so sánh thiên
hạ với cái bóng của mình trong gương soi mỗi ngày.
Ông
nói, tuổi già báo hiệu khi sinh lý bắt đầu yếu. Nhịp độ "gần gũi" của
vợ chồng thưa dần. Và đôi khi cố gắng làm vừa lòng bà vợ theo định kỳ,
mà không có hứng khởi. Những khi đó, nếu bà vợ gạt ra, không cho gần
gũi, thì trong lòng lại mừng húm, vì có cái cớ để không làm tròn "bổn
phận" mà không áy náy. Ông nói, bực nhất là những lúc mình đang hăng,
đang nóng máu, sắp xáp chiến, mà bà vợ cứ cằn nhằn về những chuyện không
đâu, như cái hàng rào bị gió vật nghiêng, cây hoa hồng lá bị bạc mốc,
con chó bị rận bọ chét. Thế là cả cái thân già nó xìu xuống như cọng bún
thiu. Chẳng làm ăn chi được nữa cả. Đành bỏ cuộc vui nửa chừng. Khi còn
trẻ, vào những lúc sắp gay cấn như thế nầy, thì dù cho sét nổ trên đầu,
cũng không nghe, không biết.
Có
người hỏi ông sao không dùng viên thuốc thần kỳ, làm cho vợ chồng vui
như thuở ba mươi. Ông nói, đừng tin mà chết sớm, đau tim mà dùng thuốc
nầy, thì lăn đùng ra mau lắm. Hồi trước, ông cũng xin ông bác sĩ cho toa
thuốc nầy, bác sĩ ấy không chịu. ông cũng hơi giận, nhưng bây giờ thì
cám ơn, vì biết được cái nguy hại của nó. Vui chốc lát, mà bỏ mạng, lãng
nhách. Theo ông, thì vợ chồng già, ghiền cái hơi của nhau hơn là chuyện
vật nhau lăn lộn trên giường. Chỉ cần luồn tay vào áo bà vợ già, mà tìm
trái mướp, cũng đủ làm cho bà ấy vui rồi.
Nói
về cái tai điếc, ông nói: "Có một lúc nào đó, mình nghe nhạc, cứ tưởng
là các anh chị ca sĩ dạo nầy không còn hát hay như ngày xưa. Không phải
vậy đâu. Thời nào cũng có ca sĩ giọng hay. Nghe không hay vì cái tai
mình đã nặng, lãng. Rồi cứ tưởng nhạc dở. Đó là dấu hiệu già. Nhất là
khi nghe truyền thanh, truyền hình, thì con cái, hàng xóm, cứ than phiền
mở âm thanh quá lớn. Theo mình, âm thanh như vậy chỉ vừa đủ nghe, mà họ
bảo oan cho mình là quá lớn."
Ông
Hai nói với một bạn già rằng, khi già, lãng tai, điếc tai cũng có cái
lợi lớn. Là khi nào vợ nói lời êm ái, dịu dàng, yêu thương, thì nghe cho
sướng tai. Khi nào bà trở chứng trách móc, chê bai, than vãn, nói nặng
lời, thì cứ nhè-nhẹ gỡ cái máy trợ thính ra, chỉ thấy bà nhóp nhép cái
miệng, trông tức cười lắm. Không nghe, thì không bực mình, không giận
hờn, mà còn cười, đôi khi nụ cười rất rạng rỡ, cười rất dễ thương nữa.
Bà vợ nói như gió vào phòng trống, thấy ông chồng không giận, mà còn
cười vui, thì đành im miệng cho đỡ tốn hơi. Và đôi khi còn thương thêm,
vì tưởng ông chồng khéo nhịn. Nhưng một ông bạn khác, nói rằng, khi bà
vợ trách móc và thở than, thì để bà ấy nói, cho xả ra, nhẹ bớt bực tức
trong lòng. Bởi vậy, mỗi khi vợ ông than vãn, trách móc, thì ông mừng và
lắng nghe. Nếu bà ngưng nói, thì hỏi rằng em có gì cần nói thêm, than
vãn thêm không, hãy nói cho hết đi, anh nghe đây. Thế là bà dịu xuống,
và bà cảm thấy hơi quê quê, nên thôi.
Ông
Hai nói, khi già, mắt yếu, cầm cuốn sách lên, là móc túi tìm cái kiếng.
Không có kiếng thì đành chịu thua. Khi đó, mình ít đọc sách hơn ngày
xưa. Rất nhiều bạn ông than phiền rằng, dạo nầy, sách vở, báo chí họ in
chữ nhỏ hơn, khó đọc. Không phải đâu. Mắt mình mờ, kém, chứ không phải
chữ in nhỏ lại. Mấy anh trẻ hỏi ông có bực vì mắt kém không, ông Hai nói
rằng, việc chi mà bực?. Phải mừng chứ đừng bực. Mừng và cám ơn khoa học
tiến bộ, giúp cho mình còn thấy rõ hơn, nghe rõ hơn, mà nếu mình sống
mấy trăm năm trước, thì đã mù loà, và điếc đặc rồi. Dù cho nghe ít, thấy
không rõ hoàn toàn, nhưng có thấy, có nghe , đã là quá quý rồi. Tuổi đã
cao, mà còn thấy được người thương yêu, con cháu, bạn bè. Còn xem
truyền hình, phim truyện, thì đã nhận được rất nhiều ân phước của trời
ban cho. Phải biết cảm nhận và cám ơn trời
Bây
giờ, đi đâu xa ông cũng ngại. Đi du lịch, điều nghĩ đến trước tiên của
nhiều người già như ông, không phải cảnh đẹp, điều hay, cái lạ, mà nghĩ
đến cái cầu tiểu. Không biết nơi đó có hay không. Cứ vào quán xá, hội
trường, thì có thói quen, trước tiên là xem cầu tiểu nằm đâu. Quán nào
mà không có cầu tiểu, thì đừng hòng có nhiều ông bà già bước vào. Ông
rất sợ mai đây xui xẻo, người ta tôn ông lên làm lãnh tụ. Vì thấy mấy
ông lãnh tụ đứng đọc diễn văn, họp báo, duyệt binh, diễn hành, đứng hàng
giờ, phải nín tè, khó chịu, mệt và khổ lắm. Ông cũng rất ngại ngủ nhà
lạ, cứ nửa đêm, nhiều lần mò mẫm trong bóng tối dậy đi tiểu. Xối nước ào
ào làm người khác mất ngủ. Chưa kể lạ nhà, đêm tối, lạc đường mở lầm
cửa phòng vợ, con người ta, thì cũng bẽ bàng.
Một
lần, bà vợ đè đầu ông xuống mà nhuộm tóc cho ông. Mấy hôm sau, lên xe
công cộng, ngồi vào ghế dành cho người cao niên. Ông thấy có một "lão
trượng" đứng nhìn ông chằm chằm, như ngầm hỏi, sao không nhường ghế ngồi
cho người già cả. Ông đoán chắc, chín mươi phần là "lão trượng" kia còn
nhỏ tuổi hơn ông. Ông cứ ngồi lì, làm lơ. Nhưng khi thấy hành khách
chung quanh nhìn, như thúc dục, như nhắn nhủ bằng ánh mắt khó chịu, thì
ông nhột quá, đứng dậy nhường ghế cho lão trượng kia. Ông nghĩ, không lẽ
phải thét lên là tôi còn già hơn lão, và không lẽ phải móc căn cước ra
mà chứng minh?. Thôi thì đứng dậy, cho bớt nhột và ngượng ngùng. Rồi tự
an ủi rằng, đứng cũng là một cách tập thể dục tốt.
