Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: NIỀM TIN & HY VỌNG&GƯƠNG TỐT&CHIA SẼ Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 147
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23867
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Jul/2025 lúc 11:57am

Bạn Ảo

Bạn Ảo

Bạn ảo đâu cần  phải biết nhau

Gặp nhau trên mạng thỏa tâm giao

Đường bạn, bạn đi, riêng tôi bước

Cuộc đời chẳng vướng bận gì nhau

 

Bạn ảo nhưng đời thực hẳn hoi

Nên sinh rồi lão một kiếp người

Miệt mài gồng gánh  cho cuộc sống

Cuối cùng bệnh, tử cũng buông xuôi

 

Bạn ảo rồi đây sẽ biến tan

Như sương như khói khuất non ngàn

Như bao xác thân về cát bụi

Để ai trên mạng buồn mênh mang


Lúc này cô Hai chỉ chơi với bạn ảo, bởi vì người thiệt rắc rối quá, sanh nạnh tị hiềm, phe phái, đố kỵ chà đạp lẫn nhau không chừa một thủ đọan nào đến nỗi cô bị nightmare mắc bệnh sợ người không muốn gặp ai nữa.

Nghe nói thời buổi này trên mạng lưới thế giới có xuất hiện những người ảo, cô Hai nghĩ chắc người ảo dễ chơi hơn, không ai biết ai, không đụng chạm quyền lợi nhau thì làm  gì có chuyện sinh sự chưởi bới thù hằn. Nghĩ vậy cho nên cô Hai nhờ cậu em sắm cho cái laptop rồi cài đặt sẵn mọi nhu liệu cần thiết để cô lên mạng tìm người ảo làm bạn coi thử có khác với người thiệt trước mắt sờ sờ hay không. 

Mỗi ngày, sau khi xong hết mọi công việc nhà, cô hí hửng ngồi vào bàn mở cái laptop ra check email. Lúc đầu, khi thấy năm ba cái mail chớp chớp trong inbox là cô mừng húm rồi. Cô trân trọng đọc kỹ từng bài, xem từng hình ảnh. Thấy hay và hữu ích, thú vị, cô không ngần ngại tìm người chia sẻ. Có được bao nhiêu người quen có địa chỉ email là cô gởi cho hết bấy nhiêu. Dần dà chuyển qua chuyển lại, cô quen được nhiều người ảo hơn nhưng cô vẫn chưa thấy đủ. Cô bèn “thân chinh đầu quân” vào vài ba diễn đàn làm thành viên trong đó hy vọng có thể thâu thập được nhiều tài liệu phong phú và giá trị hơn, biết đâu hên hên “lượm được một mớ vàng” làm hành trang cho cuộc sống.

Quả nhiên, sau một thời gian bền chí đãi sạn, cô Hai đã tìm được những hạt châu quý báu trong kho tàng dưới đáy biển của một anh lính thủy về hưu. Với số trân châu được chia lại đó, cô ký cóp để dành để rồi thỉnh thỏang rải tung lên mạng tặng lại cho người khác, cho những ai hữu duyên gặp gỡ trên thế giới ảo vô hình.   

Nhưng thói thường, có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Đâu cũng vậy, người hiền chỉ đếm được trên đầu ngón tay còn kẻ dữ thì ôi thôi lủ khủ, tràng giang đại hải! Bởi vậy ngày ngày tuy nhận được mấy trăm cái mail nhưng cô chỉ chọn được chừng năm bảy bài xứng đáng để giữ lại, còn kỳ dư là cho vô thùng rác nhận nước xả trôi cho rảnh mắt, trống hộp thơ.

Thiệt tình cô không hiểu nổi, đã nói là người ảo không từng biết nhau, không từng gặp gỡ, vậy mà duyên cớ nào lại tới nông nổi đem sân hận giải quyết trên diễn đàn, hơn thua tranh chấp, mạt sát nhau bằng những lời lẽ tục tằn bẩn thỉu mà đến dân ma cô hay đứng bến cũng còn phải ngã nón chào thua. Vậy đó! Thiệt là thất vọng vô cùng.

Thì ra một khi đã mang danh hiệu con người thì cho dù là người thật hay người ảo đi nữa thì cũng y chang như nhau. Ai cũng mắc phải ba trạng thái tâm lý gọi là tam độc “Tham Sân Si” mà ngày nào chưa chuyển hóa hay giác ngộ được thì ngày ấy vẫn còn khổ lụy triền miên trong cuộc đời… Chạy trời không khỏi nắng! Biết làm sao!




Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23867
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Aug/2025 lúc 8:49am
Tropical%20Beach,%20look,%20nice,%20HD%20wallpaper%20|%20Peakpx

12 Câu Nói Thể Hiện Rõ Khí Chất Của Một Người Cao Quý



Sinh ra trên đời, người ta vốn chỉ là một hạt bụi. Số kiếp ngắn ngủi vô cùng, vòng xoay cuộc sống cứ dẫn ta đi mãi. Lạc bước trăm năm rồi cũng đến lúc dừng chân. Mộng đẹp thì không bền, tỉnh giấc sẽ tàn phai, họa chăng chỉ còn tiếng thở dài trong đêm hư tĩnh… 

           1. Đừng khóc vì mọi thứ đã kết thúc. Hãy cười vì nó đã xảy ra. Tiếc nuối chỉ đào sâu phiền não, mỉm cười bước qua, ngẩng mặt lên ắt sẽ thấy cầu vồng chiếu rọi trên đầu.

           2. Có những người không đợi được, chỉ có thể bỏ đi. Có những thứ không thể nào có được, chỉ có thể từ bỏ. Có những chuyện đã qua, hạnh phúc hay đau xót, chỉ có thể chôn xuống đáy lòng. Có những muộn phiền, bất lực chỉ có thể tự mình tiêu tan. Có những nhớ nhung không thể nào giải tỏa, nói ra chi bằng giữ lại trong lòng… Trên đời thực ra có rất nhiều việc không cần để tâm, có để tâm cũng chẳng thể làm gì được. Chi bằng hãy buông xả, tùy duyên.

           3. Hoa nở, ta sẽ vẽ hoa. Hoa tàn, ta sẽ vẽ chính mình. Người đến bên thì ta đương nhiên vẽ người. Người đi rồi, ta lại vẽ một bức tranh hồi ức.

           4. Nhân sinh vô thường, thế sự vốn là khó đoán. Người bạn thân thiết nhất hôm nay còn khỏe mạnh nhưng rất có thể ngày mai đã rời bỏ ta đi, người yêu hôm nay còn tha thiết chẳng rời nhưng rất có thể ngày mai sẽ quay lưng, thay lòng đổi dạ. Kiếp người nhỏ bé, yếu mềm biết bao nhiêu. Trăm năm qua đi, bạn chẳng giữ lại được gì, càng không giữ lại được một trái tim đã thay đổi.

           5. Cuộc đời ta đi qua ngàn vạn người nhưng thế giới này chỉ có một người sinh ra là để dành cho bạn. Bạn cũng là vì người đó mà sinh ra. Gặp được nhau rồi thì chính là may mắn. Hãy biết trân quý phúc phận của nhau. Buông tay rất dễ, cùng nhau bước qua đoạn đường dài ôi sao thật khó khăn!

           6. Đời người ta giống như tấm cửa kính nhuộm màu. Họ bừng sáng và lấp lánh khi trời nắng. Nhưng khi mặt trời lặn, vẻ đẹp thực sự chỉ hiển lộ nếu có ánh sáng hắt ra từ bên trong.

           7. Sinh ra mà đã biết là bậc trên, học rồi mới biết là bậc thứ. Gặp cảnh khốn rồi mới chịu học lại còn thấp hơn nữa. Thấp nhất là gặp cảnh khốn rồi mà vẫn không chịu học (Khổng Tử).

           8. Ta có thể giữ đồng hồ cát trong tay nhưng không thể ngăn nhịp chảy đều đặn, vô tình của thời gian. Đắm chìm trong giấc mộng phồn hoa, hỏi mấy ai dám cởi bỏ chiếc áo khoác hư vinh kia mà nhìn thấu lòng mình? Hỏi mấy ai có thể dửng dưng trước danh lợi, sống đạm bạc mà vẫn hành thiện, trong gian khó mà vẫn lạc quan giữa chốn đô hội, hoa lệ kia đây?

           9. Lòng tin giống như một tờ giấy, một khi đã bị nhàu thì dù có vuốt cho phẳng mấy cũng không thể khôi phục vẻ ban đầu.

           10. Điều đáng bi ai nhất của người phụ nữ không phải là tuổi xuân già đi, mà là đánh mất chính mình. Điều đáng tiếc nhất của người của phụ nữ không phải là má hồng không còn, mà là lòng tự tin không có. Một người phụ nữ có tâm hồn là một người có sức quyến rũ từ bên trong. Một người phụ nữ có tín ngưỡng là một người có năng lượng tích cực.

           11. Giữa người với người chính là một loại duyên phận. Giữa lòng với lòng chính là một loại giao lưu. Giữa yêu thương và yêu thương chính là một loại tình cảm. Giữa tình cảm và tình cảm chính là một con tim chân thành. Giữa lỗi lầm và lỗi lầm chính là một sự tha thứ.

          12. Tri kỷ trong đời thực khó kiếm? Quen biết khắp thiên hạ, tri kỷ không mấy người. Nhưng tìm được rồi thì đúng là niềm vui bất tuyệt, chính là như bất ngờ gặp được một mảnh tâm hồn còn thiếu của ta. “Rượu gặp bạn hiền nghìn chén ít. Lời không hợp ý nửa câu nhiều“. Người tri kỷ và ta ngồi dưới bóng trăng rằm, thưởng một chén trà thơm, bàn bàn luận luận chuyện cổ kim, nói nói cười cười tỏ tình tri ngộ. Người đi, dặm hồng bụi cuốn, áo bào phôi pha. Ta đưa người ngàn dặm cũng phải dừng bước biệt ly. Chân trời góc bể, hôm sớm sau này, lấy ai mà tỏ lòng tri âm tri kỷ nữa?


