Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 201 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Dec/2020 lúc 4:37pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Dec/2020 lúc 2:26am

 

Gần cuối mùa Thu rồi!

Chỉ còn vài tuần ngắn sau cùng, thời tiết sẽ sang mùa đông. Dù tháng ngày còn là mùa Thu, và mùa Đông hãy còn lang thang đâu đó, chưa về tới; có hôm gió rét lạnh, như sáng nay, dễ làm mình ngỡ là trời đã sang đông.

Quán mới mở cửa, còn vắng lắm; dễ tìm một bàn ngồi gần cửa kính, để nhìn ngắm cảnh sắc bên ngoài. Sáng sớm, chưa thấy ánh mặt trời. Bên ngoài khung cửa kính, trời sương mù, thành phố trắng mờ mờ, có vẻ thơ mộng, trông đẹp và có vẻ mùa đông lắm. Giọt cà phê đậm màu khoan thai rơi, kéo dài chờ đợi, cho thời gian và không gian thêm nồng nàn, quyến rũ.

Cà phê sáng!

Ở đây, cà phê thì có thể uống bất cứ lúc nào tùy thích, nhâm nhi ở bất cứ nơi đâu thuận tiện, chẳng nhất thiết phải là cà phê sáng. Cà phê sáng lại càng quá bình thường. Ngày làm việc, ít thời gian, người đi làm thường ghé qua quán cà phê mua cho mình một ly, rồi cầm đi theo mình; để lai rai từ trên xe đến nơi làm việc. Lúc trời lạnh, không có bàn tay người tình, có ly cà phê nóng ấm cũng có phần ấm tay và ấm lòng lắm.

Cơn dịch cúm còn lan tràn, tổng số nhiễm bệnh và tử vong trong mấy tuần nay lại tăng vùn vụt trở lên. Vì con vi trùng cúm “lạ” này, quán cà phê ở đây giới hạn số người, hay không cho khách vào bên trong; hầu hết chỉ bán cho người mua thức ăn hay thức uống mang đi mà thôi.

Từ thời miền Nam mình còn Sài Gòn, cà phê cũng đã có trong các hàng quán ở khắp nơi nơi, tỉnh thành, phố phường; từ hạng cà phê pha bằng túi vải trong các quán cóc bình dân với ghế ngồi thấp lè tè trên lề đường, đến quán có cà phê “phin” với ghế nệm bọc da cao ráo sang trọng hơn. Nơi đây, trên các xứ Bắc Mỹ, cà phê cũng rất phổ thông. Tại nhiều công xưởng, cơ quan, cà phê lúc nào cũng có sẵn trong bình, từ trên văn phòng và dưới phòng ăn; ai cần thêm thì cứ tự nhiên cho cà phê vô lượt, rồi đong nước vào máy pha cà phê. Chốc sau quay lại, bình có đầy cà phê mới vừa pha xong, hương vị đậm đà và thơm ngon. Lúc gấp rút và không màng đến hương vị cho lắm, chỉ cần có chút chất đắng để dễ suy tư hay ngẫm nghĩ chuyện riêng, thì dùng bột cà phê khô, chế nước nóng vô, khuấy khuấy vài cái là có ly cà phê ngay. Loại cà phê bột bào chế sẵn này uống cũng được lắm, cũng giống cà phê vậy.

Nơi đây, hương vị cà phê của địa phương không giống mùi thơm và chất đắng của cà phê Việt Nam cho lắm, nhưng là thức uống hấp dẫn và gần gũi với nhiều người. Người ta thường có sẵn cà phê trong tay, hay đặt đâu đó gần bên mình, để chỉ cần cái vói tay ngắn là có ngay. Cũng vì thế, nhiều khi, cả ngày chỉ nhớ uống cà phê mà quên uống nước. Chuyện uống cà phê thì bình thường lắm, chẳng có gì đáng chuyện. Thế nhưng, cà phê sáng, lúc sáng sớm và lại là sáng sớm cuối tuần, thì nó có cái gì đó khác hơn là bình thường; cái gì đó khác lạ, lắng đọng, đậm tình … mà không phải lúc nào cũng tìm được, ở thời điểm khác.

Mỗi thời điểm trong ngày đều có cái đặc điểm riêng của nó. Ngồi trong quán, bên ly cà phê sáng và là sáng cuối tuần, có lẽ là lúc thú vị nhất; để mình chậm rãi nhìn ngắm thành phố lững thững thức dậy sau một đêm dài. Những bận rộn, hối hả của một ngày dài và của cả tuần dài, dường như chỉ được lắng đọng, êm đềm vào khoảnh khắc nhàn rỗi đầu ngày của buổi sáng cuối tuần. Lúc ấy, mình được ngồi trong quán nhàn hạ, ung dung nhấm nháp cà phê, thanh thản mân mê cái vị đắng đậm đà.

Năm trước, cũng vào thời gian mùa Noël sắp trở về; ngồi đây, tôi đã được nghe bài hát Bài Thánh Ca Buồn. Tiếng hát như lời tâm tình:

“… Bài thánh ca đó, còn nhớ không em?
Noël năm nào, chúng mình có nhau.
Long lanh sao trời đẹp thêm môi mắt.
Áo trắng em bay như cánh thiên thần.
Ngọt môi hôn, dưới tháp chuông ngân.

Cùng nhau quỳ dưới tượng Chúa cao sang.
Xin cho đôi mình suốt đời có nhau.
Vang trong đêm lạnh bài ca Thiên Chúa.
Khẽ hát theo câu: “Đêm Thánh Vô Cùng.”
Ôi! Giọng hát em mênh mang buồn …”

Tiếng nhạc thoang thoáng, nhẹ nhàng, với lời nguyện ước êm đềm, chân thành. Không gian quanh mình chợt thơ mộng thanh thoát. Lời hát mang về nhớ nhung, luyến tiếc tháng ngày còn trên quê nhà. Dòng nhạc đưa lòng người lờ lững trên dòng sông kỷ niệm, chan hòa những tình khúc và tình người. Như còn đây, giọng hát mênh mang buồn.

Ngày xưa, tuổi mới lớn, biết yêu thương hay chưa từng ngỏ ý, là người ngoại đạo hay tín đồ ngoan đạo, tâm hồn đồng lãng mạn, ngẩn ngơ, cùng nỗi niềm với chuyện tình thật hồn nhiên và thánh thiện của tác giả, trong Bài Thánh Ca Buồn.

Thuở ấy, Nguyễn Vũ chỉ mới 14 tuổi. Ngày ngày cậu bé Nguyễn Vũ rất chịu khó đi lễ ở nhà thờ; nhà thờ chính tòa Ðà Lạt, còn có tên gọi khác là nhà thờ Con Gà, vì trên đỉnh tháp chuông có hình con gà lớn. Đây là nhà thờ lớn nhất Đà Lạt, một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu và cổ xưa nhất của thành phố này do người Pháp để lại. Tác giả kể rằng:

“Không hẳn vì tôi ngoan đạo, vì tôi phát hiện ra một cô gái rất xinh và ngoan đạo, mỗi ngày vẫn ngang qua ngõ nhà mình để đến nhà thờ…

Trái tim vụng dại của đứa con trai mới lớn đập loạn nhịp trước bóng hình thiếu nữ tóc xõa vai mềm bềnh bồng trong gió cao nguyên. Ngày lại qua ngày, suốt hơn ba tháng trời, tôi âm thầm, lầm lũi làm “cái đuôi” cô ấy, kẻ trước người sau đi về mỗi bận trên 3 km đường đèo, nhưng một lời bẻ đôi tôi không dám thốt. “Lòng thành” của tôi chỉ được hưởng một “ân huệ” cỏn con: đó là tôi được biết tên nàng, nàng lớn hơn tôi hai tuổi…

Thế rồi, một buổi chiều gần lễ Giáng Sinh. Tan lễ ra thì trời đổ mưa, “đối tượng” của tôi nép vội vào mái hiên trú mưa, tôi cũng… trú tạm bên cạnh, hai người chỉ cách nhau độ một gang tay. Hòa lẫn trong tiếng mưa là giai điệu quen thuộc của bản Thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng, vẳng ra từ ngôi nhà gần đấy:

“Đêm Thánh vô cùng,
giây phút tưng bừng,
đất với trời, se chữ đồng,
đêm nay Chúa con thần thánh tôn thờ ... “

Nàng đưa tay hứng lấy những giọt nước mưa và khẽ hát theo. Tôi lặng người. Giọng hát nàng sao mà buồn da diết. Tự dưng tôi cảm thấy hết… sợ quê, khẽ đưa tay vuốt nhẹ lên… những hạt mưa bụi li ti bám bên ngoài chiếc áo ấm của nàng, bất chợt nàng quay sang tôi nhoẻn miệng cười:

“Cảm ơn nghen!”.

Mưa tạnh, “người trong mộng” đã khuất dạng tự bao giờ mà thằng con trai 14 tuổi vẫn còn đứng ngẩn ngơ như … “một nửa hồn tôi mất”.

Ba ngày sau, gia đình tôi di chuyển vào Sài Gòn sinh sống, thế là hết. Tâm trạng tôi lúc đó, y như người vừa đánh mất một vật quý giá. Từ đó, mỗi khi chợt nghe bài Thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng, lòng tôi lại tái tê với ánh mắt, nụ cười hồn nhiên, thánh thiện tựa thiên thần của “người ấy”. Ôm hình bóng ấy cho đến mãi 14 năm sau, tình cờ nghe lại bài hát Đêm Thánh Vô Cùng từ chiếc máy đĩa, bỗng dưng cảm xúc từ một mối tình thánh thiện, hồn nhiên như trẻ thơ – tưởng như đã vùi sâu dưới lớp bụi thời gian – chợt ùa về trong ký ức, thôi thúc tôi và … “Bài Thánh Ca Buồn” ra đời.…..”.

“Rồi những đêm thế trần đón Noël.
Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu.
Tiếng Thánh ca ngày xưa vang đêm tối.
Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn!
Đêm Thánh Vô Cùng, lạnh giá hồn tôi …”

Chuyện tình mênh mang buồn, thật đẹp, thật tình và thánh thiện quá!

Tuổi thơ của miền Nam ngày xưa được may mắn lớn lên trong thương yêu, giáo dục đầy tình người. Lời hát của “Bài Thánh Ca Buồn” có nhắc đến bài Thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng (Silent Night). Nhắc nhớ dòng nhạc đón mừng ngôi Hai, trầm lắng, thánh thiện:

" Ðêm Thánh vô cùng, giây phút tưng bừng. Ðất với trời se chữ Ðồng…"

Bài Thánh Ca cổ kính, được một linh mục người Áo biên soạn từ thế kỷ 18, vẫn được các thế hệ lưu truyền qua nhiều ngôn ngữ khác nhau. Từng lời nhạc êm đềm thấm vào lòng người, người có đạo và ngưới ngoại đạo, đã làm những kẻ cưởng chiếm miền Nam phải sợ hãi, cố dùng mọi quyền lực để ngăn cấm phổ biến các bài Thánh ca hay nhạc Giáng Sinh, nhất là trong tháng ngày mùa Noël. Thế nhưng, bạo quyền không bao giờ hủy diệt được đức tin và chính nghĩa. Thánh ca và những bài hát đón mừng Giáng Sinh vẫn bất diệt!

Rồi mùa giá buốt cũng trở về!

Cái giá buốt trên vùng đất ẩm ướt của Bắc Mỹ, làm mùa đông nơi đây có ngày ngắn lại và đêm dài thêm, thêm day dứt nỗi nhớ quê nhà. Quê nhà và tình người ngày xưa. Tất cả, giờ thì … có lẽ, chỉ còn tìm lại được trong ký ức mà thôi. Sài Gòn, miền Nam mình, khi còn tự do như ngày xưa, cả tháng Mười Hai với muôn vàn ca khúc làm xao xuyến tâm hồn người có đạo cùng người ngoại đạo, và vẫn còn mãi đến ngày nay. Vẫn còn đó: Đêm Đông, Mùa Sao Sáng, Tà Áo Đêm Noël, Chiều Bên Giáo Đường, Cao Cung Lên, Niềm Tin, … Ngày ấy, năm nào cũng nghe, rồi lại được nghe, nhưng những dòng nhạc quen thuộc như vòng tay người tình trở về ôm ấp, vẫn nồng nàn. Bài hát Dư Âm Mùa Giáng Sinh như môi hôn ấm mềm tâm tình:

“Bài hát đêm đông chạnh lòng tôi nhớ nhiều.
Tà áo Noël thiết tha trong chiều nào.
Dập dìu trên đường đi lễ.
Lấp lánh sao đêm tuyệt vời.
Đẹp thay ôi mùa sao sáng …”

Bài Thánh Ca ngày nào, như môi hôn còn ngọt dưới tháp chuông ngân, còn xao xuyến lòng người rời xa quê nhà.

Hàng năm trong làn gió giá lạnh, Lễ mừng Giáng Sinh vẫn trở về!

Và rồi người tha hương vẫn thấy nhớ … nhớ cả tháng Mười Hai của Sài Gòn, của miền Nam mình trước đây, với những lời hát êm đềm trong mùa Noël năm nào:

“Lạy Mẹ sầu bi ban ơn,
người Việt cùng thương nhau hơn,
đất nước này đây,
sáng đức tin Chúa trên trời cao …”

Đất nước này đây!

Giờ đây, người ta nhân danh “nhân dân” để phán quyết, để ra lệnh giam cầm và giết hại người yêu nước. Các cái gọi là tòa án, “phiên tòa phúc thẩm” … của “Nhà Nước”; thản nhiên tuyên án đến cả chục năm tù cho bất cứ những ai dám lên tiếng vì tự do, nhân quyền, vì muốn bảo vệ ngư dân cùng biển nước Việt Nam…

Cà phê còn trong ly, còn đậm màu cà phê, nhưng hương vị bây giờ nhạt nhẽo; cái vị đắng thú vị của cà phê, bây giờ … đắng chát!
Mùa Lễ Giáng Sinh ở Sài Gòn bây giờ chắc hẳn khác lạ hơn khi xưa nhiều lắm. Trong ánh đèn màu lấp lánh từ các nơi tụ tập, trang hoàng … để phô trương của nhà cầm quyền, có giọt nước mắt của người tù chính trị.

Sài Gòn đã mất tên!

Sài Gòn bây giờ như … người tình áo trắng đã thay màu!

Nhớ nhung!

Xót xa đau!

“Rồi những đêm thế trần đón Noël.
Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu.
Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối.
Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn!
Đêm thánh vô cùng lạnh giá hồn tôi …”

Noël năm nào …

Giáo đường dấu yêu trên quê nhà …

Tiếng Thánh ca ngày xưa vang đêm tối …

Nhớ quá đi thôi!

… Vẫn có đó!

… Đêm Thánh Vô Cùng!

Bùi Đức Tính
 

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Dec/2020 lúc 9:45am

Chuyện Chẳng Có Gì Hết


Mom%20and%20Child%20Shopping

Thật vậy, chuyện chẳng có gì hết. Nhưng sao nó cứ đeo theo ám ảnh tôi từ mấy hôm nay.


Tôi cứ nghĩ đến nó, nhớ rõ từng chi tiết, hình ảnh, từng xúc động trong lòng mình lúc đó. Để rồi trăn trở băn khoăn, không biết những người khác – những người Việt Nam cũng lưu vong như tôi – có cùng một tâm trạng như tôi hay không, nếu họ chứng kiến câu chuyện chẳng có gì hết này.

Đó là lý do tôi muốn kể lại những gì tôi đã nghe thấy cách đây mấy hôm. Và tôi nghĩ: kể lại, chắc sẽ làm nhẹ bớt những gì từ bao lâu nay tôi chất chứa trong lòng…

…Hôm đó, tôi đi mua đồ ở siêu thị. Sau khi kiểm điểm lại những gì mà vợ tôi dặn mua – một danh sách mười mấy món – tôi đẩy xe caddie lại xếp hàng để ra két.
Vì đông người nên hàng thật dài, kéo sâu vào hành lang giữa hai dải kệ đầy bánh kẹo. Tôi đứng ở cuối cái đuôi, kiên nhẫn đợi, bởi vì người xếp hàng đã đông mà caddie của người nào cũng đầy ăm ắp.