Khi
có ai hỏi tuổi, ông Hai Hô cũng tự cộng thêm gần chục năm. Thế là thiên
hạ rối rít khen trẻ, xít xoa hỏi làm sao mà giữ được trẻ trung như
thế. Ông cười, nói đùa rằng, cứ theo đúng lời dạy vàng ngọc của người
xưa để lại, là "đêm bảy, ngày ba" cho khí huyết lưu thông, điều hoà, thì
cơ thể trẻ trung mãi. Ông nói rằng, nếu có khai trụt đi năm ba tuổi,
cũng chẳng có lợi ích gì, vì mình đâu có toan tính chinh phục, tán tỉnh
ai. Khai trụt tuổi, đôi khi người ta còn chê, là trông già trước tuổi.
Lại nữa, phong tục của mình, là kính trọng người lớn tuổi. Nhưng các bà,
các cô thì khi nào cũng dấu tuổi, cứ 18 tuổi thì khai là 16, khi 20
khai là 18, và lúc 23 khai là 20. Cứ khai trụt vài ba tuổi, và cảm thấy
sướng khi được người khác tin. Khi phải đoán tuổi, ông thường rộng rãi
hạ xuống cho các bà, các cô từ năm đến bảy tuổi, để họ sướng, mà ông
không mất chi cả, cũng là làm một điều thiện nho nhỏ trong ngày, làm cho
người khác vui, yêu đời hơn.
Dạo
sau nầy, khi ông ăn uống, thường thức ăn bị đổ vung vãi. Nhiều lần ông
tự bảo là cẩn thận. Nhưng hình như cái tay nó không hoàn toàn theo mệnh
lệnh của cái đầu nữa. Đưa cơm vào miệng không gọn gàng, cứ rớt ra vài
chút. Đôi khi tay run, mà ông không biết. Ông cho đó là dấu hiệu của
tuổi già. Nhiều lần bà vợ ông nhăn nhó, la nạt, vì làm đổ thức ăn. Một
lần ông nhớ lại câu chuyện đứa bé đẽo cái chén gỗ, cha mẹ hỏi đẽo làm
gì, nó nói là để sau nầy cho cha mẹ ăn, như cha mẹ đã cho ông nội ăn
chén gỗ. Ông nhỏ nhẹ nói với vợ rằng, nhờ bà đẽo cho ông một cái chén
gỗ, rồi mỗi bữa dọn cho ông ăn sau viả hè, bên thềm. Nghe thế, bà vợ
nhìn ông một lúc lâu, rồi rưng rưng nước mắt. Từ đó, bà hết cằn nhằn khi
ông làm đổ thức ăn. Ông hay quên. Đôi khi đi xuống nhà kho, mà ngẩn ngơ
không biết định xuống để làm gì. Quên trước, quên sau.
Một
bạn già của ông nói, nếu "cái đó" mà ông trời không bắt dính chặt vào
người, thì có khối ông già để quên trên xe buýt, trên tàu điện, ngoài
công viên, và khi cần đi tiểu, thì chạy quanh, quýnh lên, mà tìm không
ra. Còn triệu chứng khác nữa, là làm biếng tắm, đôi khi hai ba ngày ông
chưa tắm. Cứ nghĩ là có làm chi dơ đâu mà phải tắm. Nhưng rồi nhận ra,
thì tuổi gìa sợ lạnh, nhạy cảm với cái lạnh, nên ngại tắm. Vì thế mà có
nhiều cụ già có mùi, họ đâu biết. Ông phải rán tập thói quen, nóng lạnh
chi cũng rán tắm mỗi ngày một lần, ngoại trừ trường hợp đặc biệt.
Bà
mẹ ông 92 tuổi, đi ăn tiệm, cắn càng cua-rang-muối nghe rau ráu. Thực
khách trong tiệm tròn mắt ra mà nhìn. Còn ông, thì ngay cả bánh mì mềm
của Mỹ cũng không dám cắn, dùng tay xé nhỏ ra rồi bỏ vào miệng. Bà mẹ
ông, ăn uống không kiêng cữ chi cả. Thịt heo quay, vịt quay, cá chiên,
gà chiên, bún bò giò heo, phở, nước béo, các thứ độc địa đều ăn tuốt.
Thế mà bà không cao mỡ, không cao máu, dù thân thể tròn quay. Cái đó
cũng nhờ trời cho. Nhiều bác sĩ cũng khuyên bà, cứ ăn uống thả dàn, cho
sướng cái miệng, đừng kiêng cữ làm chi nữa khi ở cái tuổi nầy.
Nhiều
ông bạn ông, kiêng khem kỹ lắm, kiêng đủ thứ. Họ xem ba thứ sau đây
ngang hàng với thuốc độc: Ngọt, mặn và béo. Họ ăn lạt, không dám ăn
đường, ăn béo. Thấy đồ chiên, là họ đã tái mặt. Họ ăn mãi quen miệng, và
thấy các thứ thức ăn không mùi, không vị kia cũng ngon. Bởi khi đói,
thì cơm thiu, cơm cháy cũng thành ngon. Có kẻ bảo, uổng quá, phí thức
ngon của trời cho. Nhưng những người kiêng cữ nầy nói rằng, không tội
chi đem chất độc vào người, rồi bệnh hoạn, hối không kịp.
Một
ông bạn cho ông Hai biết rằng, theo nghiên cứu của đại học Rockefeller,
thì có ba điều kiện để cho người già khỏe mạnh và ít bệnh là: 1) ăn
bằng một nửa của bữa ăn bây giờ, 2) thể dục thường xuyên, và 3) làm tình
đều đều. Ông không tin, và cho rằng, cái đó chỉ đúng cho người Mỹ mà
thôi. Mỗi bữa, họ ăn miếng thịt to bằng bàn tay, một bữa ăn của họ, mình
có thể ăn ba bốn ngày mà chưa hết. Nếu mình chỉ ăn bằng một nửa của bây
giờ, thì sẽ suy dinh dưỡng, sớm đau ốm mà chết. Còn chuyện thể dục
thường xuyên, thì đúng trăm phần trăm. Phần làm tình đều đều, có lẽ
không ai chắc, vấn đề là còn làm được hay không, mà còn đòi đều đều.
Mình cứ ăn bình thường, đừng ăn quá no, cũng đừng ăn đói. Cứ theo cái
đạo trung dung của người xưa đã bày ra từ mấy trăm năm nay. Rượu chè,
nếu uống được, thì uống vừa vừa, cũng tốt cho sức khoẻ. Đừng say sưa là
được. Lâu lâu cũng rán vui vợ, vui chồng cho khỏi lạt lẽo. Ông Hai đã
chữa bệnh biếng ăn cho nhiều bạn bè rất công hiệu. Đó là đừng ăn vặt, và
chờ cho khi thật đói mới ăn, chưa đói rã thì chưa ăn. Như vậy thì ăn gì
cũng thấy ngon.
