Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 201 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23742
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Sep/2020 lúc 12:57pm

Chạnh Lòng


vuvo
Buổi sáng Ngọc Ngà bước ra vườn sau. Những ngày hè nắng nóng dường như đã qua đi, thời tiết dịu lại mùa Thu đang thấp thoáng đâu đây. Những cây hoa hồng vẫn xinh tươi ra hoa từ đầu Xuân, trong nắng hạ hay chớm Thu về .

Mỗi khi thời tiết và cỏ cây thay đổi Ngọc Ngà không khỏi chạnh lòng. Cô nhớ mãi câu mẹ nói âu yếm và hãnh diện một buổi đầu xuân năm nào lúc cô đang độ tuổi dậy thì mười lăm mười bảy:
– Hoa lá nở xinh tươi như con gái của mẹ.

Cho đến những mùa xuân sau này thì câu nói của mẹ có vướng theo cả tiếng thở dài:
– Hoa lá mỗi mùa vẫn nở xinh tươi mà con người ta thì mỗi mùa mỗỉkhác..

Và đến mùa Thu thì mẹ không nói gì. Chắc mẹ e sợ cảnh mùa Thu tàn phai như nhan sắc con gái mẹ sẽ tàn phai theo năm tháng.
Cô hiểu ý mẹ. Mẹ luôn mong muốn cô lấy chồng kẻo tuổi xuân qua mau.
Khi người ta ở lứa tuổi đôi mươi có bao nhiêu là mộng đẹp.

Cô thoáng thở dài trở vào nhà, mẹ cô đã thức dậy và đang ngồi uống cà phê xem ti vi buổi sáng:
– Hôm nay con không đi làm hả?
– Hôm nay ngày con nghỉ nên mới thảnh thơi ra ngắm vườn một lát mẹ ạ.
Mẹ âu yếm:
– Con thích món gì chốc nữa mẹ nấu, đừng ăn kiêng mỗi bữa trưa chỉ một qủa táo là chết khô chết héo đấy con.
Mẹ đã nói rồi con gái làm nghề bác sĩ bận bịu lắm lại không lo ăn uống đầy đủ người cứ rạc dài ra.
Con chăm lo sức khỏe cho người khác mà bạc đãi bản thân mình.

Cô nũng nịu trấn an mẹ:
– Mẹ ơi, một quả táo cho bữa trưa là tốt cho sức khỏe và sắc đẹp đấy.
Mặc kệ con gái từ chối. Buổi trưa người mẹ vẫn hì hục vào bếp nấu món ngon cho con gái ăn.

Bữa cơm đã nấu xong thì bỗng có tiếng chuông cửa reo, Ngọc Ngà từ trong phòng riêng của cô đi ra nhưng mẹ cô đã bảo:
– Chắc là bà bạn nhà thờ của mẹ, để mẹ mở cửa và tiếp khách luôn thể.
Cô lui vào trong phòng thì nghe tiếng mẹ reo lên đón khách vừa bối rối vừa ngạc nhiên và không kém phần xã giao:
– Ôi, cháu Phương. Thật bất ngờ? Lâu lắm mới gặp lại cháu.
Tiếng anh Phương đáp lại:
– Chào bác, cháu đi công việc ở thành phố lân cận và lái xe 4 tiếng đến đây thăm gia đình bác. Xin lỗi bác cháu đã đường đột không báo trước..

Và anh Phương thăm hỏi:
– Gia đình bác khỏe không, bố mẹ cháu vẫn thỉnh thoảng nhắc đến hai bác.
– Nhà tôi đi công việc chưa về, chỉ có Ngọc Ngà hôm nay nghỉ ở nhà, còn chị nó đã lập gia đình ở riêng từ lâu.
– Không biết Ngọc Ngà còn nhớ cháu không, cháu luôn cầu mong Ngọc Ngà được mọi điều như ý.
– Ðể bác gọi Ngọc Ngà ra nói chuyện cho vui, hơn mười năm anh em chưa gặp lại nhau.
– Vâng, cháu rất mong gặp lại em.

Anh đã trở lại sau hơn mười năm vắng bóng, anh đến khi lòng cô đã hết chờ mong. Trái tim Ngọc Ngà bỗng đập mạnh bồi hồi có cả những cảm xúc buồn đau hờn giận?
Mẹ cô vào phòng cô nói nhỏ:
– Con ơi, có anh Phương đến chơi, anh hỏi thăm con. Mẹ đã nói con đang ở nhà vậy con ra ngoài tiếp khách với mẹ đi.
Ngọc Ngà che dấu sự bối rối không rời mắt khỏi màn hình máy điện toán:
– Mẹ nói giùm hôm nay con nghỉ nhà vì cảm nên không thể gặp ai kẻo lại lây cảm cho người khác.

Người mẹ thừa hiểu cô từ chối khéo. Chính bà cũng cảm thấy không thoải mái, không mấy thân tình khi gặp lại Phương.
Ngọc Ngà ngồi trong phòng nghe rõ từng lời đối thoại hỏi thăm nhau ngoài phòng khách. Anh đã lên chức thiếu tá Quân Y, vợ anh chủ nhà thuốc Tây đông khách, vợ chồng anh đã có thêm đứa con thứ ba mới vài tháng tuổi, có vẻ như anh đang sống đời gia đình hạnh phúc ấm êm.

Sau những năm tháng dài bặt tin hôm nay anh cất công lái xe 4 tiếng đồng hồ đến đây để cho lòng bớt áy náy ray rứt, để xin lỗi, thăm hỏi hay an ủi một người con gái mà anh biết đã thầm yêu anh biết bao chăng ?
Ngày gia đình cô mới đến Mỹ định cư đã gặp lại gia đình bác Phong tại thành phố này. Gia đình bác đến Mỹ từ 1975. Ðôi bên cha mẹ đã quen biết nhau từ lúc còn ở Việt Nam, tình bạn nối lại thêm thân thiết.

Ngọc Ngà là con bé 15 tuổi xinh xắn ngây thơ còn anh 20. Cha mẹ anh và cha mẹ cô thường nói đùa hai đứa xứng lứa vừa đôi và muốn sau này cho hai đứa lấy nhau. Ngọc Ngà và anh Phượng cũng chơi thân quấn quýt bên nhau
Anh vào quân đội và học y khoa, cuộc đời binh nghiệp bận rộn anh thỉnh thoảng về thăm nhà vẫn ghé thăm Ngọc Ngà và mỗi dịp Giáng Sinh anh đều gởi tặng cô một con búp bê nhồi bông xinh đẹp, món quà mà anh biết cô rất thích.

Ngọc Ngà đã cảm mến và yêu anh từ lúc nào, mối tình đầu ngây thơ và chân thành từ thuở 15 lớn dần theo từng ngày từng tháng. Anh học giỏi đẹp trai và tính tình vui vẻ lịch sự, với cô anh là một chàng trai hoàn hảo để cô ngưỡng mộ và yêu thương.
Anh cũng luôn chăm sóc trìu mến Ngọc Ngà, anh chưa ngỏ lời yêu có lẽ vì cô còn quá trẻ nhưng cô cảm nhận mối tình cảm anh cho nhiều thêm, thân ái thêm mỗi lần anh đến thăm.

Ngọc Ngà học chăm và học giỏi, cô không thích nghề y nhưng vì yêu anh cô quyết chí sau này cũng sẽ học nghề như anh.
Cha mẹ Ngọc Ngà thật lòng mong muốn anh làm rể, mỗi dịp anh đến cả nhà tiếp anh như khách quý.
Những con búp bê xinh đẹp của anh cho cô bày trên giường ngủ, chúng ngủ bên cạnh cô, ấm áp thân tình như có anh bên cạnh nên cô không muốn rời xa. Bốn năm là bốn món quà. Cô đã 19 tuổi rồi.

Gia đình anh bỗng phải dọn đi xa, đến tiểu bang Utah nơi cha anh có nhiệm sở mới và không hiểu sao mùa Giáng Sinh năm ấy cô không nhận được quà của anh.

Sự liên lạc thân mật giữa cha mẹ đôi bên thưa dần và anh thì hoàn toàn im lặng. Ngọc Ngà đã chờ mong mòn mỏi món qùa từng mùa Giáng Sinh, từng thời gian lễ nghỉ và tiếng điện thoại hỏi thăm của anh trong âm thầm tuyệt vọng. Anh đã quên cô.

Mẹ cô cũng vỡ mộng như cô đã vỡ mộng, bà chỉ biết an ủi con gái:
– Chắc anh Phương đã có người khác. Con đừng buồn nữa nhé, cuộc đời còn dài, còn chán vạn kẻ cho ta thương.
Anh Phượng chưa ngỏ lời yêu, chưa hứa hẹn, hai bác Phong chỉ nói đùa cho vui. Họ không có lỗi gì cả, chỉ tại chúng ta mong muốn và tin thật mà thôi.
– Nhưng sao gia đình bác Phong và anh Phương lại đối xử với chúng ta như thế, họ ra đi không một lời từ giã.

Về sau qua vài bạn bè quen biết của cả đôi bên gia đình thì gia đình Ngọc Ngà biết rằng gia đình anh cố tình dọn đi xa để anh quên dần cô và quen với người con gái khác do cha mẹ anh lựa chọn để tương xứng với địa vị và sự giàu có của họ. Người vợ tương lai của anh cũng con nhà giàu học giỏi như anh, cô đang học Dược.

Gia đình Ngọc Ngà mới sang Mỹ rất nghèo, con cái chưa đứa nào ăn học ra gì thì làm sao xứng với gia đình bác Phong.
Thế nên những lời hứa hẹn nửa đùa nửa thật của cha mẹ anh chỉ là gió thoảng mây trôi tan biến mất.
Thế nên những tình cảm chớm nở anh cũng đành quên.

Ngày anh lấy vợ bác Phong và anh đều không gởi thiệp mời hay thiệp báo tin đến gia đình Ngọc Ngà và mối liên hệ cắt đứt từ dạo ấy.
Chắc gia đình anh tự cảm thấy mình có lỗi đã gieo cho gia đình cô niềm hi vọng nên họ ngại ngùng không muốn giao tiếp nữa.
Nay cô đã học xong y khoa và làm việc trong một bệnh viện lớn tại thành phố gần nhà.
Nay cha mẹ cô đã làm ăn khá giả, hai đứa con đều ăn học thành tài.
Cô có đủ tiêu chuẩn để yêu anh rồi đấy nhưng anh đã thuộc về ai.
Thuở mới lớn cô đang quen anh chỉ biết có anh nên chẳng quen ai. Khi vào đại học cô để dành thời gian học hành.
Cả một quãng thời gian dài tuổi thanh xuân đã lặng lẽ trôi qua.

Một vài đám bạn bè với cha mẹ cô mai mối con trai họ, em cháu của họ nhưng người được điểm này thì mất điểm kia nên Ngọc Ngà vẫn còn độc thân cho đến bây giờ.

Cô bé Ngọc Ngà 15 tuổi mới đến Mỹ hôm nào nay đã ở tuổi xuân muộn 30 rồi.
Mẹ cô thì sốt ruột khi mỗi năm cô thêm một tuổi nhưng Ngọc Ngà vẫn tự tin tuổi nào cũng có tình yêu của nó dù càng ngày cơ hội tìm người yêu của cô càng thu hẹp, những người cùng trang lứa đã có người yêu, có gia đình hoặc không tương xứng tuổi tác nghề nghiệp.

Mỗi lần nhìn con gái ăn mặc đẹp ra phố một mình mẹ cô lại thở dài dù cô luôn ra vẻ hồn nhiên yêu đời và trêu chọc mẹ:
– Mẹ làm như con gái mẹ ế lắm đấy, 30 tuổi vẫn còn xuân xanh, con ra phố thiếu gì anh nhìn theo.
– Vậy con lấy chồng đi cho mẹ nhờ.
Ngọc Ngà khẳng định:
– Con thích câu “Ðời còn chán vạn kẻ cho ta thương” của mẹ. Tại con chưa gặp đúng người mà thôi.

Tuy khuyên con gái thế nhưng người mẹ vẫn lo lắng, con gái học giỏi đẹp đẽ ngoan hiền con nhà tử tế, càng có nhiều ưu điểm càng khó lấy chồng, thấp không ai với tới, cao thì họ đã nhanh chóng có nơi có chốn, còn lại ít ỏi để cho mình gặp gỡ và lựa chọn.

Khách đã ra về mà Ngọc Ngà vẫn ở mãi trong phòng không chịu ra ăn cơm, mẹ cô vào phòng thấy con gái vẫn ngồi lặng lẽ bên màn hình máy điện toán, khi bà đến gần mới biết con gái đang khóc, cô không kịp dấu mẹ những giọt nước mắt nhạt nhòa.
Người mẹ sững người trong vài giây. Những giọt nước mắt thổn thức kia từ đứa con gái luôn tỏ ra mạnh mẽ và hồn nhiên trước mặt bà.

Chỉ có mẹ là hiểu con, bà hiểu đây là những giọt nước mắt của giây phút chạnh lòng và tủi thân. Người mình yêu đang hạnh phúc gia đình còn mình thì vẫn cô độc lẻ loi.
Mẹ cô ứa nước mắt khóc theo con dù bà cố dùng lời cứng cỏi để an ủi:
– Việc gì con phải khóc chứ, con ơi “Ðời còn chán vạn kẻ cho ta thương” mà.
Thế gian bao la người nhưng tìm một người để yêu sao vẫn khó thế, vẫn chưa gặp trong đời? Cô nghẹn ngào nghĩ thầm.
Mẹ cô tiếp tục an ủi:
– Con và anh Phương không có duyên nhau, đừng tiếc đừng thương?
Cô vẫn nghẹn ngào:
– Vâng… con hiểu nhưng thà anh đừng đến… đến làm gì khi con đã cố quên?
Chính mẹ cô cũng cảm thấy thế. Gặp lại Phương bà cảm thấy vụng về khó xử.
Bà tìm cách khỏa lấp:
– Ra ăn cơm với mẹ cho vui, hôm nay mẹ làm món cá chiên chấm nước mắm gừng tỏi ớt, món mà con ưa thích.
– Mẹ cho con xin quả táo.

Cô vẫn chỉ ăn quả táo. Ðáng lẽ cô sẽ ăn một bữa trưa ngon với mẹ nếu anh không đến không làm cho cô buồn rũ rượi thế này.
Cô gái đầy tự tin và yêu đời trong cô đâu rồi?
Anh, của mối tình đầu ngây thơ.
Anh, của bao ước vọng cuộc đời.
Anh, của nỗi đau âm thầm bấy lâu nay.

Mười hai năm qua cha mẹ và cô ai cũng hiểu không bao giờ nhắc đến tên anh, đến gia đình anh để mọi thứ chìm vào quá khứ.
Thà anh cứ im lặng như đã từng im lặng.
Anh đến làm gì để khơi lại vết thương đau mà cô đã cố gằng quên dần theo năm tháng, để mối tình đầu mong manh rất đẹp và rất buồn của cô chợt thức dậy trong những giây phút chạnh lòng như thế này?


Nguyễn Thị Thanh Dương
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23742
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/Sep/2020 lúc 11:39am

Có Một Khoảng Trời Quê Hương


Tôi và vợ tôi ra tới khu lấy hành lý của phi trường Tân Sơn Nhất thì trời đã tối, Chuyến bay từ Đài Loan bị trễ 2 tiếng, mà khi đã về đến Saigon, chúng tôi cứ mãi bị loay hoay gần 45 phút ở khu kiểm soát giấy thông hành, thành ra đã trễ lại càng trễ hơn. Tất cả vì chúng tôi vô tình chỉ làm theo “phép vua”, mà không để ý đến “lệ làng”. Thôi thì những trở ngại của lần này làm thành kinh nghiệm cho những lần sau về thăm Việt Nam.

Tôi đoán vợ chồng Toản (là em họ của tôi), đang đứng mõi chân chờ đợi chúng tôi ngoài cổng phi trường, nên khi đẩy hành lý ra khỏi cổng, tôi dớn dác tìm kiếm chúng nó trong số rất đông thân nhân đang đứng đợi.

Tôi nghe tiếng một thanh niên đang hô lớn về phía chúng tôi:

-Bác Ba, Bác Ba. Con ở đây này.

Tôi quay lại:

-Ủa, Trung. Ba má con đâu?

Trung là con trai lớn của Toản, cháu này năm nay hai mươi tuổi, vẫn còn đi học, nó trả lời:

-Dạ, tối nay có chuyện bất ngờ. Ba má con phải đi tìm con Hiền liền, nó bỏ đi đâu từ sáng đến tối chưa về.

-Bỏ đi? Tôi ngạc nhiên nói. Hiền nó mới 14 tuổi mà sao đi lung tung vậy?

-Dạ, chuyện đó nói sau nha bác, thôi hai bác lên xe, taxi đã chờ sẵn.


Xe đưa chúng tôi về căn nhà mẹ vợ tôi ở đường Nguyễn tri Phương Quận 10. Trên đường đi, tôi vẫn bị phân tâm vì mới nghe một câu chuyện liên quan đến cháu mình mà chưa nghe được trọn vẹn. Vừa về đến nhà, thấy mẹ ra đón, chúng tôi rất vui. Mẹ còn khoẻ, chỉ có chút ít bệnh già, nhưng nhờ ơn trời, mẹ không có bệnh gì trầm trọng.

Thăm hỏi, gửi quà phương xa cho mẹ xong, sáng hôm sau, tôi lập tức bắt xe ôm sang nhà em họ, để xem chuyện cháu Hiền ra làm sao rồi.

Bước chân vào nhà Toản, từ xa tôi đã nghe tiếng khóc nức nở của cô em dâu, có vài tiếng roi nghe chát chúa, tôi đoán là cháu Hiền đang chịu đòn. Đi vào bên trong phòng khách, quả nhiên tôi thấy cháu Hiền đang đứng, chịu đựng từng ngọn roi của Toản quất vào mông. Hiền chỉ mặc áo thun mỏng và quần soóc, chắc là đau lắm, nhưng cháu không hề khóc, ngược lại, mẹ cháu đứng cạnh cháu khóc tức tưởi. Dù chịu đòn, Hiền vẫn ương ngạnh đưa ánh mắt lạnh lùng nhìn Toản, nửa như thách thức, nửa như căm hờn.

Cảm thấy không ổn, tôi chạy đến rất nhanh giật lấy ngọn roi từ trên tay Toản, nắm tay bé Hiền kéo sang chỗ khác. Toản lớn tiếng phản đối:

-Anh Ba đừng can thiệp để em dạy con. Nó không biết nghe lời cha mẹ.

Tôi bình tĩnh trả lời:

-Đó đâu phải là cách dạy con.

Rôi tôi quay sang bé Hiền:

-Con đi đâu vậy, bộ con không thương ba mẹ sao?

Bé Hiền đã có một câu trả lời mà tôi hoàn toàn không thể ngờ:

-Không. Con không thương ai hết.

Sau đó, cháu ngoe nguẩy bướng bỉnh đi nhanh vào gian phòng phía sau. Tôi nhìn sang cô em dâu vẫn còn khóc, giọt vắn giọt dài, Toản nhìn tôi lắc đầu ngao ngán:

-Gia đình em vô phước không thể dạy được con.

Tôi lặng nhìn gia đình Toản mà trong lòng đau xót.

oOo

Tôi mời Toản ra quán cà phê, mục đích là tìm hiểu thêm về cháu Hiền. Quán cà phê này trong khu lao động xe cộ rất ồn ào, thỉnh thoảng có tiếng rao hàng lanh lãnh bên ngoài. Tôi và Toản chọn một bàn ở sát bên trong để tìm sự yên tĩnh. Cách chúng tôi vài bàn, khách uống là hai cậu trẻ choai choai tóc nhuộm vàng đỏ, hút thuốc phả khói mịt mù, nói chuyện lớn tiếng có pha lẫn các tiếng chửi thề oang oang và công khai.

Toản nói với tôi, đường phố Việt Nam xây dựng rất tiện nghi hiện đại, nhưng xã hội, con người thì rất khác xưa, khuyên tôi không nên bận tâm nhiều chung quanh.  Tôi thấy Toản hôm nay hơi tiều tuỵ có lẽ mất ngủ vì đêm qua bận đi tìm con. Toản kể tôi nghe:

-Con Hiền nó thường tụm năm tụm ba với một số bạn, sau giờ học nhiều khi không chịu về nhà, không cần đến cơm nước, lấy lý do đi học nhóm, nhưng đàn đúm hư hỏng. Ở nhà là nó cứ bấm máy lên mạng, không bao giờ giúp mẹ dọn dẹp quét tước. Cha mẹ gọi, nó không thèm trả lời. Nó không biết lễ phép, không biết chào hỏi hoặc dạ thưa với người lớn. Nó rất bướng bỉnh ngang tàng. Hôm qua nó đi chơi đến khuya, chúng em đi tìm khắp nơi, khi biết nó ở nhà bạn, phải qua đó đón nó về, nhưng một tiếng giải thích nó cũng không thèm nói.

Nghe Toản nói xong, tôi hơi hoang mang, vì những điều đó thật lạ lùng, sao lại có thể xảy ra đối với một cháu gái học trò nhỏ như Hiền? Tôi không biết hiện tượng này chỉ có ở cháu Hiền hay có nhiều cô cậu học sinh khác cũng như vậy. Tôi hỏi lại Toản:

-Cháu nó học hành như thế nào?

-Nó học tệ lắm, chắc năm nay không vô nổi lớp 10.

Tôi chột dạ, vậy là cháu tôi là đứa học trò biếng nhác hư hỏng thật rồi. Tôi biết gia đình Toản sống rất nề nếp, nhưng có lẽ chung quanh là một xã hội phóng túng thực dụng, cho nên những lời giáo huấn của cha mẹ đối với cháu Hiền xem ra không ăn thua gì.

Toản kể thêm, cháu Hiền khó dạy khoảng từ năm 12 tuổi, năm ấy những sự kiện học sinh đánh thầy nở rộ trên báo chí, có những học sinh “đại bàng” chỉ huy chia phe kết bè, làm mưa làm gió, xử phạt đánh đập học sinh không cùng phe. Nghe người ta nói, nhà trường có khi biết rõ, nhưng cũng phải làm ngơ, vì đa số các học sinh làm tay “anh chị” đều là con em các quan chức cấp cao trong chính quyền. Tránh voi không xấu mặt, chẳng thà mất trật tự một chút, còn hơn bị bể nồi cơm.

Từ năm lớp sáu đến năm nay là lớp chín, cháu Hiền cứ liên tục có số điểm thấp trong các môn học chính, nhiều giờ nghỉ học không lý do, thư báo cáo của nhà trường đều đặn gửi về nhà. Dù rất bận, Toản cũng phải dự nhiều buổi họp phụ huynh để nghe những lời than phiền của nhà trường. Gia đình không thể có biện pháp nào thay đổi được cháu Hiền. Toản không biết ở trong trường, cháu có lên mặt “anh chị” với ai không, mà sao thấy ở nhà, trong ngôn từ, càng ngày cháu càng lớn lối ngỗ nghịch, thậm chí có khi dằn mâm xáng chén, mắng chửi ngay cả với cha mẹ. Toản cũng rất khổ tâm vì cô Loan, mẹ cháu Hiền, cứ tìm cách bao che lỗi lầm cho Hiền, khiến cho Toản không thể dạy con.

Theo Toản, một lý do khác khiến cho khó dạy dỗ cháu Hiền, vì cháu bị ảnh hưởng rất lớn từ bạn bè và môi trường giáo dục. Bạn bè giao du hư hỏng quá nhiều, và nền giáo dục suy đồi tại Việt Nam là chuyện có thật. Có quan chức giáo dục ăn hối lộ, sửa điểm ở một số kỳ thi, thu quá nhiều các loại phí trong nhà trường mà báo chí cũng đã lên tiếng, có những giáo viên lấy điểm gạ tình, hoặc hiếp dâm học sinh … Các hiện tượng đó đã ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý học sinh. Học sinh bây giờ không còn kính trọng  thầy cô như hồi chế độ trước.

Quả thật như thế sao? Nghe qua tôi cảm thấy vô cùng bất nhẫn. Hình ảnh các bậc thầy cô là thiêng liêng, là cội nguồn của tình thương bao la, là hy sinh vô bờ bến trong sự nghiệp dạy dỗ các em nên người. Vậy mà ở thế kỷ này, hình ảnh thầy cô không còn được kính trọng. Ca dao Việt Nam từng có câu:

Muốn sang thì bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ thì yêu kính thầy.
Mấy ai là kẻ không thầy
Thế gian thường nói đố mày làm nên.

Và tôi chợt nhớ đến vài câu thơ rất cảm động tôi đã đọc được ở đâu đó:

Cơn gió vô tình thổi mạnh sáng nay

Con bỗng thấy tóc thầy bạc trắng

Cứ tự nhủ rằng đó là bụi phấn

Mà sao lòng xao xuyến mãi không nguôi

Tôi tự hỏi tại sao, tại Việt Nam chỉ qua vài chục năm trong nền giáo dục duy vật, hình ảnh thần thánh của người thầy, người cô đã hoàn toàn sụp đổ? Vì đâu nên nỗi? Có phải cuộc thay đổi lịch sử mùa xuân 75, khi người ta quét sạch nền văn hoá (mà người ta cho là) phản động, cũng đã quét sạch luôn các cội rễ tình cảm gắn bó thầy trò, quét sạch các giá trị cao quý nhất trong các hình tượng thầy cô mà bao thế hệ học sinh, dù bao nhiêu tuổi, vẫn mãi mãi tôn thờ?

Tôi không có cách nào góp ý kiến về việc dạy dỗ con cái của Toản, chỉ khuyên nó cố gắng khuyên nhủ cháu Hiền, tuyệt đối đừng dùng roi vọt.

Tôi trao cho Toản, chuyển gửi cho cháu Trung và cháu Hiền hai cái bao đỏ, trong đó có một số tiền nhỏ gọi là quà của bác Ba để các cháu mua sách vở. Đặc biệt là nhắn với Hiền, bác Ba nhắn lời khuyên cháu ráng học, kỳ này vào được lớp 10, bác Ba sẽ thưởng nhiều hơn. Nhắn là nhắn vậy, nhưng Hiền là con của cha mẹ nó, và là học trò của xã hội, tôi không biết cháu có cần đến phần thưởng của tôi hay không. Tôi không biết khi lớn lên một chút, cháu có tự ý thức, mà sửa đổi tánh tình được phần nào hay không.

 oOo

Tôi chia tay Toản, rồi sau đó một mình đi tản bộ, vừa để ngắm đường phố, vừa để tìm chút thư giản đầu óc. Trên đường về, tình cờ tôi được chứng kiến bao mảnh đời rách nát. Những hàng quán dẹp vội chạy trốn công an, những người nghèo lam lũ bán hàng rong, những thanh niên lao động nặng nhọc kiếm cơm, những người già tật nguyền lê lết bán vé số. Bao hình ảnh vất vả của những kiếp người cùng khổ, bên cạnh sự xa hoa giàu có của giới cán bộ thượng lưu, trong một thành phố hiện đại, xe cộ dập dìu.

Tôi đã từng đọc qua báo chí trên internet, được biết con cái quan chức chuyên đi vũ trường, quán bar, sở hữu các dàn siêu xe đắt tiền, trong khi  khắp các hang cùng ngõ hẻm của Saigon, con cái dân lao động rất nhiều người bị thất học đi làm thợ hồ, chạy xe grab không đủ ăn, có đứa bị lôi kéo vào các tổ chức xã hội đen chuyên đi giựt dọc, đi đòi nợ mướn, trở thành giang hồ giết người không gớm tay, phải lâm vào tù tội.

Tôi nghe nói các cháu gái ở các vùng quê, còn trong tuổi đi học, nhưng bị dụ dỗ bỏ học, ra phố ăn mặc hở hang đón khách cho các quán bar, hoặc làm tiếp viên ở các phòng m***age, phòng hớt tóc không chuyên nghiệp. Các cháu hành nghề công khai, ngay trước mũi các đơn vị công an, nhan nhãn ở phố Pasteur, phố Bùi Viện, và các quán bar, các phòng m***age mọc lên như nấm trên khắp đất nước này. Báo chí bị bịt mắt vì cơ cấu, quan chức bị bịt mắt vì đồng tiền, góp phần làm cho các tệ đoan xã hội ngày càng lan rộng, tội nghiệp cho cháu gái đã đánh mất tuổi xuân, mai một kiến thức, mù mịt tương lai.

Những người trẻ ở Việt Nam ngày nay không nhiều người đầu tư vào kỹ nghệ. Các công ty cổ phần ở Việt Nam thành lập ào ạt nhưng không có sản phẩm độc lập, chỉ để mua bán đất đai, làm quảng cáo sản phẩm, hay gia công hàng hoá cho các công ty ngoại quốc, Lao động Việt Nam dư thừa chỉ được dùng đem đi xuất khẩu, trong nước mở các dịch vụ gợi tình, mua bán thân xác phụ nữ.

Ai đã khiến cho những người trẻ tương lai của đất nước Việt Nam, nay chỉ biết cắm đầu kiếm tiền, bất kể đã tiếp tay cho các tệ đoan hoặc nhúng tay vào tội ác? Ai đã biến một vùng đất quê hương tôi bao đời hiền hoà, là hòn ngọc Viễn Đông, là vựa lúa của vùng Đông Nam Châu Á, nay lại đầy rẫy nhưng bất công và băng hoại xã hội? Ai?

 oOo

Buổi sáng hôm nay, tôi thật không ngờ vợ tôi lớn tiếng với tôi:

-Sao đầu óc anh “kỳ thị” dữ vậy?

Nói xong, vợ tôi lập tức quay mặt bỏ đi, tõ vẻ bực dọc lắm. Trong cuộc sống vợ chồng nhiều năm rồi, khi tôi và cô ấy bất đồng ý kiến, lần nào tôi cũng đều phải chịu thua, vì thượng đế đã cho phụ nữ quyền ưu tiên đó từ rất lâu rồi. Nhưng riêng lần này, tôi không nhượng bộ. Tôi hoàn toàn không có tư tưởng “kỳ thị”, kỳ thị sao được khi mình là dân đen trong khi họ đầy quyền lực? Cô ấy không hề biết rằng niềm vui của cô ấy lại là nỗi buồn sâu kín của tôi, khó giải bày.

Số là, hai vợ chồng đã từng đồng ý với nhau, sẽ dành thời gian còn lại ở Việt Nam để đi nghỉ mát Vũng Tàu hoặc Đà Lạt, bù lại những ngày làm việc vất vả ở bên Mỹ trong nhiều tháng qua. Vậy mà hôm nay vợ tôi lại đổi ý. Cô ấy yêu cầu tôi phải đặt vé “tua” vài ngày đi thăm “thủ đô” Hà Nội và mấy tỉnh miền Bắc, cô ấy còn nói, đi để nhìn thấy vẻ đẹp thủ đô, những thắng cảnh tuyệt vời của quê hương mình, và để nhìn thấy “sự tiến bộ vượt bực” của một Hà Nội “ngàn năm văn vật”.

Tôi có lý do riêng nên nhất quyết phản đối:

-Em muốn đi du lịch ở đâu cũng được. Trên khắp thế giới này, ở cùng trời cuối đất, núi cao, biển rộng, sông dài, nơi nào anh cũng vui vẻ theo sát bước chân em. Nhưng anh không đồng ý theo em đi du lịch Hà Nội.

-Tại sao?

Tôi lặng thinh, không thể nói lời giải thích. Tôi có nỗi ám ảnh kinh hoàng khi nghe nhắc đến hai từ Hà Nội. Nó giống như một loại hội chứng chiến tranh, thường bám theo người lính kể cả sau ngày giải ngũ.

Ngày xưa, lúc tôi độ tuổi hai mươi, khi vừa mới nhập ngũ, trong nhiều năm liền, trên báo chí và trên đài phát thanh, tôi đã nghe hai từ “Hà Nội” đại diện cho đội quân miền Bắc tràn xuống xâm lăng miền Nam. Hai từ này được lập đi lập lại ngày này qua ngày khác, đại loại như là: “Hà Nội đưa mười ngàn quân tấn công Ban Mê Thuột”, “Hà Nội chuyển hàng tấn bom đạn vào đường mòn ************”,  “Hà Nội đánh chiếm Phước Long”,  “Hà Nội đồng ý ngồi vào bàn hội nghị”, hay là “Hà Nội vi phạm hiệp định Ba Lê” v.v… Ai đã gây kinh hoàng cho cuộc sống yên bình của nhân dân miền Nam, khi tấn công tàn khốc vào các tỉnh phía Nam, hoặc khi pháo kích vào thủ đô Saigon? Câu trả lời chính là “Hà Nội”. Không ai nói đó là Võ Nguyên Giáp, hay là Phạm văn Đồng, chỉ nghe “Hà Nội” thôi, một “Hà Nội” khát máu và tàn nhẫn.

Trong đầu tôi, nỗi ám ảnh về Hà Nội phát sinh từ giai đoạn đó.

Sau ngày “Hà Nội” chiếm trọn đất nước, tôi không thấy có sự gần gũi, thân thiện nào của “Hà Nội” dành cho những người miền Nam, ít nhất là cho tới ngày tôi rời đất nước đi định cư. Lúc ấy, “Hà Nội” rất kỳ thị lớp người như chúng tôi (mà họ gọi là “nguỵ”), kể cả kỳ thị con cái của chúng tôi trong các trường học. “Hà Nội” kỳ thị đến nơi đến chốn, không nhường một bước, chỉ có một điều là “Hà Nội” đã không thể chận bước chân bọn chúng tôi, khi chúng tôi được đi định cư nước ngoài.

Ngày nay “Hà Nội” đã biết cách thay đổi, “Hà Nội” đã tổ chức xã hội như những nước “tư bản dãy chết”, để cho cán bộ đảng viên có nhiều cơ hội hối mại quyền thế, xây dựng cuộc sống giàu sang, sống nhỡn nhơ phè phỡn trên đầu bao lớp người dân lao động (đa số là con em của nhân dân miền Nam chính gốc) muôn đời đói khổ.

Và những băng hoại xã hội không thể nào kể xiết.

Cái văn hoá chuyên biệt của Hà Nội hiện nay đã làm nhiễm độc môi trường giáo dục, làm hư hỏng bao thế hệ trẻ, trong đó có con cháu chúng ta.

Vậy mà vợ tôi lại vẫn thích ca tụng một Hà Nội “ngàn năm văn vật”, cô ấy không hề nghe thấy tiếng thét gào của hồn thiêng sông núi.

 oOo

Đã hai ngày rồi vợ tôi không nói chuyện với tôi. Có lẽ cô ấy hiểu lầm tôi không tôn trọng quê hương Việt Nam, tôi ích kỷ, không chiều theo ý vợ con lấy vé đi du lịch Hà Nội. Cô ấy không cho tôi cơ hội giải thích, mà làm sao giải thích được, vì những điều suy nghĩ của tôi, khó có thể nói ra thành lời.

Việc bất đồng giữa vợ chồng đã làm mất cả ý nghĩa của chuyến về thăm Việt Nam lần này. Các dự tính đi Đà Lạt hoặc Vũng Tàu cũng vì đó mà phải huỷ bỏ. Những ngày vừa qua, chúng tôi không còn cùng nhau dạo bước ăn phở mỗi buổi sáng, không cùng nhau đón xe những buổi tối đi xem các chương trình ca nhạc. Những ngày dài chờ chuyến bay về Mỹ, vợ tôi thường đi siêu thị một mình, còn tôi chán nãn bỏ ra quán cà phê vỉa hè ngồi gậm nhấm cô đơn. Tuổi già, vợ chồng mỗi người mỗi hướng, có nỗi buồn nào hơn nỗi buồn này,

Đất nước tôi ngày nay đã thống nhất, đó là điều ai cũng mong muốn. Nhiều người đã nói, trên dãi đất hình chữ S này, nơi đâu cũng là quê hương, và trên truyền hình, người ta có trình diễn những bài hát về Hà Nội nghe thật dịu dàng, ấm áp, như là “Em ơi Hà Nội phố”, “Có phải em mùa thu Hà Nội” v.v…

Nếu quả Hà Nội đáng yêu như lời họ nói, thì bên cạnh dáng yêu kiều, quyến rũ của Hà Nội, hãy nhìn sang một phương diện khác, có ai thấy chăng, một Hà Nội lãnh đạm, khô khan, đầy tham vọng, sẵn sàng o ép người, sẵn sàng dùng bạo lực để đạt mục đích?

Tôi đã bị “hội chứng ám ảnh kinh hãi” về Hà Nội từ nhiều năm, nhất thời chưa thể phai mờ.

Tôi không hề xem nhẹ quê hương Việt Nam, và lúc nào cũng muốn cùng gia đình đi thăm khắp cùng đất nước, đi thăm nơi nào tôi cũng vui, nhưng tôi chỉ xin đừng thăm Hà Nội.

Không lẽ sự bất đồng hôm nay sẽ mãi mãi chia rẽ vợ chồng chúng tôi?

oOo

Chiều nay, tôi lững thững bước chân trở về để dùng cơm chiều như mọi ngày mà lòng nặng trĩu, vì tôi nghĩ, sắp phải đối diện với một bữa cơm lạt lẽo, vợ tôi mặt buồn rười rượi, còn tôi lơ đãng nhìn xa xăm, mong cho bữa cơm mau tàn.                                               

Nhưng hãy nhìn kìa. Vợ tôi ra vẻ rất hớn hở, vui tươi, tí ta tí tửng, vừa dọn bát chén vừa ca hát nho nhỏ. Tôi thật không hiểu chuyện gì đang xảy ra.

Tôi vừa ngồi vào bàn, vợ tôi liền chạy vòng qua sau lưng tôi, hai tay cô đặt lên hai vai tôi và nói:

-Còn lại ít thời gian, vợ chồng mình đi du lịch miền Tây nha anh. Mình mời cả gia đình chú Toản cùng đi, em sẽ có thời gian săn sóc bé Hiền, còn anh có cơ hội hát hò đàn ca tài tử. Không phải chồng của em ca sáu câu rất “mùi” hay sao?

Tôi hơi phân vân:

-Nhưng mà … bé Hiền …?

-Không sao đâu anh. Cháu Hiền đã đi chơi với em cả ngày nay. Nghe nói được đi chơi miền Tây cháu vui lắm. Cháu nó thích hủ tiếu khô Sa đéc, còn em thì quá mê bún nước lèo Sóc Trăng. Cháu Hiền đã hứa với em là cháu sẽ rất ngoan. Quê hương mình đẹp lắm anh ơi. Sáng mai, anh gọi điện thoại bao xe nha anh.

-Ừ, mai anh gọi sớm.

Lòng tôi vui như Tết. Nhìn thấy vợ chồng tôi vui, mẹ tôi cũng rất vui. Lần này gia đình Toản cũng vui, vì vợ chồng nó có hy vọng thay đổi được cháu Hiền. Cảm động khi nhìn thấy thái độ đối xử rất đẹp của vợ tôi, trong lòng tôi chợt dâng lên một niềm hạnh phúc. Tôi hạnh phúc, không những vì gia đình tôi đã có trọn niềm vui, hạnh phúc này thật là to lớn, nhưng ngoài ra, trong lòng tôi còn dấy lên một niềm hạnhúc khác, đó là lần này tôi không phải đặt vé đi du lịch Hà Nội nữa.                                   

TỪ SƠN

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23742
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2020 lúc 12:50pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 28/Sep/2020 lúc 10:25am

Chim Đã Bay 


Ðiểu hoàn nhân diệc chi
(Người vắng bóng rồi, chim đã bay)
Lý Bạch                                              

Năm 1985, tôi ra khỏi tù cải tạo. Trên xe lửa từ Bắc vô Nam, bạn đồng hành cũng là đồng tù với tôi là anh Thi. 
Có một nguyên tắc là trong tù không được hỏi nhau về gốc gác. Làm gì, ở đâu, cấp bậc...? Và chuyện gia đình nữạ Ngay cả khi biết rõ về một người nào đó, tuyệt đối cũng không cho người khác biết. Thế nên, trong tù, tuy cùng chung lán, chung đội lao động, nằm cạnh nhau, tôi cũng không biết gì nhiều về anh Thi. Khi lên xe lửa, tôi mới hỏi "Anh về đâu?" "Tôi về Sài Gòn" "Vợ con còn ở đó?" "Có lẽ vậy". Nghe "Có lẽ vậy", tôi thấy là có vấn đề nên ngưng ngay và tự giới thiệu "Tôi cũng về Sài Gòn, ngã ba Cây Quéo" "Tôi về Hoàng Hoa Thám" "Vậy là mình ở gần nhau". Trong tù anh Thi lúc nào cũng vui vẻ, nhưng khi ngồi trên xe lửa, anh thường nhìn qua cửa sổ vẻ đăm chiêụ Mỗi hoàn cảnh, người tù phải đối phó một cách riêng. Về đời, bao nhiêu khó khăn đang chờ đợi, khác hẳn trong tù, vì bất lực nên phải gạt hết mọi suy nghĩ để cười mà sống. Người tù, muốn sống sót, nhất là những người không được gia đình thăm nuôi như anh Thi, phải đạt đến cái tâm cảnh của một thiền sư. Phải giữ tinh thần cho vững, phải quên tất cả, không nghĩ đến những gì ngoài tầm tay của mình,  phải biết cười với người khác thì mới khỏi âu sầu, sinh bịnh, để rồi bị khiêng đi chôn.

Gần tối, xuống xe lửa, chúng tôi đi bộ về nhà. Ngang qua một tiệm phở, còn chút tiền, chúng tôi ghé vàọ Thấy anh Thi có vẻ tư lự, tôi tìm cách cho anh ta vui nên khi phở bưng ra, tôi xoa tay chào tô phở "Chà! Hơn mười năm mới gặp lại mầy". Anh Thi chỉ mỉm cười nhưng cũng sốt sắng cầm đũa Trong lúc trò chuyện với chủ hàng phở, chúng tôi mới biết hôm đó là ngày ba mươi tết. Khi ra đường, tôi đề nghị sẽ cùng đi đến nhà anh trước, để biết nhà, sau nầy dễ thăm nhau, sau đó tôi mới về nhà mình. Anh ngần ngừ một lúc rồi đồng ý. Ðến đường Hoàng Hoa Thám, chúng tôi vào một con hẻm tối mù. Nhờ ánh đèn các nhà hai bên, chúng tôi dò dẫm đi được một quãng ngắn thì anh Thi bảo "Anh đứng đây chờ tôị Trước đây chúng tôi ở nhờ bên gia đình vợ, hiện nay không hiểu tình trạng ra sao" "Vâng. Có gì anh ra cho tôi hay" Nói thế nhưng chờ anh ta đi được mấy bước, tôi cũng đi theo, không cho anh ta biết. Anh ta đến một căn nhà gạch nhỏ, còn để đèn, tần ngần một lúc rồi gõ cửa, nách vẫn kẹp cái bọc đồ tù. Một chị đàn bà bồng con đi ra,  theo sau là một thằng bé trên mười tuổị Tôi nghĩ, nếu đó là vợ anh Thi, thì chị ta đã có chồng khác rồi, vì đứa bé trên tay chị ta, độ vài tuổi, không thể là con anh Thi được. Chị đàn bà nói gì đó. Anh Thi không trả lời, quay gót bước rạ Tôi lùi lại chỗ cũ, làm như không thấy gì. Anh ta yên lặng qua mặt tôị Tôi quay nhìn, thấy chị đàn bà bồng con và thằng bé ra đường đứng nhìn theọ Ra đường lớn, anh Thi hỏi tôi "Anh có thể cho tôi trọ đỡ một đêm được không?" Tôi sốt sắng "Ðược chứ! Nhưng đây không phải nhà của tôị Trước ba mươi tháng tư năm 1975, tôi đưa vợ con từ ngoài Trung vào ở nhờ người bà con, sau đó vợ con tôi về lại ngoài Trung, sống với gia đình bên vợ. Tôi sẽ nói với chủ nhà, nếu họ không chịu thì tôi với anh ra ngủ lề đường, rồi sẽ tính sau". Chúng tôi, mỗi đứa ôm một gói đồ tù, quay lại ngã ba Cây Quéo. Khi tìm được nhà người bà con thì thấy nhà đóng cửa, tắt đèn tối thuị Gõ cửa, không ai mở. Họ đi vắng cả rồi

Hai đứa tôi trở ra, lang thang xuống chợ Bà Chiểu xem chợ tết. Bánh trái, áo quần đầy chợ, tràn ra cả lề đường, người chen lấn nhaụ Chúng tôi qua cầu Sắt, lên chợ Ða Kao, qua chợ Tân Ðịnh, ra đường Hai Bà Trưng rồi ngồi nghỉ mệt trên hiên nhà người tạ Chuyện trò một lúc, thấy đã khuya, chúng tôi lấy dép làm gối, rồi mặc cho muỗi đốt, chúng tôi vừa đói vừa mỏi chân, ngủ vùi một giấc. Hôm sau tỉnh dậy thì trời đã sáng. Ngày tết ở Sài Gòn, đường phố vắng hoe, chỉ mấy gia đình kinh tế mới ngủ lề đường gần đó đang cuốn chiếu, gấp mùng, bỏ vào bị cói, đem gửi đâu đấy rồi tản mác khắp nơi để kiếm sống. Hai đứa tôi ngồi vấn thuốc hút, chuyện trò một lúc thì đứng lên, đến chợ Tân Ðịnh, tìm vòi nước, súc miệng rửa mặt xong mua mỗi đứa một ổ bánh mì không nhân (rẻ tiền), vừa đi vừa trẹo trạo nhai. Thật ra, tôi và anh Thi cũng có vài người thân quen ở Sài Gòn, nhưng mồng một tết mà mang thân tàn ma dại đến nhà người ta, chẳng ai vui. Thời đó, ít ai dám rây với tù cải tạo. Ða số bà con, bạn bè, thấy tù là họ làm mặt lạ, chứa trong nhà thì sợ công an đến hỏi thăm. Suốt ba ngày tết, mỗi ngày chúng tôi chỉ ăn một ổ bánh mì không nhân, tối ngủ hiên nhà người ta, sáng dậy đi. Ði rã chân thì ngồi bên đường nghỉ một lúc rồi đi tiếp. Cứ lang thang mà chẳng biết đi đâu. Sài Gòn ngày tết vắng vẻ và buồn quá! Chiều mồng ba tết, chúng tôi quyết định trở lại nhà người bà con ở Cây Quéo. Hóa ra, gia đình đó vẫn ở chỗ cũ, những ngày cuối năm mọi người đều ra chợ bán dưa hấu. Họ đang cúng đưa ông bà. Chúng tôi được tiếp đón rất thân tình, vui vẻ. Họ đem thức ăn trên bàn thờ xuống, giục chúng tôi đi tắm. Anh con trai lớn biếu chúng tôi, mỗi người một bộ đồ, cũ nhưng sạch sẽ, mặc vào, soi gương, thấy như vừa lột xác, thành người văn minh, hoạt bát.

Trong lúc ăn uống, chủ nhà hỏi chuyện gia đình, hỏi dự định sinh sống ra sao. Khi nghe anh bạn tôi nói bị vợ bỏ, không cho vô nhà, chủ nhà bảo, nên thông cảm cho người đàn bà, chân yếu tay mềm, chồng bị tù không biết ngày nào về hay bỏ xác trong tù, trong khi con cái phải cần cái ăn mới sống. 

Lần đầu tiên, sau hơn mười năm, chúng tôi mới được thưởng thức một bữa cơm ngon lành nhờ không khí thân mật, ân cần của gia đình ân nhân đó. Có một tâm lý kỳ lạ mà phải mấy năm sau, người tù mới bớt bị ám ảnh, đó là thấy dọn nhiều món ăn, cứ thắc mắc sao không để dành cho ngày mai mà lại dọn cả lên, phí quá! Vì trong tù ngày nào cũng chỉ một ít khoai mì (hoạ hoằn mới có cơm), cùng với ca nước muối, lõng bõng vài cọng raụ (Sau nầy qua Mỹ, sống sung túc, trong bữa ăn chúng tôi cũng chỉ dọn vài món là tối đa). Sau bữa ăn, chủ nhà bảo, chúng tôi cứ ở lại đây, khi nào có việc làm, kiếm được tiền thì muốn ở đâu tùy ý. Chúng tôi xin được ngủ dưới đất hay sau hè cũng quí rồị Chủ nhà cho biết, nhà quá chật, nhưng có cái chuồng heo, nuôi heo nhưng bị bịnh dịch, đã bán hết cả, bây giờ chuồng bỏ trống, sẽ gác trên vách chuồng một cái sạp, làm chỗ ngủ tạm. Chủ nhà cũng quen với công an khu vực, hi vọng sẽ không bị làm khó dễ. 

Thế là chỉ vài tuần sau, chúng tôi đã có việc làm. Tôi bán vé số bên đường chỗ Bộ Xã Hội cũ, trước nhà thờ Ðức Bà. Anh Thi, vốn cao lớn, lúc ra tù ốm trơ xương, sau nhờ được ăn uống đầy đủ, trở nên mạnh khỏe, nên hành nghề đạp xích lô. Tất cả là nhờ mọi người trong gia đình đó tận tâm giúp đỡ. Sáng sớm, chúng tôi dậy, ra đầu ngõ uống li cà phê rồi lên đường kiếm sống, buổi chiều, chúng tôi về nhà ăn cơm. Mỗi tháng chúng tôi gửi chủ nhà ít tiền. Vợ tôi được tin chồng ra tù, bèn dẫn con vào thăm. Vợ tôi khuyên nên ở lại Sài Gòn, không khí dễ thở hơn (cô sẽ tìm cách vào với tôi sau), đừng về ngoài Trung, chính quyền địa phương rất khó khăn. Bạn tôi thỉnh thoảng có đến trường gặp thằng con, (là thằng bé mà tôi thấy hôm anh ta đến nhà vợ) cho ít tiền ăn quà và dặn đừng cho mẹ nó biết. Anh ta dự định sẽ đón con về ở chung, nhưng không cách nào thực hiện được vì chính bản thân anh ta còn chưa biết sẽ ra saỏ              

Ðến đầu năm 1990, có chương trình HO đi Mỹ. Với tôi thì lo hồ sơ không khó khăn lắm, nhưng anh Thi thì bị kẹt vì vợ anh ta không cho mượn hộ khẩu để làm giấy tờ. Anh ta đến năn nỉ vợ, hứa lập danh sách vợ, các con và cả bà mẹ vợ nữa để cùng đi, khi đến Mỹ anh ta sẽ làm giấy li dị để chị ta về lại Việt Nam làm hôn thú đón chồng sau qua Mỹ. Nhưng nói gì, chị ta cũng nhất quyết lắc đầu, mời anh ta ra khỏi nhà. Không cho mượn là không! Cuối cùng nhờ chạy chọt, hồ sơ anh ta cũng được chấp nhận, trong đó có tên thằng con.

Nhờ người bạn tù vượt biên qua trước bảo trợ, gia đình tôi và anh Thi được qua cùng tiểu bang, nhà gần nhau. Vừa đến Mỹ là anh Thi lăn lưng vào việc kiếm tiền. Anh ta làm hai jobs "Tôi phải có một căn nhà cho con tôi. Phải chuẩn bị tiền nong khi nó vào đại học. Lúc ở Việt Nam, nó đã bị đói khổ, bị đánh đập, nay nó phải được đền bù". Thời đó, khoảng thập niên 1990, nhà ở Mỹ còn rẻ. Bạn tôi mua nhà, sắm xe mới cho con, nhưng anh vẫn lùi xùi như lúc còn ở Việt Nam. Anh ta đi làm từ sáng sớm, gần khuya mới về. Thằng con anh ta, đi học về là đến thẳng nhà tôi ăn cơm. Vợ tôi còn bới thức ăn để nó mang về cho bố nó. 

Sau bao nhiêu năm tù đày, nay được đến xứ tự do cùng gia đình, chúng tôi dốc hết sức lực còn lại để kiếm tiền cho con cái theo đuổi việc học hành. Mục tiêu, ước vọng của chúng tôi là các con nên người, đủ sức đua chen với đời. Khi đứa con anh Thi tốt nghiệp đại học, có việc làm ổn định, theo đề nghị của chúng tôi, anh ta chỉ làm một job. Buổi sáng, tôi và anh ta ra tiệm cà phê ngồi chuyện trò, cuối tuần, chúng tôi nấu nướng, cùng với các bạn khác, ra sau nhà ăn uống, chuyện trò. 

                  Thấy anh Thi độc thân, chúng tôi dự định tìm cho anh ta một người đàn bà, làm bạn, để giúp đỡ, nương tựa nhau trong quãng đời còn lại.

Vợ tôi có một cô bạn, chủ một tiệm nail (làm móng tay), tuổi trên bốn mươi, chồng chết đã hơn năm năm nay, tính tình đàng hoàng, hiền lành, dung nhan còn đẹp đẽ, hấp dẫn. Với chủ ý cho anh Thi và cô bạn tìm hiểu nhau nên mỗi khi tổ chức ăn uống cuối tuần, chúng tôi mời cô ta đến chung vui, rồi làm như vô tình, sắp xếp cho hai người ngồi gần nhaụ Khi biết anh Thi còn cô đơn, cô ta không còn e ngại, giữ kẽ nữa mà vui vẻ góp chuyện với mọi ngườị Anh Thi, đã bớt trầm tư mà trở nên hoạt bát, lịch sự tiếp món ăn cho cô ta, đôi khi lại thì thầm như có chuyện riêng tư với người đẹp. 
 
Khoảng vài tháng sau, theo thường lệ, vợ tôi gọi điện thoại mời hai người đến dự bữa cơm gia đình thì cả hai đều trả lời rằng bận việc, không đến được. Hóa ra họ đưa nhau đi nhà hàng. Cô bạn tâm sự với vợ tôi. Em thấy vẻ mặt ảnh buồn buồn, em thương quá! Em mời ảnh đi ăn riêng để tìm hiểu tâm sự ảnh, nhưng ảnh chỉ cười bảo, tính ảnh vậy thôi chứ không có gì đáng nói " Vợ tôi trấn an ". Chị đừng bận tâm. Mấy ông "mất nước" lâu lâu xụ mặt, thở ra, nhưng sau đó lại vui vẻ như thường. Ông xã em cũng vậỵ Nhưng theo yêu cầu của chị, để em hỏi ông xã em, xem anh ta có chuyện gì ấp ủ trong lòng mà không nói ra. Chị có biết gì về cô vợ trước của ảnh không? Theo ảnh kể thì cô ta đối xử rất tệ bạc với ảnh khi ảnh đi tù về. Có thật vậy không? Chuyện nầy thì chắc chắn, vì ông xã em ra tù cùng một ngày, cùng đến nhà vợ anh ta, ông xã em thấy tận mắt chị ta đuổi ảnh, không cho vô nhà. Dù sao em cũng sẽ hỏi lại thằng con ảnh xem nội vụ ra sao rồi sẽ báo với chị sau" "Em thương ảnh thì em cũng chấp nhận hoàn cảnh, tâm sự của ảnh. Em chỉ muốn biết để an ủi ảnh, làm cho ảnh vuị Chị biết không, khi có em bên cạnh, ảnh rất vui, thương em và chiều chuộng em nhiều lắm. Vậy thì được rồi. Biết ảnh thương yêu chị là đủ rồi.  Người đàn ông nào cũng vậy, mình hết lòng, hết dạ với họ thì dù có tâm sự, chuyện riêng tư họ cũng bỏ hết mà về với mình, chỉ biết một mình mình thôị Chị yên tâm mà vui với ảnh. Cứ thắc mắc, lo lắng hoài chi cho mệt trí. Ðời người có bao lâu đâu. Vui lên đi chị ơi!.      
Cô bạn nhắc đến chuyện tư lự của anh Thi, chúng tôi mới nhớ lại, khi đến nhà chúng tôi ăn cơm, nhiều lúc, đang chuyện trò, anh ta bỗng nhiên ngưng nói, trông như người mất hồn. Ăn xong, anh ta mang lon bia ra sau nhà, đứng một mình cả giờ đồng hồ.

Tuy nói thế nhưng vợ tôi cũng gọi thằng con anh Thi đến để hỏi về mẹ nó ở Việt Nam hiện nay ra sao, có thường liên lạc với ba nó không? Thằng nhỏ kể "Mấy lần mẹ con bên Việt Nam gọi điện thoại cho con, nhờ con thưa với ba con, xin ba con tha thứ và bảo lãnh cho mẹ con qua đây để săn sóc cho ba con. Mẹ con nói hiện nay ở Việt Nam, mẹ con không có khó khăn gì về đời sống, chỉ sợ ba con đã lớn tuổi, khi đau ốm không ai săn sóc, lo cơm nước. Mẹ con có dặn là đừng gởi tiền về, mẹ con không nhận đâụ Mẹ con cứ nhắc con thưa với ba con nhiều lần mà con không dám. Một lần con chỉ thưa với ba con là mẹ con có gọi điện thoại hỏi thăm. Chỉ mới chừng đó thôi mà ba con nổi nóng, ba con la "Nói bà ấy đừng gọi điện thoại qua đây nữa".  Một buổi tối, mẹ con gọi điện thoại nhằm lúc ba con ở nhà, ba con bắt máỵ Không biết mẹ con nói gì mà ba con la hét vào máy như người nổi cơn điên "Xin xỏ gì? Lỗi phải gì? Bát nước đổ xuống đất rồi, có hốt lại được không? Bà đừng hòng năn nỉ, khóc lóc vô ích. Bà thử xét lại lương tâm bà đi. Từ nay tôi cấm bà không được gọi điện thoại cho thằng con tôi, không được gọi điện thoại về nhà nầỵ Bà nhớ chưả Tôi cấm bà. Tôi cấm bà!..." Ba con đập cái điện thoại bể tan rồi ngồi ôm đầu, gục xuống. Con sợ quá, vào phòng đóng cửa lạị Từ đó, thỉnh thoảng mẹ con chỉ gọi điện thoại cho con hỏi thăm chuyện ăn uống, sức khỏe ba con ra sao, nhưng dặn đừng nói lại với ba con, sợ ba con giận" "Con có nói với mẹ con về chuyện ba con có bạn gái chưả" "Hôm trước con có kể là ba con vừa quen được một bà, hai người thường đưa nhau đi ăn tiệm. Mẹ con hỏi tính tình người đàn bà đó ra saỏ Công việc làm ăn của bà ta thế nào. Có để ý săn sóc cho ba con không hay chỉ đưa nhau đi ăn rồi ai về nhà nấỷ. Mẹ con hỏi nhiều lắm, sau đó mẹ con nói cũng mừng cho ba con, mong cho hai người sống chung để ba con có người săn sóc, lo lắng miếng ăn giấc ngủ. Ba con đi tù về, tuổi cũng lớn rồi, sức khỏe suy yếu, cần có người đàn bà bên cạnh. Mẹ con vừa nói vừa khóc. Không hiểu sao con cũng khóc theo. Con rất nhớ mẹ con nhưng ba con cấm con về Việt Nam thăm mẹ con. Ba con giận mẹ con nhiều lắm" "Con có biết gì về người chồng sau nầy của mẹ con không?" "Lúc con ở chung với mẹ con, ổng chẳng tử tế gì với con. Bị bỏ đói và bị bợp tai, đá đít hoài, nhưng con biết thân phận, im lặng chịu đựng. Lần trước, mẹ con gọi điện thoại kể với con rằng hai người đã chia tay, ông ta đi đâu mất, không hề gặp lại.  Con chỉ nghe vậy thôi chứ không hỏi thêm".

Vợ tôi gọi đến cô bạn kể rằng, Anh Thi coi bộ thù chứ không chỉ giận cô vợ ở Việt Nam và đề nghị hai người nên về sống với nhau.  Cứ đi ăn tiệm rồi ai về nhà nấy mãi sao.  Cô bạn nói "Có mấy lần ảnh mời em về nhà, nhưng em cũng chỉ đến thăm một lát rồi về. Em có bàn với ảnh, nếu muốn sống chung thì nên cưới hỏi đàng hoàng. Em không muốn bị dị nghị nầy nọ. Ảnh nói cũng được, nhưng còn ngại, nếu cưới hỏi, làm hôn thú thì ảnh không muốn rắc rối chuyện của cải, tài sản của em. Ảnh sợ mang tiếng mà các con em cũng không bằng lòng" "Nếu vậy thì làm một buổi tiệc nho nhỏ ở nhà hàng, mời bà con, bạn bè đến dự, coi như ra mắt đểâ hợp thức hóa  chuyện hai người sống chung nhau" 

Tiệc cưới hôm đó có khoảng năm mươi người tham dự, gồm bạn bè và cả con cái của hai người. Thế là cô ta dọn về ở với anh Thi. Những ngày đầu, hai người có vẻ hạnh phúc lắm. Cô ta thường gọi điện thoại kể chuyện sinh hoạt trong gia đình, việc  nấu nướng, săn sóc, chiều chuộng nhaụ Hai người còn đưa nhau đi du lịch bên Châu Âu nữạ Thấy họ vui vẻ, thân ái, quấn quít nhau như vợ chồng trẻ, chúng tôi cũng mừng. 

Nhưng rồi, khoảng một năm sau, cô ta gọi điện thoại tâm sự với vợ tôi "Lối rày hình như ảnh trở lại vẻ suy tư, lơ đãng. Em nói chuyện với ảnh cả buổi, ảnh ậm ừ mà chẳng biết em nói gì? Buổi tối, ăn cơm xong, ảnh đem bia ra sau nhà, ngồi uống một mình, đến khuya mới vô. Em chẳng hiểu ra sao cả!?" Vợ tôi tưởng chuyện chẳng có gì quan trọng nên an ủi "Ông xã em cũng thường uống rượu một mình. Ðàn ông đôi khi thích suy nghĩ những chuyện trên trời dưới đất. Em cũng thường để cho ổng những phút riêng tư, coi như tôn trọng họ vậy thôi chứ không sao đâụ Chị đừng để ý đến!"

Không ngờ, một buổi chiều, đi làm về, tôi thấy cô vợ của anh Thi ngồi tỉ tê, mếu máo với vợ tôị Hỏi ra mới biết là vì anh chồng uống rượu mà cô ta giận, xách va li về nhà mình. Khi đi ngang nhà tôi, cô ta ghé vào tâm sự. "Vợ chồng, tuy chưa sống với nhau đủ để có cái nghĩa thì cũng có cái tình. Em thương ảnh, ảnh biết nên cũng tỏ vẻ chiều chuộng, săn sóc, lo lắng cho em, nhưng em linh cảm như ảnh làm bổn phận. Em thấy như xa cách, như không thật tình. Em với ảnh đâu còn trẻ dại, sống với nhau là để sau nầy nương tựa nhau, giúp đỡ nhau trong lúc tuổi già, ốm đau, bịnh hoạn, vui buồn có nhau thì những gì riêng tư thầm kín cũng nên cho nhau biết để an ủi, chia sớt nhau mới nhẹ lòng. Vậy mà em hỏị Sao ảnh buồn? Ảnh lắc đầụ Em giận quá mới nói "Em về nhà, cho anh được yên tĩnh mà suy tư". Vậy là em xách va li về đâỵ Có lẽ hồn vía ảnh bị cô, bà nào bắt mất rồi chị ơi!".  Vợ tôi vọt miệng "Dám ảnh bị hồn ma bóng quế nào ám rồị Phải mời thầy đến cúng, cho bùa trừ mẳ" Tôi la vợ tôi "Em hay tin nhảm nhí!" Rồi tôi trấn an cô vợ bạn "Vợ chồng trẻ nhìn tương lai toàn màu hồng, thấy cuộc sống dễ dàng quá, nhưng đến tuổi gần về chiều thì mất tự tin, bị ám ảnh bởi tuổi già với những bất trắc, bịnh hoạn, tử biệt sanh ly nên thường lo sợ, buồn phiền vu vơ. Tôi với ông xã chị bị tù cả chục năm, tâm trí không còn bình thường nữa, khi về với xã hội vẫn còn vụng về trong cư xử. Hơn nữa ảnh đã trải qua quá nhiều đau khổ vì chuyện gia đình, nay có chị bên cạnh là một an ủi lớn cho ảnh. Chị yên tâm. Ngoài chị ra, ảnh không thương yêu ai đâụ Nên trở về mà lo cơm nước, kẻo ảnh bị đói tội nghiệp". Cô có vẻ xiêu lòng nhưng vẫn lắc đầu. Tôi bảo "Hay là chị cứ ngồi đâỵ Tôi đến kêu ảnh qua rước chị".

Tôi ra xe, vợ tôi chạy theo, thì thầm "Tối nào cũng say mềm rồi lăn ra ngủ! Hỏi ảnh có phải vì chuyện đó thì tìm cho ảnh ít thuốc" Tôi phì cười "Cũng có thể. Ðể anh xem".

Tôi lái xe qua, đẩy cửa bước vàọ Anh Thi đang ngồi uống bia, nhìn cái TV., chỉ  chiếu hình chứ không có tiếng nói. Cũng không chắc anh ta nhìn cái màn hình hay nhìn vách tường sau TV. Tôi ngồi xuống bên cạnh. Anh ta mở cho tôi một lon bia. Tôi yên lặng cầm lon bi. Một lát, tôi nói "Bà xã anh qua nhà tôị..". Anh ta vẫn nhìn cái TV. "Tôi biết. Trước sau gì bả cũng bỏ tôi. Tôi muốn xin lỗi bả từ lâu" "Tôi thấy hai người đâu có gì trở ngạị.." Anh ta lắc đầu như muốn xua đuổi một ý nghĩ, muốn ngăn mình đừng nói ra một điều gì. Tôi nói "Qua nhà tôi đón bả về", rồi yên lặng chờ đợi.

Anh Thi cầm lon bia lên nhưng lại để xuống, bàn tay rung lên nhè nhẹ. Rồi bỗng anh ta ôm mặt, cúi xuống. 
Một lúc thật lâu, anh ta thở ra, giọng lạc hẳn "Tôi thương nhớ vợ tôi. Tôi không thể nào nguôi thương nhớ vợ tôi". 

Phạm Thành Châu
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 30/Sep/2020 lúc 7:33am

Bánh Đúc Có Xương


Nghe tin Tư khăn gói dọn ra khỏi nhà chồng làm ai cũng ngạc nhiên. Ô hay mới cưới nhau chưa đầy tháng đã cơm không lành canh không ngọt? Mà đâu phải vợ chồng son trẻ thiếu chính chắn gì cho cam? Cả hai đều đã một lần dang dỡ. Nàng đã từng có chồng, nhưng duyên không nợ nên rồi lại đường ai nấy đi. Chàng thì ...goá vợ, gà trống nuôi 2 đứa con thầm thoát cũng mấy năm rồi. Duyên lành đun rủi cho hai tâm hồn cô đơn gặp nhau. Vậy mà...

 Hỏi lý do nào Tư phải bỏ đi?

 Nàng trả lời:

 -Bả ở trong nhà vậy ai chịu nỗi.

 - Bà nào ở? Tôi thắc mắc

 - Vợ cũ ổng chứ ai

 - Không phải vợ ổng mất lâu rồi sao?

 - Mất thì mất, ai cấm bả...không ở trong nhà?

 - Không hiểu

 - Là bả…không chịu đi, mà cứ ở trong nhà chứ sao nữa.

 - Giỡn hả em? Thời buổi này còn nói chuyện ma quỷ ?

 - Thiệt đó anh.

 Và theo lời Tư kể:

Mới về nhà ổng có mấy ngày là em thấy âm khí trong nhà nặng nề, biết ngay đang có người âm trú ẩn, quả nhiên là bà ấy.

Wait, Chuyện ma quỷ có thiệt hay không anh không chắc, nhưng nếu có thiệt như em nói thì em làm sao biết có âm khí trong nhà và chắc là linh hồn của bà ấy còn đó?

 Tư cười:

- Nói anh nghe cũng không sao. Ông nội em là thấy pháp chuyên trừ tà đuổi quỷ ở Tây Ninh. Tía em cũng có chân truyền từ ông nội cho nên em cũng được học hỏi từ nhỏ tuy chưa học hết để đủ sức bắt ma trừ tà như ông nội, hay tía em, nhưng có thể thấy ma, và nhất là không sợ ma .

 - À… Vậy sao giờ sợ?

 -…Đâu sợ, mà bực thôi. Anh nghĩ mình ở trong nhà, tự nhiên lâu lâu thấy bả đứng gần đó xua tay như muốn đuổi mình ra khỏi nhà. Em không sợ vì đã từng thấy nhiều ma trước rôi, và biết nó chẳng làm gì được mình, nhưng mà khó chịu lắm anh. Nhất là buổi tối hai vợ chồng riêng tư với nhau, bỗng thấy bà đứng đó có khổ không chứ?

 - A, vậy là bả ấy ghen. Nhưng theo anh biết người mất rồi phải siêu thoát đi nơi khác về thiên đàng hay địa ngục gì đó tùy mỗi người, tại sao bà này còn ở trong nhà?

 - Cũng có những trường hợp họ bị vương vấn nặng nợ trần chưa đành lòng đi, bởi vậy mới có ma chứ anh. Trường hợp bà vợ cũ của ảnh không đi chắc vì thương con quá ra đi không nỡ nên trốn ở lại.

- Vậy muốn cho bà ấy ra đi thì phải làm sao?

- Phải mời một cao tăng đắc đạo tới nhà tụng kinh khai nhỡn cho bà ấy thấy được lẽ luân hồi mà siêu thoát. Nhưng ông chồng em đời nào tin mấy chuyện này mà tính mời tăng!

- Em có cho anh ấy biết chuyện này?

Có, nhưng ảnh nhứt định không tin, còn sạt em nhảm nhítức không?

- Khó nhỉ! Ông ấy không tin cũng không thể trách. Hay là nói ông nội hay ba em …mời bả ra khỏi nhà?

 Tư trầm ngâm nói:

- Nếu kêu tía em đang ở VN qua thì ông có thể đem bà ấy ra khỏi nhà, nhưng sao mà nỡ làm vậy anh ơi. Bà ấy vì quá thương chồng thương con, chưa muốn chết mà phải chết. Nghe kể là bà bị tai nạn xe cộ chết bất ngờ quá nên không cam tâm siêu thoát mới ra cớ sự. Tía em có thể trục bà ấy ra khỏi nhà và dán bùa không cho bà trở vô, nhưng không thể dẫn dắt cho vong linh bà. Bà sẽ trở thành một con ma hoang không nơi nương tựa, dễ sa vào kiếp ngạ quỷ tội nghiệp lắm. Phải có cao tăng dẫn dắt bà đến nơi siêu thoát mới là biện pháp hay nhứt.

 - Nhưng chồng em đã không tin mấy chuyện này mà !

 - Bởi vậy mới khổ. Chắc là duyên phần của em vậy để mình em chịu chứ em không nỡ làm đâu anh. Dù sao cũng là nhà cửa, gia đình của bả. Bà ấy chưa dứt được tơ tình muốn ở lại với chồng con thì phải chịu. Khi nào có cơ duyên được dẫn dắt, bà sẽ tự siêu thoát ra khỏi nhà.

 Và Tư đã quyết định ra đi, trả lại chồng và con cho con ma ấy.

 ***

 Đâu chưa đên hai tháng, Tư tới báo cho biết đã…dọn về lại.

 Câu chuyện “dọn về” của Tư còn li kỳ hơn.

 Nàng kể:

“… Hôm đó em đang ngủ ở nhà, chợt như có ngưòi kéo chân thức dây. Hoảng hồn luôn: anh biết ai hôn? Bả chớ ai! Em bực quá la lên: “Này chị, tui đã trả ảnh lại cho chị rồi. Chị còn tới đây kiếm tui chi nữa”. Bỗng nhiên em nghe như trong tâm thức tiếng chị ấy nói nhờ em tới nhà cứu đứa con gái út tên Alyssa đang bệnh sốt nặng trong phòng một mình, nguy hiểm quá.

 Nghe đến chữ Alyssa là em tỉnh ngủ liền. Nó là đứa con gái sau của hai người mới 7 tuổi thôi. Lúc còn ở nhà, em thương con bé lắm, mà nó cũng thương em. “Anh Tân đâu?” Em hỏi. “Anh Tân đi out of town ngày mốt mới về. Nhà chỉ có 2 anh em” “Sao chị không thức thằng Brian dậy. Nó lớn rồi biết lấy thuốc cho em nó” “Không được em ơi. Chị là mẹ nó thiệt nhưng không thể liên lạc với nó. Chị chỉ liên lạc được với em thôi. Em làm ơn tới cho con Alyssa uống thuốc giùm chị chứ để lâu bị coma nguy hiểm lắm.”

 Tuy vẫn còn ấm ức, nhưng nghe nói con bé Alyssa bệnh là em quên hết giận hờn. “Nhưng mà kẹt rồi chị. Tui đâu có chìa khóa vô nhà? Tui trả hết chìa khóa cho anh Tân rồi ”

 “Đừng lo. Em cứ tới nhà chị chỉ cho cách”

 Vậy là giữa đêm khuya khoắt 1, 2 giờ sáng em tức tốc lái xe đi. Đến nơi bả chỉ dưới 1 viên gạch trong vườn có để cái chìa khóa sơ cua từ hồi bả còn sống để phòng trường hợp đi đâu bị quên hay mất chìa khóa vô nhà. May mà chìa khóa bao bọc cẩn thận nên không bị rỉ sét gì cả,

Em mở cửa bước ngay vào phòng con Alyssa. Quả nhiên con bé không biết trúng gió hay gì mà lên cơn sốt, người nóng như lửa đang nằm rên hừ hừ. May em biết chỗ để thuốc men trong nhà nên lấy ngay cho con bé uống và lấy khăn ướt lau người nó để giảm nhiệt. Được chốc sau con bé đã hạ nhiệt và tỉnh dần nó thấy em đang ôm nó nên mếu máo "Mẹ ơi mẹ đừng đi nữa, ở lại đây với con nha!" Không biết nó đang nói mẹ là em, hay là nó đang nhớ đến mẹ ruột nó. Em mủi lòng đến chảy nuớc mắt, còn bà ta thì đứng ở góc phòng khóc ngon lành. Dĩ nhiên là chỉ có em biết còn con bé và thằng Brian (lúc này thì thằng anh nghe tiếng động nên đã tỉnh chạy sang phòng con em) hoàn toàn không biết mẹ ruột của chúng nó lúc đó cũng đang ở trong phòng.

 Đợi sáng em để sẵn thuốc dặn thằng anh cho em uống, gọi điện thoại cho ổng biết con gái bệnh phải về chăm sóc con. Em chỉ làm được tới đây thôi.

 

-Ổng có hỏi tại sao em biết con bé bệnh mà tới nhà giữa đêm khuya như vậy? Tôi hỏi:

 - Có, và em có sao nói vậy. Ảnh tin hay không tin mặc kệ. Em không care.

 -Vậy ổng có tin?

 - Ban đầu thì không, nhưng sau đó cũng phải tin. Ảnh xin lỗi và năn nỉ em trở lại với ảnh.

 - Và em đã chịu ?

 - Dạ. Tư trả lời

- Vậy còn …bả?

- Chị ấy đi rồi anh.

- Đi đâu? Sao em biết?

- Sau vụ con Alyssa, chị lại hiện về lần nữa nói chuyện với em. Chị ấy xin lỗi bấy lâu nay u mê không biết nên đã phá em. Nhất là chỉ sợ mấy đứa con bị cảnh mẹ ghẻ con chồng. Nhưng bây giờ thì chị hiểu là em cũng thương con chỉ như con em. Đêm hôm khuya khoắt nghe con bé bệnh là bỏ tất cả chạy tới ngay. Con bé Alyssa tinh thần lẫn thể chất yếu đuối, nó cần một người mẹ bên cạnh thực sự thương yêu và chăm sóc cho nó. Chị ấy có thương con tới đâu cũng không thể làm gì được. Bây giờ thì chị đã yên tâm siêu thoát về thế giới của chị, không nuối tiếc gì nữa vì biết rằng gia đình, con cái chị từ đây đã có em thay thế chăm sóc. 

***

Đã mười mấy năm trôi qua, gia đình Tư sống hạnh phúc. Hai người không có thêm đứa con nào, nhưng hai đứa con chồng thương Tư như mẹ ruột của chúng.

Có lần tôi tò mò hỏi sau lần đó, bà vợ cũ có bao giờ hiện hồn về thăm chồng con và thăm Tư không? Cô mỉm cười nói " Bí mật. Thiên cơ bất khả lậu".

 Và tôi nghĩ đến câu ông bà hay nói:"Mấy đời bánh đúc có xương- Mấy đời mẹ ghẻ mà thương con chồng". 

Well, cũng có khi bánh đúc có xương...

 ThaiNC

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 02/Oct/2020 lúc 7:19am

Người Bạn Lạ Đời 

Hình minh họa

Tôi với nó bản tính khác nhau một trời một vực, như đen với trắng. Thế mà định mệnh lại xui khiến tôi phải là bạn thân với nó suốt hơn mười năm trời, kể từ những năm đầu tiểu học, cho đến ngày ghi danh vào đại học. Bản tính khác nhau, chơi nhau là khó. Đàng nầy tôi và nó lại là đôi bạn thân suốt một thời gian dài, nghĩ cũng lạ.
Tôi thì chăm chỉ, cần mẫn; nó thì lưòi biếng, cẩu thả. Tôi thì keo kiệt, nhút nhát; nó thì rộng rãi, gan dạ. Tôi thì ưa câu mâu những chuyện nhỏ nhặt, còn nó thì không để ý những điều tiểu tiết. Nói chung, hai đứa không có cái gì hạp nhau, mà lại rất thân nhau, “biết” nhau, rõ thật lạ đời!
Tôi chưa thấy nó học bài ở nhà bao giờ. Khi thầy kêu trả bài, thì nó… mới bắt đầu học! Nhìn vẻ mặt khẩn trương của nó lúc nầy thật tội nghiệp. Nếu nó xui xẻo mà bị thầy kêu lên lần đầu tiên, thì “ăn trứng vịt” là cái chắc; nhưng nếu thầy kêu nó sau vài ba bạn thì nó đọc cũng khá xuôi tai! Dù thế nào, vẻ mặt thầy cũng tạm hài lòng với đứa học trò “siêng năng” nầy, bởi những con muỗi mà nó đập và kẹp vào tập mỗi tối, đã đủ chứng minh rằng nó đã có học bài!
Học hành cà tàng như vậy mà không kì thi nào nó bị rớt, kể cả Tú tài toàn phần nó cũng “bảng hổ danh đề”!
Hồi xem kết quả Tú tài 2, thằng nào thằng nấy mặt mày vẫn còn xanh lè, vì những tháng thức khuya gạo bài trối chết; còn nó vẫn hồng hào mà còn có vẻ lên cân! Nó đến trước tự lúc nào. Nhìn cái bản mặt đầy thoả mãn, và cái giọng láu cá của nó mà phát tức:
- Hà, hà! Chúc mừng tụi bây đậu hạng cao, và chúc mừng tao đậu… hạng chót! Hì, hì!...
Hồi đó “hạng cao” là Ưu và Bình, dành cho những thí sinh xuất sắc ở mọi môn; kế đó là Bình Thứ rồi cuối cùng là Thứ. Sức học chúng tôi thuộc hạng xoàng, nếu đậu được Bình Thứ là cũng là chó ngáp phải ruồi, chứ nói chi “đậu cao” như nó mỉa mai. Nhưng đậu hạng nào cũng vui, “đậu hạng chót còn hơn rớt hạng nhất” mà, nhất là cả bọn đều đậu, lại càng vui hơn.

Nó mời chúng tôi đi tẩm bổ, gọi là để ăn mừng (hồi đó không ai dùng từ “bồi dưỡng”). Gãi đúng chỗ ngứa, chúng tôi khoái ra mặt. Một là được ăn miễn phí, hai là ăn … cho bỏ ghét cái tật xỏ ngọt hồi nãy của nó: “ Tụi bây đậu hạng cao, tao đậu hạng chót”.
Đậu thì ai cũng mừng, cũng như ăn chùa thì ai cũng khoái. Nhưng mấy thằng kia cũng hơi e dè. Biết ý, nó trấn an:
- Tụi bây khỏi lo. Tao cho tụi bây thả cửa một bữa. Nay má tao cho tiền ăn mừng.
Nói “thả cửa”, nhưng thực ra không có gì lớn: Mỗi đứa một tô hủ tiếu và một chai nước ngọt cũng đủ no. Tôi háo ăn nên “thiếm xực” thêm cái bánh bao thì cành hông, đi muốn không nổi! Hồi đó các cậu Tú chúng tôi không ai uống rượu, hút thuốc, xem đó là sự sa đoạ, nên một chầu ăn bốn người cũng chẳng tốn bao nhiêu tiền. Chả bằng các cậu lớp 8, lớp 9 ngày nay, rượu đế thì “chơi” trăm phần trăm, cụng ly côm cốp; thuốc thì phà như khói tàu, nói chuyện thì luôn “xổ nho”. Thật là “hậu sanh khả uý”!

Chúng tôi bàn nhau về dự định tương lai. Thường thì cũng theo các đàn anh đi trước, là cứ thi đạivào y, vào dược, dù biết khó chen chân. Bởi chúng tôi tài sơ, lại thiếu “đức”... Trần Hưng Đạo!(*) Nhưng cũng thi để cầu may, ông bà ta cũng đã chẳng bảo “học tài thi phận” đó sao?
Chúng tôi ai cũng mơ được thành bác sĩ, vì nếu là bác sĩ thì kể như nắm được thần chú mở cửa kho tàng; và nếu cộng thêm một ít vô nhân, bôi đen lương tâm chút xíu nữa thì nhà lầu xe hơi có trong chớp mắt. Lại tha hồ nạt nộ bệnh nhân, những người mà hàng ngày vừa khúm núm, năn nỉ ỉ ôi, vừa dâng tiền cho mình. Bác sĩ thời ấy có người gọi là “Quan Thầy”, tức Ông Quan Thầy Thuốc; Kiểu như các Quan Ngự Y thời xưa vậy mà. Nhưng Quan Thầy thì oai phong hơn Quan Ngự Y trong phim nhiều, và cái mặt kênh kênh cũng đáng ghét hơn!

Nhớ một lần tôi sưng khớp gối, tới bác sĩ. Vừa vào phòng, ông ta nhìn tôi với cặp mắt như là cặp mắt của ... ác mẫu Tào Thị nhìn Tấn Lực:
- Cái gì đây? (Ý Quan Thầy hỏi: “Mầy bệnh gì?”)
- Dạ! Cái đầu gối nó trật khớp sao mà đau quá!
Quan Thầy quát:
- Vô đây đừng có nói xàm! Đã biết trật khớp sao không ở nhà trị. Vô đây làm chi?
Từ đó tôi càng khoái cái nghề bác sĩ hơn, bởi vừa có tiền, vừa nạt nộ con bệnh thoải mái.
Lại một lần nằm viện. Vừa đến giường tôi, Bác sĩ lệnh:
- Quay mặt bên kia nói chuyện!
Và sau khi ấn ấn vào bụng tôi mấy cái, thì cô y tá đi theo vội xịt alcool vào chiếc khăn trắng cho bác sĩ lau tay tiệt trùng. Vừa xấu hổ, vừa tủi thân. Tức cảnh sinh tình, tôi liền nghĩ ra “Chuyện cười một trăm chữ”, để khi nào chúng bạn đến thăm kể cho chúng nghe chơi. Chuyện đại khái như sau:
- Cái gì dơ nhất?
Tụi nó lao nhao: “Thiếu gì!”. Tôi lại hỏi:
- Vậy chứ cái gì sạch nhất?
Nó trả lời:
- Cũng hàng trăm thứ. Hay là mầy đố mẹo? Vậy thì là lau! Người ta không nói “sạch như lau”” là gì? Hi hi!
Tôi phục trí thông minh của nó; và cho luôn lời giải đáp:
- Bậy! Tiền!
- Mầy mới khùng! Tiền là chúa dơ. Nó qua tay không biết bao nhiêu người cùi....Nó dơ hơn tất cả mọi thứ.
- Hứ, bác sĩ luôn rửa tay sau khi khám bịnh, sau khi vệ sinh, nhưng sau khi cầm tiền, có ai thấy bác sĩ rửa tay bao giờ đâu? Như thế không phải là tiền sạch nhất hay sao?
Đến nay hơn bốn mươi năm mà “tuyệt tác” nầy tôi vẫn lấy làm tâm đắc lắm.
Có câu “Lực bất tòng tâm”; lại có câu “Ghét của nào trời tao của đó”. Tôi thích làm bác sĩ, trời chẳng cho; nhưng ghét cái nghề viết, thì trời lại bắt phải dính vào!

Ngày ghi danh vào đại học (đại học văn khoa và đại học luật khoa thời ấy khỏi thi tuyển), ai cũng tranh thủ để được ghi tên trước. Riêng nó thì đứng im lìm một góc, dáng suy tư. Chừng chúng tôi làm thủ tục xong, nó vẫn im lìm như gỗ! Hỏi vài lần nó mới nói:
- Tụi bây cố học thành tài. Tao không học đâu. Từ nay, có lẽ chúng mình khó gặp.
Cả bọn ngơ ngác vì quyết định bất ngờ của nó. Tụi tôi bảo:
- Mầy có bịnh (tâm thần ) không vậy? Không học là đi lính đó.
Nó nhìn chúng tôi với đôi mắt cương quyết:
- Tụi mầy yên tâm, không có lính nào bắt tao được đâu!
Trong bọn, tôi thân thiện với nó nhất, và cũng “biết” nó nhất (tri kỉ mà!). Nó là thằng “duy ý chí”, đã quyết định thì khó đổi thay. Biết can ngăn cũng vô ích, nên tôi đành nhìn nó băng qua đường. Nhìn nó đi đến khuất bóng mà dạ ngùi ngùi!

Tôi như mất một thứ gì quí giá lớn lao. Ngày sau tôi đến nhà tìm nó, hi vọng mong manh là nó đổi ý. Nhưng nó đã đi thật rồi!
Sau một đêm biển xanh còn biến thành ruộng dâu; thì với hơn bốn mươi năm, bọn chúng tôi không khỏi trải qua nhiều cuộc tang thương! Không đứa nào còn ở chỗ cũ. Có khi nhớ cũng muốn tìm, nhưng biển đời mênh mông, biết đâu tăm cá?

Một lần lễ chùa, tôi tình cờ gặp lại nó. Nó là ... trụ trì tại một chùa X..! Dù thân nó tròn trịa, mặt no đầy, da dẻ hồng hào khác hẳn thuở xưa. Dù nó đang “đầu tròn áo vuông”, dù có dáng oai nghi của một nhà tu, tôi cũng nhận ra ngay. Tôi vừa bàng hoàng, vừa mừng. Mừng vì được gặp lại người bạn thân; bàng hoàng vì không biết ma đưa lối quỉ dẫn đường thế nào mà kéo nó đến cửa thiền!
Đợi lúc vắng khách thập phương, tôi nhẹ nhàng đến bên nó, chấp tay có vẻ cung kính, nhưng lời nói lại có phần đùa nhiều hơn:
- Bạch thầy! Thầy còn nhớ... con không?
Nó sựng một giây, rồi vỗ mạnh vào vai tôi, lớn tiếng mừng rỡ. Như quên mình là nhà sư:
- Thằng quỉ, sao mầy lại ở đây?
Câu nầy đáng lý tôi hỏi nó mới đúng hơn. Tôi vẫn chấp tay, cười cười:
- Dạ!...con là Phật tử...
Nó nắm tay tôi kéo đi, dẫn tôi qua một dãy phòng. Đến môt phòng riêng biệt, trên có hàng chữ “Phòng Trụ Trì”, nó đẩy tôi vào. Đó là một phòng tương đối rộng, ngăn nắp sạch sẽ; bày biện đơn sơ, khác với bản tính cẩu thả và ... “ở dơ” (!) của nó. Đảo mắt một vòng, tôi hỏi nó:
- Theo tôi biết, chỗ ngủ của trụ trì như hàng đại gia. Sao chỗ của thầy đơn giản quá vậy?
Nó không đáp , mà hỏi lại:
- Tụi bây thế nào rồi? Thầy bà gì! Tao thèm “mầy, tao” lắm!
Tôi cười hì hì, cũng không trả lời, mà lại hỏi:
- Nếu thầy cho phép... Vậy chứ sao mầy là trụ trì ngang xương vậy?
Nó tự hào:
- Sao lại ngang xương? Đó là sự suy nghĩ đầy trí tuệ của tao: Từ lúc tụi bây ghi danh vào đại học, tao nghĩ, dù tụi mình có học hết đại học đi nữa, thì khi ra trường làm được cái gì với cái bằng cử nhân văn chương hay cử nhân luật? Là luật sư, nếu tụi mình có chút lương tri thì chẳng nói chi; bằng không thì sẽ vì tiền mà dùng miệng lưỡi cú diều thay đen đổi trắng, làm nghiêng cán cân công lý, thì tạo ác biết bao nhiêu? Nếu an phận thủ thường làm nghề “bán cháo phổi” (dạy học), thì thường ngày phải hít bao bụi phấn, đến già không chừng cũng sẽ vô Viện Bài Lao! Đó là chưa nói không may thi rớt, bị sa vào lính, lại phải làm bia cho họng súng AK? Sống là một trường tranh đấu. Mạnh được yếu thua. “Khôn thì ăn trước ngồi trên. dại thì ra đứng hai bên cột đình”.
Tôi nóng mặt:
- Vì vậy mầy mới chọn nghề thầy chùa?
- Đúng vậy! Thì đã sao chứ? Làm nghề thầy chùa thì dù có chiến tranh khốc liệt thế nào, tao cũng khỏi phải đi lính, nên luôn mang chữ thọ trước ngực! Cái ăn cái mặc khỏi chạy đổ mồ hôi. Tiền thì có người quỳ dâng tận tay, Cơm thì có người hầu hàng buổi. Chỗ ở thì đồ sộ nguy nga. Trăm kẻ kêu bằng thầy, vạn người xưng là con. Ở ngoài đời, dù cho kẻ có đại quyền, cũng chưa hẳn được tôn trọng như vậy. Có gì không tốt chứ?
- Chùa mầy giàu như vầy, sao chỗ ngủ cùa mầy bèo quá vậy?
Nó cười:
- Mầy cứ mãi giữ cái đầu non nớt của mầy, thì làm sao thấu lý chuyện đời? Tao xây biệt thự cho mẹ tao hàng tỉ còn được, thì huống chi cái chỗ nằm cỏn con nầy? Thường thì con người ta có tiền thì hay phô trương, không ngoại trừ những kẻ “tu hành”. Vật dụng thì xài những thứ đắt tiền, đi xe máy đời mới, thậm chí sắm cả xe con. Đó là những thằng ngu! Bá tánh có hàng vạn người, nhưng có cả hàng triệu đôi mắt. Đừng bảo họ mệ muội mà lầm! Họ cúng dường Tam Bảo là để trùng tu chùa chiền, hương hoa cho Phật, chứ nào để cho trụ trì lấy đó mà xài sang, xa hoa phung phí? Ai đời trụ trì mà kéo cả vợ con vào chùa, thật là chướng mắt! Ai đời sau giờ công phu thì vứt áo cà sa đi nhậu với loại đàn bà goá điếm đàng. Thầy chùa gì mà vừa dứt tiếng mõ thì vội trốn về nhà hú hí với vợ con. Ai đời lại chiều chiều lại mặc quần sọt đi đánh tenis như hạng thượng lưu...
- Vậy mầy sống thanh đạm thế nầy là để che mắt thế gian?
Như không để ý đến câu hỏi của tôi, nó tiếp:
- Trong đám sâu độc có thể làm hỏng hoa sen Phật giáo, thì cũng không thiếu những bậc đại sư hết lòng vì đạo, xả thân vì Pháp, nếu không thì làm gì Phật giáo tồn tại đến ngày nay? Tao không phải là chân tu, nhưng cũng biết dừng lại đúng lúc. Trước là tao che mắt thế gian thực đó, nhưng giờ thì chưa hẳn. Trong mấy mươi năm niệm trì kinh chú, tao cũng đã ít nhiều thấm nhuần giáo lý của Đấng Chí Tôn. Lấy tiền bạc của đàn na tín thí cúng dường mà làm của riêng mình , thì kiếp sau cũng phải mang lông đội sừng để trả nợ mà thôi! Mầy khỏi lo.
Tôi ầm ừ định hỏi nó một câu, thì nó lại hỏi tôi, như để cho không khí bớt ngột ngạt:
- Còn mầy sao rồi? Có viết lách gì không?
- Tao tự bỏ dạy. Làm đủ tứ nghề. Có viết chút đỉnh để kiếm tiền xài vặt.
Tôi nói “xài vặt” cho oai, chứ thực ra là để phụ thêm vào việc thu nhập ít ỏi của mình.
- Thu nhập?
Tôi ghét cái hất hàm có vẻ cao ngạo của nó nên trả đũa:
- Làm gì bằng cái nghề buôn thần bán thánh của mầy!
Chợt thấy mình hơi quá lố, tôi cười giả lả:
- Viết mà để lãnh nhuận bút thì chẳng bao nhiêu, nhưng tao có thêm cái nghề bán chữ nên cũng tạm ổn.
Nó nhìn tôi, như muốn hỏi “bán chữ” là gì. Tôi giải thích:
- Như vầy: Có lắm tên nghèo chữ, mà lại giàu tiền, lại háo danh, nên nó mua bài của tao, mỗi bài thường giá gấp năm lần nhuận bút! Hoặc có kẻ khoái nịnh, bảo tao viết tán dương. Tao làm luôn. Thường thì mối nầy rất xộp.
- Được nhiều “mối” không?
- Kẻ háo danh lúc nào không có? Có khi còn rộ lên như một phong trào! Thằng nầy xuất bản tập thơ, thường thì để... cho, vì nếu bán cũng chẳng ai mua! Thì thằng kia cũng phải cố làm cho bằng được, thế là tao lại có chuyện làm! Lắm khi làm không xuể, tao phải “chia hàng” cho bạn nghèo của tao, mới xuể!
Nó cười sặc, ngụm nước trà bắn ra tùm lum:
- Văn chương mà mầy làm như mớ cá, mớ rau!
Không khí có vẻ dễ thở một chút. Nó lấy tay áo cà sa lau miệng, “giảng pháp”:
- Danh lợi là hai miếng mồi béo bở mà kẻ phàm phu nào cũng thích: Thùng “Cúng Dường Tam Bảo” của mỗi chùa thường là chỉ có tờ mười ngàn, hai chục ngàn, năm chục ngàn. Những kẻ cúng dường bạc triệu, thì đòi cho được gặp trụ trì để được ghi tên; như là một kí hiệu cho trụ trì biết, hầu lần sau được tiếp đón nhiệt tình! Hoặc để lên mặt, hay phơi bày một chút giàu sang cho người xung quanh thán phục. Hay để khoe mình đã tạo nhiều “phước đức”! Trong lúc đó, cha mẹ ở nhà, mới chính là Phật trước mắt, thì lại bỏ bê, không màng tới.
Cũng vì chữ lợi mà mầy ca tụng phường vô sỉ, mập mờ đen trắng thị phi. Cứ tưởng đơn giản là tiền trao cháo múc, hết xôi rồi việc, chứ đâu có ngờ là bút sa gà chết! Mầy đã vô tình bôi nhoà ý thức, làm lệch đường nhận định của kẻ hậu sinh. Xét ra cũng là tội ác!

Tôi giật mình vì dường như nó noí đúng! Không ngờ cái thằng quỉ sứ nầy sau bốn mươi năm ăn tương chao lại có những lý luận sâu xa, sắc bén như vậy. Tôi thường dùng cụm từ “Những phường háo lợi háo danh” một cách khinh miệt. Nhưng nay, nhờ nó mà tôi phát hiện chính tôi cũng đã đồng hội đồng thuyền với bọn người ấy. Mắt tôi đã “tinh tường” thấy được hạt cát nhỏ bé trong mắt người khác, nhưng lại đui mù không thấy được cọng rơm tổ bố trong mắt của mình! Với bộ óc tí ti như óc tép riu của tôi, lại còn bất hạnh mang thêm cái tự ái lớn như đầu bò. Tôi tìm cách quơ quàu của một người thua cuộc:
- Vậy chứ cái nghề bán lòng tin của mầy có phước lắm?
Nó lặng thinh. Trong cái im lìm đó, đã chứa đựng cả lòng vị tha to lớn, hay chứng tỏ lòng nó đã lắng mọi sân si. Tôi cũng chẳng nói lời nào. Nhưng sự lặng yên nầy lại mang nhiều xấu hổ của kẻ thiếu tài. Nó là một thằng thông minh từ còn bé tí; và tôi, lúc nào cũng thấp hơn nó một cái đầu.

Kha Tiệm Ly
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 06/Oct/2020 lúc 8:47am

MÓN NỢ ÂN TÌNH


cha%20con
Tôi sang Mỹ cùng với Ba Dượng theo diện HO – nhờ tờ khai sinh giả tôi có được qua những đồng tiền đút lót mà tôi trở thành con ruột của Ba.


Cha mẹ tôi và một đứa em trai còn ở lại Việt Nam. Nhiều người rất ngạc nhiên, không hiểu vì sao mỗi khi nhắc đến gia đình ruột thịt tôi có phần lạnh nhạt trong khi tôi lại rất thương yêu và chăm sóc Ba Dượng.

Thật sự, tôi thương Ba Dượng hơn cha ruột của tôi rất nhiều. Tôi không biết điều đó đúng hay sai nhưng tình cảm luôn xuất phát từ trái tim, không thể gượng ép và cũng không thể theo một khuôn mẫu đã định sẵn.


Duy nhất một điều tôi có thể hiểu được là cha tôi chưa một ngày bồng ẵm tôi nhưng Ba Dượng đã nuôi nấng tôi từ thuở ấu thơ.

Khi mẹ mang thai tôi được sáu tháng thì cha đã bỏ mẹ con tôi để vào rừng, theo “quân giải phóng”. Mẹ ở lại, một mình một thân yếu đuối với cuộc sống vất vả nghèo nàn, vừa nuôi mẹ chồng, vừa nuôi con dại.
Ngay lúc ấy, Ba Dượng tôi xuất hiện. Ông là một sĩ quan trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ thành phố ông thuyên chuyển về nơi gia đình tôi đang sinh sống.
Tôi không nhớ rõ những gì đã xảy ra, chỉ biết rằng đến khi bốn tuổi tôi mới có được một người mà tôi gọi bằng Ba. Ba là một người hiền lành, chân thật và rất vui tính, cởi mở.
Ba chăm sóc bà nội như mẹ ruột, vì thế bà nội cũng rất thương Ba. Ngược lại, mẹ tôi không yêu Ba. Mẹ tiếp nhận Ba – một cuộc hôn nhân không giá thú – chỉ để tìm nơi nương tựa. Ba biết điều đó nhưng vẫn chấp nhận.

Năm bảy mươi lăm cha tôi bất ngờ trở về, còn Ba thì lại khăn gói vào trại cải tạo.
Mẹ vui mừng vì sự trở về của cha bao nhiêu thì tôi lại đau lòng vì sự tù tội của Ba bấy nhiêu. Tôi không hiểu được tình cảm của mẹ. Tại sao với một người chồng hết lòng thương yêu mẹ mà trái tim bà vẫn dửng dưng?
Tại sao chỉ một năm ngắn ngủi sống với cha mà tình yêu bà vẫn bền vững suốt cả chục năm hơn?

Tại sao mẹ có thể chấp nhận việc cha đã có vợ khác và người vợ “đồng chí” của cha đã nghiễm nhiên trở thành vợ chính thức, còn mẹ, chỉ là một người vợ danh không chính, ngôn không thuận, để mỗi lần đến thăm, cha phải nhìn trước, ngó sau như một kẻ đang phạm tội ngoại tình.
Chưa kể có lần vợ của cha còn đến nhà, mắng chửi mẹ là “dâm phụ” và cũng không cần biết bà nội tôi là ai, bà chống nạnh xỉa xói:
– Cả nhà chúng mày phải tránh xa chồng bà, không thì bà cho chết cả lũ về cái tội cấu kết với cái thằng lính ngụy đang ở tù rục xương.
Cha tôi nắm tay kéo bà vợ đi xềnh xệch trước những cặp mắt tò mò của hàng xóm. Mặt bà nội xanh như chàm, bàn tay cầm cây gậy run lên bần bật vì tức giận.

Mẹ ngồi bệt xuống sàn nhà với những giọt nước mắt không ngừng tuôn chảy trên khuôn mặt lơ lơ, láo láo như người mất hồn. Tôi cũng không nhớ rõ cảm giác của mình lúc ấy ra sao nhưng hình như có một nỗi vui nào đó hiện đến rất nhanh khi tôi chợt nghĩ, đây cũng là một điều hay để giúp mẹ tôi sáng mắt ra mà nhận biết ai là người thật sự yêu thương mình.
Nhưng không, mẹ tôi vẫn tối tăm quay cuồng trong mớ tình cảm hỗn độn đó dù bà nội khuyên mẹ hãy quên cha tôi đi để lo thăm nuôi Ba đang chịu tù tội, đói khát.

Phần tôi, tôi rất bất mãn trước thái độ của mẹ khi bà không có một chút quan tâm, lo lắng nào dù thật nhỏ cho cuộc sống của Ba trong cảnh khốn cùng.
Mỗi lần theo cô Tư đi thăm Ba, tôi phải nói dối đủ điều về lý do tại sao mẹ vắng mặt. Dĩ nhiên, cô Tư cũng không muốn anh mình phải đau khổ – nếu biết được người vợ đầu ấp tay gối đã nhẫn tâm phủi tay, rũ bỏ tình nghĩa vợ chồng bao nhiêu năm – nên cô dặn dò tôi phải nói dối với Ba rằng mẹ đi buôn xa không về kịp, hoặc bà nội bệnh bất ngờ mẹ phải ở nhà chăm sóc.

Có lần, sau khi thăm Ba trở về, tôi hỏi mẹ bằng thái độ khó chịu:
– Ba ở tù bốn năm rồi mà sao mẹ không đi thăm Ba một lần?
Mẹ trả lời một cách thản nhiên:
– Vì mẹ không thể phản bội cha con!
Tôi tức giận:
– Mẹ không thể, nhưng mẹ đã phản bội cha rồi.
Mẹ cho rằng tôi bất hiếu vì không phân biệt ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Tôi cười chua xót:
– Con không cần biết ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Con chỉ biết Ba là người đã cực khổ nuôi nấng con từ lúc còn bé. Con chỉ biết Ba là người đã bất kể hiểm nguy, giữa đêm khuya bế con đến bệnh viện cứu cấp khi con đau nặng. Mẹ không nói cho con biết nhưng bà nội vẫn nhắc hoài chuyện ấy.

Mẹ quay đi sau khi ném cho tôi ánh mắt giận dữ. Tôi biết mẹ không thể bỏ cha ruột của tôi, dù ông đối xử với bà tình không trọn mà nghĩa cũng chẳng tròn, nhưng ít ra bà cũng không nên rũ sạch ơn nghĩa cưu mang của Ba hơn chục năm trời.

 

– Mẹ hãy dẹp tình cảm qua một bên để tỉnh táo suy nghĩ xem cha đối với mẹ như thế nào. Ông đi bao nhiêu năm trời không một tin tức. Chắc trong lòng ông không hề vấn vương, thương nhớ mẹ hay nghĩ đến đứa con chưa kịp chào đời.
 Bằng chứng là đứa con riêng của cha nhỏ hơn con một tuổi, có nghĩa là xa mẹ chưa đầy một năm cha đã có người đàn bà khác. Rồi khi trở về đây gặp lại mẹ, đáng lẽ cha phải giải thích cho bà vợ của cha hiểu ai là người đến trước, ai là người đến sau, chứ lẽ nào cha đứng đó để chứng kiến bà ta làm hùm làm hổ với mẹ, cứ y như mẹ cướp chồng của bà ta…

Nhìn bà nội ngồi ở góc bàn sụt sùi lau nước mắt, tôi cảm thấy ân hận nên quỳ xuống cạnh bà:
– Nội à! con không muốn nói những lời làm đau lòng nội. Nhưng thật tình con không thể nào chấp nhận thái độ bạc bẽo của mẹ con. Nội thử nghĩ, nếu như ngày xưa không có Ba thì cuộc sống của gia đình mình sẽ ra sao? Nội bệnh hoạn cũng một tay Ba lo thuốc men mà không hề phân biệt rằng, đây là mẹ chồng chứ đâu phải mẹ ruột của vợ tôi.
Ba nuối nấng con từ nhỏ đến lớn không rầy la một tiếng dù con có phạm lỗi lầm. Ba thương yêu con như một đứa con ruột thịt…

– Rồi sao nữa? Cái thằng sĩ quan ngụy đó cũng giỏi thiệt… nó dụ dỗ được mày đứng về phe nó để chống lại cha mẹ.
Cha tôi bước vào nhà, quăng cặp táp lên chiếc phản gỗ, tay đập bàn rầm rầm:
– Anh đã nói với em rồi, con bé này đã bị thằng ngụy đó đầu độc mười mấy năm không thể nào tẩy não được mà.
Tôi lùi lại, đứng sau lưng bà nội. Dù trong lòng cũng có chút nao núng, nhưng khi nghe cha xúc phạm đến Ba, tôi tức giận đến độ không còn biết sợ là gì:
– Thưa cha, cha có biết cái “thằng ngụy” xấu xa đó đã dạy con điều gì không?
-…
Tôi cười chua chát tiếp lời:
– Ông ấy đã dạy con, dù đi đâu xa cũng phải nhớ ngày giỗ của cha mà về nhà đốt nén nhang cho bà nội và mẹ vui lòng.
Hồi mẹ được tin cha chết, mẹ khóc lóc, đau khổ nhưng không dám lập bàn thờ, thì chính cái “thằng ngụy” mà cha luôn miệng chửi rủa đó đã mang ảnh ba ra tiệm hình để rọi lớn, rồi đem về trịnh trọng đặt lên đầu tủ với lư hương, với chân đèn để làm bàn thờ cho cha.

Nếu đêm nào mẹ lỡ quên vì bận bịu thì cũng chính “thằng ngụy” đó dù đã lên giường cũng vội vàng leo xuống để đốt nhang cho cha. Chưa bao giờ con nghe “thằng ngụy” đó nói một lời thất lễ với cha, nhưng cha thì lúc nào cũng chửi bới người ta, trong khi đáng lẽ cha phải cám ơn người đã thay cha gánh vác việc gia đình.
“Thằng ngụy’ đó đã cho con thấy hình ảnh một người chồng, người cha cao thượng, nhưng cha thì sao?….cha hãy suy nghĩ lại để từ nay đừng bao giờ xúc phạm đến Ba của con.

Hình như tình thương đối với Ba đã cho tôi thêm sức mạnh và sự bình tĩnh để dõng dạc nói lên suy nghĩ của mình không chút sợ hãi. Điều đó khiến mẹ tôi lo quắn quíu:
– Con này… ma nhập nó rồi hay sao mà ăn nói bậy bạ, hỗn láo!
Mặt cha tôi như xám lại, ánh mắt ông long lên sòng sọc, đôi môi mím chặt khiến khuôn mặt ông đanh lại, hung hãn không thua gì các diễn viên đang vào vai một nhân vật phản diện độc ác.
Cha đưa chân đạp chiếc ghế văng vào bàn. Ông quay lại hét vào mặt mẹ tôi:
– Em dạy dỗ con cái như thế này đây hả? Nó nói chuyện với cha nó như một phường mất dạy. Anh nói rồi… ngày nào nó còn ở trong nhà này anh sẽ không bao giờ đặt chân đến đây nữa.

Tôi nghênh mặt khiêu khích:
– Cha không cần đuổi con cũng sẽ ra khỏi nhà ngay hôm nay. Con xin nói thật… con không muốn gặp mặt người cha vô trách nhiệm, bỏ vợ, bỏ con mấy mươi năm rồi bây giờ trở lại trách vợ mình không dạy dỗ con. Cha có biết trách nhiệm dạy dỗ con thuộc về ai không?

Cái tách trà bay về phía tôi, chạm vào thành ghế bà nội đang ngồi vỡ toang. Tôi không biết nếu cái tách trúng ngay đầu bà nội thì việc gì sẽ xảy ra? Có lẽ tôi lại hứng thêm một cái tội “tại cái con mất dạy này mới ra cớ sự!”

Sau cuộc cãi vã đó tôi thu dọn quần áo ra đi. Bà nội chạy theo níu tay tôi mếu máo dặn dò:
– Con xuống nhà cô Tư ở, đừng đi đâu bậy bạ nghe con.
Tôi cười trong nước mắt:
– Con có tư cách đến nhà cô Tư sao bà nội? Cô Tư đâu phải ruột thịt gì của con!
Mẹ đứng ngang ngạch cửa mai mỉa:
– Biết vậy là khôn đó con. Cứ đến ở thử vài ngày để xem người ta đối xử ra sao cho biết thân.
Không hiểu sao câu nói nào của mẹ cũng châm chích, cay nghiệt. Không lẽ mẹ đã quên hết những ngày cô Tư chạy đôn chạy đáo đem hàng về cho mẹ bán kiếm lời.
Chẳng những thế, cô còn nhường cả khách hàng của cô cho mẹ.

 

Ngay từ lúc Ba đến với mẹ, đâu phải cô Tư không biết tôi là con riêng của mẹ, nhưng lúc nào cô cũng đối xử với tôi ngọt ngào, thân thương như đứa cháu ruột. Mẹ không nhớ hay cố tình chối bỏ?
Tôi thất vọng não nề vì cách cư xử của mẹ nên cay đắng trả lời:
– Cô Tư đối xử với con ra sao thì cả chục năm nay con đã biết rồi không cần phải thử đâu mẹ. Con nghĩ người mà con cần thử là cha đó, cả mẹ bây giờ nữa… Mẹ à! mẹ thay đổi quá nhiều… đến độ con không còn nhận ra mẹ là người con vẫn hằng yêu quý. Trời cao, đất rộng không tha thứ cho mẹ cái tội bạc đãi Ba đâu.

Tôi quay lưng đi mà không chút luyến lưu, nuối tiếc. Tội nghiệp bà nội. Bà vừa khóc vừa gọi tên tôi rồi lúc thúc chạy theo, dúi vào tay tôi một nắm tiền:
– Cầm tiền theo mà tiêu xài đi con. Ở đâu nhớ cho nội biết để nội an tâm. Có đi thăm Ba thì lấy tiền này mua một chút đồ ăn đem theo, nói nội gửi cho Ba và xin lỗi Ba dùm… nội già yếu rồi không thăm Ba con được.
Tôi ôm chặt lấy bà nội, nước mắt chan hòa.

Sau sáu năm học tập Ba được thả về. Hộ khẩu của Ba là căn nhà ngày xưa gia đình tôi đã chung sống, nhưng nay mẹ không đồng ý cho Ba vào nhà. Bà nội khóc hết nước mắt cũng không lay chuyển được quyết định của mẹ – đúng hơn là mẹ đã làm theo lệnh của cha tôi.
Ông Năm hàng xóm thương Ba sa cơ thất thế, giận mẹ tôi là “phường vong ân bội nghĩa” – chữ này đã thay vào tên mẹ tôi mỗi khi ông nhắc đến – ông cho Ba cất cái chái nhỏ phía sân sau của ông, sát cạnh nhà mẹ trong thời gian chưa ổn định vì hàng ngày Ba phải ra công an phường trình diện.

Ba hoàn toàn không nói một lời trách móc mẹ. Tất cả nỗi đau Ba giấu kín trong lòng. Có lần bà nội sang thăm Ba, bà ân cần nắm tay Ba nói trong nước mắt:
– Má xin lỗi con. Má không biết phải làm sao cho đúng!
Ba cười hiền từ:
– Cũng là số phận của con thôi. Má đừng buồn!
Phải hơn nửa năm sau cô Tư mới đút lót được công an để chuyển hộ khẩu của Ba về nhà cô. Và tôi đã có những ngày tháng vui vẻ sống bên cạnh Ba và cô Tư.
Một mái gia đình đâu phải thật sự là của tôi nhưng sao tình cảm tôi nhận về quá thiết tha, sâu đậm. Cha “bắn tiếng” hăm dọa sẽ từ bỏ, không nhận tôi là con nữa.
Ba khuyên tôi nên trở về xin lỗi cha mẹ, tôi nhăn mặt trách Ba:
– Con đang ở thiên đàng sao Ba lại nỡ lòng đẩy con xuống hỏa ngục. Ba hết thương con rồi phải không? Ai muốn từ con thì cứ từ… con không sợ. Con chỉ sợ Ba từ con thôi.
Đôi mắt long lanh, đỏ hoe của Ba cho tôi biết rằng Ba đang rất hạnh phúc khi biết rằng, trong lòng tôi, Ba mới thật sự là người cha tôi yêu kính.

Ngày bà nội mất Ba không đến nhưng trong căn phòng hẹp của Ba, Ba đã lập một bàn thờ nhỏ và lặng lẽ quấn vành khăn tang. Nếu mẹ đã làm tôi thất vọng vì sự bạc tình, bạc nghĩa đối với Ba thì tình cảm của Ba và bà nội làm tôi cảm động rơi nước mắt.
Ba nói “Ba mồ côi từ bé, bà nội lại đối xử với Ba rất tốt, nên Ba thương bà nội như chính mẹ của mình”.

Những năm gần đây Ba mang một chứng bệnh nan y. Có lẽ , Ba sợ khi mất đi tôi sẽ bơ vơ vì không có ai là người thân thích ruột rà nơi đất khách quê người nên cứ nhắc nhở tôi trở về Việt Nam thăm “gia đình” nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều đó.

Sự oán giận và ray rứt trong lòng tôi vẫn chưa nguôi ngoai dù thỉnh thoảng tôi vẫn gửi tiền về cho mẹ theo lời khuyên nhủ, nhắc nhở của Ba.
Tôi muốn được ở cạnh Ba cho đến ngày cuối cùng để đền bù món nợ ân tình quá lớn mà mẹ tôi đã nợ của Ba.

Tùng Phạm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 08/Oct/2020 lúc 11:08am

Mùa Thu Virginia


2082%20a%20MuaThuVirginiaVien%20Linh


      Ðã lâu lắm, những giọt mưa nhẹ nhàng của mùa Thu mới lại rơi trên đôi vai một kẻ bộ hành tới từ miền gió cát. Hôm nay vào giữa Tháng Mười, từ California tôi trở lại Arlington, một quận hạt của tiểu bang Virginia, bên này cầu Key, nơi tọa lạc ngôi nhà đầu tiên gia đình chúng tôi cư ngụ tại Hoa Kỳ.

2082%201%20MuathuVirginiaVienLinh
(Cầu Key trong mùa Thu nhìn từ Virginia qua khu Georgetown, Washington, D.C.)


      Bên kia là khu Georgetown của thủ đô Washington, D.C. – chỉ cần hai chục phút đi bộ qua cầu là tới. Cây cầu không có gì hùng vĩ, tuy nhiên Francis Scott Key (1779-1843) – tên ông được đặt cho cây cầu, là người có những lời ca ngợi nước Mỹ mà không một ai trong chúng ta, không từng nghe, hay không từng hát lên: lời ca của bản Quốc ca Hoa Kỳ chính là lời ông viết vào năm 1814:


Oh, say can you see by the dawn’s early light
What so proudly we hailed at the twilight’s last gleaming?
Oh, say does that star-spangled banner yet wage
O’er the land of the free and the home of the brave.

     Khi nghe hát hay hát theo những lời ấy, khi đứng nghiêm chỉnh hướng tầm mắt lên cao, hay nhìn thẳng vào lá cờ sao và sọc, màu đỏ pha đen của lửa và thép, và màu xanh da trời ánh khói của kỹ nghệ, nhiều người trong chúng ta hẳn đã từng nghẹn ngào, biết đến bao giờ nước mình được gọi là đất nước tự do, biết đến bao giờ quê hương mình trong thế kỷ này có được một vị quốc trưởng dũng cảm và khoan dung? Và đến bao giờ màu cờ sắc áo của dân tộc mới hết là màu máu huyết, giết chóc hung tàn, thay vào đó là thanh thiên lưu thủy, dương khí trần hoàn, nhẹ nhàng êm đềm như bóng thiên nga, với vẻ hạo nhiên, dáng thái hòa và hồn linh khí? Ôi, giấc mộng giản dị ấy của gần trăm triệu người vẫn chỉ thấy là sự phỉ nhổ của một lá cờ dơ bẩn, dính máu oan cừu, kể từ máu của bầy chó bị giết trộm những đêm đầu tiên cho mã tấu du kích tự do thủ tiêu ám sát dân lành ngay trong xóm làng mình, vì những kẻ mê muội nghe theo những đề cương và huấn dụ và cương lĩnh gian xảo từ phương Bắc xuống, từ quần đảo ngục tù sang? Qua biết bao ngôn ngữ ì ồ dịch thuật ngỡ là cao nhã, tiếng nói the thé nhức óc trau chuốt bằng vần điệu ca dao nơi chó ăn đá, gà ăn muối, được cay độc hiển dương thành máng cỏ của chúa hang, linh địa của ngao chủ, ngỡ là sự thật.


2082%202%20MuaThuVirginia


      Tháng Mười ở Miền Ðông Hoa Kỳ đã mang cho tôi nhiều cảm xúc tuyệt vời, từ lùm cây lá phong đỏ màu rượu chát tới cái lạnh vừa đủ thấy ấm qua một chiếc áo len nhẹ nhàng. Mùa Thu Virginia đã khởi sự nơi tôi một cuộc đời mới, còn tiếp diễn không ngừng. Sung sướng thay, nó diễn ra từ định hướng văn chương, công sức học hỏi, và sự may mắn.
Về thăm lại Arlington, Virginia, nơi từ lâu người viết bài này tự coi là quê hương thứ hai của mình, trong khi quê hương chính đã không còn, cho tôi viết ít dòng riêng tư, nhất là về Tháng Mười của tôi, năm 1975.
     Trong những ngày ở trại tị nạn Indiantown Gap, Pennsylvania, từ đầu Tháng Sáu tới hết Tháng Bảy, 1975, trên giấy tờ xin định cư, và trong các cuộc phỏng vấn chọn nơi rời trại, là chủ gia đình, tôi chỉ xin rời trại nếu được tới định cư ở Washington, D.C., hay New York City. Gia đình một giáo sư Mỹ ở Pittsburg muốn bảo trợ, tôi đã khổ tâm để từ chối, không rời trại. Một hôm, một mình tôi được mời lên văn phòng một cơ quan thiện nguyện, nhớ hình như là The Tolstoy Foundation, người đối diện tôi có khuôn mặt của một người điền chủ xứ băng tuyết, hàm râu rậm, cái nhìn lạnh lẽo. Ông hỏi tôi rất nhẹ nhàng: ông có thể cho chúng tôi biết, vì sao gia đình ông chỉ chịu đi định cư ở một trong hai thành phố đó? Trại rất đông người rồi, gia đình ông đã ở đây hơn 2 tháng. Chúng tôi cần đón tiếp thêm những đồng bào khác của ông càng ngày càng đông nơi các trại tị nạn ở Ðông Nam Á.
      Tôi cố sắp xếp ngôn ngữ để nói thật ngắn gọn và thật hợp lý. Nói cho thật đúng, tôi đã viết sẵn xuống cuốn sổ cầm trong tay, và tay kia cầm cái bút, để viết ra những chữ cần viết, nếu cần thì đưa họ thấy. Tôi nói, tôi là nhà văn, nhà báo. Hai chục năm qua tôi mưu sinh bằng ngòi bút. Tôi nghe nói ở New York có Thư Viện Ðại Học Cornell và ở Washington, D.C. có Thư Viện Quốc Hội, là hai nơi có hai thư viện lớn nhất nhì thế giới có đầy đủ sách báo của nước tôi, cho tôi về một trong hai nơi đó thì sự mưu sinh của tôi sẽ dễ dàng hơn, sự tái tạo cuộc đời tôi và gia đình sẽ dễ dàng hơn, và tôi biết trong hai thư viện đó có một số tác phẩm của chính tôi và mấy tờ báo do tôi làm chủ bút, vậy nếu ông giúp được tôi, là ông đã giúp tôi dễ dàng làm lại cuộc đời ở Mỹ. Tôi vô cùng nhớ ơn.
      Ngày mồng 3 Tháng Tám 1975, chiếc xe buýt Trailways dừng lại tại bến. Tôi sửa sang lại cái cà vạt to bản, chiếc sơ mi sọc xanh, mái tóc dài phủ gáy, vì cả ba bốn tháng chưa cắt, và chậm rãi đặt chân xuống mặt đường. Tôi bước rất chậm rãi, tuy không bao phủ trên người bộ áo màu bạc cồng kềnh như phi hành gia Armstrong khi đặt chân xuống mặt trăng năm 1960, nhưng trong đầu tôi văng vẳng một câu nói, câu nói của chính tôi.
“Mình sắp đặt bước chân đầu tiên xuống thủ đô Hoa Kỳ, hãy nhớ lấy lời ước nguyện.”
      Tôi bước xuống lề đường, nhìn quanh, có một cặp vợ chồng người Mỹ tóc bạc, nhìn tôi với nét mặt tươi cười. Tôi bước lui vài bước để vợ cùng ba con bước xuống.
     Người đàn ông Mỹ tự giới thiệu, vợ ông bên cạnh đây, và ông, tên là Charruth, đại diện cho nhà thờ The Mount Vermont Place Church tại đường East 9th Street, Washington, D.C., là nhà thờ đứng ra bảo trợ gia đình chúng tôi. Ông chào mừng chúng tôi. Rồi nhanh nhẹn lấy hành lý của chúng tôi từ ngăn đáy của xe buýt chất lên chiếc xe hơi wagon station của ông.
Chiếc xe dừng lại tại một tiệm ăn Trung Hoa. Chúng tôi ăn mì vịt hay các thứ khác, và ngay sau đó, xe qua cầu Key, dừng lại trước một ngôi nhà hai tầng. Ông Charruth nói đây là ngôi nhà có 3 phòng ngủ, có lò sưởi điện và bếp ga, có đủ giường nệm, thực phẩm trong tủ lạnh và 47 Mỹ kim cho một tuần đi chợ dành cho gia đình 5 người chúng tôi. Ðây là đường… thuộc hạt Arlington, tiểu bang Virginia. Trong gara bên cạnh có 3 cái xe đạp ba bánh cho các cháu, đứa lớn nhất mới 6 tuổi. Từ đây tới Thư Viện Quốc Hội chỉ khoảng 20 phút xe buýt.
      Ông Charruth, vào Tháng Mười 1975, đã là người giúp tôi một việc vĩ đại. Số là khi còn trong trại tị nạn, tôi đọc một mẩu tin ngắn một cột, dài cỡ 6, 7 cm, nói rằng hàng năm tổ chức The Ford Foundation vẫn phát học bổng nghiên cứu cho các học giả và các chuyên gia trong Chương Trình Nghiên Cứu Ðông Dương, nay cả ba nước Lào-Miên-Việt Nam Cộng Hòa đã lần lượt mất vào tay cộng sản, còn hơn hai trăm ngàn Mỹ kim, họ sẽ phát ra lần cuối cùng, và dẹp bỏ chương trình ấy.
Tôi trình bày vấn đề với ông Charruth và bà Roberts, hai đại diện của nhà thờ, giúp tôi xin giấy tờ cần thiết để biết phải làm gì. Giấy gửi về: Ðiều kiện: phải có Ph.D., hay ít ra, đang soạn thi tiến sĩ. Tôi lộ vẻ thất vọng. Bà Roberts nói một câu như một cú sét, một ngọn lửa thiên lôi:
      Nếu cứ chọn tiến sĩ, cao học để trao học bổng [khoảng 12 ngàn và 50 ngàn bảo hiểm y tế cho người trúng giải trong một năm], thì phải trao cho vài vạn tiến sĩ kia kìa. Trong hai thư viện Quốc Hội và Cornell, có 11 cuốn sách của ông và 3 tờ báo văn học do ông làm chủ nhiệm chủ bút [Nghệ Thuật, Khởi Hành, Diễn Ðàn, Thời Tập] tôi tin ông sẽ được trao học bổng.” Ông Carruth và tôi, với hai cuốn Từ Ðiển Anh Việt, Việt Anh của Nguyễn Văn Khôn, trong hai ngày đã hoàn tất cái “summary 2000 chữ” gửi đi đúng vào ngày chót, Tháng Mười 1975.
      Hơn mười người nhận được The Ford Foundation Research Award, tôi còn nhớ có các vị như giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, LM Lương Kim Ðịnh, Tướng Lào Vang Pao, anh Dohamid dân tộc Chàm, cựu đại sứ Việt Nam tại Mỹ Nguyễn Kim Phượng [?], các anh Vũ Khắc Khoan, Cao Thế Dung, và tôi; không kể vài học giả Âu Mỹ khác. Tiến Sĩ Charles Benoit của Ford Foundation trong thư chúc mừng tôi, cho biết lẽ ra tôi đã tuột sổ, vì gửi quá trễ. Nhưng tôi hiểu trong các dự án xin bảo trợ, tất cả viết về chính trị, đảng phái, tôn giáo, nông nghiệp (anh Cao Thế Dung viết về Hoa kiều và thị trường lúa gạo Việt Nam) chỉ có anh Vũ Khắc Khoan (viết về Chèo Cổ Việt Nam) và tôi viết về Văn Học Miền Nam 1954-1975. Kiến thức của một người tự học như tôi mà được đãi ngộ như thế, thật là quá điều mong ước.

2082%203%20MuaThuVirginiaVienLinh
(Autumn Leaves fall )


      Tháng Mười ở Arlington đối với tôi, là mùa Thu trên thiên đường, ngày nào cũng đẹp, nhất là ngày chót cuối tháng, nếu Tháng Mười không có ngày 31, tôi đâu có được may mắn như thế?


Viên Linh



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 08/Oct/2020 lúc 11:10am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 12/Oct/2020 lúc 3:02pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 15/Oct/2020 lúc 9:35am

CHUYỆN THẰNG LAI


Pin%20on%20Sivin


Hắn là thằng con lai. Mẹ hắn là một phụ nữ ở vùng cát Quảng Nam bị Mỹ hiếp, dính bầu đẻ ra hắn.
Ông ngoại hắn chỉ có mình mẹ hắn, ngoài ba mươi mà chưa chồng.
Thương con gái mồ côi mẹ, chừ lại gặp chuyện éo le, ông khuyên nhủ con gái: Thôi, xấu hổ chi con, tại chiến tranh chớ tại chi mình, ai nói chi kệ họ, con ráng giữ rồi đẻ ra để cha nuôi cho. Hắn cũng là con người, lại cũng là hột máu của mình, nhà mình lại đơn chiếc một cha một con, biết đâu ông trời ổng cho mình đó con…

Nghe lời cha, cô gái cúi mặt che bụng chịu đựng. Ơn Trời, mẹ tròn con vuông, tọt ra thằng cu gần bốn cân, khóc oang oang.
Ông ngoại ngồi ngoài phòng sinh nghe thấy, cười hề hà, bảo:
Thấy chưa, hắn khóc tiếng Việt mình đó, oa... oa, cha tổ thằng cu, ha ha...

Tới ngày đầy tháng, đích thân ông ra chợ mua sắm đầy đủ lễ vật về, áo dài khăn đóng cúng vái rất kỹ lưỡng, cầu xin mười hai Bà mụ phù hộ cho cháu ông lanh ăn lẹ lớn, lớn lên thành người Việt mình đàng hoàng.
Rồi ông đặt tên cho hắn là Phan Lai. Phan là họ nhà ông. Ông bảo với con gái: ngoại của hắn là đây mà nội của hắn cũng là đây. Con ráng nuôi hắn, sau này về già con nhờ. Rồi ông mà trăm tuổi thì hắn bưng nồi hương cho ông chứ còn ai vô đây?

Rồi đúng như lòng mong ước của ông ngoại và mẹ hắn, hắn lớn như thổi.
Và càng lớn hắn càng giống một lính Mỹ nào đấy. Da trắng như bạch tạng, tóc râu ngô, mắt xanh lơ lơ, mỗi khi hắn nhìn ai thì người đó thấy như hắn dò xét họ điều gì.
Được cái là từ ăn mặc cho chí chơi bời thì không khác sắp nhỏ hàng xóm. Thương nhất là lúc ngồi trong mâm ăn, mới tí tuổi đã biết gắp miếng ngon bỏ chén ngoại, cơm ghế khoai, rau lang luộc chấm mắm cái cứ bưng chén lua ào ào.
Buồn cười nhất là khi nói chuyện với hắn, mặt mũi thì rặt thành phố mà giọng nói thì nhà quê một cục, ngó như một thằng bé giả.

Ngày đầu đi học, ông ngoại đưa tới lớp. Cô giáo sợ cháu mặc cảm, e dè, ra tận cửa đón vào. Không ngờ mới thả xuống đã sà vào giành đồ chơi của bạn. Rồi mẫu giáo, cấp I, cấp II cứ mỗi năm một lớp, còn được chọn vào đội học sinh giỏi toán của trường.
Đi học một buổi, một buổi ở nhà quơ củi, chăn bò.

Một lần để bò ăn lúa bị người ta dắt bò. Nghe lời ông hắn đến nhà người giữ bò vòng tay cúi đầu:
- Con xin lỗi ông. Con gửi bò cho thằng bạn ngó dùm chạy về nhà coi chừng siêu thuốc cho mẹ. Không ngờ thằng nớ ham chơi, để…
- Thôi thôi, biết thương mẹ rứa là tốt, ông tha cho… Rồi ông vào nhà lấy hai cái bánh, bảo: Hôm nay nhà ông có giỗ…
Lai ngửa hai tay nhận bánh: - Con cảm ơn ông. Rồi dắt bò về.

Cho đến một hôm…
Hôm đó, đi học về, vừa bước vào nhà, hắn thấy khang khác. Ông thì ngồi nhà trên lặng lẽ hút thuốc, mẹ thì ngồi dưới bếp thút thít, thấy hắn bước vào thì khóc to thành tiếng.
Hắn hoảng sợ, quăng cặp sách chạy đến ôm mẹ:
 - Mẹ ơi, có chuyện chi rứa mẹ?
Một chặp lâu, mẹ hắn mới lau nước mắt, hỏi chậm rãi:
- Con ơi, con muốn đi Mỹ không?
- Đi làm chi mẹ?
- Đi tìm cha con…
- Không, không! Không đi mô hết!
Hắn vừa dậm chân sừng sộ vừa khóc rồi vùng vằng ra ngồi dưới gốc cau ở góc sân. Bỏ cơm.

Tối hôm đó, hai ông cháu lên giường một lúc thì ông bảo hắn:
- Con nè, chừ chính phủ Mỹ muốn đưa những đứa con lai về Mỹ. Có một nhà ở Sài Gòn muốn đưa mẹ con ba cây vàng để xin con về làm con, cho học tiếng Mỹ để cùng gia đình họ sang Mỹ.
Ông thương hai mẹ con đứt ruột. Nhưng con nè, họ biểu: con có đi luôn đâu, cũng tỉ như đi du học, lâu lâu lại về. Nhà họ cũng rứa ngại chi.
Với lại con tính, nhà mình đang khó, mẹ con lại đau ốm, không tiền thuốc thang.
Thằng bé nghe ông nói, nghe chừng xuôi xuôi, không nói gì, rồi cũng lăn ra ngủ.

Sáng hôm sau, hai vợ chồng nhà Sài Gòn đến. Hết vợ đến chồng dịu dàng thuyết phục hắn. Hắn cũng chỉ im lặng. Nhưng mọi việc sau đó diễn ra suôn sẻ.Và quyển sách đời hắn từ đó, mở qua một trang mới. Năm đó hắn 15 tuổi, đang học dở lớp 9.
Vợ chồng nhà Sài Gòn chẳng ai xa lạ, chính là vợ chồng nhà Kim, bạn thân của gia đình tôi, đã mua Lai về làm con, cho học tiếng Anh trong hai năm trước khi qua Mỹ.

Qua Mỹ được vài ba năm chi đó, vợ chồng Kim về Sài Gòn, ra thăm tôi.
- Ông biết không - Kim kể - Hồi mới qua, vợ chồng tôi cứ phập phà phập phồng lo. Thiếu chi những đứa lai, lúc còn ở nhà cứ má má con con, khi qua đến bên nớ rồi, hắn dở quẻ “bà nớ mô phải má tôi”. Rứa là xôi hỏng bỏng không. Còn thằng này thì thương lắm. Ở nhà ăn ở với nhà tôi răng thì qua bên nớ vẫn y rứa.
Hắn nói với bà xã tôi: “Ở nhà con có mẹ, qua đây con có má, má với mẹ bằng nhau. Ở nhà con không có em, chừ con có đến năm đứa em, ai sướng bằng?”.

Vợ chồng tôi cũng không phân biệt con nuôi con đẻ, phân theo tuổi nó là anh cả, và sắp con tôi cũng “chịu” anh cả lắm. Qua đến đó chúng tôi về định cư ở Houston bang Texas, cho gần gia đình bà xã tôi.
Vừa ổn định chỗ ở xong, cả nhà xáp vô làm ăn luôn: tôi nhận đi cắt cỏ cho các nhà vườn, bà xã làm neo, thằng lớn đi bỏ báo, sắp nhỏ đi học.
Thằng Lai lúc thì phụ ba, khi thì giúp mẹ. Hắn í à, khéo tay lắm, mới mấy tháng đã được khách hàng khen, chẳng mấy chốc đã thành thạo.

Khi đã thành thợ chính rồi, má hắn lập cho hắn một cuốn sổ giao hắn tự ghi công, đến cuối tháng trả lương sòng phẳng. Hắn cũng thích vậy, bảo: “Ba má cho con tập tự lập nhé. Rồi còn phải cưới vợ nữa chứ”.

Tưởng hắn nói chơi, không ngờ mới hơn một năm, một hôm hắn ngỏ ý với vợ chồng tôi muốn xin ra ở riêng.
“Chớ con định ở chỗ nào?” - má hắn hỏi. Hắn chỉ nói hai tiếng “có chỗ” rồi dẫn cả nhà ra xem. Một ngôi nhà nhỏ xiêu vẹo bỏ hoang giữa một khu vườn rộng. Mọi người nhìn ngôi nhà sắp sụp trố mắt nhìn hắn.

Chưa kịp hỏi thì hắn đã nói con tìm hiểu kỹ rồi. Nhà này là của vợ chồng một người Mỹ, nửa đêm không hiểu vì sao người chồng lăn đùng ra chết, người vợ bỏ đi mấy năm nay không thấy trở lại.

Mấy đứa em hắn lè lưỡi: “Anh định đến ở đây? không sợ hả?” - “Sợ gì?”.
Mấy đứa em gái la lên: “Sợ ma!?” - “Không có ma! Mà có anh cũng chẳng sợ!”.

Má hắn bảo: “Con đã suy nghĩ kỹ chưa?”.
Hắn nói chậm rãi: “Con đã tính rồi. Ở đây về nhà mình chỉ vài tiếng xe đạp. Lúc rảnh rỗi, con tranh thủ đạp xe đến sửa sang dọn dẹp, trồng rau… Con sẽ làm cho ngôi nhà này hồi sinh. Chỉ xin ba má liên hệ nhà chức trách xin phép cho con, xin các em ủng hộ anh”.

Kim bảo:
- Bà xã tôi quá bất ngờ, thậm chí hơi sốc vì lâu nay thấy hắn làm ăn ngon lành, cũng có ý định giúp hắn vừa làm nghề vừa tập quản lý shop, đợi đến lúc đủ lông đủ cánh thì giao hẳn cho nó lập nghiệp.
Nhưng tôi thì không quá bất ngờ như bả. Lâu nay, cứ chiều chiều hắn một mình đạp xe ra ngoại ô, tưởng hắn đi chơi. Không ngờ hắn đã lặng lẽ chuẩn bị trước.

Tôi chú ý hắn ngay từ hồi còn ở nhà, trong cái vóc dáng vị thành niên của hắn đã bắt đầu chớm nở, những ý tưởng vượt tuổi tác.
Vì thế tôi bàn với bà xã và các em, hết sức giúp hắn. Nhưng hắn bảo:
 “Con chưa ra ngay đâu, con sẽ làm cho ngôi nhà đó không còn là nhà hoang nữa mới đến ở”.

Và không phải đợi lâu, khoảng năm sáu tháng sau, nhà cửa tinh tươm, vườn tược tươi tốt. Sướng mắt nhất là cái giàn bí trước nhà, ngó y chang cái giàn bí của ông ngoại hắn ở quê, những quả bí mập mạp, xanh bóng chen nhau thòng xuống, ăn không hết hắn mang cho những nhà lân cận.

Đến cuối năm đó hắn mới đến ở. Đến hôm trước, hôm sau treo biển làm neo, lấy tên shop neo FANLAI. Chưa bao lâu, khách đến nườm nượp, phần lớn khách quen, còn có vẻ nhộn nhịp hơn shop neo của má hắn.
Chừ thì ngon lành rồi.

Chưa đầy hai mươi mà ngó cung cách làm ăn của hắn đã khác mình. Tuồng như có sẵn trong máu hắn một cái gì đấy của xã hội công nghiệp.
Hắn bảo với tôi: “Ba thấy con làm ri được không, các bà các chị các em ở Mỹ đến làm móng, con học tiếng của họ, khách hàng nhất là các cô trẻ thích học nghề, con dạy nghề cho miễn phí luôn, nhưng cứ mỗi tháng phải đến làm cho con một ngày, mà cũng chỉ trong năm đầu thôi”.

Tôi hỏi: “Có ai học không?” - “Khối đứa, có đứa đã thành nghề đến làm cho con rồi đấy”.
Ông tính hắn có ghê không? Lạicòn ri nữa: Khi đã có người đến làm rồi, hắn giao shop cho họ coi, tranh thủ làm việc khác.
Trồng rau, nuôi gà, đi nhặt vỏ đồ hộp. Một bao tải khoác vai, mũ lưỡi trai hất ngược ra sau, lúc đi bộ lúc đạp xe, lượm vỏ lon về đổ dồn đống ở góc nhà. Không khác chi một thằng ve chai Việt Nam trên đất Mỹ.

Các em hắn chê “Bôi bác quá ông ơi”, hắn chỉ cười. Hắn rỉ tai tôi: “Dưới đống vỏ đồ hộp là cái “két” của con đấy, hằng ngày kiếm được đồng nào con bỏ vào một hộp bánh nhét dưới đó, cuối tuần mang về gửi má giữ hộ”.
Kim còn kể nhiều chuyện về thằng con lai của anh ta. Cứ sau mỗi chuyện thú vị, Kim lại lắc đầu kêu: - Cái thằng kỳ cục hết chỗ nói!

Bẵng đi trên chục năm. Trong thời gian đó, nhà Kim có về nước đôi lần nhưng chỉ ở Sài Gòn rồi đi.
Tết vừa rồi, hai vợ chồng về ăn tết ở Hội An có ra thăm tôi.. Chuyện thằng Lai ngày trước Kim kể với tôi, tưởng đã quên đi, nay gặp lại Kim, bật nhớ.

Tôi hỏi: - Thằng Lai răng rồi?
- Kỳ cục lắm, Kỳ cục lắm! Chừ không ai gọi thằng Lai nữa mà là David Phan.
- Vẫn làm neo chứ?
- Chuyện neo niếc để bà xã tôi hôm nào ở Huế vào bả kể. Còn David bây giờ thì… kỳ cục lắm ông ạ - Rồi Kim kể say sưa, phải súc bình trà đến mấy lượt.
Trước hết là chuyện vợ con của hắn. Ra ở riêng không bao lâu, một hôm hắn về bảo “Xin ba má cho con lấy vợ”
- “Thiệt hay giỡn mi?”
- “Dạ thiệt”
- “Có sớm không?”
- “Dạ, con quá hai mươi rồi. Với lại con cần có vợ sớm, vì mẹ con đau yếu, ông ngoại già quá rồi, con lại ở bên này, phải có người chăm sóc ông và mẹ”
- “Vợ nào mà chăm sóc…!”
- “Dạ, vợ Việt Nam, cưới xong vẫn ở Việt Nam, thỉnh thoảng con về”
- “Bao giờ cưới?”
- “Lúc nào ba má về được, con theo về cưới!”
- “Cái thằng này! Vợ đâu mà sẵn rứa?”
- “Dạ, con đã chuẩn bị một năm nay. Con ra tiêu chuẩn cho mẹ con ở nhà kiếm”
- “Tiêu chuẩn thế nào?”
- “Dạ, đơn giản thôi, ba điều: Một là: không cần đẹp nhưng đừng xấu, phải khỏe để đẻ và nuôi con. Hai: biết giữ tài sản, biết làm cho tiền đẻ ra tiền. Ba: biết thương mẹ và ông ngoại. Dạ chỉ rứa thôi”.

Tôi và má hắn ngã ngửa nhưng phải nghe hắn, chứ biết răng chừ.
Cuối năm đó cưới, cưới là vợ có bầu. Đến chừ hắn đã có ba đứa: hai trai, một gái. Bốn mẹ con hắn chưa một lần qua Mỹ. Hắn bảo: “Sẽ qua nhưng chừ chưa phải lúc”.

Vợ hắn từ một cô bạn học cùng học một trường, cùng đi chăn bò hồi nhỏ nay trở thành một nàng dâu đảm đang, quản lý cơ ngơi bạc tỉ mà hắn bảo “đáng điểm 10”.
Tôi nghe cũng bắt “ngã ngửa”, hỏi chen:
- Hắn làm gì mà giàu nhanh rứa?
- Thì ông tính: ở bên nớ hắn có tiêu chi, tích cóp được đồng nào gửi về nhà, mua đất ở Hội An. Lúc đầu mua miếng nhỏ, được giá bán mua miếng to hơn, đến nay hắn đã có một miếng đất lớn, ở một nơi đắc địa, không bán mà ký hợp đồng cho thuê 10 năm lấy tiền trước, bỏ ngân hàng. Chưa kể đất chung quanh nhà ông ngoại hắn, hắn đã mua thêm nay rộng rãi, vuông vức lắm!

Tất cả hắn chỉ đạo vợ hắn gần như hằng ngày, tiền bạc phải có sổ sách, chứng từ, chi tiêu theo đúng tiêu chuẩn cho người lớn cả trẻ con. Đúng là đâu ra đấy.
À, có một chuyện này tôi quên nói: Sau việc cưới vợ đẻ con, hắn làm gì ông biết không? Sửa nhà cho ông và mẹ và…làm luôn nhà thờ tộc Phan.
Lần đó hắn về, ra Hội An thuê người vẽ kiểu, có ý kiến đến từng chi tiết - Có một đôi liễn treo trước bàn thờ, theo mẫu: “Ân quốc, ân gia, ân phụ mẫu/ Tạ thiên tạ địa tạ tiền nhân”.
Hắn bảo sửa lại: “Ân quốc, ân gia, ân… hiền mẫu”. Chứ hắn có cha mô mà… phụ mẫu? Không biết hắn học ai mà rành vậy!

- Thật hết bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Nghe tôi bình luận vậy, Kim bảo, rồi còn bất ngờ với hắn dài dài. Ông tính: hắn văn hóa chưa hết cấp II mà trí thức của mình chừ nói chuyện với hắn phải cẩn thận.
Ban ngày làm "neo", lượm lon bia, đêm vào máy đọc sách!

Thấy tôi cứ lắc đầu một cách thích thú, Kim bảo:
- Chưa hết. Nghe đây rồi coi có tin được thì tin. Từ hồi qua Mỹ, hắn về nước nhiều lần, nhưng có ba lần gần đây nhất, trước khi lên máy bay hắn đưa cho vợ chồng tôi giữ, cái gì ông biết không, di chúc!
- Trời, di chúc?
- Đúng, di chúc của hắn để lại cho vợ con, ngộ nhỡ…

Đến mức này thì tôi không còn ngạc nhiên nữa mà… tá hỏa! Kim bảo khi nhận cái di chúc đầu tiên, má hắn la dữ và khuyên hắn không nên làm chuyện xui xẻo. Hắn bảo: “Tổng thống mà có lúc còn bị nạn, huống chi... Cái gì cũng phải phòng trước là hơn”.
- Có nhớ nội dung các di chúc của hắn? - Tôi hỏi dồn.
- Hai cái trước thì không. Cái gần đây thì nhớ. Hắn chỉ dặn một việc: tương lai của ba đứa con hắn.

Thằng đầu Phan Nhất Việt đang học Đại học Nông nghiệp, phải trở thành nhà nông học giỏi, về nhà cưới vợ, chăm sóc ông và ba mẹ, hương khói cho ông bà nhưng quan trọng là phải biến vườn ông thành một nhà vườn kiểu mẫu theo phương pháp hiện đại.
Thằng em Phan Hậu Việt, đang còn học phổ thông trung học, phải vào Đại học Kinh tế, chuyên ngành quản lý du lịch, cưới vợ học du lịch càng tốt, xây khách sạn trên miếng đất Hội An, phải làm cho khách sạn mình thành khách sạn nổi tiếng ở phố cổ.
Bé út Phan Mỹ Duyên đang học phổ thông cơ sở, phải học giỏi để vào ngành sinh hóa ở Đại học Bách khoa, sẽ được sang Mỹ học cao hơn nữa để nghiên cứu chế tạo mỹ phẩm bằng cây cỏ Việt Nam và tiếp quản cơ ngơi của ba, xây dựng thành một mỹ viện ở Houston.

Và... - Kim đột ngột dừng lại như đang có vật gì vướng trong cổ, một lúc sau mới tiếp - Câu cuối cùng trong cả ba di chúc đều ghi thế này:
“Nếu tôi chết hãy đưa tôi về nằm ở quê ngoại tôi”.

PHẠM PHÁT


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 15/Oct/2020 lúc 9:41am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 201 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.752 seconds.