![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Thơ Văn | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 201 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23784 |
![]() ![]() ![]() |
Một Nửa Người Đàn Ông![]() Cô chăm chú sửa lại bản thảo của cuốn tiểu thuyết một lần chót, trước khi mang sang nhà in. Làm công việc sửa đổi văn chương bản thảo cho nhà xuất bản, không lúc nào mà cô rảnh rỗi được. Trong tháng này có 5 cuốn truyện dài sẽ được in, cả 5 cuốn đều là sách của tác giả có sách xuất bản lần đầu. Cô nghe tiếng gõ cửa, rồi chiếc đầu của người tùy phái ló vào. “Thưa cô, có một bà muốn gặp cô” “Ai vậy, ông có hỏi tên hộ tôi không? “Tôi có hỏi, bà âý nói tên là Lan”. Cô cố nhớ tên của các tác giả mới trong đầu. Không có ai là Lan cả, họ đều là phái nam. Cô nói với người tùy phái; “Ông mời hộ bà Lan vào văn phòng ngoài đó, tôi sẽ ra. Cũng sắp đến giờ tôi đi ăn trưa rồi.” Đợi cho người tùy phái khuất sau cánh cửa, cô quay điện thoại gọi bạn: “Hôm nay em muốn đi ăn mì ở Hải Ninh, em sẽ đến đó độ 20 phút nữa, em có một người khách đang chờ. Nhưng em sẽ tiếp họ 5 phút thôi.” Người đàn bà khỏang ngoài 45 tuổi, ăn mặc giản dị nhưng lịch sự, nét mặt khô nhưng trí thức. Bà ta ngồi yên không đứng lên khi cô xuất hiện. Cặp chân mày hơi cau lại một chút, bà chờ cô tự giới thiệu trước. Cô hơi khựng lại một giây,nhưng tự chủ được ngay, cô quen với những người đến gặp cô để nhờ vả, nên cô hỏi với giọng không được vồn vã lắm: “Tôi là Tâm, bà cần gặp tôi có việc gì?” Người đàn bà nhìn thẳng vào mặt cô, nói chậm và ngắn. “Tôi là vợ của ông Ngọc.” Cô đứng lặng, nghe như có một đường nước mưa lạnh vừa chẩy từ cổ áo xuống lưng. Cô biết chuyện này rồi thế nào cũng đến, nhưng cô không thể đoán trước là nó đến vào buổi trưa hôm nay. Cô biết rất rõ mình phải nói gì với bà Lan. Cô lấy lại bình tĩnh, kéo một chiếc ghế ngồi đối diện với vợ của người yêu mình (hay người mình yêu, cũng thế.) Cô ngồi yên, thở một hơi thật sâu, quan sát một bà vợ. Vợ của người đàn ông mình đang liên hệ. Cô muốn biết chắc người đàn bà này sẽ hiểu những điều mình sắp nói. Cô đi thẳng vào vấn đề hộ người đàn bà. “Chắc bà đến đây để cho tôi biết là anh Ngọc đã có gia đình. Thưa bà, tôi biết điều này đã lâu. Và không bao giờ tôi có ý định kéo anh Ngọc ra khỏi gia đình của anh ấy.” Cô nói luôn một hơi dài. Người đàn bà ngạc nhiên về sự bình tĩnh của cô, bà ngẩn ra một lúc ngắm tình địch của mình. Trước mặt bà là một phụ nữ trẻ( chắc chỉ lớn hơn con gái lớn của bà bốn, năm tuổi.) Hai con mắt sáng trên một khuôn mặt nhỏ, cắt tóc ngắn, mặt không phấn chỉ thoa một chút son mầu san hô nhạt, cùng mầu với chiếc sơ mi, chiếc quần jeans đen sát vào người, cô hơi gầy. Cả người cô toát ra vẻ vừa thông minh vừa bướng bỉnh. Bà tự hỏi. “Cái vẻ nào của người con gái này đã quyến rũ chồng mình?” Bà hỏi lại với giọng hơi ngập ngừng: “ Cô không bao giờ có ý định kéo anh Ngọc ra khỏi gia đình của anh ấy thì tại sao cô đi lại với anh ấy cả hai năm nay, có điều gì bảo đảm là cô sẽ không lấy anh ấy một ngày gần đây?” Cô điềm đạm: “Thưa bà đã hai năm nay, từ khi anh Ngọc có liên lac với tôi, ngày nào anh Ngọc cũng có mặt ở nhà một bữa ăn. Hôm thì về ăn trưa, hôm thì ăn cơm chiều. Buổi tối, anh Ngọc ngủ ở nhà, lương đem về không thiếu một đồng. Như thế không chứng tỏ được là tôi sẽ chẳng bao giờ muốn chiếm đọat anh ấy của bà hay sao?” Người đàn bà ngẩn ra vài giây trước lý luận lạ lùng của cô. Bà ta chưa biết phải nói gì thì cô đã tiếp, cô nói như cô đang tâm sự với một người bạn thân hay có thể cô ta đang viết một trang tiểu thuyết thì cũng thế. “ Xin bà cứ an tâm. Anh Ngọc kết bạn với tôi là một sự an toàn cho hạnh phúc gia đình của bà. Thú thực với bà, tôi đã hơn 30 tuổi. Nhưng không bao giờ tôi có tư tưởng muốn lệ thuộc, hay muốn làm sở hữu chủ nguyên một người đàn ông. Tôi xin lỗi bà khi phải nói điều này. Tôi không hiểu được tại sao phần đông những người đàn bà