Ông
có quan niệm phóng khoáng hơn về sự sống và cái chết. Ông cho rằng,
chết là một tiến trình của đời sống, hợp với luật thiên nhiên của tạo
hóa. Sợ chết là vô lý. Không ai tránh khỏi cái chết, không sớm thì muộn.
Ai cũng sẽ chết cả. Ngay cả Phật, Chúa, thần thánh cũng phải chết,
huống chi mình là người trần mắt thịt. Chúa Giê-Su chết lúc mới 33
tuổi. Phật cũng chết, thọ không bằng các ông, các bà cụ bây giờ. Cứ thử
nghĩ, nếu già mà không chết, thì bây giờ trên thế giới có đến hơn chín
mươi phần trăm cụ già, cụ nào cũng mấy trăm tuổi, mấy ngàn tuổi, ho
hen, run rẩy, chậm chạp. Lấy ai làm lao động mà nuôi các cụ?. Nhân loại
sẽ đói cho vêu mỏ ra. Già thì phải chết để cho thế giới dược trẻ trung
hoá. Khi nào anh chị nghe tin một người già chết, mà lòng không buồn,
không thương tiếc, thì anh chị được giác ngộ rồi đó. Có chi mà buồn?.
Nếu người chết không để lại một gánh nặng gia đình, một đàn con dại cần
nuôi dưỡng, dạy dỗ, một bà vợ chân yếu tay mềm, thì mừng cho người ta
thoát được cái hệ lụy của trần gian. Khỏi lo công ăn việc làm, khỏi lo
nhà cửa, khỏi lo thương ghét, ghen tuông, giận hờn, khỏi lo khai thuế
cho đúng hạn kỳ. Khoẻ ru. Nếu người chết đã cao tuổi, trong nhiều năm
nằm một chỗ, không nói năng, bại liệt, ăn bằng cách bơm qua ống nối với
bao tử, nghe họ chết mà mình khóc lóc, tiếc thương, bi ai, thì hoá ra là
không biết điều. Muốn người ta bị kéo dài thêm cái cực hình đó lâu hơn
nữa, rồi mới được chết sao?. Nhiều khi, con cháu mừng cho thân nhân họ
được chết, mà mình thì sụt sùi thương tiếc.
Ông
thường nói, trong tuổi già, sức khoẻ là quý nhất. Nhưng nếu ai đó, có
sức khoẻ tốt, không hề đau ốm, thì cũng là một sự nhàm chán. Họ đâu biết
họ đang có cái quý báu nhất trong đời. Lâu lâu, phải đau vài trận, để
nhắc nhở, và nhớ rằng, không ốm đau là sung sướng, là hạnh phúc lắm lắm.
Làm sao bọn trẻ, và những người khoẻ mạnh biết được cái hạnh phúc, cái
sung sướng của người già, khi buổi sáng ngủ dậy, mà thân thể không đau
rêm, nhức nhối?. Cũng như nếu người ta chưa sống dưới chế độ kềm kẹp, hà
khắc, thì làm sao biết được nỗi sung sướng khi được đặt chân lên miền
đất tự do?. Nên quan niệm rằng, với sức khoẻ nào cũng tốt cả, đừng so
sánh với trường hợp tốt hơn. Cứ vui với cái sức khỏe mà mình đang có.
Được khoẻ nhiều thì sướng nhiều, khoẻ ít, cũng sướng hơn, vì chưa đến
nỗi tệ hại lắm. Nhớ đi khám bác sĩ đều đều, để khám phá ra bệnh, kịp
thời chạy chữa. Một người bạn ông cho biết, không dám đi khám bệnh
thường niên, vì sợ "bói ra ma, quét nhà ra rác". Thế nào bác sĩ cũng tìm
ra bệnh nầy, bệnh nọ trong cơ thể và thêm lo. Cứ để thế, rồi khi bệnh
nặng thì chết. Bà vợ ông nầy khổ sở lắm, nhưng không thuyết phục ông
được. Ông còn nói, bác sĩ thường cho uống thuốc chữa bệnh nầy, thì sinh
ra thêm bệnh khác nữa. Hoặc bác sĩ chẩn đoán sai bệnh là thường. Có
người đọc báo cáo y khoa, cho biết trên nước Mỹ, mỗi năm có đến hai trăm
ngàn người chết, hoặc thương tật vì bác sĩ kém hiểu biết, hoặc sơ suất
gây ra. Theo ông Hai Hô thì đừng sợ. Vì bác sĩ giỏi nhiều hơn bác sĩ dở,
và bác sĩ có lương tâm nhiều hơn bác sĩ thiếu lương tâm. Đừng vì một số
trường hợp xấu, mà sợ đi khám bệnh. Khám bệnh, để biết trước mà đề
phòng, để chữa trị khi bệnh mới chớm, còn kịp, chữa trị dễ dàng hơn. Để
ung thư ăn tràn lan ra rồi, thì chỉ có phép lạ, mới cứu được. Người ta,
có thể mạnh khỏe cho đến khi chết. Đó là trường hợp hiếm hoi. Nhưng đau
yếu trong tuổi già là thường, không đau yếu là bất thường. Có một người
than rằng, cứ đi vào, đi ra trong nhà hoài, chán quá. Ông Hai bảo rằng,
được đi vào đi ra như thế là sướng lắm rồi, sao mà chán, vì có nhiều
người khác mong được đứng dậy đi vài bước, mà không làm được, vì bệnh.
Nhưng theo ông, thì cái người nằm liệt trên giường, cũng tìm được cái
thú vui riêng, khi nghe nhạc, nằm mơ mộng, nghĩ đến các kỷ niệm thời còn
vàng son, nhớ đến những tội lỗi nho nhỏ mà họ đã phạm một cách cố ý và
thích thú.
Ông
Hai Hô tập thể dục đều đặn. Ông nói không ai chối bỏ được ích lợi của
thể dục, dù già dù trẻ. Không bao giờ trễ để bắt đầu tập thể dục. Không
thể dục, thì tấm thân nhão nhẹt ra, rất dễ làm mồi cho bệnh hoạn. Đi bộ
trong tuổi già là tốt nhất. Còn khoẻ, thì đi nhanh, yếu thì đi chậm hơn,
yếu hơn nữa, thì chống gậy mà đi. Có vận động là tốt. Đi bộ, xương đỡ
rỗng, đỡ gãy tay chân khi vấp té. Đi bộ cũng làm cho mặt mày trẻ ra,
lưng đỡ còng, thân thể đỡ đau đớn, mệt mỏi. Đi bộ cũng vui, nhất là đi
với vợ, với chồng, nói đủ thứ chuyện vui buồn. Nhưng khi bà vợ bắt đầu
cằn nhằn vì những chuyện không đâu, thì phải giả vờ chạy, để bà lại phiá
sau, cho bà nói với cột đèn, cằn nhằn với cây cỏ. Không có vợ đi cùng,
thì đi với bà cụ hàng xóm cũng vui. Bà sẽ không bao giờ dám cằn nhằn ông
vì những chuyện không đâu. Bà sẽ lịch sự hơn. Đi với bà hàng xóm, ông
bảo, đừng sợ thiên hạ hiểu lầm, cũng đừng sợ chính bà ấy hiều lầm. Không
hiểu lầm thì tốt. Hiểu lầm thì càng tốt hơn, vì làm cho bà ấy vui, làm
bà nghĩ là còn sáng giá, còn có người ngưỡng mộ đến cái nhan sắc mùa thu
của bà. Bà sẽ yêu đời hơn, sẽ ăn ngon, ngủ được, thế thì ông cũng đã
làm được một điều thiện nho nhỏ. Ông nói, ông được nghe chuyện một bà cụ
88 tuổi, bà nói rằng, phải đi bộ, phải tập thể dục để chống lại bệnh
hoạn. Mỗi ngày bà đi bộ hơn một giờ. Bà nói rằng: "Mình phải biết tự
thương mình. Con cái có thương mình, chúng có thể cho tiền bạc, quà cáp,
chứ không cho mình sức khỏe được. Mình phải tự lo lấy, để mà sống cho
vui, sống cho có chất lượng." Ông nói rằng, thể dục làm tăng tuổi thọ,
chứ không làm giảm. Ngoại trừ ham tập, tập quá sức, thì lăn kềnh ra mà
chết, mau lắm. Bơi lội là tốt nhất, vận động đủ các thứ bắp thịt. Nhưng
tuổi già, thường sợ nước, sợ lạnh. Cái gì sợ thì không nên làm, hại cho
sức khoẻ, hại thần kinh.