Sưu tầm


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23867
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Aug/2025 lúc 10:34am

NửaThế Kỷ Một Giấc Mơ 

Statue%20of%20Liberty%20-%20History%20and%20Facts%20|%20History%20Hit

Ngày 29 tháng 4, 1975, gia đình chúng tôi đứng lóng ngóng suốt cả buổi chiều bên ngoài tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn. Trước đó ba tôi đã đưa cho người lính thủy quân lục chiến gác cổng xem bằng chứng nhận tốt nghiệp khóa sĩ quan bộ binh ở Fort Benning nhưng bị từ chối không cho vào. Sau đó vì số lượng người kéo đến quá đông nên hàng rào bảo vệ của lính Thủy quân Lục chiến Mỹ được lệnh rút vào bên trong và cổng tòa đại sứ được đóng lại. Kể từ đó nhiều người mà đa số là đàn ông khỏe mạnh bắt đầu trèo tường vào. Lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ không đủ để ngăn cản nhưng cũng phải khen ngợi tinh thần kỷ luật và lòng nhân đạo của họ khi không dùng bạo lực để trấn áp đám đông trong hoàn cảnh bát nháo đó.

Đến chiều tối khi biết đã hết hy vọng có thể vào được bên trong chúng tôi quay trở về nhà. Bỏ hết âu lo, được ăn một bữa cơm nóng chỉ với rau muống luộc chấm tương, vại tương do mẹ tôi vừa ủ cách đó không lâu, và được ngủ trên chiếc giường của mình tôi cảm thấy thật êm ấm mặc dù có biết đâu ngoài kia tai họa sắp sửa ập đến với bao nhiêu người.


Sáng ngày 30 tháng 4 gia đình chúng tôi lại tiếp tục đến tòa đại sứ Mỹ để cố tìm một chút hy vọng mong manh kiếm được chỗ trên chiếc trực thăng di tản. Lúc này thì những người lính Thủy quân Lục chiến Mỹ làm hàng rào gác bên ngoài tòa đại sứ của ngày hôm trước đã không còn. Chúng tôi theo đám đông tràn vào được bên trong. Tôi không rõ tòa nhà đại sứ năm xưa đó có cả thảy bao nhiêu tầng, chỉ biết rằng chúng tôi cứ theo đám đông lần lượt leo hết tầng này đến tầng khác cho đến hành lang tầng cuối cùng dẫn đến một cánh cửa sắt đóng kín.

Tại đây, trong lúc chờ đợi, lần đầu tiên tôi được uống nước từ một chiếc máy gắn trên tường. Với tôi thì đây là điều vô cùng lạ lẫm vì không hiểu sao chỉ từ cái máy nhỏ mà nước được phun ra mát lạnh như nước đựng trong chai thủy tinh chúng tôi cất trong tủ lạnh ở nhà. Khi đó tôi nghĩ có lẽ ở Mỹ mọi người đều uống nước trực tiếp từ những chiếc máy như thế này. Xứ sở văn minh có khác. Giấc mơ Mỹ quốc bắt đầu nhen nhúm trong đầu óc tôi từ cái máy nước gắn tường trong hành lang của tòa đại sứ Mỹ.

Sau đó cánh cửa sắt dẫn lên sân thuợng đã bị phá ra. Chúng tôi theo đoàn người tràn lên rồi kiên nhẫn ngồi chờ để hy vọng trực thăng sẽ đến đón đi. Lúc đó có lẽ với tâm trạng hoang mang và tuyệt vọng nên không ai còn nhận ra điều vô lý một cách hiển nhiên đó là lính Mỹ và toàn bộ nhân viên đã rút đi thì làm sao có chuyện họ phái trực thăng để đón đám người chúng tôi.  Niềm hy vọng của đám đông hôm đó có lẽ hình thành do sự hiện diện của một vài người da trắng cũng có mặt trên sân thượng tòa đại sứ Mỹ. Tôi không rõ họ mang quốc tịch nào và có phải ký giả còn bị kẹt lại hay không. Không nhớ chúng tôi ngồi đó trong bao lâu chỉ biết rằng từ trên nóc tòa đại sứ Mỹ nhìn ra xa xa tôi đã thấy nhiều cột khói bốc lên cao và tiếng đạn bắn rất gần. Đến khi thấy những người da trắng rời đi, ba mẹ chúng tôi biết không còn hy vọng gì vào chuyện được đón nên quyết định quay về nhà. Giấc mơ Mỹ quốc của tôi tạm bị gián đoạn bởi khói lựu đạn cay đậm đặc trong hành lang kín của tòa đại sứ Mỹ mà tôi đoán do những người da trắng kia ném lại để cố tình cản vì sợ chúng tôi bám theo họ.


Chỉ chừng một hai năm sau thì giấc mơ Mỹ quốc của tôi được nhen nhúm trở lại bằng hình ảnh những chuyến tàu vượt sóng ra khơi. Khi đó trong trí tưởng tượng bởi đầu óc non nớt của tôi thì những chuyến vượt biên tìm miền đất hứa là những chuyến hải hành trên con tàu sắt to lớn như những chiếc tàu mà xưa kia tôi thường thấy neo đậu bên bến Bạch Đằng, lúc theo ba mẹ ra hóng gió mỗi tối của thập niên 60 trong thời gian tôi đang trị bệnh ho gà. Với tôi khi ấy tất cả những gì liên quan đến biển đều đẹp vì nó gắn liền với giấc mơ Mỹ quốc của tôi. Giấc mơ ấy có vẻ như đến gần với hiện thực nhất khi tôi chính thức đặt chân lên chiếc ghe nhỏ mà thời đó gọi là taxi để sau đó chuyển qua chiếc tàu lớn (nếu tôi nhớ không lầm được gọi theo tiếng lóng lúc đó là cá lớn). Chiếc tàu lớn là một chiếc tàu gỗ sơ sài chỉ dài chừng 15, 20 mét là cùng, không hề như trong tưởng tượng trước kia của tôi. Giấc mơ Mỹ quốc của tôi lại một lần nữa tan vỡ như những bọt sóng tan giữa đại dương mênh mông bởi mấy tuần lễ nằm trong trại giam Năm Căn, nơi tận cùng của dải đất hình chữ S của chúng ta.

Trong thời gian nằm đập muỗi trong trại giam, giấc mơ Mỹ quốc của tôi tưởng chừng như đã hoàn toàn nằm ngoài tầm tay với. Biết bao giờ mình có cơ hội được uống lại dòng nước mát lạnh từ chiếc máy gắn tường như tôi đã được uống trong buổi sáng ngày 30 tháng 4 năm đó. Biết bao giờ tôi có dịp thăm viếng những danh lam thắng cảnh mà mình được xem trên phim ảnh từ thuở xa xưa như những tòa nhà cao ốc tráng lệ tựa như tòa nhà Empire State Building ở New York nơi có con King Kong trèo lên để chụp máy bay trong bộ phim nổi tiếng thời xưa. Biết bao giờ tôi được chính mình lái những chiếc xe hơi to lớn với hệ thống ống nhún thật êm như những chiếc xe chuyên cho thuê làm xe hoa đón dâu đậu dọc đường Nguyễn Huệ những năm 70 ở Sài Gòn. Biết bao giờ tôi được ăn lại những lon đồ hộp đủ mùi vị như trong các thùng đồ hộp của quân đội Mỹ ngày xưa.

Sau nhiều lần vượt biên thất bại tiền bạc mất hết, chúng tôi tự biết không còn đủ khả năng để theo đuổi giấc mộng Mỹ quốc của mình qua con đường vượt biển. Nhưng bù lại niềm hy vọng của chúng tôi không vì thế mà phải bị dập tắt vì chính phủ Mỹ đã thành lập chương trình ODP để cho những nguời có thân nhân ở Mỹ được ra đi một cách hợp pháp tránh cảnh rủi ro xảy ra trên biển cả. Và như thế giấc mơ Mỹ quốc của tôi được tiếp tục nhen nhúm trở lại.


Theo thời gian, chiếc máy nước gắn trên tường của tòa đại sứ Mỹ năm xưa đã dần phai nhạt trong ký ức của tôi. Lúc này qua những người bạn học có anh em, người thân ở ngoại quốc, giấc mơ Mỹ quốc của tôi là được mặc chiếc áo thun, quần jean thơm phức "mùi đồ Mỹ", có cây bút Bic cài túi đi học không sợ bị chẩy mực tèm lem hoặc khi viết thì không ra chữ như chất lượng những cây bút nội hóa thời bấy giờ. Cuộc sống bên Mỹ như thế nào cũng vẫn còn rất mơ hồ đối với tôi. Hình ảnh cuộc sống ở Mỹ lúc bấy giờ trong đầu tôi giống như hình ảnh của khu đường Tự Do của Sài Gòn nơi có các tòa nhà lầu cao vừa phải, vừa làm nơi ở, vừa để kinh doanh buôn bán. Đường phố có tuyến nhỏ dành riêng cho xe hai bánh như đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ. Và tôi đã từng vẽ vời ra cảnh tượng khi qua Mỹ chiều chiều sẽ đạp xe chở người yêu đi trên những làn đường dành riêng cho xe đạp này cũng từa tựa như những gì tôi đang làm tại Sài Gòn khi ấy.


Rồi cuối cùng cái ngày mong đợi cũng đến, chúng tôi đã rời Sài Gòn bay qua Bangkok để bắt đầu cuộc sống tha huơng vào một ngày cuối tháng 10 năm 1989. Trong thời gian ở trại tạm trú quá cảnh bên Thái, tôi được lần đầu biết đến ngày lễ Halloween của Mỹ mặc dù cũng không hiểu rõ lắm nó là ngày lễ gì. Tuy nhiên thời điểm để tôi được tận mắt chứng kiến hình ảnh nước Mỹ lại phải kéo dài thêm một ít. Vì một lý do nào đó không rõ, sau 9 ngày ở Bangkok, tôi và người chị đã phải tách riêng gia đình để qua Phi sống trong trại tị nạn một thời gian trước khi chính thức được nhận vào Mỹ. 

Ở trại tị nạn Bataan của Phi, chúng tôi được học về văn hóa, cuộc sống Mỹ cũng như được chính thức tiếp xúc với nhiều người Mỹ. Khi được hỏi về tương lai sẽ làm gì khi qua Mỹ, tôi đã trả lời rằng tôi sẽ tiếp tục làm nghề thợ tiện bởi lẽ đơn giản đó là nghề tôi làm ở Việt nam cho đến ngày ra đi. Hơn nữa trong thời gian học thêm ở những trung tâm dậy nghề buổi tối ở Sài Gòn tôi biết rất nhiều thanh niên theo học lớp tiện để chuẩn bị xuất ngoại vì theo họ nghề tiện dễ kiếm việc và được trả lương cao ở Mỹ. Có nhiều anh chị lớn tuổi cùng khóa của tôi ở Phi đã khuyến khích tôi nên ghi danh vào đại học vì có lẽ theo họ ước mơ của tôi quá nhỏ bé so với hầu hết những giấc mơ Mỹ quốc của các bạn đồng trang lứa. Tôi cũng không rõ giấc mơ Mỹ quốc đó của mình có quá khiêm nhường hay không nhưng dù sao đối với tôi. nó cũng to lớn hơn rất nhiều cái giấc mơ được uống nước mát lạnh từ chiếc máy gắn trên tường hình thành trong buổi sáng định mệnh năm xưa của Sài Gòn.


Tôi đặt chân đến Mỹ vào một ngày cuối tháng 4 năm 1990, đúng 15 năm sau cái ngày mà tôi lần đầu có giấc mơ Mỹ quốc trong tâm trí. Từ San Francisco bà nhân viên Mỹ tốt bụng của hội bảo trợ đã đưa tôi lên tận máy bay đưa cho chăn đắp và không quên chúc may mắn trước chuyến bay dài đến Charlotte, North Carolina nơi người anh lớn bảo lãnh cho tôi sẽ ra đón. Từ đây tôi đã bắt đầu chính thức thực hiện giấc mơ Mỹ quốc của mình.

Anh tôi sinh sống ở Belmont, một thị trấn nhỏ gần Charlotte dân số chưa đến 10,000 người mà Mỹ trắng chiếm đại đa số. Anh ở tại một khu trung lưu nơi các nhà single house xây gần giống kiểu nhau và đều có vườn cỏ xanh mượt bao quanh. Không có những khu phố như đường Tự Do, không có những con đường dành riêng cho xe hai bánh để tôi đạp xe thong dong dạo phố như đường Nguyễn Huệ, Lê Lợi trước đây.


Trong thời gian ngắn ngủi ở North Carolina, tôi cũng đã bắt đầu làm quen với đời sống Mỹ bằng công việc rửa chén đĩa ở một nhà hàng Steakhouse. Tôi đã từng làm thợ cơ khí cũng như nhiều công việc nặng nhọc ở Việt Nam, nhưng qua đây mới thấy rằng để thực hiện giấc mơ Mỹ quốc bằng sức lao động chân tay không phải là dễ. Bởi thế ngay sau khi dọn lên Virginia, thay vì tìm kiếm công việc cho nghề tiện như ước mơ của tôi thời còn ở trại tị nạn Phi, tôi đã ghi danh học ngành Engineering ở một trường đại học cộng đồng (Community College). Cũng chính tại hành lang của ngôi trường đại học cộng đồng này, tôi đã bắt gặp lại chiếc máy nước gắn tường, vật mà năm xưa đã gieo mầm mống vào tâm trí tôi về một giấc mơ được sống trong một xứ sở văn minh tân tiến.


Thời gian này tôi sống cùng ba mẹ và người chị ở một khu chung cư đông người Việt tại một thành phố ven biển vùng Đông Nam Virginia. Căn chung cư ngay phía trên của chúng tôi là của một anh Việt Nam trạc tuổi tôi còn độc thân. Hằng đêm khi tôi đã lên giường để ngủ thì vẫn còn nghe tiếng anh mở video xem các băng Paris by Night. Những tiếng hát của Elvis Phương, Hương Lan, Phượng Mai, tiếng giới thiệu chương trình của La Thoại Tân, Jo Marcel đã khiến tôi hồi tưởng lại những ngày còn ở Việt Nam khi anh chị em chúng tôi mượn được đầu máy VCR để xem lén lút những cuốn băng này. Tất nhiên việc hồi tưởng kỷ niệm cho dù là kỷ niệm đẹp cũng dễ làm tôi thao thức mất ngủ.


Thời gian đầu thực hiện giấc mơ Mỹ quốc của tôi khá chật vật, có lẽ cũng như bao nhiêu người khác vào thời đó. Tôi vừa học vừa làm thêm ở một hãng đóng hộp thịt cua ở gần nhà. Người chủ tốt bụng muốn giúp đỡ người tị nạn nên đã cho phép tôi muốn vào làm bất cứ giờ nào cũng được sau giờ học. Do đó vào năm đầu tiên tôi đã ghi danh học những lớp sớm nhất để có thể kịp về làm thêm được nhiều giờ. Vì không có xe hơi nên mỗi ngày tôi phải dậy thật sớm khi trời mùa đông còn tối mịt để đón xe bus đến trường. Để rồi sau giờ học lại vội vàng đón xe bus quay về nhà lấy xe đạp thẳng vô hãng để làm cho đến khi trời sẩm tối mới về nhà để cơm nước và học bài cho ngày hôm sau. Giấc ngủ sớm là điều cần thiết cho tôi để chuẩn bị năng lượng cho một ngày mới, thế mà đêm nào tôi cũng phải thao thức vì tiếng nhạc phát ra từ căn apartment trên lầu của anh bạn Việt Nam.


Lúc này cuộc sống của anh bạn Việt Nam chính là một hình mẫu lý tưởng cho giấc mơ Mỹ quốc của tôi. Anh học kỹ thuật cũng ở cùng ngôi trường đại học cộng đồng nơi tôi đang theo học. Thời gian đó anh làm cho một cửa hàng sửa chữa điện tử, TV, VCR. Anh được người chủ giao cho chìa khóa nhà kho và muốn vào làm lúc nào cũng được. Đó chính là lý do anh thường có thói quen thức khuya xem video và sáng dậy thật trễ. Chính vì cái tiết mục được thức khuya thoải mái này của anh đã phần nào tạo nên hình mẫu lý tưởng cho tương lai của tôi lúc ấy. Thời gian này là cái thời mà thú vui giải trí lớn nhất của dân Việt Nam ở hải ngoại là những cuộn phim ca nhạc của Thúy Nga, Asia, Người đẹp Bình Dương hay những cuộn phim bộ nhiều tập phỏng từ các pho truyện chưởng của Kim Dung hay tiểu thuyết tình cảm ướt át của Quỳnh Dao. Cái đầu máy VCR là thứ tài sản quý giá của mỗi gia đình người Việt Nam, do đó ngoài lương làm cho chủ anh còn rủng rỉnh kiếm thêm từ việc sửa chữa VCR tại nhà cho đồng hương. Căn apartment của anh có đầy đủ các tiện nghi mà bất cứ ai mới qua Mỹ còn sống chật vật như tôi đều phải ngưỡng mộ. Lúc ấy tôi chỉ mong sau hai năm ra trường với mảnh bằng A.S (***ociate of Science) tôi sẽ có được một công việc và cuộc sống như anh. Như thế là cũng đủ mãn nguyện với giấc mơ Mỹ quốc của mình.

Những semester cuối ở đại học cộng đồng, khi thấy việc học không quá khó với khả năng của mình, giấc mơ của tôi đã lớn hơn một chút. Lúc đó tôi không còn muốn dừng lại ở mảnh bằng hai năm mà đã quyết định sẽ tiếp tục chuyển lên học ở University để hoàn tất chương trình kỹ sư cơ khí bốn năm.

Lúc này tôi vẫn còn tiếp tục làm việc tại hãng đóng hộp thịt cua. Hãng nhỏ chỉ có một giàn máy để cắt xẻ mai và chân cua. còn lại các công việc lựa thịt cho vào hộp thì đều dựa vào thủ công. Chiều chiều sau khi hết việc tôi thường ở lại phụ dọn dẹp xịt rửa các thùng barrel nhựa đựng càng cua và quét dọn sàn nhà để kiếm thêm giờ. Mỗi ngày vào giờ đó có một ông Mỹ trắng khá lớn tuổi vô để tháo rửa máy móc và sau đó lắp lại để chuẩn bị cho ngày làm việc hôm sau. Trong đầu tôi lại nảy ra một giấc mơ mới. Trong tương lai với mảnh bằng kỹ sư cơ khí rất có thể tôi sẽ được hãng mướn để trông coi giàn máy này thay cho ông già Mỹ chắc chắn khi ấy đã đến tuổi về hưu. Nếu được như thế thì cũng đủ mãn nguyện cho tôi vì từ vị trí một người thợ mỗi ngày đứng bẻ càng xếp cua lên băng chuyền hoặc đổ thùng càng cua vào máy xay mà nay được lên trông cả giàn máy thì chắc chắn thu nhập cũng phải tăng lên rất nhiều, trong khi công việc lại nhàn hạ hơn. 


Sau khi chuyển lên đại học bốn năm, chương trình học cũng nặng hơn, trường cũng ở xa hơn nên mặc dù lúc này tôi đã có chiếc xe hơi cũ để làm phương tiện di chuyển, tôi không còn thời giờ để làm tại hãng đóng hộp thịt cua nữa. Mỗi tuần tôi chỉ còn làm thêm vào ba ngày cuối tuần ở một nhà hàng Tàu. Giấc mơ khiêm nhường trông giàn máy hãng cua cũng phai nhạt dần đi theo thời gian và tất nhiên tôi cũng quên hẳn giấc mơ sửa đầu máy VCR của mình trước đó. Anh bạn Việt Nam đã bỏ khu apartment đi mua nhà riêng được vài năm. Lúc này anh đã được chủ cửa hàng sang lại cho căn tiệm và tự đứng ra làm chủ. Không được dịp gặp anh ta nhiều nhưng tôi nghe nói công việc làm ăn của anh không được khấm khá lắm. Thời gian đó đầu máy DVD đã bắt đầu xuất hiện nên các đầu máy VCR xuống giá rất nhiều. Do đó nếu hỏng, người ta sẵn sàng mua máy mới chứ chả ai bỏ ra $20, $30 để sửa như trước kia nữa. Tôi ngẫm nghĩ thấy mình may mắn đã không tiếp tục theo đuổi giấc mơ thuở mới đặt chân đến Virginia của mình.


Sau khi ra trường, tôi đã may mắn kiếm được công việc đúng với khả năng ở một hãng lớn ngay tại địa phương nơi mình ở. Thời gian cứ tuần tự trôi và qua những kinh nghiệm rút ra trong cuộc sống ở Mỹ cũng như trong công việc ở sở hàng ngày đã khiến các giấc mơ viễn vông kiểu xưa kia của tôi cũng dần biến mất để thay thế bằng các kế hoạch tương lai thực tế hơn. Anh bạn Việt Nam từ thời tôi mới chân ướt chân ráo lên Virginia nghe nói đã phá sản, nợ nần chồng chất và phải bỏ đi tiểu bang khác sinh sống. Ôi cái hình ảnh kiểu mẫu lý tưởng của giấc mơ Mỹ quốc của tôi ngày xưa ấy may mà không thành với tôi. Giả sử ước mơ đầu tiên trên đất Mỹ của tôi trở thành hiện thực thì liệu tôi có tránh khỏi cảnh phá sản vỡ nợ như anh bạn Việt Nam kia không? Và rồi nếu ước mơ thứ hai đứng trông giàn máy ở hãng thịt cua của tôi thành sự thật thì liệu với tình trạng nước biển ô nhiễm và đánh bắt quá nhiều khiến số lượng cua xanh (blue crab) của vùng vịnh Chesapeake này bị giảm sút thì liệu tôi có đủ sống với số giờ làm việc ít ỏi dựa vào mùa đánh bắt cua chỉ có vài tháng trong năm như hiện nay hay không?


Nhìn lại cuộc sống của mình trong bao năm qua tôi phải thú thực rằng giấc mơ Mỹ quốc của mình đã đạt được nhiều hơn những gì mình đã từng ao ước rất nhiều. Đúng nửa thế kỷ, tròn 50 năm đã trôi qua từ cái ngày tôi có giấc mơ Mỹ quốc nhỏ nhoi nhất, nếu có ai hỏi như thế tôi có còn ao ước hay còn một giấc mơ Mỹ quốc nào nữa không thì tôi xin trả lời rằng có. Có điều giấc mơ Mỹ quốc hiện tại của tôi không còn là giấc mơ cho riêng tôi nữa mà là giấc mơ cho các thế hệ con cháu của mình.

Tôi mơ đến một nước Mỹ mang đầy đủ các giá trị cốt lõi về tự do, dân chủ, bác ái, nhân đạo, và bình đẳng. Một nước Mỹ với tượng nữ thần Tự Do cầm đuốc soi sáng để thắp lên hy vọng cho tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Một nước Mỹ sẽ luôn nằm trong giấc mơ của những đứa trẻ ở các nước đang phát triển như giấc mơ Mỹ quốc đầu tiên mà tôi đã có đúng nửa thế kỷ trước.

 

Thảo Lan


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23867
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Ngày hôm qua lúc 1:49pm

Khi Biết Mình Sắp Chết

Dr. Richard – 40 tuổi, bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ, triệu phú – đã chia sẻ về cuộc đời mình trước sinh viên năm nhất tại Trường Đại học Y vào ngày 19.01.2012.


“Chào buổi sáng.

Giọng tôi hơi yếu, mong mọi người thông cảm.

Tôi là Richard – một bác sĩ.

Hôm nay tôi chỉ muốn chia sẻ một chút về cuộc đời mình.

Tôi rất biết ơn thầy cô đã mời tôi đến đây, vì ngoài các bài học về nha khoa mà các bạn đang học, tôi nghĩ có một số điều khác đáng để lắng nghe.

Từ nhỏ tôi đã là một “sản phẩm hoàn hảo” của xã hội hiện đại – đúng chuẩn thành công.

Sinh ra trong cảnh nghèo, nhưng tôi lớn lên trong môi trường truyền thông, nơi người ta định nghĩa hạnh phúc là sự thành công, mà thành công thì lại đồng nghĩa với tiền bạc. 

Tôi đã mang trong mình một khát vọng ganh đua rất lớn.

Tôi không chỉ là học sinh xuất sắc, mà còn muốn là người giỏi nhất trong mọi lĩnh vực.

Tôi phải đoạt giải, phải mặc đồng phục đẹp, phải có huy chương – càng nhiều, càng tốt. 

Tôi học Y, và tất nhiên, tôi theo ngành “đắt giá” – phẫu thuật thẩm mỹ.

Tôi được cấp học bổng sang Singapore, nghiên cứu về điều trị mắt bằng laser.

Rồi tôi thấy cơ hội thực sự là ở ngành làm đẹp – nên tôi bỏ dở chuyên khoa và mở phòng khám thẩm mỹ riêng. 

Và tôi thành công rực rỡ. 

Tôi kiếm hàng triệu USD trong một năm.

Phòng khám phát đạt đến mức phải thuê thêm 4 bác sĩ.

Tôi mở thêm chi nhánh ở Indonesia – phục vụ tầng lớp thượng lưu. 

Thời gian rảnh?

Tôi tham gia CLB xe thể thao.

Chạy xe đua xuyên biên giới sang Malaysia bằng chiếc SUV độ hàng trăm nghìn đô.

Tôi mua Ferrari F430 màu bạc – bạn tôi là chủ ngân hàng thì đi bản màu đỏ.

Tôi bắt đầu sưu tầm bất động sản. 

Tôi sống giữa tiền bạc, danh tiếng và sắc đẹp.

Bạn gái tôi từng là hoa hậu hoàn vũ.

Tôi ăn ở những nhà hàng có đầu bếp Michelin.

Tôi nghĩ mình đang đứng trên đỉnh của thế giới. 

Cho đến một ngày… 

Khoảng tháng 3 năm ngoái, tôi bắt đầu đau lưng.

Tôi nghĩ chắc tại ngồi nhiều. Tôi đến bệnh viện nơi bạn tôi làm việc để chụp MRI.

Bạn tôi nói thẳng: “Có dấu hiệu ung thư di căn ở xương sống.” 

Tôi sững sờ. Tôi không thể tin nổi.

Hôm trước còn chạy bộ được cơ mà!? 

Hôm sau tôi đi chụp PET scan – kết luận:

Ung thư phổi giai đoạn cuối (Stage IV).

Di căn lên não, gan, thận và cột sống.

Tôi – người tưởng chừng như có tất cả –

Lúc đó – mới biết mình chẳng còn gì. 

Tôi nhìn phim CT và thấy hàng ngàn nốt nhỏ li ti phủ đầy phổi – gọi là miliary tumor.

Bác sĩ bảo – ngay cả dùng hóa trị thì tôi cũng chỉ còn 3–4 tháng. 

Tôi suy sụp.

Tôi nghĩ mình có nhà, có xe, có danh tiếng, có mọi thứ…

Nhưng không thứ gì cứu được tôi.

Tôi từng nghĩ tiền sẽ mua được hạnh phúc.

Giờ đây, tôi hiểu rằng những chiếc Ferrari, nhà lầu hay danh tiếng – không thể nào khiến tôi mỉm cười nổi nữa.

10 tháng qua – những giây phút hạnh phúc thật sự của tôi – không phải là khi lái siêu xe, không phải khi ký hợp đồng triệu đô. Mà là khi tôi được bạn bè, người thân ôm tôi khóc, ngồi bên tôi cười, nghe tôi chia sẻ, và im lặng cùng tôi vượt qua đau đớn. 

Tôi từng nghĩ mình đang “khoe” thành quả.

Nhưng bây giờ tôi biết – tôi chỉ đang phô bày bản ngã và lòng kiêu hãnh. 

Tôi từng làm việc ở khoa ung thư khi còn thực tập.

Tôi gặp bệnh nhân đau đớn, thở oxy từng nhịp.

Nhưng với tôi lúc ấy – đó chỉ là “công việc”.

Tôi không thực sự cảm nhận được nỗi đau của họ. 

Giờ đây – khi chính tôi phải hóa trị, khi tôi phải đối mặt với cái chết – tôi mới thực sự hiểu thế nào là “bệnh nhân”. 

Nếu có ai hỏi tôi:

“Nếu được sống lại, anh có thay đổi điều gì không?” 

Tôi sẽ nói: Có. 

Tôi sẽ quan tâm hơn, biết lắng nghe hơn.

Tôi sẽ không đánh giá người khác bằng đồng tiền.

Tôi sẽ làm bác sĩ – đúng nghĩa – để chữa bệnh và xoa dịu nỗi đau. 

Tôi có 2 điều muốn nhắn gửi: 

Thành công và giàu có không sai. Nhưng nếu để những điều đó định nghĩa con người bạn, bạn sẽ không thể chịu nổi khi đánh mất chúng.

Đừng quên lý do bạn trở thành bác sĩ.

Bệnh nhân không phải là “nguồn thu”.

Đừng kê đơn vì lợi nhuận.

Hãy đối xử với họ như con người – với trái tim biết đồng cảm. 

Tôi đang hóa trị lần thứ 5.

Nó rất kinh khủng. Tôi không muốn bất kỳ ai phải trải qua những gì tôi đang phải trải qua. 

Tôi không ăn uống được.

Nhưng tôi vẫn đến thăm các bệnh nhân ung thư khác, vì tôi hiểu được họ.

Dù đã quá muộn – tôi vẫn muốn làm gì đó có ý nghĩa. 

Các bạn có cả một tương lai tươi sáng.

Tôi chỉ muốn các bạn nhớ:

Bệnh nhân là con người thật, đang thật sự đau đớn.

Không phải chỉ người nghèo mới đau khổ – người giàu có khi còn khổ hơn.

Một chút thấu cảm của bạn – có thể là ánh sáng trong địa ngục của họ. 

Tôi sắp chết – nhưng tôi cảm thấy… tôi vừa mới bắt đầu sống.

Những người quan tâm đến tôi lúc này – mới chính là những người tôi trân quý. 

Nếu tôi có thể sống lại – tôi sẽ sống khác.

Trong một cuốn sách có câu: 

“Tất cả chúng ta đều biết mình sẽ chết. Nhưng chẳng ai thực sự tin điều đó. Nếu tin, chúng ta đã sống khác đi rồi. 

Đừng sống như tôi đã từng.

Hãy sống như tôi đang sống – dù chỉ còn vài tháng để sống. 

Xin cảm ơn vì đã lắng nghe.

Nếu có ai muốn hỏi, tôi sẵn sàng chia sẻ thêm. 


- Bác sĩ Richard qua đời ngày 18.10.2012 


Nguồn Myanmar

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23867
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 9:17am

Đi Tìm Hơi Ấm Đồng Hương


Con sông Illinois bốc khói mịt mù như có đám cháy lớn trong mấy ngày liên tiếp, rồi đá cục nổi lều bều, lổn nhổn trông rất hỗn độn. Sau đó thì mặt sông băng thành đá cứng phẳng lì, yên lặng, và phủ đầy tuyết màu trắng.

Mùa đông năm 1981 đó, sở khí tượng tiểu bang Illinois ghi nhận mức độ lạnh kỷ lục trong vòng năm mươi năm. Hàn thử biểu tụt xuống đến trừ tám mươi độ F khi có tác dụng của gió. Tuyết bay mịt mù trời đất. Tuyết được dồn thành những đống cao ngút bên hai lề đường. Sở Công Chánh của thành phố vất vả đêm ngày, gởi xe cào tuyết xúc dọn những con đường chính của thành phố, để xe cộ có thể lưu thông. Những con đường phụ, thì tuyết ngập cao, không biết đâu là lòng đường, lề đường, bằng phẳng như một góc của thảo nguyên miền địa cực.

Thở ra mịt mù như đang thổi khói thuốc lá, tôi thử khạc một bãi nước bọt, nhổ lên tường nhà xem có tạo thành tiếng kêu “cong” như người ta thường nói dóc hay không. Ông bạn tôi nói: “Lạnh như thế nầy, thì có lẽ khi tiểu tiện ngoài trời, nước đóng thành một cái cây đá cong cứng, nối từ đưới đất lên bụng”. Tôi nói đùa : “Thôi thôi, áo quần bảy tám lớp, làm sao mà tiểu tiện ngoài trời được. Có kéo ra được, thì e gió lạnh thổi, nó đóng thành băng và gãy mất thôi.””

Tay tôi, mang vớ len dày, bên ngoài trùm thêm vớ da. Thế mà hai bàn tay cũng tê buốt, mấy ngón tay cóng lại, khó cử động. Chân tôi mang hai lớp vớ bông, đi giày tuyết, thế mà cũng nhức nhối cả bàn chân khi đi ra đường. Bên trong nhà, hơi thở ẩm làm tuyết đóng dày, trắng xóa, làm thành cái gờ to bao quanh thành cửa sổ. Chúng tôi tưởng cái lạnh nầy là bình thường ở các xứ tuyết, nên khi nghe các ông bà Mỹ than lạnh quá, thì tôi cũng ngạc nhiên.

Vợ tôi nói, còn một tuần nữa là Tết Nguyên Đán. Tôi không trả lời nhưng trong lòng cũng thấy xao xuyến. Chỉ có trơ trọi hai gia đình Việt Nam trong cái thành phố Morris nhỏ bé với dân số bảy ngàn người nầy. Thành phố nằm về phía Tây Nam của thành phố Chicago, khoảng cách gần hai giờ lái xe. Chỉ hai gia đình thôi, thì ăn Tết với ai đây. Vui gì mà Tết nhất. Tôi nói với vợ :

“Hay là em thử kêu điện thoại cho anh chị Hy xem, họ có tính chuyện Tết nhất gì không. Họp nhau lại ăn Tết cho đỡ buồn.”

Vợ tôi kêu điện thoại, chị Hy bên kia giây nói :

“Sắp Tết rồi mà chúng tôi đâu biết, nếu anh chị không nhắc, thì có lẽ nó qua đi lúc nào chẳng hay. Tết rồi sao? Đây là cái Tết đầu tiên của tôi trên đất Mỹ. Anh chị có tính gì không, cho chúng tôi theo với.”

Với chúng tôi, tuy không là Tết đầu tiên, nhưng trong lòng cũng không yên, nghe đâu đó có chút gì xôn xao, chờ đợi. Cái Tết đầu, khi chúng tôi còn ở miền Tây nước Mỹ, vợ tôi chờ cho đến giao thừa, bốc điện thoại kêu chúc mừng năm mới bà con, bạn bè. Kêu điện thoại đường dài. Đánh thức bà con bạn bè dậy lúc nửa đêm. Nhiều người đang ngái ngủ, bực mình, nói chuyện lạt lẽo qua loa rồi gác máy. Cái hớn hở của vợ chồng tôi bị cụt hứng nhiều lần. Ông anh vợ tôi, đi du học và ở lại Mỹ làm việc đã nhiều năm, ở tận miền đông, cách chúng tôi ba múi giờ, ông hỏi rằng:

“Có việc gì khẩn cấp không? Sao mà dựng cổ anh dậy lúc ba giờ sáng để chúc Tết. Có khùng chưa? Sao không đợi đến sáng mai rồi kêu?”

Vợ tôi ngần ngừ đáp:

“Bây giờ là giao thừa!”

“Giao thừa. Hừ, giao thừa. Ở Mỹ cũng có giao thừa sao? Ha ha ha. Thôi, cô đừng kêu điện thoại cho ai khác nữa mà làm phiền họ.”

Nhờ anh, mà vợ chồng tôi dè dặt hơn, và sau nầy biết mình làm cái việc chúc mừng năm mới hơi lố.

Thế nhưng trong lòng chúng tôi chưa nguội lạnh được với cái tục lệ Tết đã ăn sâu vào trong tiềm thức từ thuở nào. Chúng tôi nhất định năm nay phải ăn Tết cùng gia đình anh Hy. Tôi nói:

“Tết mà không có bánh chưng, mứt, hạt dưa thì chẳng có mùi vị Tết. Có khác chi họp mặt ăn bình thường. Nhưng thôi, có họp nhau ăn Tết, còn hơn là quanh năm không có ngày nào Tết cả. Mình không có đạo, nên ngày Chúa giáng sinh cũng không đèn đóm, không cây thông, không bánh trái. Giáng sinh Mỹ thì nhà nhà đóng cửa, như lén lút ăn với nhau, không cho thiên hạ biết. Đường sá vắng hoe, không rần rần đi dạo phố nửa khuya quanh nhà thờ như bên mình. Không ai mời bạn bè, tiệc tùng đông đảo lúc nửa đêm. Mình không là Mỹ, thì Tết Tây cũng lạt phèo, không có chi vui, vợ chồng nằm nhà xem truyền hình.”

Chúng tôi bàn chuyện Tết với gia đình anh Hy. Vợ chồng anh mừng lắm, và hẹn sẽ cúng ông bà theo lối tập thể. Bày bàn thờ cúng chung. Anh Hy sẽ xin nghỉ việc một ngày, đưa chị Hy và vợ tôi về Chicago, xuống phố Tàu, mua nếp, hạt dưa và các thứ cần thiết để mừng xuân.

Sau khi đi Chicago về, anh Hy rối rít báo cho tôi biết là có gặp anh Sáu Nạc, anh nầy đang ở trong một tu viện tại thành phố La Salle, cách thành phố tôi chừng bốn mươi lăm phút lái xe. Sáu Nạc đề nghị tổ chức ăn Tết chung cho dân Việt Nam tị nạn trong vùng. Anh sẽ mượn hội trường của tu viện để tổ chức Tết. Anh liên lạc với những gia đình Việt Nam tị nạn rải rác trong các thành phố hẻo lánh của tiểu bang. Kêu điện thoại cho họ, và hẹn ngày giờ tụ họp làm một cái Tết nhớ quê hương. Qua niên giám điện thoại, anh đã liên lạc được mười mấy gia đình trong tám thành phố khác nhau. Chưa quen biết nhau, nhưng thấy có cái tên Việt Nam là kêu liền, và khi liên lạc được, họ rối rít đón mừng, cảm động. Anh bảo những người nầy tìm kiếm thêm đồng hương, và nhắn nhau về La Salle ăn Tết. Có gia đình ở dưới miền nam, tận tỉnh xa cũng hẹn về họp mặt.


Tôi nhớ rõ, nhờ cuốn niên giám điện thoại mà quen biết anh chị Hy. Khi công ty chuyển tôi từ California lên đây để gia nhập đoàn chuyên viên đang lo xây cất một nhà máy năng lượng hạt nhân trong vùng. Loại nhà máy nầy thường xây tại các nơi dân cư thưa thớt, để tránh sự chống đối của các nhóm bảo vệ môi sinh, và nếu lỡ có tai nạn, thì cũng bớt ảnh hưởng đến đông đảo dân chúng. Nằm trong khách sạn Holiday Inn, tôi dở cuốn điện thoại, tra tìm từ họ Nguyễn, họ Trần, họ Lê, họ Phan và qua các họ lớn khác, không thấy một ai tên Việt Nam. Lật lui lật tới mãi nhiều lần, tôi tìm được cái tên Dong Hy. Tôi thầm nghĩ, không chừng ông nầy người Tàu, là hậu duệ của ông Đổng Trác. Thử gọi điện thoại xem sao, nếu không phải Việt Nam thì xin lỗi, có mất gì đâu. Qua phút đầu tiên bỡ ngỡ, khi anh Hy biết tôi đang ở trong thành phố nầy, anh vui mừng rối rít, dù là đã chín giờ đêm, anh đòi đến khách sạn gặp tôi ngay. Anh đem cả bà mẹ già, vợ và hai con còn ẵm trên tay đến thăm xã giao. Hai vợ chồng cười vui rối rít, mừng như anh em trong nhà lâu ngày mới gặp lại nhau. Bà mẹ anh nắm tay vợ tôi mà nước mắt rưng rưng vì mừng. Chị Hy cho biết, trong thành phố nầy chỉ có gia đình anh chị là người Việt Nam nên rất thèm gặp đồng hương. Mỗi khi đi Chicago qua phố Tàu, thấy những cái đầu đen, thì lòng chợt ấm lại và nghe hân hoan. Gia đình anh chị Hy được nhà thờ bảo lãnh đến đây. Nhà thờ rất tử tế. Buổi đầu họ cung cấp nhà ở, trả luôn tiền điện nước. Mỗi tuần đưa đi chợ hai lần, và trả luôn tiền chợ. Sau mấy tuần, họ kiếm việc cho anh Hy làm trong một cơ xưởng tu bổ tàu thuyền. Phần việc của anh là cạo sét vỏ tàu. Treo mình tòn ten bên ngoài thành tàu mà gõ sét. Mùa hạ thì nắng nóng đốt cháy da thịt, khát nước liên tục, mùa đông thì gió tuyết quật, rét cắt da, gió hú ào ào. Nhưng anh Hy rất sung sướng và thỏa mãn với công việc đang làm. Lương đủ nuôi vợ, hai con nhỏ và một bà mẹ già. Chị Hy thì thỉnh thoảng đi lau chùi nhà cửa cho các ông bà già trong thành phố kiếm thêm tiền. Bà mẹ anh Hy là người Tàu chính gốc. Bà lưu lạc đến Việt Nam lúc mới mười lăm tuổi, và xem Việt Nam như quê hương. Mỗi lần nói chuyện, bà thường nói “bên mình” để chỉ cái quê hương Việt Nam của bà. Anh chị Hy khẩn khoản yêu cầu chúng tôi ở lại thành phố nầy, dù cái nhà máy chúng tôi đang xây nằm bên thành phố La Salle. Chúng tôi cũng mừng vì có đồng hương, chị Hy cùng vợ tôi chạy quanh tìm nhà thuê mà không có, phải nhờ bà bảo trợ của gia đình chị hỏi giúp. Bà vào nhà thờ, rao báo lên. Cuối cùng tìm được cho chúng tôi thuê nhà ông John. Ông ở từng dưới, và từng trên có cầu thang riêng, đầy đủ bếp núc, phòng khách, phòng ngủ, phòng tắm để cho thuê. Mỗi chủ nhật, chúng tôi ra nhà anh Hy chơi, có khi cùng ăn cháo trắng buổi sáng với cà na. Bà cụ thường lén rưng rưng nước mắt với vợ tôi, bảo là chị Hy không tốt, vì có lúc chị đánh thằng cháu nội của bà, và chị biết bà đau nhức xương cốt mà bắt ăn cà na, nhức xương thêm. Vợ tôi làm cho bà một hộp thịt chà bông lớn. Bà cảm động lắm. Thấy bà cô đơn, chúng tôi thường chở bà đi chơi, đưa bà vào quán Mỹ, mời bà ăn vài món lạ, cho bà uống sữa quậy nước dâu. Bà vui mừng và nói líu lo như đứa bé. Vợ chồng tôi cũng vui lây.

Anh Sáu Nạc dặn mỗi người đem một món đến ăn Tết. Tôi lãnh phần nấu bánh chưng theo lối cấp tốc. Cứ nấu riêng nhân đậu, thịt heo, và ba nồi xôi lớn có trộn phẩm ăn màu xanh lá chuối. Xôi phải nấu thật khô. Tôi dùng cái hộp sắt hình vuông làm khuôn. Cắt đáy hộp, lát giấy nhôm, bỏ xôi vào chừng nửa hộp, sau đó đổ nhân đậu xanh và thịt heo vào, phủ thêm một lớp xôi nữa. Gói lại, dùng tấm gỗ mà nén thật chặt. Dùng cái búa nện cho chắc hơn. Vợ tôi bảo đừng nện chặt quá, cơm nếp nát ra thành bánh dầy, khi mở ra thấy kỳ lắm. Cột thêm dây bên ngoài. Tôi đặt tên là bánh chưng mạo hóa. Trong một buổi tối, tôi làm được tám cái bánh chưng lớn. Vợ tôi lo ngại sẽ không tiêu thụ hết mấy cái bánh nầy, rồi đem bỏ đi thì tội của trời. Những năm nầy, chúng tôi không bao giờ dám phí phạm thức ăn. Vì chúng tôi đã từng đói ăn trong thời đất nước đang tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩ. Chúng tôi đã gần chết đói khi thuyền chết máy trôi dạt trên biển khơi. Mấy cái bánh chưng tôi làm vuông vắn, cứng và đẹp hơn cả bánh chưng thật. Đồ giả thường đẹp hơn đồ thật. Vợ chồng anh Hy xuýt xoa khen mấy cái bánh chưng của chúng tôi. Tôi dấu không cho họ biết cách nấu bánh chưng giả nầy.


Ngày họp mặt ăn Tết được chọn vào thứ bảy, vì chủ nhật nhà thờ làm lễ. Tuyết bay ngập trời, đan dày kín, thu ngắn tầm nhìn trước mặt. Quạt nước quay liên tục gạt tuyết. Tôi lái xe chạy trước, xe anh Hy bám theo sau. Phải chạy cách nhau một quãng dài, để kịp thắng khi cần. Gió hú ào ào như ma quỷ kêu gào dọa dẫm . Hai bên đường tuyết đóng thành những cánh đồng trắng xóa ngút ngàn. Có khi tuyết ngưng rơi, nhìn xuống cuối chân trời, trước mặt và hai bên, không thấy bóng cây, nhà cửa, nông trại. Tuyết mênh mông, trời đất trắng mênh mông, không có đường chân trời, hai chiếc xe lầm lũi đi tìm hơi ấm đồng hương, chở những con người còn nặng lòng thương nhớ nước non. Con đường liên tỉnh, mỗi chiều có một dòng xe, vắng hoe, như một con rạch chạy dài uốn khúc, hai bên tuyết đóng ụ cao. Những bầy chim nhỏ màu đen đói khát, đậu trên mặt đường tìm chút hơi ấm của khói xe còn vương đọng lại, chúng bay vù lên khi tránh xe đi qua, rồi đáp xuống lại trên đường. Vợ tôi thắc mắc không biết tuyết mênh mông trời đất như thế, thì lũ chim nầy ăn cái gì mà có thể sống qua suốt mấy tháng mùa đông. Trời lạnh cần nhiệt lượng, bụng mau đói, mà chỉ có tuyết trắng bao phủ dày đặc, đâu có ăn tuyết mà sống được. Từ tỉnh lộ, chúng tôi bắt qua xa lộ, xe cộ đông đảo hơn. Hai ven đường, năm bảy chiếc xe vận tải hàng, lớn như những căn nhà, bị trượt bánh, lật nằm ngã nghiêng. Những ông tài xế đường dài kia, chạy xe bất kể ngày đêm, đi băng qua lục địa Mỹ, đi từ bờ Thái Bình Dương qua đến bờ Đại Tây Dương và ngược lại. Chuyên chở hàng hóa, thực phẩm, và phải giao hàng đúng hạn kỳ vì sợ bị hư thối, hoặc chậm trễ công việc thương mãi. Các ông sống với sương gió nắng mưa dọc theo xa lộ nhiều hơn sống trong nhà, họ thiếu ngủ thường trực. Xe thì lớn cồng kềnh, dài lòng thòng, chỉ cần một sơ suất nhỏ là gây tai nạn dính chùm. Tôi nhìn những chiếc xe ngổn ngang chổng gọng nằm giữa tuyết ở hai ven đường mà cảm thương cho người, và sung sướng cho mình, không phải cực nhọc vất vả như cuộc đời của những người tài xế kia.

Đi qua khỏi cánh đồng tuyết mênh mông, thì thấy cái tháp chuông nhà thờ nhọn, nhú lên lờ mờ ở chân trời. Cứ nhắm hướng đó mà đi tới. Tuyết lại đổ mịt mù, che mất không gian trước mặt. Từng vờ tuyết lớn úp chụp vào kiếng xe. Con đường trơn trợt, tôi chạy chậm lại chờ xe anh Hy. Thấy xe anh Hy dừng, tôi lái xe thụt lùi lại hỏi. Anh Hy quay kiếng xuống nói vọng qua:

Tuyết đổ dày quá, không thấy đường mà lái. Dừng lại chờ cho bớt cơn bão tuyết rồi đi.”

Tôi nói lớn trong gió gào:

Không được. Dừng lại thì tuyết nó phủ dày, ngập bánh xe, không lái ra khỏi ụ tuyết đâu. Vả lại, dừng xe mà nổ máy, khói xe độc lắm, có thể chết người.”

Chúng tôi chạy xe thật chậm, cẩn thận trên con đường vắng hoe. Cuối cùng, cũng đến nơi. Tu viện lớn như tòa lâu đài cổ, nhiều căn nhà ngang dọc. Sân tu viện trắng xóa mênh mông. Trong bãi đậu xe đã có gần chục chiếc, đa số là xe cũ, kềnh càng, móp méo. Đúng là xe của những người tị nạn, thừa hưởng được từ lòng nhân ái của các hội nhà thờ đem tặng. Tôi và anh Hy xốc nách dìu bà cụ của anh, đi qua cái sân đầy tuyết. Bà cụ không đi, mà xìa chân ra trượt trên tuyết và cười hăng hắc vui vẻ.


Trong hội trường đã xôn xao tiếng người. Đa số đến trước giờ hẹn. Họ nôn nao quá, phải đi cho sớm để gặp đồng hương. Hai dãy bàn dài có trải khăn trắng, đã bày sẵn nhiều loại thức ăn khác nhau. Phía cuối tường có kê một cái bàn, làm bàn thờ tổ quốc, bên sau treo lá cờ lớn. Anh Sáu Nạc chạy lui chạy tới, tíu tít bận bịu. Mọi người đều góp tay vào việc sửa soạn. Không có ai là chủ, ai là khách.

Thế mà có gần đủ các món Tết của Việt Nam. Hạt dưa, mứt, dưa món, củ kiệu, bánh dầy, bánh chưng, bánh da lợn, bánh đúc, bánh bò, thịt kho nước dừa, có cả một nồi bún bò, và một thùng phở. Mọi người hớn hở vui cười nói chuyện hàn huyên. Tất cả có mười lăm gia đình, được bốn mươi sáu người. Gia đình anh Hy đông nhất, có bà cụ, hai vợ chồng và hai đứa con nhỏ. Có nhiều gia đình chỉ độc nhất một người như anh Sáu Nạc, Chị Nha, bà Trang, ông Phú và mấy người thanh niên khác nữa. Họ đến từ nhiều thành phố khác nhau trong các vùng phụ cận: Rochelle, Morris, Peru, Kewanee, Streator, Chillicothe, Pontiac, Peoria. Mười lăm gia đình ở chín thành phố khác nhau. Tất cả đều độn áo quần năm bảy lớp, làm cho thân thể sưng phồng lên tròn vo, trong lúc mặt mày còn xương xẩu, gầy còm, khắc khổ. Chứng tích của những ngày thiếu thốn trong trại tị nạn, và đậm nét hơn của những năm hòa bình, bữa khoai sắn, bữa bo bo, bữa cháo, bữa cơm.

Họ cười cười, nói nói hân hoan, nhưng trong ánh mắt họ chan chứa sâu thẳm nỗi buồn, không ai dấu được ai. Một anh lớn tuổi nhận xét :

Trong một đám đông Á Châu, thì người ta có thể nhận ra ai là Việt Nam ngay, vì trên mặt họ không che dấu được nỗi buồn sâu kín.”

 Có người hỏi lại:

Tại sao mà buồn? Đã tìm được tự do, đã sống trên miền đất mơ ước còn buồn cái gì?”

“Anh nói lạ chưa. Nước mất, nhà tan, gia đình li tán khắp năm châu, kẻ tội tù, người bị đày đọa. Bạn bè, anh em, kẻ chết chìm đáy biển, người chết khô trên rừng, và người ở lại thì không thấy bóng tương lai. Họa là sắt đá mới không biết buồn. Ngay cả những nụ cười khi lòng hân hoan, cũng có cái buồn phảng phất đâu đó trên môi, trong ánh mắt.”

Tôi nhìn sâu vào ánh mắt từng người đồng hương và thở dài. Có lẽ cũng phải mười năm, mười lăm năm nữa, may ra họ mới quên lãng và hết buồn. Gặp gỡ, họ xoắn lấy nhau chuyện trò, như những người bạn thân thiết lâu ngày. Đủ thứ chuyện trời đất mưa nắng. Nhưng nhắc nhở nhiều nhất là chuyện quê nhà ngày xưa, những êm đềm hạnh phúc trong quá khứ, và những gian nan cay cực đã qua trong xã hội mới, những hiểm nguy khi đi tìm tự do.


Sáu Nạc nói với tôi rằng quê anh ở Rạch Giá. Trước năm 1975, anh mơ ước hòa bình bằng mọi giá. Quốc gia hay cọng sản anh không cần, chỉ cần được sống yên bình, không còn chiến tranh, chết chóc. Anh đã né tránh tham gia vào cuộc tương tàn bằng cách trốn đi lính. Trốn chui nhủi như một con thú. Khi nào cũng sợ bị bắt. Hòa bình đến, mừng như cất được gánh nặng ngàn cân. Nhưng nỗi vui mừng tắt ngay và nhận ra, thà có chiến tranh mãi mãi, để còn chút không khí tự do, còn hơn là thứ hòa bình khủng khiếp lạ kỳ nầy. Anh vượt biển với hai đứa em, một trai một gái. Hai đứa đã bỏ mạng trên biển, chỉ còn mình anh đến được bến bờ tự do. Anh được tu viện bảo trợ đến đây. Cho một căn phòng để ở, cơm nước có các Bà Chị nữ tu nấu nướng cho toàn viện. Áo quần cũng được các chị giặt giúp. Công việc hàng ngày của anh là ngồi trên xe cắt cỏ, cắt từ đầu nầy đến đầu kia khu vườn của tu viện rộng mênh mông nầy . Khi cắt đến cuối vườn, thì đầu kia cỏ cũng đã mọc vừa cao, quay trở lại cắt nữa. Cứ thế mà ngồi trên xe suốt cả mùa xuân mùa hạ. Đến mùa thu thì vừa cắt cỏ vừa thổi và hốt lá vàng, liên tục từ sáng cho đến chiều. Mùa tuyết đổ, thì suốt ngày ngồi trên xe xúc tuyết, ủi sạch tuyết cho xe lưu thông trong khuôn viên tu viện. Trong tu viện, ai cũng làm việc, không việc nầy thì việc kia, chẳng ai ngồi không. Nhà thờ rất công bằng và tử tế, trả lương cho anh theo số giờ làm việc. Bởi vậy nên anh hăng hái hơn và thấy vui hơn trong khi làm. Ở đây rất tự do, muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm, không ai bó buộc. Miễn sao công việc hoàn tất thôi. Mỗi thứ bảy, chủ nhật anh chạy xe về Chicago chơi, thăm viếng bạn bè, vào khu phố Tàu ăn uống, mua các thức cần dùng, rồi lang thang trong các phố Tàu để có cảm giác như gần gũi với quê nhà hơn. Anh thấy được yên ổn sống trong tu viện nầy là quá hạnh phúc, quá sung sướng. Anh nghĩ rằng, ngày xưa, ông Ngô Đình Diệm khi qua Mỹ lánh nạn, sách viết rằng, ông cũng được sống trong một tu viện, có lẽ cái tu viện đó tương tự như tu viện nầy. Và có lẽ, ông cũng được nhà thờ cho công việc làm để có chút tiền tiêu và quên ngày tháng buồn bã nơi đất khách quê người. Trong thành phố La Salle nầy, chỉ có anh Sáu Nạc là người Việt Nam thôi. Gia đình Việt Nam ở gần anh nhất, là anh chị Trương, ở một thành phố phía Bắc, cách nhau chừng bốn mươi dặm. Anh Trương trước là quan tòa, ngồi xử án thiên hạ. Sau năm 1975 thì đi tù. Nhờ có thân nhân làm lớn trong ngành công an, móc nối với chỉ huy trưởng trại cải tạo, đút lót tiền bạc, được về sớm hơn bạn bè. Anh đóng tiền đi vượt biên bán chính thức theo người Tàu. Anh Trương trắng trẻo như một thư sinh. Anh cho biết đang làm nghề hái nấm cho một nông trại trong tỉnh. Nấm trồng trong nhà lồng lớn, có giàn kệ cao, nhiều lớp chồng lên nhau. Suốt ngày anh đứng chàng hảng, đạp chân lên hai cái giàn kế cận, lùa tay vào bên trong nhặt nấm. Theo anh, thì công việc cũng nhẹ nhàng. Ai chăm có thể làm một ngày mười hai tiếng, và nếu muốn, thì làm luôn cả thứ bảy, chủ nhật. Vợ chồng anh đều làm cho nông trại trồng nấm nầy. Đứa con được xe trường đưa rước tận nhà mỗi ngày. Anh cho rằng, đây là thiên đường tìm thấy, không cần đi tìm đâu xa xôi. Tiền lương tiêu không hết, đời sống an bình hạnh phúc. Căn nhà ba phòng, có vườn rộng mênh mông, thuê rất rẻ. Chị Trương thả gà, trồng hoa quả, rau ráng trong mùa nắng ấm. Mùa đông thì họ rút vào phòng, đốt lò sưởi, xem truyền hình, nghe nhạc. Mỗi tháng, họ lái xe về Chicago một lần mua các thức ăn khô Á Đông. Tôi gợi ý cho anh Trương tìm cách ghi danh vào các đại học, kiếm một nghề chuyên môn, để đời sống khá hơn. Anh Trương cười và nói với giọng vui vẻ:

Mình đi tìm tự do. Có được tự do là quý rồi. Lại được thêm ấm no hạnh phúc nữa. Đòi hỏi thêm làm gì. Tôi đang có sự an bình, thanh thản, sung sướng. Bỏ cái đang có, đi tìm cái chưa có, e thêm khổ thân mà thôi. Trong trại nấm nầy, tôi thấy công việc dễ dàng, tốt đẹp, thế mà rất nhiều người đến đây, làm vài tuần, vài tháng, rồi bỏ đi, uổng quá. Họ không thấy được cái hạnh phúc của đời sống an bình, thì đi đâu họ cũng không tìm được cả.”

Tôi ngần ngại nói thêm:

Ở đây cô quạnh. Anh chị không thấy buồn? Vả lại, anh chị lại có trình độ sẵn, đi học cũng mau

Anh Trương cười ha hả:

Học! Chính vì cái học mà bị đi tù ba năm. Khi tôi đi tù, thì bố tôi thường than rằng, nếu tôi chịu ở nhà làm ruộng như mấy ông anh, đừng đi học, thì đâu đến nỗi tù tội cho khổ cái thân. Còn cô quạnh, thì cũng có chút chút. Nhưng tôi nhớ khi còn ở trong nước, tôi và bạn bè thường mơ ước được ra sống ngoài hoang đảo, để khỏi bị phiền nhiễu, lo âu trong chế độ mới. Bây giờ, ở đây, một xứ văn minh, có thành phố, có con người, thì cái cô quạnh nầy có đáng gì.

Nói xong, anh Trương quay qua hỏi một ông đứng bên cạnh:

Tôi nghĩ như thế có đúng không anh Dương?”

Đúng hoàn toàn. Ở đâu tìm được an bình hạnh phúc, thì nơi đó là thiên đàng hạ giới.”

Anh Dương trả lời, y hệt giọng điệu anh Trương. Anh Dương chừng trên dưới bốn mươi tuổi. Khi ở Việt Nam, anh hành nghề bác sĩ, vợ anh là dược sĩ. Hai vợ chồng đang làm công nhân cho một chợ tạp hóa Mỹ. Ngày ngày sắp xếp rau cải, trái cây lên quầy, phun tưới nước, dọn dẹp bên trong, bên ngoài. Anh chị có hai đứa con đang học trung học. Nhiều bạn bè rủ anh chị về California để học thi, trở lại nghề cũ, nhưng anh cảm thấy tạm bằng lòng với đời sống hiện tại, và tìm được an bình trong đời sống đơn giản nơi đây, không muốn đi đâu cả. Vả lại, anh chị không muốn làm xáo trộn việc học hành của con cái. Anh cũng từng đi tù. Cũng từng trở lại nghề cũ, nhưng chán ngấy với những gò bó, ép buộc. Anh đã bỏ nghề, theo vợ chạy ngược xuôi chợ trời buôn bán thuốc tây, áo quần cũ, đồng hồ, máy móc. Vắt giò lén lút chạy quanh chợ trời, mà anh thấy vui và thoải mái hơn là đến nhà thương nghe chỉ thị, học tập, đường lối, chính sách. Anh đi vượt biển không tốn tiền, vì được mời làm bác sĩ cho chuyến tàu hơn hai trăm người, trên tàu có những gia đình giàu có, họ cần bác sĩ để phòng khi bất trắc. Nhưng ra biển, anh say sóng nằm dài. Cả thuyền cũng không ai chăm sóc được ai. Gia đình anh được một họ đạo bảo trợ về thành phố nhỏ hiu quạnh nầy. Anh có ý định, viết một tập hồi ký, gọi là lịch sử dân gian. Anh sẽ không viết về những trận đánh, những hiệp ước, những chính quyền. Mà chỉ viết lại trung thực về đời sống trong dân gian của một giai đoạn khổ đau trong lịch sử. Viết với sự bình tĩnh, khách quan, không để tình cảm thương ghét, căm giận xen vào sự kiện. Anh sợ người đời sau quên, con cháu quên, rồi lại dẫm lên vết xe đổ cũ. Anh sợ những bóp méo lịch sử làm sai lạc sự thực, đời sau không ai còn biết đến những điều kỳ lạ đã xẩy ra trong xã hội của thời đại qua. Và nếu không ai viết, thì đời sau làm sao còn có những tài liệu để truy tìm sự thực.


Trong đám đồng hương, người rầu rĩ ít nói nhất là ông Nguyên. Vợ và bảy đứa con nhỏ của ông đã chết trên biển. Ông cười mà cái miệng méo xệch như đang khóc, và tiếng cười nghẹn trong cổ họng càng giống tiếng khóc hơn. Ông may mắn sống trong thành phố có đến ba gia đình Việt Nam. Thỉnh thoảng họ ghé thăm nhau cũng đỡ buồn. Có người nói, ông đang dự tính dời nhà về vùng Hoa Thịnh Đốn, nhưng nghe nói mãi mà chưa thấy ông ra đi. Thỉnh thoảng, ông được chị Hòa cho mượn mấy tờ báo Việt Nam đọc, ông quý và trân trọng giữ gìn cẩn thận. Chị Hòa tốt nghiệp kỹ sư hóa học, qua Mỹ từ hồi 1975, được hãng Du Pont thuê, và đang làm việc cho một nhà máy biến chế hóa học trong vùng. Chị là một trong ba gia đình Việt Nam của thành phố mà ông Dương đang ở. Bố mẹ chị thỉnh thoảng gởi sách báo Việt nam cho chị đọc, như một món ăn tinh thần. Chị thường than, là nếu làm việc mãi nơi đây, thì làm sao mà có chồng được. Tuổi tác chị cũng đã trên dưới ba mươi rồi.

Đúng mười một giờ, cụ Trần, người lớn tuổi và chững chạc nhất, dâng hương lên bàn thờ tổ quốc. Cụ thắp hương và vái ba lạy về hướng Tây Nam, nơi mà cụ nghĩ là quê hương Việt Nam nằm về phía đó. Anh Sáu Nạc bắt nhịp, cùng tất cả đồng hương hát quốc ca Việt Nam. Lần đầu tiên nghe lại bản quốc ca sau nhiều năm dài, trái tim tôi nhói lại, lòng xúc cảm dạt dào. Nhiều người không cầm được lòng, để nước mắt chảy xuống hai dòng tràn trề trên má. Nhiều bà thút thít khóc, vừa khóc vừa hát. Khi hát xong, bà cụ anh Hy hỏi nho nhỏ:

“Sao không ca cải lương cho vui, mà ca cái bài gì lạ hoắc, làm nhiều người buồn khóc?”

Đây là bài quốc ca” Vợ anh Hy nói nhỏ.

Bà cụ nói lại với giọng miền Nam run run:

Uất ca! Uất chết được đi chớ. Đang sống yên lành, họ từ ngoài Bắc vô, cấm đủ điều, cấm buôn bán, cấm làm ăn, ngăn sông cấm chợ, xô người ta ra biển, bỏ cả mồ mã cha ông mà chạy. Phải rồi, hát 'uất ca' là đúng”

Sau bản quốc ca, là một phút mặc niệm cho những đồng bào đã bỏ mình trên biển khơi khi đi tìm tự do. Vừa nghe xong, thì ông Nguyên, người có vợ con chết biển, úp hai tay vào mặt và chạy mau ra khỏi hội trường. Anh Sáu Nạc vội vã đuổi theo ông Nguyên.

Sau nghi thức, mọi người nhập tiệc. Tôi hơi ngượng khi nghe có bà nào đó nói:

Bánh chưng ngon tuyệt. Ai nấu bánh chưng đây? Ngồi canh lửa nấu bánh ngày tết thiệt là vui. Ở đây mình mất cái thú đó rồi

Bánh nầy hơi cứng. Hay là vì trời lạnh làm bánh khô, ăn như ăn cơm nếp.”

Vợ tôi nói:

Bánh nầy do ông xã em nấu đó. Ông nấu một..”

Tôi vội vã đá vào chân vợ tôi dưới gầm bàn, và nói mau, nho nhỏ:

Thôi, em đừng nói thật làm bà con mất vui. Cứ để họ thưởng thức cái hương vị bánh chưng của họ trong quá khứ. Bật mí ra làm chi.

Mấy người mang tô nhựa đến nồi phở đứng chờ thành hàng dài. Chị chủ nhân nồi phở hớn hở trụng lại bánh phở, múc nước lèo, gắp thịt thái sẵn, bỏ hành ngò, mùi phở thơm tho bốc lên trong cái hội trường đóng kín.

Ngon không thua gì phở Pasteur. Cho em thêm cái hành trần đi. Trời lạnh, ăn phở nóng là lên thấu thiên đàng.”

Mấy người khác, đưa tô cho chị người Huế múc bún bò. Trên mặt nồi bún bò, nước ớt màu đỏ lòm đọng váng. Một anh nói:

Bún bò có cả giò heo nữa, thiệt là đúng điệu. Chị cho thật nhiều nước cay vào. Không cay, thì bún bò mất đi một phần ngon. Bún bò mà không cay, thì cũng như đàn bà con gái không trang điểm nhan sắc. Vừa ăn vừa khóc cũng không sao.

Dù cho bánh phở và bún được biến chế từ các loại mì dẹp và mì sợi của Ý, thứ mà người Mỹ gọi là pasta và spaghetti, nhưng mọi người đều tận tình thưởng thức, hết lời khen các chị nấu ngon, có tài xoay xở trong hoàn cảnh khó khăn.


Lúc quá trưa, thì có hai xe của các gia đình Mỹ bảo trợ đến chung vui. Trời bão tuyết, mà họ cũng lặn lội đến ủng hộ tinh thần, mới thấy tấm lòng tử tế của họ. Hai ông bà Mỹ già trên dưới sáu mươi, và hai vợ chồng trẻ khác.

Tôi hỏi chị Hoa:

 Bà bảo trợ của chị phải không? Thật là quý hóa. Bà tên gì để tôi ra chào?”

Chị Hoa đỏ mặt nói lí nhí:

Tên kỳ lắm, khó nghe, nói ra mắc cở cái miệng. Bà A-Địch đó (Adith). Lần đầu tiên nghe tên bà, em cười đến đau cả ruột.

Tôi cười và nhớ đến câu Ăn thịch dịch, ngứa đích, địch thơm mùi mích” của mấy ông bạn ngày xưa hay trêu ghẹo nhau.

Hai cặp vợ chồng người Mỹ bảo trợ, được bà con tiếp đãi ân cần. Họ là đại diện cho những ân nhân, cho nhà thờ, đã mở rộng vòng tay nhân ái, vòng tay tình thương, tiếp đón những con người trôi sông lạc chợ, gạt nước mắt lìa bỏ quê hương ra đi đến phương trời vô định, tương lai vô định. Các ông bà bảo trợ ăn thử từng món, món nào cũng khen ngon, cũng hít hà rối rít. Không biết họ có khen thiệt tình, hay chỉ khen vì tội nghiệp cho cái đám người tị nạn nhếch nhác lôi thôi ngơ ngáo đó. Khi ăn một miếng bánh da lợn, bà Mỹ già hỏi :

Bánh gì đây?”

Vì vốn liếng Anh ngữ còn loạng quạng, một anh trả lời bằng cách dịch từng chữ của bánh da lợn ra tiếng Anh:

Pig skin cake” (Bánh da heo)

Bà Mỹ già quát lên:

         “Cái gì ? Da heo ?”

Đúng!

Bà Mỹ già như nghẹn trong họng với miếng bánh đang ăn. Bà ngậm miệng lại, với vẻ mặt bối rối, như muốn nhổ ra, mà vì lịch sự không dám nhổ ngay. Bà Mỹ trẻ thì rùn hai vai lại, há miệng thè lưỡi ra sợ hãi. Hai ông chồng thì cười hóm hỉnh. Sau đó mấy ông bà Mỹ được mời ăn món phở, mỗi người một tô nhỏ. Các ông bà khen ngon, và hỏi cách nấu phở ra làm sao. Tội nghiệp chị Hương, mệt phờ, đổ mồ hôi hột, dùng tay chân, và cái vốn Anh ngữ đơn sơ của chị để dạy mấy bà Mỹ nấu phở. Có lẽ hai bà Mỹ không hiểu chị muốn nói gì, nhưng cũng gật đầu vui vẻ như sẽ nấu được phở ngay. Chị người Huế ngồi bên nồi bún bò thấy phở được khen rối rít, chị kêu tôi mời mấy ông bà Mỹ ăn bún bò. Tôi chào và kéo mấy ông bà qua nồi bún bò, nói:

“Món nầy cũng ngon đặc biệt, phát xuất từ cố đô Huế của chúng tôi, nơi vua chúa ngự trị mấy trăm năm.”

Chị nấu bún bò vui cười, sung sướng, tôi dặn chị cho ít ít nước cay mà thôi. Chị nói rằng, trời lạnh mà ăn bún bò giò heo nầy, thì phải nhớ một đời. Chị lựa mấy cái giò heo vừa dài, vừa lớn bỏ vào từng tô. Tôi đưa ra mời, mấy ông bà Mỹ vui cười, mỗi người cầm một tô. Chưa ăn thì bà Mỹ trẻ chỉ vào cái chân giò, có lông lún phún hỏi:

Cái gì đây?”

Tôi chưa kịp đáp, thì anh Sáu Nạc đã nói lớn, dịch chữ móng giò heo ra là pig leg nail. Hai bà Mỹ trợn tròn mắt cùng thét lên:

“ Móng chân heo ? 

Vâng, ngon lắm, ăn đi.”

Không không, chúng tôi no lắm rồi, không ăn thêm được đâu.” Ông Mỹ già lịch sự đáp.

Cả bốn người Mỹ đều đặt những tô bún bò xuống bàn. Mặt mày họ lộ vẻ khiếp đảm. Sau đó, họ không dám ăn thêm một món nào nữa. Chị nấu bún bò người Huế ngơ ngác mở to mắt hỏi tôi. Tôi giải thích cho chị rằng, có lẽ họ chưa quen ăn móng giò heo nên sợ. Chị chíp miệng, tiếc mấy người khách kia chưa kịp nếm thử bún bò mà đã từ chối không ăn.


Mấy chị tụ họp kể chuyện xưa bên nhà, những kỷ niệm vui, những ngày Tết, những loại cây trái, bánh mứt. Rồi kể đến một thời khó khăn trong xã hội mới, những cay cực phải chịu, những gian nan khi liều thân ra biển. Một chị rưng rưng nước mắt khóc, nói rằng không biết giờ nầy cha mẹ bên Việt Nam đang làm gì. Nước mắt của chị như làm mồi cho những chị khác. Mấy chị cũng méo miệng khóc thút thít, rồi khóc to thành tiếng, nhiều chị khác không cầm được lòng, khóc theo. Tiếng khóc vang như có đám ma. Mấy người đàn ông cũng đỏ hoe con mắt. Anh Sáu Nạc run run nói: “Lạ chưa? Việc chi mà khóc! Có tự do, có cơm áo hạnh phúc rồi, sao còn khóc?”. Nói mạnh thế, nhưng tròng mắt anh cũng nhạt nhòa ướt. Anh lấy khăn giấy lau mắt, và cắn môi lại cho khỏi khóc thành tiếng.

Mấy ông bà Mỹ bảo trợ, ngạc nhiên băn khoăn hỏi tôi có chuyện gì xẩy ra? Tôi đáp gọn: “Họ khóc vì thương nhớ quê hương”.

Bà A-Địch nói nhỏ: “Hình như các người trăm cay ngàn đắng mới trốn thoát ra khỏi quê hương. Sao còn thương nhớ mà khóc lóc đến thế?” Tôi muốn trả lời với bà rằng, bà không là người mất quê hương, làm sao hiểu được tấm lòng chúng tôi, nhưng tôi sợ mất lòng không dám nói ra. /.


Tràm Cà Mau

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 147
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.439 seconds.