trên mặt đất này lại có thể đặt mình lệ thuộc vào một người đàn ông nguyên một ngày, rồi những ngày đó kéo ra cả suốt đời mình. Hay có người đàn bà muốn làm chủ một người đàn ông như làm chủ một ngôi nhà, một cái thuyền, một chiếc xe. Rồi khi không ưng ý cũng không làm sao mà đem cầm, đem bán đi được như cái xe, như ngôi nhà. Đành đợi đến ngày họ chết mới đem chôn xuống đất. Tôi chỉ có thể ăn một bữa trưa với anh Ngọc, hoặc một bữa chiều, gặp mặt vài tiếng trong một ngày. Nếu bây giờ anh Ngọc đòi hỏi tôi phải là của anh ấy 24 giờ trong một ngày, phải buộc vào một tờ văn tự như giấy chủ quyền động sản, hay bất động sản, thì chắc chắn là tôi sẽ chấm dứt sự liên hệ lập tức Bà không mất mát gì cả. Anh Ngọc là người đàn ông đào hoa, anh ấy không có tôi, anh ấy sẽ đi với người khác. Lúc đó bà mới nên lo ngại. Nếu tôi không có anh Ngọc, dĩ nhiên cũng rất nhiều người đàn ông khác muốn đến làm bạn với tôi. Vì họ biết tôi không bắt họ cưới hỏi, không lệ thuộc vào họ, cũng không muốn làm chủ họ, tôi không nhận quà tặng, khi đi ăn, đi chơi thì tôi cũng thay phiên trả tiền. Người đàn bà ngắt lời cô bằng một cái khoát tay, trước khi nói. “ Thế cô cho là cô chỉ gặp anh Ngọc có mấy tiếng một ngày, không phải là chiếm đoạt hay sao ?” “Thưa bà, tôi xin hỏi lại. Trong một ngày của bà, bà nghĩ đến bà bao nhiêu tiếng? Bà nghĩ đến anh Ngọc bao nhiêu tiếng? Chúng ta, ai cũng có thế giới riêng của mình, và ai trong một lúc nào đó chắc cũng muốn người khác để cho mình được yên thân. Những lúc bà không cần có anh Ngọc bên cạnh, thì việc anh ấy đi đâu và làm gì có quan trọng lắm không? Tôi biết bà đang nghĩ gì trong đầu. Chắc bà cho tôi là một người mất thăng bằng. Hay có thể là bà cho tôi đang tìm cách lừa bà, để một ngày nào đó tôi sẽ chiếm đoạt nguyên cả anh Ngọc. Không, không bao giờ tôi cần nguyên một người đàn ông cả, tôi chỉ cần một nửa thôi. Có nhiều người phải uống nguyên một ly trà mới thấy vị ngon, phải ăn nguyên một trái táo mới hài lòng, phải đến được chân núi, hay trèo lên đỉnh núi để thưởng thức thì mới mãn nguyện, sông thì phải đi hết dòng mới thỏa chí, phải được lấy nguyên một ông chồng và được gọi là vợ thì mới cho là sung sướng. Tôi thì trà uống một ngụm, táo cắn một miếng, núi nhìn một góc, sông yêu một khúc, đàn ông hưởng một nửa. Suốt đời chỉ là người tình thì cũng đã thấy mình dư thừa hạnh phúc. Bà cứ an lòng ra về. Người đàn bà kéo ghế đứng lên, bà thấy không cần phải nghe thêm nữa. Bà biết có nói gì cũng vô ích. Ngọc sẽ không bao giờ buông được người con gái đầy quyến rũ lạ lùng mà không ai phải cưu mang này. Và cô ta là người sống với những sản phẩm của tưởng tượng đó thì cũng sẽ chẳng bao giờ muốn thế chỗ của bà. Bà ra về. Họ không chào nhau. Nhưng người tình đứng nhìn theo cho đến lúc cái bóng của người vợ khuất ở một ngã rẽ. Bà không an lòng chút nào như lời khuyên của cô. Bà vừa đi vừa nghĩ về những câu nói của tình địch, bà phân vân tự hỏi. Cô ta là nhà văn, cô làm việc cả ngày với chữ, là những tưởng tượng của riêng cô và của thiên hạ trộn chung vào với nhau. Những điều cô nói ra là mặt thật của đời sống, hay chỉ là một chương sách cô vừa đọc hoặc cô sắp viết? Nhưng thật hay không, đời sống hay tiểu thuyết. Những lời đó làm bà phải lưu ý. Gần hai chục năm nay taị sao bà lại để mình lệ thuộc vào nguyên một người đàn ông như thế? Nếu bà biết sớm suy nghĩ như cô ta, chỉ cần giữ một nửa thôi, thì cuộc sống sẽ thanh thản biết bao ! Cô đổi ý định ra ngoài
ăn trưa, cô nhờ người tùy phái ra mua thức ăn đem về sở. Cô gác ống điện
thọai ra ngoài. Một nửa người đàn ông hôm nay cô cũng không thấy hấp
dẫn nữa. Trần Mộng Tú
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Bằng một giọng nhỏ nhẹ, tôi hỏi dò chồng tôi:
Tôi có đề nghị bà về ở chung nhưng với hai điều kiện rất rõ ràng, là
bà phải có điện thoại riêng, và không được nằm dài ở xa lông nói chuyện
hàng giờ với bạn trong khi vợ chồng chúng tôi đang có khách.
