![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Sức Khỏe - Y Tế | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 179 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
![]() ![]() ![]() |
Con Người Đi Tìm Thuốc Trường Sinh -Nhà Xuân vừa mở thọ diên, Chén pha Giếng Cúc, bàn chen Non Đào. (Nguyễn Huy Tự) Giấc
mộng trường sinh, bất tử đã được ghi nhận từ thuở hoang sơ, khi con
người còn ăn lông ở lỗ. Trong huyền thoại thần tiên, trong niềm mê tín
dân gian, trong nguồn cảm hứng xuất thần của văn nhân thi sĩ hay luận lý
của triết gia. Tân, Cựu Ước, kinh Koran cũng có nhắc tới nguồn nước
trường sinh. Nó là động lực thúc đẩy những nhà thám hiểm lặn lội
đi tìm suối nước vĩnh cửu ở vùng đất lạ, cũng như là mục tiêu nghiên
cứu của các khoa học gia xưa nay. Nó đã tạo cơ hội làm giầu cho những lang băm, những tên lường gạt rao bán vịt trời giữa chợ với môn thuốc trường sinh bất tử. Nó
ám ảnh mọi người, mọi giống. Ai cũng mong mỏi sống mãi không già, thoát
khỏi những tàn phá của cơ thể do thời gian, giữ mãi được những nét
thanh xuân đầy nhựa sống. Ai cũng nghĩ là ở đâu đó, có môn thuốc mà khi
uống vào ta sẽ thi gan cùng tuế nguyệt. Ta chỉ việc cố gắng, kiên nhẫn
tìm là sẽ thấy nó. Nhân dịp xuân về, chúng tôi mời quý vị, ta
lang thang vào cái vườn địa đàng này. Biết đâu lại may mắn nhặt được vài
trái đào của Tây Vương Mẫu rơi rớt đó đây; uống lén được chút rượu Kim
Tương. Để rồi cùng nhau bách niên giai lão, tiếp tục mè nheo người bạn
đường sung sức... Trường sinh trong Triết học Đi trước các dân tộc khác, người Trung Hoa xa xưa đã có một khái niệm, một triết lý về sự sống lâu. Lão
Tử từng quan niệm là nếu một sự vật có thể biến thành sự vật khác thì
với con người, sự chết cũng có thể thành bất tử. Như con nòng nọc có
đuôi kia biến thành con cóc, con nhái, con sâu róm lột xác thành con
bướm. Đạo Lão cho con người sống là nhờ sự hoà hợp của âm / dương, nếu
giữ được sự hòa hợp này thì cuộc sống kéo dài. Quan niệm này đã
và vẫn là căn bản cho Y thuật Trung Hoa cùng các nước chịu ảnh hưởng văn
hóa quốc gia này như Việt Nam, Triều Tiên. Lão cũng khuyên người ta
phải tiết kiệm sinh lực bằng vô vi, tập phép hô hấp để tăng dưỡng khí
cho não bộ, ăn nhiều trái cây, kiêng rưọu, thịt và sống cho phải đạo. Câu
chuyện người Luigi Cornaro, sanh năm 1470, sống cuộc đời phóng đãng hơn
30 năm. Thầy thuốc nói nếu tiếp tục như vậy sẽ không qua được tuổi 50.
Ông ta bèn thay đổi nếp sống, tiết mực hơn và kết qủa là sống tới tuổi
103, để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm giá trị về bảo vệ sức khỏe. Hai
trăm năm sau, nhiều người đã áp dụng lối sống của Cornaro . Triết gia Plato, thọ 81 tuổi, khuyên ta không được rượu chè say sưa, nhất là ở tuổi trung niên, nếu muốn trường thọ. Thuỷ
tổ nền y học tây phương Hippocrates, sống tới 80 tuổi, nhắc nhở con
người nên từ từ, dung hòa ở mọi lãnh vực để giữ gìn nhựa sống. Nhất là
từ khi đặt chân lên ngưỡng cửa 60. Có người muốn kéo dài sự sống thì cũng có người quan niệm ngược lại. Sinh, Lão, Bệnh, Tử là lẽ thường của tạo hóa, hà cớ chi phải bận tâm quá đáng. Sự chết cũng tốt cho loài người. Tre già măng mọc, đèn cạn dầu đèn tắt. Và đã hưởng hết lạc thú rồi thì cầu sống lâu làm gì? Trường sinh trong huyền thoại Huyền thoại Hy lạp, Ấn độ, La mã ghi lại nhiều giai thoại trường sinh thần tiên. Nàng
Eos yêu Tithonus hết mình, muốn cùng chàng bên nhau mãi mãi. Nàng xin
Thần lãnh đạo Thiên Đường Zeus cho chàng được bất tử. Tithonus sống mãi,
nhưng càng sống lâu càng trở nên đau yếu, bệnh hoạn và phải nuôi trong
phòng riêng. Eos trở nên buồn, vì nàng đã quên không xin cho chàng vừa
sống lâu vừa giữ được vẻ thanh xuân. Nàng đi kiếm người tình khác. Người
Ả Rập hay kể cho nhau nghe câu chuyện nhân vật quen thuộc El Khidr với
Giếng Nước Vĩnh Cửu: Một hôm tình cờ El Khidr rửa con cá khô trong giếng
nước, con cá tự nhiên quẫy động, sống lại. Không bỏ lỡ cơ hội, El
Khidr nhẩy xuống giếng tắm và trở thành bất tử . Hi Lạp xưa cũng
có suối nước vĩnh cửu trong rừng Jupiter, mà, theo tục truyền, ai tắm
nước đó sẽ được phục hồi tuổi trai tráng và khỏe mạnh. Trường sinh trong văn học, nghệ thuật Văn nhân thi xưa nay cũng khao khát sự trường thọ. Thi
sĩ Hy lạp Hesiod tả hình ảnh đầy hấp dẫn của giống người Golden Race,
sống lành mạnh tới cả trên trăm tuổi. Đến khi chết, họ ra đi một cách
nhẹ nhàng, thoải mái như đi vào giấc ngủ say. Pindar tả cảnh
thiên đường trường thọ của dân chúng trong một hải đảo giữa biển
Atlantic: sống cả ngàn năm trong hoan lạc, không biết gì đến đau yếu,
bệnh tật. Trong tiểu thuyết Lost Horizon xuất bản năm 1933, James Hilton tả cảnh sống thiên đường của dân chúng ở vùng Shangri-La. Trong
sách Metamorphoses, thi sĩ La Mã Ovid kể lại chuyện vua Aeson của Hi
Lạp được phục hồi sức khoẻ bằng cách chích vào tĩnh mạch một hỗn hợp
điều chế từ máu cừu đực chưa thiến, da rắn, thịt cú và rễ nhiều thảo mộc
khác nhau. Trường sinh với các nhà thám hiểm Nhiều nhà thám hiểm cũng đã giương cờ đi khắp năm châu bốn bể để tìm thuốc trường sinh. Juan
Ponce de Leon, người Tây Ban Nha, đã lên đường thám hiểm Tân Thế Giới
với hy vọng kiếm được thuốc hồi xuân. Ong ta đã già yếu, không thỏa mãn
được cô vợ trẻ sung sức. Đồng thời ông ta cũng muốn kiếm thần dược dâng
Quốc Vương Ferdinand II. Không kiếm ra thuốc, nhưng ông ta đã tìm ra
tiểu bang phì nhiêu, hiền hòa Florida năm 1513. Ông qua đời vì vết
thương bị nhiễm độc trong khi giao tranh với thổ dân gốc Indian vào tuổi
63. Tần Thủy Hoàng Đế, sau khi gồm thâu lục quốc, dựng nên
nghiệp Đế, muốn bất tử để trị vì trăm họ. Ong đã phái các phương sĩ Từ
Phước và Lư Sinh căng buồm ra Biển Đông tìm thần dược. Lư Sinh, Từ Phước
không tìm ra linh dược, nhưng đã lánh nạn và tìm được những mùa xuân
bất tận cho nhiều thế hệ con cháu trên đất Phù Tang mầu mỡ. Năm 1498, Columbus tuyên bố là đã tìm ra miền vĩnh cửu ở dọc theo bờ biển Venezuela, gần đảo Trinidad. Trường sinh với căn bản khoa học Bên
cạnh những ý kiến, dữ kiện khó tin, nhiều người đương thời đã có cái
nhìn nghiêm túc hơn về sự hóa già và phương cách trì hoãn diễn biến này. Tu
sĩ dòng Franciscan kiêm khoa học gia Roger Bacon đã lý luận rằng con
người già vì sự mất bớt nhiệt năng bẩm sinh. Nếu sống hợp lý cộng với
thuốc men hiệu nghiệm, ta có thể trì hoãn sự mất mát này và sống lâu
hơn. Ông ta hỗ trợ thuốc chế từ thịt rắn, tim hươu nai và một vài thảo
mộc trong rừng ở Nam Phi hay nước san hô, ngọc trai. Nhưng phương thức
mà ông ta ưa thích nhất là hít sinh khí hơi thở của trinh nữ. Người
Do Thái khi xưa cũng tin rằng con gái là phương thuốc chữa bệnh tốt.
Vua David, khi về già không được khỏe, cơ thể lạnh toát, đắp bao nhiêu
chăn cũng không đủ ấm. Thần dân bèn đặt Người nằm cạnh những thiếu nữ
với ý định là để chân khí từ thiếu nữ tiếp sức cho vua cha. Và Ngài khỏe
ra. Boerhaave,
danh y người Đức, sống từ 1668 tới 1738, cũng khuyên viên thị trưởng
Amsterdam là nếu muốn lấy lại sinh lực thì hãy nằm giữa hai thiếu nữ
còn trinh. Công dụng Hơi Thở thiếu nữ cũng thấy ghi trong ngôi
mộ cổ của một lão nhân Ai cập, nói rằng ông ta sống tới tuổi 115 là nhờ
những hơi thở này. Nhà luyện kim kiêm y sĩ Paracelsus của Đức,
vào thế kỷ 16 đã tin tưởng rằng lão hóa là do sự thay đổi hóa chất trong
cơ thể như sự rỉ sét của kim loại. Ông ta khuyên nên ăn uống cân bằng,
sống tại vùng khí hậu ôn hoà, dùng những thuốc do ông ta chế. Theo Leonardo Da Vinci, con người mau gìa là do hậu quả của mạch máu dầy lên, máu lưu thông khó khăn, dinh dưỡng suy giảm. Những
thế kỷ kế tiếp, việc tìm kiếm phương thức trì hoãn sự lão hóa mang ít
nhiều tính cách khoa học hơn và được thực hiện bởi nhiều nhà chuyên môn
quan tâm đến vấn đề này. Mùa thu năm 1885, Charles Ed. Brown
Sequard, 72 tuổi, nguyên giáo sư Đại học Harvard, hùng hồn trình bầy
trước các học giả uy tín của College of France. Ông ta cho hay là đã lấy
lại được sinh lực, thỏa mãn đòi hỏi tình dục cuả người vợ trẻ bằng cách
dùng nước tinh chế từ ngọc hành loài chó. Y giới mọi nơi vội vàng áp
dụng môn thuốc này, nhưng hiệu quả không được như lời nói. Sau
Thế chiến thứ nhất, viên Y sĩ người Nga, Serge Vernof, sang Pháp và cấy
tế bào ngọc hành cho nhiều người để tăng cường sinh lý. Ở Mỹ, mấy
năm sau, John Romulus Brinkly cũng áp dụng phương pháp này cho thân
chủ, kiếm được nhiều tiền, mua đài phát thanh và ra tranh cử chức Thống
đốc tiểu bang Arkansas. Descartes, Benjamin Franklin, Francis
Bacon, Christopher Hufeland ...với nhiều công sức nghiên cứu đều tin
tưởng là sự lão hóa và sự tử vong sẽ bị khoa học khuất phục. Hufeland
còn khuyên ta nên tránh sự tức giận, sự tự hủy hoại và coi chúng là kẻ
thù của trường thọ. Các nghiên cứu hiện đại Jean
Martin Charcot, Y sĩ Pháp, được nhiều người coi là cha đẻ của
Lão-khoa-học, xuất bản cuốn sách đầu tiên về khoa này năm 1867 nhan đề
Clinical Lectures on Senile and Chronic Diseases. Tác giả đề nghị nghiên
cứu diễn tiến sự hoá già, nguyên nhân già, thay đổi cơ thể khi về già. Bác sĩ Ignatz Leo Nascher vận động để các trường Y Khoa đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu vấn đề liên quan tới hóa già. Sir Peter Medawar và Sir Mac Farlane Burnet là những người đầu tiên lưu ý tới ảnh hưởng của gene trong sự lão hoá. Sau
thế chiến thứ hai, tốc độ nghiên cứu về vấn đề già phát triển mạnh. Tờ
báo uy tín Journal of Gerotology ấn hành số đầu tiên vào năm 1946 ở Hoa
Kỳ. Từ năm 1970, tại Mỹ, do sự đòi hỏi của dân chúng, các khoa
học gia và chính trị gia liên kết thúc đẩy chính phủ trợ cấp nhiều hơn
nữa cho việc nghiên cứu các vấn đề về lão hóa. Do sự ủng hộ tích cực
củaThượng Nghị Sĩ Alan Cranton, cơ quan Quốc Gia Tuổi Già (National
Institute of Aging) được chính thức thành lập năm 1976. Cơ quan này có
ngân sách cao tới cả nửa tỷ mỹ kim và chuyên chú về các vấn đề liên
quan tới người cao tuổi . Ngày nay, trên thị trường thương mại,
ta có thể kiếm được nhiều sản phẩm được công nhận bởi cơ quan có thẩm
quyền về y khoa học, hoặc được người chế ra quảng cáo là có công hiệu
trì hoãn sự lão hoá. Nhớ lại vào giữa thập niên năm mươi, đồng
bào ta ở Việt Nam nhiều người đua nhau dùng thuốc Gerovital-KH3. Thuốc
này được một y sĩ Lỗ Ma Ni điều chế và nghe nói các nhân vật nổi danh
như Tưóng De Gaulle, Thủ tướng Adenauer, văn hào Sommerset Maugham cũng
có dùng. Gerovital vẫn còn được bán tự do ở Âu Châu, nhưng không được
cơ quan Dược Phẩm Hoa kỳ công nhận giá trị chống lão hóa. Nhiều
người hiện đang dùng các loại sinh tố, khoáng chất, anti-oxidant, các
loại kích thích tố, Q-10, Glutathione, Melantonin, Sod, DHEA, Omega-E
..Và được giới thiệu là có thể làm chậm sự lão
hoá. Các khoa học gia đang đi xa hơn trong công việc này. Họ
nhắm vào việc thay đổi gene trong nhiễm thể tế bào, việc giới hạn tác
hại của các phó sản trong biến hóa căn bản của tế bào. Đi xa hơn
nữa, họ nghĩ tới chuyện thay thế những bộ phận hư hao bằng bộ phận tạo
ra do chính tế bào của mình, được nuôi dưỡng, cấu tạo trong phòng thí
nghiệm hay trên bào thai, để tránh hiện tượng khước từ thông thường. Một
ngày nào đó, biết đâu ta lại chẳng tân trang được cơ thể con người và
chỉ cần đưa đi kiểm tra định kỳ mười năm một lần, như một chiếc xe hơi. Kết luận Trở lại với thực tại, ta thấy tuổi thọ con người đã tăng đáng kể trong hơn trăm năm qua. Chừng
nửa thế kỷ nữa, Hoa Kỳ sẽ có khoảng 75 triệu người trên 65 tuổi trong
tổng số trên dưới ba trăm triệu dân. Tại các quốc gia khác, số người cao
tuổi cũng tăng theo cùng nhịp độ. Đó là thành qủa những tiến bộ tuyệt
vời của khoa học cũng như sự thay đổi nhân sinh quan của loài người. Nhà
bác học người Pháp, Louis Pasteur, năm 1856, đặt nền móng cho việc tiêu
diệt hầu hết các bệnh truyền nhiễm, nguyên nhân tử vong cao ở các thế
kỷ trước, đã là người có công đầu trong việc tăng gia tuổi thọ. Rồi
khi sống lâu, loài người lại phải đối phó với những khó khăn mới gây ra
do môi trường cũng như do thói quen, những bệnh nan y. Con người đã ý
thức được vấn nạn đó và đang ứng phó rất hiệu nghiệm, tài tình. Do
sự tăng gia số, người cao tuổi sẽ có nhiều mầu sắc mới, sinh hoạt mới
trong gia đình, xã hội. Những người trên 70 tuổi sẽ có nhiều việc để bận
rộn trong khoảng thời gian trên dưới 30 năm còn lại của cuộc đời. Sẽ
có nhiều người, 70, 80 tuổi còn đi làm, hoặc đi học để cập nhật kiến
thức. Tỷ lệ lão niên nữ sẽ cao hơn nam vì sống lâu hơn. Sẽ có
nhiều cặp nhân tình đầu bạc sống chung để nương tựa, đầm ấm với nhau. Sẽ
có nhiều trường hợp con cái dọn về ở với cha mẹ già để các cụ bớt đơn
côi. Kỹ nghê phục vụ nhu cầu người cao tuổi sẽ phát triển mạnh. Hãng du lịch sẽ phát triển mạnh để thảo mãn nhu cầu người già. Đồng
thời, khối cử tri của người cao tuổi sẽ có ảnh hưởng nhiều tới các vấn
đề trọng yếu của quốc gia. Người già sẽ lấy lại được sự trân trọng như
trong thời kỳ nữ hoàng Anh Quốc Victoria xưa kia. Và trong tương
lai, khoa học nghiên cứu sẽ hướng nhiều vào việc “tăng đời sống cho
năm tháng chứ không chỉ tăng năm tháng cho cuộc đời” (adding life to
years, not just adding years to life). Để nhân loại sống trong thế kỷ
thứ hai mươi mốt với tinh thần “Sống lâu, Sức khoẻ, mọi vẻ mọi hay”. Đó sẽ là những chén rượu Kim Tương, những trái Bàn Đào mà chúng ta mong đợi. BS Nguyễn Ý-Đức
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
![]() ![]() ![]() |
Nhiễm Trùng Đường TiểuY HỌC THƯỜNG THỨC Nhiễm Trùng Đường Tiểu - Bác Sĩ Hoàng Cầm Đại cương Nước
tiểu do hai quả thận tiết ra chứa trong túi được gọi là bàng quang. Mỗi
lần ta đi tiểu, nước tiểu trong bàng quang thoát ra ngoài qua niệu đạo.
Niệu đạo gần hậu môn nên rất dễ bị nhiễm trùng. Có thể nói ai cũng bị
nhiễm trùng đường tiểu một hay nhiều lần trong đời. Nguồn
vi trùng xâm nhập niệu đạo thường từ phân, trong đó vi khuẩn E. Coli
chiếm từ 75 tới 90%. Từ niệu đạo, vi trùng di chuyển lên phía trên, xâm
nhập bàng quang và thận, có thể làm viêm các bộ phận này. Một cơ chế
khác gây nhiễm trùng đường tiểu là vi khuẩn trong phân xâm nhập máu
trong thời gian ngắn mà không gây huyết nhiễm (nhiễm trùng máu), rồi
chúng di chuyển theo tuần hoàn mà tụ lại trong đường tiểu. Niệu
đạo đàn bà thẳng, ngắn khoảng 5 cm, lại gần âm đạo, nên dễ bị nhiễm
trùng hơn niệu đạo đàn ông. Niệu đạo đàn ông khúc khuỷu, dài khoảng 20
cm. Đàn bà trong thời kỳ mang thai, cũng dễ bị nhiễm trùng đường tiểu,
nếu không được trị liệu sẽ đưa tới hậu quả như: sinh thiếu tháng, thai
nhi nhỏ, tử vong trẻ sơ sinh cao. Đối với người mẹ, từ 20% tới 40% số
bệnh nhân nhiễm trùng đường tiểu khi mang thai có nguy cơ bị suy thận. Lượng
nước tiểu còn lại quá nhiều trong bàng quang sau mỗi lần tiểu, do bàng
quang co thắt yếu, hay do đàn ông bị tuyến tiền liệt phình lớn, gây trở
ngại việc thoát nước tiểu, cũng dễ làm viêm đường tiểu, nhất là đối với
những người có bệnh tiểu đường. Trong
khi giao hợp, vi khuẩn trong âm đạo có thể xâm nhập niệu đạo cả nam và
nữ. Rất may là cơ thể có phương cách đề kháng tự nhiên diệt được vi
khuẩn trong niệu đạo và bàng quang, Ngoài ra, mỗi lần đi tiểu, nước tiểu
xả bớt vi khuẩn ra ngoài, làm sạch đường tiểu. Các chứng viêm tại đường
tiểu đều do nhiễm trùng gây ra. Dấu hiệu và triệu chứng Viêm bàng quang và niệu đạo Tiểu
đau rát, tiểu gấp, tiểu nhiều lần hơn bình thường. Đau nhẹ ở bụng dưới,
đau lưng. Nước tiểu đục, có thể màu đỏ nếu có máu, mùi hôi. Viêm thận cấp tính Sốt cao. Ói mửa. Đau phía dưới lưng. Ớn lạnh, rét run. Tiểu rát, đau, tiểu nhiều lần. Chẩn đoán Khi
có những triệu chứng trên, cần gặp bác sĩ. Thường bác sĩ cho thử nước
tiểu ngay tại phòng mạch để xác định có nhiễm trùng. Xét nghiệm tại
phòng thí nghiệm cho biết có nhiễm trùng đường tiểu, còn có thể cho biết
số lượng và loại vi khuẩn. Cấy nước tiểu và thử tác dụng của trụ sinh
trên vi khuẩn sẽ cho biết thêm loại trụ sinh nào tốt trong việc trị
liệu. Trị liệu Tùy
theo nhiễm trùng nhẹ hay nặng, bác sĩ cho trụ sinh từ 5 tới 10 ngày.
Sau hai ngày các triệu chứng thường giảm. Nếu tái phát trong 6 tháng,
bác sĩ xét xem đường dẫn tiểu có gì bất thường không, thời gian trị liệu
sẽ dài hơn. Đối với đàn ông,
niệu đạo đi qua tuyến tiền liệt, vi khuẩn từ đường tiểu có thể vào cư
ngụ trong tuyến làm viêm tuyến. Bệnh viêm tuyến tiền liệt là nguồn vi
khuẩn khiến nhiễm trùng đường tiểu tái phát nhiều lần. Dùng trụ sinh trị
liệu viêm đường tiểu tái phát và viêm tuyến tiền liệt lâu nhiều tuần
lễ. Tóm tắt Nhiễm
trùng đường tiểu tuy không nghiêm trọng đối với sức khỏe, nhưng là bệnh
rất thông thường cho cả nam lẫn nữ. Nữ bị nhiều hơn nam. Bệnh dễ tái
phát. Cần tới bác sĩ để được trị liệu đúng cách Thời gian trị liệu trong tuần lễ. Nếu
tái phát thời gian trị liệu lâu hơn và cần được xét nghiệm xem đường
tiểu có gì bất thường không. Đối với đàn ông, viêm đường tiểu có thể đưa
tới viêm tuyến tiền liệt Bảng đối chiếu danh từ y học Việt-Anh Bàng quang Bladder Nhiễm trùng đường tiểu Urinary tract infection Niệu đạo Urethra Tuyến tiền liệt Prostate Viêm bàng quang Cystitis Viêm niệu đạo Urethritis Viêm thận cấp tính Acute pyelonephritis Viêm tuyến tiền liệt Prostatitis Bác Sĩ Hoàng Cầm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
![]() ![]() ![]() |
Tỏi với Sức Khỏe Tháng 12 năm 1998, một cuộc hội thảo kéo dài hai ngày rưỡi đã được tổ chức tại New Port Beach, California, để thảo luận và trình bày kết quả nghiên cứu về công dụng của tỏi. Công nhân xây đắp Kim Tự Tháp được cung cấp thực phẩm có tỏi để tăng cường sức lao động. Những giác đấu Hi Lạp, binh sĩ La Mã cũng được cho ăn tỏi để chiến đấu can trường, dũng cảm hơn. Trong các cuộc hải hành, dân Virking đều mang tỏi theo làm lương thực và để trị bệnh khi cần đến.
Vào đầu thế kỷ trước, bệnh lao rất phổ biến và khó trị vì chưa có thuốc
kháng sinh. Các bác sĩ bèn chữa bằng tỏi và thấy là rất công hiệu để
diệt vi trùng lao. Sau đó một thời gian, nước Mỹ bị dịch cúm và bệnh
tinh hồng nhiệt, dân chúng bèn đốt tỏi trong nhà và hơi khói tỏi che trở
nhiều người khỏi bị bệnh. Nhiều người còn nhai tỏi để ngửa bệnh cúm.
Khi quan sát dân chúng ở một số vùng ăn nhiều tỏi, các nhà nghiên cứu
thấy họ rất ít bị các bệnh về tim mạch, mặc dù họ ăn nhiều thịt động vật
và uống nhiều rượu vang. Có người cho là do ảnh hưởng của rượu vang,
nhưng các bác sĩ ở địa phương thì cho là nhờ uống rượu và ăn nhiều tỏi. Tỏi có tác dụng ngăn sự đóng máu cục, một nguy cơ của kích tim và tai biến động mạch não.
Tỏi được dùng để trị bệnh cao huyết áp ở Trung Hoa từ nhiều thế kỷ
trước đây. Tại Nhật Bản, giới chức y tế chính thức thừa nhận tỏi là
thuốc trị huyết áp cao.
Trong các dịch cúm vào đầu thế kỷ trước, dân chúng đã dũng tỏi để ngăn
ngừa sự lan tràn của bệnh này. Y học dân gian nhiều nước đã chữa cảm cúm
bằng cách thoa tỏi tươi mới cắt vào bàn chân.
Hiện nay đang có nhiều nghiên cứu coi xem tỏi có công dụng trị ung thư ở
người như kết quả nhận thấy ở động vật trong phòng thí nghiệm hay
không.
Từ lâu, dân chúng tại nhiều quốc gia trên thế giới đã dùng tỏi để chữa
một số bệnh gây ra do vi khuẩn như kiết lỵ, bệnh tiêu chẩy, bệnh thương
hàn, viêm cuống họng, mụn nhọt ngoài da, thối tai và tỏi được gọi là
thuốc kháng sinh dân tộc. Theo dân chúng vùng Ukraine,
ngâm nửa kí tỏi cắt hay giã nhỏ bỏ vào nước vắt của 25 quả chanh, để
qua đêm rồi mỗi ngày uống một thìa pha với nước lạnh, trong hai tuần sẽ
thấy trẻ khỏe ra. Các nhà văn Ukraine nói thêm rằng uống thường xuyên
rượu tỏi thì con người sẽ cảm thấy trẻ trung. Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/Nov/2020 lúc 10:37am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
![]() ![]() ![]() |
Đa số những cơn đau mà con người thường gặp không phải gây ra do giải phẫu hoặc mới bị thương mà thuốc mê có thể dùng để chữa nhưng còn những cơn đau kinh niên như viêm xương khớp hoặc đau ngắn hạn như nhức đầu và đau răng thì chữa bằng cách nào. Với các đau này, một loại dược phẩm rất cần để giảm đau trong khi đó ta vẫn có thể đi làm được. Vào mùa hè năm 1758, đức cha Edward Stone, ở Chipping Norton bên Anh bị sốt và viêm xương khớp. Vô tình ngài đã nhai cành của cây liễu trắng rất đắng , ngài rất ngạc nhiên mà thấy rằng cơn đau giảm. Ngài liền nghĩ ra cách để phơi khô và làm thành bột vỏ cây này và thử nghiệm để kiếm một liều hiệu nghiệm nhất.Trong vòng năm năm sau ngài tặng món thuốc này cho năm mươi người khác và đều thấy công hiệu. Vui mừng với sự khám phá của mình, ngày 25 tháng Tư năm 1763, ngài viết một bức thư cho bá tước Macclesfield, Hội trưởng Hoàng Gia, nhưng không được hồi âm. Năm 1820, dược sĩ Thụy Sĩ Johana S.F. Pagenstecher bắt đầu lấy một chất từ lá của cây Spirea ulmaria, thường được gọi là lá dâu dê, rất công hiệu để giảm đau trong y học dân gian. Báo cáo của Pagenstecher trên báo khoa học được đọc vào năm 1835 bởi nhà hóa học người Đức Karl Jacob Lowig, giáo sư hóa học ở Montpellier Uniniversity. Ông cũng cố gắng thay đổi lá cây Spirea ulmaria để loại bỏ tác dụng phụ quan trọng như cơn đau kích thích lớp lót của bao tử nhưng ông ta thấy phương pháp quá mất thì giờ cho nên đã bỏ. Salicylic acid chỉ được một số người mà cơn đau trầm trọng hơn cơn đau của chính dược phẩm.Một trong những người đó là Her Hoffma, sống ở thành phố Đức quốc Elberfield và bị bệnh viêm khớp khiến ông bị què quặt.Con trai của ông ta là một hóa học gia làm việc tại Bayer, một hãng dược phẩm rất lớn ở gần đó và vào năm 1895 anh ta quyết định thử nó để làm bớt cơn đau của bố. Anh ta làm giản dị hóa phương pháp của Gerhard và làm ra aceytylsalicylic acid. Hoffman bèn lấy một lọ nhỏ và đưa cho bố và ông này đã có một đêm hết đau trong nhiều năm. Về sau này người ta mới biết rằng thuốc đó không phải chỉ giảm cơn đau mà còn hạ nhiệt độ và viêm. Đồng nghiệp của Hoffman là ông Heinrich Dresser nhận ra rằng dược phẩm mới có tác dụng rất tốt vì nó chia làm hai ở máu.Để thử giả thuyết của mình, ông ta bèn nuốt chửng một số acetylsalicylate và thường xuyên thử nước tiểu trong vòng 12 giờ.Ông đã tìm ra dấu vết của salicylic acid nhưng không thấy chất acetylsalicylate: hợp chất quả có tách làm hai. Đến năm 1899,Hopffman và Dreser đặt tên cho dược phẩm mới tìm ra của mình:aspirin- chữ a cho acetyl, spir cho Spirea. Năm sau, công ty dược phẩm Bayer xin bản quyền cho aspirin, cho các hợp chất trực tiếp của hãng và hình dáng của các dụng cụ của hãng và bắt đầu bán một sản phẩm rất phổ biến trên thế giới. Năm 1914, để đề phòng sự lớn mạnh của chiến tranh và cũng để ngăn cản sự cung cấp của nước Đức, chính phủ Anh bèn tặng 20,000 bảng Anh cho những ai sống tại chính quốc hoặc ở Liên Hiệp Anh đã tìm ra một chất mới cho aspirin mà vẫn tránh né được bản quyền của Bayer.Chính quyền Úc Đại Lợi bèn tặng thêm 5000 bảng anh để khích lệ và hóa học gia George Nicholas nhận lời thách đố đó. Dùng các dụng cụ rất sơ sài và gần như mù vì phòng thí nghiệm của mình bị nổ, ông ta tìm ra một cách để tạo ra một chất aspirin hết sức thuần túy và thắng giải. Sau khi nước Đức thua trận, công ty British Alien Properties Custodian tịch thu tên “aspirin” và công ty Bayer mất bản quyền cả tên lẫn việc sản xuất dược phẩm. Trong số những cơ sở bắt đầu làm hợp chất là của George Nicholas; và sản phẩm “Aspro” của ông trở thành một loại aspirin bán nhiều nhất ngoại trừ nước Mỹ. Tại nước Mỹ, công ty dược phẩm Sterling, mặc dù đã không liên lạc với công ty Đức, tiếp tục sản xuất aspirin dưới dạng “Bayer”, một tên riêng. Xin nói rõ, tên riêng (Trademark) là một thương hiệu hàng hóa riêng, trong đó chứa đựng bất kỳ chữ, tập hợp của nhiều chữ, tên riêng và biểu tượng nào. Những từ ngữ này đã từng được sử dụng hoặc sẽ được đưa vào sử dụng trong thương mại để nhận dạng, phân biệt và giúp chỉ ra xuất xứ hàng hóa. Nhưng khám phá về vỏ cây liễu của ngài Stone trong mấy năm về trước không phải là không được dể ý tới. Năm 1826, hai người Ý đã tìm ra chất chính của vỏ cây liễu một chất gọi là salicin và ba năm sau một hóa học gia người Pháp đã thành công khi tìm ra một chất dưới dạng thuần túy. Năm 1839, một hóa học gia khác người Ý đã lấy salycilic acid từ chất salicin và từ đó chất chính của aspirin được lấy ra từ cây liễu và cây dâu dê.Ngày nay chất này được tổng hợp, dùng phương pháp không khác nhiều lắm với phương pháp mà Herman Kolbe đã tìm ra tại Strasbourg vào năm 1874. Mãi đến năm 1971 các nhà nghiên cứu ở Anh mới tìm ra tại sao aspirin lại công hiệu như vậy. Prostaglandins, một nhóm như kích thích tố tìm thấy ở hầu hết các mô bào của cơ thể có vẻ như làm tăng sự nhạy cảm của đoạn cuối dây thần kinh tại nơi bị viêm và aspirin dường như có liên hệ tới công dụng của các chất này. Sau này aspirin trở thành một phần của các chất được biết với tác dụng chống viêm mà ngày nay bao gồm cả các dược phẩm mới tìm ra là ibuprofen. Đến năm 1980, aspirin bị paracetamol qua mặt. Paracetamol được dùng lần đầu vào năm 1893 như một chất giảm đau rất bình dân của mọi người. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
![]() ![]() ![]() |
Làm Sao Để Áp Huyết Không Cao?
![]()
Cái
ống màu vàng (aorta) là đại động mạch, máu bơm vào đó từ tâm thất trái
(left ventricle) Aortic valve chận không cho máu đã bơm ra bị dội về.
Đầu
tiên, chắc ai cũng biết người Việt mình thường nói áp huyết của một
người là "mười lăm tám" (15/8) hay mười bảy chính (17/9), còn ở Úc thì
người ta nói 150/80, hay 170/90. Vậy các con số ấy là gì?
Lấy
ví dụ áp huyết một người là 120/80, thì có nghĩa là áp suất máu trong
động mạch là 120mm thủy ngân và 80 mm thủy ngân, tức là có hai con số để
đo áp suất trong động mạch, một số trên và một số dưới.
Chúng
tôi có xem qua tự điển trong Google, họ ghi rằng systole là sự thu sức
của trái tim, nó cũng "dễ hiểu" như nghe tiếng LaTinh. Thôi thì mình gọi
số trên là systole (hay systolic blood pressure) và số dưới là diastole
(hay diastolic blood pressure) cho nó giống tiếng... Mỹ hơn tiếng La
Tinh.
Coi vậy chớ không phải ai cũng biết tại sao áp huyết của ta lại có số trên (systole) và số dưới (diastole).
Số
là trái tim chúng ta có hai thì, bóp vô và phồng ra. Khi tim bóp vô,
máu phọt vào động mạch, khi tim phồng ra, thì máu từ tĩnh mạch chảy vô
tim, còn máu từ động mạch thì không chảy ngược vô tim vì các valve tim
chận sự hút ngược máu từ động mạch.
Vậy
con số trên của áp huyết là áp suất của máu trong động mạch khi tim bóp
vô, đẩy máu vào động mạch và số dưới là khi tim nhả ra, hay phồng ra.
Khi máu được bơm vào động mạch, áp suất tăng cao, nên con số trên cao,
còn khi tim nhả ra, không bơm vô động mạch thì áp suất thấp xuống, nên
ta có systole cao hơn diastole.
Bây giờ mình tìm hiểu xem làm sao mà người ta đo máu, nguyên tắc để biết số trên và số dưới của áp huyết như thế nào.
Không
biết các vị thần y của phương Đông có ngón tay nhạy cảm thế nào, nhưng
theo Tây học thì nguyên lý của nó căn bản nhưng cũng khá ảo diệu.
Đầu
tiên chúng ta nên biết sơ về hiện tượng turbulence, tức là sự náo động,
lộn xôn, mất trật tự. Đôi khi bà con đứng cạnh một dòng sông bát ngát,
lượng nước trôi theo dòng hàng ngàn thước khối mỗi giây, nhưng vẫn không
nghe tiếng ầm ầm. Nhưng khi bà con mở một vòi nước phông tên trong nhà,
lượng nước chảy chỉ là hạt cát trong sa mạc so với dòng sông, nhưng lại
nghe xì xì rất lớn.
Tại sao vậy? Nhưng khi vặn rôbinê lỏng thêm một chút thì lại không nghe xì xì ì xèo như trước. Tại sao vậy?
Khi
nước chảy trong dòng sông những phân tử nước chảy trật tự, lớp trên
theo trên, lớp dưới theo dưới, như dòng xe chạy êm đềm trên xa lộ. Nhưng
trong ống nước, khi từ ống lớn chảy qua cái vòi nhỏ thì ở chỗ miệng vòi
nhỏ, các phân tử nước không còn được chảy lớp lang như trước mà những
đứa ở phía ngoài bị chạm vào thành ở chỗ ống hẹp, khiến nó dội lại, cuộn
lên cuộn xuống, va chạm lẫn nhau, như cả đoàn xe hơi đang chạy trên
freeway 6 lane thì không sao nhưng bỗng bị chui vô 1 lane, thì cụng nhau
chát chúa, tạo nên tiếng động.
Áp
dụng nguyên tắc này, người ta bơm cái cuff (cái vòng bơm hơi chung
quang cánh tay khi đo máu) lên quá áp xuất của máu. Lúc ấy đông mạch sẽ
bị chẽn cứng lại, như kẹt xe, không có tiếng động gì cả. Rồi từ từ người
ta giảm áp suất trong cuff.
Đến
một lúc nào đó thì áp xuất bên ngoài tương đương với áp suất bên trong
động mạch, và rồi sau đó giảm tiếp, hơi thấp hơn áp xuất động mạch một
tí. Khi ấy, máu trong động mạch bắt đầu có cơ hội chui qua một lỗ nhỏ
trong động mạch khi tim bóp lại, như đường 6 lane chui vào 1 lane, tạo
nên hiện tượng turbulence của máu, nghĩa là các phân tử máu va chạm
nhau, như nước chảy từ ống lớn chui qua lỗ nhỏ. Nó sẽ tạo ra tiếng "xì,
xì", mỗi khi tim bóp vào, bơm máu. Tiếng xì đầu tiên mà người đo máu
nghe được chính là số bên trên của áp huyết, hay systole.
Tiếng
xì xì đồng nhịp với sự co thắt của tim tiếp tục nhịp cho đến khi áp
suất bên ngoài, tức là áp suất của cái cuff vòng cánh tay mình, giảm
xuống đến mức độ bằng hoặc thấp hơn áp suất của động mạch khi tim phồng
ra, hay nhả ra. Lúc ấy thì hiện tượng đường 6 lane chui vô 1 lane không
còn nữa, xe chạy thong thả trong 6 lane xuyên xuốt, không đụng ầm ầm,
không có turbulence, và do đó không còn tiếng "xì” nữa. Tiếng xì cuối
cùng chính là diastole.
Người
đo máu mắt thì ngó cột thủy ngân, tai thì nghe các tiếng xì xì (nhưng
thường thì nghe như "tục tục" hay "bịch, bịch"). Họ ghi nhận áp suất ở
tiếng "bịch" đầu tiên, gọi là số trên (systole) và tiếng bịch cuối cùng,
là số dưới (diastole).
Thế là xong phần nguyên lý đo áp huyết.
Vậy thì áp huyết bao nhiêu là vừa?
Người ta thường nói 120/80 là trung bình. Các bà, các cô VN hay Á đông hễ thấy áp huyết 106/62, chẳng hạn, thì xanh mặt.
"Ôi, tui thiếu máu", "ôi, tui bị áp huyết thấp, chóng mặt wá, nhức đầu wá".
Ngay cả nhiều BS cũng hát bè theo, "ồ áp huyết của chị hơi thấp".
Rầu thấy mồ luôn, chẳng thiếu máu cũng chẳng bị áp huyết thấp chi cả.
Thưa
bà con, nhiệm vụ của trái tim là làm sao bơm máu đi châu thân, đến
"tiền tuyến" hay mô ngoại vi như ngón tay, ngón chân, một cách hiệu quả.
Con voi bự như cái đình, ắt cần trái tim bơm rất mạnh, áp huyết cao,
mới đẩy máu tới cái chóp đuôi của nó được. Còn con chuột lắc thì nhỏ
xíu, có cần cái máy bơm khổng lồ với công suất của trái tim con voi, áp
huyết của con voi chăng? Dĩ nhiên là không.
Tây
y bắt nguồn từ người phương Tây, ông nào bà nấy như con voi, còn mình
thì chỉ hơn con chuột lắc một chút. Con số 120/80 là trung bình cho
người Tây Phương nhưng không phải như vậy mới là chuẩn.
Người
đàn bà, con nít, áp huyết thấp hơn như vậy là thường, chẳng bệnh hoạn
gì cả. Chỉ khi nào áp huyết của mình bình thường khoảng 145/95, nay bỗng
tuột cái rẹt xuống còn 90/45, thì lúc ấy mới có vấn đề.
Vậy thì áp huyết bao nhiêu thì gọi là cao, bao nhiêu là thấp?
Theo
sách y, nếu con số trên từ 140 trở lên, hoặc con số dưới từ 90 trở lên
thì là áp huyết cao. Nhưng định nghĩa này chỉ có tính tương đối. Còn nếu
con số trên dưới 80, con số dưới dưới dưới 40 thì thấp.
Câu hỏi kế tiếp của quý vị là sao áp huyết của tui là 178/67, vậy thì cao hay thấp?
Số trên thì cao, số dưới thì dưới trung bình.
Đây
là hiện tượng cao áp huyết thưòng thấy ở người cao niên. Quý vị sẽ thấy
cái “gap”, sự cách biệt giữa số trên và số dưới khá xa (nếu áp huyết
120/80 thì sự cách biệt giữa hai con số là 40mmHg (thủy ngân)), trong
trường hợp áp huyết 178/ 67 thì sự cách biệt đến 111mmHg, khác quá xa.
Tại sao như vậy?
Vấn
đề không nằm ở trái tim mà ở động mạch. Khi ta còn trẻ, động mạch mềm,
dễ co giãn. Khi tim bóp cái xịt, máu phọt ra, động mạch sẽ chìu ý mà nở
ra dễ dàng, do đó tuy khi tim đập áp huyết có cao hơn khi tim nhả ra,
nhưng không tăng quá cao.
Người
già, động mạch của họ như cái ống nước cao su bị phơi nắng hàng mấy
chục năm trường (như thôi, chớ đương nhiên động mạch thì không phơi nắng
được), nó so cứng lại, mất tính mềm dẽo, đàn hồi. Và thế là khi trái
tim bóp cái xịt, động mạch không thèm nở ra, khiến lòng mạch chật chội,
áp huyết tăng cao. Nhưng khi tim nhả ra, không bóp máu, thì động mạch dù
sơ cứng cũng không ảnh hưởng đến áp suất vì không bị máu bơm thêm vào.
Do
sự sơ cứng của động mạch trong người già, quý cao niên thường có
systole, con số trên cao, và cách biệt giữa số trên và dưới khá xa. Nói
đây là bệnh cao áp huyết cũng được, nhưng nhìn hiện tượng cao áp huyết
này như một lẽ thường của sự lão hóa thì cũng không sai. Hầu như, chỉ
hầu như, đương nhiên già thì bị.
Những
người tập thể thao nhiều, đông mạch co giãn hoài, cộng với đời sống
điều độ, thì ít bị sơ cứng động mạch hơn. Ngày xưa người ta quan niệm áp
huyết (systole) của một người già bằng với số tuổi của họ cộng với 100.
Nghĩa là nếu cụ 75, có áp huyết 175 (số trên) là chuyện thường ngày ở
huyện.
Quan niệm ấy vẫn đúng, nhưng nay người ta thấy rằng nếu làm áp huyết của cụ giảm xuống thì cụ sống lâu hơn một chút.
Vậy áp huyết hại ta như thế nào?
Rầu nhất hạng là người thường không hiểu về tác hại của áp huyết, hở mỗi chút là mỗi lo.
Áp
huyết của một người, trong một ngày, lên xuống ì xèo, không thể vì một
lần đo thấy 178/99 rồi xanh mặt chao dao, tưởng như mình sắp đứt gân
máu. Khi ta nóng giận, tức tối, đau đớn, khó chịu, thiếu ngủ, căng
thẳng, áp huyết đều tăng.
Nhưng áp huyết cao chỉ có hại nếu nó cao trường kỳ. Nó sẽ làm hư hao động mạch. Vì bộ phận nào của ta cũng đều cần máu nuôi dưỡng, mạch dẫn đến cơ quan nào hư thì cơ quan đó "dẹo niền" luôn. Mạch lên não hư thì tai biến mạch máu não, tức là stroke, mạch dẫn đến (bắp thịt của) tim hư thì bị nhồi máu cơ tim. Mạch dễn đến mắt hư thì... đui. Mạch dẫn đến dương vật hư thì... liệt. Đơn giản chừng ấy.
Vậy làm sao để áp huyết không cao?
Trước
khi dùng thuốc thì tập thể dục, thể thao, ăn uống vừa phải (ít chất
mặn). Nếu áp huyết vẫn cao thì uống thuốc. Quý vị nào muốn dùng thuốc
cỏ, thuốc Nam, rau cần, vân vân thì cứ dùng. Chúng tôi cho rằng các thứ
thuốc Nam này cũng có dược tính nhưng liều lượng cần thiết, phản ứng phụ
và hiệu nghiệm ra sao, chúng tôi không biết (và cũng KHÔNG CẦN BIẾT vì
chúng tôi chỉ cần uống một viên thuốc bằng ăn mấy bó rau).
Nếu
ai đó quan niệm rằng uống dược thảo sẽ không bị phản ứng phụ, không bị
"nóng", tốt hơn thuốc tây, thì trước khi kết luận, xin điều nghiên qua
một ít thống kê xem người xưa dùng thuốc cỏ có ít bị tai biến mạch máu
não, nói nôm nay là trúng gió, có ít bị nhồi máu cơ tim, có sống dai hơn
người dùng thuốc Tây thời nay không.
Tóm lại, quan niệm của chúng tôi vô cùng đơn giản...
Thứ
nhất, không ai tránh được bệnh và chết (trừ phi chết bất đắc kỳ tử),
nên khỏi cần lo lắng về bệnh tật, chắc chắn nó sẽ đến với ta. Không lo
cũng bệnh mà lo thì càng... dễ bệnh hơn.
Thứ
hai, khi cái xe của chúng tôi bị hư, vì không biết về cơ khí, tôi giao
phó nó cho anh thợ hay kỹ sư. Bệnh nhân cũng nên có thái độ này đối với
sức khỏe của mình, giao cho BS lo… Tiếc là trong đời hành y của tôi, số
người Việt không giỏi tiếng Anh mà có quan niệm và thái độ điềm tĩnh này
chiếm KHÔNG ĐẾN 10%, chưa chắc đến 5%.
Kết quả là áp huyết của họ cao vì lo lắng những chuyện không đáng lo.
Cuối
cùng, chúng tôi quan niệm người ta bệnh trầm kha và chết mỗi ngày, mình
vẫn dửng dưng. Nếu khi mình bệnh mà mình lo lắng thái quá thì vừa chứng
minh lòng vị kỷ, vừa tổn tâm hao trí. Đời sẽ mất vui.
BS Nguyễn văn Hoàng
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22317 |
![]() ![]() ![]() |
Bộ Máy Hô Hấp1-Thở là gì? Mỗi ngày ta hít thở khoảng 18,925 lít không khí. Thở có hai nhiệm vụ: Thứ nhất là nó cung cấp cho cơ thể dưỡng khí cần để đốt thực phẩm và cho dưỡng khí. Thứ hai là nó thải ra thán khí là chất không cần của đời sống. Dưỡng khí là chất hơi chiếm khoảng 20 phần trăm không khí mà ta hít vào phổi. Không khí thở ra chứa nhiều thán khí. Mặc
dù thở là không tự chủ, tuy nhiên ta có thể du di nó một phần nào. Thí
dụ ta có thể lấy hơi thật lớn trước khi lặn ở dưới nước.Ta cũng có thể
ngưng thở nhưng đừng ngưng lâu quá; phản ứng không tự chủ bắt con người
thở quá mạnh khiến ta không thể tự tử bằng cách ngưng thở. 2-Khi ta “hết hơi” thì chuyện gì xẩy ra? Trong
khi vận động mạnh, bắp thịt của ta có thể đã dùng hết dưỡng khí mau hơn
là tim cung cấp và phổi có thể thay thế.Tạo hóa đã cung gắn sự cấp cứu
này bằng cách cho phép các cơ bắp mắc nợ dưỡng khí một thời gian ngắn.
Khi món nợ này đã được trả, ta có thể ở trạng thái “hết hơi” và chúng ta
sẽ tiếp tục thở hổn hển. 3-Tại sao ta ngáy và có cách điều trị không? Ngáy là hơi thở mạnh và khó khăn trong khi ngủ.Người lớn đôi khi ngáy khoảng 45 lần nhưng trung bình là 25 lần. Nguyên nhân là do nghẹt mũi, lớn lên của lưỡi hoặc cục thịt dư, lệch vách ngăn của mũi, nằm ngửa và lưỡi cản trở hơi thở. Ngáy
có thể nguy hiểm và gây ra nghẹt thở tạm thời. Nếu có khoảng sáu hoặc
bẩy cơn như vậy trong vòng một giây đồng hồ sẽ gây ra nghẹt thở và cần
đi thăm bác sĩ. Thiếu dưỡng khí có thể đưa tới cao huyết áp và mất ngủ
kinh niên. Ngáy vừa phải có thể được chữa bằng vận đông và giảm cân hoặc không uống rượu, thuốc ngủ hoặc thuốc an thần trước khi ngủ. 4- Tại sao ta ngáp? Nếu
chúng ta thấy một người ngáp khi bước ra khỏi rạp chiếu bóng, đừng cho
là tại phim dở. Trái với ý kiến chung, ngáp không phải là dấu hiệu của
sự buồn chán.Nếu ta ngáp, giản dị là chúng ta cần dưỡng khí và khi ngáp,
dưỡng khí sẽ vào phổi nhiều hơn. Dưỡng
khí của cơ thể sẽ thiếu sau một thời gian dài thở nhẹ, bị căng thẳng
hoặc ngồi bất động một thời gian lâu.Ngáp không phải là dấu hiệu của một
bất thường nào. Điểm đặc biệt là ngáp không xẩy ra khi con người bị
bệnh về thể chất hoặc tâm thần. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức, cn.
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 179 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |