Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 135
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23817
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Jul/2025 lúc 1:13pm

Người ĐÀN ÔNG Vừa LY DỊ VỢ 


5510%20NguoiDOngVuaLyDiVoKTAnGang

        Anh ký vào tờ đơn ly hôn bằng một cây bút mực nước màu xanh. Họ đưa anh một cây bút bi, anh bảo: “Không. Tôi muốn viết bằng mực.”
       Cô nhân viên phòng hộ tịch nhìn anh như nhìn một gã gàn dở. Nhưng anh vẫn viết, nét chữ nắn nót như ngày còn học Văn khoa Sài Gòn.
       Tờ đơn ấy là thứ duy nhất trong cả cuộc hôn nhân này mà anh viết một cách thảnh thơi. Ly hôn mà như được tặng quà. Anh biết, hôm nay phải làm một ly. Chỉ cần mình anh thôi- cũng đủ thành dạ tiệc.
        Mọi người đều nghĩ họ hạnh phúc. Một cặp đôi vợ viết văn, chồng làm thơ, có thẻ xanh điều 51- thứ dành cho tỵ nạn chính trị. Họ sống trong một căn hộ cổ ở Moabit - tầng áp mái - nơi mùa đông lạnh như một trang bản thảo bị bỏ quên.
       Anh từng viết những truyện ngắn đăng báo ở Việt Nam, rồi bị cấm. Cô thì viết tiểu thuyết - loại tiểu thuyết được các hội nghị quốc tế mời phát biểu, được dịch sang vài thứ tiếng và đoạt hai giải không to không bé. Họ có hai đứa con: một đứa chuyên IT, một đứa chuyên nhạc. Thành đạt, ngoan ngoãn, có phần xa cách- nhưng ai lại đòi hỏi con cái sống trong xã hội phương Tây phải gần gũi với cha mẹ như thời xưa?
       Trên mạng xã hội, họ hay đăng ảnh đi chợ phiên, uống vang trắng bên sông Spree, ngồi gọt khoai với con. Người ta bình luận: “Gia đình hạnh phúc quá, nhìn mà ghen tỵ.”
Cô luôn trả lời bằng một icon trái tim.
Anh thì im lặng.
       Mười tám năm. Họ sống với nhau như hai người bạn cùng phòng, cùng lý tưởng, cùng tị nạn khỏi một quê hương không còn nơi để về.
     Cô thông minh, viết sắc sảo, giao thiệp rộng, quen biết mọi nhà văn Đức từ Frankfurt tới Munich. Cô nói tiếng Đức giọng chuẩn hơn cả dân bản xứ, và có thể tranh luận chính trị bằng ba thứ tiếng trong khi gọt táo cho con. Giới văn nghệ từ trong nước đến Berlin thường kết nối trước với cô. Nếu xuôi- coi như đã qua một cửa.
       Anh thì lặng lẽ hơn. Thích đọc triết học cổ, trồng cây gia vị trên ban công và viết truyện ngắn về những gã đàn ông cô độc. Khi không viết được gì, anh làm thơ. Những câu thơ ngắn như lúa vón đòng. Đọc không biết nên hiểu thế nào, y tranh lập thể của hoạ sĩ chưa bao giờ học qua hình họa.
Cô bảo: “Viết như anh thì không ai in đâu, lỗi thời rồi.”
Anh không phản bác. Anh chỉ cười: “Viết là để sống sót, không phải để in.”
      Mỗi lần có bạn tới nhà, cô là người tiếp khách. Anh đứng sau cánh cửa bếp rửa chén. Khi khách về, cô lại bảo: “Anh đừng ngồi đấy nữa, anh khiến người ta thấy anh bất hạnh.”
       Anh lại cười: “Anh chỉ thấy bình yên thôi.” Nói xong lấy guitar ra gẩy. Anh không hát và hát không hay. Phòng bên, thằng con học nhạc mổ phím dương cầm như bão. Cô lại bảo: như cái chợ. Anh để yên cho thằng bé tập nốt Children's Corner. Mai thi rồi.
Anh không nói gì. Ôm cây đàn như ôm một hợp âm đã rạn.
       Ly dị bắt đầu từ một điều không ai ngờ tới. Một buổi chiều tháng mười, sau khi đi dạy ở trường dự bị đại học về, cô nói:
- Em sẽ chuyển ra ngoài sống một thời gian.
- Bao lâu?
-Chưa biết. Có thể là vĩnh viễn.
Không có nước mắt. Không có cãi vã.
Cũng không có một lý do cụ thể.
Chỉ là: hết.
       Sau này anh mới biết, cô đã có người khác - một dịch giả người Đức, góa vợ, thích nhạc cổ điển và có căn nhà gỗ ở Potsdam.
Ban đầu, hai đứa con không tin. “Không thể nào, bố mẹ luôn vui vẻ mà.”
       Đứa con trai lớn đấm vào tường thay vì đấm vào đàn. Con bé út thì không nói một lời trong hai tuần.
Từ đó, một màn kịch bắt đầu rơi màn.
Đứa con gái nói: “Mẹ luôn kiểm soát mọi thứ.”
Đứa con trai thú nhận: “Con từng nghĩ mẹ chỉ yêu bản thân mẹ.”
Anh không ngạc nhiên. Anh chỉ buồn.
Khi cuộc chia tay diễn ra, anh nhận nuôi cả hai đứa. Cô không phản đối.
Cô bảo: “Anh không biết dạy con đâu.”
Anh im lặng. Vì anh biết, có những điều không thể dạy bằng sách.
Rồi những điều anh từng cố che giấu bắt đầu rơi ra như gỉ sắt.
       Cô viết một bài tiểu luận dài bảy trang, đăng trên một tờ báo văn chương Đức, kể về “sự áp bức vô hình trong gia đình Á Đông”, về người chồng “trầm lặng nhưng độc đoán, ngọt ngào nhưng gia trưởng.”
        Anh đọc mà không nhận ra mình. Nhưng rồi anh nhớ lại, có lần, cô bảo: “Văn chương là thứ cho phép mình giết người mà không bị kết án.”
      Bạn bè của cô cắt liên lạc với anh. Những nhà văn từng chụp ảnh chung, bắt tay nhau, giờ tránh ánh mắt anh trong các hội nghị. Còn anh thì không viết thêm gì nữa.
Không phải vì đau. Mà vì không còn thấy gì cần phải kể.
Một năm sau ngày ly hôn, anh nhận được thư mời đến tòa.
Cô muốn chia tài sản lần hai. Lần này, là căn hộ cũ anh đang sống với các con.
“Vì tôi cũng góp công dựng nên tổ ấm này” - cô viết trong đơn.
Không một lời hỏi thăm con cái.
      Khi gặp lại trong phiên điều trần, cô mặc áo khoác cashmere, đi giày Prada, tóc cắt kiểu Pháp. Cô hơi đẫy ra.
Anh mặc chiếc áo khoác dạ cũ mèm đã vá ở hai tay.
Luật sư của cô hỏi anh: “Ông có tài sản riêng gì không?”
Anh đáp: “Chỉ có một cuốn sổ tay và hai đứa trẻ.”
Cuối cùng, cô cũng từ bỏ căn hộ. Không phải vì nhân nhượng, mà vì ngôi nhà mới của cô ở Potsdam có bồn tắm thủy lực và lò sưởi đốt gỗ.
Anh từng nghĩ: có thể họ chỉ sai thời điểm.
Nhưng dần dà, anh nhận ra, có những người không có khả năng yêu trọn vẹn.
Họ chỉ yêu khi tình yêu phục vụ cho tham vọng của họ.
Cô từng bảo anh: “Em cần một người đàn ông khiến em nể.”
       Nhưng nể không phải là yêu. Nể là khi người ta thấy mình yếu thế - và muốn vượt lên. Còn yêu là khi người ta để mình yếu đuối- và vẫn được ôm lấy, lấp đầy.
      Cô không có khả năng ấy. Cô là một người mẹ giỏi, nhưng không dịu dàng. Một người vợ chăm lo, nhưng không tha thứ. Một nhà văn tài năng, nhưng không có lòng nhân ái.
Không ai đủ sức sống gần cô quá lâu. Kể cả con cái.
Một lần, con gái anh - khi ấy mười bảy tuổi - hỏi:
- Bố có còn yêu mẹ không?
- Bố thương một phiên bản của mẹ mà chính mẹ đã giết từ lâu.
- Nếu ngày xưa bố phản kháng, mọi thứ có khác không?
- Không. Vì mẹ con không cần ai phản kháng. Mẹ con cần thắng.
Con bé nhìn anh rất lâu. Rồi nó khóc.
Không phải vì thương mẹ. Mà vì sợ mình sẽ giống mẹ.
Giờ đây, anh sống một mình, trong căn hộ ba phòng cùng hai con.
Chúng vẫn đến thăm mẹ mỗi cuối tuần - theo thỏa thuận tòa án. Nhưng không bao giờ ngủ lại.
Anh không hỏi. Chúng cũng không kể.
      Thỉnh thoảng, anh thấy cô xuất hiện trên truyền hình Đức, nói về nữ quyền, về di dân, về văn học hậu thuộc địa. Lần nào, cô cũng mặc áo trắng, nói bằng tiếng Đức trôi chảy và kể về một “cuộc hôn nhân ngạt thở kéo dài gần hai thập kỷ với một người chồng ít học và đầy kiểm soát.”
       Mỗi lần như vậy, anh lại pha trà, ngồi lặng lẽ ghi chú những từ cô dùng. Không phải để phản bác. Mà để nhớ: có những người phụ nữ càng thông minh, càng quên mất lòng trắc ẩn là gì.
Người ta hỏi anh có hận không. Anh bảo: “Không. Tôi chỉ thấy tiếc.”
- Tiếc gì?
- Tiếc cho một người phụ nữ có đủ mọi thứ trừ lòng nhân ái.
- Còn anh, anh có thiếu gì?
- Có. Tôi thiếu tham vọng để biến vợ mình thành công cụ viết lách. Và tôi thấy biết ơn vì điều đó.
Anh viết lại truyện đầu tiên sau ba năm.
Về một gã đàn ông sống với một bóng ma.
Bóng ma ấy không đáng sợ. Nhưng không ai xua đi được.
Tựa truyện: “Người đàn ông vừa ly dị vợ”
Anh không ký tên.
Chỉ để lại một câu cuối:
“Và người đàn ông ấy, cuối cùng, sống sót - không phải nhờ tình yêu, mà nhờ sự dửng dưng.”
Ka
Kiều Thị An Giang

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23817
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Jul/2025 lúc 8:40am

Mâm Cơm Gia Đình?!

Ảnh: Pinterest


Hồi nhỏ, tôi đã từng nghĩ mâm cơm gia đình là một điều hiển nhiên, một nghi lễ bất biến. Chiều nào cũng vậy, cứ tầm năm sáu giờ, cả nhà chúng tôi lại quây quần bên chiếc bàn gỗ cũ. Mùi cá kho tộ của mẹ thơm lừng gian bếp. Ba tôi, sau một ngày làm việc, sẽ kể vài câu chuyện vui. Chị Hai thì líu lo về những chuyện ở trường.

----

Bữa cơm không chỉ để no bụng, nó là một cái hẹn, một điểm dừng sau một ngày dài, nơi mọi người trút bỏ những lo toan và kết nối với nhau. Ngọn lửa trong bếp của mẹ không chỉ làm chín thức ăn, nó còn giữ ấm cho cả gia đình. 

Tôi không rõ sự rạn nứt bắt đầu từ khi nào. Có lẽ, nó bắt đầu từ chiếc điện thoại. 

Đầu tiên, chị Hai mang điện thoại lên bàn ăn. Chị vừa ăn vừa cắm mặt vào màn hình, cười một mình với những tin nhắn. Những câu chuyện của chị về trường lớp thưa dần, thay vào đó là sự im lặng và những câu trả lời nhát gừng. 


Rồi đến ba tôi, ông cũng bắt đầu xem tin tức, trả lời email công việc ngay trong bữa ăn. Không khí trên bàn ăn loãng dần. Những cuộc trò chuyện bị cắt vụn.

Rồi những chiếc ghế bắt đầu trống

"Tối nay con không ăn cơm nhà, con đi học thêm."

"Ba có hẹn tiếp khách, cả nhà cứ ăn trước đi."


Những lý do nghe có vẻ rất chính đáng. Cuộc sống hiện đại mà, ai cũng bận rộn. Nhưng tần suất lời từ chối ngày một dày hơn. Mâm cơm cứ vơi dần, không phải vì nhà thiếu thốn, mà vì thiếu người ăn.  

Mẹ tôi vẫn nấu, nhưng bà bắt đầu nấu ít lại. Những món cầu kỳ ngày xưa được thay bằng các món đơn giản hơn. Bà nói cho đỡ mất công, nhưng tôi biết, trong lòng bà có một nỗi buồn không nói thành lời. Ngọn lửa trong bếp dường như cũng bớt nồng nhiệt hơn trước. 

Mâm cơm từ một nơi sum vầy, dần trở thành một nghĩa vụ. Khi có đủ người, không khí cũng không còn như xưa. Ba tôi, mệt mỏi vì công việc, dễ cáu gắt vì những chuyện nhỏ nhặt.  

Chị Hai thì chê món này mặn, món kia nhạt, chị nói trên mạng thấy người ta nấu ngon mà sao mẹ mình nấu không ra gì. 

Sự im lặng bao trùm, nặng nề đến mức có thể nghe rõ tiếng nhai, tiếng bát đũa va vào nhau. Mọi người ăn thật nhanh, như để trốn thoát khỏi chính bữa cơm của gia đình mình. 

-----

Đỉnh điểm là vào ngày sinh nhật của mẹ 

Tối tôi thấy mẹ nằm trằn trọc suy nghĩ gì đó. Tôi không hiểu chuyện gì. 

Hôm sau, tôi thấy mẹ đi chợ từ rất sớm, nấu một bàn đầy những món mà cả nhà đều thích, hy vọng sẽ có một bữa tối ấm cúng như xưa. 

Mẹ không báo trước để cho cả nhà bất ngờ, tôi thì thấy nghi nghi. Ngồi nhớ lại thì biết hôm nay sinh nhật mẹ. Mà nghĩ lại, ba với chị tệ thật, sinh nhật mẹ cũng không nhớ.  

Buổi chiều hôm đó, chị Hai gọi điện báo có hẹn đi sinh nhật bạn thân đột xuất. Gần tối, ba cũng báo bận một cuộc họp quan trọng không về kịp.

Chỉ còn lại tôi và mẹ, ngồi trước một bàn đồ ăn thịnh soạn đang nguội dần. Mẹ không nói gì, chỉ lẳng lặng xới cho tôi một chén cơm. Nhưng khi mẹ quay đi, tôi thấy bờ vai gầy của mẹ rung lên. Bà đang khóc.

Bà gạt vội nước mắt, nhìn tôi cười gượng: "Mẹ không sợ cực, mẹ chỉ sợ nấu ra không có ai ăn... Cái nhà này, đến nỗi ăn với nhau một bữa cũng khó vậy sao?" 

Câu hỏi của mẹ như một nhát dao cứa vào lòng tôi. Tôi chợt nhận ra, chúng tôi đã để mọi thứ đi quá xa. Chúng tôi đã xem sự hiện diện của nhau, sự chăm sóc của mẹ là điều hiển nhiên, để rồi mải miết chạy theo mối bận tâm của riêng mình.

-----

Sự tan vỡ của một gia đình không phải lúc nào cũng bắt đầu từ những xung đột lớn lao, từ những lời chì chiết, mắng nhiếc. 

Đôi khi, nó lại bắt đầu từ chính mâm cơm, khi người ta không còn muốn ăn cùng nhau nữa. Người ta xem đó là một thói quen cứng nhắc, một nghĩa vụ, chứ họ không nghĩ rằng đó là sự tự nguyện, sự trân quý, sự yêu thương mà mỗi người cần có để kết nối với người thân trong nhà mình.  

Bởi vì khi họ từ chối một bữa ăn, thực ra là họ đang từ chối dành thời gian, sự quan tâm và lắng nghe cho những người thân nhất.


Tối hôm đó, tôi không nói gì nhiều. Tôi chỉ ngồi xuống, ăn hết phần cơm của mình, và khen đồ ăn mẹ nấu rất ngon. Tôi nói chuyện với mẹ nhiều hơn, về những điều nhỏ nhặt nhất, điều mà đã lâu rồi tôi không làm. 

Tôi thấy mẹ cười nhiều hơn, tôi cũng vui hơn.

Hóa ra, để hàn gắn một gia đình, đôi khi chẳng cần điều gì lớn lao. Nó bắt đầu đơn giản bằng việc, chúng ta đặt điện thoại xuống, nhìn vào mắt nhau, và cùng nhau ăn bữa cơm. Thường xuyên. Hỏi han. Quan tâm. Thế là đủ!


(Xa cách bắt đầu từ những bữa cơm, mà người ta không muốn ăn cùng nhau)


Nguyên Tác: vandieuhay.net

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23817
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 2:58pm

 “GỪNG CAY MUỐI MẶN”!


5525%202%20HgThiBichHa

       Chị Thiên Kim sinh trưởng vào thập niên năm mươi của thế kỷ trước, trong một gia đình khá giả có cửa hiệu buôn bán ở phố Ngã Giữa-đường Phạn Bội Châu, Huế (Từ năm 1976 đổi tên thành đường Phan Đăng Lưu). Hồi học trường Đồng Khánh chị đã nức tiếng hoa khôi, nên mỗi lần tan lớp, có nhiều “cái đuôi” theo về tận ngõ, hoặc trồng cây si trước cổng đợi tan trường. Thế nhưng chị con nhà gia giáo nền nếp, chăm lo học hành. Ngoài giờ học chị còn phụ mẹ làm các công việc nội trợ, đan lát thêu thùa rất khéo tay. Lúc nào cũng ăn nói nhẹ nhàng, duyên dáng. Tính tình đằm thắm chỉn chu nên rất được thầy cô và bạn bè thương mến. Chị có người anh trai tên là Trọng Bình. Anh Gia Phước là bạn của Trọng Bình, thường tới học cùng với anh Trọng Bình và được gia đình rất quý và coi như con cái trong nhà. Anh Gia Phước cũng rất quí Thiên Kim, cưng như em gái của mình. Ba anh em rất hợp nhau. Hai anh ngoài giờ học thì phụ việc trong nhà và bày vẽ thêm cho Thiên Kim học. Sau khi tốt nghiệp tú tài, chị Thiên Kim tiếp tục vào sư phạm. Anh trai chị và anh Gia Phước cũng đang bước vào năm cuối của trường sư phạm, chuẩn bị ra trường. Hồi đó sau khi tốt nghiệp, dựa vào số điểm sẽ được chọn nhiệm sở từ cao đến thấp. Theo nguyện vọng của mình, Anh Gia Phước chọn dạy trường trung tâm nội đô cho gần nhà. Còn anh Trọng Bình lại muốn bay nhảy tới nơi có khí hậu biển ở Mỹ Khê Đà Nẵng và cũng để gần nơi công tác của vị hôn thê của anh ấy.

       Thế rồi anh Gia Phước với công việc giảng dạy gần nhà, cũng đã yên bề gia thất nhưng lòng anh vẫn canh cánh lo cho đứa em đời là chị Thiên Kim mà anh rất cưng quý. Trong nhóm bạn của anh có một người ở trong thành nội. Đó là anh Trần Đình Tùng. Anh Tùng đang học trường võ bị Quốc gia Đà Lạt. Tướng tá coi cũng đặng, rắn rỏi con nhà lính. Có lần anh Gia Phước nói như đùa:

-Mi thích Thiên Kim đúng không? Mi với nhỏ thiên Kim được đó, mi cưới hắn đi cho tụi tau yên tâm, không thôi tao với Trọng Bình ai cũng có gia đình riêng mà nó chưa yên bề gia thất mặc dù cũng có mấy người đang theo đuổi nhưng Trọng Bình chưa ưa ý.

       Tưởng nói chơi vậy té ra Đình Tùng thích thật. Anh Tùng thầm yêu chị Thiên Kim lâu rồi nhưng đời lính xa nhà nên không dám tỏ, phần vì nể sợ anh trai Trọng Bình, sợ ảnh không đồng ý. Nay nghe anh Gia Phước mở lời anh Đình Tùng mừng như mở cờ trong bụng.Thế rồi trong những ngày nghỉ phép, anh Đình Tùng tới lân la làm quen nàng tiểu thư xinh đẹp và được sự hỗ trợ của hai người anh, chị Thiên Kim cũng xiêu lòng:

- Em lấy Đình Tùng được đó, nó con nhà đàng hoàng lại chững chạc, vẻ đẹp con nhà lính.

        Mà lính là thần tượng “người hùng”- một thời của các nữ sinh. Chị Thiên Kim dần dà cũng có cảm tình với anh Đình Tùng.

        Sau lễ tốt nghiệp của chị không lâu thì anh Đình Tùng cũng mãn khóa học ra trường với cấp bậc thiếu úy lục quân. Đám cưới được cử hành trọng thể trong sự chung vui của họ hàng hai bên và anh em bè bạn. Cô dâu xinh tươi trong tà áo dài lụa hồng, áo choàng voan và khăn vành rất đẹp bên chàng rễ thiếu úy lục quân bảnh bao. Hai người anh là Trọng Bình và Gia Phước rất vui khi cô em gái đã có bờ vai để dựa. Mừng cho hạnh phúc của anh chị. Hai người đã có cuộc sống rất vui vẻ hạnh phúc và rồi vài năm sau đó lần lượt hai đứa con trai kháu khỉnh ra đời, một gia đình đáng mơ ước, êm ấm, ríu rít tiếng trẻ thơ.

       Thế sự đổi dời, sau 1975, anh thuộc quân đội của bên thua cuộc nên anh bị đem đi học tập cải tạo.

       Ngày anh nhận được giấy triệu tập thông báo ra phường trình diện trong giấy có dặn chuẩn bị đồ dùng và thức ăn cho khoảng 10 ngày đến 1 tháng. Chỉ học tập chính sách rồi về.

       Nhưng khi anh tới thì được đọc tên lên xe chở ra các trại cải tạo ở miền núi phía Bắc chưa biết khi nào về. Chị Thiên Kim ở nhà một nách hai đứa con nhỏ. May mà chị còn được nhận đi dạy (diện giáo viên lưu dung). Chị đêm nằm lo lắng không yên, ngày đi làm và vò võ đợi chờ tin tức của anh. Sau sáu tháng chị mới nhận được tin của anh. Lá thư vỏn vẹn mấy dòng cho biết là anh khỏe, đang học tập cải tạo ở trại X 30 thuộc tỉnh …Tin để em hay! Gửi lời thăm ba mẹ hai bên. Nhớ em và con nhiều!

       Chị biết tin anh đỡ lo hơn, mặc dù đoạn đường phía trước còn rất dài. Nhưng có địa chỉ để đi thăm nuôi cũng là quý. Đồng lương thời bao cấp không đủ chi tiêu. Chị chạy vạy gửi con cho ngoại rồi buôn bán chạy chợ thêm bất kể nắng mưa, khuya sớm mới mong có tiền nuôi con, trang trải cuộc sống.

       Từ khi nhận được tin anh, chị bắt đầu chuẩn bị cho cuộc thăm nuôi. Đầu tiên là lên phường xã xin giấy đi đường, mua vé tàu và chuẩn bị mua sắm vật dụng, thức ăn khô, làm các món kho rim khô để anh dùng nhiều ngày, làm một số loại bánh rồi sấy khô, mua thêm áo quần, thuốc men để anh dùng . Xếp vào cả thảy 3 giỏ xách, mỗi giỏ khoảng chục kg rồi tất tả gửi con cho ngoại để đi thăm nuôi chồng. Lên tàu chợ thời bao cấp, nói sao cho hết nỗi cực nhọc, người và hàng hóa, có cả lợn gà vịt chen chúc, người ngợm vật vờ, bơ phờ như ma đói. Có khi tàu chết máy vài ba ngày trong hành trình là chuyện thường. Lên tàu còn nỗi khổ nữa là bị thuế vụ săm soi tưởng là đi buôn, thời này ai đi buôn mà thấy thuế vụ là khiếp đảm như thấy cọp. May mà lên tàu chị gặp được mấy chị vợ cùng cảnh ngộ cũng đi thăm nuôi chồng. Họ giúp đỡ nhau, canh cho nhau để chợp mắt lấy sức, hồi này hở là bị mất cắp. (có người đã từng bị trộm giật hết mấy giỏ đồ bới cho chồng, khóc như mưa)

       Đi bầm dập trên tàu mấy ngày đêm rồi cũng đến. Mấy chị em dắt díu nhau xuống một ga hẻo lánh thuộc xã miền núi biên giới phía Bắc xa xăm.   Trời tối hẳn, mấy chị em gồng gánh hàng đi tìm nhà trọ nghỉ chân qua đêm trong cái rét cắt da cắt thịt của mùa đông biên giới. Sáng hôm sau dậy nấu tạm món mì lót dạ rồi chị em lại lỉnh kỉnh gồng gánh hàng thăm nuôi quày quả trên vai và cuốc bộ đường rừng. Chị gánh không quen, hai vai đỏ tấy, người mệt lả nhưng phải ráng! Hết ngày đường bộ hi vọng gặp anh như tia sáng cuối đường hầm giúp chị quên đi bao nỗi nhọc nhằn. Đi đoạn lại ngồi nghỉ một chút lấy sức, men theo những con đường rừng ngoằn ngoèo, lúc lại phải bì bõm lội suối, rất sợ rắn rết, vắt và cả thú dữ. Cũng nghe nói có người đi thăm nuôi từng bị thú dữ dọc đường ăn thịt, ai cũng rờn rợn, nổi da gà nhưng không còn lựa chọn nào hơn. Tối trời ở đâu thì trải áo mưa ra ngủ lấy sức ở đó, lại làm mồi cho muỗi rừng hút máu no nê. Thêm một ngày đường nữa mới tới trạm đón tiếp thân nhân. Mấy chị em được cán bộ cho nghỉ ở một căn nhà lá ven rừng bên bờ suối, bên kia cách ngăn là trại cải tạo. Nhìn từ xa thấy từng nhóm người tù đi làm: tốp thì cày bừa, trồng trọt để cải thiện bữa ăn.

       Đến sáng hôm sau, mấy chị lần lượt được gọi tên qua gặp người thân.    Chị được gọi tên, thật hồi hộp, tay xách nách mang đồ nặng nhưng chị thấy giờ đây không nặng nữa, anh Đình Tùng kia rồi, nhưng chị nhìn không ra, ảnh khác quá! Có chăng chỉ còn ánh mắt thân quen với ánh nhìn đầy yêu thương pha lẫn nỗi mừng tủi… Anh ốm quá, râu tóc mọc lởm chởm, có lẽ anh không hợp khí hậu nơi đây. Anh ngồi đối diện với chị trong một cái bàn gỗ, ở đầu bàn có sự canh gác của hai người cán bộ. Hai anh chị được nói chuyện với nhau (được phép trong 1 h), thăm hỏi dăm ba câu, anh hỏi thăm các con, hai gia đình nội ngoại rồi dặn dò em ráng nuôi con đợi ngày anh về. Chị nhìn anh nước mắt lưng tròng nghẹn ngào không nói được gì nhiều. Cán bộ thông báo đã hết thời gian gặp. Anh nhận quà thăm nuôi rồi lầm lũi bước vô trại, chị nhìn theo anh một quảng, đợi anh đi khuất rồi chị mới trở lại con đường mòn để về lại ga tàu, mua vé trở lại Huế. Ở nhà các con cũng đang đợi chị.

       Một thời gian anh lại bị chuyển đi trại khác, chị lại lần hồi sắm sửa đi thăm nuôi, cứ thế lúc thì chị đi một mình, khi thì đem theo hai con để cho các con được nhìn thấy cha, cho anh thăm, an ủi anh, cải tạo cho tốt (theo lời cán bộ) để sớm đoàn tụ với gia đình, trở về cùng chị làm lụng nuôi con.

       Sau mấy năm đằng đẵng, thế rồi thời gian cải tạo cũng đã hết anh được trở về! Chị nói sao hết nỗi vui mừng, từ đây anh chị bắt đầu làm lại cuộc sống.

       Thời gian đầu anh chưa có quyền công dân, sức khỏe cũng còn yếu nên anh ở nhà chăm con, còn chị đi dạy và chạy chợ. Chị lại ngược xuôi buôn bán tảo tần để lo cho gia đình. Dẫu vất vả nhưng có anh bên cạnh chị cũng ấm lòng. Một năm sau thì sức khỏe của anh đã tốt lên, anh lấy lại phong độ nhờ một tay chị biết chăm lo, vén khéo gia đình. Các con lúc này đã vào tuổi học, những tưởng hạnh phúc vẹn toàn từ đây, bù đắp cho chị những tháng ngày đơn côi, vất vả nuôi con, chờ chồng và thăm nuôi. Nhưng sự đời có những bất ngờ xảy đến ngoài sức tưởng tượng của chị và của những người xung quanh. Anh bắt đầu có tình nhân. Rồi một ngày anh đành đoạn bỏ lại vợ và con thơ để đi theo tình mới. Chị đau khổ tột cùng, tưởng chừng như trời đất sụp đổ dưới chân mình. Không thể gắng gượng dậy được nữa, nhưng tiếng khóc của các con kéo chị trở về để đối diện với thực tế. Dù cay đắng phủ phàng thế nào đi nữa chị cũng ráng sống, các con cần mẹ. Thiên chức làm mẹ cho chị thêm sức mạnh, chị đứng lên, lại lao vào công việc mưu sinh làm lụng nuôi con. Chị lấy công việc quên đi nỗi đắng cay của người vợ đã hết lòng chăm lo chồng nhưng bị chồng ruồng bỏ. Lúc này gia cảnh của chị thật bơ vơ, con còn nhỏ mà không có người đàn ông trụ cột của gia đình, chị một gánh hai vai. Vừa làm mẹ vừa làm cha để dưỡng dục các con. Lúc này chị mới hai mươi bảy tuổi. Dù vất vả là thế nhưng nhan sắc chị vẫn mặn mà lắm nên không thiếu những người đàn ông xung quanh ve vãn. Nhưng không, chị khước từ tất cả. Niềm vui của chị giờ đây là nhìn thấy sự khôn lớn mỗi ngày của các con. Có lần người phụ nữ đơn độc ấy lại bị đứa em cùng cha khác mẹ giành nhà không cho chị ở. Chị lại phải nhờ đến công lý phân xử. Lúc này anh Trọng Bình ở xa, nên may mà còn có anh Gia Phước là người anh tin cậy. Anh Gia Phước chở chị đi lo những thủ tục giấy tờ nhà, mong trắng đen được minh bạch. Anh Gia Phước rất nhiệt tâm và lo lắng cho chị. Có lẽ anh nghĩ dù sao cũng có một phần lỗi. Nỗi đa đoan mà em phải gánh, anh tự trách mình là ngày xưa nhìn lầm người, tác hợp cho em một người chồng nông nổi, bội bạc. Anh ân hận lắm nên càng phải giúp đỡ chị Thiên Kim trong khả năng của mình. Ít ra cũng là chỗ dựa về mặt tinh thần trong lúc chới với như vậy.

       Năm tháng trôi đi, các con của chị nay đã trưởng thành, có công ăn việc làm và cũng đã nên gia thất. Bây giờ con trai lớn của chị lập nghiệp ở Sài Gòn, còn con trai út lập nghiệp tại Huế. Bây giờ chị đã lên chức bà nội với những đứa cháu kháu khỉnh. Chị đã hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng của người mẹ hiền, vắng cha vẫn lo cho con cái ăn học nên người.

       Nay chị đã bước vào mùa thu của người phụ nữ, dẫu đi qua những thăng trầm dâu bể nhưng nét duyên của người con gái Huế xưa vẫn mặn mà đằm thắm! Thỉnh thoảng chị lại về cố hương và có dịp cà phê hàn huyên cùng với anh chị em và những bạn bè tri kỷ.

Nghe ai hát câu “gừng cay muối mặn”

Lỗi hẹn rồi còn đâu nghĩa tào khang?

       Chị mỉm cười xa xăm, những đắng cay đã lùi vào dĩ vãng. Giờ còn chăng nỗi niềm thương câu “gừng cay muối mặn” lỡ hẹn rồi, ai nỡ phụ tào khang.


HOÀNG THỊ BÍCH HÀ

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 135
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.469 seconds.