Chúng tôi chuẩn bị phòng để đón má tôi. Tôi tính mua một cái giường đơn nhưng Thiện cản:
Thằng em trai út đưa má tôi đến vào một buổi trưa chủ nhật. Nó xách theo một cái va li nhỏ và một cái túi. Nó nói:
Tôi dặn lần nữa:
Tôi la lên:
Trước đây có lần Tiến dẫn phái đoàn đi du lịch mà tụi em không đứa
nào rảnh để giữ má tôi nên Tiến liên lạc xin được một chỗ trong một nhà
dưỡng lão cho má tôi ở hai tuần. Mà thật vậy, mỗi lần hai đứa gặp bà, người mà má tôi chào hỏi đầu tiên bao giờ cũng là chồng tôi: “Thiện đó à”. Còn tôi, lần nào tôi cũng phải hỏi: - Còn ai đây, má có biết không? - Con Thu chứ ai, má nhớ mà. Tôi nói lẩy đùa: - Nhớ mà lúc nào cũng nhớ sau thằng rể của má. Mỗi lần như thế, má tôi còn biết nói lấp: - Mắt má già thấy ai trước thì chào. Tối hôm sau, Thiện nói với tôi: - Để anh đưa má lên cầu thang. Nói xong anh đến sau lưng má tôi và nói: - Má lên cầu thang một mình nghe, con đi sau lưng má, có gì con đỡ má. Và từng bước, tay không vịn thành cầu thang, má tôi vui vẻ bước lên hết mười sáu bậc thang với Thiện đi đàng sau. Những ngày kế tiếp, chiều chiều Thiện mở cây đàn keyboard và nói với má tôi: - Để con đàn và hát cho má nghe. Để mở đầu con hát bài má thích, Mộng dưới hoa: Chưa gặp em/ Tôi vẫn nghĩ rằng/ Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng… Những lúc đó tôi thường đứng ở bếp lo bữa tối. Tôi cười thầm vì người biết đàn keyboard là tôi chứ không phải Thiện. Anh chẳng biết nốt nhạc nào hết, chỉ hát thuộc lòng bài hát còn đàn thì chỉ việc bấm nút cho máy chạy. Nhưng tôi cảm động thấy Thiện đóng vai nhạc sĩ kiêm ca sĩ để giúp vui má tôi. Ngoài chuyện đàn hát, Thiện còn mang sách cho má tôi đọc. Tôi thấy má tôi nằm trên sofa chăm chú đọc, hết trang này sang trang khác. Một lần tôi thấy Thiện đưa một cuốn sách khác cho má tôi, lấy cuốn trước lại và hỏi: - Má đọc thấy truyện ra sao? - Ừ, má thấy trong truyện có người đàn bà… Thiện reo lên: - Hay quá! Má đọc mà thấy trong sách có nhân vật nữ là giỏi quá rồi! Trí nhớ má còn tốt lắm! Tôi muốn phì cười trước lời khen của Thiện. Nhưng bỗng nhiên tôi nhận ra một điều: Thiện dễ thương hoá má tôi về mọi mặt. Những cái lẩm cẩm, những cái chướng của bà anh không bận tâm hay khó chịu. Thiện ân cần với má tôi không hẳn để làm vui lòng tôi mà tôi tin anh coi má tôi như mẹ anh. Thiện mồ côi mẹ lúc anh mười tuổi. Tôi nghĩ, những người đàn ông mồ côi mẹ sớm, suốt đời họ luôn cất giữ hình ảnh một bà mẹ trong tim. Thiện đang cần một bà mẹ, dù là một bà mẹ đang đứng ở cuối đường dẫn vào lú lẫn. Những gì anh đang làm không phải để cho ai khác mà để chính lòng anh ấm lại. Thiện đã vô tình cho tôi một cái nhìn khác về má tôi. Và giờ tôi đã hiểu vì sao má tôi luôn chào Thiện trước khi nhận ra tôi. Còn
về phía Thiện, tôi nhận ra, để thật hạnh phúc đi hết con đường còn lại
cùng anh, ngoài vai người tình, người vợ, tôi còn phải kiêm cả hình ảnh
người mẹ trong trái tim vốn thiếu vắng của anh. Trang Châu |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
BẦY CHIM SẺ THÁNG NĂM![]() Ngỡ là ong làm tổ ngay góc hiên cao sau nhà, nơi mỗi sáng tôi vẫn ngồi uống cà phê và nghe tiếng chim hót đầu ngày. Nhưng không phải, đó là một tổ chim khi một chú chim vụt bay khỏi tổ. Ðến bây giờ tôi mới nhìn kỹ hơn. Ðó là tổ chim và dưới đất đầy những phân chim, có một chú chim non bị rơi khỏi tổ đã chết. Tôi đắn đo. Giá như lúc còn nhỏ đã nghịch ngợm phá bỏ tổ chim. Chẳng biết bao lâu những chú chim non mới đủ lông cánh để bay theo mẹ? Tôi đợi thêm cả tuần hay mười ngày. Rồi như không chịu nổi sự phóng uế của chim ngày càng nhiều hơn, cũng như đoán chừng những chú chim non đã đủ lớn và chỉ bay về chiều tối, tôi