Phía trước tôi, cách hai người, có ba con đầm tuổi choai choai chắc đi chung nên thấy xô đẩy nhau cười nói. Chúng nó nói chuyện với nhau, nói lớn tiếng như chúng đang ở ngoài đồng và như đứa này cách đứa kia hàng trăm thước!
Một đứa bỗng lấy ra một điện thoại di-động bấm nút rồi nói chuyện. Vì hai đứa kia đang nói lớn tiếng nên nó phải la lớn hơn để người đối thoại mới nghe.
Đại khái, nó hỏi: “Hôm qua mày đi với thằng nào?… Super… Ừ! Ừ!… Thằng Alex hả?… Génial!… Ừm! Ừm! … Génial!… Rồi mày làm sao?…Ừm! Ừm!…”. Bỗng nó rú lên vừa nhảy cẫng vừa hét vào máy: “Ố! Ố!…Super! Super! Génial!… Ờ… Thôi! Mày gọi lại tao há! Bye!”.

Nó đóng máy lại mà mắt môi vẫn còn đầy kích động! Có vài người nhìn nó, nhưng cái nhìn dửng dưng. Chẳng thấy có ai cau mày hay lắc đầu nhè nhẹ để thấy họ có phản ứng, dù là gián tiếp! Coi như chuyện bình thường…
Tôi thì tôi không chịu được! Thật là mất dạy. Mà ở xứ Pháp này, cái thứ mất dạy như vậy, đầy! Chẳng còn nề nếp gì hết, chẳng còn lễ độ gì hết, chẳng còn kiêng nể gì hết. Loạn!

Chính trong lúc đó tôi nghe phía sau tôi giọng đàn bà nói tiếng Việt Nam: “Sophie! Đừng làm như vậy! Mẹ nói đừng làm như vậy!”
Ngạc nhiên, tôi nhìn lại, đứng ngay sau tôi là một thiếu phụ Việt Nam tuổi độ ba mươi và một đứa bé gái tóc vàng mắt xanh cỡ chừng bảy tám tuổi. Thấy tôi nhìn, cô ta mỉm cười gật đầu chào, rồi tiếp tục nói với đứa con:
“ Mẹ dạy con làm sao? Muốn cái gì cũng phải hỏi ý mẹ trước. Thứ này ở nhà con còn tới hai hộp lận, ăn chưa hết mà con lấy nữa làm gì?”

Đứa bé đứng cúi đầu. Cô ta nói tiếp, giọng hơi gằn: “Sophie! Nhìn vào mắt mẹ nè!” Đứa bé ngước lên nhìn mẹ, đôi mắt xanh chớp chớp.
Người mẹ vừa nói vừa chỉ hộp bánh nằm trong caddie:
“Con đem hộp bánh trả lại trên kệ hàng cho mẹ! Đừng làm cho mẹ giận, Sophie!”
Đứa bé làm theo lời mẹ, rồi trở về nắm ống tay áo mẹ giựt giựt nhẹ, giọng như sắp ướt nước mắt: “Mẹ đừng giận con, nghe mẹ. Mẹ đừng giận con…”

Ngạc nhiên, tôi nói: “Cháu nói tiếng Việt giỏi quá, há cô!”
Mẹ nó cười tươi: “Dạ, lúc nào nó nói chuyện với cháu nó cũng nói bằng tiếng Việt. Còn nói với ba nó thì nó nói tiếng Pháp”.
Rồi cô ta quay qua nói với con: “Chào ông đi con”.
Con bé khoanh tay cúi đầu: “Dạ chào ông”.

Tôi đưa tay xoa đầu nó, nói được có một tiếng “Giỏi” rồi nghẹn ngang.
Tôi vội nhắm mắt quay mặt đi để che giấu niềm xúc động. Nhắm mắt mà tôi vẫn thấy đứa bé khoanh tay cúi đầu chào, một cử chỉ rất tầm thường nhưng sao nó bật lên cho tôi hình ảnh quê hương, cái quê hương ngàn trùng xa cách?

Từ lâu, rất lâu – có lẽ cũng gần ba mươi năm – tôi không còn thấy cái cung cách lễ độ đó. Ở Việt Nam, phần lớn các bà mẹ đều dạy con như vậy. Bây giờ, trên xứ Pháp xa xôi này, một người mẹ Việt Nam trẻ tuổi chẳng những dạy đứa con lai nói rành rọt tiếng Việt mà còn dạy cả cung cách Việt Nam nữa.
 Người mẹ đó bỏ xứ ra đi, đã biết mang theo những gì quí nhứt của quê hương. Hình ảnh Việt Nam bỗng ngời lên trước mắt…

Trả tiền xong, tôi quay lại nói: “Thôi! Chào cô nghen! Thấy cô dạy cháu bé như vậy, tôi thật cảm phục. Ở đây, hiếm lắm, cô biết không?”
Cô ta cười: “Dạ! Có gì đâu? Mình là người Việt Nam mà bác. Dạ! Chào bác”.

Bé gái đang phụ mẹ chất đồ lên quầy cũng ngừng tay nhìn tôi cúi đầu chào… Thấy thương quá!

Trên đường về tôi miên man nghĩ tới người thiếu phụ trẻ tuổi đó và thấy quý những người như vậy vô cùng. Không phải tại vì hiếm mà quý. Mà tại vì nhờ có những người như vậy cái gốc Việt Nam vẫn còn, vẫn có trên khắp các nẻo đường lưu vong.
Rồi liên tưởng nhắc tôi một thằng bạn. Tụi tôi quen thân nhau từ nhỏ. Lớn lên, nó làm trong nhà nước, tôi làm hãng tư, nhưng vẫn thường gặp nhau. Nó di tản trước tháng tư 75 rồi định cư ở Pháp. Tôi bị kẹt lại, sống mấy năm trời lận đận.

Sau đó tôi vượt biên. Rồi cũng định cư ở Pháp. Chúng tôi lại gặp nhau ở Paris. Nó làm việc cho nhà nước Pháp, cuộc đời ổn định từ lâu.
Tôi lêu bêu một dạo rồi trôi qua Phi Châu mới có công ăn việc làm.
Từ đó, chúng tôi bặt tin nhau…

Phải hai mươi năm sau, về Paris tôi mới lại gặp nó. Nó có nhà ở dưới tỉnh, cách Paris cả ngàn cây số.
 Nhân dịp lên Paris ở hai ngày để dự đám cưới thằng cháu, nó tìm gặp lại tôi ở nhà một người bạn chung. Nói chuyện suốt cả buổi chiều vẫn chưa thấy đã.
 Sau đó, nó biên cho tôi địa chỉ của nó trên một tờ giấy nhỏ, tôi nhìn mà nhớ lại thuở thiếu thời. Hồi đó, nó là một trong vài thằng viết chữ đẹp nhứt lớp, cho nên ông thầy chỉ định nó mỗi buổi sáng vào lớp trước giờ học để viết trên đầu tấm bảng đen cái thứ trong tuần và ngày tháng năm.
Hồi thời đó, được chỉ định như vậy, “hách” ghê lắm! Bây giờ, tuồng chữ của nó vẫn còn đẹp như xưa nhưng cứng rắn hơn.

 

Mấy hôm sau, tôi viết cho nó một bức thư dài, nhắc lại những kỷ niệm cũ mà hôm gặp lại nhau còn quên chưa kịp nhắc. Thằng con tôi bảo tôi viết xong đưa nó đánh vào máy vi tính rồi in ra cho tôi. Máy của nó có hệ VNI nên đánh chữ Việt Nam được.
Tôi nói:
 “Không! Ba muốn gởi thư viết tay, nó trang trọng hơn. Ngoài ra, khi bạn của ba cầm lá thư trên tay, chưa đọc, chỉ nhìn tuồng chữ thôi, ông ta cũng sẽ thấy được ba trong từng nét bút. Còn thư đánh máy, nó không mang một bản sắc nào hết, nó cứng ngắc, vô hồn…”

Mươi ngày sau, tôi nhận được lá thư hồi âm của nó. Thư đánh máy và bằng tiếng Pháp. Tôi cảm thấy thật hụt hẫng. Tôi đâu có dè nó “mất gốc” đến độ như vậy!
Tôi chỉ còn nhìn ra được thằng bạn tôi ở cái chữ ký, còn lại là một thằng tây nào đó chớ không phải một thằng Việt Nam!
Tôi chua xót, nhưng cũng ráng đọc cho hết bức thư trước khi thả nó rơi vào sọt rác. Tình bạn mà tôi đã dành cho nó từ thời tuổi nhỏ chắc cũng đã rơi theo vào sọt rác, nghe nhẹ như hơi thở dài…

Đó! Câu chuyện không có gì hết mà tôi muốn kể lại. Suy cho cùng, chắc nó có mang một “cái gì đó” chớ không phải “không có gì hết”.
Tại vì tôi không thấy. Chớ nếu nó không “nói” lên cái gì hết thì tại sao tôi cứ phải nghĩ ngợi băn khoăn?

Có lẽ tại vì lâu nay tôi thường nghe người Việt lưu vong than đã mất quê hương, mà tôi thì cứ cho là chuyện bình thường, chẳng có gì phải suy nghĩ.
Chính cái cung cách khoanh tay cuối đầu chào của cô bé tóc vàng mắt xanh đã bắt tôi phải suy nghĩ.
Nếu người Việt lưu vong giống thằng bạn của tôi thì đúng là họ đã để mất quê hương thật.
Còn như họ giống mẹ con người thiếu phụ trẻ tuổi mà tôi gặp trong siêu thị thì làm sao nói mất quê hương?
Quê hương còn nguyên đó chớ, thể hiện bằng tư duy, bằng ngôn ngữ, bằng phong cách đặc thù Việt Nam.

Đó là cái gốc mà mình đã mang theo, chỉ cần một quyết tâm gìn giữ, vun bồi là nó sẽ đâm chồi nẩy lộc… Còn hay hơn nữa: mình nên bắt chước người mẹ trẻ tuổi đó, coi chuyện gìn giữ cái gốc là chuyện tự nhiên, ai ai cũng phải làm.
Tôi nhớ hoài câu nói của cô ta: “Dạ! Có gì đâu? Mình là người Việt Nam mà bác!”. Và tôi tin chắc: một người như cô ta chẳng bao giờ than rằng đã mất quê hương!

Bây giờ thì tôi thấy “câu chuyện không có gì hết” thật sự không phải không có gì hết!

Tiểu Tử
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Dec/2020 lúc 4:31am

Văn HẠT CÁT BÊN ĐỜI -   <<<<<

Nhạc Tóc Gió Thôi Bay & Mắt Lệ Cho Người 07- 2020


Hạt%20Cát


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/Dec/2020 lúc 4:38am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Dec/2020 lúc 9:52am

Cô Giáo Miền Nam, Học Trò Miền Bắc 

Hình minh họa

Hơn 30 năm sau, họ mới gặp lại nhau trên đất Hợp Chủng Quốc. Cô giáo nay đã già. Học trò cũng không còn trẻ nữa. Cô dĩ nhiên không nhận ra trò, nhưng trò đã nhận ra cô. Và cô giáo Oanh bỗng nhớ lại tất cả những ngày giờ tai hoạ.

------

- Các đằng ấy ơi, cho tớ chơi với!

Con nhỏ cố nở nụ cười thân thiện nhất năn nỉ ba đứa bạn khác cùng lớp đang đánh đũa trước sân. Một đứa đang định tung trái banh lên, bỗng dừng lại, che miệng cười khúc khích.

- Đằng ấy? Hí! Hí!

Đứa kia chanh chua hơn:

- Ậy, tụi “tớ” chơi dở lắm, không dám chơi với “đằng ấy” đâu.

Cả bọn cùng cười xòa sau câu đùa của đồng bọn. Đứa thứ ba có vẻ biết điều hơn một chút:

-Tụi tao chơi gần hết bàn rồi, để mai rồi mày chơi chung nghe.

Con nhỏ buồn rầu quay lại. Nó biết con kia chỉ nói cho có lệ mà thôi. Ngày mai tụi nó sẽ nói những câu tương tự, hay cũng kiếm những cớ khác để từ chối không muốn cho nó chơi chung. Đây không phải là lần đầu tôi chứng kiến những đứa học trò trong lớp đồng lõa nhau cô lập Vân. Nó là đứa học sinh miền Bắc đầu tiên trong lớp tôi của niên khóa 1976/77.

Nhớ lại sau hôm khai giảng niên khóa mới được hai ngày, tôi đã giật mình lo lắng khi bỗng nhiên bị gọi lên phòng Giám Hiệu có chuyện cần! Chuyện gì? Đối với tình hình bây giờ, bị gọi lên văn phòng riêng rẻ như lúc này là một dấu hiệu không tốt. Nhưng sau khi “tự kiểm điểm”, tôi thấy mình không phạm điều gì sai nên cũng yên tâm đôi chút.

Mụ hiệu trưởng đón tôi niềm nở hơn mọi ngày. Thấy tôi đi vào, một người đàn ông trong trang phục bộ đội với cái nón cối trên bàn ngừng tay vấn thuốc đứng dậy chào. “Đồng chí” Trần Bình, theo lời giới thiệu, là một cán bộ cao cấp từ Hà Nội đang trong thời gian công tác dài hạn tại thành phố ************. Vân là con gái ông ta. Con bé hôm đó mặc áo bà ba trắng, quần satin đen, tóc dài và rậm kẹp lại gọn gàng phía sau … Nhìn Vân lễ phép chào, tôi bỗng nghe bỗng nghe một chút xót xa. Quả là một xưởng đúc tuyệt vời! Con nhỏ trông không khác chi một cô cán bộ tí hon. Màu sắc duy nhất trên người con bé là đôi dép rỗ màu vàng nhạt. Đôi dép vẫn còn mới lắm.

Tôi dắt Vân về lớp và xếp ngồi bàn đầu để có thể dễ dàng “chú ý giúp đỡ” như lời cha nó ân cần nhắn nhủ. Bỏ qua những gì bên ngoài, nó cũng khá xinh xắn. Gương mặt bầu bĩnh tuy hơi đen, nói thưa lễ độ. Tuy chán ghét mụ hiệu trưởng đến thậm tệ, không chút cảm tình với người đàn ông trong bộ quân phục chuyên chính màu xanh ấy, tôi vẫn không thấy có lý do gì để ghét bỏ Vân.

Nhưng, bốn mươi mấy học sinh trong lớp tôi lại không nghĩ như vậy. Những ánh mắt kỳ thị ngày càng rõ rệt. Những mái đầu xanh tụm năm tụm ba xì xầm bàn tán. Tôi nghe rõ một lần chúng gọi Vân là “con bộ đội”, kháo nhau “Coi chừng nó cho mày đi học tập cải tạo đó!” v.v và vv…Vì thế mà đã gần tháng, con bé vẫn chưa hội nhập vào chúng bạn, mặc dù nó cũng cố gắng lắm. Tôi tội nghiệp giùm Vân, nhưng cũng không trách được lũ học trò còn lại. Xã hội và hoàn cảnh đã gieo vào đầu óc lũ trẻ thơ ngây những tư tưởng nghi kỵ, oán ghét tất cả những người đã trực tiếp, hay có liên hệ đến sự mất mát trong gia đình chúng. Tôi biết trong lớp có đứa cha là lính Cộng Hòa đã hy sinh đền nợ nước. Một số khác là con em của sĩ quan hay công chức dưới chế độ Sai gon cũ đang bị đi học tập cải tạo tại một vùng hoang vu nào đó, chưa rõ ngày về.

Anh Hai tôi là Đại Úy Biệt Động Quân, cũng khăn gói quả mướp theo lời nửa dụ dỗ nửa đe dọa của chính quyền nay đã hơn một năm. Tin tức duy nhất nhận được là vài lá thư gởi về mà địa chỉ là một hòm thư vô nghĩa. Lá thơ theo một khuôn mẫu nhất định như trăm ngàn cái khác, trấn an và động viên gia đình tham gia lao động, triệt để thi hành chính sách của nhà nước. Chị dâu tôi mòn mỏi trông chờ. Quỹ gia đình thu hẹp, chị phải dấn thân ra chợ trời chụp giựt, tráo trở để kiếm tiền nuôi ba đứa con. Những lúc tôi sang thăm cháu là dịp chị mở bầu tâm sự. Chị nguyền rủa, oán than không tiếc lời với thời thế đảo diên sâu bọ làm người … ngay trước bọn nhỏ.

Cha mẹ đã vậy, con cái cũng dễ dàng ảnh hưởng. Người lớn oán người lớn, thì trẻ con cũng …ghét trẻ con. Dĩ nhiên những mái đầu thơ chưa đủ trí khôn để hiểu thế nào là độc tài, là đảng trị, là mất mát tự do … Đầu óc lũ trẻ như những trang giấy trắng mà lớp cha anh đã vô tình quệt vào một vết đen thù ghét, tị hiềm.

Tôi không ghét Vân như học trò tôi. Trái lại là khác. Tôi biết nó đang bị cô lập và lạc loài giữa một môi trường xa lạ. Nhưng mỗi lần nhìn Vân, tôi không khỏi liên tưởng tới mụ hiệu trưởng hợm hĩnh, lúc nào cũng rình rập các giáo viên. Mụ cũng đi làm bằng áo bà ba trắng, quần satin đen khuôn mẩu đó, ngồi bắt chân lên ghế salon trong văn phòng say sửa giảng chủ nghĩa Mác-Lê. Tôi cũng thấy qua con bé, cha nó hôm gặp mặt. Mặc dù ông ta vẫn lịch sự và nhũn nhặn, tôi cũng không khỏi mang tư tưởng đây là người đã cướp đi tất cả tự do của toàn miền nam, trong đó có tôi. Không chừng ông ta đã đối diện với anh tôi trong một trận chiến nào đó.

Vân học thua kém chúng bạn rõ ràng. Những môn phải học thuộc lòng, con bé tương đối chu toàn một cách chăm chỉ. Nhưng về toán số thì thật bết bát. Những bài toán đố đơn giản với trình độ học sinh lớp bốn cũng khiến con bé ngồi cắn bút. Tôi cũng không rõ ngoài Bắc nó đã học lớp mấy, nên khi lên gặp mụ hiệu trưởng, tưởng là sẽ tìm hiểu thêm trình độ con bé để xếp lớp cho đúng. Ai ngờ mụ trừng mắt nhìn tôi:

- Chị bảo sao? Vân mà kém toán ư? Vô lý thật. Nó là học sinh tiên tiến, và xong lớp hai ở Hà Nội rồi. Chị cũng biết trung học ở miền Bắc ưu việt chỉ 10 năm thôi là đã tương đương với lớp 12 trong này rồi (mụ hãnh diện). Nếu cứ học ngoài ấy, nó lên lớp ba, là phải bằng… lớp năm trong này cơ đấy. Tôi xếp nó vào lớp bốn của chị để thử, rồi tính sau…

Mụ ngừng một chút lấy hơi, rồi tiếp:

- Chị có theo đúng chương trình không? Tôi muốn xem lại giáo án của chị.

Trời ơi lý luận như mụ thật là độc đáo. Bỏ qua trình độ của hai học sinh tốt nghiệp hệ 10 năm và 12 năm. Nhưng nói một học sinh lớp hai miền Bắc đã tương đương với lớp bốn trong Nam, thì tôi cũng đành chịu. Cơn tức giận trào lên, tôi định cãi. Nhưng câu cuối cùng của mụ làm tôi chột dạ, ngậm bồ hòn nuốt xuống. Nói thêm với người đàn bà này chỉ vô ích. Không chừng mụ lại ghép cho tôi tội phản động, bài bác chế độ … thì mất việc. Đối với hoàn cảnh hiện nay, mất việc là không lao động, là kinh tế mới. Thôi được, mụ là kẻ chiến thắng làm vua, tôi thua phải làm giặc thôi!

Chiến tranh đã qua, Nam Bắc một nhà cùng nhau tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa. Những cái loa thông tin nhai đi nhai lại một điệp khúc cằn cỗi và trơ trẽn. Chỉ một thời gian ngắn, toàn miền Nam đã thấm đòn. Người ta bảo nhau trông thấy Văn Vĩ lái xe Honda dạo mát Sàigòn! Đi đâu tôi cũng nghe bàn tán về những chuyến đi danh từ nói: tàu 3 blocks, máy Yammar đầu xanh, đầu bạc v.v…Chỉ nghe và biết thế thôi, tôi hiểu mình không có diễm phúc tham dự vì gia đình không đủ khả năng tài chánh. Nếu có, ba mẹ tôi cũng phải ưu tiên cho hai đứa em trai đang tuổi sắp đi nghĩa vụ quân sự. Tôi chuẩn bị tinh thần làm cái cột đèn bất đắc dĩ.

Một người bạn tù chung trại vốn là bác sĩ quân y có chuyên môn nên được thả về trong đợt đầu tiên ghé qua báo tin, anh Hai tôi đã ra đi vĩnh viễn. Mấy tháng trước, đúng một năm sau ngày tình nguyện đi học tập cải tạo, anh và một số sĩ quan khác chung cảnh ngộ đã cùng nhau đòi hỏi ban quản giáo nếu họ có tội gì hãy đưa ra tòa xét xử công bằng. Tại sao lừa dối họ nói đi học tập có 10 ngày mà nay đã một năm trôi qua, ai cũng để lại vợ dại con thơ không rõ cuộc sống thế nào, đem thân khổ sai lao động trên những vùng rừng thiêng nước độc mà ngày về tăm tối mù khơi.

Kết quả nhóm sĩ quan đó bị kết tội toan tính chống đối nhà nước, biệt giam với những hình phạt khắc nghiệt. Anh Hai tôi vốn đang bị bệnh, thể chất suy yếu nên không kham nổi, ra đi về miền vĩnh cửu. Anh mất đã mấy tháng rồi nhưng gia đình, cha mẹ, vợ con hoàn toàn không hay…

Tôi lãnh nhiệm vụ qua báo tin dữ cho chị Hai, vì người bạn tù chỉ đến nhà ba mẹ tôi nói vài câu ngắn rồi phải đi ngay. Tối hôm đó, mắt tôi quầng đỏ ấp a ấp úng không thành lời. Chị vẫn bình tĩnh hỏi chuyện gì đã xẩy ra cho anh Hai? Tôi như được mở khóa, khóc òa như đứa trẻ, kể lể. Chị ngồi bất động, không một phản ứng. Nhìn chị, tự nhiên tôi cảm thấy rờn rợn. Người đàn bà trước mặt chỉ hơn tôi hai tuổi mà như xa cách đến hai mươi năm. Chỉ hai năm trời tảo tần nuôi con, nuôi chồng, đã tàn phá dung nhan chị đến độ tàn nhẫn. Nay niềm hy vọng cuối cùng đã tắt. Chị ngồi yên hồi lâu, lẳng lặng đứng dậy bên giường ôm thằng Út lúc đó đang ngủ vùi vào lòng, xua tay ra hiệu cho tôi đi về. Tôi biết mình không thể nói được điều gì thêm. Tất cả những lời an ủi hay khuyên nhủ lúc này chỉ là vô nghĩa. Bước ra cửa, tôi quay lại nhìn và thấy giọt nước mắt đầu tiên của chị rơi trên mặt thằng bé.

*
Hòa bình rồi mà súng vẫn nổ trên khắp mọi miền. Đâu đó vẫn còn có kẻ ngã gục, còn tù tội, chống đối. Suốt hai mươi năm nội chiến, gia đình tôi đã may mắn toàn vẹn. Anh Hai tôi là người duy nhất trong gia đình chính thức cầm súng chiến đấu, nhưng đã trở về với mái ấm gia đình sau lời kêu gọi đầu hàng của cấp lãnh đạo từ tháng tư năm ấy. Nay anh đã nằm xuống, hy sinh trong muộn màng và tức tưởi. Sự ra đi của anh đã tác động vào tâm lý tôi mãnh liệt.

Ngày Sàigòn hoàn toàn rơi vào tay cộng sản, gia đình tôi cũng như tất cả người miền nam dù biết là tương lai bất định, nhưng dù sao cũng còn niềm hy vọng mong manh: hòa bình. Cộng sản hay quốc gia, cũng là người Việt. Giải đất này từ bắc chí nam đã rách nát sau bao năm chịu đựng bom đạn. Đã đến lúc mọi người dẹp hết hận thù, chủ nghĩa, để cùng nhau hàn gắn.

Mọi hy vọng chỉ là cái bánh vẽ to tướng. Dân miền Nam thấm đòn. Đã muộn rồi. Mỹ đã cút và Ngụy cũng đã nhào. Chính phủ mới nắm chặt bao tử người dân qua chính sách hộ khẩu. Hàng ngũ công an dày đặc khắp phố phường làm dân chúng hết đường cục cựa, chỉ còn âm thầm chịu đựng và… nguyền rủa.

Đến bây giờ tôi mới biết thế nào là căm hờn. Thời gian qua, tôi cũng như bao người khác, chán chường một cách thụ động. Nhưng ngoài những mất mát chung, chế độ cũng chưa đụng chạm gì đến gia đình tôi. Nhìn chung quanh, những gia đình với nhiều bất hạnh; những người mất nhà mất cửa từ vùng kinh tế mới trở về thành phố lang thang đói khát không hiện tại không tương lai.. tôi đã thấy thỏa mãn vì hoàn cảnh mình cũng còn sáng sủa hơn bao người khác.

Tôi đã lầm. Sự yên ổn hiện tại của mình chỉ là tạm thời. Chế độ sẽ không chừa một ai khi thời gian cho phép. Cái chết của anh Hai tôi là phát súng khai hỏa đầu tiên. Tôi căm hờn nhìn những cái nón cối, đôi dép râu, khẩu súng AK … những thứ tiểu biểu tượng trưng cho chế độ.

Vân đập vào mắt tôi mỗi ngày qua cách ăn mặc và cái giọng Bắc Kỳ chua chua của nó. Ôi đối tôi, con nhỏ này đã được nhào nặn từ lúc mới sinh ra. Đầu óc nó chắc chứa đầy những …Bác, và đương nhiên khi lớn lên sẽ sẵn sàng chết cho Đảng. Trời ơi, nó sẽ là một con nhỏ cộng-sản!

Trước kia tôi còn thông cảm, giúp đỡ Vân, nay tôi lại ngấm ngầm khoái trá nhìn học trò cô lập “con bộ đội” này (?). Tôi biết mình đã nhỏ mọn và sai lầm khi tự nhiên ghét bỏ Vân, nhưng cái chết của anh tôi như đám mây đen kịt che khuất mọi suy nghĩ công bằng mà một người lớn, có học như tôi phải nhận rõ.

Có lẽ Vân cũng thấy sự thay đổi và thắc mắc lắm. Người duy nhất trong lớp đối xử tốt với nó đã về hùa với đám đông để nó một mình. Vân càng mặc cảm hơn khi biết mình thua kém bạn bè trong các môn học. Đôi khi nhìn con bé ở lại trong lớp lơ đãng nhìn các đứa khác chơi đùa ngoài sân trong giờ giải lao, tôi cảm thấy tội nghiệp. Nhưng rồi hình ảnh anh tôi ngã gục nơi trại cải tạo nổi lên, tôi lại ghét nó thêm.

*
Sau khi vào lớp độ nửa tiếng, tôi được gọi lên phòng Giám Hiệu. Thôi chết! Hậu quả đã đến như tôi lo sợ, nhất là hôm nay Vân vắng mặt.

Sự việc bắt đầu từ tuần trước, khi trong giờ sinh hoạt tôi chọn bài hát “Đêm qua em mơ gặp bác Hồ” cho cả lớp cùng ca. Thay vì câu “râu bác dài tóc bác bạc phơ”, hai ba cái miệng từ cuối lớp gào lên “chân bác dài, bác đạp xích lô” tôi thấy Vân quay lại nhìn thằng Tùng to giọng nhất. Thằng nhỏ không biết tai họa sắp tới, còn làm mặt xấu chọc Vân. Tôi làm ngơ, vội vàng chấm dứt ngay giờ sinh hoạt và để ý Vân. Nhưng con nhỏ không để lộ nét gì khác hơn ra ngoài mặt.

Một tuần qua, tôi hồi hộp sợ Vân lên báo cáo mụ hiệu trưởng. Thằng Tùng chắc chắn bị đuổi học vì tội phản động. Ba mẹ nó ở nhà dĩ nhiên gánh lấy hậu quả. Và tôi cũng bị rắc rối to, nhất là đã lơ qua không xét đến.

Khi lên tới phòng giám hiệu và nhìn vào, tim tôi chùng xuống vì thấy Vân lấp ló trong đó. Niềm lo âu đã thành sự thật! Không còn đường tháo lui, đành đẩy cửa bước vô. Tôi ngạc nhiên vì người đứng dậy chào không phải mụ hiệu trưởng đáng ghét. Người đàn ông là cha của Vân. Ông ta vẫn trong bộ quân phục màu xanh, cái nón cối để bên cạnh như lần đầu gặp gỡ cách đây mấy tháng. Hắn đến đây để bắt tôi ư? Câu hát giễu vô ý thức của một đứa trẻ có thể đưa đến kết quả nghiêm trọng như vậy sao? Tôi thực sự lo sợ.

Cha của Vân không đi ngay vào vấn đề như tôi nghĩ. Ông ta quanh co hỏi thăm tình hình nhà trường học sinh … đủ mọi chuyện. Đôi khi đi vào chuyện cá nhân riêng tôi nữa. Hắn muốn gì đây? Định giở trò mèo vờn chuột ư? Tự ái sùng sục nổi dậy đẩy lui niềm lo sợ lúc ban đầu. Tôi thấy mình đang đối diện với một kẻ thù xảo trá. Hắn đã chiến thắng chúng tôi bằng vũ lực, và nay đang muốn đánh gục tôi bằng tâm lý.Tôi ngang nhiên đối đáp với tất cả niềm ấm ức bấy lâu chất chứa về phương pháp giảng dạy, chương trình, giáo án v.v… và nhất là nhấn mạnh về trường hợp Vân không thể theo nổi các bạn cùng lớp khác. Hắn kiên nhẫn nghe, thỉnh thoảng gật gù. Tôi hăng say bày tỏ tư tưởng không chút e ngại. Tôi cảm thấy sung sướng. Ít ra tôi cũng một lần hiên ngang đối diện với hoàn cảnh.

Khi tôi ngưng nói, người đàn ông nhìn tôi thật lâu, và chậm rãi:

- Cám ơn cô đã cho biết những điều vừa rồi. Quả thực tôi chưa bao giờ nghĩ đến … Dù sao, tôi đến đây hôm nay là để cùng cháu Vân từ giã cô. Tuần tới tôi trở ra công tác tại Hà Nội và Vân sẽ theo tôi ra ngoài ấy.

Câu nói thật bất ngờ làm tôi không tin ở tai mình. Ông ta và Vân gọi tôi lên đây để từ giã, không phải để bắt mình ư? Tôi quay sang nhìn Vân và nghe nó nói:

- Thưa cô, em xin chào cô.

Sự việc xẩy ra làm tôi hơi lúng túng. Thì ra Vân không báo cáo gì về vụ thằng Tùng. Bỗng dưng tôi thấy hổ thẹn. Mình đã ngờ oan, lại thêm đối xử không đẹp với Vân gần tháng qua. Tôi cảm thấy cay cay ở mắt. Bỗng nhiên cái nón cối không còn nằm trên đầu của Vân nữa. Đôi dép râu cũng trở lại nguyên hình đôi dép ny-lông màu vàng nhạt. Trước mặt tôi là một học trò thơ ngây như bao nhiêu đứa trẻ khác. Nhân chi sơ, tính bản thiện. Trong đầu óc của Vân có thể chứa đầy bác và đảng, đoàn và đội, nhưng tất cả cũng chỉ vì nó lỡ sinh ra và lớn lên trong xã hội, trong một chế độ như vậy. Hay đúng ra, Vân cũng như bao kẻ khác, là nạn nhân của chính sách “Vì lợi ích mười năm: trồng cây; vì lợi ích trăm năm: trồng người” mà thôi.

Lần đầu tiên sau cái chết của anh Hai, tôi trở về với bản ngã vô tư của mình. Đành rằng chế độ có nghiệt ngã, đó là chuyện người lớn. Trẻ thơ ở đâu cũng chỉ là những trang giấy trắng. Nếu tôi không thể tô xanh điểm hồng trên những trang giấy ấy, thì ít nhứt cũng không có quyền bôi lọ bằng những giọt mực đen.

Vân đứng khép nép ở góc phòng, sau lưng cha nó, ngượng nghịu cúi gầm mặt, thỉnh thoảng len lén nhìn tôi. Năm năm trời làm nghề giáo, trường hợp học trò nghỉ học giữa niên khóa là chuyện đã xẩy ra. Những lần ấy, tôi thường cảm động nắm tay chúng để nhắn nhủ, cầu chúc em những lời sau cùng. Nhìn đứa học trò bé dại vì hoàn cảnh phải rời ghế nhà trường, tôi thường bâng khuâng khi nghĩ rằng trong lớp từ đây sẽ thiếu vắng một bóng dáng quen thuộc, giọng nói ngây thơ. Nhưng tôi cũng cảm thấy tâm hồn yên ổn vì những ngày tháng qua đã hết lòng thương yêu, dạy dỗ chúng. Đối với Vân lúc này, tôi thấy có sự thiếu sót, một món nợ ân tình với con bé. Tôi muốn chạy lại ôm Vân vào lòng, quên đi tất cả những hận thù, bom đạn, chủ nghĩa…, tất cả những gì đã chia cách hai chúng tôi.

Cha của Vân nhìn đồng hồ và đứng dậy:

- Đến giờ chúng tôi phải lên đường. Xin chào cô.

Ông ta bắt tay tôi từ giã. Vân lẳng lặng theo sau, nó lí nhí:

- Thưa cô em đi.

Cổ tôi nghèn nghẹn, muốn nói vài lời, nhưng không thốt lên được, chỉ gật đầu.

Ra tới cửa, ba của Vân dừng lại, hơi đắn đo một chút rồi nói:

- Tôi muốn thành thực khuyên cô một điều. Những gì cô vừa nói với tôi, đừng nói thế với ai cả. Không thay đổi gì được đâu. Với thời thế bây giờ, cô cũng biết…

Ông bỏ dở câu nói. Tôi gật đầu hiểu ý, và nhìn hai cha con bước mau trên sân trường đầy nắng.

*
Món nợ ân tình của cô giáo Oanh, nhân vật xưng “tôi” từ đầu câu chuyện với cô bé Vân đó, đến hơn ba mươi năm sau mới được trả, trên mảnh đất tự do có tên Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ này.

Cô học trò từ miền bắc xã hội chủ nghĩa đi lao động xuất khẩu tại Cộng Hoà Dân Chủ Đức. Năm 1989, khi bức tường Bá Linh sụp đổ, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Âu, Vân đã mau mắn xin ở lại xin tỵ nạn với nước Đức tự do nhân ái, không về Việt Nam nữa. Ba năm sau, cô gặp một người Việt du lịch từ Hoa Kỳ sang, kết hôn, và di dân theo chồng về Mỹ. Cô đang làm phụ tá văn phòng cho một bác sĩ Việt Nam ở Cali

Cô giáo Oanh ở lại Sài Gòn một thời gian, cùng chồng là một sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa từng bị đi học tập cải tạo. Hai vợ chồng và gia đình được chương trình HO đưa sang định cư tại Cali 1991.

Cô nay đã già, hồi hưu, và đi khám bác sĩ.

Hai người gặp lại nhau tại phòng mạch. Cô dĩ nhiên không nhận ra trò, nhưng trò đã nhận ra cô. Hai cô trò đã ôm nhau mừng mừng tủi tủi sau hơn ba mươi năm xa cách.

Còn ông cán bộ Trần Bình?

Vân ngậm ngùi cho hay cha của cô đã tử trận trong cuộc chiến biên giới 1979 với Trung Cộng. Mẹ của Vân đã dùng tất cả tài sản dành dụm được chạy chọt cho Vân đi lao động sang Đông Đức, dặn dò con gái tìm cơ hội đi luôn, nếu có thời cơ hãy đào thoát về miền tự do, đừng bao giờ trở lại Việt Nam nữa.

Vân đã thành công. Cô đã là một công dân Mỹ. Các con của Vân đều được sinh ra trên đất nước tự do này.

Về phần tôi, tác giả bài viết, may mắn được cô giáo Oanh kể lại mối duyên gặp gỡ với cô học trò tên Vân.

Cô giáo Oanh đó, là chị của tôi.

TháiNC
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Jan/2021 lúc 8:20am

Gả con cho giặc


The%20wedding%20you%20have%20always%20dreamed%20of%20-%20Sofitel%20Hotel

Cô Lạc báo tin cho cha mẹ là sẽ về thăm Việt Nam cả tháng nay thì cả tháng nay anh chị Siêu mừng vui đến mất ăn mất ngủ.


Phen này thì cả làng An Bình sẽ lên cơn sốt như cách đây 3 năm họ đã lên cơn khi biết cô Lạc nhà quê nhà mùa, trình độ văn hóa lớp 6 kết hôn với một ông kỹ sư người Mỹ.

Nhà anh Siêu nghèo, mấy sào ruộng nhà nước chia theo tiêu chuẩn đầu người không đủ cho hai vợ chồng cầy cấy nuôi 3 đứa con, anh đi bộ đội về cảnh nhà eo hẹp nên lấy vợ trễ, con còn nhỏ.
Cô Lạc lớn nhất nhà đã được bố mẹ gởi gấm theo vài người anh em họ vào thành phố Sài Gòn làm ăn.
Trong làng, nhà nào cũng có người vào Nam kiếm sống nên đồng hương cũng giúp đỡ nhau nói chi là họ hàng.

Lạc xin vào làm cho một hãng nhựa tư nhân ở Chợ Lớn, ngày làm 12 tiếng, một tuần làm 6 ngày quần quật cực nhọc không thua gì làm ruộng nương nơi quê nhà.
Ăn dè để dành mỗi năm Lạc cũng tom góp được chút tiền gởi về quê phụ giúp cha mẹ nuôi hai em, còn Lạc không dám mơ đến chuyện về thăm quê, bởi tiền tàu xe từ Nam ra Bắc sẽ ngốn hết những đồng tiền để dành ít ỏi ấy.

Đột nhiên người anh họ tên Chu của anh Siêu từ Mỹ về thăm quê hương, người anh họ mà anh Siêu chưa bao giờ biết mặt vì cách ngăn bởi vĩ tuyến 17 giữa hai miền Nam Bắc.

Năm 1975 từ Sài Gòn anh Chu cùng gia đình di tản qua Mỹ, sau bao nhiêu năm yên ổn cuộc sống nơi xứ người anh Chu mới thể theo lời trăn trối của người cha gìa trước khi nhắm mắt là hãy về thăm lại quê quán, tìm gặp người thân nơi miền Bắc.
Thấy cảnh nhà anh Siêu nhà xiêu mái dột, con cái nheo nhóc tương lai là cày thuê cuốc mướn đói nghèo, anh Chu thương cảm cho thêm quà, thêm tiền.
Chợt nhìn thấy tấm hình cô con gái lớn anh Siêu đóng khung để trên bàn, tấm hình mà Lạc đã chụp ở Sài Gòn làm kỷ niệm gởi về để cả nhà ngắm cho đỡ nhớ, trông cô hiền lành xinh xẻo nên anh Chu chợt nảy ra một ý định là kiếm chồng ở Mỹ cho cô, đó là cách giúp đỡ dài lâu và thiết thực nhất.

Anh Chu mang tấm hình cô Lạc về Mỹ. Làm cùng hãng với anh là một ông kỹ sư Mỹ tuổi trung niên độc thân và cô độc.
Hai người ngồi cạnh nhau nên thân nhau, anh Chu đã đưa hình Lạc ra và ngỏ ý muốn giới thiệu cho ông.

Chuyện cầu may mà thành sự thật, Richard mừng lắm, vì cuộc đời ông đã mấy lần ly dị, lần này lấy một cô gái quê chất phác, dòng máu Á Đông dịu dàng chắc sẽ chung thủy với ông suốt đời.
Hơn nữa, lại là một cô gái trẻ tuổi trinh nguyên và xinh đẹp, thì làm sao mà ông Richard không vui vẻ chấp nhận.

Thế là sau một thời gian trao đổi thêm thư từ hình ảnh giữa ông Richard và Lạc, có anh Chu làm thông dịch cho đôi bên, thì cả hai cùng đồng ý đi đến hôn nhân dù ông Richard lớn hơn Lạc hơn 20 tuổi, nhưng bù lại ông sẽ mang Lạc đi Mỹ, sự trao đổi cũng tương xứng, công bằng cho cả hai.

Anh chị Siêu mừng lắm, đứa con gái nhà anh lấy chồng được đi Mỹ có nằm mơ cũng chả dám, dù là người chồng lớn tuổi, nhưng còn hơn ở lại Việt Nam lấy được thằng chồng trẻ ngang vai phải lứa, cùng nông dân cày cuốc thì cái nghèo đói lại di truyền từ đời vợ chồng Lạc tới con cháu nó không biết đến bao giờ mới ngóc đầu lên nổi.

Để mong thoát cảnh đói nghèo bao nhiêu con gái quê Việt Nam phải lấy chồng ngoại Đài Loan, Đại Hàn hay Trung Quốc, mà phần nhiều là chồng già hay có vấn đề về sức khỏe, sung sướng thì ít, đau thương thì nhiều, chứ dễ gì lấy được chồng Mỹ và đi Mỹ, cái đất nước nổi tiếng to đẹp, hùng mạnh nhất thế giới.

Ông Richard và anh Chu cùng về làng An Bình. Đám cưới Richard và Lạc sẽ diễn ra ở đây.
Đột nhiên họ hàng, làng xóm thấy anh chị Siêu phát lễ hỏi như dân phố Hà Nội là trầu cau, trà sen, bánh xu xê, bánh cốm trong hộp có giấy bóng kính màu đỏ và thiệp cưới in đẹp đẽ đến từng nhà, ai cũng kinh ngạc vì qùa đám hỏi to qúa.
Tin Lạc sắp lấy chồng Mỹ như một qủa bom vừa pháo kích vào ngôi làng bé nhỏ êm ả này.
Đám cưới diễn ra ai được mời cũng không từ chối, vì ai cũng tận mắt muốn xem mặt thằng chú rể người Mỹ của làng An Bình.

Sau đám cưới ông Richard về lại Mỹ làm giấy tờ bảo lãnh Lạc. Cả làng xôn xao bàn tán, khi thì ở trên bờ đê lúc tạm ngừng làm ruộng, khi thì trong hàng chè xanh nơi đầu làng:
– Con Lạc sắp đi Mỹ rồi. Sao số nó sung sướng thế nhỉ?
– Ôi giời, lấy thằng giặc Mỹ mà hãnh diện à? Bố con Lạc từng là anh hùng diệt Mỹ thời chiến tranh chống Mỹ Ngụy đấy nhé
– Nghe nói chồng nó là kỹ sư cơ đấy?
– Phô trương thế thôi, ai biết đâu mà kiểm chứng? Có khi là thằng Mỹ đầu đường xó chợ cũng nên?
– Chưa biết chừng nó mang sang Mỹ bán cho động mãi dâm như bọn buôn người qua Trung Quốc đấy. Phúc đâu chưa thấy, họa lại mang vào người.
Một ông có vẻ hiểu biết, phản đối:
– Đời nào có, tôi chưa nghe chuyện gái Việt Nam lấy Mỹ bị bán vào động mãi dâm bao giờ.
– Bọn Mỹ là ác lắm, việc gì chúng chẳng làm….
Ông kia tiếp tục khoe sự hiểu biết:
– Các bác không đọc báo, nghe đài à? Ta và Mỹ bây giờ là bạn rồi, có cái tàu Mỹ đến thăm Việt Nam và Hải Quân ta ra tận tàu Mỹ nghênh tiếp nữa mà.
Rồi lại có cái tàu gì to lắm, có chỗ cho máy bay đỗ và đáp cơ đấy, cũng sang thăm Việt Nam và phe ta lên tàu tham quan thích lắm.
Giọng đàn bà nhà quê đanh đá:
– Gớm, to lớn mấy cũng bị bộ đội ta diệt thời chống Mỹ rồi. Mỹ vẫn là thằng giặc thua trận.

Ông “hiểu biết” giảng giải chuyện đời miễn phí:
– Biết đâu là bàn cờ thế cuộc, chứ họ văn minh thế kia mà. Nay thời thế đã đổi khác, bạn hóa thù, thù thành bạn.
Xưa Trung Quốc là bạn hàng xóm gần gũi thân yêu của ta, như “môi và răng” môi hở thì răng lạnh, từng giúp đỡ ta trong chiến tranh. Nay bạn hại ta đấy thôi, từ chuyện kinh tế, hàng hóa đồ dùng Trung Quốc ồ ạt sang Việt Nam để giết chết ngành công kỹ nghệ sản xuất của ta, cả trái cây Trung Quốc như nhãn, vải, táo, cam cũng lấn chiếm thị trường nông sản Việt Nam làm thiệt hại các nhà trồng vườn, đến chuyện lấn chiếm vùng đất, vùng biển Hoàng sa, Trường Sa. Họ đã hiếp đáp, bắt giữ tàu và ngư dân đòi tiền chuộc hoặc làm chết ngư dân mình.

Một bà rụt rè lẩm bẩm:
– Ừ nhỉ, lúc này đi đâu cũng thấy hàng hóa Trung Quốc, mà nghe nói toàn là hàng độc hại. Trông mẫu mã đẹp mắt mà chết người.
Những lời dị nghị, đồn đãi không hay đã đến tai vợ chồng anh Siêu, anh chị vừa tức giận vừa xấu hổ chẳng biết đường nào mà phân bua, mà cãi..
Trong làng có bà tên Cào, tên thật của bà người ta không thèm gọi mà chỉ gọi bằng cái tên nghề nghiệp vì bà chuyên nghề đi thuyền cào tôm, cá ngoài sông.
Bà gặp chị Siêu đã mát mẻ mỉa mai:
– Sướng nhé, có con gái gả cho Mỹ rồi tha hồ mà hưởng qùa đế quốc Mỹ. Nhưng con gái tôi thì không thèm đâu, thà ở làng quê này đi cào cá cào tôm như cha mẹ nó, tuy nghèo mà có tình quê hương, chẳng phải lệ thuộc thằng nước ngoài nào cả.
Chị Siêu nén giận cười gượng:
– Vâng, mỗi người một hoàn cảnh. Chúng tôi có dám mơ ước cho con gái lấy Mỹ bao giờ đâu, chẳng qua bác nó ở Mỹ muốn giúp đỡ.

Lạc được Tòa Lãnh Sự Mỹ gọi phỏng vấn và bị từ chối. Thời điểm này chính phủ Mỹ khám phá ra mấy vụ người Việt Nam và người Mỹ bản xứ kết hôn với người bên Việt Nam là “dịch vụ” lấy tiền để đưa người từ Việt Nam nhập cư vào Mỹ nên họ nghi ngờ và cho “rớt” khá nhiều.
Anh chị Siêu và Lạc lo lắm, Lạc không đi Mỹ được thì dân làng lại có đề tài mà mỉa mai châm chọc thêm cho đáng đời kẻ ham muốn gả con cho giặc Mỹ, chứ chắc gì họ buông tha?

Ông Richard đã làm đơn khiếu nại, gởi bổ sung thêm những chứng cớ cần thiết và Mỹ phỏng vấn Lạc lần thứ hai đã chấp nhận hồ sơ cho Lạc được đi Mỹ đoàn tụ với chồng.
Anh chị Siêu mừng rối rít, gọi điện hỏi thăm anh Chu là ông Richard đã “chạy” đường dây nào mà hay thế? tốn phí hết bao nhiêu tiền?

Tội nghiệp anh chị Siêu, từ cha sinh mẹ đẻ quen bị hà hiếp, bóc lột, quen phải hối lộ cho chính quyền từ phường xã tới quận huyện, từ việc lớn đến việc nhỏ, và vì trình độ văn hóa thấp, chỉ quanh quẩn ở làng quê không biết gì ngoài ruộng lúa và lũy tre làng, nên ngây thơ hồn nhiên tưởng ở bất cứ nơi đâu trên thế gian này cũng ăn hối lộ tận tình như quê hương Việt Nam mình.

Anh Chu kể rằng ông Richrd chẳng chạy chọt đường dây nào cả, khi có đầy đủ chứng cớ thì Mỹ phải chấp nhận cho đi.
Ngoài ra anh Chu còn kể thêm có những hồ sơ bảo lãnh đã được phỏng vấn và chấp thuận mà người bên Việt Nam vì lý do gì đó chưa muốn đi Mỹ nên chần chờ chẳng tiến hành thêm gì cả, hàng năm Sở Di Trú vẫn gởi giấy nhắc nhở họ có muốn đi Mỹ thì làm tiếp một hai bước thủ tục sau cùng.
Vẫn không có trả lời dứt khoát, cuối cùng Sở Di Trú phải gởi cho người bên Việt Nam một “tối hậu thư” hỏi có muốn đi Mỹ hay không? Nếu không thì lần này Mỹ sẽ đóng hồ sơ.

Anh chị Siêu kinh ngạc quá, ai đời quyền lợi của họ, họ không hưởng thì thôi, việc gì Mỹ phải nhắc nhở họ và hỏi đi hỏi lại mãi thế?
Ở Việt Nam, có mà cầu cạnh, đút lót cả đống tiền chưa chắc mua được sự việc như ý, dù mình có cả tỷ lý do vô cùng chính đáng.

Lạc đi Mỹ được hai năm thì tiền bắt đầu gởi về cho cha mẹ xây sửa nhà cửa, vì Lạc đã đi làm nail nên có tiền riêng tha hồ gởi giúp gia đình, người chồng Mỹ của Lạc, với đồng lương sung túc của mình, chỉ cần Lạc đẻ cho ông một hai đứa con và chung thủy suốt đời là hạnh phúc rồi.

Hàng xóm họ hàng càng bàn tán, càng vu khống nhiều hơn, dù chị Siêu đã mang ra khoe với họ những tấm hình vợ chồng Lạc và 1 đứa con của họ.
– Tiền gởi về cho bố mẹ nhiều thế này đích thực là tiền làm gái mà ra chứ của đâu sẵn thế?
– Ừ nhỉ, làm gì mà ra tiền nhanh thế nhỉ?
– Nhưng bà Siêu có khoe hình con Lạc chụp với thằng chồng Mỹ, cái thằng đã về làng cưới nó hẳn hòi mà.
Một bà gạt phăng:
– Ối giời ôi, thằng Mỹ nào trông cũng giống nhau, có khi là thằng chồng thứ bao nhiêu rồi đấy?

Những lời dèm pha này lại cố tình đến tai vợ chồng anh Siêu. Nghe những lời ganh tị mấy năm nay anh chị đã quen tai, nhưng anh chị cũng đã thấy vài kẻ trong làng thèm thuồng được như anh chị lắm, khi họ ghé vào thăm ngôi nhà 3 tầng khang trang mới xây trên cái nền đất của căn nhà xộc xệch cũ, khi họ nhìn những tấm hình Lạc đẹp đẽ từ Mỹ gởi về, và thấy cuộc sống vật chất nhà anh Siêu thong thả hẳn ra.
Một người họ hàng bên vợ anh Siêu, ở tận Hà Nội, nhà giàu có, con cái đứa thì bằng cấp đại học, đứa đang chuẩn bị thi vào đại học, mà còn mong ước gả cô con gái lớn cho người Mỹ, các em thì không thèm du học ở Anh, Úc, Gia Nã Đại, mà chỉ thích Mỹ.

Xưa nay anh chị Siêu mấy lần có dịp lên Hà Nội nào dám bén mảng tới nhà họ chơi, vì khoảng cách giàu nghèo và trình độ, nhưng từ dạo Lạc đi Mỹ, từ dạo nhà anh Siêu xây to nhất làng, thì chính người họ hàng đó đã vồn vã mời chào, nhờ thế anh Siêu mới biết được những tâm tư khát khao của gia đình họ và của nhiều người dân thành thị.
Người ta không còn căm thù người Mỹ nữa, giới trẻ đua nhau học tiếng Mỹ, các nhà khá gỉa còn cho trẻ con học tiếng Mỹ từ thuở vỡ lòng song song với tiếng Việt, các cửa hàng, dịch vụ trên phố xá từ Hà Nội đến Sài Gòn, đến các thành phố lớn nhỏ khác đều kèm theo tiếng Mỹ, con gái Việt Nam nhiều người lấy chồng Mỹ rồi, và nhờ thế anh chị Siêu mới vơi bớt mặc cảm tội lỗi gả con cho giặc Mỹ mà một số dân làng An Bình đã ganh tị và ác cảm đổ cho anh chị.

Qua con gái anh chị Siêu đã biết được một nước Mỹ tự do dân chủ, cuộc sống thoải mái..
Lạc kể mua cái ti vi về coi mấy tuần thấy không vừa ý đã đem trả lại tiệm, hay đơn giản có lần Lạc mua một cây Lê trong chợ Mỹ về nhà trồng, cây bị chết sau đó, Lạc đã gọi phone than phiền với chủ tiệm, vây mà người ta xin lỗi và mời cô đến chọn lại cây lê khác, dĩ nhiên là không phải trả tiền lần nữa và họ cũng không cần Lạc mang bằng chứng cây lê đã bị khô chết kia.
Thật là trung thực, tin cậy lẫn nhau, một xã hội có cuộc sống, có nếp suy nghĩ như thế không biết đến đời kiếp nào Việt Nam mới bắt chước được?

 

Ở Việt Nam người ta mua gian bán lận, làm hàng gỉa, lừa đảo khách hàng vì lợi nhuận, vì lòng tham sao cho đầy túi, làm gì có chuyện mua hàng về nhà xài rồi đem trả lại?
Chúng đã không đổi cho mà còn mắng chửi té tát vào mặt. Ngay như mua vàng hôm trước, hôm sau mang ra chính tiệm ấy bán lại, chúng cũng kiếm cách ăn chận, nào là hôm nay vàng vừa mới xuống gía, nào là vàng…hao hụt, để trả gía rẻ, để lời nhiều.

Hàng hóa gỉa, còn có cả bằng cấp rổm nữa, những anh chị y tá có công với đảng được “đề bạt” học bổ túc chuyên môn là trở thành bác sĩ, hay con ông cháu cha học hành thì ít ăn chơi thì nhiều nhưng chạy chọt vào trường Y khoa, cũng ra trường bác sĩ như ai dù kiến thức thì chẳng bằng ai. Nên các bệnh nhân ở Việt Nam gặp nhiều ‘biến cố” chết người không có gì làm lạ.

Những chuyện đời thường của nước Mỹ mà nghe xong anh Chị Siêu còn giật mình không muốn tin, nếu không do chính con gái anh chị kể ra thì chắc chắn anh chị cho là bịa đặt, là chuyện hoang đường trên trời rơi xuống.
Anh chị dần dần cảm mến nước Mỹ, những nước thuộc thế giới tự do họ có lý tưởng của họ trong chiến tranh, Mỹ có căm thù gì dân Việt Nam đâu mà tàn ác giết hại dân Việt Nam?.

Anh chị thương thằng con rể Mỹ, nó hiền hòa, trung thực, nó đã đổi đời cho Lạc, thương yêu chiều chuộng con gái anh, đối xử tốt với gia đình nhà vợ. Người xấu người tốt ở đâu cũng có, cũng tùy người..
Anh Siêu thấy xấu hổ khi nhớ lại ngày xưa anh đã căm thù đế quốc Mỹ, hình ảnh những người lính Mỹ là tàn ác, ghê gớm, là gieo rắc đau thương cho xóm làng, nhân dân Việt Nam.

Anh đã đăng ký đi bộ đội sớm, khi chưa đủ tuổi để mong tiêu diệt kẻ thù, bằng chứng là tấm giấy khen công anh hùng diệt Mỹ của anh vẫn còn kia, vì anh đã cùng vài người khác tóm cổ được một lính Mỹ đi lạc trong rừng.
Năm ấy anh Siêu mới 18 tuổi, cái tuổi trẻ mới lớn dễ tin người, tin đời. Anh hãnh diện nghĩ mình đã lập được công trạng cho đất nước, cho đồng bào.

Ngày anh chị Siêu mong chờ cũng đã đến. Từ Mỹ vợ chồng Lạc và đứa con về thăm làng An Bình.
Anh chị thuê chiếc xe tải nhỏ ra phi trường Nội Bài đón con cháu.
Xe về làng, về nhà, mấy va ly, mấy thùng qùa Mỹ được mở ra, mùi thơm thơm lạ lùng từ một phương trời xa mà cả đời anh chị Siêu chưa được biết đến.

Anh chị hoa mắt sung sướng với đủ những món qùa anh chị Siêu đã dặn con gái mua cho, nào kính mát, áo vét cho anh Siêu, nào áo khoác ấm cho chị Siêu, vì mùa Đông miền Bắc dài và lạnh, rồi quà cho các em, họ hàng chú bác, đến hàng xóm láng giềng ít nhất cũng được cục xà bông hay bịch kẹo “sô cô la”, cũng được hưởng mùi qùa Mỹ.

Lần này thì dân làng tận mắt thấy mặt chồng Lạc, vẫn là ông Mỹ cách đây 3 năm. Có khác chăng là bây giờ ông Richard biết nói những câu tiếng Việt thông dụng, ai hỏi thì ông vui vẻ và thân thiện trả lời, giọng nói âm hưởng Mỹ nhưng tiếng Việt Nam ngọng ngịu của ông Richard làm mọi người cười vui.
Họ không thấy ở ông Richard một chút nào hình ảnh thằng giặc Mỹ tàn ác thời chiến tranh mà họ đã nghe qua sự tuyên truyền của đảng vẫn còn ít nhiều trong tâm tư họ nữa.
Lạc thì đổi mới hẳn ra, đẹp xinh với quần áo lụa là sang trọng, không phải là cô Lạc nhếch nhác quần đen ngắn lấc cấc với áo vải ngày nào. Còn đứa con gái của họ vừa có nét thùy mị Việt Nam vừa có nét phương tây mạnh mẽ trông thật dễ thương.

Chị Siêu mang qùa của con gái đi biếu hầu như cả làng, đến nhà bà Cào, chị hơi e dè, sợ lại phải nghe những lời mỉa mai. Nhưng lạ chưa, bà Cào đã nắm tay chị Siêu, nói với tất cả niềm chân tình và rất lịch sự:
– Tôi cám ơn chị và cháu lắm. Nhờ chị nói với cô Lạc rằng về Mỹ xem có anh Mỹ nào thì làm mai cho con gái tôi với nhé, tôi còn hai đứa con gái chưa lấy chồng đây. Khổ quá, con lớn nhà tôi lấy chồng cùng thời với cô Lạc, tưởng ở lại làng để làm nghề cào lưới tôm cá cũng đủ sống rồi, ai ngờ khốn khổ chị ơi, bữa đói bữa no. Thà cứ gả quách cho giặc Mỹ… ấy chết, xin lỗi chị tôi cứ quen mồm, thà cứ gả quách cho người Mỹ như cô Lạc nhà chị mà sướng tấm thân và cả nhà được nhờ.

– Vâng, để em bảo cháu. Nhưng chẳng phải dễ đâu, bác nó ở Hà Nội có con gái vừa đẹp vừa học giỏi cũng đang kiếm chồng Mỹ cho con để xuất ngoại đổi đời mà chưa có đám nào.
Bà Cào nài nỉ:
– Thì tôi cứ dặn phòng xa thế, may ra có duyên nợ thì gặp. Chị nhớ nhé?
Chị Siêu về nhà thấy hả hê nhẹ cả lòng, bà Cào là người đanh đá mồm miệng nhất làng mà đã chịu xuống nước, nhìn vào sự thật như thế thì từ đây cả làng cũng sẽ nguôi ngoai, không ai có lý do gì để động chạm đến việc Lạc lấy chồng Mỹ, hay kết tội anh chị gả con cho giặc Mỹ nữa.

Gia đình Lạc ở làng quê An Bình chơi 4 tuần, ông Richard theo vợ đi chơi khắp làng, đến thăm họ hàng, hàng xóm. Đến nhà nào ông Richard cũng chào hỏi tử tế bằng mấy câu Việt Nam thấy mà thương.
Đến ngày trở về Mỹ, chiếc xe tải nhỏ lại được thuê chở khách Việt Kiều ra phi trường Nội Bài.
Anh chị Siêu kể cho họ hàng và những nhà hàng xóm thân rằng sang năm Lạc có quốc tịch Mỹ và sẽ làm đơn bảo lãnh cha mẹ sang Mỹ định cư.
Tin này đã nhanh chóng lan ra cả làng, ai cũng nói là vài năm nữa cả nhà anh Siêu sẽ sang Mỹ đoàn tụ với con gái. Cái nhà ấy có phước to.

Có người thật tình, có người vì tò mò đến nhà anh Siêu chơi để nghe thêm chuyện. Họ thấy trên tường, nơi phòng khách trang trọng nhất, nơi mà từ hồi căn nhà cũ, trên vách tường cũ vẫn treo tấm giấy khen “Anh hùng diệt Mỹ” đóng khung, lồng kính và đã bạc màu hoen ố theo thời gian của anh Siêu không còn nữa, mà thay thế vào là khung hình mới tinh, trên bức tường cũng mới tinh, hình gia đình cô Lạc, cô với người chồng Mỹ và đứa con gái của họ, thật là đẹp và hạnh phúc chứa chan.

Nguyễn Thị Thanh Dương


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Jan/2021 lúc 8:22am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Jan/2021 lúc 10:45am

CON HEO ĐẤT


Mujer%20mano%20ponía%20monedas%20dinero%20brasileño%20en%20la%20hucha%20—%20Foto%20de%20Stock

 Thấy bác Tư xách cái giỏ đệm đi chợ để mua sắm đồ Tết, thằng Hoàng từ trong bếp  chạy ra sân nó đưa tay níu cái giỏ rồi nói với bác Tư:
 -Má đi chợ nhớ mua đồ cho con mặc Tết nghe má, quần áo con cũ mèm hết rồi, Tết mà không có đồ mới thì buồn lắm.
  Nghe thằng Hoàng nói vậy bác Tư lấy tay xoa lên đầu nó rồi bác nói:
  -Má cũng tính mua hà tiện chừa tiền để mua cho con một bộ đồ mặc Tết, nhà mình nghèo nên thiếu trước hụt sau con ơi.
 Nghe bác Tư nói vậy, thằng Hoàng  kéo bác Tư đi về phía căn buồng bên trong nhà rồi nó nói:
 -Má chờ con một chút, con có cái này phụ với má mua đồ Tết nè.
  Bác Tư ngạc nhiên vô cùng, vì thằng Hoàng tuổi “ăn chưa no lo chưa tới” thì nó lấy cái gì để phụ với mình mua đồ Tết nên bác Tư hỏi nó:
 -Hoàng nè, con nói phụ với má là phụ cái gì, tiền bạc ở đâu con có, cha chả có làm gì quấy hông mà có tiền (dậy) ông con?
 Không trả lời liền cho bác Tư, thằng Hoàng nhanh tay  lật cái rương bằng gỗ ra, nó khệ nệ ôm con heo đất để lên bàn rồi nó hí hửng nói với bác Tư :
 -Đây gia tài của con nè, con không có mần gì bậy bạ đâu má ơi, tiền ba cho con đi học, con không có xài con bỏ hết vô ống heo, chắc cũng khá lắm rồi má.
 Bác Tư ngạc nhiên vô cùng, bác không ngờ thằng Hoàng lại biết để dành tiền bằng cách này, bác kéo thằng Hoàng vào lòng và hôn lên mái tóc của nó, rồi tự dưng đôi mắt bác đỏ hoe vì xúc động, bác nói :
  -Con giỏi ghê má không ngờ con tập tính tốt này từ bao giờ, dậy đó ông bà mình nói “tích tiểu thành đại” con thấy không, giờ thì muốn mua gì cũng có tiền.
 Thằng Hoàng cười sung sướng vì được bác Tư khen một cách thật tình, nó lấy cây búa đóng đinh của ba nó để đập con heo, bụp..bụp, con heo vỡ toang rồi những đồng tiền xu, tiền cắc rơi đầy trên nền xi măng văng ra tung tóe, Hoàng lấy hai tay lùa những đồng tiền lại rồi bổng dưng gương mặt nó thất thần vì toàn tiền cắc,  tiền giấy thì không còn lấy một tờ, trước tình trạng này nó thảng thốt kêu lên:
 – Ủa sao kỳ vậy cà, sao tiền lẻ không (dậy)? Tiền giấy không còn tờ nào má ơi!
 Bác Tư cũng lấy làm lạ khi nghe thằng Hoàng nói như vậy, nhưng bán tín bán nghi bác Tư gặng hỏi lại nó:
 -Con có nhớ cho kỹ là có bỏ tiền giấy vô con heo không, bây có nhớ lộn không, nếu con bỏ tiền giấy vô đó thì làm sao mất được .
 Thằng Hoàng tức tối nó nói cho bác Tư biết:
 -Con có bỏ tiền giấy (dô) rõ ràng, giấy hai mươi đồng, mười đồng, năm đồng, đủ hết má ơi chưa kể giấy một và hai đồng nữa, chắc chắn có ai (dô) nhà mình lấy tiền của con rồi.
 Nghe thằng Hoàng khai ra những tờ giấy bạc mười và hai mươi đồng, bác Tư hết hồn và đánh dấu hỏi to tướng vì tiền đi học mỗi ngày được giỏi lắm năm cắc bạc, thường thì bác Tư trai cho nó chừng hai ba cắc thì lấy đâu ra thằng Hoàng  lại sở hữu các tờ giấy bạc có mệnh giá lớn như vậy, một là thằng Hoàng  lấy cắp của ai hoặc làm chuyện mờ ám nào đó mới có số tiền lớn kia, bác Tư bắt đầu truy vấn nó:
 -Hoàng nè, con nói thiệt cho má nghe, tiền đâu con có giấy mười đồng, hai chục, bây khai mau nếu cố tình nói dóc má đánh tróc đít luôn nghe chưa.
 Nói rồi bác Tư làm bộ giận dữ rút cây roi mây vắt bên vách lá ở hông nhà, bác nhịp nhịp cây roi lên mặt bàn nghe chan chát thấy phát ớn nhằm răn đe thằng Hoàng, thằng Hoàng không ngờ vừa bị mất tiền vừa bị má mình nghi oan mình làm điều bậy bạ gì đó mới có số tiền lớn kia, không muốn má mình hiểu lầm nó khai ra tuốt tuồn tuột :
  -Dạ thưa má, sở dĩ con có những tờ tiền lớn kia là do ông Năm và ông Bảy ở nhà Cô Ba bán quán cho con đó.
 Bác Tư nghĩ thằng Hoàng cố tình nói dóc để chạy tội và che giấu nguồn gốc những tờ giấy bạc kia, bác Tư gầm gừ :
  -Mắc chứng gì ông Năm (dới) ông Bảy cho bây số tiền lớn kia, nói thiệt liền không thôi ăn “bánh tét nhưn mây” nghe con.
 Điềm tĩnh vì thằng Hoàng biết rõ số tiền kia nó có được do nó “làm công” cho hai ông hàng xóm, chớ nó nào có làm chuyện bậy bạ đâu mà phải sợ sệt nên thằng Hoàng kể lể :
  -Má ơi, mấy lúc con với anh Cuộc Mù qua nhà cô Ba quán chơi thì ông Năm với ông Bảy kêu con với anh Cuộc đấm lưng và bóp tay bóp chân cho ông, rồi hai ông cho tiền tụi con, ban đầu hai đứa con không dám lấy vì mỗi khi đến chơi tụi con nằm lên bộ ván ngựa mát cả cái lưng, đã vậy cô Ba quán còn cho bánh ăn chơi nữa, khi hai ông nhờ tụi con đấm bóp mà lấy tiền coi sao đặng, nên con và anh Cuộc mù không lấy tiền, ông Năm và ông Bảy giận nói nếu cho tiền không lấy thì không cho qua nhà chơi nữa, ông Năm nói riết tụi con đành lấy tiền rồi để dành thành ra nhiều lắm đó má.
 Nghe thằng Hoàng nói vậy bác Tư thở phào nhẹ nhõm, rồi bác tiếc nuối :
 -(Dậy) là mất tiền thiệt rồi, ai cả gan vô nhà mình  lấy tiền của bây, mà cũng kỳ nếu trộm thì nó rinh luôn con heo mất đất rồi, chứ mắc gì mà nó chừa lại cho bây tiền cắc kia chứ.
  Câu hỏi lởn vởn trong đầu, của bác Tư và thằng Hoàng trùng khớp với nhau, họ nghi vấn ba người có thể là thủ phạm, trong đó gồm một người lớn và hai thằng nhóc tì trong xóm.
                        ***
 Bà Năm là người mà hai má con bác Tư đặt nghi vấn nhắm tới, bà thường ghé nhà bác Tư chơi, bà Năm cũng hoàn cảnh nghèo y như nhà bác Tư, tuy vậy thỉnh thoảng bà Năm mang qua cho Bác Tư con cá, trái bầu, tình nghĩa lối xóm chan hòa, những lần bà Năm qua chơi lắm lúc thằng Hoàng  lôi con Heo đất ra nhét tiền vô trước mặt bà, bây giờ mất tiền thì bà Năm nằm trong diện nghi vấn trong đầu nhà bác Tư cũng là điều hiển nhiên, tuy có lòng nghi ngờ như vậy, nhưng bác Tư cũng áy náy trong lòng bởi cái nghĩa cái tình của bà Năm dành cho nhà mình trước sau thật gắn bó, người bị nghi vấn tiếp theo là thằng Ngọc, cũng là người bạn thân tình với thằng Hoàng vô cùng, vì mỗi khi chơi (búng thun), hoặc (tạt hình) hai đứa hùn vốn với nhau, nhiều khi thua hết vốn thằng Hoàng dẫn thằng Ngọc vô buồng nơi để cái rương gỗ, nó lôi con heo đất ra để móc tiền đi mua dây thun hoặc hình nên Ngọc nhà ta được có tên trong thành phần nghi ngờ “chôm” tiền của thằng Hoàng,  người còn lại là thằng Hướng,  người chót trong danh sách nghi ngờ trên, vì có lần chú Hai “Cắc chú” đẩy xe cà rem đứng ngay chỗ cả đám đang chơi “tạt lon”, lúc này trời nắng gay gắt nên Hoàng nhà ta thèm cây cà rem đậu xanh của chú Hai bán, nó rủ rê thằng Hướng vô nhà lấy tiền, cũng con heo đất đó, vậy mà hôm ấy thằng Hoàng móc hoài mà chẳng có xu nào rớt ra, thằng Hướng bày cách cho thằng Hoàng  lấy cây nhíp nhổ râu của bácTư trai ra để thò vô cái khe trên lưng con heo kẹp tiền móc ra dễ ẹt, vì lẽ này cho nên thằng Hướng dính vô vụ mất trộm tiền của thằng Hoàng là điều khó mà chối cãi.
  Nghi ngờ như vậy nhưng muốn mở lời hỏi han thì bác Tư rất e ngại, bác nghĩ hỏi thẳng quá thì mất lòng, còn chọn cách nói xa nói gần nhiều khi bà Năm và hai thằng nhóc kia không hiểu, sau khi phân vân so tính thiệt hơn bác Tư chọn cách nói gần nói xa để “Điều tra” vụ này.
  Hăm ba tháng chạp chợ búa làng quê bắt đầu chộn rộn, phía ngoài đường lộ những chiếc xe bò, xe ngựa chở đồ hàng bông, rau cải, hoa quả, từ trong vườn ra chợ, con đường đất đỏ trước nhà thằng Hoàng suốt đêm nghe tiếng xe bò xe ngựa qua lại liên hồi, tiếng “cút kít ” cú bánh xe hòa lẫn tiếng leng keng của mấy cái chuông treo trên cổ con bò con ngựa lúc nào cũng khua vang, đã vậy thỉnh thoảng tiếng của những ông điều khiển xe bò xe ngựa, vang lên cùng tiếng roi đánh chan chát trên lưng các con vật này.
 Các bà các cô người “Di cư” gánh những gánh rau muống cao nghệu họ đi thoan thoát trong đêm sương, tiếng chiếc đòn gánh và hai chiếc gióng ở hai đầu kêu kẽo kẹt theo nhịp bước chân của họ, những âm thanh ấy tạo nên sự hối hả của mọi người làm cho các gia đình sống ven con đường phải thức sớm để lo những việc cho ngày tết.
  Tình cờ gặp nhau ở đầu xóm, bác Tư thấy bà Năm cầm cây đèn hột vịt từ trong hẻm trờ tới, bác Tư bắt chuyện:
 -Chị Năm cũng đi chợ sớm há, tui cũng đi chợ nè, chị gửi cây đèn cho nhà ông Hai đi, từ đây ra chợ cũng gần sáng rồi, chị cầm theo mắc công lắm, có gì tui nắm tay dẫn chị đi cho.
 Trên đường ra chợ, bác Tư hỏi dò về con heo đất, bác Tư kể lể thằng Hoàng bày đặt nuôi heo đất mần chi, tiền không có xài mà bày đặt dành dụm chi cho mắc công, nghe bác Tư đả phá việc nuôi heo đất, bà Năm lên tiếng:
 -í cháu nó mần dậy tốt chứ chị Tư, kệ nó thằng Hoàng bỏ nhiêu hay nhiêu chị ơi, thằng Thành nhà tui nó không được cái tánh như cháu Hoàng đâu, có nhiêu tiền nó thồn hết (dô) họng hà chị.
 Rồi vô tình bà Năm hỏi tiếp:
 -Cháu nó nuôi heo được lâu mau rồi chị, chắc bộn bạc há.
 Sẳn dịp bác Tư “xổ” luôn :
 – Nó mới đập heo hôm qua đó chị Năm, chèn ơi nó thấy heo toàn bạc cắc không hà, thằng Hoàng nó nhét tiền giấy (dô) cũng bộn, (dậy) mà đập ra không còn một tờ.
 Bà Năm nghe vậy bà nói ngay:
-Chèn mẹc ơi, (dậy) là có cái quân nào nhám nhúa tay chưn “ẳm” tiền của thằng Hoàng rồi, cái thứ gì bất nhơn quá dậy cà.
 Nghe bà Năm rủa xả tên “Đạo chích” nào đó quá mạng, bà Tư nghĩ chẳng phải bà Năm là thủ phạm, vì nếu bà Năm có lòng tham thì chẳng lẽ bà tự chửi mình hay sao, nghĩ vậy bác Tư thấy nhẹ lòng vì bà Năm được loại ra khỏi vòng nghi vấn này…
 Đêm giao thừa, bà Tư cũng gói được vài đòn bánh tét, bà bắt nồi bánh trên mấy cục gạch làm ông Táo trước sân nhà, bà Tư nổi lửa lên, ánh lửa cháy bập bùng bên cái không khí se se lạnh của đêm trừ tịch, thằng Ngọc, thằng Hướng , thằng Hoàng xúm xít quanh nồi bánh, bà Tư vừa canh lửa vừa hỏi dò hai thằng nhóc kia vụ con heo đất của thằng Hoàng, hai thằng nhóc thề bán mạng tụi nó chẳng bao giờ lấy cắp tiền của Hoàng vì biết nhà Hoàng nghèo đồng cảnh ngộ với mình thì lòng dạ nào ăn cắp tiền của bạn..
  Vậy là số tiền giấy của thằng Hoàng “ra đi” không hẹn ngày trở lại, tên trộm vô hình nào đó cao tay ấn không để lại dấu vết gì khiến cho việc “Điều tra” của bác Tư đi vào bế tắc .
 Bác Tư quan niệm với câu lầm thầm :
 “Thôi thì của đi thay người, ai mà lấy tiền của thằng Hoàng mình chắc họ cũng khỗ cực như mình nên mới mượn tạm”
 Bác Tư cho rằng việc gì cũng có nhân quả, gieo nhân nào thì gặt quả nấy vì bác Tư thường nghe sư bà ở tịnh thất gần nhà rao giảng như vậy, bác Tư thanh thản trong lòng kêu thằng Hoàng đem trái dưa hấu nhỏ cắt ra cho lũ nhóc ăn lấy hên để bước qua năm mới ….
                         ***
  Ông Hướng treo dây pháo dài gần hai trước trên (ban công) nhà mình, tiếng pháo nhà ông nổ vang cả góc phố, sắp đến giao thừa chuẩn bị dọn bàn thiên ngoài trời để cúng, chợt ông thấy dáng của ai y như ông Hoàng, chừng nhìn kỹ đúng là ông Hoàng bạn chí cốt ngày xưa đã xa cách mấy mươi năm giờ mới gặp.
 Mời bạn vô nhà , bên tách trà thơm, bên bánh mức ngon ngọt ông Hướng thiết đãi bạn mình chu đáo, hỏi han hoàn cảnh thì ông Hoàng cho biết từ khi đi vùng Kinh tế mới, đến nơi sơn lâm chướng khí đời sống kham khổ nên một thời gian sau hai bác Tư lần lượt qua đời, còn lại một mình Hoàng cố gắng làm lụng sống đắp đổi qua ngày, gần tết sau mấy mươi năm xa cách, tiềm thức thúc đẩy Hoàng quay về xóm cũ, vật đổi sao dời làng xóm người cũ không còn được lại bao nhiêu người, phần đông người từ phía miền ngoài di dân về nhiều nên lạ hoắc lạ huơ.
 Gửi cho bạn một ít tiền để gọi là quà tết, Hoàng quay lại vùng Kinh tế mới sinh sống, ông Hướng từ lúc biết hoàn cảnh thằng bạn thời con nít của mình đang lâm vào hoàn cảnh khốn khó nên ….
                                   ***
  Ông Hướng xuống xe đò, theo chỉ dẩn của ông Hoàng nên sau một hồi hỏi thăm người dân họ cũng chỉ ra được nhà ông Hoàng, được chú em nhỏ cho quá giang nên ông Hướng không phải lội bộ vô đến nhà ông Hoàng, sau khi lên mấy đoạn dốc, xuống một vài khe suối ông Hướng đến “căn nhà”  của ông Hoàng, nghe tiếng kêu ông Hoàng tất tả chạy ra sân đón thằng bạn ngày xưa đến sơn lâm cùng cốc để thăm mình, đôi bạn mừng mừng tủi tủi khi nhắc lại chuyện ngày xưa trong xóm nghèo, mấy mươi năm qua tình cảm họ vẫn như ngày nào, sau một hồi cơm nước đạm bạc, hai bạn già ra ngoài sân ngồi uống trà nơi cái bàn làm bằng tre nứa, ông Hướng bổng nhắc lại con heo đất của ông Hoàng, sau khi dò hỏi kỹ lưỡng xem ông Hoàng và bác Tư có tìm ra chút manh mối nào không, ông Hướng nghe ông Hoàng nói :
 -Trời đất, chuyện lâu lắc dậy mà ông còn nhớ nữa hả, mất tiền tui ấm ức lắm chứ, nhưng má tui nói thôi kệ con ơi của đi thay người, mình còn đôi bàn tay mình sẽ làm lụng có tiền lại thôi, nghe má khuyên dậy tui cũng nguôi ngoai và quên phức lâu lắm rồi .
Ông Hướng thở hắt ra một cái thật nhẹ ông trả lời:
 -Chèn ơi,  cũng là kỷ niệm đáng nhớ đó ông ơi, bác Tư hỏi tui (dới) thằng ngọc (dụ) này,  tui áy náy ghê luôn, lúc đó tui cố làm ra vẻ (dô can) mà bác Tư cũng tin nữa.
 Hớp ngụm nước trà, rồi đưa mắt nhìn lên bầu trời thấy vài vì sao lấp lánh trên không, hít thật mạnh vào buồng phổi làn không khí trong lành của bầu trời đêm miền sơn cước, ông Hướng khẽ nói:
 -Hoàng nè, hôm nay mình cố tình lên đây (dới) ông là ( dì)…
 Nghe ông Hướng nói lấp lửng, nóng ruột vì biết bạn mình sắp nói ra điều gì hệ trọng, ông Hoàng thúc giục :
 -Có gì ông ông cứ nói đi, ai ăn thịt ăn cá ông đâu mà ông sợ:
 Nghe đến đây, tự dưng hai hàng nước mắt rươm rướm ông Hướng nói:
 -Tui lấy tiền trong con heo đất của ông ngày xưa chứ ai, tui không dám nhận đã (dậy) còn để thằng Ngọc (dà) bà Năm mang tiếng nữa,  mà tui nói dóc cũng có căn lắm nên bác Tư tin hà rầm.
 Đến đây thì ông Hoàng cười nhẹ với bạn mình, ông vỗ vai ông Hướng rồi nói:
 -Chuyện nhỏ này tui bỏ qua và quên nó lâu rồi, thôi thì ông nói ra nên tui mới nói nha. Má tui biết ông lấy tiền tui chứ đâu, ban đầu tui tính đòi ông dữ lắm, nhưng má nói, thôi con thằng Hướng nó cũng là bạn tốt, nhiều khi nó cần tiền làm gì đó nên nó lấy của con, coi như nó mượn của con đó, nó không trả lại cho con thì sau này cũng có người khác cho con thứ khác.
 Nghe xong ông Hướng ngạc nhiên rồi hỏi :
 – Trời, mà sao bác Tư biết hay (dậy):
 Ông Hoàng kể tiếp:
 -Chắc bữa lấy tiền ống heo tui ông cũng không bình tĩnh, ông để lại một vật chứng tố cáo mình mà ông chẳng hay, má tui thấy ông để quên lại nên biết ngay là ông.
 Ông Hướng hỏi tiếp:
  – Là vật gì :
 Ông Hoàng chậm rãi kể:
 – Ba tui cho ông cái Bông vụ (xà beng) giống cái của tui, có điều trước khi cho ông má tui nói phải sơn cái chấm trên đầu Bông vụ cho khác màu, để lúc hai đứa chơi chung biết màu mà phân biệt, cái của ông màu vàng, tui màu xanh, hôm đó ổng để quên kế bên con heo đất của tui, má tui bả có máu thám tử bả đoán ngay chóc luôn.
 Đến đây thì thật sự ông Hướng hoàn toàn kính phục tài năng bà đức độ của bác Tư gái, ông Hướng móc trong túi cái bao thơ dầy cộp đưa cho ông Hoàng, rồi ông nói tha thiết:
 -Hoàng nè, đây là số tiền tui coi như bù đắp lại lỗi lầm của tui khi còn thơ dại, ông nhận cho tui (dui), tui dự tính từ lâu rồi hôm nay mới có dịp thực hiện.
 Nói xong ông Hướng ôm chầm ông Hoàng ghì chặt vào mình hệt như hai anh em ruột thịt sau bao ngày xa cách…
                      ***
 Trước mộ phần hai bác Tư, ông Hướng và ông Hoàng thắp nhang cung kính khấn vái, ông thì ăn năn xin tha thứ lỗi lầm, ông thì xin ba má cho mình kết nghĩa anh em suốt đời với người bạn cố tri ngày xưa. Làn khói mong manh bay nhẹ trong gió, tàn nhang uốn cong queo như thể hai bác Tư mãn nguyện và chấp nhận điều cầu xin của hai “trẻ”.
  Bất chợt hai cánh bướm nhỏ vờn bay quanh mộ phần của hai Bác Tư khiến cho hai ông bạn già càng tin tưởng rằng cha mẹ mình đã chứng cho lời cầu nguyện kia và hai bác Tư mượn đôi bướm ngầm báo cho họ biết điều tốt đẹp kia .
  Lại một cái Tết sắp về trên quê hương, hai ông bạn già lại có dịp gặp nhau để hàn huyên tâm sự, ông Hướng tậu sẳn con heo đất thật bự, nó được sơn và dát vàng, ông bỏ vô đó những tờ giấy bạc mới tinh để tặng cho ông bạn mình, tuy co heo này nhẹ hổng nhưng nó rất “nặng” để ghi dấu lại những ngày xưa thân ái, tuy ai cũng nghèo nhưng tình nghĩa lúc nào cũng sâu nặng vô phương.
                        Hai Hùng SG
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Jan/2021 lúc 9:35am

Chuyện Tình Nữ Tiếp Viên - Pierre Bellemare - 

(Hình minh họa)

Trên chuyến bay Tokyo – Osaka. Mải mê chăm chú đọc tờ Yomiuri Shimbun, chuyên mục Tài chính – Chứng khoán, Yukato Shimuza không chú ý đến nữ tiếp viên hàng không đến kế bên. Thậm chí khi cô ta hỏi anh ta dùng chi thì Yukato vẫn không nghe. Ðôi môi nở nụ cười tươi, nữ tiếp viên lặp lại câu hỏi: “Ông dùng thức uống nào ạ?”

Ngước nhìn nữ tiếp viên, chàng trai ngẩn ngơ trước vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn của nàng. Trong trang phục tiếp viên hàng không, trông nàng đẹp rực rỡ, duyên dáng như một tiên nữ tốt bụng mà mẹ chàng thường kể thuở bé.

– Em cho tôi biết quý danh có được không?

Câu hỏi bất ngờ được thốt lên từ miệng của chàng trai một cách thiếu tự chủ. Có vẻ như chàng “bị choáng” trước sắc đẹp của nữ tiếp viên… Nàng đáp nhẹ nhàng:

– Fumiko! Xin lỗi ông, em phải đi phục vụ khách tiếp…

Phi cơ đáp xuống phi trường Osaka. Trước lúc rời phi cơ, Yukato ân cần hỏi thăm Fumiko như chính nàng là phi công lái chiếc Boeing. Tiếng khúc khích cười chòng ghẹo của các nữ tiếp viên đồng nghiệp làm cho Fumiko ửng hồng đôi má vì e thẹn.

Sự việc diễn ra suôn sẻ. Yukato, chàng trai vốn dĩ rụt rè và chăm chỉ, dường như vừa được chắp thêm đôi cánh. Về phần mình, Fumiko không giấu giếm cảm giác lâng lâng vui mừng được quen biết Yukato. Phải chăng đây là tiếng sét ái tình?

– Ðây là danh thiếp của anh. Hy vọng sẽ được gặp lại em ở Osaka hoặc Tokyo!

– Tại Osaka, em và một nữ đồng nghiệp cùng thuê chung căn nhà. Em thường xuyên phục vụ đường bay Tokyo – Osaka. Em cũng sẽ rất vui nếu được gặp lại anh.

– Nếu em cho phép, anh sẽ điện thoại mời em dùng cơm tối vào dịp thuận tiện.

Yukato và Fumiko thuộc thế hệ trẻ trưởng thành sau chiến tranh. Cuộc sống, suy nghĩ của họ khá tự  do, thông thoáng.

Vài tháng sau cuộc hội ngộ, họ nhiều lần cùng nhau dùng cơm tối, xem phim, đi thăm viện bảo tàng… Một hôm, Yukato đề cập đến vấn đề mà Fumiko hằng mong đợi:

– Fumiko, em có chấp nhận lời cầu hôn của anh không?

– Ðó là niềm vinh hạnh đối với em. Nhưng liệu bố anh, ông Shimuza, có chấp nhận cuộc hôn nhân của chúng mình không? Em chỉ là một cô gái bình thường, còn anh, ở cương vị của anh hiện tại, có lẽ bố anh sẽ chọn một gia đình môn đăng hộ đối để kết thông gia.

Yukato trầm ngâm suy nghĩ: “Gần một năm nay mình vô cùng hạnh phúc bên cạnh người yêu mà quên mất rằng bố mình vẫn chưa hay biết gì về người bạn gái”.

– Ngay tối nay, anh sẽ thưa chuyện của chúng mình với bố. Bây giờ thì anh đưa em đến viếng mộ, cầu nguyện tổ tiên ban cho anh niềm tin, sức mạnh để vượt qua mọi trở ngại.

Tối hôm đó, Yukato về nhà bố. Anh kiên nhẫn chờ đợi bố anh, ông Tadao Shimuza, chủ nhân tập đoàn Shimuza danh tiếng, đi làm về. Mãi tận khuya, chiếc limousine mới đưa ông Tadao về đến nhà. Bà Tadao và con trai Yukato cúi rạp người chào ông chủ gia đình. Hai mẹ con sẽ tường trình với ông Tadao diễn biến trong ngày và các vấn đề cần trao đổi…

– Yukato, con có việc gì thưa với bố chăng?

Mẹ của Yukato mỉm cười im lặng.

– Thưa bố, con có một việc hệ trọng muốn trình với bố.

Ông Tadao ngồi lắng nghe nhưng tuyệt nhiên không biểu lộ một cảm xúc nào.

– Con quen biết một người bạn gái. Chúng con yêu nhau và xin bố cho phép con được cưới nàng.

Có lẽ không có cách trình bày nào giản đơn và ngắn gọn hơn thế.

Vẫn với thái độ nghiêm nghị, ông Tadao hỏi:

– Cô ta có thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt không?

– Bố của nàng đã hy sinh vì Nhật Hoàng.

– Chỉ vậy thôi sao? Gia đình cô ta có ngang tầm với gia đình mình không? Hẳn con biết rằng bố sẽ không đồng ý cho con cưới một cô gái tầm thường!

Hơn hai mươi năm qua, ông Tadao luôn quan tâm đến việc giáo dục con trai sao cho xứng đáng với phẩm cách người thừa kế tài sản hàng triệu Yen của tập đoàn Shimuza lừng danh trong ngành đánh bắt và kinh doanh cá voi.

– Con có thể cưới về một cô gái thuộc gia đình giàu có nhất nhì Tokyo. Nếu bạn gái của con thuộc giai cấp bần cùng thì chỉ là ảo vọng mà thôi cho dù cô ta có sắc đẹp khuynh thành…

Cuộc trò chuyện kết thúc.

Yukato thuật lại cho người yêu thái độ dứt khoát của bố về chuyện hôn nhân của họ. Ðôi mắt buồn ngấn lệ, Fumiko kết luận:

– Vậy thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ nên duyên vợ chồng vì em chẳng có tài sản gì đáng giá. Ðồng lương tiếp viên hàng không ít ỏi của em cũng chỉ đủ nuôi nấng mẹ già!

Vài hôm sau, bố con nhà Shimuza có dịp bàn lại vấn đề hôn nhân, nhưng lần này trong bầu không khí cởi mở hơn. Bố Shimuza:

– Con trai yêu dấu. Tốt nhất là con nên từ bỏ ý định cưới cô gái nghèo ấy. Cô ta có thể là người tình hờ của con. Ngay cả khi con cưới người con gái khác làm vợ, đâu có ai ngăn trở con quan hệ với người tình cũ. Nếu cô ta thật sự yêu con, ba nghĩ đó là giải pháp tốt nhất. Mà tên của cô ta là gì nhỉ?

– Fumiko Shigefusa.

– Shigefusa? Có phải đó là nhà điêu khắc lừng danh một thời?

– Ðúng thế.

– Ðúng là một gia tộc danh tiếng. Nhưng tiếc thay giờ thì họ đã phá sản! Với giải pháp bố đề ra, người tình của con sẽ không được sinh con và nhờ thế mà sắc đẹp của cô ta sẽ  bền vững hơn.

Câu chuyện giữa hai bố con kéo dài khoảng một giờ. Nhưng Yukato vẫn chưa “tâm phục khẩu phục” với đề xuất mà bố đưa ra. Yukato thuộc thế hệ trẻ, đọc nhiều tiểu thuyết phương Tây. Yukato tin tưởng rằng tình yêu mà anh dành cho Fumiko là thứ tình yêu đích thực và chàng chỉ muốn cưới một mình nàng. Chỉ có một Fumiko mà thôi dù nàng giàu hay nghèo! Tư tưởng dứt khoát, Yukato đáp lời bố:

– Con sẽ chẳng bao giờ cưới người con gái “vàng” do bố chọn. Con sẽ không cưới bất kỳ ai ngoài Fumiko, ngay cả khi con phải từ bỏ tất cả…

– Con nói phải từ bỏ gì…?

Gương mặt ông bố Shimuza bỗng thay đổi từ trạng thái vô cảm sang tức giận. Dường như những tia lửa tóe ra từ đôi mắt ông bố. Thế nhưng Yukato không quan tâm. Lòng anh đã quyết… Câu chuyện giữa hai bố con kết thúc trong đổ vỡ.

– Fumiko yêu dấu. Anh rất thất vọng… vì bố anh một mực từ chối cuộc hôn nhân của đôi ta. Bố anh thậm chí từ chối gặp mặt em!

Có lẽ đoán trước được kết quả, Fumiko chỉ thoáng buồn khi nghe người yêu thuật lại sự  việc. Nhưng ngay sau đó, Fumiko vui vẻ báo tin:

– Công ty vừa cho biết từ nay trở đi, em sẽ bay tuyến Tokyo – San Francisco !

– Thế chuyện của chúng mình em tính sao đây?

–  Anh chưa nghĩ ra sao? Thế này nhé. Bố anh dứt khoát phản đối chúng mình cưới nhau. Anh giả vờ vâng lời bố và để cho bố vững tin, anh xin bố đi nước ngoài, cụ thể là đi San Francisco để mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu sang Hoa Kỳ…

Hai ngày sau, Yukato lại đưa ra yêu cầu xin bố cho cưới Fumiko. Tất nhiên là bố Shimuza  run lên vì giận:

– Bố cấm con gặp lại cô gái đó…

– Bằng cách nào…?

– Ðơn giản thôi. Từ ngày mai, bố đưa con đi nước ngoài !

– Con không đi!

– Tháng sau, con đi Hàn Quốc…

– Rồi con sẽ sớm quay về thôi.

– Không! Không đi Hàn Quốc mà đi San Francisco xa xôi, con sẽ khó về lại Nhật hơn.

Thế là đầu năm sau, Yukato và Fumiko nắm tay nhau tung tăng dạo phố ở tận San Francisco mỗi khi nàng kết thúc chuyến bay Tokyo – San Francisco! Fumiko thỏ thẻ vào tai người yêu:

– Mọi chuyện rồi sẽ nguôi dịu đi thôi.

– Bố anh mới có hơn bốn mươi tuổi. Bố sẽ sống đến chín mươi tuổi hoặc hơn nữa. Em nghĩ chúng mình sẽ cưới nhau năm bảy mươi tuổi sao? Anh muốn em sinh con cho anh càng sớm càng tốt.

– Em có thể làm chuyện đó mà không cần đợi đến đám cưới !

– Không bao giờ anh chấp nhận điều đó vì nó sẽ hạ thấp danh dự của em ! Anh muốn em sẽ đường hoàng là phu nhân của Yukato Shimuza công khai trước mặt mọi người !

Nhưng than ôi, cuộc tình vụng trộm của đôi nam nữ không thể qua mặt được ông bố dạn dày kinh nghiệm. Bố Tadao Shimuza đặt nghi vấn với mẹ của Yukato:

– Lạ thật, từ khi đi San Francisco đến nay, Yukato hầu như quên hẳn Fumiko. Ngay cả trong lúc nói chuyện qua điện thọai nó cũng chẳng màng đề cập đến chuyện cưới hỏi Fumiko. Hẳn là có chuyện mờ ám gì đây.

Thế là bố Tadao tiến hành cuộc điều tra… Chỉ cần vài hôm sau, Tadao nổi giận khi biết “Nữ tiếp viên hàng không Fumiko Shigefusa đã chuyển sang bay tuyến Tokyo – San Francisco”.

Ngay tuần lễ sau đó, bố Tadao “điều động khẩn” Yukato về lại Tokyo.

Buồn vô hạn vì bị cách ly với người yêu, Yukato quyết tâm thuyết phục bố Tadao… nhưng chỉ vô ích. Với anh, thế là hết. Hạnh phúc vĩnh viễn đã vuột khỏi tầm tay.

Một buổi sáng, Yukato rời ngôi biệt thự của bố mẹ. Vài giờ sau, nông dân đang làm đồng nhìn thấy một chàng trai trẻ đi lên dốc núi lửa Mihara.

Miệng núi lửa đang hoạt động này đã “đón chào” không biết bao kẻ tuyệt vọng vì tình. Núi lửa phun dung nham theo chu kỳ ba giờ một lần. Với tâm trạng bình thản, Yukato tiến đến miệng núi lửa, nơi thần âm phủ Shoko-O-Kamakura, chực sẵn để đón nhận linh hồn anh.

Sau khi hô to ”Fumiko, Fumiko… Anh yêu em, Vĩnh biệt em yêu dấu !”, Yukato nhảy  vào miệng núi lửa đang tạm ngưng phun nham thạch theo chu kỳ!

Nhìn thấy Yukato tự tử, một người vội la to:

– Takashi, Soichiro! Nhìn kìa, một kẻ thất tình vừa nhảy vào miệng núi lửa.

Mọi người hiểu rõ rằng lý do khiến kẻ tuyệt vọng nhảy vào núi lửa chỉ có thể là vì tình duyên trắc trở.

– Nhanh lên, mặc bộ đồ chống cháy đi cứu anh ta làm phúc! Nếu chậm trễ, anh ta sẽ chết mất.

Người vừa hô to chính là Kamazaki, giáo sư trường đại học Tokyo. Quả là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Giáo sư Kamazaki đang ở dốc núi lửa gần đó. Yukato chỉ nghĩ đến cái chết nên không nhìn thấy Kamakazi hiện diện gần bên.

Nhóm người của giáo sư Kamakazi đang thí nghiệm chất liệu phòng bắt lửa mới dùng chế tạo đồ chống cháy cho ngành phòng cháy chữa cháy. Kamakazi cùng một đồng nghiệp mặc vội bộ đồ chống cháy, đội nón, mang mặt nạ vào. Họ đến bên miệng núi lửa và nhìn thấy Yukato nằm bất động trên gờ đất bốc khói bên dưới, cách miệng núi lửa độ ba mét.

Một cái móc được thả xuống. Sau nhiều lần trật vuột, cái móc ghim chặt vào y phục và cơ thể bất động của Yukato. Cái móc được từ từ kéo lên… Vài tiếng gầm gừ phát ra báo hiệu đợt phun trào nham thạch mới sắp diễn ra. Nhưng rất may, Yukato được mang ra khỏi miệng núi lửa kịp lúc.

Nhóm “cứu hộ” của giáo sư Kamakazi tức tốc lái xe Jeep đưa Yukato thẳng đến bệnh viện gần nhất. Tuy bị bỏng và vấy máu vì thương tích, Yukato vẫn còn thở…

Ông bà Tadao Shimuza, bố mẹ Yukato, gặp mặt Fumiko lần đầu tiên tại bệnh viện. Fumiko đáp chuyến bay sớm nhất từ San Francisco về Tokyo săn sóc người yêu vừa may mắn thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Nét mặt thoáng buồn càng làm tăng vẻ đẹp và duyên dáng của Fukimo.

Yukato trìu mến nhìn người yêu… Tấm chân tình của đôi trai tài gái sắc khiến bố Tadao mềm lòng và thuận tình cho họ kết duyên.



Đào Duy Hòa Phỏng Dịch

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Jan/2021 lúc 2:49pm

Lòng người    <<<<<


Những%20sát%20thủ%20âm%20thầm%20trên%20bàn%20nhậu%20|%20Ăn%20sạch%20sống%20khỏe%20|%20PLO
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23786
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Jan/2021 lúc 9:44am

Giọt Nước Nghiêng Mình... - 


1.

Virginia, xe chạy đường trường hơn một giờ, lòng vòng trong xóm quê thêm độ nửa giờ nữa thì r vô một khu hơi nghèo vắng rồi ngừng lại trong sân một căn nhà có vẻ khang trang trên khu đất rộng. Tấm bảng sơn xanh chữ đỏ có tên ngôi chùa nằm khiêm nhường bên một cội cây cành lá xum xuê. Tên chùa cũng bình thường nhưng chữ chùa khiến già Thanh có cảm tình hơn tiếng tự thường gặp. ‘Chùa Php Vân.’ nghe gần gũi hơn ‘Pháp Vân Tự’ nhiều, già lẩm nhẩm trong trí. Cũng không thấy những câu đối liễn màđỏ chói changmệt mắt với kiểu chữ Việt viết tròn tròn giả Hán tự thường có. Già Thanh nói thầtrong bụng: ‘Chắc chắn sư trụ trì nhiều Việt tính... những chi tiết nho nhỏ như thế nầy rất đáng ngưỡng phục và nên khuếch tán. Hẳn sẽ có nhiều điều đáng nghe, đáng học ở vị sư nầy.’


Cảnh quang khoáng đãng, vắng bóng những tượng đá trắng rườm rà phô trương tạc những nhân vật huyền thoại, Phật thoại chẳng ai biết nghệ nhân lấy chi tiết từ đâu. Chỉ có một mình ngôi tượng mẹ Quan Âm đưa thiên nhãn hiền từ nhìn kháchnhư theo dõi để che chở những bước chân của tín chúng thập phương. Cả ba người bước tới chưn tượng xá ba xá làm lễ ra mắt rồi đến cửa, bấm chuông. Hai chiếc xe quẹo vô bãi đậu, ba cặp khách Mỹ tới dưới chân tượng, chấp tay ngang bụng, nghiêm chỉnh đứng mặc niệm. Người phụ nữ mỉm cười hãnh diện trao ánh mắt với chồng như thầm nói đạo Phật của mình cũng có chút nào ảnh hưởng lên người bản địa.


‘Hình tượng Phật Bà dễ được kính tin vì tương tợ với hình tượng Đức Mẹ của họ.’ Già Thanh nói với con gái, mắt không rời những vị khách tóc vàng với lòng cảm phục. ‘Chùa Việt Nam nơi xứ người dựng tượng Phật Bà ngoài sân trống trải mục đích là tạo sự dễ dàng cho việc chiêm bái ngoài nghi thức. Người bản xứ chỉ cần đến cầu nguyện rồi về, không phải vào chánh điện, không phải nói chuyện với vị trụ trì, vốn trở ngại về ngôn ngữ tôn giáo.’


Người phụ nữ áy náy nói với cha rằng mình rất ngại khi đến đây mà không thông báo trước cho ni sư. Anh chồng cô nói mình có lý do vì làm theo ý cha từ xa đến muốn thăm linh của cháu, nhân tiện viếng cảnh một ngôi chùa địa phương.

Vậy mà chúng không cho mình biết đây là chùa sư nữ! Già Thanh hơi ngạc nhiên rồi mạnh dạn bước lên thềm bấm chuông. Hình như lâu lắm, chừng hơn mười phút, sư cô trụ trì mới ra mở cửa. Nụ cười hiền hòa và thân thiện chiếm ngay cảm tình của khách. ‘Xin lỗi vì để quí khách đợi hơi lâu. Ngày thường chùa vắng, phải đóng cửa, tín hữu đếviếng thì bấm chuông, ni ở đây chỉ cô độc một mình, phải cẩn thận phòng ngừa những bất trắc có thể xảy ra.’

Trụ trì thân mật dẫn khách đi viếng phòng ốc. Chánh điện trang nghiêm. Gian phòng thờ các linh sạch sẽ, ấm cúng trong cách trình bày đơn giản. Hình đứa cháu gái chớm tuổi hai mươi đang nở nụ cười vui như cười chào cha mẹ và ông ngoại đến thăm. Con bé toát ra nét trẻ trung yêu đời biết bao bên cạnh hàng mấy mươi hình đồng cảnh khác. Già Thanh nhìn từng hình, từng hình. Hầu hết là những bức hình tươi trẻ. Có thể người nhà đã chọn tấm ảnh đẹp nhứt cho người nằm xuống. Già Thanh không thấy mình khác với họ bao nhiêu khi nghĩ rằng bất kỳ ai trong các hình kia trước đây cũng như mình và sau nầy mình cũng như họ thôi. Người mẹ ngước nhìn hình con gái mình, thân thiết, mắt đỏ hoe, mọng ước, đưa tay len lén dụi. Người cha day mặt ra sau, cúi đầu. Không khí lắng đọng.

Già Thanh muốn đưa tay lên sờ tấm hình cháu ngoại nhưng ngại tạo thêm nỗi buồn cho cha mẹ nó nên đành thôi. Nói nhỏ: ‘Cháu ở chùa nghe kinh, mau siêu thoát.’

Tiếng ni sư phá tan sự buồn thảm đó:

‘Cũng gần giáp năm cháu rồi. Mau quá. Hai tháng nữa chứ mấy.’

Người mẹ:

‘Dạ, sư cô nhớ hay quá. Đến lúc đó cũng xin nhờ sư cô lo liệu mọi sự cho cháu. Chúng con không hiểu biết lắm những gì cần phải làm.’

Tiếng con của người tín hữu xem chừng bằng tuổi với ni sư trụ trì khiến già Thanh thấy vui vui. Con gái mình đã phần nào đè xuống cái ngã mạn khi thốt ra trôi chảy tiếng con. Bản ngã nói cho cùng cũng là không, chỉ vì con người gán cho nó tánh cách nhập làm một với hình hài huyễn hóa hiện tại vốn bị lầm tưởng là thường trụ, nên ngại ngùng khi sử dụng với người tu hành ngang tuổi đời...

Sư nữ để tay lên vai người đàn bà như chấp nhận, như hứa hẹn...


Sang phòng kinh sách. Từng kệ, từng kệ kinh sách và đĩa kinh giảng. Ni sư mỉm cười. ‘Khi ni về đây thì phòng nầy rất là lộn xộn, kinh sách chất đống ngổn ngang dưới thềm. Phải cho đóng kệ và sắp xếp lại để ai cần tìm hiểu thêm về đạo dễ dàng tham khảo. Sắp xếp lại, mất thời giờ vậy mà vui. Vô tình thấy được những quyển kinh hoặc vài ba bài báo mình cần đọc hay trả lời được những điều mình đương thắc mắc.’


Đưa mắt của người ham sách quan sát, già Thanh thấy có mấy quyển sách về linh hồn, về luân hồi, tái sinh của Feffrey Long và Paul Newton (Evidence After Life), của Michael Newton (Journey of Souls và Destiny of Souls) mấy quyển sách nói về linh hồn rất được ưa thích gần đây. Già đưa tay với lấy quyển sách nhỏ mỏng của tác giả trẻ Chung Mậu Sum    của Đài Bắc, ‘Nhân Quả Luân Hồi Đích Khoa Học Chứng Minh, hỏi:

‘Thưa, ni sư có thích đọc những quyển sách quí nầy?’

“Cũng muốn đọc lắm nhưng chưa đủ cơ duyên. Ni sang đây chưa lâu, trình độ Anh ngữ còn phải trau luyện nhiều.’

Già Thanh thích câu trả lời thiệt tình như vậy. Ở bên kia ni sư chịu ảnh hưởng một nền giáo dục khác nên cần có thời gian cho những cuốn sách loại nầy thẩm thấu, không có gì phải giấu diếm...

 

2.

‘Ni ở trong chùa nầy một mình, tuần sáu ngày cô độc, chỉ Chúa Nhựt mới có độ chục tín hữu đến sinh hoạt. Quí khách thử tưởng tượng đêm vắng, không một tiếng động, chùa rộng hơn nhà thường, lại có phòng thờ các linh, nếu không đủ tinh tấn thì dễ buồn chán biết bao.

Người ni sư trụ trì nói xong nhìn bao quát mấy bàn thờ các linh, chớp chớp mắt, miệng mỉm cười như bằng lòng với hoàn cảnh của chùa. ‘Trước đây nhiều sư đến, chỉ sau vài ba tháng trụ là từ giã. Có nhiều lý do, ngoài cảnh vắng vẻ còn có sự cực nhọc phải tự lo ẩm thực, giặt gỵa, tài chánh... Chùa vắng, Phật tử cúng dường không đủ chi trả cho tiền cơ sở nói gì tới tiền tiêu vặt và bảo hiểm y tế...


Già Thanh dà dạ vuốt đuôi. ‘Nhờ ni sư nói chúng tôi mới biết được những điều đó. Cứ tưởng là đi tu không còn những chuyện phải lo lắng tầm thường như người ngoài đời.’

Vị trụ trì cười tươi:

‘Rồi mọi chuyện cũng đâu vô đó. Có đứPhật lo hết. Ông coi, khi ni về đây thì cửa chánh điện chưa mở ra phía trước như hiện giờ. Chưa có đường riêng cho người khuyết tật. Phòng khách nầy nguyên là căn phòng chỉ có một cửa sổ thôi. Nay thì khá hơn nhiều. Nhờ đứPhật lo hết.’ Ni sư lập lại lần nữa câu nói ưng ý.

... ‘Sư coi vậy tu cũng còn dễ dàng, ni chúng tôi khó hơn chút đỉnh. Nhiều trường hợp bị thúc bách của gia đình hay cha mẹ, không thể từ chối được phải đội tóc giả đi làm nail.’

Ba người khách đồng loạt ồ ngạc nhiên và đổi thế ngồi.

Ni sư chầm chậm bưng chén nước đưa lên miệng:

‘Nữ phái dầu đã xuất gia, tình cảm với mẹ cha cũng còn nặng nề. Chữ hiếu khó lòng bị xóa bỏ hoàn toàn khi nhớ đến cha mẹ già yếu bịnh hoạn đương sống nghèo khổ nơi quê nhà.

Những cái gật đầu biểu đồng tình nhiều hơn của người nghe.


‘...Dầu sao tu bên nầy cũng êm ấm, đường tu hành cũng ít trắc trở. Bên kia, chùa thường bị đập phá, can thiệp, o ép. Nhiều sư trẻ không biết xuất thân từ đâu được gởi tới chùa nầy chùa kia, thét rồi sư chân chánh với sư bia, sư karaoke, sư có nợ phong lưu, sư sát thủ... chẳng thể nào phân biệt được. Tà chánh khó phân.’ Ni sư trở giọng sau tiếng thở dài:

‘Xin lỗi khách. Kẻ xuất gia không nên để tâm mình trĩu nặng như vậy. Đáng lẽ không nên nói nhiều.’


Đưa tay lật lật một quyển tập nãy giờ để trước mặt, ni sư nói thêm:

‘Ngoài tụng niệm kinh kệ và chăm chút ngôi chùa, thời giờ rảnh rang, ni thích đọc chép những vần thơ liên quan tới việc tu hành của người xưa. Chẳng hạn bà Quỳnh Hoa Công Chúa nói khi tu hành thấy thời gian qua mau, bà mỗi lúc một lớn tuổi, không còn sự tinh anh như trước: Mắt phụng long lanh phai vẻ nước, Mày nga lấp lánh nhạt màu xuân. Và bà Huyền Tùng Quận Chúa nói chăm chỉ việc tu hành khiến mình hiểu đạo hơn: Trông về cổ tích ngàn thu trước, Mở lá niệm kinh thấy rõ ràng.


Gió lạnh tạt vô phòng khách, kéo theo những giọt mưa hung hăng... Già Thanh đứng dậy bước ra đóng cửa lại. Mọi người yên lặng ngó mong lung ra ngoài trời. Cơn mưa coi chừng hơi nặng hột. Người đàn bà kéo hai vạt áo lại che bớt hơi lạnh, cặp mắt vẫn đỏ.

Ni sư đưa tay lượm vài cánh bông rơi rụng trên bàn bỏ vô dĩa đựng tách trà, ngó thẳng vô mặt người khách nữ, nói như khuyên giải:

‘Tiểu bang nầy lắm mưa, nhiều khi một mình ngồi ngó mưa rơi, ni nghĩ rằng từng giọt mưa là từng linh hồn con người nghiêng mình rớt xuống để nhập làm một với Đại Ngã là sông, biển. Chết là giai đoạn hủy xác, hồn về lại nơi phát sinh. Chết sống chỉ là những giai đoạn du hành rong chơi của tiểu linh hồn.’

Người mẹ đưa mắt về phòng thờ linh bên kia, như cố tìm hình ảnh đứa con gái của mình...

 

3.

Trên đường về, người con gái phá tan sự yên lặng, rụt rè hỏi cha mình:

‘Con thấy ni sư thông tuệ. Nhưng sự so sánh sông biển với cái Đại Ngã ba thấy có đúng không?

 ‘Mọi so sánh tỷ dụ đều khiến cho vấđề trở nên dễ hiểu hơn.’ Già Thanh trả lời không suy nghĩ, ngừng một lúc hèn lâu, nuốt nước miếng, ông nói thêm: ‘Nhưng so sánh nào cũng vậy, chỉ có giá trị tương đối. Vũng nước, ao hồ, biển cả có thể ví như cái Đại Ngã của nhân loại như ni sư đã nói theo sách, mà cũng có thể ví như hồn dân tộc, như nền văn hóa của một sắc dân, như nguồn sống của một quốc gia. Điều quan trọng là mọi giọt nước đều nghiêng mình để bơi về hợp với vùng nước lớn, cách nầy hay cách khác, trực tiếp hay gián tiếp.’

Người con rể, vốn ít mở miệng bây giờ mới lên tiếng, thiệt chí lí:

‘Kẻ nào, nhà cầm quyền nào bao che cho bất kỳ ai làm ô nhiễm vùng nước lớn thì đều có tội tày trời, hoặc là đã làm hư hoại cái Đại Ngã của nhơn loại, hoặc là làm tàn hại nguồn sống của một dân tộc, khiến cho dân tộc tội nghiệp đó có nguy cơ bị teo cụm lần lần rồi biến mất trên quả địa cầu.’

Già Thanh gật gật đầu biểu đồng tình. Cơn mưa chuyển sang ồ ạt, dũng mãnh kinh hồn. Những giọt nước hai bên cửa kiếng hông xe cuống quít nghiêng mình chạy mau hơn để nhập bọn với nhau. Trong trí già Thanh, những giọt nước mắt của anh ngư phủ ‘mất cá’ ngồi khóc trên bờ biển chết cũng tương tợ như vậy. Chúng cuống quít nghiêng mình xuống cát, len lỏi ra biển lớn.

Nhưng than ôi, biển lớn bây giờ đã chết vì chất độc. Giọt nước nào, dòng sông nào nghiêng mình ra biển cũng đều thất vọng.


Trong âm thanh ồn ào của tiếng mưa rơi ngoài kia, giọng ngâm nga lạc điệu của già Thanh cất lên: ‘Giọt nước nghiêng mình khóc biển Đông.’

Người con gái và chàng rể của già Thanh tròn xoe mắt ngác ngơ. Trên đường về từ đó cả ba người đều đắm mình trong những suy nghĩ mông lung, man mác buồn. Bên ngoài mưa vẫn nặng hột.


Nguyễn Văn Sâm

Charlotteville, VA, Oct. 13, 2015

(Cảm hứng sau khi ông ngoại đi thăm linh cháu ở chùa.)

Bốn câu thơ trong bài được trích từ quyển sách Nôm tựa là Tẩy Tâm Chơn Kinh, khắc in năm Bảo Đại Thứ Tư (1929).

Mở lá: Lật sách kinh, xưa kinh viết trên lá.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 201 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.645 seconds.