Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình
Message Icon Chủ đề: MƯỜI ĐIỀU RĂN NGƯỜI GIÀ Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 72 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23708
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Dec/2012 lúc 6:42pm

Sương Khói Vương Mắt Ai.


Tác Giả: Tràm Cà Mau.

demtrangdep

 

Tôi vào ‘Viện Phục Hồi’ để thăm mẹ của một người bạn, bà hơn chín mươi tuổi. Gọi là viện ‘phục hồi’ cho lịch sự, chứ đã có mấy ai được hồi phục sức khỏe để mà xuất viện về nhà. Vào đây rồi, thì xem như chờ ngày Trời gọi đi. Toàn cảnhững người bại liệt toàn thân, bán thân, hoặc đã mê man không còn biết trờiđất chi nữa. Những người còn có thể tự dùng xe lăn để di chuyển một mình, chậm chạp như rùa bò, và khó khăn để tiến tới vài ba thưóc, thì có thể xem như thuộc thành phần khỏe mạnh nhất, có sức khoẻ tốt.

Một cụ già teo tóp, như chỉ còn bộ da nhăn nhúm bọc trong mớ áo quần bùng nhùng,đang chống gậy đi từng bước chậm chạp vào cổng viện. Có lẽ cụ đi thăm thân nhân. Cái gậy của cụ, chọc chọc nhiều lần xuống đất, giống như dò đường trong nước lụt, rồi mới trụ lại để đỡ cho bưóc chân kế tiếp. Tôi thầm nghĩ rằng, điđứng khó khăn đến thế, mà cũng chịu khó vào đây thăm viếng. Tiếng thở khò khè mệt nhọc của cụ, làm tôi ái ngại.

Bà mẹ bạn tôi xem như bị liệt chân, nằm trên giường. Có ống ni-lông nối từ bọng tiểu ra một cái bình treo cạnh giường. Nước tiểu màu vàng rỉ dần làm thành bọt trong ống dẫn. Ruột già của bà, được nối với một cái ống khác, để chuyển phân vào cái túi nằm bên ngoài, mang trên bụng. Bà đang nhăn nhó, khó chịu vì cái túi phân quá đầy, mà y tá chưa có thì giờ để giúp bà trút bỏ phân chứa trong cái túi. Một ông rể nghe bà rên rỉ, anh dở mền ra, kéo quần bà xuống, sờ vào túi phân căng phồng, ông giận nói :

“Mấy người y-tá ở đây thiếu trách nhiệm. Túi phân căng đầy thế nầy, thì chứng tỏ hôm qua chưa đổ phân. Thôi, để con giúp mẹ. ”

Ông múc chậu nước, rồi kéo quần bà cụ xuống, gỡ băng keo dán trên bụng, dùng hai tay tháo túi phân ra khỏi ống nối. Tôi vội quay mặt đi, để tránh ‘phạm thượng’,khỏi thấy cái chỗ không đáng thấy, của bà cụ. Nhưng không kịp, và tôi suýt á lên một tiếng vì ngạc nhiên. Sau nầy tôi đem cái ngạc nhiên đó ra hỏi ông rểcủa bà cụ, thì anh cho biết, khi già, thì ‘tóc’ ở nơi ấy rụng hết, như đàn ông bị hói đầu, nên trơn lu như trẻ con. Tôi không biết có thật như vậy hay không.

Khi ông rể bà nặn phân từ túi ra chậu nước, mùi thối tha nồng nặc xông lên, tôi không chịu nổi, phải lảng ra ngoài phòng. Tôi chợt cảm phục tấm lòng tốt của người con rể by Text-Enhance">kia, và biết mình khó làm điều đó cho mẹ vợ được, dù tôi có thương bàđến mấy đi nữa. Nhưng có lẽ, nếu là mẹ ruột tôi, hoặc vợ tôi, thì tôi sẽ không ngần ngại mà xắn tay làm. Ông con rể của bà cẩn thận, rửa sạch túi phân, gắn lại trên bụng cho bà mẹ vợ. Anh vẫn tươi cười, vui vẻ, không tỏ ra khó chịu khi phải làm việc khó khăn dơ dáy nầy. Tôi tự xét, tấm lòng của ông hơn xa chúng tôi, hơn xa các con của bà cụ.

Mẹbạn tôi được ẵm từ giường lên xe lăn, đẩy ra khu sinh hoạt, đó là một phòng lớn. Hơn bốn chục cái xe lăn, đặt hướng về một phía. Trên mỗi xe lăn, có một con người bệnh, với những đôi mắt lờ đờ như không muốn thấy, những cái đầu xiêu vẹo trên cổ, những cái miệng méo mó, hở hang, và có nước giãi lòng thòng. Những khuôn mặt với da trắng bệch, như vô tri, như không còn sự sống. Các sư cô đếnđây giúp vui cứ nói, cứ hát. Không cần biết họ có nghe hay không. Những lời nói khuyến khích người bệnh lạc quan, yêu đời, dù cho ở hoàn cảnh nào, cũng cứ nuôi hy vọng. Tôi thầm nghĩ, có lẽ hy vọng chính đáng lớn nhất của họ, là được sớm ra đi yên bình, khỏi phải kéo dài đời sống nầy, như những hình phạt khắc nghiệt phải chịu, trước khi được giải thoát.

Tôiđi thụt lùi về góc phòng. Tôi chợt nhận ra ông cụ già đã gặp buổi sáng, cụ đang ngồi bên cạnh một lão bà trong xe lăn. Cụ ông vuốt vai, vuốt lưng cụ bà, và hát nho nhỏ, những bài hát ru em, thỉnh thoảng tiếng hát bị đứt đoạn vì ho khàn trong cổ họng. Tôi lắng nghe tiếng được tiếng mất :

“ Thôi thôi, nín đi bé ơi, đừng khóc nữa. Anh biết nó làm gãy tay con búp bê của bé. Anh sẽ gắn tay búp bê lại cho bé. Đây, cục kẹo, bé ăn đi, ngon vô cùng…Bé cười đi cho anh vui... ”

Bà cụ cười, cái miệng cười không răng, trông dễ thương như em bé mới biết bò. Bà cụ nói thều thào :

“ Sáng nay ông ăn gì ? Nhớ ăn uống cho đầy đủ, đừng làm biếng ăn nghe cưng. Nhớ ăn rau trái cho nhiều vào.”

Ông cụ cúi đầu nghiêng qua, hôn lên tóc, quàng tay qua vai bà, rồi hát tiếp bản nhạc“ Sương Khói Vương Trong Mắt Em ”. Đúng là sương khói trong mắt bà, vầng mắt đã đục trắng, mờ mờ lem nhem. Tiếng hát ông khàn khàn : “ …ngày kia em sẽ tìm thấy rằng, những người biết yêu đều là mù quáng. Ôi, khi ngọn lửa trong tim cháy bùng, em phải hiểu rằng, sương khói đang vương trong mắt em… ” Chưa hát xong, thì ông ho sù sụ, và dừng lại thở khò khè. Bà cụ đang nhắm mắt lim dim, như ngây ngất với tiếng hát, bỗng mởmắt quay qua ông, nói :

“ Lại ho nữa rồi. Khổ chưa. ”

Tôi trở về chỗ với bà mẹ của bạn. Người em của bạn tôi cười và nói nhỏ:

“ Tôi biết anh đang rình nghe lóm chuyện của hai ông bà cụ bên kia. Ngày nào ông cụcũng vào thăm bà, họ không tham gia sinh hoạt chung, mà đem nhau vào góc phòng ngồi thủ thỉ. Có khi ông mượn được cây đàn, búng dây tưng tưng, có lẽ run tay, nên thường đánh trật nhịp, rồi hát cho bà nghe. Chắc cặp vợ chồng nầy, đã có một đời sống hạnh phúc tuyệt vời ”

Đến giờ ăn trưa, y tá bưng cho mỗi người một khay thức ăn, có bốn món. Mọi người ngồi quanh những cái bàn tròn trải khăn trắng. Rất ít người có thể tự đưa thứcăn vào miệng, y tá phải múc và bón cho từng người, như đút cho em bé. Những cái miệng đã méo, những cơ bắp đã liệt, làm thức ăn rơi chảy ra ngoài vung vãi trên tấm khăn ăn mang trước ngực. Nhiều người cứ ngậm thức ăn trong miệng, không nhai, không nuốt, giống hệt những em bé nhỏng nhẽo biếng ăn. Những người y tá rất kiên nhẫn và dịu dàng, dỗ dành các cụ : “Giỏi, giỏi lắm. Nhai đi. Nuốtđi. Có thế chứ… cám ơn.” Rồi họ múc thêm thức ăn, dồn vào miệng các cụ.

Hai ông bà cụ vẫn ngồi riêng trong góc phòng. Ông chậm chạp vụng về lấy khăn ăn quàng qua cổ bà, vuốt vuốt trên ngực. Bà há miệng cho ông gắn hàm răng giả Rồi ông vịn bàn, ngồi xuống, đút cho bà ăn. Mỗi khi bà há miệng đòi đút thêm, ông cười sung sướng nói :

“Có thế chứ, bé ngoan lắm mà. Ăn cho mau lớn mà lấy chồng”.

Bà cụ quay qua, nụ cười với hàng răng giả đều đặn:

“Cứchừng đó, nói đi nói lại hoài. Nhưng nghe cũng vui tai”.

Ông tằng hắng, thông đàm trong cổ họng, rồi nói :

“ Ừ.Vợ chồng, hoặc những người yêu nhau, có bao giờ nghe nhàm câu ‘anh yêu em, em yêu anh’ đâu. Nghe mấy ngàn lần cũng cứ vui, cứ khoái tai như thường.”

Bà nói nho nhỏ :

“ Ôngăn với tôi nhé. Họ cho nhiều quá, ngày nào cũng thế. Hai người mình ăn cũng chưa hết. Ông ăn chén thịt bò xào đi. Ăn đi mà. Không ai nói gì đâu. Ông cứ ngại hoài. Mỗi ngày dư ra, cũng đem đổ đi mà thôi.”

Ông cười và nói đùa :

“ Cái bao tử tôi đâu phải là thùng rác ? Ừ, thôi, tôi ăn mấy miếng cho bà vui.”

Bà hỏi, giọng ngọt ngào :

“ Hôm nay ông chờ xe buýt có lâu không ? ”

“ Khá lâu, vì sáng nay xe đến trước giờ. Tôi thấy xe trờ tới, mà không dám chạy theo cho kịp. ”

“ Ưà.Đừng có chạy. Đi còn khó khăn. Vấp té, hoặc mệt đứng tim mà chết. Trễ chuyến nầy, còn chuyến khác. Không gấp.”

“ Tôi biết mà. Muốn chạy cũng không được. Mình cứ thong thả. Chỉ sợ bà mong chờ, nóng ruột mà thôi.”

Bà cười, nhìn ông âu yếm. Tôi đứng nhìn xuống thảm cỏ dưới lầu, nhưng thấy và nghe hết câu chuyện của hai ông bà.

Ôngđưa nước cho bà uống. Bà hớp môt hớp, rồi lắc đầu. Ông có vẻ lo lắng:

“ Lấy nước cam cho bà uống nhé? Bà không ưa nước nầy?”

Bà gật đầu. Ông chống gậy chậm chạp đi dần về phiá cái bàn có nhiều bình cà phê, trà, nước ngọt. Ông vụng về rót đầy ly, rồi mang về. Một tay cầm ly, một tay chống gậy. Ông bước từng bước khó khăn. Tay ông run rẩy, làm nước chao đổ ra cả sàn phòng. Tôi vội vàng chạy đến,đỡ cái ly trên tay ông, và nói mau: “Tôi xin được giúp ông một tay”. Ông cụ toét miệng cười. Tôi đem ly nước đến cho bà cụ, và chào bà, hỏi bà có mạnh khỏe không. Tôi tự giới thiệu:

“Tôi tên là Tim. Tôi vào đây thăm bà mẹ của bạn, cái bà mặc áo hoa màu đỏ, ngồi bàn đàng kia kìa”.

Ông cụ nghe không rõ, tưởng tôi đi thăm mẹvợ, ông đáp lời:

“Hân hạnh. Tôi là Biêu. Bà nầy là Mary. Nầy, anh là một ngưòi tử tế, biết đi thăm bà má vợ. Anh có biết thiên hạ bảo rằng, cụ Adam, tổ tiên của loài người, là kẻsung sướng nhất thế gian, vì cụ không có một bà mẹ vợ. ”

Tôi phì cười và đáp lời :

“ Xứ nầy, thì mấy ông rể ghét cay ghét đắng và có thành kiến với mẹ vợ, chứ xứ tôi, thì con rể và mẹ vợ rất thương nhau. Rể thương mẹ vợ, vì bà sinh ra con gái cho hắn ‘thả dê’ và mẹ vợ thương con rể, để nó ‘dê’ con gái của bà nhiều nhiều.”

Ông cụ toét miệng, nghiêng đầu cười ha hả, còn bà cụ thì trề cái môi dưới ra thật dài tỏ vẻ bất bình vì lời nói đùa cợt của tôi.

Một buổi chiều, tôi trở lại thăm một ông bạn cựu sĩ quan nằm mê man. Sau khi nựng má bạn để từ giã, tôi lái xe về. Khi xe đến cổng, tôi thấy ông Biêu đang chống gậy chậm chạp ì ạch đi ra đường. Nhìn lên thấy bầu trời xám xịt sắp chuyển mưa. Tôi dừng xe lại chào, và đề nghị chở ôngấy ra trạm xe buýt. Ông cám ơn, và khó nhọc lắm mới ngồi vào được trong xe, tôi phải phụ ông gài dây an toàn. Tôi thấy thương ông già quá, đi đứng khó khăn, mà ngày nào cũng đến thăm vợ bằng xe buýt, không quản ngại nắng mưa. Những cặp vợchồng trẻ, cũng không tình tứ lãng mạn như hai cụ già nầy. Tôi mở đầu câu chuyện :

“ Ông không nhờ được ai chở đi về mỗi ngày sao ? Đi xe buýt, phải chờ đợi, nắng nôi, xe dừng lại nhiều trạm, cứchạy giựt mãi, mệt lắm. Con cháu của cụ không giúp được sao ? ”

“Tôi không có con cháu. Mà nếu có, cũng khó nhờ vả. Cũng không nên nhờ, vì chúng cũng tất bật với công ăn việc làm, với đời sống riêng khó khăn. Mình nhiều thì giờ, cứ thong thả, từ từ, thì đi đâu cũngđến. Chỉ không đi vòng quanh thế giới được mà thôi.”

Tôi nói:

“Khi còn bé, tôi cũng ước mơ làm một kẻ lãng du, được in dấu chân mình khắp năm châu bốn bể. Nhưng rồi vì hoàn cảnh đất nước chiến tranh, vì đời sống, áo cơm, vợ con, nên bây giờ cứ tiếc mãi.”

“Không việc gì mà tiếc. Đi được cũng vui, mà không đi được, cũng có cái vui khác. Hoàn cảnh nào, cũng tìm được nguồn vui trong đó. Tôi cũng đã từng dùng gần cả cuộc đời đi lang thang hầu như khắp nẻo địa cầu, cũng vui. Nhưng rồi, cũng chẳng được gì ngoài cái thoả mãn tò mò, cái mơmộng của mình.”

Nghe ông cụ đã từng đi khắp địa cầu, tôi khoái quá, muốn biết kinh nghiệm của ông. Bến xe buýt đã cận kề, tôi muốn kéo dài câu chuyện, hỏi:

“Cụ về đâu? Tôi đưa cụ về nhà luôn. Cụ nói cho tôi nghe về cuộc đời đi giang hồ khắp nơi trên địa cầu nầy?”

“Thôi, thôi, để khi khác. Tôi không muốn làm phiền anh . Nhà tôi ở gần góc đường số 5, và Harbor. Khi nào rảnh, mời anh ghé chơi.”

“Nhà tôi cũng vùng đó. Cụ đừng ngại, để tôi chở cụ về luôn, cũng tiện đường. Tôiđang rảnh rang, không có việc chi bận rộn cả.”

“Thế thì được. Mình không nên lợi dụng lòng tốt của thiên hạ. Ai cũng tốt cả, nhưng bị lợi dụng nhiều, cũng sẽ phát cáu, và mất bớt cái tử tế đi. À, hay là tôi mời anh đi ăn tiệm chiều nay. Tôi biết một tiệm có món thịt bò chiên ngon và mềm lắm. Răng yếu như tôi, cũng còn nhaiđược.”

“ Cụ còn thích ăn thịt bò? Ăn thịt nhiều, không tốt cho sức khỏe. Rồi bịcao máu, cao mỡ...”

“Tuổi tôi, ngoài chín mươi rồi, không còn sợ gì cả. Ngon thì cứ ăn cho vui. Đâu có còn thấy mặt trời được bao lâu nữa. Vui được cứ vui, ngon cứ ăn, mệt cứ nghỉ. Mỗi giờ, vui sống cho tròn sáu mươi phút, mỗi phút, vui tròn sáu mươi giây”

“Cụ còn yêu đời quá nhỉ? Thế thì cụ khôngđau ốm, không nhức xương, không mỏi mệt.?”

“Già thì ai mà không bệnh, không đau ốm.Đau nhức xương cốt là cái trời cho mình trong tuổi già. Còn chống gậy lê bướcđược, còn nghe được loáng thoáng, thấy được lờ mờ, cũng đã là quá vui và hạnh phúc rồi. Mùa thu thì lá phải vàng và rụng, để cho lá non đâm chồi. Anh đã nghe câu thơ: “Còn bước được, ta còn ca, còn múa. Thế giới nầy, đầy cả hạnh phúc vui.” Không?

Tôi nói đùa:

“Hay là, ăn tiệm xong, cụ và tôi đi nhảy Disco chơi?”

Ông cụ cười ha ha, vỗ vào đùi tôi, ông nói:

“ Anh còn ngon lành quá. Đi thì đi, tôi đâu có sợ gì. Anh cứ nhảy, tôi ngồi xem cũng vui. Mà anh còn đủ sức để nhảy không chứ?”

Ông chỉ đường cho tôi đi đến tiệm thịt bò chiên đặc biệt. Bên trong trang hoàng thanh nhã, ghế bọc nệm da láng. Bàn kê sát cửa sổ nhìn ra một công viên cây xanh, có hồ nước loang loáng in bóng bầu trời.

Chúng tôi kêu hai dĩa thịt bò chiên ăn với khoai tây nghiền, và rau sống. Răng tôi cũng đã yếu,không cắn nổi bánh mì. Tôi nhập đề ngay:

“ Cụ nói cho tôi nghe về cuộc đời lãng du của cụ đi. Tôi đang nóng lòng nghe đây.”

“ Hôm nay đặc biệt, anh uống với tôi một chai rượu vang nhé.”

Cả đời tôi, thiếu mất cái thú uống rượu, vì uống vào, đã không ngon miệng, mà còn thấy dờn dợn, và cay xè, khó chịu, nhưuống phải thuốc độc. Sau đó thì chóng mặt, nhức đầu. Nhưng hôm nay, tôi không muốn ông già Biêu cụt hứng, nên cười vui, và gật đầu bằng lòng. Bên ngoài trời mưa xối xả, đất trời trắng xóa, quán lên đèn vàng ấm áp.

Ông cụ rót cho tôi rượu màu máu thẫm vào ly pha lê lóng lánh. Tôi làm như sành nhậu, lắc rượu xoay tròn trong ly, và nhìn mưa rơi, trời đất đẹp như bức tranh lãng mạn. Tôi đổi đề tài:

“ Tôi thấy hai cụ thương yêu, chăm sóc nhau, làm tôi cảm động và vui lây với cái hạnh phúc lan toả ra chung quanh. Cụcó thể kể cho tôi nghe về cụ bà, có được không?”

Ông cụ thở dài, tằng hắng rồi bắt giọng:

“Tôi và Mary cùng tuổi. Lớn lên ở cạnh nhà nhau. Chúng tôi thương khi nằm chung nôi, và bú chung vú mẹ. Mary bú vú mẹ tôi và tôi bú vú mẹ Mary. Hai nhà qua lại thân thiết. Tôi và Mary chơi chung đồ chơi. Nhiều hôm đắp chung chăn ngủ vuì. Rồi cùng đi học chung lớp. Được bố mẹ đón đi chung,về chung mỗi ngày. Hồi sáu bảy tuồi, thấy bố mẹ hôn nhau, chúng tôi cũng hôn nhau mỗi ngày nhiều lần. Chúng tôi cũng đóng vai vợ chồng, giả vờ chăm sóc nhau. Mỗi tuần, tôi xé giấy làm tiền, tôi đưa cho Mary, như là đưa ngân phiếu lương cho vợ. Mỗi lần gia đình đi nghỉ hè, chúng tôi khóc, đòi đi chung. Không được, thì suốt thời gian vắng nhau, chúng tôi ủ rủ như tàu lá héo. Tôi và Mary đều tin chắc rằng, lớn lên, chúng tôi sẽ kết hôn thành vợ chồng. Năm mười một tuổi, bố mẹ Mary li dị nhau. Căn nhà được bán đi. Nàng theo mẹ dọn đi nơi khác, xa nhà cũ chừng một giờ đi xe buýt, đổi xe hai lần. Mary trao cho tôi địa chỉ mới và có vẽ bản đồ xe buýt có ghi: “Chờ anh đến gặp em. Chờ anh từng ngày” Tôi muốn đi thăm nàng lắm, nhưng không đi được, vì không ai đưa đi, và còn nhỏ, bố mẹ không cho đi một mình. Tôi muốn trốn nhà đi thăm, cũng không có tiền đi xe buýt. Hơn một năm sau, tôi mới có tiền, và có dịp trốn nhà đi thăm. Nhưng đến nơi, thì nhà đóng cửa, tôi đấm cửa rồi ngồi chờ trong hành lang cư xá. Đến chiều tối, nàng cũng chưa về. Tôi phải vội vã đi bộ ra trạm xe búyt, và khi về đến nhà, thì thấy xe cảnh sát và cả xóm xôn xao đổ đi tìm tôi. Tôi bị trừng phạt. Bố mẹ rtôi suýt bị ra toà vì tội lơ đãng trong việc chăm sóc con nhỏ. Tôi thú thật với mẹ là nhớ Mary quá, nên trốn nhà đi thăm. Mẹ khuyên tôi nên quên Mary đi. Làm sao mà tôi quênđược. Mấy năm sau, mẹ Mary lấy chồng khác, dọn nhà qua tiểu bang xa. Hai đứa hoàn toàn mất liên lạc nhau. Nhưng trong tôi, hình bóng Mary không phai mờ. Tôi mong mau lớn để đi làm, cưới Mary làm vợ.

Năm mười chín tuổi, tôi gặp lại nàng, hai đứa vô cùng vui mừng, và ôm chặt lấy nhau, tưởng sẽ không bao giờ xa nhau được nữa. Lúc nầy, nàng đã đính hôn với người khác rồi, nhưng nàng sẵn sàng hủy bỏ để lấy tôi. Chúng tôi định làm đám cưới gấp nhưng không kịp, vì hai hôm sau đã phải đi Âu Châu tham dự Đệ Nhị Thế Chiến. Tôi lái máy bay chiến đấu. Say mê với những cuộc không chiến hiểm nghèo, mà sinh mạng như treo đầu ngọn cỏ. Mới mấy tháng, tôi đã hạ được năm máy bay địch, rồi cũng phải trả nợ, tôi bị bắn rơi trên vùng trời địch. Quân đội xem như tôi đã chết, có báo tin về cho gia đình, Mary cũng biết. Tôi bị thương, và sau mấy ngày trốn núp trong ruộng nho, tôi bịbắt làm tù binh.

Sau khi thếchiến chấm dứt, tôi trở về, tơi tả, thì Mary cũng đã có chồng. Lấy người mà nàng đã đính hôn trước đây. Tôi buồn, cái máu giang hồ nổi lên, xin đi theođoàn thám hiểm. Đi khắp thế giới, đến những nơi chưa ai từng in dấu chân. TừBắc Cực đến Nam Cực, những vùng rừng già Phi Châu, Á Châu, Nam Mỹ, tôi say mê với khám phá thiên nhiên, khám phá đời sống sinh vật. Khi ở tuổi 55, tôi bị tai nạn tuyết chuồi, cả đoàn bị chôn vùi nhiều ngày trong núi nước đá đông. Khiđược moi ra, thì tôi là một trong hai người còn sống sót. Bị thương ở cột sống, tôi không còn đủ năng lực đi theo đoàn thám hiểm nữa. Về thành phố nhỏ, tôi sống bằng nghề đánh đàn trong một hộp đêm ế khách, của một ban nhạc nghèo. Nhưng cũng lây lất đủ qua ngày, qua tháng.

Khi nầy thì Mary đã li dị hai lần. Anh chồng thứ nhất say mê bài bạc, nợ nần lung tung, nhiều khi nhà không có bánh mì khô mà gặm. Anh chồng thứ hai thì tốt bụng, nhưng say sưa và gần như thất nghiệp quanh năm. Cái số của nàng khổ. Anh chồng thứ ba là thợ mộc, làm ăn khá giả, tủ tế. Nhưng cũng không lâu, vì anh ta đã té từ mái nhà xuống, gãy xương sống, nằm liệt một chỗ. Mary vừa đi làm nuôi chồng, vừa chăm sóc, nuôi nấng cho đến khi chồng chết.

Đầu thập niên 1990 tôi đang trắng tay, sống vất vả với đồng tiền eo hẹp. Trong khi rảnh rỗi, tôi ghi danh tham dự một khoá hội thảo về thị trường chứng khoán. Tại đây, tôi quen với một tay chơi chứng khoán nhà nghề. Hắn dạy tôi chơi, tôi cứ nhắm mắt theo hắn, và nhờ thế mà tiền lời tăng mau như thổi. Đôi khi không kịp nghe lời hắn mà vô ra thị trường cho kịp, thì tôi lại may mắn hơn, ăn nhiều hơn, hoặc thua ít hơn. Rồi suốt ngày tôi ngồi trước máy vi tính, mua bán chứng khoán cho bà con, bạn bè. Vô, ra, từng giờ. Trời đãi, chứng khoán lên giá, thì tôi được lời đã đành, mà chứng khoán xuống giá, tôi cũng lời luôn. Tôi không phải nghiên cứu học hỏi chi cả, cứ nhắm mắt theo ông bạn. Tôi báo cáo lời lỗ cho hắn từng ngày. Hắn khoái lắm. Trong vòng gần mười năm, tôi đã có đến bạc triệu. Thế mà ông bạn đó lại sạt nghiệp, thua tơi tả, và nợ nần, bị vợ li dị luôn. Tôi đã phải trả quả cho vụ chứng khoán nầy. Bị căng thẳng quá, nên đau tim. Đầu năm 2000, tôi phải vào bệnh viện mổ tim. Trước khi mổ, tôi chuyển hết tiền vào các đầu tư cố định. Không lời nhiều, nhưng chắc ăn, không lo mất. Trời xui khiến, khi tôi mổ tim về nhà, thì cái máy vi tính của tôi trục trặc, đang thời gian dưỡng bệnh, tôi không màng chi đến chuyện tiền bạc, thị trường. Dù vậy, tôi cũng đã phải vào bệnh viện mổ lại, sức khỏe của tôi xuống rất thấp. Hơn hai năm trời đau yếu rề rà, tôi không hề đụng đến cái máy vi tính, và không hề nghĩ đến số tiền đầu tư. Một hôm tình cờ, tôi giật mình khi nghe tin tức. Trong thời gian đó, thị trường chứng khoán Nasdaq tụt giốc xuống hố, chỉ số từkhoảng 4700 xuống đến gần 1100. Nghĩa là mất giá, chỉ còn chừng 25%. Có nhiều người thua sạch. Có người tự tửchết. Tôi không mất xu nào cả. Trời thương.

Năm 80 tuổi, tình cờ tôi gặp lại Mary. Cả hai đều móm mém, già nua. Thế mà còn nhận rađược nhau. Ôm nhau khóc. Kể lể cho nhau nghe bao nhiêu gian truân của cuộc đời. Chỉ trong vòng một tuần, chúng tôi đưa nhau vào nhà thờ, làm đám cưới gấp, có một số ít bạn bè chứng kiến. Nàng lấy chồng lấn thứ tư, tôi lần đầu tiên cưới vợ.Tôi đem Mary về, chúng tôi sống trong hạnh phúc êm đềm của tuổi già. Nhiều đêm nằm ngủ thức giấc, quàng tay qua, có Mary nằm bên cạnh, tôi có cái hạnh phúc của thời thơ ấu, khi hai đứa nằm đắp chung chăn ngủ trong những ngày mùa đông tuyết đổ. Nếu chúng tôi lấy nhau sớm, thì có lẽ đời Mary không chịu nhiều truân chuyên, mà tôi cũng không thành một gã lãng tử giang hồ.

Mấy năm chung sống trong tuổi già, hạnh phúc chúng tôi tràn đầy. Cuối đời, Trời đã cho chúng tôi đoàn viên sung sướng. Ba năm trước, Mary bị đột qụy, tê liệt nửa người. Nói không ra tiếng, đi không được. Sau một thời gian thể dục trị liệu, thì đi lại bằng nạng, và nói được, nhưng rất khó khăn. Tôi có thuê người đến chăm sóc hàng ngày,chừng vài ba giờ, giúp làm những việc nặng mà tôi không kham nổi. Nhưng mấy tháng sau, Mary bị liên tiếp thêm hai lần đột qụy nữa. Nằm bệnh viện một thời gian, rồi được đưa thẳng vào viện phục hồi. Tôi muốn đưa nàng về nhà, tôi sẽ chăm nom. Nhưng bác sĩ, y tá và nhiều người nói rằng, tình trạng của Mary không thể săn sóc tại nhà được. Vảlại, tôi cũng đã yếu, không giúp gì được nhiều. Mấy năm nay, mỗi tuần bảy ngày, tôi vào ra bệnh viện, cũng là một lối tập thể dục, một lối dinh dưỡng tâm thần. Gặp nhau vui, thấy đời dễ thương và ý nghiã hơn.”

Tôi thấy thương ông cụ quá, hỏi:

“Đi thăm mỗi ngày, chờ đợi xe buýt, cụkhông thấy mệt sao?”

“Đôi khi mệt lắm chứ. Có khi tưởng nhưkhông về nổi đến nhà. Nhưng không đến, thì Mary buồn và lo lắm. Đôi khi mệt quá, tôi ngủ thiếp trên xe, đi đến trạm cuối, phải quay về”

Người phục vụ bưng ra hai dĩa thịt bê chiên, có khoai nghiền, xà lách, nấm xào. Thức ăn trên dĩa sắp đặt mỹ thuật, mới nhìn thôi, cũng đã thấy ngon rồi. Ông cụ cắt đôi miếng thịt, chia thức ăn làm hai phần. Rồi xin một cái hộp nhựa, cẩn thận cho thức ăn vào, gói lại bàng cái bao giấy màu nâu.

Thịt bê mềm, bên trong màu còn hồng của máu rỉ ra. Tôi cắt ăn, và cảm được cái vị ngọt, mềm tan trong răng. Hèn chi ông cụ đưa tôi đến tiệm nầy. Chúng tôi thong thả ăn chờ mưa dứt. Ông cụ hớp từng ngụm rượu nho hồng khoái trá. Tôi không uống rượu được, nhưng cũng cứ nhấp cho ông cụvui, và chính mình cũng cảm thấy được cái lãng mạn của một buổi rượu, trong lúc chờ mưa. Sau đó, uống cà phê. Tôi cảm được cái hạnh phúc quý báu đơn sơ bên ông bạn gìa.

Sau bữa ăn, ông cụ móc điện thoại cầm tay, kêu ai đó, mà không được. Ông cụ nói:

“Cái con khỉ. Máy hết điện. Bậy thật, hôm qua quên nạp điện.”

Tôi móc điện thoại của tôi đưa cho ông. Kêu lộn số hai ba lần, ông lầm bầm rồi nói lớn như thét:

“Thom…Thom, khoan ăn buổi tối đã nghen. Có thịt bê chiên ngon và mềm lắm, anh sẽ ghé ngang qua nhà và đưa cho chú.”

Ông cho biết, cụ Thom là em ông, liệt chân, ngồi xe lăn, bị thần kinh, sống một mình trong khu gia cư dành cho người già thuê.

Mưa tạnh, tôi đưa cụ Biêu đến khu người già của em ông ở, cũng trên con đường về. Tôi đi theo cụ Biêu lên thang máy. Gõ cửaầm ầm. Đấm cửa hoài mà không ai trả lời. Cụ Biêu kiên nhẫn đứng chờ hơn năm phút và nháy mắt ra dấu cho tôi, ý muốn nói gì đó mà tôi không hiểu. Một lúc sau, có tiếng động bên trong và cửa hé mở. Một ông già râu ria che khuất cảmặt, tóc tai dài loăn xoăn phủ xuống vai, ngồi trên xe lăn chạy bằng điện. Ông nầy có dáng dấp của ông già Rip Van Winkle ngủ quên một trăm năm trong rừng. Ông già toét miệng cười, nói lớn:

“Tôi đã im lặng, để anh tưởng tôi không có nhà, mà bỏ đi. Không ngờ. Ha ha ha…”

Ông Biêu cười hiền lành và chìa cái hộp thức ăn cho ông em. Ông em đưa tay hất ra:

“Ăn thừa rồi đem lại đây phải không? Tôiđâu phải là cái thùng rác mà đem đổ thức ăn thừa?”

Tôi thấy tội nghiệp ông Biêu, bèn nói nhỏnhẹ :

“Không phài ăn thừa. Ông Biêu đã cắt và chia ra trước khi ăn”

“Thằng Chệt hôi hám kia! Ai cho xía mồm vào. Ai cho mầy vào đây?”

Tôi đã được biết ông nầy bị thần kinh, nên không chấp trách, không bực mình. Ông Biêu vội vã nói:

“Bậy nào, bậy nào. Đừng nói vậy!”

Sau khi dúi cái hộp thức ăn vào tay người em, ông Biêu kéo vội tôi đi.

Ra đến thang máy, ông Biêu nói nhỏ:

“Đừng bực mình, người bệnh thần kinh, nói năng trăng cuội, họ không biết họ nói gì.”

Tôi cười vui thành tiếng cho cụ Biêu yên lòng. Đưa cụ về nhà, trước khi chia tay, tôi dặn:

“Khi nào thấy tôi trong viện phục hồi, cụ nhớ kêu, để tôi chở cụ về, khỏi đi xe buýt.”

“Cám ơn lòng tốt. Bà mẹ của bạn anh cũng còn đẹp lắm.”

“Thế thì cụ có chịu làm bố dượng bạn tôi không? Mỗi lần đi thăm cả hai bà cho tiện. Tha hồ mà ca hát, ru em.”

Ông cụ Biêu cười khà khà, tôi khoát tay chào và ra về. Trong lòng tôi lâng lâng niềm hạnh phúc .
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23708
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Dec/2012 lúc 5:35am
CÁNH HẠC LẺ LOI
Sầu Đông

- Chúc mẹ đi chơi vui vẻ. Qua Mỹ, rồi qua Canada, mẹ cho vợ chồng con và bé Tintine gởi lời thăm hỏi đến các chú, các bác, các cô, dì và các anh chị nghe mẹ. Mẹ có gặp bác Tuân ở Montréal, mẹ cũng nhớ chuyển lời thăm hỏi của con nữa.

Ngọc ôm con cháu ngoại, hôn đánh chụt trên má, rồi quay qua ôm cả hai mẹ con đứa con gái vào người. Rồi nàng buông hai mẹ con nó ra, cúi xuống xách chiếc xách tay, theo đoàn người tiến ra phiá cửa dẫn vào phi đạo.

- Tintine vẫy tay tiễn bà đi nào. Good bye bà đi nào.
Ngọc vừa đi vừa ngoái lại nhìn con và cháu. Nàng nói với lại:
- Thôi, hai mẹ con ở nhà vui vẻ à nhe. Nhớ nhắc bố nó lái xe cho cẩn thận. Bà đi về sẽ có thật nhiều quà cho Tintine.

o0o

Ngọc ngồi ngay bên cạnh cửa sổ của phi cơ. Phi cơ đang bay trên những tầng mây. Mây đùn lên những nõn bông trắng xoá, chập chùng. Qua khỏi tầng mây, nhìn chếch xuống phiá dưới chỉ thấy một màu xanh ngăn ngắt. Biển và trời xanh lẫn vào nhau. Màu xanh xẫm của biển làm lòng nàng dịu hẳn lại. Nàng nghĩ đến hơn hai chục năm qua. Những cuộc tình gập ghềnh, trên cuộc đời chòng chành của nàng. Và một chuỗi những gian lao, kinh hoàng. Đến lúc này, nghĩ lại, nàng vẫn còn thảng thốt. Nàng đến Úc trong chuyến vượt biên vào khoảng đầu năm 1982 cùng với ba con. Khi Trọng, chồng nàng còn kẹt trong tù, Ngọc đã phải lăn lộn, vẫy vùng ngoài chợ trời. Chợ trời, sau 75, là một trường học ác liệt. Cái đói đã có lúc giày vò, hành hạ nàng và lũ con, nhưng nó cũng dạy nàng nhiều điều. Kiếm được tí cơm, tí cháo nuôi thân, nuôi con, và thỉnh thoảng thăm nuôi chồng trong tù thật chẳng phải dễ dàng. Cái giá phải trả nhiều khi là cả nhân phẩm của một người đàn bà.

Chồng nàng là dân Võ Bị Đà Lạt. Nàng nhận lời cầu hôn của Trọng đúng vào lúc tinh thần sa sút nặng nề. Đã một dạo nàng yêu muốn phát cuồng một người bạn của người anh họ nàng, hơn nàng gần mười tuổi. Tuân dạy học. Tuân yêu nàng bằng thứ tình yêu kỳ dị: có lúc chàng đắm đuối khi gặp nàng, có khi chàng hững hờ, xa lạ. Hình như cái đầu của chàng luôn bị những triết gia Đông, Tây ám ảnh. Khi Platon nằm trong đầu chàng thì chàng là một vị thánh, mà khi Sartre ngự ở đó thì chàng là một gã đàn ông buồn bã, chán chường. Nhưng hai bàn tay táy máy của chàng thì nàng không sao quên được. Và kỳ lạ là chàng không hề có lấy một lời hứa hẹn. Chàng không có một chủ định dứt khoát nào trong đời. Nàng thì muốn mọi chuyện rõ ràng. Vậy mà nàng đã muốn chết vì chàng. Đến khi Tuân đổi ra Đà Nẵng thì nàng bặt hẳn tin Tuân. Có lúc nàng rũ xuống. Nàng không sao tiếp tục học được nữa. Nàng cùng một vài con bạn tình nguyện vào nữ trợ tá quân đội. Đời sống quân đội khiến nàng nguôi ngoai phần nào. Lấy Trọng, nhưng cho đến khi có đứa con thứ hai, thỉnh thoảng nàng vẫn còn bần thần nghĩ đến người tình đầu. Sau này, trước 75 một chút, nàng có dịp gặp lại Tuân. Nàng thấy một chút nôn nao khi nghe chàng còn độc thân. Tuân bảo nàng: ''Thấy chiến tranh mà sợ quá, chẳng dám lấy ai cả''. Nàng bảo: ''Em vào lính, lấy chồng lính, chẳng có gì phải sợ cả; cứ sống cái đã''. Tuân không nói năng gì, chỉ xiết nhẹ tay nàng trước khi chia tay.

Những ngày ngoài chợ trời, Ngọc gặp một hạ sĩ quan có lúc dưới quyền Trọng. Lúc này, hắn sống dễ chịu. Hắn cho giá thuốc cho Ngọc và cuối ngày hắn nhận thuốc, tiền bạc sòng phẳng, có khi còn hậu hĩnh làm quà cho mấy đứa con của Ngọc. Thỉnh thoảng hắn rủ Ngọc đi ăn. Hắn bảo: ''Sĩ quan cấp tá chắc đi cải tạo không có ngày về''. Ngọc nghe mà thấy xót xa trong lòng. Ngọc ngồi sau xe của hắn, một chút tình cảm nhen lên. Những đứa con của Ngọc cũng thấy quen thuộc với chú Lộc hơn. Hai người thành tình nhân lúc nào không hay. Có lúc Ngọc cảm thấy bứt rứt khi nghĩ đến Trọng còn đang trong tù. Nhưng rồi, nàng chép miệng tự an ủi: ''Mỗi người mỗi số phận, biết làm sao được; phải sống cái đã...''.

Cuối cùng thì nàng cũng đưa được những đứa con vượt biển đến Mã Lai. Nàng nhớ lại lời một con bạn vẫn gặp nhau ngoài chợ trời: ''Những người đàn ông đến với mình rút cuộc cũng chỉ là những kẻ đồng hành, dựa vào nhau mà sống. Còn dựa được thì còn ở, hết dựa được thì chia xa. Tao chẳng coi mối quan hệ với đàn ông là cái gì ghê gớm, thần thánh cả. Họa chăng chỉ có những đứa con mới là của mình''. Nó bỏ chồng, cặp với một gã cán bộ từ ngoài Bắc vào. Với nó, phải cứu lấy thân mình trước. Vả lại thằng chồng nó ngày trước đã là một tay chơi bời. Những ngày trên đảo, nàng cặp với một người bạn của Trọng. Đó cũng là cách dựa vào nhau mà sống. Những hôm giông gió ầm ầm trên mái lán trên đảo, nằm cạnh các con nhìn hé ra ngoài trời cây cối vật vã, Ngọc thấy đời mình cũng tan tác, bọt bèo. Rồi nàng được chánh phủ Úc nhận cho vào Úc. Khi được tin Trọng đã ra khỏi tù, nàng liên lạc với cô em gái còn kẹt ở lại, nhờ mối lái đưa Trọng vượt biên, nhưng trong chuyến vượt biên vào cuối năm sau, Trọng đã mất tích. Ngọc không biết nên cười hay nên khóc. Dẫu sao, nàng chỉ cần biết là từ nay trở đi, nàng sống với người đàn ông nào cũng được, miễn là người ấy chia đều với nàng những nhu cầu của cuộc sống hàng ngàỵ Những ngày đầu ở Úc, nàng cắm đầu làm đủ mọi thứ, từ thợ may, thợ giặt, đến cả nghề pha rượu ở vài quán rượu. Những ngày cuối tuần, nàng sống như một con điên, say khướt. Mẹ cha ơi! ai đưa con đến đoạn trường này? Nhưng còn những đứa con, nàng còn phải sống, miễn là chúng không từ chối nàng!

oOo

Bây giờ ngồi trên chuyến bay này, nàng thấy thanh thản vô cùng. Ba đứa con đã lớn. Hai có gia đình. Một đứa có lúc tưởng chừng hư hỏng, nay cũng đã chí thú làm ăn. Một con bạn lần lượt mất chồng, mất con trên biển, mất cả người tình khi vừa đặt chân đến đất tự do, đã bảo nàng: ''Mày còn hạnh phúc hơn tao nhiều”. Nhớ lại lời nó, nàng nói thầm: ''Cám ơn mày, té ra tao là đứa còn có hạnh phúc''. Hạnh phúc có những đứa con còn gắn bó với mình, và hạnh phúc có đứa cháu ngoại kháu khỉnh, bụ bẫm, mà cặp mắt của nó ánh lên nỗi ngây thơ an bình. Nàng cũng thấy ấm lòng hẳn lại khi mới đây nàng nhận được thư của Tuân từ Montréal gởi qua cho nàng. Tuân vượt biên vào năm 87, hiện ở Montréal. Qua một người quen có lúc ở chung trại với Ngọc ở Pulau Bidong, được nhận vào Canada, và hiện ở gần chỗ Tuân, Tuân có được tin tức và địa chỉ của Ngọc. Nay thì Tuân nhìn cuộc đời thật rõ ràng: cuộc đời của một gã đàn ông ở vào lứa tuổi xấp xỉ 60, đến Bắc Mỹ khá chậm, không vợ, không con, và sửa soạn những năm tháng cuối cùng của cuộc đời sao cho những năm tháng này không là những nuối tiếc, hoài niệm dằn vặt cuộc đời. Vậy mà trong thư gởi cho Ngọc, Tuân đã viết: ''...Anh sống ở đây như một người bị bỏ quên!...''. Đọc đến đoạn này, nàng đã cười nho nhỏ trong họng. Đáng lẽ Tuân nên viết ''... Anh sống ở đây như một người tình bị bỏ quên!...''. Nếu ngày xưa anh đừng bỏ quên em. Và bất giác, nàng thấy muốn gặp Tuân trở lại, chỉ một lần, để xem xem chàng sống như thế nào. Bề nào, ông ấy cũng đã là người tình của nàng. Ông ta không phải là người của cái thế giới chiến tranh, đàn áp, ngược ngạo. Đó là một người của trí tưởng và những xúc động, bất trắc như những cái nắm tay và những nụ hôn lúc hờ hững, khi dồn dập, và cặp mắt lúc nào cũng như đang ngái ngủ. Nàng muốn dành cho ông một bất ngờ trong chuyến đi này. Qua Cali chơi xong, nàng sẽ bay lên New York thăm gia đình người chị, rồi tiện đường nàng sẽ ghé Montréal vừa thăm gia đình một đứa em, vừa thăm ông luôn thể.
Qua khung cửa nhỏ, bâù trời vẫn xanh ngút mắt.

oOo

Hai người ngồi đối diện trên một chiếc bàn vuông nằm ngay cạnh cửa sổ lớn của nhà hàng trông ra con đường Sainte-Catherine còn vắng bóng người vào buổi sáng chủ nhật .
Ông Tuân nói như đùa:
- Anh không ngờ em bay đến nửa vòng địa cầu qua thăm anh đấy. Em làm anh xúc động quá. Còn anh, anh chôn chân nơi này rồi. Có muốn đi chơi xa một chút cũng chẳng dễ dàng gì. Đất trời thênh thang, nhưng chẳng phải muốn đi là đi được đâu.
Nàng hiểu câu nói của ông. Nàng hiểu rõ tình thế của ông. Những người lớn tuổi, sức lực đã cạn, lại một thân một mình, còn làm nổi trò trống gì trên vùng đất này nữa. Những người lừng khừng như ông thì tình thế còn trầm trọng hơn nhiều. Nhưng nhìn ông, nàng không thấy dấu vết của sầu tư.
Nàng dọ dẫm:
- Mấy năm trước, khi có tin em, sao anh không liên lạc ngay với em?
- Anh cũng muốn liên lạc lại với em, nhưng để làm gì nhỉ? Em mới vào Úc, một nách mấy đứa con, và anh nghe nói em còn có bạn mới nữa. Đời sống như vậy là ổn rồi, làm phiền nhau làm chi?
Nàng nhìn ông dịu dàng. Ông ấy vẫn là người quen được che chở hơn là phải vật lộn, giành giật. Đời sống của ông trôi theo cái đà trôi của số đông người trong cái dòng sống vĩ đại mà trời đất đã an bài. Lòng nàng không còn gì sôi nổi nữa, nhưng nhìn ông, nàng vẫn thấy tội nghiệp, hệt như nàng đã tội nghiệp cho chính cuộc đời bão bùng của mình. Người đàn ông trước mặt nàng lúc này đã là một người đàn ông đứng tuổi, với những vết chân chim trên khoé mắt, và mái đầu nhuốm bạc, chỉ còn lại giọng nói và ánh nhìn trầm lắng của một người an phận.
Nàng ướm lời:
- Nếu anh muốn, em sẽ bảo lãnh anh qua Úc.
- Cám ơn em. Em nói đùa đấy, phải không? Chờ cho tới khi Úc nhận anh vào với em thì không chừng anh đã mồ yên mả đẹp rồi. Nếu em có trong trương mục nửa triệu đô thì anh cũng dám qua với em. Nhưng chẳng phải dễ dàng đâu: còn các con em, còn cháu em. Và còn biết bao nhiêu phiền toái khác.
Ông nắm lấy bàn tay của nàng:
- Đa tạ em. Anh là một thằng đàn ông đã chẳng đem đến cho người yêu mình một bảo đảm nào. Anh không thể và cũng chẳng có quyền làm xáo trộn đời sống của bất cứ ai nữa. Gặp được em thế này anh thấy hạnh phúc lắm rồi. Tất cả chúng ta không ai thay đổi được cuộc đời mình nữa em ạ. Tạ ơn em.
Ông nói mà nước mắt muốn ứa ra. Còn nàng, nàng lặng người. Có lẽ ông đã nói đúng. Không ai trong cái xã hội nhiễu nhương nơi quê nhà thoát được cái cộng nghiệp tàn nhẫn những năm qua. Và khi cơn mộng dữ qua rồi, thì không còn thứ nào có thể ráp lại với nhau cho khớp nữa.
Nàng xoa nhẹ bàn tay trên bắp tay ông, vỗ về an ủi ông, nhưng nghe như tiếng nước mắt rớt trong con tim bồi hồi của mình. Nàng cắn nhẹ bờ môi, lắc đầu:
- Chiều nay em rời Montréal, anh đừng ra phi trường tiễn em. Chút nữa, vợ chồng con em em nó mời em đi ăn trưa với tụi nó. Xong rồi thì về lại khách sạn sửa soạn để chiều ra phi trường.
Ông hỏi một câu không ăn nhập gì vào chuyện giữa hai người:
- Em còn đi làm không? Năm nay em mới 48 mà. Có đi làm đều thì mới có phương tiện đi đây đi đó được.
- Em phụ thằng cháu lớn lo cái tiệm ăn nhỏ, cũng đủ chi dùng. Được cái may là hai đứa con gái đều học hành suông sẻ, có việc làm đàng hoàng và thương em thật nhiều. Đi chơi chuyến này là tiền các cháu bỏ ra đó anh.
- Em thật may mắn và hạnh phúc. Chúc em và các cháu từ nay mọi chuyện đều hanh thông.
- Em cũng chúc anh cuộc sống bình an.
Ông buông tay nàng, kêu người bồi lại bàn. Nàng giành trả tiền, nhưng lần này thì ông không lừng khừng:
- Em cho anh không trả nổi bữa ăn sáng này sao?
Ông đứng dậy trước, vòng qua phiá nàng, đỡ nàng đứng dậy. Ông đi sau nàng ra khỏi nhà hàng.
Nắng buổi sáng thật trong. Những du khách từ nhiều xứ đổ về Montréal bắt đầu đi dọc hai bên đường Sainte-Catherine mỗi lúc mỗi đông. Ông và nàng đi lẫn vào dòng người, ngược về phiá trường UQAM (Université du Québec à Montréal), quay lại nơi khách sạn nàng ở.
Hai người dừng lại trước khách sạn. Ông không nói lời chia tay nữa, nhưng vội vàng ôm lấy nàng thật nhanh, hôn thật vội trên môi nàng, buông nàng ra, và đi như chạy trốn về hướng bờ sông.
Nàng đứng lặng trông theo dáng đi vội vã và lầm lũi của ông, nghe như lòng mình là một bờ đá ven biển Đông sóng gió năm nào.

oOo

Ông ra khỏi nhà lúc 5 giờ sáng. Nửa tiếng sau ông đã đến Lachine. Ông lái xe thật chậm dọc theo con đường quanh hồ. Xe vượt qua hội quán trượt nước trong vùng, chạy từ từ vào khu nhà nằm ven đường. Bên phải của con đường, hồ Saint Louis mênh mông tan trong sương mù vào buổi sớm chớm thu. Những hàng cây érable lá vàng hai bên đường, những mái nhà nâu xám và những bãi cỏ lớn trước những căn nhà nhoà trong màn sương. Chỉ còn thấy những mảng màu nhạt, nhờ nhờ vàng, nâu, xanh lẫn vào nhau. Trời, nước, tàng cây, nhà, và những chiếc du thuyền ẩn trong một màn khói loãng. Chung quanh là cái im vắng mênh mông của không gian thấm lạnh. Ông cho xe chạy xuống một bờ cát có một vài tảng đá lấn ra mép hồ. Tắt máy, ông cài lại nút áo phiá trong, cài lại cái zipper của áo khoác chống lạnh và kéo cao cổ áo, rồi ông hạ cửa kiếng xuống. Không khí lạnh xoa trên da mặt làm ông tỉnh hẳn. Thần trí trong suốt. Từ ngày đặt chân đến xứ lạnh này, lần đầu tiên ông được hưởng một buổi sáng thật sự thanh bình. Chung quanh không một tiếng động. Ông rót trà ra chiếc ly bằng inox và nhắp một ngụm. Hương trà và hương sen như ngấm vào người rồi toát ra từ từ qua hơi thở rất chậm của ông. Đã nhiều năm nay, bây giờ ông mới có được cái buổi sáng thật lạnh, thật vắng, thật im ả mà hạnh phúc này, hệt như nhiều năm trước đã có lần ông ngồi trong nhà thủy tạ bên hồ Tĩnh Tâm ở Huế, nhắp một chung trà, và nhìn xuống hồ sen bát ngát, thấy lòng mình như một khối thủy tinh tinh ròng, không gợn chút bụi của nợ trần. Bên kia bờ hồ là khu kỹ nghệ Lachine. Giờ này, ông không nhìn thấy nó, và kể từ ngày hôm nay, ông sẽ không còn phải thấy nó hàng ngày nữa. Ông bỗng thấy nhẹ nhõm trong người. Phải thế này mới là bình yên chứ. Từ nhiều năm nay, ông đã quen sống một mình. Muốn vướng bận thêm cũng chẳng được.

Ông vừa nhắp xong ngụm trà thứ nhì thì bỗng ông nhìn thấy ở khoảng giữa hồ một bụm khói mờ nhạt như một đọn mây đang trôi vào phiá bờ. Nhìn kỹ là một cánh hạc. Ông sững người. Cánh hạc cao trên mặt nước khoảng vài thước, lờ lững như một con diều trong sương khói mênh mông. Thân mình, cái mỏ và cặp cẳng duỗi dài sau một làn sương lụa mơ hồ. Ông bất giác nhớ tới bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hộ, một thi bá nổi tiếng đời Đường. Hạc vàng có lẽ chỉ có trong trí tưởng của nhà thơ, nhưng trước mặt ông, cánh hạc như sương, như khói đã nhẹ nhàng đậu trên mỏm đá cách ông vài sải. Hương sen còn đọng trong bầu không khí quanh ông, và hạc trắng ngay trước mắt ông, co một chân như ông vẫn thấy trên những chân nến bằng đồng trên bàn thờ gia tiên, trong dáng đứng của một hiền triết trầm ngâm trước cái mênh mông của trời, nước nhu hoà.

Ông nhìn ra khoảng trống mông lung và mênh mông trước mặt, nghe tiếng một chiếc lá tách nhẹ khỏi thân cây lửng lơ đáp xuống mặt hồ. Ông thấy trước mặt cánh hạc trắng vươn thân mình tới trước nhẹ nhàng bốc lên trong sương khói mờ ảo. Trong khoảng khắc ông nhớ tới buổi chia tay vội vàng hồi sớm hôm qua với người tình cũ. Cuộc gặp gỡ gây nên trong ông những xao động như những dợn sóng nhẹ, đang loãng dần ra xa khi cánh lá chạm đến mặt hồ. Ông hài lòng biết rõ là nàng hiện đã có được cái hạnh phúc bình an bên con, bên cháu trong cái xứ sở chan hoà nắng ấm. Còn ông, như một cánh hạc lẻ loi, đậu lại trên một mỏm đá mù sương.
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23708
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Dec/2012 lúc 4:52pm

A TOUCHING LOVE STORY



An 80 year old woman was arrested for shop lifting.
When she went before the judge he asked her, "What did you steal?"
She replied, "A can of peaches."

The judge then asked her why she had stolen the can of peaches.
And she replied that she was hungry.
The judge then asked her how many peaches were in the can.
She replied, "6."

The judge said, "Then I will give you 6 days in jail."

Before the judge could conclude the trial, the woman's husband spoke...and asked the judge if he could say something.

The judge said, "What is it?"

The husband said, "She also stole a can of peas.

st.


Nếu T là bà cụ này, sau khi đức ông chồng tố thêm là bà ăn cắp lon đậu, hầu mong toà tăng án tù cho người "bạn đời" để mình sẽ được giải thoát kiếp già đau khổ; mình sẽ thưa rằng: "Dạ em ăn cắp lon đào cho em, và lon đậu cho chàng.  Em thề rằng chàng ở đâu thì thiếp ở đó, Đó no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp theo, thưa Quý toà"  kha kha



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/Dec/2012 lúc 4:53pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23708
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Feb/2013 lúc 8:16am

NGƯỜI GIÀ Ở MỸ VÀ TRUNG QUỐC

1.NGƯỜI GIÀ Ở MỸ
Nhiều người Mỹ đầu tư cho những ngày cuối đời
clip_image001
BBC-Người Mỹ được tiếng là lo xa, họ lo lúc sống chưa kể, còn lo cho lúc gần chết hay lúc chết nữa, chả thế mà ở xứ này có đủ mọi thứ bảo hiểm, từ bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm xe cộ, bảo xe nằm đường cần có xe đến câu, bảo hiểm cháy nhà, bảo hiểm bão lụt, bảo hiểm nhân thọ, tức là loại bảo hiểm dành cho vợ chồng, con cái, sau khi khách hàng đóng bảo hiểm đã... đi chầu ông bà!
Ôi thôi kể ra không biết by Text-Enhance">bao nhiêu thứ. Nhưng mới chừng 20 năm trở lại đây, dân kinh doanh ở tại xứ sở lắm sáng kiến này đã đưa ra thị trường thêm một loại bảo hiểm nữa để lo cho khách hàng vào những ngày tháng trước khi họ... qui tiên.
Các công ty đưa ra rất nhiều lý lẽ để thuyết phục khách hàng.
Này nhé, giả tỉ như bạn bị bệnh AIDS hay một chứng bệnh trầm kha và biết chắc sẽ giã từ cõi đời phiền muộn này mà bạn lại không có đủ tiền trả cho bệnh viện hay bác sỹ. Hoặc bạn thất nghiệp và không có đủ tiền để mua bảo hiểm y tế. Làm sao mà sống một cách tươm tất trong những ngày cuối đông của cuộc đời?
Một số khách hàng có bảo hiểm nhân thọ đã thỏa thuận giàn xếp với công ty bảo hiểm theo một phương cách khá lạ lùng. Cách giàn xếp này gọi là bảo hiểm viatical, bảo hiểm bánh thánh trước khi chết! Tên này bắt nguồn từ tiếng Latin viaticum, bánh thánh ban cho người hấp hối.
Loại bảo hiểm này không có tí gì liên hệ đến nghi thức tôn giáo. Những người biết chắc sẽ chết vì chưa hay không có thuốc gì có thể chữa khỏi sẽ nhận được một số tiền lớn từ công ty bảo hiểm bánh thánh để sống và trả chi phí hàng tháng, và còn bao gồm cả chi phí ma chay.
Tiền này ở đâu ra? Xin thưa nó đến từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, để khách hàng lấy tiền trước khi chết, thay vì loại bảo hiểm nhân thọ bình thường chỉ trả cho thân nhân sau khi chết.
Lấy ví dụ, một bà đóng tiền bảo hiểm nhân thọ để khi bà chết người thân sẽ được lãnh 100 ngàn đô la. Công ty bảo hiểm bánh thánh sẽ trả cho bà 65 ngàn đô la chẳng hạn, nếu bà chịu thỏa thuận làm giấy tờ cho công ty bảo hiểm bánh thánh lãnh nốt 35 ngàn đô la còn lại sau khi bà về nước chúa.
Một số người chỉ trích cho rằng lề lối kinh doanh này khá bệnh hoạn. Một số bang đã cấm các công ty bảo hiểm bánh thánh hành nghề vì họ đã giành giựt với nhau tranh khách hàng để thủ lợi từ những người bệnh hoạn hay u uất, sầu muộn (do sẽ không tránh khỏi cái chết đang rình rập) và để họ bán lại hợp đồng bảo hiểm cho người khác như một cách để đầu tư.
Nhưng một số người già cả ốm đau không có ai thân thích để hưởng bảo hiểm nhân thọ của họ thì không thấy có gì sai trái khi họ dùng tiền bảo hiểm nhân thọ lúc còn sống hơn là đợi lúc chết thì chẳng còn nghĩa lý gì nữa. Số tiền đó giúp họ có được một cuộc sống tươm tất trong khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại trong đời trước khi về chầu trời.
Nhưng dĩ nhiên nếu họ sống lâu hơn là dự kiến và đã tiêu sạch số tiền bảo hiểm bánh thánh thì sẽ chẳng còn đồng xu nào cho họ hay cho bất cứ thân nhân nào trong gia đình nữa
Nhiều người lo lắng quyền lợi bị giảm bớt khi về hưu
Trước sự kiện số trẻ chào đời không còn nhiều như trước, nhiều người lo ngại khi họ đến tuổi nghỉ hưu, chính phủ sẽ không còn đủ tiền để cung cấp cho họ những quyền lợi về an sinh xã hội giống như trước đây. Tình hình kinh tế suy yếu trong thời gian qua càng làm nỗi lo âu này tăng thêm.
Các cuộc nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy phụ nữ trên khắp thế giới đang đẻ ít đi. Chuyên viên Ben Veghte của Viện Nghiên cứu Bảo hiểm Xã hội nói rằng với số trẻ chào đời ngày càng ít đi, cộng với suy thoái kinh tế, quyền lợi của người già có thể lâm nguy:
“Nhiều vị cao niên lo lắng rồi đây trợ cấp xã hội sẽ giảm đi, họ không đủ thu nhập để sống qua ngày.”
Tại Hoa Kỳ, chính quyền trích một ít tiền lương của những người đi làm để sau này cung cấp những quyền lợi cho thành phần này khi họ về hưu. Có nghĩa là người đang đi làm đóng tiền để nuôi những người về hưu.
Nhưng trước tình hình thế hệ “baby boomer”, những người sinh sau Thế chiến thứ Hai, đang bước vào tuổi về hưu; chẳng mấy lúc có thể xảy ra tình trạng người nghỉ hưu đông hơn người đang tuổi lao động. Ông Michael Astrue, Giám đốc cơ quan An Sinh Xã Hội Hoa Kỳ báo cáo sẽ có vấn đề trước năm 2037:
“Nếu Quốc hội chẳng có hành động gì, cơ quan chúng tôi chỉ có thể chi trả khoảng 78% mức phúc lợi xã hội hiện nay.”
Giống như Hoa Kỳ, Trung Quốc cũng quan tâm về phúc lợi về hưu trong tương lai; nhất là Trung Quốc có chính sách chỉ sinh Một con, hệ số giữa người nhận quyền lợi và người đang lao động ngày càng xấu đi, có thể nói là kinh hoàng. Đó là vấn đề mà Trung Quốc sẽ phải đối phó.
Suy thoái kinh tế toàn cầu càng làm vấn đề này tệ hại hơn, như lời chuyên viên Veghte:
“Tại hầu hết các nước châu Âu, ví dụ như Hy Lạp, hưu bổng lấy tiền từ các nguồn thu chính của nhà nước, có nghĩa là hệ thống nghỉ hưu có thể bị thâm hụt. Thâm hụt xảy ra hầu như mỗi năm vì họ không có nguồn thu chuyên biệt dành cho hưu bổng. Do đó, khi gặp suy thoái, chẳng những chính quyền phải thỏa mãn những đòi hỏi của ngân sách mà còn phải thỏa mãn những đòi hỏi của hệ thống phúc lợi cho người về hưu.”
Ngoài chuyện cắt giảm hưu bổng, một số nước châu Âu và Hoa Kỳ đang xét đến chuyện nâng tuổi về hưu hoặc đánh thêm thuế. Chuyên viên Veghte nói còn một giải pháp khác nữa:
“Đó là di dân. Nếu chúng ta có thể tăng số công nhân để cải tiến hệ số giữa người về hưu và người đi làm thì hệ thống cung cấp hưu bổng có thể kéo dài hơn.”
Các nhà làm luật khắp thế giới sẽ có những lựa chọn táo bạo, đôi khi không được lòng dân, để thế hệ hiện nay và sắp tới sẽ được cung ứng những gì họ cần khi họ về hưu.

2. NGƯỜI GIÀ Ở TRUNG QUỐC
Dân số của Trung Quốc đang già đi nhanh chóng - hiện có khoảng 167 triệu người trên 60 tuổi.
Vào năm 2050 dự kiến con số này sẽ tăng lên gần 400 triệu, tức 1/4 dân số.
Nhưng nước này vẫn chưa biết làm cách nào để đáp ứng nhu cầu chăm sóc người già.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/av/2010/09/100916_china_pension.shtml

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23708
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Feb/2013 lúc 11:13am

VIỆN DƯỠNG LÃO ĐÊM 30 TẾT

GẶP LẠI NHỮNG NGƯỜI LÍNH NĂM XƯA
                                         Huy Phương
Ðêm 30 Tết, nusing home có vẻ vắng lặng hơn những ngày thường, trong chỗ đậu xe hình như chỉ có xe của nhân viên làm việc.
clip_image002
Trên lối vào tôi không gặp một người khách nào. Lác đác trên hành lang, chỉ có những người y tá đẩy xe đang đi đo áp huyết hay thăm hỏi các bệnh nhân. Trong khi ngoài phố, không khí Tết tràn ngập, thì ở đây trái hẳn, lạnh lẽo, không một cành hoa, còn lặng lẽ hơn một ngày bình thường khác.Hình: Những chiếc xe lăn trong căn phòng vắng lặng đêm 30 Tết.
Lúc ấy đã 11 giờ đêm, ngoài cửa một phòng bệnh tôi gặp một bác đang lặng lẽ ngồi trên chiếc xe lăn có vẻ thẫn thờ.
Tôi tiến lại gần và thăm hỏi:
- Sao giờ này ông chưa đi ngủ?
- Buồn quá làm sao ngủ được!
Sau câu trả lời, tôi nghe một tiếng thở dài mệt mỏi.
Ðây là ông Trần Văn Có, năm nay đã 76 tuổi. Trước năm 1975, ông là hạ sĩ quan hải quân, phục vụ trên HQ 5, ở cảng Cam Ranh, ông còn nhớ tên hạm trưởng là Phạm Trọng Quỳnh. HQ5 ra đi trước khi Saigon đầu hàng, nhưng không nghe người lính biển về già này giải thích vì sao ở lại không đi theo con tàu. Ở lại Saigon đổi tên, hai năm, ông làm nghề bán cà phê lề đường, kiếm sống qua ngày. Năm 1977, ông Trần Văn Có may mắn kiếm được một chỗ lái tàu vượt biển, đến trại tỵ nạn rồi vào Mỹ, định cư ở Santa Ana.
Ông Có đưa tôi vào phòng, ngồi trên giường với ông, ít ra cũng có người nói chuyện mươi phút. Ông Có bị bệnh ruột, nằm bệnh viện một tuần, theo lời ông, “không tìm ra bệnh” và mới vào by Text-Enhance">nursing home này được ba ngày. Ba ngày nay ông chưa được gặp bác sĩ. Vào đây ông thấy buồn và không ngủ được, mỗi đêm chỉ chợp mắt được vài tiếng và chẳng muốn ăn.
Khi tôi ướm lời hỏi thăm gia cảnh ông để biết vợ con hiện nay ra sao, có lui tới thăm bác không? Câu trả lời của ông là:
- Thôi đừng nhắc đến vợ, mà cũng đừng nhắc đến con làm gì? Ở đây đã có nhà nước lo!
clip_image004Tôn trọng lời nói của ông, tôi không dám đặt câu hỏi, hôm nay là ngày ba mươi, giáp Tết, có ai vào thăm ông không?Hình:Bà Huỳnh Thị Tiên không nhớ tuổi mình mà cũng không biết mình có by Text-Enhance">bao nhiêu đứa con.
Nhắc đến đêm nay là đêm ba mươi Tết, ông Trần Văn Có nói có biết, vì có xem TV.
Nằm chung phòng với bác Trần Văn Có là cựu Trung Úy Phan Phụng. Tôi bắt gặp ông ngồi tựa tay vào chiếc bàn nhỏ, đang ôm đầu như có vẻ đau đớn lắm, điều đó khiến tôi chú ý và tìm đến hỏi thăm ông. Nói chuyện với tôi, hình như ông được đôi phút quên đi cơn đau đang hành hạ. Phan Phụng sinh năm 1949, nguyên quán Thừa Thiên, nhưng theo cha mẹ vào Sài Gòn từ nhỏ. Ông nguyên là trung úy đại đội trưởng ÐÐ Biệt Lập Biệt khu Trà Lòng, quận Long Mỹ, tỉnh Chương Thiện. Nhớ lại thời chiến đấu, ông Phan Phụng giải thích tuy là chi khu, nhưng nhờ có Cha Tông năm 1954, vào đây xây dựng một giáo xứ chống Cộng, nên đơn vị này trở thành một đặc khu biệt lập.
Năm 1975, Trung Úy Phan Phụng bị tù tập trung 8 năm qua các trại Bà Ðen, Tống Lê Chân, Tống Phước Hiệp, Bùi Gia Mập, Ka Trum, Suối Máu. Tuy ở ngay quận 3 Sài Gòn, nhưng mãi năm 1993, gia đình ông mới được sang Mỹ theo danh sách H.19, theo ông, vì không đủ tiền “chạy dịch vụ”.
Ông Phan Phụng đã nằm ở bệnh viện Orange Coast hơn một tháng, qua một vụ giải phẫu tim khá nguy kịch. Ông mở áo cho tôi xem một vết sẹo chạy dài giữa ngực.
Ông Phụng cho biết, vợ chồng ông chỉ có một cô con gái, đang học y tá ở Long Beach, sắp ra trường, cô này rất thương cha mẹ, nên ông cũng được an ủi phần nào. Từ ngày ông vào bệnh viện, vợ ông phải nghỉ làm để lo cho ông.clip_image006- May mà bả còn lái xe để còn vào ra thăm viếng tôi, chiều nay cháu có vào thăm! Hình : Người lính biển Trần Văn Có của HQ5 năm xưa.
Ông chỉ cho tôi một hộp mứt nhỏ để trên chiếc tủ nhỏ.
- Nhưng làm sao nuốt nổi!
Ông Phan Phụng nhăn nhó kêu đau trong ruột, nhức đầu, đau đớn tứ chi, ông cho biết đã xin thuốc giảm đau nhưng y tá chưa mang lại. Ông nói, ban sáng, xem TV ông mới biết Tết đến, nhưng bây giờ tiếng ồn ào, tiếng nhạc làm ông thêm nhức đầu. Trong hoàn cảnh này, Xuân Tết cũng chẳng có nghĩa gì.
Khi nhận biết, tôi cũng là “chiến hữu” năm xưa của ông, ông Phan Phụng nói, gần như nghẹn ngào muốn khóc:
- Sao không ở nhà hưởng Tết với gia đình, vào đây mà làm gì?
Tôi cầm lấy bàn tay gầy guộc của ông nhưng cuối cùng cũng phải đứng dậy ra về. Trung Úy Phan Phụng vẫn ngồi đó, như lúc tôi mới bước vào, hai tay ôm lấy đầu, cơn đau đang tiếp tục hành hạ.clip_image008
Hình:Phan Phụng, người tù “cải tạo” 8 năm, trong nursing home đêm 30 Tết trên đất Mỹ.Những người nhớ nhớ, quên quên
Tôi gặp bà Huỳnh Thị Tiên trong phòng ăn cũng là phòng hội của nursing home, đêm nay vắng lạnh không một bóng người. Bà hoàn toàn không nhớ tuổi của bà, không nhớ có bao nhiêu đứa con và chúng ở đâu và cũng không biết vào đây từ lúc nào. Tuy vậy bà Tiên cho biết bà là người Việt gốc Hoa (cha Tàu mẹ Việt) sinh đẻ và lớn lên ở Sài Gòn. Hỏi về việc ăn uống hằng ngày và giấc ngủ, bà cho biết vào đây “có khi ăn được, có khi không; có khi ngủ được, có khi không!”
Bà Tiên cho biết, bà không biết hôm nay là ba mươi Tết, “mà Tết cũng vậy, ngày thường cũng vậy!”
Gần Giao Thừa rồi, chưa trở về phòng phủ, bà Huỳnh Thị Tiên lái chiếc xe lăn lang thang qua phòng ăn, đi dọc theo hành lang như vô định. Nhớ nhớ, quên quên, vui hay buồn, bà không nói với ai, mà cũng không ai quan tâm hỏi đến bà.
Nhân viên nursing home giới thiệu cho tôi theo yêu cầu “một người đã lâu, không có thân nhân thăm viếng!” Bà Nguyễn Thị Lan, năm nay 70 tuổi, nhưng trông vẫn còn tráng kiện, mạnh khỏe, giọng nói rổn rảng. Chồng bà là Lý Văn Ðức, trước tháng 4 năm 1975 là sinh viên y khoa chưa ra trường, nhưng lại bị đi tù Cộng Sản 8 năm, nhờ vậy bà và gia đình được sang Mỹ năm 1990 theo danh sách H.O.
Chồng bà đã mất, bà có tất cả 7 người con, đứa ở xa tận Thụy Sĩ, đứa gần ngay đây thôi, nhưng đã lâu không có người thăm viếng. Hai đứa con độc thân của bà ở gần, một em gái bị bệnh chậm phát triển từ nhỏ, ở với người anh, người con trai này cũng đang bị bệnh, nên không còn ai lui tới với bà. Tuy vậy, bà nói: “Bây giờ, sống chết, lành đau, đều do ý Chúa!”
Bà Nguyễn Thị Nhài 80 tuổi, bây giờ sống cũng như đã chết. Bị hai lần stroke, giờ đây bà sống cuộc đời gần như không có cảm xúc, được nuôi qua ống dẫn thức ăn vào thẳng ruột.
Ðêm nay ba mươi Tết, trong nursing home này, tôi chỉ gặp duy nhất một người thăm bệnh là người con gái của bà Nhài, từ Louisiana về săn sóc mẹ từ mấy tháng nay, nhưng mẹ cũng chẳng biết cô là ai. Ðêm vắng lặng, cô ôm chiếc laptop cho đỡ buồn ngủ, nhưng rồi cô cũng phải ra về trước Giao Thừa.
Trong những căn phòng khác, nhiều bệnh nhân hôn mê, đã say ngủ, cũng có những người lúc tỉnh lúc mê và rất nhiều bệnh nhân khó ngủ, còn trằn trọc vì đau đớn, phiền muộn.
Ở đây không xa vùng Little Saigon mấy, nhưng cũng không quá gần để tiếng pháo Giao Thừa có thể vẳng lại. Tiếng pháo nổ ran hằng giờ, dân chúng hội họp đông vui, những chương trình ca nhạc chưa tàn, các tiệm ăn đêm ở Bolsa đang đầy nghẹt người.
Không biết có ai trong những người khách vui chơi, hạnh phúc đêm 30 Tết này, có nhớ cha mẹ còn thao thức không ngủ trong nursing home này không?


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 18/Feb/2013 lúc 2:14am
Dao Cat Trong Long (Le Hang) - Son Huy & Thuc Quyen.mp3-- >
http://www.mediafire.com/file/n2oz3djiadm



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 18/Feb/2013 lúc 2:16am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23708
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Feb/2013 lúc 8:00am

Bài thơ của một người già nơi xứ xa

Tác Giả: Trần văn Lương
taygiaĐêm bệnh-viện, sầu tơi trên tóc trắng,
Người già nằm, bóng hạc lắng chiều sương,
Mắt ngu ngơ như nắng lỡ độ đường,
Nhìn con gái dựa bên giường gà gật.

Đầu ngật ngầy váng vất,
Thương con mình tất bật ngược xuôi,
Mấy ngày qua luôn túc-trực không rời,
Đến tối mịt mới về nơi tổ ấm.

Bàn tay già chầm chậm,
Thờ thẩn nắm tay con.
Từ rãnh mắt xoáy mòn,
Giọt thương cảm lăn tròn theo vết cũ.

 Khuya rồi đó, sao con chưa về ngủ,
 Chuyện tuổi già, con ủ-rũ làm chi.
 Chín mươi rồi, Bố chưa bị cất đi,
 Mình may mắn, có gì mà áo-não.

 Hãy để Bố vào ở nhà dưỡng lão,
 Như mọi người vừa khuyên bảo sáng nay,
 Vì một mai khi rời khỏi nơi đây,
 Khó khăn sẽ theo tháng ngày dai dẳng.

 Bố không muốn mình trở thành gánh nặng,
 Để cho con phải lo lắng miệt mài
 Đời con còn nhiều trách-nhiệm trên vai,
 Đâu có thể chực-chầu hoài sớm tối.

 Thân gầy còm yếu đuối,
 Sao kham nổi đường xa.
 Thêm việc sở, việc nhà,
 Chuyện con cái, dễ gì mà vất bỏ.

 Người già thường cau-có
 Nằm liệt giường, càng khó tính gấp trăm.
 Dù cho con chẳng quản ngại nhọc nhằn,
 Nhưng chịu đựng tháng năm dài sao thấu.

 Bố vẫn muốn sống đời bên con cháu,
 Dẫu cơ-hàn, mà rau cháo có nhau.
 Bao năm qua mất Mẹ , bấy năm sầu,
 Bố gượng sống với niềm đau-lẻ-bạn..

 Buồn nhớ lại ngày vượt biên hoạn-nạn,
 Bỏ quê nhà, chấp-nhận vạn gian-truân,
 Chết trong tay đã nắm chặt chín phần.
 Mạng sống chỉ ngàn cân treo sợi nhỏ.

 Con thuyền khốn khổ,
 Sóng gió tả-tơi,
 Phút chót đã kề nơi,
 Lối định-mệnh, ai người sống sót.

Tưởng chỉ được nhìn Mẹ, con lần chót,
Nhưng Trời thương cho trót-lọt qua đây,
Trong khi bao người biển cả vùi thây,
Giờ sao nữa, chẳng mảy-may tiếc rẻ.

Bố chỉ hận mình không còn sức khỏe,
Đở đần con việc lẻ-tẻ hôm mai,
Để chiều về, con bớt phải loay-hoay,
Được yên nghỉ sau ngày dài kiệt sức.

Khi bị đẩy vào trong phòng hồi-lực,
Bố biết mình gần tới lúc xuôi tay.
Dù thoát nạn hôm nay,
Đời cũng phải rẽ ngay vào lối ngoặc.

Bố tự biết như ngọn đèn sắp tắt,
Nên cố tình bẳn gắt mấy ngày qua.
Nếu chẳng may phải theo gót ông bà,
Con cũng đở xót xa giờ đưa tiễn.

Mai by Text-Enhance">kia rời bệnh-viện,
Con đừng bịn-rịn xót xa,
Hãy nghe lời y-tá dặn ngày qua,
Mà đưa Bố thẳng ra nhà dưỡng lão.

Cuộc sống mới dù là mưa hay bão,
Bố không buồn,tự bảo vẫn còn may,
Vì biết rằng, chỉ quanh-quẩn đâu đây,
Con cháu Bố đang vui vầy hạnh-phúc.

Rồi sẽ có những buổi chiều hun-hút,
Bố nặn dần từng phút ngóng người thân.
Nhưng rủi con chẳng tới được một lần,
Bố cũng hiểu, đừng bận tâm ray-rứt.

Bố không ngại chặng cuối đời khổ cực,
Nhìn thấy con hạnh-phúc, Bố vui lòng.
Tuổi đã nhiều, phận Bố thế là xong,
Con phải sống cho chồng, cho con cái.

Hứa với Bố, con sẽ không buồn mãi,
Nếu mai này, khi Bố phải ra đi,
Mà con không kịp đến lúc phân-kỳ,
Nói cùng Bố lời chia-ly vĩnh-viễn.

Đêm trơn giấc, người con rời bệnh-viện,
Đôi mắt già quyến-luyến vọng đưa chân.
Trong ký-ức phai dần,
Khuôn  mặt những người thân vùng hiển-hiện.

Lòng chợt thoáng bùi-ngùi khi nghĩ đến
Phút lên đường, theo ước-nguyện ba-sinh,
Chân bơ-vơ trong tăm tối một mình,
Mò mẫm lối hành-trình về thiên-cổ.
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23708
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Mar/2013 lúc 11:08am
Bat Bun Rieu
Le Bao Tran
Son Huy & Thuc Quyen.mp3
http://www.mediafire.com/file/ynminurz2yj




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/Mar/2013 lúc 11:10am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23708
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Mar/2013 lúc 3:00pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23708
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Mar/2013 lúc 10:58am

VIỆN DƯỠNG LẢO  <<<<<

   Bác sĩ Trần Công Bảo

photo
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 72 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.270 seconds.