lấy cây đẩy tổ chim rơi xuống. Bốn chú chim non rơi theo cái tổ. Chút thảng thốt và ân hận. Dường như tôi đã im lặng nhìn chúng khá lâu trước khi nghĩ ra mình cần phải làm gì. Ðặt những con chim non vào lại tổ, tôi bỏ nó vào cái chậu đất dưới gốc cây. Mỗi sáng, ra hiên sau, thấy bóng tôi chim mẹ lại vụt bay lên. Tôi đoán có cả chim cha, khi đậu trên cây là con chim khác. Suốt cả tuần dường như tâm trí tôi chỉ đặt vào bầy chim sẻ. Tôi sợ chúng bị nắng. Bị lạnh. Tôi xem tin thời tiết để bưng chậu đất vào góc hiên nhà đụt mưa. Sáng lại bưng ra gốc cây. Kê tới lui chậu đất suốt cả tuần. Rồi bầy chim sẻ cũng lớn, lông cánh đầy đủ và đôi mắt tròn hơn. Chúng ngước nhìn, chiêm chiếp mỗi đầu ngày tôi ra thăm. Sáng nay ra thăm, tổ chim chỉ còn hai con. Tưởng chúng chưa đủ bay như anh chị mình nhưng khi tôi cúi xuống thấp, cả hai con vụt bay lên cao. Tự do! Bầy chim đã đủ lông cánh để bay theo mẹ. Có điều gì đó dường như vừa thoát khỏi trong tôi. Bởi biết rằng mình sẽ rất ân hận nếu bầy chim non bị chết. Buổi sáng! Tôi vẫn nghe tiếng chim hót đầu ngày. Chẳng biết có phải bầy chim non vừa lớn lên từ góc hiên nhà tôi. Tôi không biết chúng có về thăm tổ? Thôi cứ vỗ cánh bay vào bầu trời mênh mông. Và nhớ rằng mẹ mình đã ấp ủ, mớm mồi trong những ngày tháng qua để chắp đôi cánh đó. Bầy chim sẻ làm làm tôi nhớ mẹ mình. Mỗi sáng, bước ra khỏi phòng, nơi đầu tiên tôi nhìn là bệ cửa bước ra ngoài hiên để xem có ly cà phê mẹ tôi pha cho mình hay không. Không phải tôi đợi ly cà phê có sẵn mà để yên tâm rằng mẹ tôi đã thức dậy khoẻ mạnh. Bữa nào không thấy ly cà phê là tôi đi tìm mẹ. Ðể chắc chắn mẹ tôi không mệt, không cảm thấy người không khoẻ. Hôm dịch bịnh, bà cảm thường nhưng triệu chứng như nhiễm bịnh, chúng tôi lo lắng, hồi hộp cho mẹ theo suốt cả tuần mẹ ốm dù đã chở bà đi thử nghiệm và có kết quả âm tính. Mẹ tôi đã tám mươi mấy tuổi rồi nhưng ngày nào mẹ cũng dậy sớm pha sẵn tách cà phê cho tôi. Ðứa con trai tóc đã bắt đầu có nhiều sợi bạc mà còn được yêu thương, được xem như đứa trẻ trong mắt mẹ. Uống ly cà phê mà tôi thấy mình vẫn là một chú chim non. May mắn còn có mẹ. Ngày đầu tiên tháng Năm, nhiều người để câu chào “Hello May”. May có ngày Mẹ, ngày Mother’s Day, nhắc hình ảnh và tình yêu thương của mẹ cho dù lòng mẹ thì chứa chan quanh năm tháng, từ khi ta chào đời chứ không chỉ tháng hay dịp lễ nào. Nên khi còn và nhìn thấy mẹ, chúng ta biết
rằng đó là lòng yêu thương tinh tuyền và to lớn nhất mà mỗi chúng ta đã
có được trong cuộc đời này. Như một ân sủng và hạnh phúc lớn lao. Đinh Yên Thảo
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Tôi Yêu Tiếng Nước Mỹ
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23784 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23784 |
![]() ![]() ![]() |
Nỗi Đau Vẫn Ngậm Ngùi“Thời gian tựa cánh chim bay, qua dần những tháng cùng ngày. Còn đâu mùa cũ êm vui…” Mỗi khi nghe Sĩ Phú hát bài Hoài Cảm, lòng tôi lại nao nao niềm thương tiếc và nếu nghe vào Tháng Tư thì nỗi buồn mất mát trong tôi càng dâng cao vì nhớ tới những ngày sau cùng của Tháng Tư Đen năm 1975 trước khi miền Nam Việt Nam Tự Do của chúng ta sụp đổ! Tôi thấy gì những ngày Sài Gòn hấp hối? Giờ đây, gần bốn mươi sáu năm đi qua, nhưng ký ức tôi vẫn còn nhớ như in khoảng thời gian ly loạn ấy. Cũng chính ngày này, ngày 8 Tháng Tư năm đó, trong khi tôi và các bạn học của mình đang thi Đệ Nhị Lục Cá Nguyệt ở Trường Lasan Taberd thì bất ngờ nhiều tiếng nổ như bom phát ra làm rung chuyển kính cửa sổ xung quanh. Tiếng bom tuy không làm bể kính nhưng làm vỡ không gian thi cử đang yên ắng. Gương mặt thầy cô, các vị giám khảo đang trông coi thi, chợt trở nên căng thẳng, lo lắng. Còn bọn học trò chúng tôi thì la hét sợ hãi… Không gian chợt đóng băng, thời gian như ngừng lại, mãi cho đến khi bóng dáng Frère Martial; Giám Học Khối Lớp 8 và 9, xuất hiện ngoài hành lang. Ông đi tất tả chứ không khoan thai nhẹ nhàng như mọi ngày. Những thầy cô từ các lớp bước ra, sau một hồi thầm thì, họ trở vào và cho hay buổi thi tạm ngừng và chúng tôi được lệnh vào thính đường ẩn nấp. Bấy giờ thì chúng tôi biết Dinh Độc Lập; cách trường tôi hai con đường, vừa bị đánh bom. Sau này chúng tôi mới biết kẻ dội bom ngày đó là Nguyễn Thành Trung; trung úy không quân phản bội của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)! Taberd là ngôi trường do Linh Mục Kerlan thuộc Hội Truyền Giáo Công Giáo của Pháp lập nên năm 1873 tại Sài Gòn dưới thời Pháp thuộc, được gọi theo tên của Giám Mục địa phận Nam Kỳ từ 1830 tới 1840 là Jean Louis Taberd. Sau này có thêm các sư huynh Dòng Lasan từ Marseille qua giúp đỡ giáo dục cho nên trường được xây dựng rất kiên cố và vững chắc theo lối kiến trúc tu viện cổ điển Châu Âu “ngoài kín trong rỗng,” với nhiều dãy phòng học nối liền nhau bằng các hành lang. Riêng thính đường Taberd được xây sau này nằm gần cổng sau của trường trên đường Gia Long nên còn được gọi là Cổng Gia Long, để phân biệt với Cổng Nguyễn Du là cổng chính phía trước, tọa lạc tại số 53 Nguyễn Du, theo lối kiến trúc tân tiến hơn. Đó là một thính đường rất lớn, kiên cố, có hai lầu, với nhiều cửa sổ to, cao, chạy từ trên xuống dưới để lấy ánh sáng từ bên ngoài vào, cùng hàng trăm ghế ngồi thoai thoải từ cao tới thấp trước khi đến một cái sân khấu thật rộng. Chẳng bao lâu sau, tất cả bọn học trò được các sư huynh đưa vào nơi ấy và chờ đợi lệnh bề trên! Đến trưa thì được phép ra về. Cả đám ùa ra như ong vỡ tổ, mừng rỡ la hét. Có những đứa nhảy cẫng lên, hò reo vui vẻ vì “được khỏi thi,” nhưng chúng tôi có ngờ đâu rằng đó là thời khắc êm đềm hạnh phúc sau cùng của đời học sinh mà chúng tôi mãi sẽ không bao giờ còn tìm lại được dưới mái trường thân yêu này! Bên ngoài xe hơi, xe gắn máy xếp hàng dày đặc, lẫn lộn trong đó người ta thấy có cả những chiếc xe Jeep quân đội với các chú tài xế trong quân phục thẳng tắp đứng lố nhố, vì Taberd có rất nhiều con tướng tá theo học, chẳng hạn như lớp tôi có ba bạn là con của những vị tướng PXC, LNK, ĐVQ… Trong khi ấy thì phụ huynh lại chen chúc, nhốn nháo tìm kiếm. Tiếng người la hét, réo gọi inh ỏi khắp nơi! Trên đường về, ngồi sau lưng ba tôi trên chiếc Honda 67 màu đen, tôi nhìn phố phường. Quang cảnh có vẻ khác ngày thường. Mọi người chạy ngược chạy xuôi đến độ tôi có thể đọc được nỗi sợ hãi trong ánh mắt của họ trước tình hình sôi động của thời cuộc. Khi chúng tôi đến Lăng Ông Lê Văn Duyệt, ba tôi lật đật tắp xe vào lề, nhường chỗ cho chiếc quân xa GMC chở đầy lính gầm rú phía sau, chạy nhanh về hướng Gò Vấp. Nhìn những người lính mặt còn non nớt như tân binh mới ra trường đầy căng thẳng với súng ống trên vai, tôi linh cảm nhiều sự chẳng lành. Thời gian sau đó, không còn tới trường nên ngày tối tôi chỉ ở loanh quanh trong nhà và rất vui khi mỗi sáng được má tôi sai ra Ngã Năm Bình Hòa mua báo về cho bà xem tin hình chiến sự. Đó là cơ hội cho tôi “sổ lồng.” Tại sạp báo, nhìn hình ảnh chiến tranh ngoài Trung, tin tức chiến trường dồn dập đưa về, với những cuộc tháo chạy, mất tỉnh này, rút lui vô trật tự ở tỉnh kia của binh sĩ VNCH, cảnh đồng bào mặt mày phờ phạc, đàn đúm di tản, dắt díu người già cả hay bị thương đầu băng tay bó, gồng gánh trẻ thơ lủng lẳng trong những chiếc thúng, lỉnh kỉnh mang vác đủ thứ như xe đạp, xe gắn máy hết xăng, chó mèo, gà vịt tới cả