Mỗi
lần nghe có người than là mất ngủ, ông thưòng nói say sưa về bệnh nầy.
Theo ông thì những người nầy, đã ngủ đủ, ngủ thừa, nên không ngủ thêm
được, mà tưởng là mất ngủ. Vì ban ngày, họ cứ thấy mệt, mắt ríu lại, là
ngủ những giấc ngắn. Nên biết, ngủ một giấc chùng 15 phút lúc ban ngày,
có thể tương đương với một giấc ngủ 1 hay 2 giờ ban đêm. Mỗi đêm, người
bình thường, chỉ cần ngủ ngon chừng 3 hay 4 giờ là đủ mạnh như gấu bắc
cực. Nếu không ngủ ngày, thì đêm về ngủ dễ lắm. Không phải tuổi già là
mất ngủ, bằng chứng cho thấy chó mèo già ngủ li bì, ngủ ngày, ngủ đêm,
ngủ liên miên. Người già dư thì giờ, ban ngày ngủ rồi, thì ban khó ngủ
là chuyện thường. Ông thường nói rằng, đừng sợ mất ngủ. Khi không ngủ
được, thì dậy đọc sách, viết thư, làm thơ, xem truyền hình, gõ máy vi
tính, đọc thư bạn bè, hãy tận hưởng cái thời gian quý báu đang có. Rồi
chờ cho thật buồn ngủ, không thức nổi nữa, vào giường nằm, sẽ ngủ được
ngay, và ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng. Đừng ép giấc ngủ, ép giấc
ngủ sẽ khó ngủ hơn. Cũng đừng uống thuốc ngủ. Đại kỵ. Uống thuốc ngủ
nhiều, làm hư hại hệ thống thần kinh. Đừng nằm nhắm mắt mà đếm cừu, nếu
phải đếm, thì đếm những người tình cũ. Mau ngủ hơn. Nếu đời chỉ có một
hai người tình thôi, thì đừng đếm một hai, một hai, không có lợi. Hoặc
nằm mà hát trong trí những bài ca du dương, đẹp, gợi nhiều kỷ niệm êm
ái, thân thương. Bà chị ông, cứ than phiền là mất ngủ, nhưng khi đi
chơi, cứ leo lên xe thì quẹo đầu ngáy khò khò, ngủ suốt buổi, suốt ngày,
ngủ mà quên xem phong cảnh. Ngủ như thế thì no rồi, dư rồi, nên khi đến
khách sạn, thì làm sao mà ngủ thêm được nữa. Bà chị nói, đi chơi xa sợ
mất ngủ. Bà ấy thực sự ngủ nhiều hơn ai cả, mà bà tưởng là mất ngủ. Một
chị khác than là mất ngủ kinh niên, ghé nhà ông chơi. Ông nói là sẽ chữa
bênh mất ngủ cho chị. Ông dẫn chị kia đi chơi, suốt ngày lội bộ, chị
vừa đi vừa ngủ gật, ông không cho ngủ. Ông nhờ hết việc nầy qua việc nọ,
không để chị có thì giờ mà ngủ gật. Đêm không cho đi ngủ sớm. Mới mười
giờ đêm, mệt quá chị năn nỉ xin đi nằm, và đánh một giấc ngon lành dài
đến sáng hôm sau. Trong mấy hôm liên tiếp đêm nào chị cũng ngủ li bì,
ngủ ngon, không cần thuốc thang chi cả. Ông truyền bí quyết, là không
ngủ ngày, mệt mấy cũng không ngủ, ban đêm đừng đi ngủ sớm, phải chờ cho
mắt ríu lại, mở không ra, mới đi ngủ, thì ngủ ngon."
Nhiều
người già tự đặt cho họ một kỷ luật để sống. Theo ông, thì có kỷ luật
cũng tốt, mà không kỷ luật lại càng khỏe hơn. Nhiều người tính tình
nghiêm khắc. Mọi sự đều phải răm rắp đúng như quy định mới chịu. Tội chi
vậy, nếu không răm rắp, mà không chết ai, hại ai, thì răm rắp làm chi
cho khổ mình, khổ người? Nên dễ dãi với mọi sự, dễ dãi với chính bản
thân mình, kẻo tội nghiệp nó. Khắc kỷ cũng là điều hay. Nhưng tội gì mà
tự khắt khe với chính mình, người khác không khắt khe thì thôi. Nên cứ
xem mọi sự như trò chơi. Chơi vui nhiều thì tốt, vui ít cũng tốt luôn.
Ông không mong cái tuyệt đối, hoàn hảo. Trong một cuộc chơi, ông không
hy vọng được tất cả mọi người tham gia, có ít vui ít, có nhiều vui
nhiều. Hai ba chục người cũng vui, mà năm bảy bạn bè cũng vui luôn. Nếu
hụt một cuộc chơi, một cuộc gặp gỡ, ông cũng không tiếc, chẳng sao cả,
ông về nhà mở nhạc, mở TV ra mà thưởng thức. Ông nghĩ, được thêm một dịp
nghỉ ngơi, yên tĩnh. Có lần đi trể máy bay ? Ông bình tĩnh xin đi
chuyến sau mà không được. Ông cũng cười, không bực mình, quay về nhà,
pha một bình trà, đem một tập thơ ra mà ngâm vịnh, nằm ngửa mà thưởng
thức cuộc tranh tài thể thao. Ông nói, đôi khi nhờ trễ một chuyến may
bay mà sống sót, nếu máy bay rớt. Chiều ra ngoài quán uống cá phê xem
sinh hoạt phố phường. Nói chuyện tào lao với chủ quán.
Ông
không bao giờ tranh luận gay gắt với ai. Ông nói, tranh luận làm chi
cho mệt, rồi giận nhau?. Trong tuổi già, khi có cuộc tranh luận, thì
tránh là tốt nhất. Nếu không tránh được, thì chịu thua đi, thắng làm
chi, để cho đời ngắn lại?. Thắng tranh luận, làm thiên hạ ghét, làm mất
lòng bạn bè, làm người bị thua tức giận, và nóng mặt, không ưa mình.
Không ai ghét người thua trong cuộc tranh luận. Người thắng cuộc, dễ bị
ghét hơn. Thử đánh một ván cờ xem, nhường cho đối phương thắng , làm họ
vui hơn, không chừng mình đưọc đãi đằng hậu hỉ hơn. Đến nhà người ta,
mà cãi nhau, tranh thắng, làm họ mất mặt với vợ con, với bạn bè, thì
đừng mong chi được tiếp đãi thắm thiết. Khi thua, mình không thiệt thòi,
mất mát chi cả, mà lại được thương, tại sao không chọn tình thương, mà
chọn cái bị ghét. Thắng tranh luận, cũng chưa chắc mình đã giỏi hơn
người, mà giỏi hơn để làm chi? Và cũng chưa chắc ngưòi ta đã chịu cái lý
của mình là đúng. Trong tình vợ chồng cũng vậy, nhiều ông nhiều bà
tranh hơn thua từng ly, từng tí, cãi vả nhau tưng bừng về những điều
không ích lợi chi cho ai cả. Rồi giận nhau, nói nặng nhau, làm nhau đau
đớn vì lời nói thiếu tử tế, thiếu lịch sự. Có ích lợi gì đâu. Tranh nhau
thắng thua, làm sứt mẻ hạnh phúc gia đình, làm mất đi thì giờ quý báu
bên nhau, làm không khí gia đình nặng nề. Đừng bao giờ nói là phải làm
cho ra lẽ, không thì hoá "lừng". Hãy cứ để cho chồng mình, vợ mình
"lừng" đi, cho họ sướng. Tại sao đi ra ngoài, không dám "lừng" với thiên
hạ, mà về nhà lại "lừng" nhau làm chi cho mất vui. Ông thường nói, cứ
chịu thua đi là khoẻ nhất. Ông đã thua, thì không việc chi mà ai đó gây
hấn thêm. Đúng hay sai, ông tự biết. Không cần tranh luận nhiều. Có
tranh luận, thì cũng chưa chắc đã thuyết phục được đối phương mà không
gây mất mát. Mỗi lần phải tranh luận với ai, thì ông nhớ lại chuyện ông
Pol Pot. Ông nầy đã giết chết hơn hai triệu dân vô tội, tức khoảng một
phần ba dân số Kampuchia của ông thời đó. Thế mà cuối đời, khi sắp chết,
ông Pol Pot nói với một phóng viên Tây phương rằng, những điều ông đã
làm, là lợi ích cho dân tộc của ông. Nhớ chuyện đó, làm ông đỡ ngứa
miệng xen vào những cuộc tranh luận.
Khi
có ai chê bai ông, ông chẳng bực mình, không giận hờn, mà cứ cười, và
xem như không. Ông tự nhủ, biết đâu ông cũng đáng chê, đáng trách. Nghe
thiên hạ chê, để mà sửa mình, biết mình còn cái chưa hay, sai sót. Không
phải ông là kẽ mặt dày không biết xấu hổ, nhưng thiên hạ chê, mà không
phản ứng, thì như gió qua truông. Có một ông khác, bị vợ chê bai hoài,
chê đủ thứ. Ông nầy chỉ cười, mà nói với bà vợ rằng, ông không ngờ bà
xui xẻo đến thế, lấy phải một thằng chồng tệ hại như vậy, tội nghiệp cho
bà quá. Bà vợ nghe mà chột dạ, và biết đã ăn nói quá trớn.
Khi
nghe ai khoe khoang, ông cũng không bắt bẻ, không lật mặt thật của họ
ra, sợ làm cho họ xấu hổ, bẽ bàng. Ông cứ giả vờ tin, để mà đãi họ vài
phút vui sướng, cũng là làm được một việc thiện nho nhỏ. Ông không mất
gì, và chẳng thiệt hại cho ai, mà cuộc đời nầy thêm vui, thêm tử tế. Bởi
nghĩ thế mà ông làm.
Ông
Hai Hô quan niệm rằng, trong tuổi già, có hoài bảo thì cũng tốt, mà
không có hoài bảo chi cả, thì tốt hơn, và khôn ngoan hơn. Khi trẻ, nhiều
thì giờ, nhiều năng lực, mà chưa có hoài bảo nào làm xong, thì khi già
rồi, mong chi đạt được. Tội chi đeo vào thân cái hoài bảo cho khổ. Già
rồi, đừng xem cái gì là quan trọng cả. Từ danh vọng, tiền tài, tình yêu.
Ngay cả cái mạng sống của mình, cũng đừng xem là quá trọng. Có lần, ông
đến thăm một nhà văn đang nằm thoi thóp, miệng ngậm một cái que gỗ có
thấm nước cho đỡ khát, sắp chết vì ung thư. Ông nhà văn còn thao thức
vì một tác phẩm để đời chưa khởi đầu được. Chết chưa an lòng. Ông nói:
"Thôi bác ơi, chuyện gì mình chưa làm được, thì thế nào con cháu mình
sau nầy cũng làm. Yên tâm mà dưỡng bệnh đi."
Ông
Hai Hô cho rằng, cứ năm ba ông bà bạn già gặp nhau, uống vài ly trà, cà
phê mà nói chuyện nhảm cũng là một thứ hạnh phúc trong đời. Ông nói, dù
đến để nghe thằng bạn già nó chửi mình, cũng cứ vui, được người ta
chửi, tức còn có người để ý đến mình, còn hơn là không ai khen, ai chửi
cả. Những dịp ra mắt thơ, ra mắt sách, ông thường tham gia cho cuộc họp
thêm xôm tụ. Cho tác giả sướng. Ông khoái các buổi ca nhạc cây nhà lá
vườn, tài tử. Nó cũng có những cái hay của nó. Những buổi họp mặt anh em
bạn cũ, ông không bao giờ bỏ qua, ông nói là không tham dự thì uổng
lắm. Ông cho rằng, tuổi già, mà còn gặp lại được bạn xưa, thì không còn
gì quý báu hơn. Nằm nhà xem sách, xem truyền hình, đá banh, đâu vui bằng
gặp bạn cũ. Gặp dịp vui, thì cứ vui kẻo uổng, biết mình còn sống được
bao lâu nữa mà mãi phí ngày giờ chạy theo lợi lộc."
Mỗi
khi có ai mời đi đám cưới, tiệc tùng, ông đến đúng giờ, mà thiên hạ tà
tà đến trể, ông cũng không bực mình. Bởi người ta quen giờ cao su rồi.
Họ có cả trăm ngàn lý do để biện minh. Ông có đến sớm, thì cũng có cái
lợi khác, được nói chuyện, gặp gỡ, tâm sự tào lao với những bạn bè mà từ
lâu ít có dịp gặp nhau. Cũng vui và quý. Dễ chi có cơ hội thuận tiện để
gặp nhau. Đến khi dọn thức ăn ra, không còn cơ hội để nói chuyện nữa,
vì ai nấy, lo gắp, lo nhai, không rảnh mà nói chuyện. Khi ăn xong, thì
bạn bè vội vã ra về, vì đường xa, vì đêm khuya, vì mệt nhọc. Bởi vậy,
ông cứ vui với cái bê bối của thiên hạ, và bằng lòng với câu "Không ăn
đậu không phải Mễ, không đi trễ, không phải Việt Nam."
Ông Hai Hô thường nói, tuổi già, cứ phiên phiến với mọi sự, cho khoẻ, cho sướng cái thân già của mình.
- Tràm Cà Mau |
||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Lời Nói Thực Tế Của Một Nhóm Người Già - Bản dịch: Thầy Chạy Sydney![]()
Có một tổ ấm của riêng ta, chưa đến lúc chết, xin nhớ muôn ngàn lần chớ bỏ mất nó đi.
Có một người bạn đời thân thiết, phải cùng đối đãi và chăm sóc tốt cho nhau,
Có một cái thân thể, tự mình phải biết bảo trọng, có một cái tâm thái tốt, tự mình vui sướng!
Chúng
ta đã già rồi! Nhưng mà hiện tại sức khoẻ vẫn còn tốt, đầu óc hãy còn
minh mẫn, già rồi trông cậy vào ai! Phải phân chia ra nhiều giai đoạn mà
nói.
Giai đoạn thứ nhứt
Sau
khi đã về hưu, tuổi từ 60 đến 70, sức khoẻ cũng như điều kiện hãy còn
tốt. Thích ăn gì thì ăn, thích mặc gì thì cứ mặc, thích chơi đùa gì thì
cứ chơi đùa, chẳng nên tự bạc đãi mình, vì những ngày giờ này sẽ không
còn là bao lâu nữa, cần phải nắm lấy (cơ hội). Nắm giữ một ít tiền, giữ
lại căn nhà, biết tự an bài tốt cho con đường sau cùng của mình.
Tình
trạng kính tế của con cái được tốt là của chính chúng, con cái hiếu
thuận là phẩm hạnh tốt của chúng. Chúng ta chẳng nên cự tuyệt sự giúp đỡ
của con cái, không nên cự tuyệt sự hiếu kính của chúng. Nhưng quan
trọng nhứt là phải biết tự nương tựa vào chính mình, tự an bài tốt cho
sinh hoạt của chính chúng ta.
Giai đoạn thứ hai
Qua
hết đoạn tuổi bảy mươi (tức ở vào tuổi bát tuần) mà không có bệnh hoạn
gì, cuộc sống hãy còn được tự do, đó là không có những vấn đề gì lớn xảy
ra, nhưng phải nên nhớ rằng mình đúng là đã già rồi, thể lực và tinh
lực sẽ không còn tốt nữa, các phản ứng tự nhiên của mình cũng sẽ từ từ
xấu đi.
Nên ăn cơm chậm lại để đề phòng mắc nghẹn; đi đứng cần chậm lại để đề phòng bị té ngã.
Chẳng nên tranh hơn người, cần biết tự chăm sóc cho chính bản thân mình!
Đừng nên đi "quán xuyến" việc này việc kia, lo lắng sinh hoạt của con cái. Có người còn đi giữ cháu nội cháu ngoại nữa.
Cần phải biết "ích kỷ" một chút để, tự chăm sóc, trông coi chính mình.
Mọi
việc phải biết để cho nó hoà theo tự nhiên, phải làm tí công việc quét
dọn rác, phải biết cố gắng giữ gìn cho cái trạng thái sức khoẻ của mình
được lâu dài hơn.
Để
cho cái năng lực tự chủ về cuộc sống của mình có thể kéo dài thêm,
không phải nhờ vào sự chăm sóc của người khác, thì có phải là tốt hơn
không?
Giai đoạn thứ ba
Sức
khoẻ đã suy yếu rồi, phải cần đến người giúp chăm sóc cho mình, việc
này nhất định phải được chuẩn bị từ trước, tuyệt đại đa số con người ít
ai tránh khỏi được cái cửa ải này.
Phải
biết điều chỉnh tốt cho lòng mình, phải biết thích ứng với hoàn cảnh,
sinh lão bịnh tử, với cái Tử là cái việc thường tình của đời người.
Ta
cứ thản nhiên mà đối diện với nó, vì đó là cái đoạn cuối của đời người,
chẳng có gì mà phải sợ nó, đã có chuẩn bị trước rồi, thì chẳng có chi
mà cảm thấy phải khó chịu.
Hoặc
là vào viện dưỡng lão, hoặc là mướn người đến nhà trông coi chăm sóc
cho mình, lượng sức lượng tình mà làm, nhất định là phải có biện pháp.
Nguyên
tắc là chẳng nên "làm khổ" con cái của mình, đừng để con cái mang nặng
cái tâm lý không tốt, làm thêm nhiều công việc nhà, gánh nặng thêm sự
tốn hao tài chánh hạn hẹp của gia đình.
Tự
mình phải biết khắc phục thêm một chút, cái cuộc đời nầy của mình, cái
gì khổ, cái gì khó khăn cũng đã qua rồi, hãy tin tưởng rằng cái đoạn
đường nhân sinh cuối cùng cũng sẽ dễ dàng mà bước qua.
Giai đoạn thứ tư
Đầu
óc ta minh mẫn, bệnh tật đeo mang không cách nào thoát khỏi, lúc mà cái
phẩm chất của sinh mạng đến điểm tệ hại nhất, phải biết dám đối diện
với cái chết, cương quyết không để người nhà phải lao khổ tái cứu sinh,
không để bà con thân hữu phải chịu hứng chịu những hao tốn vô ích.
"Già rồi" trông cậy vào ai? Chính mình, chính mình, lại vẫn là chính mình.
Già rồi thì phải làm sao?
Tại
sao lại có cái ý nghĩ nầy, đó là do bởi tôi luôn nhận thấy, người già
trên 80, không cần phải hạn chế đồ ăn của họ phải thanh đạm, cũng không
cần phải giảm cân, ăn được là quan trọng nhứt
Muốn
ăn gì thì cứ ăn, có thể cho là ăn được những món ngon của thế gian nầy,
để cho cuộc sống càng thêm vui sướng và thích thú. Hạn chế người già
không được làm cái nầy, ăn cái kia là đi ngược lại cái nhân tính của con
người, mà lại cũng chẳng có gì gọi là căn cứ khoa học cả.
Trên
thực tế, càng ngày càng có nhiều hiển thị chứng cứ của khoa học là,
người già cần ăn ngon thêm một chút, cần mập thêm một tí, để cho cơ thể
họ có thêm năng lực để đối kháng bệnh tật, đối kháng tính trầm cảm.
Tôi
mong ước là, các cụ lão niên đều có thể hưởng thụ được sự tốt đẹp của
đoạn cuối con đường nhân sinh của chính mình, mà không phải lưu lại bất
cứ một điều gì hối tiếc.
Có thể cũng đừng kỳ vọng chờ đợi để lại cho thế hệ kế tiếp.
Lời kết luận:
Câu nói đúng của tục ngữ:"biết lo về tài chánh thì không nghèo, có kế hoạch thì không rối rắm, có chuẩn bị thì không bận rộn". Chúng ta với tư cách là lão niên "dự bị quân" đã có ý tốt chuẩn bị hay chưa?
Chỉ cần sự việc chưa xảy ra, phải có chuẩn bị cho tốt, sau nầy sẽ khỏi phải lo lắng cho cuộc sống ở tuổi xế chiều.
Thứ nhất: Lão Kiện
Sự chuẩn bị trước tiên là cái khả năng làm cho sức khỏe tốt ở tuổi già, ngày thường cần chú ý đến "tam dưỡng":
1-ăn uống dinh dưỡng,
2-chú trọng bảo dưỡng,
3-phải biết tu dưỡng.
Thứ hai: Lão Cư
a/- Đối với sự việc cùng con cháu ở chung, phải rán nhẫn nhịn bằng cách im hơi lặng tiếng trong cuộc sống, chi bằng
b/-
Vui sống hưởng thụ với cuộc sống đơn lẻ độc thân, bất luận là trong
thành phố hay khu ngoại ô, những nơi thích hợp cho chính bản thân mình,
đồng thời là nơi có những quán ăn gần nhà mà mình ưa thích nhứt.
Thứ ba: Lão Bổn
-
Đã nuôi dưỡng được con cái, mà không thể có cách nào để dưỡng già. Là
cha mẹ của người ta thì phải nhớ biết tự lập tự cường, chưa vào trong
quan tài thì đừng bao giờ chia gia sản.
Thứ tư: Lão Hữu
-
Có được một người bạn tốt, người hảo hữu cùng ăn chung và người bạn đời
đều quan trọng như nhau, bình thường cần phải biết kết rộng thiện
duyên, nhận thức nhiều về các loại bằng hữu, là để hưởng thụ được cái bí
quyết của nhân sinh.
Nói tóm lại, dù bạn là một trường thọ lão ông hay lão phụ, cuối cùng, bạn cũng chỉ là một con người.
Cái
câu nói nầy thật không bi thiết chút nào, lại cũng không có gì phải lo
sợ, hoàn toàn do bạn tự an bài cách sống như thế nào, để coi bạn có hay
không có cái tâm lý thành thục, có yêu thích cái gì đó thì rất đáng để
bạn trực tiếp đi làm.
Có được cái sức khoẻ tốt hay hạnh phúc, cũng đừng hy vọng để lại cho con cái.
Các
lão bằng hữu ơi, cần phải ghi nhớ là chúng ta đều là những con người
của cái thế hệ cuối cùng hiếu thuận với cha mẹ, lại cũng là những con
người của cái thế hệ thứ nhất bị con cái bỏ rơi.
Xin
đừng có "nhân tại thiên đàng, tiền tại ngân hàng", cái gọi là "một mình
rất buồn tẻ", "già rồi mà chẳng có ai phục dịch", những tín hiệu phiến
diện v.v và v.v ... đã là những câu nói lỗi thời từ lâu rồi.
Hãy
nhận thức cách rõ ràng là: tiền tài, giàu sang chỉ là những số tự mà
thôi, danh lợi cũng chỉ là một đoản kỳ tạm hư vinh, cuộc sống mới đúng
là cái toàn diện của đời người,
Hãy
là cái người "vui sống hưởng thụ cái cảnh già độc thân", thì cuộc đời
mình sẽ có những mùa Xuân rực rỡ trở lại, với chính mình, điều kiện là:
thân thể cường tráng, có tiền, có thì giờ, có bạn bè, lại cũng có cái
không gian chuyên thuộc của riêng mình.
|
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
giodocgocong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 12/Jan/2011 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 132 |
![]() ![]() ![]() |
|||
|
||||
GIÓ ĐỘC GÒ CÔNG
|
||||
![]() |
||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23828 |
![]() ![]() ![]() |
|||
Con Cái Thời Nay![]()
Xem
tin tức ở Việt Nam chúng ta thường nghĩ đến lúc đạo lý đã suy đồi. Thời
gian qua, số vụ án con cái giết cha mẹ đang có chiều hướng gia tăng.
Trên báo chí, không thiếu tin tường thuật những vụ án mạng tàn bạo do
những đứa con bất hiếu thẳng tay đâm chém cha mẹ dù chỉ với những bất
bình nhỏ.
Nếu
kể chuyện nghịch nữ hoặc nghịch tử ở Việt Nam, hẳn phải mất hàng nghìn
trang giấy: Tơ Đênh Triệu (Quảng Nam) say rượu giết cha. Đặng Hùng
Phương (Vĩnh Long) giết cha rồi đem lên Sài Gòn phi tang. Trần Văn Kiệt
(Tây Ninh) đâm cha sau một lần cãi vã. Lê Văn Lực (Thanh Hóa) chỉ vì lời
mắng “đồ ăn hại” đã đoạt mạng cha mình. Nguyễn Xuân Hậu (Lào Cai) chỉ
vì bị la không chịu lo sửa soạn Tết đã đâm chết cha. Nguyễn Khả Đ. (Rạch
Giá) giết mẹ rồi giấu xác trong lu nước. Nguyễn Thị Phin (Tây Ninh)
giết mẹ chiều 30 Tết để lấy tiền, vàng. Nông Văn Thùy (Bắc Giang) xin
tiền không được, đã vung chày sát hại mẹ. Bùi Minh Đạt (Hà Nội) vì mâu
thuẫn đất đai, đã dùng dao chém nhiều nhát vào cổ, đầu, tay mẹ khiến nạn
nhân tử vong tại chỗ. Lê Văn Phước (Đồng Nai) trong lúc tắm rửa, vệ
sinh cho người mẹ 82 tuổi bị tai biến, đã liên tục chửi bới và đánh đập
khiến bà cụ tử vong...
Chúng
ta những người Việt đang sinh sống ngoài Việt Nam, ở Hoa Kỳ hay các
nước khác thường cho là mình may mắn không phải sống ở cái đất nước đạo
lý suy đồi, luân thường bại hoại. Nước Mỹ có 320 triệu dân, nửa năm chưa
xảy ra một vụ án mạng con giết cha mẹ, đất nước Việt Nam chỉ có 90
triệu dân, tuần nào cũng có chuyện cha mẹ bị con đâm chém. Nhưng như thế
có phải cha mẹ người Việt sống ở Mỹ, đời sống được bảo vệ và có hạnh
phúc hơn không? Sở dĩ chúng tôi trình bày như vậy, vì giữa văn hóa Việt
và Mỹ có những phần khác biệt.
Nhà văn Lâm Ngữ Đường trong “Một Quan Niệm Về Sống Đẹp” (Nguyễn Hiến Lê
dịch) đã cho rằng người cao niên ở Mỹ về già vẫn làm việc hăng hái, vì
họ theo chủ nghĩa cá nhân một cách thái quá, tự đắc, muốn độc lập, cho
sự nhờ vả con cái là tủi nhục. Trong các quyền của công dân không có cái
quyền của cha mẹ được con cái phụng dưỡng. Tại phương Tây, ông già bà
lão không muốn xen vào đời sống của con, lánh mặt trong một nơi nào đó,
tự lo cho cái ăn ngủ của mình. Người Trung Hoa (và người Á Đông?) không
có cái quan niệm cá nhân độc lập, mà cho rằng những người trong gia đình
có bổn phận giúp nhau, nếu về già mà phải nhờ cậy con, có điều chi mà
xấu hổ!
Bản năng của muôn loài là thương yêu và bảo vệ con. Con gà mẹ dùng đôi
cánh che chở cho bầy gà con trước sự hung hiểm của diều hâu. Con chim
bay xa tha mồi về mớm cho con non nớt yếu đuối bên bờ tổ. Hung dữ như
cọp beo cũng không có loài nào ăn thịt con. Nhưng muôn loài cũng không
có cái cảnh nào có đàn con đi kiếm thức ăn cho những người sinh nở ra
chúng lúc họ về già, không còn khả năng săn nhặt, nằm chờ chết trong
hang ổ. Nhà văn Lâm Ngữ Đường cho rằng, “Người nào cũng yêu con, nhưng
người có văn hóa mới biết thương yêu cha mẹ!”
Ở Mỹ, trong giờ hành chánh mà một đứa con lang thang ngoài đường, thì
cảnh sát lập tức kết tội cha mẹ của chúng, nhưng một cụ già bị bỏ ngoài
đường thì người ta tìm đến sở xã hội, liệu có ai truy tìm và lên án
những đứa con.
Chúng ta phải chờ vài ba thế hệ nữa may ra, chứ hiện nay, các bậc cha mẹ
người Việt ở Mỹ, tâm lý vẫn chưa sẵn sàng, còn cảm thấy tổn thương và
đau khổ, than trách khi bị con cái đẩy ra khỏi nhà. Những vị cao niên Mỹ
không ai than phiền vì con cái không quan tâm hay “bỏ rơi” mình. Đối
với họ, con trên 18 tuổi đã ra khỏi gia đình, vì muốn cho con tự lập, có
khi muốn con đi học xa, thăm hỏi, quan tâm là điều tốt, nhưng cha mẹ
không bao giờ kỳ vọng nơi con cái khi mình về già, trông đợi sự giúp đỡ
của con. Cha mẹ và con cái từ đây hết còn bổn phận với nhau. Do đó, họ
chuẩn bị để dành tiền, đầu tư, mua bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm “sức khỏe
lâu dài,” chuẩn bị “hậu sự” cho mình.
Như vậy các bậc cha mẹ này không còn cảm thấy đau khổ vì những lý do về con cái.
Trái lại người Việt hay Á Đông luôn cho rằng trong trăm nết thì chữ hiếu
đứng đầu (Bách hạnh hiếu vi tiên). Theo Phật Giáo thì “tâm hiếu là tâm
Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật.” Khi thấy con cái đối xử với mình tệ bạc
thì đem lòng ai oán, nhất là vào buổi giao thời, vẫn thường so sánh lối
sống của gia đình ngày xưa, với lối sống “Mỹ hóa” bây giờ của con cái,
và cũng vì chính sự đổi thay quá nhanh chóng của con cái, sinh ra ở Mỹ,
hay chịu lối sống Mỹ quá sớm, hoặc là dùng chữ gia đình “vô phước” như
cách than phiền của nhiều vị.
Quí vị đã có dịp lui tới chuyện trò với các vị cao niên người Việt trong
các nhà dưỡng lão, đã thường biết đến nỗi buồn của họ, không phải vì
tiền, vì danh mà vì một nỗi cô đơn, chỉ vì con cái không ngó ngàng đến
họ. Khi tôi muốn kể nỗi lòng của một vị cao niên buồn bã, cô đơn trong
một nhà dưỡng lão, trên trang báo, thì ông cụ chấp tay vái tôi, “Thôi
xin ông, con tôi mà biết tôi kể lể với ông thì chúng hành tôi đến chết
mất!”
- Một gia đình, khi người cha qua đời, những đứa con thấy mẹ thui thủi
một mình, khuyên mẹ bán ngôi nhà rồi về ở với chúng nó. Như một trái
bóng, bà bị đưa qua đưa lại giữa những đứa con, và chỗ ở cuối cùng của
bà bây giờ là nhà dưỡng lão!
- Một bà cụ khi bị đưa vào bệnh viện, rồi nhà hưu dưỡng, vì lo xa, bà
làm thủ tục trao cho cô con gái duy nhất, ngôi mobile home của bà, nhưng
chỉ ít lâu sau, cô này bán ngôi nhà lấy tiền bỏ túi. Khi khỏe mạnh được
trở về nhà, bà phải đi “share” phòng cho đến lúc qua đời.
- Một gia đình lúc người cha mất, bà mẹ vội vã sang tên ngôi nhà cho hai
cô con con gái. Cô chị trả cho em một nửa số tiền để lấy hẳn ngôi nhà,
và mời bà mẹ ra khỏi nhà. Lý do: Hạnh phúc gia đình của riêng cô. Người
mà cô chọn là chồng, chứ không phải mẹ!
- Nếu bạn đọc thấy một người phụ nữ luống tuổi thường đi xe đạp trong
khu Little Saigon, đó là người mẹ có bốn đứa con, bà đang ở nhà “share”
vì không đứa con nào chịu “nuôi” mẹ.
Hầu hết những nhân vật trong câu chuyện này là quý bà, vì trong buổi
giao thời này, còn mang tâm lý “nội trợ,” không biết lái xe, không biết
Anh ngữ, và tình thương con cái còn nhiều như thuở còn ở Việt Nam, còn
các ông thì dễ sống hơn. Mặt khác là bậc cha mẹ người Việt ở Mỹ không
biết là các con đổi thay quá nhanh.
Phần đông những bậc cha mẹ ở Mỹ lâm vào cảnh ngộ trên vì có con cái sinh
ra ở Mỹ hay được đem đến Mỹ quá sớm, và con cái có bằng cấp càng cao,
giàu có càng nhiều thì hình như càng không nghĩ đến chuyện mình phải có
bổn phận phụng dưỡng cha mẹ già. Không những phụng dưỡng cha mẹ già mà
còn như lường gạt, lừa đảo các bậc sinh thành như những câu chuyện
thường xảy ra trong cộng đồng Việt Nam mà chúng tôi trình bày ở trên.
Cái cảnh trong gia đình nghèo, anh chị em thương nhau, con cái hiếu với
cha mẹ, hình như chúng ta vẫn thường thấy trong đời. Những đứa con lớn
lên ở Việt Nam, đã qua cái cảnh thiếu ăn, cha tù đày, mẹ vất vả ngược
xuôi, hẳn trong lòng chúng còn một chỗ tựa cho cha mẹ.
Những câu chuyện con, dâu, con rể mời cha mẹ ra khỏi nhà không thiếu ở
đây, nhan nhản, chẳng khác gì những thảm cảnh con cái giết cha mẹ ở Việt
Nam. Gia đình người Việt ở Mỹ chưa thấy cảnh cha mẹ chết dưới tay con,
nhưng khổ đau u sầu do con cái gây nên thì không thiếu, “Giết nhau chẳng
cái Lưu Cầu, giết nhau bằng cái u sầu độc chưa?”
Cuối cùng bài học chưa thuộc của tuổi già vẫn là: “...Người hiểu đời coi
việc lo liệu cho con là nghĩa vụ, là niềm vui, không mong chờ báo đáp.
Chờ báo đáp là tự làm khổ mình.” (Chu Dung Cơ).
Bài học thứ hai là đừng bao giờ “dốc túi” cho con quá sớm trước khi nhắm mắt.
Thực ra, “Nuôi con mới biết lòng cha mẹ, về già mới biết lòng con cái.”
Trong chúng ta ai thực sự đã chuẩn bị cho tuổi già như người bản xứ, thôi thì trăm sự, đường cùng phải nhờ đến ông nhà nước.
Huy Phương Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/May/2015 lúc 3:01pm |
||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||
![]() |
||||
<< phần trước Trang of 72 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |