Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Quê Hương Gò Công
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Quê Hương Gò Công  
Message Icon Chủ đề: GÒ CÔNG...VỀ TẤT CẢ Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 202 phần sau >>
Người gởi Nội dung
ranvuive
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 02/May/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1151
Quote ranvuive Replybullet Gởi ngày: 22/Apr/2011 lúc 8:24am
 

 


Chỉnh sửa lại bởi ranvuive - 22/Apr/2011 lúc 8:25am
IP IP Logged
ranvuive
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 02/May/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1151
Quote ranvuive Replybullet Gởi ngày: 24/Apr/2011 lúc 8:07am
 

Biển Tân Thành





IP IP Logged
ranvuive
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 02/May/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1151
Quote ranvuive Replybullet Gởi ngày: 24/Apr/2011 lúc 9:04am
 

55 Năm - TH Gò Công - THPT Trương Định


 

IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 25/Apr/2011 lúc 7:43pm
 
GỎI NHAM GÒ CÔNG MÓN NGON TIẾN CUNG

 

TRẦN VĂN CHI

 

 

Gỏi là món ăn trong bộ tứ: Nem-Bì-Chả-Gỏi, "bốn ăn chơi", có mặt trong các bữa tiệc sang trọng của người có tiền ngày xưa.

Nước mình ở đâu cũng có món gỏi, người ngoài Trung cũng

kêu là gỏi, người miền Bắc nghe nói kêu là "nộm", như nộm rau muống, nộm đu đủ, nộm hoa chuối (bắp chuối).

Có nghiên cứu cho rằng gỏi là món ăn xuất hiện thời kỳ hái lượm, thuở mà con người còn ăn sống vì chưa biết dùng lửa! Gỏi bấy giờ là món ăn hỗn hợp rau cỏ thực vật với cá sống.

Ngày nay về miệt Tiền Giang, Hậu Giang, xuống miền quê, ra Phú Quốc còn thấy món gỏi tôm sống, cá sống ăn hấp dẫn, ngon hơn món sushi của Nhật Bổn nhiều lắm.

Món gỏi mà tôi còn nhớ, nó đeo đuổi theo tôi tới nay là món gỏi đu đủ bán trước cổng trường Nam Tiểu Học Gò Công, hồi tôi mới lên lớp Nhì (lớp Bốn ngày nay). Mấy cọng đu đủ bào, loại đu đủ non, với vài miếng khô bò (?) được cắt bằng kéo cắt mỏng như lá lúa, ít tương đen ngòm sền sệt, ớt chua cay đỏ đỏ... ăn nhai nghe sựt sựt cay cay, chua chua. Ngon làm sao! Nhai mà không dám nuốt vì quá ít!

Sau nầy này lớn lên, mẹ tôi thường làm gỏi ăn với cơm trong nhà. Có thứ gì Bà làm thứ nấy, kiểu "ẩm thực Lục Tỉnh" và vì thế mới biết được nhiều thứ gỏi.

Gỏi tôm trộn với củ cải trắng là món thường ăn nhứt. Vào mùa mưa độ tháng Tám ta là mùa tép bạc trắng. Tép non đầu mùa, đem luộc vừa chín tới trộn với củ cải trắng non sắt khoanh mỏng bóp dấm, có chút đường, vài đọt rau hún lủi hún cây cắt nhuyễn. Khi nào nhà có đu đủ thì làm món gỏi tôm trộn đu đủ. Đu đủ vừa già, hơi ửng vàng người ta kêu là "đu đủ chín mỏ vịt”, bằm sắt nhuyễn như cọng bún. Tôm đất tươi còn sống hấp với lá chanh cho thơm, lột vỏ trộn với đu đủ cho ta món gỏi đu đủ, dòn, thơm, ngọt....và ngon hơn gỏi củ cải trắng.

Ở Sài Gòn mấy gánh gỏi đu đủ trộn tôm bán rong được mấy bà mấy cô rất ưa chuộng. Không biết đời nay mấy cô gái ở Sài Gòn có còn ưa ăn vặt món gỏi đu đủ nữa không?

Gỏi tôm thịt. Tôm khô trộn gỏi gọi tên là gỏi tôm thịt. Món ăn cao cấp, cầu kỳ, phức tạp hơn nên chỉ thấy trong dịp lễ giỗ, lễ cưới hồi trước.

Tôm khô loại tôm lạc, ngâm nước, vắt cho ráo, ngâm lại với dấm son, trộn với thịt ba rọi luộc sắt cở đầu đủa. Phần “bổi” dùng để trộn gỏi là củ cải đỏ, củ cải trắng dưa leo (bỏ ruột xài phần ngoài mới dòn) tất cả được sắt lớn nhỏ tùy loại, bóp với muối làm sao cho mềm mà còn dòn và cho vào đĩa bàn lớn. Tôm khô và thịt điểm lên trên với rau thơm, phụ gia hành phi, đậu phộng.

Đó là gỏi tôm khô thịt. Trộn kiểu này gọi là gỏi khô. Nước mắm đặc biệt chua cay ngọt nhưng hơi chua, ai ăn nấy cho vào chén riêng và ăn kèm với bánh phồng tôm.

Người miền Trung ăn gỏi với bánh đa nướng và cũng không ăn nước mắm kiểu như người miền Nam.

Món gỏi tôm thịt ăn với bánh phồng tôm ra thành thị, vào nhà hàng, rồi ra hải ngoại rất được người Việt mình lẫn ngoại quốc ưa thích. Thấy mấy người Mỹ húp nước mắm nghe “rồn rột” mà thấy đã!

Nay có người làm gỏi tôm thịt bằng tôm tươi, thay vì tôm khô, ăn cũng ngon nhưng không bằng tôm khô!

Gỏi cá được người dân miền sông nước ưa thích và là món nhậu của mấy ông lão nông.

Cá lóc làm gỏi, gọi là gỏi cá lóc trở thành tên riêng. Phải là cá lóc nước ngọt, cá bắt dưới sông chớ cá lóc nuôi ao không ngon, có mùi cỏ, mùi đất sình.

Dân làm biển ngoài Phú Quốc chuộng gỏi cá trích, còn ngoài miệt Nha Trang nghe nói dùng con cá mai làm gỏi. Hồi trước ở đường Trần Qúi Cáp Sài Gòn có món gỏi ruột cá lóc nổi tiếng, mỗi đêm nhà hàng chỉ làm được một dĩa dành cho khách quen mà thôi.

Món gỏi cá sông thường dùng để nhậu.

Con cá sống hoặc cá tươi làm sạch, lóc lấy phí-lê, nặn chút chanh hoặc dấm son làm cho cá chín tái, như ăn sushi. Ăn gỏi cá kèm với rau thơm, củ cải trắng có mùi cay nồng bốc lên mủi như bột cải rất hấp dẫn. Ăn gỏi cá, uống rượu đế mới tuyệt!

Ở miệt vườn ngoài cá linh, cá mè, người ta dùng con tôm “bạc lò”, để làm gỏi. Tôm bạc lò là loại tôm thẻ nước ngọt, đuôi đỏ, thân, dẹp và thịt rất mềm.

Tôm lột vỏ, xẻ làm đôi, nhúng vào chén dấm, kẹp với rau thơm, gừng và chấm muối tiêu... Đó là kiểu ăn gỏi tôm cá sống đồng ruộng.

Nay nói về món Nham Gò Công mà nhiều người chưa nghe tên bao giờ. Nham là gì mà như bí mật vậy ?

Gỏi trộn với thịt cua được người Gò Công gọi là “nham”. Người nơi khác gọi bằng nhiều tên khác nhau: Nham Gò Công, Gỏi Gò Công hoặc là Gỏi Cua Gò Công.

Người Gò Công chánh hiệu không ai gọi như thế bao giờ, nên nghe kêu như vậy biết ngay bạn không phải đồng hương Gò Công rồi!

Gỏi Nham do sáng kiến của người xứ Gò Công, nó được những bàn tay khéo léo nữ công nữ hạnh và bằng cả tấm lòng của người phụ nữ ở đây làm ra để tiến cung vào thời vua Tự Đức.Nên mới nói gỏi nham vừa là món ăn đặc thù địa phương, cũng vừa là “bát trân bát bửu”, là ẩm thực cung đình xưa, có liên hệ đến hoàng hậu, hoàng thái hậu là vì vậy.Trước hết nói về cua biển dùng làm nham. Nói cua biển nhưng không phải là cua sống ở biển, mà phải là cua sống ở nước lợ. Con cua nước lợ từ tháng Mười đến Tết có "gạch son", gọi là cua gạch son, làm nham mới được.Chính gạch son mới làm nên món nham. Gọi gạch son bởi gạch cua khi chín cho màu đỏ như son. Gạch son chỉ có ở con cua cái. Con cua đực thịt nhiều hơn cua cái nhưng gạch có màu đen bầm, không đỏ và không ai lấy gạch cua đực làm nham.

Lựa cua chắc, người nông dân gọi là “cua tốt Trời”, cua còn sống, rửa sạch bùn và rong rêu nếu không sẽ có mùi tanh, bởi con cua nước lợ sống trong hang. Tách mai con cua cái lấy hết gạch son cho vào tô, chắt bỏ hết nước trong gạch nếu không sẽ còn mùi tanh, đánh gạch cho nhừ, thêm phụ gia tiêu, đường và muối.

Rau làm gỏi nham phải là rau dấp cá, bởi cái mùi “hanh hanh chua chua” của rau dấp cá có tác dụng khử mùi tanh của cua. Rau dấp cá sắt nhuyễn, khế chua và “chuối chát hột” thái to bằng đầu đũa, trộn nhẹ tay cho đều rồi cho tất cả vào dĩa bàn bự.

Cua sau khi được hấp chín bằng nước lá sả, lá chanh...đem “rỉa” lấy thịt sắp đều lên mặt dĩa rau.

Bắc chảo lên bếp, phi ít mở tỏi, nghe vừa thơm, nhẹ tay rót thêm vào độ một chén dấm son và nhớ giữ lửa riu riu. Dấm sôi hơi nhúc nhích phải nhanh tay cho tô gạch cua vào, dùng đũa đảo nhẹ nhẹ giữ cho gạch cua không đóng cứng, tới khi nghe thơm bạn biết là gạch đã chín, nhẹ tay rưới đều lên dĩa rau.                      

Làm gỏi như thế gọi là làm nham.

Ăn nham cũng phải biết cách. Gắp nham vào chén với đủ rau khế chuối chát, cua và gạch... phân lượng cho vừa, cho hài hòa.

Chan nước mắm chua cay ngọt vô chén, dùng đũa lùa vào miệng mới ngon, tiếp sau là chiếc bánh phồng tôm dòn khướu, béo ngậy, mùi tôm chiên thơm lừng, nhai nhè nhẹ nghe sựt sựt. Đó là ăn kiểu “ăn quạo”, theo lối ăn nhậu, trần tục mà ngon.

Ăn sang trọng, kiểu ăn ở cao lầu co khác. Nham gắp miếng nhỏ, chấm nước mắm để trọn lên trên cái bánh phồng tôm nhỏ bằng cái bánh bèo. Vừa một miếng ăn, không dư không thiếu. Ăn như vậy mấy tay nhậu gọi là “ăn như ăn kiểng”.

Món nham là món ăn chơi, món khai vị, lai rai với rượu chát trắng là kiểu ăn văn minh ngày nay. Ngày xưa mấy ông già ở quê nhậu nham với rượu đế hoặc rượu thuốc và chỉ cần một dĩa nham nhỏ, vài cái bánh phồng tôm cũng đủ làm ông say “quắt cần câu” rồi.

Nham là đặc sản của Gò Công, so với bộ đặc sản nổi danh Lục Tỉnh Nam Kỳ xưa nay không đâu bằng. Hương vị của nham độc đáo, kỷ thuật chế biến kết hợp ngọt mặn chua cay từ chất liệu thiên nhiên. Đó là lý do tại sao “nham Gò Công” đoạt huy chương vàng trong cuộc thi món ăn dân tộc do Saigon Tourist tổ chức năm 1996.

Món nham Gò Công ra Huế, vào cung đình trở thành “bát trân cung đình” sánh vai với nem công chả phượng...

Thế mới nói nham Gò Công, món ngon “bất tử” là vì vậy.



Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 25/Apr/2011 lúc 7:44pm
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2011 lúc 5:21am
Gò Công - Vùng đất nhỏ nhưng nhiều nhân vật lạ lùng
 
 
Gò Công, mảnh đất nhỏ ở Nam Phần, có khi chỉ là một huyện, có khi được là một tỉnh, Nơi đây dân không đông, đất không rộng. Thế nhưng Gò Công lại là một vùng đất có nhiều nhân vật lừng danh trong lịch sử nước nhà. Trong bài viết  ngắn nầy, chúng tôi xin ghi lại một vài vị nổi tiếng nhứt. Đó là:

1. Hoài Quốc Công Võ Tánh: người đã từng chiêu mộ hào kiệt lập ra một đạo quân riêng gọi là Kiến Hoà Đạo đóng tại Gò Công. Họ từng đánh bại quân Tây Sơn tại Giồng Tre và Đầm Vạn Thắng. Sau nầy ông lấy công chúa Ngọc Du con của chúa Nguyễn Ánh. Ông cùng với Ngô Tùng Châu đã tự vẩn khi quân Tây Sơn của tướng Trần Quang Diệu vây thành Quy Nhơn năm 1801. 

 

2. Quốc Công Phạm Đăng Hưng: là một trong những vị quan lớn của triều Gia Long và Minh Mạng. chức vụ lớn nhứt của ông là Lễ Bộ Thượng Thơ. Nhưng ông lại chính là ông ngoại của vua Tự Đức vì con gái của ông chính là bà Từ Dũ.

3. Bà Từ Dũ: tên thật là Phạm thị Hằng sinh quán tại Giồng Sơn Quy – Gò Công. Được tiến cung từ năm 14 tuổi để làm vợ hoàng tử Miên Tông sau nầy là vua Thiệu Trị. Bà là mẹ của vua Tự Đức. Bà Từ Dũ nổi tiếng là một người tiết hạnh đoan trang .

4. Bình Tây Đại Tướng Trương công Định: người đã gây cho quân xâm lược Pháp nhiều khổ sở mới bình định được vùng đất Gò Công. Một trong những trận đánh nổi tiếng của nghĩa quân là trân đánh đồn Cần Giuộc. Nghĩa quân với vũ khí thô sơ đã dám chống lại với súng đồng tàu chiến, đem xương máu trả nợ núi sông. Ông bị Huỳnh công Tấn dò tìm được nơi lẩn trốn và dẫn quân Pháp tấn công. Ông bị thương và chết năm 1864. Khi ông chết, người Pháp phải kính phục và cho một toán lính Pháp, Ấn mang súng đến hầu và đưa linh cửu tận huyệt. Mộ của ông ngày nay đã được trùng tu (còn mộ của tên gian tế Huỳnh công Tấn đã bị dân chúng phá bỏ năm 1945).

5. Hoàng Hậu Nam Phương: tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan là vợ của vua Bảo Đại.

Ngoài ra, Gò Công còn có những nhân vật  nổi tiếng khác đó là:

1. Nhà văn Hồ biểu Chánh: tên thật là Hồ văn Trung (1885-1958), người có làm quan, làm chánh trị... nhưng cái mà ông để lại cho đời chính là sự nghiêp văn học to lớn với rất nhiều tiểu thuyết có văn phong miền Nam như: Ngọn cỏ gió đùa, Chúa Tàu Kim Quy, Con nhà nghèo, Cha con nghĩa nặng ... Văn của ông bình dân, chuyện của ông đều có tính giáo dục. Ngày nay các nhà xuất bản trong nước đã xuất bản lại hầu hết tác phẩm của ông.

2. Linh mục Nguyễn bá Tòng: (1868-1949) nổi tiếng là một người chăm lo cho việc học hành của những người nghèo. Ở Sài Gòn trước 1975 có trung học Nguyễn bá Tòng với ý biểu dương công đức của ông.

3. Ông Lê quang Liêm: nghị viên Hội Đồng Quản Hạt – Nam Kỳ khoảng thập niên 1930

4. Luật sư Vương quang Nhường: từng là Bộ Trưởng Giáo Dục thời chánh phủ Trần văn Hữu và Nguyễn văn Tâm.

Đất Gò Công cũng sản sinh ra một nhân vật kỳ lạ đó là Cậu Hai Miên con của Huỳnh công Tấn. Ông nầy nổi tiếng về mặt ăn chơi và du lịch. Ông  cũng nổi tiếng là một người có tánh hào hiệp như những tay anh chị. Ông hưởng gia tài của cha, lại được Pháp trợ cấp nên sống một cuộc sống sung sướng. Người ta nói rằng khi nào cậu Hai hết tiền thì cứ tới kho bạc viết “bông” lấy tiền ra xài. Do đó, mà có câu vè:

“Cậu Hai cậu chớ có lo
Hết tiền cậu xuống dưới kho cậu lấy mà xài”

Gò Công, vùng đất nhỏ nhưng cũng có nhiều nhân vật lạ lùng
 


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 27/Apr/2011 lúc 5:29am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22274
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Apr/2011 lúc 4:12am
Sơri Bình Ân Gò Công Đông

Trong Chương trình hỗ trợ phát triển toàn diện cây sơ ri Gò Công có triển khai đề tài nghiên cứu nhằm mục đích bảo vệ, phát triển và quảng bá nhãn hiệu tập thể Sơ ri Gò Công đã được đăng ký bảo hộ và chỉ dẫn địa lý sơ ri Gò Công. Sở KHCN Tiền Giang đã hỗ trợ xúc tiến thương mại các sản phẩm sơ ri Gò Công như: thiết kế logo, áp phích quảng cáo, bao bì sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể sơ ri Gò Công; tăng cường thông tin, tiếp thị sản phẩm chế biến đến các chợ và siêu thị lớn. Từ đó quyết định thành lập Hợp tác xã sản xuất và tiêu thụ sơ ri Gò Công với tên gọi

HỢP TÁC XÃ SƠRI BÌNH ÂN GÒ CÔNG ĐÔNG

Xã Bình Ân là một trong các xã có diện tích trồng sơri nhiều nhất huyện, có diện tích 162 ha với 757 hộ canh tác. Tuy nhiên diện tích trồng sơri trên địa bàn nhỏ, lẻ, không tập trung, sản xuất không theo quy trình đồng nhất, có những thời điểm sản lượng rất thấp không đáp ứng cho nhu cầu thị trường. Vì vậy việc thành lập Hợp tác xã sản xuất và tiêu thụ sơri Gò Công là rất cần thiết, giúp các xã viên cùng nhau hợp tác làm ra sản phẩm trái có chất lượng cao; xây dựng, quy hoạch lại vùng trồng, từng bước hình thành dịch vụ kỹ thuật canh tác cây sơri thông qua từng nhóm - tổ; đồng thời đầu tư, nghiên cứu để từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm trái sơri đáp ứng thị trường trong nước và xuất khẩu. Qua đó nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại gắn với quá trình đi lên sản xuất lớn theo hướng hàng hóa và góp phần phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

     
 
Với sự đồng thuận và quyết tâm cao của các nhà khoa học, nhà quản lý và người dân trong vùng. Hợp tác xã tiêu thụ sơ-ri Gò công được thành lập có 28 xã viên, với vốn điều lệ là 100 triệu đồng. Hội nghị đã thông qua Điều lệ tổ chức và hoạt động HTX sản xuất sơ-ri Gò Công và phương án sản xuất kinh doanh của HTX trong năm 2009. Đây là động lực để góp phần phát triển một trong 07 loại cây ăn quả chủ lực của tỉnh, đủ sức cạnh tranh trên thị trường khi tham gia WTO.

 

HTX Sơri Bình Ân Gò Công Đông

 

Địa chỉ : 138 Ấp Kinh Trên - Bình Ân - Gò Công Đông - Tiền Giang
Điện Thoại : (073). 3 948.182
Email : soribinhan@yahoo.com
Website : http://trit.vn/sori/


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Apr/2011 lúc 4:13am
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 03/May/2011 lúc 11:00pm
Làm món Bánh tằm bì Gò Công
 
Nguyên liệu:

- 500g bánh tằm bì
- 300g dừa nạo, bột gạo
- 1 bát nước dừa
-  100g bì và thính
- 50g mỡ hành
- 50g lạc rang
- 150g thịt ba chỉ
- 1 quả chanh
- Muối, đường, nước mắm, hạt nêm, tỏi, ớt băm..

Cách chế biến:

   1. Nước cốt dừa: Dừa nhồi với 2/3 bát nước, vắt lấy cốt. Tiếp tục nhồi với 1,5 bát nước vắt lấy nước gião. Đun nước gião với 2 thìa súp bột gạo, ít muối, 50g đường, cho nước cốt vào khuấy đề.
   2. Nước mắm: Khuấy đều ½ bát nước mắm với nước dừa, nước cốt canh, 3 thìa súp đường, tỏi, ớt băm.
   3. Thịt ba chỉ luộc chín, rán vàng, thái sợi, trộn với bì, ít hạt nêm, tỏi băm.Cho bánh bằm ra tô, xếp bì thịt, rắc lạc. Món này ăn kèm giá sống, dưa chuột, nước mắm, nước cốt dừa.
 


Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 03/May/2011 lúc 11:02pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22274
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/May/2011 lúc 5:52am
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 09/May/2011 lúc 11:15pm
Nam Phương Hoàng Hậu
(Nguyễn Văn Lục)

Câu chuyện một con tem.
Cách đây hơn nửa thế kỷ, đúng ra là vào khoảng những năm 1943-1946 gì đó, tôi đang chỉ là một chú bé nhà quê. Thế giới chung quanh tôi chỉ có mẹ và mấy chị. Nhưng không nhớ bằng cách nào, tôi được nhìn thấy hình Hoàng Hậu Nam Phương trên mấy con tem. Chỉ bằng mấy con tem đủ ấp ủ hình ảnh người phụ nữ hiền lành, phúc hậu đến cả đời. Hình ảnh con tem đó cứ như thế giữ mãi trong lòng, trong ký ức chả quên được. Con tem nhỏ xíu hình một người phụ nữ, chít khăn vàng, áo dài. Quá nhỏ để nhận ra chân dung người đó, cũng quá nhỏ để biết được con người. Vậy mà hình ảnh đó có sức thu hút, đeo đuổi mãi cho đến bây giờ. Ký vãng sự việc thì có thể quên. Nhưng dấu ấn tình cảm, niềm kính trọng người phụ nữ đó thì không. Hình ảnh qua con tem nhỏ bé toả ra sự uy nghiêm, trang trọng, quý phái, nhưng dung dị hiền từ. Đôi mắt có vẻ buồn, sống mũi cao. Đẹp không chê vào đâu được. Vẻ đẹp kín đáo, nhưng có sức thu hút khó quên được. Hỏi nhiều người cỡ tuổi tôi cũng đều nhận như thế. Nhưng nó lại không có cái nét kiêu kỳ hãnh tiến như những người sang trọng giầu có. Nhất là con mắt có cái nhìn thẳng thắn, đầy độ lượng. Nhiều người sau này nhìn ảnh Hoàng Hậu sau cũng phải nhận một điều: Hoàng Hậu có nét uy nghi, đoan trang và phúc hậu. Chỉ tội buồn.
 

Sao Hoàng Hậu lại buồn thế...

Xin dẫn một chứng từ của một cô nữ sinh thời 1937-1941 nhắc lại kỷ niệm gặp gỡ Hoàng Hậu Nam Phương, viết trong tập san Đồng Khánh: Hà nội, mái trường thân yêu. Dược sĩ Nguyễn Thị Huyền, vừa mất năm ngoái đã viết lại cảm tuởng của mình như sau: "Ngày Bà Nam Phương đến thăm lớp, cô Thục Viên, giáo sư Pháp Văn vẫn đứng trên bục giảng chìa tay đứng bắt tay Hoàng Hậu và từ tốn trả lời các câu hỏi của Hoàng Hậu, không hề mất chủ động. Trong khi đó Nguyễn Tiến Lãng, người đi cùng Hoàng Hậu muốn tâu gửi gì với Hoàng Hậu đều quỳ xuống đất. Cô xin phép tiếp tục giảng. Hoàng Hậu dự giảng và sau đó cho gọi học sinh giỏi Văn lớp là chị Nguyễn Thị Thứ lên thưởng cho một bức ảnh do Hoàng Hậu ký tên. Thái độ đường hoàng của cô đã gây cho chúng tôi một niềm tự hào chính đáng, trong lúc ấy chúng tôi cũng thích vẻ đẹp dịu dàng Đông Phương và thái độ bình tĩnh không có vẻ gì hách dịch của "Nam Phương Hoàng Hậu". Một trong những học trò có mặt bữa hôm ấy là cô Ngô thị Ngà, nguyên giáo sư Trưng Vương đã cho biết cảm tưởng: Mê cái vẻ đẹp dịu dàng của Hoàng Hậu và vì thế sau này cô đặt tên cho một cô con gái là Thu Phương, tức Hương mùa thu nhắc nhớ đến tên Hoàng Hậu Nam Phương, hương miền Nam. Hôm nay ngồi viết lại một chút cuộc đời Bà mà hình như Bà đang ngồi trước bàn máy. Sự biết về Bà quá ít, mầy mò sách vở đủ loại, lục lọi chỗ này chỗ kia cũng chỉ là những mảnh vụn rời rạc, cũng không thấy bóng dáng Bà đâu cả. Cũng chả thu thập được nhiều nhọm gì. Người đời coi ra vô tình với Bà đã đành, sách vở sử học cũng vậy. Ngay trong hồi ký của vua Bảo Đại, "Le Dragon d' Annnam", (1) tôi đã lật đi lật lại nhiều lần, chỉ thấy loáng thoáng từ trang 62 đến 68 nói về cuộc hôn nhân của nhà vua hơn là nói về Hoàng Hậu. Tôi đành lòng với một ít tài liệu trong báo Indochine vào những năm 1942-43-44 với vài bài của Nguyễn Tiến Lãng và một vài người bạn Pháp của gia đình. Bài viết về Bà của Cù Huy Cận không có trong tay. Cuốn sách quan trọng của Phạm Khắc Hoè: từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc và Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn chỉ được đọc những đoạn trích dẫn mà nội dung quả thực khiếm nhã và tuyên truyền nhiều hơn là sự thực. Một số bài báo trên các báo chí Hải ngoại thường viết thiếu dữ kiện khả tín, viết cho có mà thôi. Vì thế, cũng chả thu tập được bao nhiêu. Thật là bất công với Bà quá và cũng vô tình quá. Chỉ xin lấy tấm lòng đáp lại được phần nào hay phần ấy.

1.- THỜI CON GÁI

Cô Nguyễn Hữu Thị Lan Marie Thérèse là con một nhà điền chủ, đất Gò Công. Bố được Tây cho đi học ở Pháp về, rồi mở đồn điền trà và cà phê ở cao nguyên Trung phần. Các điền chủ khác thường ít chữ nên chỉ loay hoay với ruộng, vườn tược, sống nhờ bổng lộc từ đó mà ra. Nhưng ông bà Nguyễn Hữu Hào có vốn Tây học, có đầu óc nên mới nghĩ đến khai thác đồn điền. Vào thời kỳ đó, khoảng những năm 1920-30, báo Nam Kỳ địa phận ra hàng tuần đã khuyến khích người Annam khai thác đồn điền, mở mang kinh doanh, kỹ nghệ để cạnh tranh với người Tây và cả với người Tầu như trong lời mở đầu của tờ báo: "Tờ báo có ý khai đàng văn minh cho nhân dân đặng tấn phát cho bề đạo việc đời đều thông thuộc. Vì thế trong nhựt báo sẽ biện luận về những điều đạo lý, phong hóa, bá nghệ, bác học và văn tin... nên sự gì tốt và hữu ích thì đem đặng vô hết ". (trích lại trong bài Chữ Quốc Ngữ, giai đoạn sơ khởi của chính tác giả). Nhà chỉ có hai chị em, chị là Agnès Nguyễn Hữu Hào đã hẳn có nếp sống văn minh thành thị của lớp dân giầu có. Cuộc sống hai chị em cứ khách quan mà nói là sung sướng, đầy đủ, được cưng chiều. Họ đã sống tuổi thanh xuân êm đềm và mơ mộng. Và có lẽ đó là giai đoạn hạnh phúc nhất đời của người thiếu nữ sau này làm Hoàng Hậu. Theo những bức hình chụp trong tờ Indochine thì cả hai chị em đều cao lớn hơn hẳn những người phụ nữ Việt Nam bình thường. Tôi mê bức ảnh Hoàng Hậu chải tóc rẽ, vấn khăn và nhìn nghiêng bên trái, không nhìn thẳng. Những bức ảnh mặc đầm, hay những bức ảnh mặc triều phục, hoặc ngay cả ngày cưới coi cũng được được vậy thôi. Theo cách nhìn của tôi, có nhẽ cô Agnès không lấy gì làm xinh xắn lắm, gương mặt xương xương, thiếu đầy đặn. Nhất là thiếu cái nét đoan trang, dịu hiền như cô Lan. Tôi cứ nghĩ, phải cám ơn ông cái ông Tây nào đó đã chụp những bức hình mà Nam Phương Hoàng Hậu đẹp như thế, lột được cả cái hồn, cái phần sâu thẳm của đời sống bên trong. Phần cô Agnès, có vẻ Tây hơn. Cô đã lấy chồng sớm, học hành chẳng hiểu đến lớp nào. Ông chồng là bá tước Didelot, làm công chức cho Tây. Cả quãng đời tuổi thanh xuân này, gần như không có một ai có thể hé lộ cho biết đời sống hai tiểu thư ra sao. Nhưng dựa vào một vài sự kiện mà suy đoán thôi. Chẳng hạn, trong một bài viết của ông Nguyễn Tiến Lãng, con rể cụ Phạm Quỳnh sau này đăng trên tờ Indochine có kể rằng, trước ngày đám cưới thì hai chị em đến ở một căn nhà của gia đình ở đường Nguyễn Du bây giờ, tức quá không nhớ số, trước ngày ra Huế. Điều đó cho thấy, các cô ở Sài Gòn để đi học chứ không ở Gò Công. Thời đó, Sài Gòn chỉ rộng như cái bàn tay. (2) Nhỏ lắm. Bé lắm. Qua khỏi bến Nhà Rồng, sang Khánh Hội là lau sậy. Qua khỏi Nancy, chợ Quán là đồng không mông quạnh. Chưa tới cầu Trương Minh Giảng đã là bãi sình rồi. Các tiểu thư ở đường Nguyễn Du, mỗi sáng đi nhà thờ thì băng qua đường Lê Văn Duyệt, tới đường Bùi Thị Xuân chừng nửa cây số là tới nhà thờ Huyện Sĩ. Nhà thờ này theo thói quen lấy tên ông Huyện Sĩ hay Lê Phát Đạt vì chắc là ông đã công hiến nhiều để xây dựng nhà thờ. Ông Huyện Sĩ lại là bác ruột các tiểu thư. Nếp nhà như vậy, vừa giầu có, vừa có ăn học, vừa theo nếp sống Tây phương với tư tưởng tự do phóng khoáng đã hẳn khác với các "công tử Bạc Liêu" về lối sống, lối nghĩ, lối giải trí. Lớn lên, cô chị đã yên một bề chồng con, phần Hoàng Hậu tương lai được cha mẹ gửi sang Pháp học trường Couvent des Oiseaux. Có dư luận lẫn lộn Couvent des Oiseaux bên Pháp với bên này, nhân tiện xin làm sáng tỏ thêm vấn đề này.(3) Nói thêm chút nữa để chứng tỏ mình có chút uyên bác. Hồi Bà học Couvent bên Pháp nhà trường hẳn nằm ở phố Ponthieu và Verneuil. Nhưng hỏi Ponthieu ở đâu thì quả tình mù tịt không biết. Có sách ghi cô đỗ tú tài Tây rồi mới về, điều này cũng không khẳng định rõ được. Bảo Đại chỉ ghi: "Elle vient de terminer ses études au Couvent des Oiseaux, en France". Tất cả thời gian này, không một ai biết cuộc sống người thiếu nữ Tây học, duyên dáng, hiền thục ra sao. Chỉ biết, cô đã về nước năm 18 tuổi.

2. CUỘC HÔN NHÂN CỦA CÔ NGUYỄN HỮU THỊ LAN

Cuộc gặp gỡ lần đầu.
Có một câu hỏi được đặt ra là cô Nguyễn Hữu Thị Lan đã quen và gặp Bảo Đại trong trường hợp nào và ở đâu. Có một số tác giả cho rằng họ quen nhau trên cùng một chuyến tầu thủy của hãng Messagerie Maritime về nước như một cuộc tình duyên kỳ ngộ, lãng mạn. Một hoàng tử gặp giai nhân trên một chuyến tầu, yêu nhau rồi quyết định chuyện hôn nhân. Trên tờ Indochine, có một vài bài viết của ông Nguyễn Tiến Lãng, một người thân cận của Hoàng Hậu, nhưng tôi cũng không thấy đoạn nào nói rõ về vấn đề này. Cho dù có đi cùng chuyến tầu không chắc gì đã có thể gặp nhau. Nếu có chuyện đó thì vua Bảo Đại hà cớ gì lại không nhắc đến trong hồi ký trích dẫn sau đây. Cái tật của người Việt Nam là hễ có một người viết trật là kéo theo cả lô người khác xuống hố theo. Dù sao, tôi cũng chẳng dám cả quyết gì về điều này. Nhưng một điều không cần bàn cãi nữa là căn cứ vào tập hồi ký "Le Dragon d' Annam" của vua Bảo Đại là đúng nhất. Vua Bảo Đại cho biết ông đã gặp Nam Phương Hoàng Hậu ở Đà Lạt, chứ không phải ở trên tầu, ông đã gặp vào cuối năm 1932. Xin trích dẫn ý của vua sau đây: "C est alors qu à la fin de l année, m étant rendu pour quelques jours à Đà Lạt où séjournait également le gouverneur général Pasquier, celui-ci, à l occasion d une rencontre dans les salons du Langbian Palace, me présente une jeune fille qui était en compagnie de Mme Charles, Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Hào, appartient à une famille de riches propriétaires terrien de Cochinchine. Catholique, comme ses parents elle vient de terminer ses études au Couvent des Oiseaux, en France. Elle a dix huit ans. (Sách đã dẫn trang 63). Đọc đoạn văn trên, thấy có gì là lạ. Chẳng hiểu tại sao cả đám người tai to mặt lớn lại không hẹn mà gặp nhau ở Đà Lạt. Có bà Charles, người đỡ đầu cho Bảo Đại đi cùng với cô Lan, bà lại là bạn của gia đình Nguyễn Hữu Hào. Có bài viết nói ông Lê Phát Đạt dẫn cháu gái đến ra mắt Bảo Đại. Cô cháu gái lại ỉ ôi năn nỉ chán mới chịu đi, ăn mặc sơ sài thôi. Tôi thiết nghĩ, ông Đạt không đủ tư cách để đường đột dẫn cháu gái ra mắt Hoàng Thượng, nếu không có một sắp xếp trước. Cùng lắm ông chỉ là người thừa hành thôi. Đích thị là có sắp xếp trước, có toan tính trước giữa bộ ba toàn quyền Pasquier, ông bà Hào và chủ chốt là bà Charles. Cho dù trước đó có gặp nhau trên tầu trên bè gì cũng không quan trọng. Sau buổi gặp gỡ ở Đà Lạt, kể như định mệnh đã được an bài rồi. Sự sắp xếp này cũng rất bình thuờng và tự nhiên ở cương vị của Bảo Đại. Vấn đề chính là họ đã yêu nhau và quyết định đi đến hôn nhân: "Après quelques entretiens, un tendre sentiment nait entre nous. Nous nous promettons de nous revoir".

Những trở ngại của cuộc hôn nhân.
Theo vua Bảo Đại, từ ngày hồi hương, rất nhiều những tin đồn chung quanh việc chọn một người vợ cho Ông. Bà Từ Cung đã đành, các vị quan lớn trong triều, mỗi người đều có người của mình để đề cử. Vua đã hẳn biết được điều đó và Ông đã nhiều lần cho biết Ông quyết định không chấp nhận chế độ đa thê vẫn thường thấy ở Việt Nam, về những tệ trạng tranh dành ngôi thứ giữa anh em hoặc anh em cùng cha khác mẹ đến chỗ đâm chém nhau. Vua Minh Mạng có đến 170 người con và để tránh cảnh tranh giành ngôi thứ, vua Minh Mạng đã đặt ra tên gọi theo thứ tự đến 20 đời kế tiếp nhau để những dòng họ theo đó theo thứ tự mà kế vị. Hai mươi đời đó được khắc vào tờ giấy bằng vàng và tên gọi một người như thế được coi giấy Hộ tịch của mình.. Hai mươi chữ đó nằm trong bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt mà câu dầu gồm những chữ :
Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quí Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thể Thoại Quốc Gia Xương
Nhưng mới tới chữ thứ năm trong bài thơ thì triều đình nhà Nguyễn đã không còn nữa, mặc dầu tên của vua Bảo Đại được lót bằng chữ Vĩnh có nghĩa là muôn đời. Những ý nghĩa đó còn được tìm thấy trong những chữ tỉnh Thừa Thiên, Vạn Thọ, Long Sàng, chỗ ở của Bửu Long được gọi là Tứ Phương Vô Sự. Đã hẳn, hai ông bà Charles, bố mẹ đỡ đầu của vua không thể không bận rộn trong việc kiếm tìm một người vợ cho vua. Cái khó là ở chỗ đó. Quá nhiều người, quá nhiều đề cử, nếu không nói là những âm mưu gây ảnh hưởng nên dễ gây bất đồng ghen tỵ, nói ra nói vô. Nhưng trở ngại lớn nhất là cô Nguyễn Hữu Thị Lan là người theo đạo Ky tô giáo. Theo vua Bảo Đại, khi trở về Huế, ông đã bầy tỏ ý định lấy vợ người theo đạo Kitô giáo và là người đã được đào tạo ở Tây phương. Nghe tin đó, hẳn nhiên là Bà Từ Cung không đồng ý vì bà mong muốn một cô dâu theo truyền thống Á Đông. Quan lại cũng ngấm ngầm chống đối. Tứ phía chống đối dựa trên quyền lợi cá nhân cũng có, phe phái, miền cũng có, nại cớ nguyên tắc truyền thống cũng có. Cô dâu "Mới Quá". Chữ "Mới" có vang vọng muốn đồng nghĩa với thiếu văn hoá đạo đức cổ truyền. Người ta e ngại cũng phải. Cứ nói tiếng Tây líu la líu lo cũng đủ ngại rồi. Sự nghi kỵ, thành kiến tranh chấp, hiểu lầm còn đầy dẫy trong dân gian, nhất là trong đầu mỗi người. Đặt mình vào địa vị vua và hoàng hậu tương lai mới hiểu được sự cam go không thể vượt qua được của cuộc hôn nhân này. Rồi vấn đề giáo dục con cái theo đạo Ky tô giáo nữa. Sẽ giải quyết ra sao khi hoàng tử kế nghiệp vua phải cử hành lễ Tế Nam Giao hoặc thờ cúng tổ tiên. Lấy ai là người gìn giữ nếp sống, văn hóa cổ truyền, cúng giỗ tổ tiên của cha ông để lại. Có một số tác giả đã viết không đúng về vấn đề này. Nhất là giới Công giáo. Chẳng hạn cho rằng vua Bảo Đại là người đã theo đạo Ki tô giáo. Thật ra đối với vấn đề tôn giáo, ông Bảo Đại rất thoáng, minh bạch và rất trung lập. Ông không theo đạo nào cả. Như ông viết: "Au palais, il n y avait qu un Dieu: L empereur, fils du ciel". Vậy không hề có chuyện đó. Ngay cả các Hoàng tử, Công Chúa chưa chắc gì đã rửa tội, theo đạo Ki tô giáo. Một điều nữa, dư luận vẫn cho rằng Hoàng Hậu Nam Phương phải xin phép Vatican rồi mới được lấy chồng. Nhưng theo hồi ký của Vua Bảo Đại, chỉ sau khi làm đám cưới xong, ông mới gửi thư cho Giáo Hoàng Piô 11 một lá thư qua trung gian người Pháp, vì thời đó ta chưa có liên lạc ngoại giao với Vatican. Nếu Hoàng Hậu muốn xin phép thì phải gửi thư qua các cha cố, theo hệ thống nhà đạo. Cho đến nay, chả có bằng cớ gì, chả có văn bản nào cho thấy có phép chuẩn cả. Có thể chỉ là đồn đại. Vua Bảo Đại gửi thư cho toà thánh không phải để xin phép, xin tắc gì cả mà bầy tỏ lập trường và quan điểm của vua Bảo Đại. Hãy xem ông viết: "Cette lettre avait moins pour but de régler la question personnelle de mon mariage et de l éducation envisagée pour mes enfants que d apporter et de provoquer des éléments de réponse à un conflit ouvert depuis des siècles et, plus encore, de faciliter la rencontrre entre deux mondes: l Occidental et l Oriental, à travers notre pays d Annam, terre de rencontres , et à travers ma personne qui, pour la première, et vraisemblablement pour la dernière, par l éducaion recue, réunissait les conditions d une véritable confrontation entre deux civilisations". Đoạn văn trên của vua Bảo Đại giúp dẹp hết những bàn tán bên lề, những chuyện tủn mủn thổi phồng về chuyện đám cưới của ông với cô Nguyễn Hữu Thị Lan.

Những trở ngại mà cô dâu tương lai gặp và phải đương đầu.
Đặt mình vào địa vị Hoàng Hậu Nam Phương mới thấy thấm thía được những trở ngại, những khó khăn mà Bà phải chịu đựng. Thật quả không dễ gì lấy được một ông vua và cũng không dễ gì làm Hoàng Hậu. (4) Nhưng lịch sử cũng cho thấy không thiếu trường hợp trước đây xứ Nam Kỳ mà có lần vua Bảo Đại đã gọi là miền đất hứa đã cống hiến cho triều Nguyễn những người con gái tài ba và sắc đẹp: Bà Từ Dũ, tức cô Phạm Thị Hằng là vợ vua Thiệu Trị và là mẹ vua Tự Dức. Bà là tiêu biểu cho một lớp người phụ nữ đức hạnh, có học vấn, làm gương sáng cho mọi người trong triều đình. Sau đó đến bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng và cuối cùng là cô Nguyễn Hữu Thị Lan. Tên của bà là Nam Phương Hoàng Hậu mang ý nghĩa đó, chỉ thị đó là Hương thơm của miền Nam. Tên đó biểu thị cả nết lẫn người đem lại vinh dự cho người dân xứ Nam Kỳ. (LTS: tác giả ghi chữ đậm) Nhưng cái khó lớn lao nhất Bà phải đương đầu vì Bà là người Công giáo. Những chỉ dụ cấm đạo hồi nào mới chỉ vừa ráo mực. Lòng người chưa ổn. Điều đó cũng chứng tỏ Bà là người có cá tính, can đảm và trung thành với đạo giáo của Bà. Giả dụ một người đàn bà khác thì sao? Sẽ bỏ tất cả, sẽ làm tất cả và bằng bất cứ giá nào để được làm Hoàng Hậu. Hiểu đến cội nguồn mới hiểu được nhân cách của Bà, cái cao quý của một nhân phẩm và cái trong sáng, ngay thẳng của một người đàn bà có giáo dục. Chỉ về một điểm này thôi, Bà là người đáng nể trọng. Qua những người phục vụ chung quanh vua và Hoàng Hậu sau này, mọi người không kể bất cứ ai đều bầy tỏ lòng kính trọng và quý mến cái nhân cách của Bà.

3. NGÀY ĐÁM CƯỚI


Mọi chuyện đã xong. Dư luận cũng tạm ngưng tiếng nói. Những đám mây mù đã tan. Phần lớn nhờ vào sự cương quyết đến cứng rắn của vua Bảo Đại. Huế chờ đón một biến cố có một không hai trong lịch sử triều Nguyễn, một mẫu nghi thiên hạ đến từ miền Nam với những sắc thái mới đến làm xôn xang mọi người. Một cô gái xinh đẹp nhất miền Nam, Tây học, con nhà danh gia vọng tộc cộng thêm là một người Ki tô giáo. Bấy nhiêu thứ đụng vào những sắc thái truyền thống, cổ truyền đã gắn bó với Huế từ cả mấy trăm năm nay. Huế cổ kính, Huế lãng mạn, Huế trầm mặc, Huế khép kín, Huế đẹp, Huế thơ. Huế có tất cả, trừ một làn gió mới. Chuyện đó đã xảy ra. Vào ngày 20 tháng 3 năm 1934, người con gái đến từ phương Nam mang theo cả cái hương thơm miền Nam đã quyết định bước qua ngưỡng cửa hoàng cung, vào Cấm Thành. Và do tình yêu gắn liền với định mệnh, một định mệnh không khỏi có trớ trêu, vào buổi sáng mùa xuân đó, cả một cuộc đời mới đã mở ra. Bỗng chốc cô trở thành Hoàng Hậu của cả nước. Từ nay, không còn ai nhắc đến cái tên Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan nữa. Cô là Nam Phương Hoàng Hậu. Lòng chắc đầy cảm xúc suốt hành trình từ trong Nam ra Huế, chen lẫn lo âu và sung sướng, trong niềm hân hoan không gì tả xiết, mỉm cười chấp nhận những gì sắp tới xảy ra cho mình, trong cảm thức mình là người độc nhất có cái vinh dự làm Hoàng Hậu cả nước. Và trong phẩm phục áo mầu vàng, một ân huệ đặc biệt mà vua đã dành cho nàng, đầu nàng đội mũ có kết trân châu bảo ngọc, đi hia mũi nhọn, tay cầm hốt ngà tiến vào hoàng cung. Từ bên ngoài nhà khách trú của hoàng cung, cô đã bước lên xe hơi để đi vào Cấm Thành, qua cửa Hiển Nhơn mà hai bên có những người lính hầu, chân quấn xà cạp, đứng nghiêm chỉnh như những tượng gỗ. Buổi lễ đã được diễn ra từ điện Cần Chánh. Hãy nghe Hoàng Thượng kể lại: "J ai en effet, décidé d élever ma femme à la dignité d impériatrice dès notre mariage, alors que jusque-là ce titre n était attribué qu à la reine-mère, après le décès de l empereur. Revêtue de la longue et ample robe de Cour, chaussée de costumes à la pointe retounée, coiffée d!une sorte de bonnet enrichi de pierreries, pour la première fois dans l histoire de l Annam, une femme s avance seule, saluée par toute la Cour. Toujours seule, elle pénètre dans la grande salle òu je l attends, ***is sur un trône bas" (trang 64). Vâng, bây giờ, chung quanh đầy bá quan văn võ, Bà vẫn "seule" và cả đời bà sau này cũng "toujours seule". Trong suốt hơn 10 năm sống ở Huế, Bà vẫn seule như thế giữa đám thị nữ, quan thần, dòng tộc, giữa những sắc thái dị biệt miền, tiếng nói, tôn giáo, nếp sống văn hoá, học vấn. Chỉ những sự khác biệt đó thôi cũng đẩy Bà vào tư thế một mình Và đã theo đuổi suốt cuộc đời còn lại của Bà. Ôi nhận xét của Bảo Dại trong ngày đám cưới không ngờ có tính cách định mệnh oan trái của đời Bà. Sau buổi lễ, vua đã đưa Hoàng Hậu về điện Kiến Trung mà trước đó Ngài đã cho sửa chữa lại thành một cung điện có những tiện nghi mới theo những tiện nghi bên Âu châu, trong đó có phòng ăn, phòng ngủ, phòng tiếp khách, phòng làm việc. Và nhất là phòng tắm và vệ sinh. Hồi còn trẻ, có dịp ra Huế khá nhiều lần, ở lâu đến một tháng hơn tháng là thường. Tôi chỉ có một thắc mắc: Chẳng biết vua chúa, cung phi đi cầu và tắm rửa ở đâu. Cả ngàn người như thế, không thấy một cái cầu tiêu nhà tắm nào. Đó là nét lạ của Huế. Ai hiểu Huế hơn thì xin chỉ cho. Hiểu ra rồi thì không khỏi buồn cười một mình. Từ nay, Bà ra vào điện Kiến Trung mà trọng trách của Bà là cùng với vua cai trị thần dân, đặc trách lo về những vấn đề xã hội theo lời yêu cầu của chính vua Bảo Đại. Để kết thúc phần này, xin dẫn lời kể của vua Bảo Đại cho thấy vai trò quan trọng của ông bà Charles trong cuộc hôn nhân này: "Le soir du mariage, nous invitons M. et Mme Charles à diner. Estimant leur mission accomplie ils vont repartir pour la France". (trang 64) Phải nhìn nhận ở đây, lần đầu tiên, vai trò người phụ nữ đã thay tên đổi họ và đã hẳn, cách này cách khác đã ảnh hưởng trực tiếp trên xã hội người phụ nữ Việt.

4. ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH CỦA HOÀNG GIA


Hoàng Hậu là phụ nữ đầu tiên có tân học, ảnh hưởng nếp sống, nếp nghĩ Phương Tây, trọng tinh thần dân chủ, trọng ý thức xã hội. Bà không phải là người chỉ quanh ra quẩn vào chờ cái đèn lồng tối hôm đó thắp sáng lên, rồi tíu ta tíu tít chuẩn bị son phấn, đón tiếp như một thứ đồ giải trí cho vua. Bà tham dự vào tất cả. Họp với các quan bộ lễ, bàn và nghị sự tổ chức các buỗi lễ tế Nam Giao hay lễ Vạn Thọ. Chẳng hạn, lễ Vạn Thọ khánh tiết mừng sinh nhật vua thường được diễn ra trong điện Thái Hòa. Tổ chức lễ Bái Khanh cho mọi người có dịp bầy tỏ lòng trung thành đồng thời chúc thọ nhà vua trăm tuổi. Ngoài đường, các học sinh đi diễn hành, tay cầm cờ Long Tinh, hát bài đăng đàn diễn hành qua cửa Ngọ Môn. Bên trong hoàng thành thì tổ chức các màn múa hát do các nữ học sinh trung học trình diễn và màn dâng hoa cho Hoàng Thượng và Hoàng Hậu. Nên nhớ là không có những màn hát hoặc tuồng tích cổ nữa. Cũng nên nhớ là con trai chỉ được đi diễn hành ngoài đường, ở ngoài hoàng thành mà thôi. Chỉ nhớ lại các buổi lễ chúc thọ vua với lề lối tổ chức, cho nữ sinh vào ca hát, dâng hoa, người ta hiểu những quyết định đổi mới đến từ đâu rồi. Bà cũng là người phụ nữ đầu tiên ở nước ta cùng vua tiếp khách ngoại quốc như Thống chế Tưởng Giới Thạch, Quốc trưởng Shianouk. Cái mà bây giờ người ta gọi là vai trò đệ nhất phu nhân. Bà cũng là Hoàng Hậu đầu tiên xuất cung, tham gia các sinh hoạt xã hội như đã đi thăm các cô nhi viện, trường nữ Trung học Đồng Khánh Huế, Hànội, các cô nhi viện hoac cơ sở Xã hội v.v.. Ngày chủ nhật, Bà đi lễ nhà thờ Phủ Cam như mọi người dân bình thường. Cũng là chuyện lạ. Dó là người phụ nữ theo Kitô giáo đầu tiên trong ngôi vị Hoàng Hậu, ngôi vị mà ngày nay nghĩ lại cũng khó mà tưởng ra là có thực. Sáng sớm tinh mơ, Bà ra khỏi Hoàng Cung, không ngồi kiệu với màn che phủ kín làm bà khó chịu như ngồi trong cũi. Nội điều đó thôi cũng có thể gây ra những xầm xì to nhỏ. Lần đầu tiên, trong Hoàng cung, triều đình nhà Nguyễn, vóc dáng một người phụ nữ uy nghi, đoan trang đem lại những nét đổi mới trong sinh hoạt cung đình: giản dị hoá lễ nghi, giản dị trong những tương quan giao tiếp giữa bầy tôi và chủ, tư tưởng phóng khoáng, ngay thẳng, ghét những xum xoe xu nịnh, những lời xàm tấu. Lần đầu tiên, một người phụ nữ Việt Nam cùng vua tiếp đón các nguyên thủ quốc gia khác trong vai trò đệ nhất phu nhân như bây giờ. Toàn quyền Decoux đã hết lời khen ngợi bà là người đức hạnh, nề nếp, một sự tổng hợp hai nền văn hoá đạo đức Dông Tây. Về phía quốc tế, Hoàng Hậu đã nhận được những bằng khen của Hàn Lâm Viện Y khoa Pháp và của Hội Hồng Thập Tự Quốc tế. Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng cho tất cả giới phụ nữ Việt Nam noi theo... Nhất định giới phụ nữ Việt Nam nhờ vào Bà đã trở thành tấm gương để mọi phụ nữ noi theo. Hình ảnh người phụ nữ nhờ đó được cải thiện, nâng cao và đổi mới. Bà có năm người con lần lượt là Bảo Long, Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung và Bảo Thắng. Ngày thái tử Bảo Long ra đời, mồng 4 tháng 01, năm 1936 đã thi hành đúng như trong sách Hội Điển, người ta đã bắn 7 phát súng thần công để loan báo tin mừng. Phải bắn 7 phát, vì theo tục lệ, đàn bà 9 vía còn đàn ông 7 vía. Gia đình Hoàng gia theo lối sống mới ra bên ngoài như vua thường lái xe đi nghỉ hè ở Nha Trang, Đà Lạt... (5) Hoặc đi trên du thuyền Phi Long, đi câu cá ở biển Nha Trang để tránh nóng oi bức ở Huế. Cũng tại Đà Lạt, gia đình Hoàng gia có dịp đoàn tụ với ông bà bá tước và các con của gia đình này. Đôi khi Hoàng Hậu cũng theo vua đi câu hoặc đi săn thú rừng ở Ban Mê Thuột hay Đà Lạt. Đây là những ngày tháng tương đối êm đềm và hạnh phúc của đời Bà.

5. NHỮNG NGÀY THÁNG ĐEN TỐI


Có được hơn mười năm êm ấm hạnh phúc. Những tháng ngày còn lại báo hiệu những đám mây mù phủ kín tâm tư. Tháng 9 năm 1945, vua Bảo Đại do sự thúc ép của Việt Minh buộc phải từ chức, thoái vị và nhận chức cố vấn bù nhìn cho ************. Cuộc tiễn đưa cựu Hoàng ra Hà Nội đầy bất trắc rủi ro. Rủi ro về chính trị đã đành. Vậy mà rủi ro đến hạnh phúc gia đình lại là điều có thực. Những tin đồn về những cô gái Hà Nội và cả những mệnh phụ đã không thư từ mà vẫn tới Huế. Lý Lệ Hà là một trong số những người đó. Trong hồi ký của Trần Văn Đôn, ông đã nói trắng ra một mệnh phụ phu nhân, bà TVC nữa. Sự đời sao có thể éo le thế. Trong dịp Phan Khắc Hòe về Huế, người đã bán đứng Bảo Đại, Hoàng Hậu đã hỏi thẳng Hoè về Lý Lệ Hoa. Hoè xác nhận là có thực còn nói thêm đó là một cô gái đẹp. Hoàng Hậu bị xúc phạm nặng nề, nhưng vẫn giữ sự im lặng vốn có của Bà, vẫn nhờ Hòe cầm một số tiền gửi ra cho Bảo Đại chi dùng. Chẳng hiểu Phạm Khắc Hoè và Việt Minh có dính dáng gì đến việc hủ hoá của Bảo Đại hay không. Nào ai biết được. Những người như ông Mai Văn Hàm đã tài trợ cho Bảo Đại ăn ở Hà Nội lẽ nào hại Bảo Đại đến thế. Nhưng hoàng thân anh em họ với Bảo Đại không lẽ cũng có cổ phần vốn phá hoại gia đình ông Bảo Đại chăng? Chuyện đời khó biết được. Danh sách những người đẹp lăng nhăng với Hoàng thượng thêm dài, một cô gái Tầu Hồng Kông, Phi Anh và nhất là Mộng Điệp. Không thiếu những mệnh phụ tỉ tê, xàm tấu với Bà. Bà nghe đã nhiều, thường giữ thái độ im lặng, có thể phần không muốn nghe, phần đã quá rõ, phần tự ái không muốn ai nhắc tới. Có thể còn muốn bảo vệ uy tín hoàng tộc và cho cả con cái Bà. Cứ thế, Bà ẩn nhẫn chịu đòn một mình theo cái cách của người được ăn học, ngưới có nhân cách. Bà đã tự chọn con đường của mình phải đi, từ giã vinh hoa, phú quý và nhất là chấp nhận sự quên lãng của Hoàng thượng. Vì vậy, kể từ năm 1950, dòng họ Nguyễn với Bảo Đại kể như không còn ở trong mắt Bà nữa. Năm 1950, con gái út mới 8 tuổi, ai có thể chia xẻ nỗi đau của Bà. Bà có thể làm gì được để gánh nổi cái gia tài Bảo Đại đã để lại. Bà quyết định mang các con sang Pháp, phần lo chuyện học hành của chúng là chính, phần tránh xa những nhớp nhúa của dư luận. Bạn bè cũ nay còn ai. Gần không còn ai. Bà ra đi, Bảo Đại càng đi xuống. Nay thì có những tôi thần như Bảy Viễn, Phan Văn Giáo cung cấp cho ông tất cả những gì cần thiết ở đời: tiền bạc và gái đẹp. Phải chăng, ông chán ngán thế sự để buông rơi vào chỗ bê tha. Phải chăng ông chán ngán tình đời đi tìm quên đời bằng thân xác người phụ nữ. Lấy cái gì để bào chữa cho ông trong việc phẩy tay chuyện đất nước. Viết về ông thấy cả đời ông chẳng làm đuợc tích sự gì, ông chỉ làm được một điều tốt là cả đởi làm chính trị ông chẳng làm hại ai bao giờ, dù là những người đã bỏ ông như Ngô Đình Diệm và nhất là ************. Cả cuốn sách ông viết, chẳng bao giờ thấy ông hạch tội hay nặng nhẹ với những người như ông Ngô Đình Diệm. Vậy mà tôi vẫn oán giận ông, chắc là tôi không cần nói ra, ông vẫn khắc hiểu hơn ai hết. Nhưng dù sao, mọi chuyện cũng đã quá muộn rồi. Nói gì nữa bây giờ cũng vô ích. Riêng Hoàng Hậu, tháng ngày còn lại ở bên Pháp đã từng bước, bước đến chỗ để về. Mỗi ngày, mỗi năm tháng cứ héo mòn đi như cái cây không có nước, cứ ủ rũ cho đến lúc tàn lụi. Ngày một, ngày hai, mỗi ngày vẫn phải chạm chán với cuộc sống thực bên ngoài và nỗi cô đơn bên trong. Nổi cô đơn từ mọi phía, nỗi cô đơn cã đời. Dến như tôi có thể dám thốt ra lời này: Chỉ nhìn con mắt, cảm nghiệm được đời bà là một niềm cô đơn. Đừng ai hạch hỏi tôi tại sao nói thế. Lại thêm vật chất không dư giả như trước nữa, sức khỏe suy yếu vì bệnh suyễn và tim. Tháng ngày vẫn trôi qua, dần dần những trông đợi thù đáp nơi người, niềm hy vọng có ngày trở lại bị xói mòn sẽ dấy lên những câu hỏi về cuộc đời, về cớ sự đa đoan, về tình người và cuối cùng về tình vợ chồng. Bà sống cô đơn thế nào thì mất im lặng như thế ngày 14-9-1963 tại làng Chabrignac. Bên cạnh chỉ có hai hoàng tử và ba công chúa sau mới về. Thực sự chỉ có hai người giúp việc bên cạnh lúc Bà mất. Phần đời Bà, còn rất nhiều điều chưa được sáng tỏ còn nằm trú ẩn trong vùng bóng tối của đời Bà. Nhưng phải chăng chính cái phần bóng tối này lại là nơi trú ẩn an toàn nhất mà Bà muốn giữ lại đem về bên kia thế giới. Và nếu thực sự như thế thì chúng ta chỉ còn biết tôn trọng ý nguyện của Bà và phải chăng Bà đã ra đi và không còn gì để nhắn gửi và nói lại nữa. Một ngôi sao đã đổi ngôi. Số phận Bà có gì trùng hợp với phận người phụ nữ nói chung. Có lẽ cần suy nghĩ thêm vẫn chưa muộn.
Hoàng Đế Bảo Đại & Hoàng Hậu Nam Phương

Chú thích
(1) Trong cuốn Thuyền ai đợi bến Vân Lâu của Nguyễn Lý Tưởng có đặt vấn đề vua Bảo Đại là con ai? Xét ra cũng là một đề tài lý thú để bàn. Do sự quan hệ với một vài liên hệ với hoàng tộc, tài liệu cho biết, Bảo Đại là con vua Khải Định, nhưng mẹ là bà Hoàng Thị Cúc vốn chỉ là người hầu trong cung. Khải Định hình như không có con, nhưng khi bà Hoàng Thị Cúc có mang thì Thái Hậu, Đức Chánh Cung tra khảo đánh đập, hoàng tử Bửu Đảo, tức Khải Định đã đứng ra xin như sau: "Thưa A, thai nhi trong bụng Hoàng Thị Cúc chính là con của hài nhi. Vì dòng dõi của mình (vua Đồng Khánh) hiếm muộn, nên ả tha cho Hoàng Thị Cúc và cho phép hài nhi được cười nàng làm thiếp. Ấy là theo lời kể lại của bà Nguyễn Thị Vy, cháu nội ông Nguyễn Hữu Độ (Phụ chính đại thần vua Đồng Khánh). Một dẫn chứng khác qua lời nói lại của ông Bửu Uyển thì trước 75, bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại), lúc đó đã ngoài 80, đã kể lại cho con cháu nghe, trong đó ông Bửu Uyển cũng có mặt. Theo đó, Đức Từ Cung cho biết, lúc làm gái hầu cho Ngọc Lâm Công Chúa, con vua Đồng Khánh. Công Chúa thường sai bà mang thư cho Bửu Đảo, (hai nguời trao đổi thơ xướng họa với nhau). Hai người ăn nằm với nhau, sau đó bà có thai và sinh ra Vĩnh Thụy, tức vua Bảo Đại sau này. Cả hai nguồn tin đều xác nhận Bửu Đảo ăn ở với Hoàng Thị Cúc, rồi có con. Chính sử không có, đành tin vào những nhân chứng sống. Điều chính là bà Hoàng Thị Cúc, sau này là Đức Từ Cung là mẹ vua Bảo Đại. Chừng đó đủ rồi. (Xem Thuyền Ai Đợi Bến Vân Lâu, trang 395-401, của Nguyễn Lý Tưởng).
(2) Theo Hoeffel, trích trong Indochine "Bài La région Saigon, Cholon". Sài Gòn, Chợ Lớn lúc bấy giờ chỉ rộng có 5000 mẫu Tây, chiều dài từ Đông sang Tây là 15 kilô mét và chiều rộng có vỏn vẹn 6 kilô mét.
(3) "La naissance de Dalat", của ông A.Baudrit viết: Đà Lạt được khám phá ra vào năm 1893. Sau đó mãi đến năm 1898, người ta mới khai thác được một vùng để làm một cái vườn với mục đích cung cấp rau cho đoàn nguời lên công tác. Vì thế, vườn rau đặt tên là "Ferme de Dankin". Sau đó, tác giả tự đặt câu hỏi "Est-ce alors que commenca la création de Dalat". Hỏi rồi tự mình trả lời: "Pas encore". Nhưng điều sau đây mới thực sự quan trọng và có ý nghĩa. Trong một bài báo khác giấy nhiều chỗ đã mủn và rách, vừa đọc, vừa đoán mò không rõ tên tác giả có ghi chép: vào năm 1934, Giáo Hoàng Pio 11 mới yêu cầu mẹ bề trên Cả của dòng đưa các sơ ra hải ngoại. Cái duyên là họ đã quyết định sang truyền giáo ở bên Việt Nam. Vì thế, họ đã thiết lập hai trường: một ở Đà Lạt, một ở Hà Nội, khu Ngọc Hà. Nhưng mãi đến năm 1937, trường sở mới được xây dựng xong. Trong khi đó Cô Nguyễn Hữu Thị Lan đã làm đám cưới với vua Bảo Đại từ năm 1934. Như thế cả hai chị em quả thực không thể nào học Couvent des Oiseaux được. Chỉ có sau này, khi đã lên ngôi Hoàng Hậu, bà có ghé thăm trường mà thôi.
(4) Năm 1927, có bài viết "Le mariage d une princesse d Annamite" trên báo Thần Kinh. Tờ Nam Phong , năm 1923, số 69 cũng có bài viết tương tự. Năm 1934, trên Bulletin des Amis du vieus Hue (BAVH), trang 145-168 , trong một bài viết có nhan đề "Cérémoniale d autrefois pour le mariage des princesses d Annam" của L. Sogny. Khi các công chúa được 16 tuổi thì bắt đầu phải để ý đến chuyện gả chồng cho các cô rồi. Thoạt đầu, người ta chọn ra một danh sách các con, cháu, ngay cả đến chắt các công thần nộp lên vua. Vua chấm dấu đỏ vào tên anh nào, anh đó có may mắn được làm phò mã. Sự cố xảy ra sau đây thêm phiền phức vô kể. Lúc Thiệu Trị mất theo tục lệ, mọi chuyện cưới hỏi phải ngưng để tang vua cha. Đến Tự Dức thứ tư, nghĩa là năm 1854, số các công chúa chưa chồng trong 3 năm lên đến 30 cô, tất cả gồm các con của Minh Mạng, Thiệu Trị gom lại. Lúc đó, nhiều công chúa đã quá tuổi 16 thuộc loại già cỗi (Abricot murissant), chưa có ai rước đi. Trong số các công chúa, nhiều cô xấu xí lại càng khó kiếm chồng hơn. Dư luận thời đó đồn thổi có nhiều con trai các công thần sợ phải lấy mấy công chúa hoặc vì quá lớn tuổi, hoặc xấu không hợp nhãn đành đánh bài ba chân bốn cẳng chốn mất dạng. Triều đình không biết làm thế nào đành phá lệ tuyển bổ xuống hàng quan lại thường. Nào đã xong, còn xem tuổi tác công chúa có hợp không đã. Rồi cho tên tất cả những ứng viên đó vào trong hộp sắt, lắc đều, công chúa bắt trúng tên ai thì nguời đó đuợc làm phò mã. Công chúa chỉ biết mặt lúc đám cưới nên cũng tìm đủ cách để xem mặt phò mã tương lai là ai. Cũng nhiều cảnh cuời ra nước mắt. Thủ tục cưới hỏi cũng nhiêu khê phiền toái lắm, vất vả lắm. Từ lễ nạp thai đến vấn danh, rồi nạp trưng, nạp cát, sau đến lễ thân nghinh và hiệp cẩn, công chúa và phò mã ăn chung một miếng thịt một con vật, rồi uống rượu. Mọi chuyện xong thì mỗi phò mã được thưởng 3 nghìn lạng bạc để mua nhà ở, gọi là phủ, cộng với 3 vạn lạng để sắm sửa quần áo, đồ dùng và đồ trang sức v.v.. Ngoài ra, phò mã còn có 50 người hầu, có một đội trưởng do triều đình ứng trả chi phí lương bổng. Ôi trùng trùng điệp hết lễ này đến lễ kia. Cưới xong cũng trầy da, chóc vẩy. Cũng nên nhớ, chỉ có vua là có cung phi cung nữ, bao nhiêu cũng được. Còn phò mã thì không được quyền có vợ hai, chỉ trừ khi công chúa không có con.
(5) Nhân đây, có đọc được một bài báo khá lý thú, đề cập đến đến chuyện du xuân đặc biệt của vua Đồng Khánh. Bài báo còn lý thú hơn nữa là tác giả Phan Thuận An, tự nhận là "nhà nghiên cứu Huế". Gọi là nghiên cứu chứ thật ra ông đã dịch và chép nguyên con một bài của Cosserat, trong BAVH, Huế từ trang 301 đến trang 306, có nhan đề là "Les Fêtes du Tết en 1886 à Hue. Promenade du roi". Trong đó, Cosserat chép lại bài tường thuật của phóng viên báo Figaro, lúc đó cũng có mặt ở Huế. Thật ra chả nên làm thế để làm gì. Nội dung bài báo lại tỏ ra không nắm vững cho lắm. Từ lúc thay thế vua Hàm Nghi, Đồng Khánh chỉ là thứ bù nhìn dễ sai bảo của người Pháp. Vì thế tướng Prudhomme, lúc đó đang ở Huế đã yêu cầu nhà vua phải xuất hiện ngoài hoàng cung để cho dân chúng biết là vua không bị quản thúc. Mục đích của Prudhomme chỉ có vậy. Và đơn giản chỉ có vậy.

Sau 40 năm tưởng nhớ Hoàng Hậu
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=425514

Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 09/May/2011 lúc 11:19pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
ranvuive
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 02/May/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1151
Quote ranvuive Replybullet Gởi ngày: 12/May/2011 lúc 9:10am
 

TRƯƠNG CÔNG ĐỊNH





 

IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 202 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.316 seconds.