trâu bò lếch thếch trên các quốc lộ trong hỗn loạn… Tất cả bày trên trang nhất mấy tờ Tin Sáng, Chính Luận, Tiền Tuyến…, làm tôi hoang mang, hoa cả mắt chẳng biết phải mua báo nào? Đứng ở đây tôi cũng thấy nhiều lô cốt với hàng rào kẽm gai khắp nơi. Người lính với đôi giày lấm bụi đường trận mạc, súng trường lưỡi lê lăm lăm, đang tra xét xe đò, xe lam chở đồ hàng bông từ Hóc Môn, Gò Vấp đổ vô Sài Gòn, nhằm ngăn chặn đặc công Việt Cộng trà trộn về thành phá hoại. Và lúc tôi mang báo về, mỗi khi đọc xong là má tôi lại lắc đầu, thở ngắn than dài, miệng lâm râm cầu nguyện Trời Phật! Đôi khi bà kêu tôi chạy ra tiệm tạp hóa của Bà Sáu Nhân ngoài Chợ Ngã Năm mua thêm đường, muối và cả bao gạo chỉ xanh năm mươi ký để phòng hờ đói kém. Mặc dù tình hình ngày càng bi đát, Việt Cộng tấn công khắp nơi nhưng vẫn còn một số người không tin Mỹ bỏ rơi miền Nam Việt Nam. Họ nghĩ Mỹ sẽ trở lại, lập cầu không vận. Việt Nam là tiền đồn chống cộng của thế giới tự do, là nơi Mỹ đã đổ vô số tiền của vào, là nơi hàng mấy mươi ngàn binh lính Mỹ đã thiệt mạng. Người ta tin Mỹ sẽ dội bom miền Bắc để giải cứu VNCH, gìn giữ uy thế một cường quốc. Cho đến đêm 21 Tháng Tư, 1975 lúc ông Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lên tivi trách móc dữ dội, chửi bới Mỹ phản bội, bỏ rơi đồng minh…, trước khi tuyên bố từ chức, thì dân chúng bắt đầu hốt hoảng… Mấy ngày sau, cộng quân áp sát thủ đô. Tiếng súng đạn thỉnh thoảng nổ lẻ tẻ vang. Đêm đêm đại bác đì đùng dội về thành phố hoặc một tiếng nổ nhỏ chợt phát ra và một trái hỏa châu vụt sáng tại một góc trời…, khiến dân chúng càng nháo nhào loạn xạ. Đang khi ấy tại Sài Gòn, trong một chiều mưa tầm tã, che mờ cả Vương Cung Thánh Đường thì ở Dinh Độc Lập, ông Tổng Thống “một tuần” Trần Văn Hương bị Quốc Hội áp lực trao quyền tổng thống lại cho Ðại Tướng Dương Văn Minh. Tân Sơn Nhất bị quân Cộng Sản pháo kích nhằm gia tăng áp lực lên chính quyền Sài Gòn. Không khí chết chóc tràn ngập mọi ngã đường. Tôi nghe tiếng trực thăng xành xạch trên trời, nhìn lên thấy những chiếc HU-1 liên tục từ ngoài biển bay vào bốc người Mỹ và nhân viên bản xứ làm việc cho họ ngay tại Tòa Đại Sứ Mỹ và một số địa điểm bí mật quanh thành phố, trông như đám chuồn chuồn bị động ổ bay đầy đồng. Dưới đất, dân chúng ùn ùn chạy ra bến Bạch Đằng hay Tân Cảng để tìm đường ra biển, như kiến túa khỏi hang. Có chứng kiến cảnh người ta bỏ cả gia tài, sản nghiệp, mồ mả ông bà tổ tiên để lánh nạn trước khúc quanh lịch sử mà chẳng cần biết tương lai ra sao – như chú Bảy của tôi, nhân viên DAO (Defense Attache Office), người đã vội vàng bỏ căn nhà mặt tiền đường vừa mua gần Chợ Thị Nghè và hối hả dẫn vợ dại con thơ vào phi trường Tân Sơn Nhất – mới hiểu sự sợ hãi hiểm họa Cộng Sản là như thế nào! Tuy vậy, bên cạnh Sài Gòn trong cơn hấp hối, vẫn có những cấp chỉ huy anh hùng, các chiến sĩ dũng cảm chiến đấu đến giờ phút sau cùng. Họ là những người đền nợ nước một cách oanh liệt chớ không ươn hèn bỏ chạy mà tôi đã có dịp chứng kiến và viết lại trong câu chuyện những người chết sau cùng trong cuộc chiến vào dịp 30 Tháng Tư hơn mười năm trước. Rồi khoảng trưa ngày 30 Tháng Tư oan nghiệt, khi tiếng ông Minh ra lệnh “đầu hàng vô điều kiện” vang lên trên Đài Truyền Thanh, tôi có cảm giác như đất trời sụp đổ. Những tháng ngày sau đó mới thật là ghê rợn. Những sĩ quan VNCH bị gọi là “ngụy”; viên chức cảnh sát cũ bị “Cách mạng” xem là “thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân.” Họ sống trong phập phồng lo sợ. Họ sợ Việt Cộng nằm vùng, sợ đám “Ba Mươi” là những thanh niên, thiếu nữ còn rất trẻ hăng hái “xung phong” với băng đỏ trên tay hầu chứng tỏ là người nhiệt tâm với chế độ mới, sợ những nam nữ du kích trong “bưng” về thành với khăn rằn quanh cổ, đồ bà ba đen, nón tai bèo, chân đi dép râu, súng AK47 lạnh lùng trên tay, đêm đêm luồn vào từng con hẻm như thợ săn rình mồi. Tiếng chó sủa trong đêm như tiếng hú của sói rừng, của tử thần réo gọi! Và theo lệnh “Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời,” các sĩ quan cấp úy, cấp tá, viên chức cao cấp VNCH phải trình diện để đi “học tập.” Kẻ thì dăm ba năm, người thì chục năm hơn và có những người vĩnh viễn không bao giờ trở về. Rồi những màn “bài trừ văn hóa phẩm đồi trụy,” rồi đánh “tư sản mại bản,” ép buộc người ta đi “kinh tế mới”… Quả lựu đạn trong trường Taberd sau ngày “giải phóng” Trong bầu không khí đầy sợ hãi ấy, bọn tôi nhập học trở lại muộn hơn mọi năm. Ngày đầu tiên, tôi nôn nóng đến trường, phần nhớ lớp, phần khác muốn tìm xem bạn bè ai còn ai mất. Đa số bạn có cha mẹ là sĩ quan cao cấp hay ông to bà lớn đều đã di tản nước ngoài. Niên học đầu tiên dưới thời Xã Hội Chủ Nghĩa thật khác lạ. Các “frères” không còn mặc áo dòng và uy nghiêm như ngày xưa. Các cô giáo điệu đà, má phấn môi son, xinh xắn trong những chiếc áo đầm hoặc dịu dàng trong tà áo dài thướt tha hôm nào thì nay chỉ mặc chiếc quần tây sậm với sơ mi hoặc áo kiểu đơn sơ. Mấy thầy cũng vậy, không còn veston với cravate cùng giày tây nữa, mà chỉ áo sơ mi đơn giản với quần tây cũ kỹ. Thậm chí có người mang cả dép râu! Và từ thầy cô đến học sinh, tất cả đều đi xe đạp. Hiệu trưởng lúc đó là một cán bộ miền Bắc bị cụt một tay. Một hôm vào giờ ra chơi, trong lúc đứng dưới chân cầu thang gần lớp ở Sân Danh Dự, tôi bỗng thấy mọi người la hoảng và túa chạy. Khói xanh bốc lên ngùn ngụt ở dãy phòng ngang đối diện cổng chính, nơi có đặt văn phòng Ban Giám Hiệu. Ít phút sau, nhiều thầy cô trong đó cũng lật đật đi ra. Tôi thấy ông hiệu trưởng xách chiếc cặp đen vừa che mũi vừa chạy. Ống tay áo dài bên kia phất phơ trong gió. Đám học sinh từ sân bóng rổ tò mò chạy lên xem thì bị ông hiệu trưởng quát tháo, dùng cặp múa vùn vụt đuổi xuống. Cả trường náo loạn! Sau cùng thì tất cả mới biết có một học sinh nào đó ném lựu đạn cay gần phòng Ban Giám Hiệu. Buổi học chấm dứt nhưng mọi người vẫn phải ở yên trong trường. Không lâu sau, một số cán bộ và rất nhiều công an kéo tới. Một thanh niên đeo kính cận, mặc quần bộ đội với áo sơ mi dài tay màu xanh cứt ngựa, tay cầm xấp giấy cuộn tròn, tuổi độ ngoài hai mươi trông rất trí thức mà tôi đoán chừng là thành phần sinh viên biểu tình phản đối chính quyền Sài Gòn hồi trước, đi vào lớp với một số công an. Thầy tôi, Frère Félicien Huỳnh Công Lương, cựu hiệu trưởng của trường, vội lùi lại nhường chỗ cho họ. Anh ta kêu gọi chúng tôi chỉ ra ai là người ném lựu đạn nếu biết. Cả lớp im lặng. Không thấy ai trả lời, anh ta bắt đầu huyên thuyên về cách mạng, về sự đấu tranh của phong trào học sinh-sinh viên, sự hy sinh của tuổi trẻ trong sự nghiệp “chống Mỹ cứu nước thần thánh của nhân dân”… Ban đầu giọng anh còn từ tốn nhưng càng nói anh càng hăng và cao giọng quát lớn: “Đúng ra thì chúng tôi đã đuổi các anh ra khỏi trường này lâu rồi vì trường này là trường do bọn thực dân, đế quốc dựng nên, chuyên đào tạo ngụy quyền phản động, tướng tá ác ôn, tay sai nguy hiểm, mãi quốc cầu vinh. Nhưng người cách mạng chúng tôi đã khoan hồng cho các anh, để các anh tiếp tục học ở đây thế mà các anh không biết ơn lại còn muốn làm loạn, âm mưu tạo phản… Chúng tôi đố các anh đấy. Có giỏi thì cứ lật đổ cách mạng xem. Hơn một triệu lính ‘ngụy’ với xe tăng, đại pháo, vũ khí hiện đại, tối tân nhất thế giới mà chúng tôi còn đánh cho chúng cút, bỏ chạy không kịp thì thứ đám con nít các anh ‘hỉ mũi chưa sạch, miệng còn hôi sữa’ thì làm được cái quái gì mà cũng bày đặt”… Tất cả ngồi im. Lớp học lặng yên như tờ. Tôi liếc nhìn Frère Félicien, thấy mặt ông biến sắc, tái nhợt, môi hơi mím lại trước sự lên án nặng nề của tay cán bộ. Có lẽ Frère cũng cảm thấy nhục và đau lòng lắm. Một buổi trưa khi đi học về, vừa đạp xe vô hẻm, tôi thấy bà con đứng lố nhố quanh giếng nước trước nhà chú Mười của tôi. Ông chú này là em trai thứ mười của ông ngoại tôi. Trong nhà ông, tôi thấy thằng Ánh; công an khu vực, Hai Bảnh; Ủy Viên Văn Hóa Thông Tin phường, cùng một số nhân viên khác, đang lui cui kéo chiếc xe Volkswagen ra khỏi nhà. Chiếc xe hơi này là của dì Hai tôi; nguyên giáo sư dạy Pháp Văn ở Trường Quốc Gia Nghĩa Tử. Chồng dì là trung úy phi công tử trận. Mấy năm trước dì được Tổng Thống Thiệu mời vô Dinh Độc Lập, khi trường nhận được một số học bổng của Thụy Sĩ và dì là người được giao trách nhiệm đưa số học sinh này sang đó. Theo lệnh Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn-Gia Định, nhà nước sẽ tịch biên tất cả tài sản của những người bỏ nước ra đi. Để giữ lại chiếc xe, ông chú tôi đã gỡ vài bộ phận khiến máy không nổ được; và để chắc chắn hơn, ông tháo bốn bánh xe mang đi giấu. Hôm nay đến ngày hẹn, ông lánh mặt, để chiếc xe nằm chơ vơ ngoài sân. Thế là bọn chính quyền đi tìm bốn bánh xe cùng loại tới lắp vào và kéo đi! Ký ức chưa phai Đến hết niên học Lớp 10, năm 1976, Taberd bị giải thể. Trường chúng tôi bị lấy và trở thành Trường Trần Đại Nghĩa cho tới ngày hôm nay. Dòng đời lặng lẽ trôi dưới chính sách khắc nghiệt và sự cai trị độc ác của chế độ. Dân chúng âm thầm tìm đường bỏ nước ra đi. Sau gần sáu năm tù trong các trại cưỡng bức lao động vì vượt biên thất bại thì lần thứ hai mươi, tôi đến được Trại Tị Nạn Palawan-Philippines. Tuy nhiên, vì tới sau ngày “đóng cửa đảo” nên tôi phải qua tiến trình “thanh lọc Tị Nạn.” Kết quả, tôi bị kẹt lại đó gần mười một năm do “rớt thanh lọc.” Sau cùng nhờ sự giúp đỡ của TS Nguyễn Đình Thắng, giám đốc Tổ Chức BPSOS (Boat People SOS), Luật Sư Trịnh Hội, Hòa Thượng Thích Giác Lượng cùng nhiều ân nhân khác, tôi đến được Hoa Kỳ vào Tháng Bảy, 1999. Năm 2010, một nhóm bạn “niên khóa 78” của Taberd có tổ chức Hội Ngộ ở Nam California sau mấy mươi năm cách biệt. Nhân dịp này, bạn bè biết thêm là người học sinh liệng lựu đạn ngày xưa là bạn đồng khóa với chúng tôi. Bị một thằng bạn chỉ điểm cho Công An Sở TP.HCM, anh và người em trai kế bị bắt đi cải tạo. Lúc được thả về thì gia đình lo cho anh ta vượt biên. Hiện anh định cư tại Thụy Sĩ. Riêng người điềm chỉ cùng gia đình anh này lại được chính ông Võ Văn Kiệt khi còn là Bí Thư Thành Ủy TP.HCM đưa đi trong những đợt cho người Hoa kiều ra đi bán chính thức. Người này đang sống ở tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ. *** Quá khứ đau thương của một dân tộc được đánh dấu bằng một trang sử thuyền nhân đẫm lệ, đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng kiêu hãnh như cuộn phim cũ được quay lại, mà con cháu cũng nên biết cho cái giá phải trả cho tự do! Ngoài kia nắng xuân của buổi sớm mai lấp lánh, rơi nhẹ trên các tàng cây, tôi bùi ngùi cảm khái với hồi ức ngang đời, lòng thì thầm “OK, sau cơn mưa trời lại sáng (Après la pluie le beau temps)”… Ohio, 8 Tháng Tư, 2021 Triều Phong |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23784 |
![]() ![]() ![]() |
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23784 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23784 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 201 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |