Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: Truyện ngắn -Tùy bút chọn lọc Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 14 phần sau >>
Người gởi Nội dung
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 04/Mar/2014 lúc 8:46pm



Phiên tòa ngày ba mươi

Trần Mộng Tú

Theo âm lịch hôm đó là ngày 30 Tết. Sáng mai sẽ là ngày Tân Niên. Người Á Đông vào ngày cuối năm này, không ai muốn ra tòa cả. Họ còn lo dọn cửa nhà, bày bàn thờ tổ tiên để đón năm mới. Nhưng người Mỹ thì ngày nào cũng là ngày làm việc, trừ ngày lễ và ngày cuối tuần. Ngày 30 Tết của mình không phải ngày lễ lạt nào của dương lịch cả. Và phiên xử đã định ngày. Muốn hay không cả bị cáo lẫn nguyên đơn đều phải ra đôi chứng trước tòa.

Phiên tòa “Dân Sự Tố Tụng” ngoài luật sư, chánh án, còn có cả người ngoài vào tham dự. Những người Việt ở thành phố này háo hức đi xem vì bà Hằng là một khuôn mặt quen thuộc trong cộng đồng, một người ở đây từ năm 1975 và tương đối có một cuộc sống dung dị, khiêm nhường, nhất là sau khi chồng bà qua đời thì bà lại ít giao thiệp hơn. Phần đông họ biết bà là người có nhà cho thuê phòng. Bốn người ở trọ trong nhà bà thì một người, con chở tới, để làm nhân chứng thưa bà Hằng, ba người kia cũng chở nhau hoặc nhờ người khác chở đến xem phiên tòa xử bà Hằng.

alt
Tranh: Thắm Nguyễn

Bà Nguyễn Thị Hằng bị ông Trần Văn Định, con trai của ông Trần Văn Nam thưa về tội bà lợi dụng bố ông để làm chuyện vợ chồng và đòi số tiền bồi thường là ba trăm ngàn. Đây là số tiền tương đương với căn nhà bà Hằng đang sở hữu. Nếu thua kiện, bà Hằng có thể phải bán đi ngôi nhà này.

Sau đây là lời khai của bà Nguyễn Thị Hằng:

- Tôi năm nay đã ngoài năm mươi. Góa chồng mười năm, không con cháu. Chồng tôi mất để lại cho tôi tiền hưu bổng, quỹ an sinh của anh cộng vào của riêng tôi, cũng giúp tôi sống thoải mái tuổi già. Tôi có một ngôi nhà khá rộng, nhà bốn phòng ngủ ba phòng tắm. Ngôi nhà này chúng tôi mua sau khi ở Mỹ được mười năm. Bây giờ chồng mất, một mình tôi ở cũng thấy trống trải quá. Bạn bè khuyên tôi nên bán đi mua một căn chung cư ở cho tiện, khỏi phải lo sân trước vườn sau. Nhưng tôi cứ tiếc bao nhiêu kỷ niệm đã có với ngôi nhà này nên không bán. Hai năm sau ngày chồng mất, tôi sửa lại nhà, thêm hai buồng nữa và một buồng tắm rộng, xây theo kiểu cho người già có thể đẩy xe lăn vào tắm. Đã tám năm nay, tôi cho thuê phòng. Tôi cho những người già trên 50 tuổi thuê, phải là không có bệnh tật, tự lo cá nhân được, chỉ muốn ở riêng không phiền con cháu. Nếu ai không thích nấu nướng, tôi cũng nấu ăn cho ngày hai bữa: bữa điểm tâm và bữa cơm chiều. Nhà sáu phòng, cho thuê bốn. Tôi ở một phòng, một phòng làm thư phòng, để sách vở, báo chí, máy truyền hình. Trong tám năm có kẻ ra người vào. Có cặp vợ chồng già, giận con tưởng bỏ đi được, đến xin ở. Vài tháng nhớ cháu lại làm lành với con xin về. Có người được con đưa đến gửi vì cả ngày con cháu đi làm, đi học không có ai nói tiếng Việt, họ nói: gửi mẹ cháu ở đây cho có bạn, cuối tuần đón về. Một hai tháng đầu còn đón, sau quên luôn. Có người ở tiểu bang khác tới chưa kiếm được nhà, nói ở tạm, rồi ở luôn. Trong tám năm không lúc nào có buồng trống cả. Khách trọ có người làm thân với nhau nhanh chóng, có người ở cả tháng không nói với nhau câu nào. Cũng có người ở được một tháng rồi dọn ra ngay, nói là, không quen chung đụng với người lạ. Họ đến và đi như thế, người này ra thì người kia vào. Cũng có một hai người qua đời vì tuổi già.

Cuối năm thứ bảy bước sang năm thứ tám, tôi nhìn vào danh sách khách trọ:

Cả bốn người đều là đàn ông không có vợ, một ông 68, một ông 70, một ông 72 và một người còn trẻ, mới ngoài 20. Cả bốn người này không có bệnh gì trầm trọng, đã ở thuê trong nhà tôi được từ hai đến bốn năm.

Có một điều đáng nói là cả bốn người này họ có một điểm giống nhau là khi ngủ họ hay mê sảng và kêu hét. Ban đầu thì chỉ có một người mê sảng, sau không hiểu sao mà dần dần cả bốn người thay nhau la hoảng suốt đêm. Có khi một tối hai, ba người cùng mê sảng. Nhưng cơn mê của họ phải gọi là ác mộng vì họ la hét hoặc khóc lóc. Có hôm cả đêm tôi phải dậy đập cửa từng phòng, nơi phát ra tiếng động để kéo họ ra khỏi cơn ác mộng.

Sáng hôm sau, người mê hoảng đêm trước thường không nhớ gì về giấc mơ cả, hoặc có nhớ thì chỉ nhớ rất mơ hồ hoặc có thể họ nhớ nhưng vì ngượng ngùng họ không muốn nhắc lại. Tôi coi như họ đã quên hết những giấc mơ đêm trước.

Lần đầu nghe một khách trọ mê sảng như thế, tôi không chịu nổi vì mất ngủ suốt đêm theo họ. Rồi kế tiếp cả bốn phòng đều thay nhau, người đêm này, kẻ đêm khác cất tiếng khóc, nói mê ban đêm xảy ra rất thường. Tôi đã có ý định mời họ dọn ra. Nhưng khi mở hồ sơ của họ thì một người không có họ hàng thân thích, một người con bỏ vào đây rồi dọn đi tiểu bang khác. Một người con ở  gần nhưng may ra một năm gọi hay thăm một lần. Muốn mời họ dọn ra không dễ, hình như con cái họ muốn giao họ cho tôi làm vú già như kiểu ở Việt Nam ngày xa xưa. Họ vẫn gửi tiền tháng nhưng không liên lạc, nếu cha mẹ họ chưa chết. Không lẽ chỉ đuổi một người thứ tư là người trẻ nhất, không vợ, không con.

Chánh Án:

- Theo đơn khởi tố của ông Trần Văn Định thì bà có vào giường của bố ông ấy là: Trần Văn Nam sáng ngày mồng 8 tháng 4. Bà lợi dụng ông già 70 để làm chuyện vợ chồng và ông Định bắt gặp tại chỗ. Có đúng không?

Nguyễn Thị Hằng:

- Tôi có vào giường ông Trần Văn Nam để dỗ ông ta, vì ông ta khóc rống lên rất thống khổ. Tôi phải trèo vào giường ôm ông ấy nằm xuống, vì ông ta hốt hoảng nhổm dậy như muốn đập đầu vào tường. Mới kéo được ông ấy nằm xuống và đang ôm cho ông ấy hạ cơn mê thì ông Định mở cửa ló đầu vào.

Trần văn Định:

- Bố tôi ở đó đã hơn ba năm, tôi không đón bố tôi về nhà chơi thường được vì vợ chồng tôi bận làm ăn; chỉ trừ dịp Tết, nghỉ lễ, nếu tôi không bận công việc. Có đến hơn một năm rồi tôi mới quay lại đây, tối hôm trước tôi có gọi cho bà Hằng, nói, tôi sẽ đến sớm để đón Bố tôi cho ra tiệm ăn sáng vì tôi rất bận và tôi không thể đón bố tôi về chơi được. Bấm chuông mãi không thấy bà Hằng ra mở cửa, tôi xoay xoay tay cầm thì thấy cửa không khóa, ngó đầu vào thấy nhà không thắp đèn, trời mới mờ mờ sáng. Tôi đi thẳng vào buồng có tên bố tôi, khẽ đẩy cửa ló đầu vào thì thấy bà Hằng nằm trên giường cùng với bố tôi, bà ôm bố tôi như người vợ ôm chồng và đang nói nho nhỏ: “Không sao, không sao, ngủ đi, em đây, em đây.” Bà ấy cứ lặp đi lặp lại nho nhỏ như thế và không để ý đến sự có mặt của tôi. Tôi nghĩ là bà ấy đang lợi dụng bố tôi để làm chuyện không đẹp. Tôi tiếc là quên không lấy phôn ra chụp hình làm bằng chứng.

Chánh Án:

- Bà Hằng, những lời ông Trần Văn Định vừa nói có đúng không?

Nguyễn Thị Hằng:

- Đúng hoàn toàn, hôm đó tôi khó ngủ, thức giấc từ 3 giờ vì ông Trần Văn Nam mê sảng cả đêm, tôi phải chạy sang lay ông và dỗ cho ông ngủ lại, gần 5 giờ mới hơi yên. Biết là ông Định sẽ đến vào sáng sớm, nên trước khi về phòng mình, tôi mở khóa sẵn cho ông Định, cửa chỉ đóng nhưng không khóa vì tôi không muốn mới ngủ lại mà bị đánh thức. Nhưng ông Nam đâu có để tôi yên, khoảng một giờ sau ông ấy lại mê sảng khóc rống lên, gọi tên bà Vân (tôi đoán là vợ ông, vì mỗi lần mớ ông đều gọi tên bà Vân này.)

Tôi phải chạy sang và nằm luôn vào giường ôm ông ấy dỗ như dỗ một người chồng bệnh tật.

Chánh Án:

- Tại sao bà lại dỗ như dỗ một người chồng? Ông ấy đâu phải chồng bà. Bà làm như thế này mấy lần rồi?

Nguyễn Thị Hằng:

- Tôi làm nhiều lần rồi. Không phải chỉ với một mình ông Nam mà còn với cả ba người khách trọ kia nữa.

Cả phòng xử nhao nhao lên một tiếng “Ồ” thật to. Ông Lê Văn Thành, ông Nguyễn Anh Tuấn, Ông Bùi Văn Lai đều giật mình đánh thót lên. Cả ba ông khách trọ còn lại thảng thốt nhìn nhau như tự hỏi: “Bà Hằng vào nằm ôm mình lúc nào mà mình không biết nhỉ?” Ông Bùi Văn Lai trẻ nhất, ngồi im lặng, tính anh vẫn ít nói nhưng hai ông già ngoài 70 tuổi thì cúi đầu vào nhau thì thầm, mặt co lại vì suy nghĩ.

Trần Văn Định:

- Ồ đấy, cả tòa đã nghe rõ chưa, bà Hằng không phải chỉ ngủ với bố tôi mà còn ngủ với tất cả khách trọ của bà. Thật là tội lỗi.

Chánh Án:

- Xin bà nói lại cho rõ. Bà cho khách thuê nhà, ngoài việc nấu cho ăn, bà không có dự phần chăm nom cá nhân gì cho những người ở trọ, tại sao bà lại vào giường ôm người ta ngủ?

Nguyễn Thị Hằng:

- Đúng, tôi chỉ là một người chủ cho thuê nhà, nhưng không biết từ lúc nào tôi trở thành: người vợ, người mẹ và ngay cả người con của mấy người khách trọ này. Đây là tình trạng những người hiện tại tôi cho thuê phòng trong nhà tôi:

Ông Lê Văn Thành, 72 tuổi, con mang tới bốn năm rồi, không hề ghé lại thăm ngoài việc gửi tiền đều đặn hàng tháng và một năm đôi lần gọi, hỏi một câu ngắn ngủi xem cha mình còn sống hay không? Ông Thành là một sĩ quan pháo binh, đi cải tạo, sang Mỹ theo diện H.O. Ông mang vào nhà tôi một gánh ký ức ở những trại tù Bắc Việt Nam, vợ chết từ khi ông đi tù về. Trong những cơn ác mộng ông gọi tên người con trai duy nhất, rồi khóc nức nở, rồi cười hực hực.

Có khi tôi làm vợ ông, vào nằm đưa tay mình ra nắm lấy bàn tay gầy guộc của ông trong đêm tối, rồi nhận là vợ ông. “Anh ơi ngủ đi, khuya rồi, ngủ đi mai dậy mình mang con về nội”. Có khi tôi làm người con trai, tôi kéo ông nằm thấp xuống cho ngả đầu vào vai tôi rồi dỗ: “Ba tựa vào vai con nè, con đến đón ba về nhà chơi với mấy đứa nhỏ nè.” Tôi lừa ông một lúc thì ông ngủ. Ông ngủ say rồi mà tôi vẫn thức, tôi thương ông quá đỗi, tôi không dám kéo cái vai gầy của tôi ra, tôi thấy giận người con trai của ông đã bỏ rơi người bố khốn khổ. Tôi đóng vai con ông, vợ ông không phải một mà rất nhiều lần rồi.

Ông Nguyễn Anh Tuấn, 68 tuổi. Vượt biển năm 1985, vợ và hai con gái chết ngoài khơi trước khi thuyền kéo được vào bờ. Ông cuối cùng vào được Mỹ, tưởng rằng có việc làm, chốn ở, ông sẽ làm lại đời mình. Nhưng không, ông vẫn sống với những ám ảnh kinh hoàng đó. Ông phải đi điều trị tâm thần. Tuy hồ sơ bệnh lý của ông không trầm trọng, nhưng ông sống vật vờ như xác không hồn, ông có đi làm việc một thời gian dài rồi nghỉ việc, rồi lại đi làm, rồi lại nghỉ. Ông đi ở trọ nhiều nơi, chính phủ cũng đã có lần cấp nhà cho ông. Bây giờ ông đi qua cả tuổi hưu trí rồi mà vẫn không biết xếp hồ sơ của ông vào tình trạng nào vì có lúc đầu óc ông rất sáng suốt, thông minh, có lúc ông hoàn toàn như vuông vải mục bị ngâm thuốc tẩy lâu ngày. Ông đến thuê trọ nhà tôi ba năm nay.

Những đêm mê sảng ông gọi tên vợ, gọi tên hai cô con gái, giọng ông như người đang chết ngạt trong nước. Không phải nước biển mà là nước mắt.

Tôi ôm ông, có khi nhận là vợ, nói: “Em đây, mình ngủ đi.” Có khi nói: “Ba ơi, con gái ba đây, ba ngủ đi nghe.” Ông hơi khó dỗ, ông hay hỏi lại tôi: Bé Mi hay Bé Na đấy? Khi ông ngủ là lúc tôi nằm khóc ướt cả cái gối của ông. Nhập vào trong cơn mê sảng đau thương của ông, nhiều đêm tôi tưởng mình là con gái ông thật, mặc dù tôi chỉ kém ông mươi tuổi.

Ông Bùi Văn Lai, trẻ tuổi nhất, lai Mỹ đen thì lúc nào cũng cần mẹ. Anh bị mẹ cho vào cô nhi viện từ khi còn bé, đến khi anh lớn thì cô nhi viện đem bán anh cho một gia đình để làm con nuôi. Cả gia đình đó sang Mỹ theo diện con lai. Sang đến Mỹ được hơn một năm, đời sống gia đình họ ổn định, họ không muốn có một người con Mỹ đen trong nhà, anh bị đuổi khéo. Anh lang thang, tự kiếm việc và tìm nơi dung thân mình từ lúc 15 tuổi. Anh vào nhà tôi được hai năm. Năm nay anh hai mươi.

Anh thèm mẹ lắm, tôi tin như thế vì khi anh mê sảng, anh cứ khóc rống lên gọi mẹ.

Tôi bắt đầu còn đứng ở đầu giường anh lay lay vai anh, sau phải trèo vào giường anh, ôm cái đầu tóc quăn quăn của anh vào bộ ngực còm cõi của mình dỗ dành: “Mẹ đây, mẹ đây, ngủ đi con, ngủ đi con” và nước mắt tôi cũng ứa ra làm ướt cả mấy sợi tóc quăn đó. Tôi ôm anh cho đến khi anh chìm vào giấc ngủ vì tin mình có mẹ nằm bên.

Ông Trần Văn Nam, bố của ông Trần văn Định cũng là một người thèm con, nhớ vợ. Mặc dù ông Định ở không xa nhưng lúc nào ông cũng nói là công việc làm ăn rất bận. Vợ con ông thì tôi chưa hề gặp bao giờ. Tối hôm đó tôi phải vào với ông hai lần, tôi mất ngủ cho đến sáng. Và ông Nam đã khóc trong lòng tôi, ông gọi tên Định vì tưởng con đến đón ông về. Sau ông lại mê sảng gọi tên bà Vân, tưởng tôi là bà Vân, vợ ông. Tôi dỗ dành mãi ông mới yên và tôi cũng mệt quá, vừa thiếp đi thì ông Định đến.

Bà Hằng ngưng một lúc, nhìn xuống bốn người khách trọ trong nhà mình, nói như chỉ để nói với bốn người đó:

- Tại sao cả bốn ông không cùng đem tôi ra tòa, cùng thưa tôi đòi bồi thường một thể? Có phải các ông sau những cơn ác mộng ban đêm, sáng ra đã nhìn tôi như nhìn một người vợ, một người con và một người mẹ hay không? Tôi không nghĩ là các ông hoàn toàn quên hẳn giấc mơ đêm trước.

Cả phòng xử im lặng, người ta có cảm tưởng nghe được cả tiếng tim đập nhanh trong lồng ngực của cả bốn người đàn ông trước mặt.

Phiên tòa đến đây tạm ngưng vì hết giờ. Chánh Án không hỏi thêm câu nào nữa và vụ kiện sẽ được xử tiếp vào một ngày khác.

Đêm ba mươi hôm ấy, bà Hằng không nghe thấy một tiếng mê sảng nào phát ra từ buồng ngủ của khách trọ.

Sáng mồng một Tết, bà Hằng bày hương hoa trên bàn thờ chồng, làm một mâm cơm cúng tân niên mời bốn người ở trọ tham dự. Họ vui vẻ chúc Tết nhau. Không ai nhắc đến chuyện ngày hôm qua nữa.

Và cả những đêm kế tiếp sau đó mọi người hình như được uống thuốc ngủ. Họ ngủ yên lành, không mê sảng nữa. Họ yên lặng đến nỗi bà Hằng phải thắc mắc tự hỏi: Liệu trước đây họ có thật sự mê sảng không? Hay họ chỉ cần một vòng tay, một tình thương yêu của người vợ, người con, người mẹ mà họ bật lên những tiếng kêu đó, để gọi bà vào?

Sau đó hai tuần bà Hằng nhận được giấy của luật sư ông Trần Văn Định, báo tin ông Định đã bãi nại, xin rút lại đơn khởi tố bà Nguyễn Thị Hằng, nên vụ kiện được xếp lại hoàn toàn.

Có người biết chuyện, kể lại rằng: Ông Trần Văn Định, sau đó coi như giao luôn bố cho bà Hằng, không thấy đến và cũng không thấy gọi nữa. Cả bốn người đó cùng ở với bà Hằng cho đến cuối đời như trong một gia đình: ông Lê Văn Thành, ông Trần Văn Nam thì đến khi qua đời, mới được con đến nhận xác của cha trong bệnh viện về chôn cất, ông Nguyễn Anh Tuấn không có thân nhân thì được bà Hằng kêu gọi bạn bè phụ với bà ma chay. Người trẻ nhất, ông Bùi Văn Lai là người cuối cùng ở lại, anh săn sóc bà Hằng khi bà già yếu và đã chôn cất bà như một người mẹ.

Trước khi bà Hằng mất, bà giao ngôi nhà đó cho anh và anh tiếp tục công việc cho thuê phòng, đặc biệt cho những người già Việt Nam bị con bỏ rơi trên quê người.



TMT - Xuân Giáp Ngọ/ 2014



mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 04/Mar/2014 lúc 9:45pm


Nỗi ân hận muộn màng


Anh Hai là con trai duy nhất mà 30 tuổi vẫn độc thân nên ba má tôi sốt ruột lắm. Hồi đó, tới tuổi băm mà “chưa có gì” thì thế nào cũng xảy ra nhiều suy diễn kiểu như “chắc thằng đó kỹ tính quá”. Đàn ông con trai mà bị mang tiếng kỹ tính thì coi như… hết cứu.

Chị em tôi lần lượt “bấm còi” vượt mặt, anh Hai vẫn giậm chân tại chỗ, mặc kệ má tôi bồng bế cháu ngoại, nói gần nói xa, rồi hỏi thẳng: “Tới chừng nào con mới chịu cho má bế cháu nội?”. Anh Hai cười hì hì trốn sự thúc giục của má bằng cách xách cưa và búa lên chùa.

Ba má tôi là Phật tử, từ khi còn nhỏ, anh chị em tôi đã được ba má dắt tới chùa lễ Phật và tập làm công quả như quét sân, kết hoa vải, dọn dẹp trong những ngày lễ lớn… Nhà chùa đang chuẩn bị mở lớp học cho các em nhỏ lang thang. Bàn ghế thu gom từ các nơi cần được sửa chữa và anh Hai đảm nhận phần việc này.

Trong số các giáo viên tình nguyện đến dạy các em, có một cô dạy toán là người theo đạo Công giáo. Chuyện bắt đầu từ đây. Anh Hai tôi thường xuyên lên chùa nhưng không chỉ để làm công quả mà còn để đưa đón cô dạy toán.

Ba má tôi cắn răng thở dài, ông bà mong biết mấy được thấy con trai có đôi có cặp, nhưng khi có rồi thì vui không nổi. Con trai đầu có bổn phận cúng kính mà lấy vợ khác đạo thì làm sao?

hôn%20nhân,%20ân%20hận,%20tôn%20giáo

Anh Hai biết tình yêu của mình gây khó cho ba má, nên chẳng dám nói năng gì, cũng không dám đưa chị về chào gia đình. Tôi hỏi nhỏ: “Anh đã tới chào ba má chị chưa?”. Anh Hai lắc đầu. Tôi hiểu là nhà bên đó cũng chẳng đồng tình.

Hai gia đình biết rõ con mình thương ai, nhưng làm như không biết. Thời đó, chuyện yêu đương mà chưa có tiếng nói của người lớn thì coi như chuyện ngoài đường. Giả vờ như không biết, nhưng ba má tôi âm thầm theo dõi, thấy anh đưa chị đi lễ nhà thờ. Và nhà bên ấy cũng thầm theo dõi, thấy chị theo anh lên chùa lễ Phật ngày rằm. Hai bên cùng thấy, cùng biết và cùng nín lặng chờ đợi.

Chờ đợi gì cũng không rõ, có lẽ, không bên nào muốn là phía đầu tiên thốt lời khiến con mình đau khổ.

Mối tình của anh Hai kéo dài đến năm thứ ba thì má tôi không kiên nhẫn được nữa. Con mình là con trai, lỡ có bề gì thì mang tiếng ác với con gái người ta. Má ra tối hậu thư “hoặc tình, hoặc hiếu”. Anh Hai cúi đầu chọn bên hiếu.

Lựa chọn của anh Hai khiến má mềm lòng, nhưng thật ra, do âm thầm theo dõi, má đã sinh lòng mến thương người con gái hiền ngoan, vừa đẹp vừa nhân hậu, biết đến với trẻ em khốn khó. Được con dâu như vậy thì cũng đáng để má chịu lùi một bước. Má thuyết phục ba cho phép anh Hai ngỏ lời với nhà bên đó, với điều kiện đạo ai nấy giữ.

Ba má chị lắc đầu, với lời phân tích ngọn ngành rành mạch là phải từ chối người con trai nghề nghiệp đàng hoàng, tính tình tử tế, hiền lành thì cũng tiếc lắm, nhưng mai này sinh con ra thì làm sao? Đứa nào theo cha lên chùa, đứa nào theo mẹ đi nhà thờ? Ừ thì cho phép chúng tự chọn đức tin, nhưng khi mới sinh ra chưa biết gì thì cha mẹ là người dìu dắt, lúc đó làm lễ rửa tội thì sao? Đã nhận lễ rồi thì dĩ nhiên là con của Chúa, ông bà nội có chịu không?

Câu trả lời của ba má tôi là không, cháu nội nhất định phải theo đạo nhà mình.

hôn%20nhân,%20ân%20hận,%20tôn%20giáo

Vậy là anh chị chia tay. Để khỏi gặp gỡ, khỏi xao lòng, chị không đến chùa dạy lớp học tình thương nữa, người thay thế chị là anh Hai. Trước đó, anh chỉ làm những việc công quả cần sức vóc đàn ông, tới lúc ấy, anh nhận luôn việc dạy học. Bọn trẻ thắc mắc: “Sao cô không dạy tụi em nữa hả thầy?”, anh Hai trả lời: “Tại các em làm cô buồn”. Bọn nhóc chẳng hiểu câu trả lời này, thường ngày đứa nào cũng có nhiều lần nói chuyện trong lớp, không làm bài tập về nhà, rồi cãi nhau chí chóe… Cô giáo buồn là đúng rồi.

Anh Hai gầy sọm đi. Cả nhà tôi thở dài, bệnh buồn tình chỉ có thầy thuốc thời gian chữa lành mà thôi. Chữa lành thật không, tôi tự hỏi khi thấy anh Hai vẫn đi về một mình, vẫn cười cười nói nói nhưng ánh mắt chẳng còn sáng lên lấp lánh.

Tai nạn xe cộ bất ngờ cướp đi mạng sống của anh Hai.

Đám tang anh, chị lặng lẽ đến vào buổi tối, khi khách viếng đã ra về hết. Chị lặng lẽ chảy nước mắt trước di ảnh của anh. Nén nhang chị thắp cũng như người, lặng lẽ tỏa làn khói mỏng mà làm cay mắt tất cả. Ba tôi lau nước mắt quay mặt đi, còn má tôi ôm lấy chị mà nức nở. Quá muộn màng!

Sư thầy nói tục lệ đốt quần áo cho người chết đem theo là mê tín dị đoan, lãng phí, thay vì vậy, hãy đem làm từ thiện để làm phước. Tôi rủ chị xếp áo quần của anh để đem đi cho. Những ngón tay chị run run vuốt từng nếp vải như đây mới đúng là lần cuối cùng chị được chạm vào anh. Tôi chọn cái áo màu xám tro anh hay mặc, muốn nói chị hãy đem về giữ cho riêng mình, nhưng cái đầu tỉnh táo của tôi lại nghĩ, nỗi nhớ đã đủ làm khổ chị rồi, tốt nhất là để chị quên anh đi.

Tục lệ quê tôi là người vừa nằm xuống sẽ cảm thấy lạnh lẽo nên hàng ngày sẽ đốt củi sưởi ấm ngôi mộ. Sáng sớm, tôi chở má xuống nghĩa trang, ngang qua cổng, ông bảo vệ hỏi thay lời chào: “Con dâu của dì là cô giáo hả?”. Má tôi chảy nước mắt nhìn chị và bọn nhỏ lớp tình thương xúm xít mỗi đứa một khúc củi xếp lên nhau. Rồi những bàn tay nhỏ bé khum khum nối nhau che gió cho chị mồi lửa.

Tôi và má đứng lại ở xa xa nhìn tới, để cho chị được tự do chăm sóc anh. Má tôi vừa khóc vừa nói: “Biết vậy thì hồi đó má đã gật đầu. Chúa và Phật đều dạy người ta thiện tâm mà”.

Không ai biết trước được điều gì, nếu biết trước thì chẳng ai nỡ làm đau người khác. Tôi thường nói vậy để an ủi ba má và cũng là tự nói với mình. Tới tận ngày giỗ lần thứ bảy của anh Hai, sáng sớm mang hoa xuống mộ, tôi vẫn gặp chị bên cạnh đống lửa; lứa học trò ngày đó đã phiêu bạt khắp nơi, chị ngồi một mình…

(Theo Phunuonline)


http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/151924/noi-an-han-muon-mang.html

mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 11/Mar/2014 lúc 7:33am

Đoạn trường ai có qua cầu mới hay



http://antgct.cand.com.vn/Uploaded_ANTGCT/maiphuong1/24_doan138.jpg



Thoạt đầu tôi gọi Joséphine Nhung là chị. Không ai nghĩ người phụ nữ đẹp sang trọng và đầy sức sống này đã 82 tuổi. Cũng không tưởng tượng được cuộc đời bà lại thăng trầm đến vậy. Thời kháng chiến chống Pháp, Joséphine Nhung bị Pháp bắt, rồi lại bị tình nghi là Việt gian.

Lấy chồng Tây, sang Pháp từ năm 1956, từ thân phận một phụ nữ da vàng đơn độc tủi phận nơi xứ lạ, bà đã phấn đấu để  được gia đình nhà chồng thay đổi cách nhìn, chấp nhận và nể phục, để được chồng bà và các con yêu quí, trân trọng. Hòa nhập, nhưng Joséphine Nhung vẫn giữ được cốt cách của một phụ nữ truyền thống, coi trọng chữ tình, chữ nghĩa. Xã hội thì khác nhau, nhưng những giá trị nhân bản thì ở đâu cũng vậy.


Chìm nổi hồng nhan

“Ba tôi sinh ra trong một gia đình có tiếng tăm. Được ăn học có bằng cấp tú tài, lại giỏi tiếng Pháp, ba làm sếp ga ở Nghệ An. Tôi được ba cưng chiều lắm, vì tôi giống mẹ. Đang sống trong êm ấm thì năm 1937, khi tôi sáu tuổi, ba tôi mất vì bị ho lao. Mẹ tôi bị ông nội đuổi ra khỏi nhà, có lẽ vì cuộc hôn nhân này không môn đăng hộ đối và đã bị đằng nội phản ứng từ trước. Mẹ tôi đẹp nhưng mồ côi từ nhỏ, lại chỉ là người chạy chợ nhì nhằng. Anh em tôi không đành lòng ở lại, nên đã trốn theo mẹ. Chúng tôi về Ninh Bình, ở nhà ông bà ngoại nuôi– nhận nuôi mẹ tôi từ nhỏ.

Sáu năm sau, mẹ tôi đi bước nữa, với một ông Tham – một người đàn ông góa vợ mà mẹ chưa biết rõ, chưa biết cả quê quán của ông ấy. Chỉ vì cha dượng dỗ dành mẹ, là ông sẽ thương anh em tôi như con ruột. Thế rồi mẹ sinh em trai và lại có bầu. Lúc đó quân Nhật đã chiếm đóng một số vùng ở Trung Quốc, nghe nói chúng sẽ tràn sang Việt Nam. Cuộc sống bắt đầu khó khăn, ai cũng lo sợ. Cha dượng không cho chúng tôi đi học nữa, bắt anh tôi đi làm để trang trải chi tiêu trong nhà. Gia đình bắt đầu lục đục. Tôi bênh mẹ, bênh anh trai thì bị mắng là “cái miệng của mày sẽ làm cho tao và mẹ mày mắc nạn”.

http://www.cand.com.vn/Uploaded_ANTGCT/maiphuong1/25_ba138-400.jpg

Bà Joséphine Nhung và tác giả

tại Hà Nội.


Thời gian ấy lính Nhật tràn vào Việt Nam, chúng chém người ở trung tâm thành phố trước tất cả dân chúng để hù dọa mọi người. Những người Pháp, người làm việc cho Pháp cũng bị chém đầu. Không khí thật ngột ngạt. Rồi giặc Pháp trở lại, bắt bớ đánh đập những người vô tội, bắn chết nhiều thanh niên trai tráng. Hằng ngày bế em và đi bán bánh, tôi vừa lo cho anh trai, vừa tủi cho thân phận con ghẻ của mình.

Năm 1947, cha dượng của tôi phải chuyển công việc về Bắc Ninh, khi mẹ tôi đang mang bầu. Ông bắt mẹ con tôi phải về quê ông sơ tán, còn anh trai tôi phải theo ông đi làm. Thế là bắt đầu chuỗi ngày khổ ải ở xóm nghèo chợ Trôi vùng Đan Phượng, quê của cha ghẻ tôi.

Bà nội ghẻ đón mấy mẹ con tôi bằng ánh nhìn lạnh lùng khinh miệt: “Về quê là phải bỏ cái áo dài đi, ra đồng mà làm, không ai nuôi báo cô cái giống thành phố các người đâu đấy”. Từ đó, tôi phải thay mẹ dậy từ tờ mờ sáng, ra đồng nhổ cỏ, cắt rạ, cuốc đất, xay lúa. Sợ đỉa, sợ giun, nhưng tôi vẫn phải học đan vó te, móc giun vào làm mồi cùng bột gạo rang, để đặt vó kiếm thêm tôm cá.

Một đứa trẻ sinh ra ở thành phố phải cắn răng làm đến phồng rộp cả tay, cả vai. Khổ tôi không sợ, đau nhất là những lời nói đay nghiến, móc máy của bà nội ghẻ. Bà ấy ác đến mức không mời bà đỡ, cũng không cho mẹ tôi sinh em bé trong nhà. Thế là, dù rất sợ máu, tôi vẫn phải gắng sức giúp mẹ sinh em, cắt rốn và tắm rửa cho em trong nhà bếp.

Thương mẹ đói và em khát sữa, tôi đấu tranh với bà ghẻ để được ra chợ buôn bán kiếm tiền, tối về thì xay lúa bù cho bà già, để bà đỡ hậm hực. Đã là năm 1948, lính đồn thường về làng đốt phá, bắt bớ tra khảo, mỗi khi bị du kích đánh đồn. Đạn moọc-chê vun vút bay trên đầu, tàu bay cũng bỏ bom nhiều nơi. Đứa con riêng của bố dượng tôi bị gãy chân, tôi phải đưa nó đi viện tận Phú Thọ, rồi bệnh viện bị cháy và nó chết. 

http://www.cand.com.vn/Uploaded_ANTGCT/maiphuong1/25_jose138-450.jpg

Joséphine cùng Jacques và các con tại Pháp.

Bà nội ghẻ tức giận đuổi tôi đi, rồi lại gọi tôi về để lên đồn làm phu thay cho cả nhà. Ngày đó, tôi 17 tuổi, làm lụng vất vả nhưng tôi phổng phao, xinh đẹp hơn chị em trong làng. Thằng Tây đồn trưởng nhìn tôi cuốc đất trước đồn, nó thích tôi nên gọi tôi lên đòi lấy. Nó là kẻ cướp nước, đi đốt phá xóm làng, làm sao tôi lấy nó được. Tôi thẳng thừng từ chối, nó gọi bác phó làng tới, dọa sẽ đốt làng.

Cả đám phu làng lo sợ, đến nài ép mẹ tôi. Tôi đau xót viết thư để lại cho anh trai: “Anh Hùng ơi, giờ này anh ở đâu? Đứa em gái mà anh nâng niu sắp phải vào trong tay kẻ thù. Em muốn chết đi, nhưng trước khi chết, em phải cứu xóm làng nơi mẹ  và các em trú ngụ. Anh trở về thì nhớ đưa xác em về quê cha đất tổ anh nhé…”.

Đêm đầu tiên phải vào đồn, tôi từ chối gặp thằng Tây, lấy cớ là mệt, hẹn đến ngày mai sẽ là người của nó. Tôi viết thư cho mẹ, quyết định chết trong đêm ấy. May cho tôi là du kích đánh đồn, thằng Tây bị thương nặng. Nhưng cũng vì thế, tôi bị tình nghi là nội gián của Việt Minh, bị giam 5 tháng, bị đánh đập, tra tấn bằng điện không ai dám đến thăm.

Cũng còn may là tôi quen được với hai chị bạn. Không chịu được đòn roi, họ buộc phải nhận làm vợ hờ của lính đồn, nhưng họ thương Nhung lắm, nên bày đủ mưu cách để bảo vệ tôi khỏi lũ lính quỷ dữ. Giam cầm chán, chẳng khai thác được gì, mấy chị em chúng tôi bị đuổi ra khỏi vùng cai trị của đồn Tây, chúng dọa bắn những ai cưu mang chúng tôi. Không dám quay về làng tìm mẹ và các em, tôi và mấy tù nhân vượt rừng tìm nơi lánh nạn.

Đến một vùng núi non hiểm trở, bị hỏi giấy tờ, chúng tôi khai, mới bị tù ở đồn Tây nên không có giấy tờ bảo đảm. Thời giặc giã, không ai tin chúng tôi cả, họ nghi chúng tôi là tay sai của giặc, Thế là cả nhóm bị giam lỏng ở vùng đó một năm. Không bị đánh đập, nhưng tôi sợ cái nhìn im lặng, sự nghi hoặc lạnh lùng xung quanh mình. Có lần ba chị em ra đồng nhổ cỏ cuốc đất, mấy bà nông dân xô lại chửi tôi là con đĩ, là đồ bán nước hại dân không đáng sống.

Số phận đối với tôi thật trớ trêu! Tôi ốm liên miên vì không chịu được sự căng thẳng kéo dài. Ngày ấy có một bác sĩ Việt Minh thương và yêu tôi lắm. Nghe nói anh ấy học ở Pháp về, con nhà dòng dõi. E dè mãi, rồi anh mới dám ngỏ lời với tôi bằng những bài thơ. Tình yêu của anh đã vực tôi dậy.

Tôi mê say từng lời nói, dáng điệu của anh. Anh ân cần, tế nhị và lãng mạn, không như ông trưởng trạm già đã có vợ con mà vẫn tìm mọi cách ve vãn tôi. Biết chúng tôi yêu nhau, ông ta đẩy người yêu tôi đi công tác xa. Khi anh vướng hầm chông, bị thương nặng rồi hy sinh, ông trạm trưởng bảo tôi là lũ hôi tanh không được dự đám tang liệt sĩ. Năm 1951, chúng tôi được phép tự do về quê.

Rời vùng căn cứ Tam Sanh ấy, tôi mang theo lời tâm sự của người yêu trước chuyến đi công tác định mệnh: “Nếu một ngày anh phải lên cung trăng, không xuống trái đất được, thì em phải yêu người khác nhé, anh không muốn em cô đơn một mình.” Mãi mãi, tôi không quên được anh – mối tình đầu đau đớn mà ngọt ngào của tôi.


Xứ người… dâu Việt

Tôi gặp anh Jacques (Giắc) cuối năm 1954, sau khi biết tin anh trai mình đã chết và tôi quyết định vào Sài Gòn theo bố mẹ nuôi vì mẹ tôi còn phải lo cho gia đình riêng của bà. Không còn gì níu kéo, tôi muốn ra đi để quên quá khứ. Giắc tình cờ gặp tôi ở một quán cà phê, gần hiệu kem nơi tôi làm thuê. Ngày nào Giắc cũng đến, ánh mắt nhìn tôi có vẻ tha thiết, nhưng tôi lảng tránh vì tôi nghĩ, anh ta là người Pháp, Pháp đánh người Việt Nam thì làm sao tôi có thể tình tự với người Pháp được.

Chủ quán bảo Giắc, tôi là con nhà lành, không phải gái bán bar, nhưng anh vẫn cứ đến. Rồi Giắc tìm gặp bố nuôi tôi và thổ lộ là anh yêu thật tình. Tìm hiểu kỹ, bố nuôi biết anh là người đứng đắn, là con nhà gia giáo, chịu khó học hành. Ông khuyên tôi, nếu yêu Giắc thì hãy lấy, chứ vì buồn đau, lấy chồng để có chỗ nương tựa thì không nên.

Tôi nhận lời cầu hôn của Giắc với một sự giãi bày: Tôi không còn là con gái, tôi đã yêu một người rất tha thiết và tôi không thể quên quá khứ của tôi. Giắc chấp nhận vì anh yêu tôi. Điều này khiến tôi cảm động. Với tôi, một đứa con gái bơ vơ, tiền bạc chữ nghĩa không có, gia đình gốc rễ coi như không còn, gặp được người thương mình thật lòng, thế đã là may mắn.

Chấp nhận thay tên đổi họ theo gia đình bố nuôi – người Việt quốc tịch Pháp, để có thể làm thủ tục kết hôn với Giắc, tôi cũng phải đấu tranh tư tưởng ghê gớm lắm. Vào Sài Gòn, tôi lại một phen khốn khổ vì họ hàng nhà bố nuôi. Họ muốn tôi từ chối Giắc để lấy một phi công Việt đẹp trai, con nhà giàu và ham chơi. Nhưng tôi chọn Giắc vì anh thật lòng, chọn mà vẫn băn khoăn, không biết cái gì chờ đợi phía trước, khi mình xa quê hương về Pháp làm dâu. Chúng tôi cưới nhau ở Sài Gòn, tôi sang Lào theo chồng, về lại Sài Gòn, rồi trở về quê chồng năm 1956.

Tôi còn nhớ dịp đó là tháng 5, tháng 6. Vào một ngày âm u, tôi đến La Rochelle, một tỉnh nằm cách Pari tới 600km, với cái bụng bầu và vốn tiếng Pháp bồi chỉ tạm nói - nghe loáng thoáng. Nhà anh Giắc đón vợ chồng tôi lịch sự, nhưng không mặn nồng.

May mà quãng đời lang thang làm thuê cho những nhà giàu ở Việt Nam đã giúp tôi hiểu được cuộc sống văn minh, biết ăn cơm Tây, biết đặt bàn theo kiểu châu Âu.., nên gia đình anh cũng không nỡ khinh rẻ tôi. Để hòa nhập, tôi cố gắng lăn vào bếp, phụ giúp mẹ chồng nấu nướng, giặt giũ. Học theo nếp của gia đình, tôi cố gắng lau chùi nhà cửa sạch sẽ, sắp xếp quần áo từng loại ngăn nắp ở từng ô.

Tôi không muốn bị chê là quê mùa. Lúc đầu gia đình chồng tưởng tôi không biết tiếng Pháp, nên thường bình luận về những người da màu. Sự kỳ thị đó làm tôi đau đớn, bởi vì tôi là người da vàng. Thế là tôi cố gắng học thêm tiếng Pháp để biết đọc và nói tốt hơn. Nhiều lúc buồn, tôi chỉ biết vuốt ve, nói chuyện với đứa con trong bụng, hoặc sang thăm bà ngoại anh Giắc.

Bà sống một mình bên bờ biển, nhà có vườn cây ăn quả, lại thường ra biển bắt cua bắt ốc, thích lắm. Bà yêu quí tôi và Giắc, bà cảm ơn tôi vì yêu Giắc đã phải hy sinh, rời bỏ quê hương đến quê chồng. Bà kể cho tôi về sự gia trưởng của bố anh Giắc, về sự thiệt thòi của anh trong gia đình. Có bà, tôi đã vơi bớt sự mặc cảm về thân phận mũi tẹt da vàng của mình.

Khi tôi sinh cháu đầu lòng, con khóc, sữa chảy ròng ròng mà không được cho con bú, vì ở Tây họ cho con bú theo giờ. Thế là con khóc, mẹ cũng khóc theo.

Mẹ chồng sợ tôi bẩn, lấy chậu nước nóng, bắt tôi rửa ty, dùng gạc lau sạch, rồi mới bày cho tôi cách cho con bú. Sau này được ra ở riêng, tôi thấy nhẹ cả người, dù ở riêng cũng chỉ là ở nhờ bà ngoại. Mỗi tháng, tôi cố dành riêng một khoản tiền biếu bà. Bố chồng tôi bảo không cần làm thế, nhưng tôi cứ đưa, tôi thầm nghĩ, coi như tiền thuê nhà. Cụ ông bực lắm, cụ mắng tôi là cứng đầu, cứng cổ. Bố chồng tôi rất khó tính. Muốn sơn lại cái nhà, thì cụ bảo, đây không phải nhà mày, muốn làm gì phải theo ý tao.

Treo một cái ảnh quê nhà, thì cụ bảo mày làm như thế không đẹp. Tôi không cãi, cũng không dám trách bố chồng, chỉ lẳng lặng bóc tranh ra, cất vào cuốn sổ, để ngắm nhìn những lúc nhớ nhà. Mấy năm đầu mới làm dâu, làm gì cụ cũng bắt bẻ, xét nét. Pha cà phê mời cụ, cụ bảo, mày làm kiểu này không tốt. Tuy tự ái, nhưng tôi vẫn cố giữ lễ nghĩa.

Tôi chủ động tìm hiểu ngày sinh nhật, ngày cưới của bố mẹ chồng, rồi rủ các em chồng cùng tổ chức. Họ không đóng góp, tôi vẫn cứ làm, vì tôi muốn thể hiện tình cảm trân trọng bố mẹ. Lúc tôi ra ở riêng, bố chồng thích sang nhà tôi lắm, vì tôi chiều cụ, không sợ bẩn nhà, không bắt cụ phải xỏ giầy vào bao nỉ đi trong nhà như những cô con dâu khác.

Mấy cô em bảo tôi là hèn, sợ bố chồng theo kiểu nô dịch. Tôi nghĩ, bắt bẻ làm gì, người Việt ta thường kính già, nhường trẻ. Sau này các con tôi đi học xa, tôi dặn chúng ngày lễ Noen phải nhớ gửi thiếp về chúc ông bà, mà phải viết cẩn thận, không được sai lỗi ngữ pháp là ông bà cười mẹ không biết dạy con.

Mãi hơn hai chục năm sau, trước khi bố chồng lên bàn mổ, tôi hỏi cụ: Sao con làm việc gì, bố cũng nói là không đúng, sao bố ghét con đến thế? Cụ ông bật khóc: “Bố muốn thử lòng kiên nhẫn của con, nhưng tại sao con không bao giờ cãi bố?”. Lúc ấy, tôi quên hết nỗi ấm ức trong lòng: “Nếu con cãi bố, tức là con không tôn trọng bố, không báo đáp được cho bố. Con cứ nghĩ bố cũng như cha con vậy, mà con mất cha từ khi còn nhỏ”. Bố chồng khen tôi trẻ mà biết nghĩ…

Hóa ra, bạn ông có một cô con dâu người Việt rất đanh đá và không nền nếp, các cụ dặn nhau phải coi chừng con dâu Việt. Sự kiên nhẫn và cố gắng của tôi cuối cùng cũng được gia đình nhà chồng hiểu ra. Trước khi mất, bố chồng cho tôi một kỷ vật truyền lại từ người chị gái mà ông coi như mẹ, vì ông cũng mất cha mẹ từ sớm. Mẹ chồng tôi trước khi vào trại dưỡng lão, cầm tay hai vợ chồng tôi và nói với anh Giắc: “Con phải thương vợ vì nó là người vợ tốt, là đứa con hiếu thảo”.

Thu phục tình cảm bố mẹ chồng đã khó, giữ chồng và dạy con còn khó hơn. Chồng tôi về Pháp thì giải ngũ và đi học Trường Hành chính ở Pari suốt 5 năm. Lương trung sĩ của anh ấy rất thấp, một nửa anh đem theo để chi tiêu, một nửa dành cho mấy mẹ con tôi. Hồi đó tôi đẻ liên tục, 6 đứa tất cả, với người Pháp như thế là quá nhiều con. Tiền chi tiêu quá ít, tôi phải tằn tiện từng thứ một.

Quần áo các con, tôi mua vải hạ giá về tự may. Mảnh vườn nhà bà ngoại anh Giắc, tôi trồng đủ thứ rau để ăn cho đỡ tốn. Làm việc cật lực lo cho lũ trẻ, hai đứa sinh đôi đánh nhau suốt ngày. Lại thêm áp lực tinh thần từ nhà chồng: lúc đầu họ coi tôi là con bé man-di nhà quê ít học, mà gia đình họ vốn thuộc hàng dòng dõi.

Cụ nội anh Giắc đã từng được nhận Huân chương của Hoàng đế Napoléon, các ông của anh đều là giáo sư. Anh Giắc thì xa nhà suốt, tiền ít nên chẳng dám đi, về nhiều. Đã có lúc tôi tưởng mình quị xuống, tôi ốm rộc rạc, chỉ còn 40 cân. Ốm, nhờ chồng đưa đi khám, nhưng anh ấy bận học, lại nhờ cô em. Cô đơn, mệt mỏi đến cùng cực, nhưng rồi tôi xác định, phải chấp nhận, phải chịu đựng và tự mình vươn lên. Không kiếm được tiền thì mình cố nuôi dạy con cho tốt.

Khi con chập chững biết đi, tôi dạy các cháu ăn chừng nào lấy vào đĩa chừng đó, nếu lấy thừa thì tối hấp lại cho con ăn, vì nhà mình không giàu. Đến bữa, nếu con không chịu ăn thì thôi, sau đó nó có đòi cũng không cho ăn, để rèn con phải ăn đúng bữa. Bài học của mẹ chồng từ thời cho con bú, bây giờ tôi thấy đúng. Phải nắn con vào nếp, ngay từ việc nhỏ là xếp giày vào giá, sau khi đi học về.

Hai đứa sinh đôi nhà tôi cứng đầu lắm, biết chúng thích đi chơi, khi nào chúng mắc lỗi, tôi bắt phải xin lỗi bằng được, phải làm việc chuộc lỗi, tôi mới cho đi chơi. Nghỉ hè, các cháu phải thay phiên nhau giúp mẹ việc nhà, làm tốt sẽ có thưởng. Ngay cả việc tặng quà Noen cho các con, bây giờ thêm các cháu nữa, tôi cũng phải cố công bằng, tất cả như nhau.

Con gái áp út của tôi, dù không nói được tiếng Việt, nhưng cháu rất hiểu đạo lý, lễ nghĩa của người Việt. Nhà tôi cũng có bàn thờ gia tiên, thờ Phật bà Quan âm. Ngày nghỉ, tôi nấu món ăn Việt. Lúc đầu tôi không dám nấu nước mắm, sau thấy lũ trẻ khen, tôi cho chúng ăn tất, nào nem, phở, thịt - cá kho kiểu Việt, ăn cả trứng hấp lá mơ. Ăn quen rồi, các cháu hỏi cách làm và tự nấu. Tôi mừng vì các con, các cháu đều phục tài nấu ăn và truyền thống lễ nghĩa của mẹ, của bà. Chúng bảo nhau, lên xe mà không nhường người già yếu, đi đường gặp người tàn tật mà cười là chết với bà Nhung.

Ngày anh Giắc đi học 5 năm ở Pari, ít về vì không có tiền đi lại nhiều. Cũng có người hỏi tôi: Nhung không sợ chồng bị các cô người Pháp trẻ đẹp, có học “bắt mất chồng” à? Đến khi bạn bè anh Giắc về chơi, gặp tôi và các cháu, thấy chúng nó ngoan, học giỏi, nhà cửa ngăn nắp, họ nói: “Có người vợ thế này, thì Giắc không nhìn đến ai là đúng rồi!”.

Tôi phải tự học hỏi nhiều lắm. Anh Giắc là người có chí, làm việc mẫn cán. Khi anh được thăng chức lên thị trưởng một vùng (gồm mấy tỉnh), lần đầu phải tiếp phu nhân ông bộ trưởng, tôi sợ lắm. Phải mua sách đọc để hiểu các nghi lễ của họ. Ví dụ, phải hỏi nhỏ người phục vụ xem vợ ông lớn mặc trang phục gì, theo phép lịch sự là mình không được mặc đẹp hơn.

Hoặc nếu họ mời tiệc, mình phải mua hoa, gửi kèm các vidit tặng trước…Dần dà, tôi cũng vững tin hơn, tự đứng ra tổ chức được những bữa tiệc gia đình, mời các quan khách. Anh Giắc là tiến sĩ, là thị trưởng, nhưng chưa bao giờ anh ấy phải xấu hổ vì người vợ Việt Nam là tôi. Các cháu nhà tôi bây giờ đều thành đạt, hai vợ chồng tôi ở riêng, Giắc có một thư viện lớn. Hằng ngày, hai vợ chồng đi dạo, Giắc đọc sách, thì tôi lướt web, hoặc chăm chút vườn rau với đủ loại rau Việt. Ngày lễ, Tết Tây, Tết Ta…tôi nấu các món ăn - cả Pháp, cả Việt -, mời bạn bè hàng xóm đến chung vui.

Đã qua rồi những ngày tháng khó khăn, cũng may là tôi không phải đi kiếm tiền, thì mới có thời gian nuôi dạy các cháu như thế. Tôi vẫn dạy các con: xã hội nào thì đàn ông cũng phải lo việc lớn, dạy con là việc của phụ nữ. Gần 60 năm sống ở Pháp, tôi đã học được những nếp văn hóa tốt đẹp của quê chồng. Tôi ngưỡng mộ trật tự và luật lệ của người Pháp.

Ví dụ, khi ông Sarkozi đang là Tổng thống Pháp, mà con ông ấy đi xe sai luật vẫn phải gặp cảnh sát để nhận lỗi. Thế nhưng, tôi vẫn là tôi, một cô gái Việt từ nghèo khó, thất học, mà vươn lên bắt rễ vào cuộc sống xứ người, rồi đơm hoa kết trái trên đất lạ. Các con tôi ví von rằng, mẹ đã xây dựng cho chúng con một bảng giá trị tốt, giống như một phần mềm tốt cho máy tính vậy.

Ấy là các con yêu quý mẹ mà nói như vậy, chứ cái gì tốt đẹp, thì người Pháp, người Việt, hay người Mỹ…đều phải quý trọng cả. Chuyện đời tôi, nghe có vẻ xưa lắm rồi, không biết có ích gì với các cô dâu Việt ngày nay?!”




Nguồn: http://antgct.cand.com.vn/vi-VN/nguoitrongcuoc/2013/3/56533.cand




mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 11/Mar/2014 lúc 6:00pm

Chuyến xe thời thơ ấu


Bến Tre là xứ dừa nên có thể thấy dừa khắp mọi nơi. Người ta trồng dừa quanh nhà, trong sân, ranh đất, sát bờ rào, ngay trước cổng nhà. Nhưng dừa nhiều nhất trong các thớt vườn rộng cả mẫu hoặc lớn hơn nữa, những nhà giàu từ đời ông cha để lại có thể tới 5 - 10 mẫu là chuyện thường.

Nhiều thớt vườn dài rộng mút mắt, mỗi lần đi “thăm vườn” cả buổi mới giáp hết một thớt. Tất nhiên trong vườn dừa không chỉ có dừa mà chủ vườn còn trồng xen chuối, mãng cầu xiêm, nhưng nhiều nhất lại là cây cau. Do đó trên một mương vườn thường xen những gốc cau tại vị trí giữa khoảng cách của hai cây dừa nằm theo bờ mương.

Hoa dừa khi rụng thật thơm, nhất là sau cơn mưa đêm, nhưng hoa cau rụng càng thơm hơn nữa. Mùi hoa cau thoảng trong gió sớm mai, sau một cơn mưa như càng đậm giữa không gian, thơm ngây ngất, nôn nao, không chỉ với người ở quê mà mùi thơm dân dã, thuần khiết này còn hấp dẫn, quyến rũ cả người thành phố có dịp về thôn quê. Người ta trồng cau tất nhiên để bán trái vì hồi xưa có nhiều phụ nữ ăn trầu, hoặc khi có đám cưới nhà trai nhà gái phải mua cau buồng bởi trầu cau là lễ vật không thể thiếu. Nhưng cau còn dành riêng cho tụi con nít nông thôn thứ đặc biệt để làm trò chơi - những chiếc mo cau già. Đó là phần đầu của tàu cau, giúp tàu cau bám vào thân cây, khi những nhánh lá cau già, khô héo thì tàu cau rụng xuống.

Hồi bé tôi thường được bà ngoại sai đi lượm tàu cau về cắt phần mo ra làm quạt, tất nhiên phải lựa tàu cau nào có chiếc mo lớn nhất, bằng phẳng và đẹp nhất. Chiếc quạt mo dân dã đã đi vào thơ dân gian Thằng bờm có cái quạt mo, nó không giá trị bằng quạt giấy nhưng lại quạt mát và bền hơn quạt giấy. Vào những buổi trưa hè thôn quê mà có chiếc quạt mo cau phe phẩy thì tuyệt. Lũ trẻ con chúng tôi được sai đi lượm mo cau ít khi đi một mình mà phải rủ bạn theo, đặc biệt thế nào cũng có một đứa con gái cùng trang lứa cạnh nhà, chung xóm. Thế là tàu cau lại thêm công dụng khác, trở thành chiếc xe mo cau để con nít trai gái thay phiên nhau kéo bạn mình loanh quanh trong sân nhà, ngoài ngõ. Trò chơi “kéo mo cau” đã chen vào kỷ niệm, ghi dấu ấn sâu đậm một quãng đường đời tuổi ấu thơ trong trẻo, hồn nhiên. Có thể nói hầu hết nam nữ thanh niên lớn lên ở thôn quê đều gắn với những chuyến xe mo cau tuyệt vời mà sau này không thể nào quên được.

Một chiếc tàu cau bình dị nhưng chuyên chở cả thiên đường tuổi thơ. Kỷ niệm thật đẹp, không tiền bạc nào mua được dù bây giờ ta có thể đi máy bay lên chín tầng mây, nhưng nhớ về khung trời tuổi thơ đã xa thì rất khó mua vé để được “kéo mo cau” nếu lòng mình không in đậm hình bóng quê nhà.

Từ Kế Tường




mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 12/Jul/2014 lúc 1:23am

Cry Cry Cry Cry
MyKieu

Em trai tôi


Tôi sinh Ra tại một vùng quê hẻo lánh. Ngày qua ngày, cha mẹ tôi phải Ra sức cày cấy trên mảnh ruộng khô cằn để nuôi hai chị em tôi ăn học.
Một ngày kia tôi lén ăn cắp mười lăm đồng trong ngăn kéo của cha để mua một chiếc khăn tay mà những đứa con gái trong làng đều có. Cha tôi phát hiện, ông lấy chiếc roi tre treo trên vách xuống, bắt hai chị em tôi quỳ trước mặt và hỏi rằng AI đã lấy cắp.
***
Vì sợ hãi, tôi đã không dám dứng lên nhận lỗi. Cha tức giận định đánh cả hai chị em, ông đưa chiếc roi lên. Em níu tay cha lại và nói:
- Thưa cha, con trót dại...
Em nói loanh quanh, không giải thích được đã dùng số tiền ấy vào việc gì. Cha giận đến tái mặt nghĩ rằng em đã ăn chơi lêu lổng và quất liên hồi chiếc roi dài vào lưng em cho đến khi cha gần như ko thở được nũa.
Đêm ấy, mẹ và tôi đã dỗ dành em. Nhìn thân hình đầy những lằn roi của em, tôi oà khóc. Em vội vàng nói:
- Chị ơi đừng khóc, kẻo cha nghe thấy cha sẽ đánh đòn chị đấy!
Năm ấy em vừa lên 8 và tôi 11 tuổi.***
Năm em tôi được tuyển thẳng vào trường trung học thì tôi cũng trúng tuyển vào đại học. Chưa kịp vui với niềm mơ ước được chạm vào cánh cửa đại học thì tôi đã đối diện với nỗi lo lắng về học phí. Cha mẹ tôi không đủ tiền để cho hai chị em ăn học cùng một lúc.
Em tôi quyết định bỏ học nhưng cha mẹ và cả tôi đều không đồng ý. Tôi nói:
- Em cần phải tiếp tục đi học để tìm cách thoát Ra khỏi cảnh nghèo khó sau này. Chính chị mới là người không nên tiếp tục vào đại học.
Nhưng em đã bỏ nhà Ra đi với vài bộ quần áo cũ và một ít muối mè trong chiếc túi sách nhỏ. Em đã lén đến bên giường tôi và để lại một mảnh giấy nhỏ bên gối tôi với lời nhắn nhủ: "Chị ơi, được vào đại học không phải là điều dễ dàng. Em sẽ tìm việc làm để gởi tiền về cho chị.".
Tôi trào nước mắt, chẳng nói lên lời.
Năm ấy em mới 17 và tôi tròn 20.
***
Với số tiền ba tôi vay được trong làng cộng với số iền gởi về của em, cuối cùng tôi cũng học xong năm thứ 3 đại học.
Một hôm đang ngồi học trong phòng, Một đứa bạn chạy vào gọi tôi và nói:
- Có người cùng làng đợi cậu ngoài kia.
Tôi chạy Ra và thấy em đứng từ xa, quần áo lấm lem dầu nhớt. Tôi hỏi em:
- Sao em không nói với bạn của chị, em là em trai chị chứ?
Em cười đáp lại:
- Em sợ mọi người sẽ cười chị khi nhìn thấy bộ dạng nhếch nhác của em.
Tôi lặng người, nước mắt tuôn trào.
Em mỉm cười, đôi mắt ánh lên lấp lánh. Em đưa tay vào túi áo lấy Ra một chiếc kẹp tóc hình con bướm và nói:
- Em thấy mọi cô gái đều cài nó trên tóc, vì thế em mua tặng chị!
Tôi không kìm được niềm xúc động, ôm chầm lấy em nức nở.
Năm ấy tôi đã 23 và em mới 20.

***
Khi lần đầu tôi đưa bạn trai về nhà Ra mắt cha mẹ, mọi thứ trong nhà đều rất sạch sẽ và ngăn nắp, ngay cả miếng cửa sổ bị bể cũng đã được lắp lại. Mẹ cho tôi biết trong khi dọn dẹp và thay khung cửa sổ, em đã bị miếng kính đâm vào tay chay máu.
Tôi chạy vào tìm em. Nhìn vết thương trên tay em, tôi cảm thấy như có hàng ngàn mũi Kim đâm vào Tim mình. Tôi lấy thuốc và bông băng để băng lại vết thương cho em. Em cười:
- Em không muốn anh ấy chê nhà mình nghèo khổ!
Năm ấy em 23 và tôi 26.

***
Sau khi lập gia đình, tôi về sống với chồng ở thành phố. Vài năm sau, chồng tôi trở thành giám đốc của một xí nghiệp. Vợ chồng tôi muốn đưa em vào làm nhưng em từ chối vì sợ mọi người sẽ xì xầm bàn tán những lời không hay về chồng tôi.

30 tuổi, em lập gia đình với một cô gái trong thôn.

Năm tôi 40, cuộc hôn nhân tưởng chừng như mĩ mãn của tôi bị đỏ vỡ vì sự xuất hiện của một người đàn bà khác. Em vứt hết chuyện gia đình đến chăm lo cho các con tôi, vực tôi dậy sau những đắng cay nghiệt ngã.

Rồi một ngày cả hai chúng tôi đều già nua, tóc bạc gần hết mái đầu. Em ngồi bên tôi nhắc lại chuyện xưa. Ngày ấy, chị em tôi mỗi ngày phải lội bộ hơn hai tiếng mới có thể đến trường. Một hôm, em làm mất chiếc giày. Một phần sợ cha đánh em, một phần biết mẹ không có tiền mua giày mới, tôi đã nhường cho em đôi giày của mình. Và cứ thế, mỗi ngày hơn bốn tiếng đi-về, chân tôi phồng rộp lên và rướm máu vì những viên đá nhọn trên mặt đường nóng bỏng. Từ đó em hứa với lòng phải chăm sóc và đối xử với tôi thật tốt.
Nước mắt tôi chợt ứa ra vì hạnh phúc.
Năm ấy em chỉ vừa lên 5!

...

"Mọi thứ trên đời đều có thể mất đi, duy chỉ có tình yêu thương là mãi mãi!"

(internet)



mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 25/Nov/2014 lúc 7:53pm


CHỈ CÒN LÀ KỶ NIỆM


Tam Bách




            

Buổi trưa hôm ấy anh đến tham dự buổi họp mặt Tân niên Đồng hương của một tỉnh  gần Sài Gòn ngày xưa, nơi anh đã từng phục vụ lâu dài trước năm 1975. Đây là buổi họp mặt  thường lệ hàng năm. Đặc biệt năm nay, Trưởng ban tổ chức, một cựu sỹ quan từng làm việc tại quận, đã gọi điện thoại mời anh tham dự cho kỳ được. Giọng người cựu sỹ quan vẫn hóm hỉnh như xưa “Mời ông thầy đến tham dự buổi họp mặt cho vui. Chắc chắn sẽ có một thích thú bất ngờ dành cho ông hôm đó!”

            Mỗi năm một lần, các cựu viên chức, giáo chức, đồng hương đã từng sinh sống, làm ăn, từng chia xẻ vui buồn, từng sống chết bên nhau trong cuộc chiến vừa qua, nay gặp lại tay bắt mặt mừng, hỏi thăm nhau ai còn ai mất, ngồi với nhau tâm tình chuyện cũ …

            Trong thành phần tham dự họp mặt hôm ấy, có một người mới tham dự lần đầu, một cựu giáo viên từ Việt nam sang thăm bà con bên đất Mỹ, một cô giáo mà trước năm 1975 đã từng dạy tại trường trung học quận “núi đá ba chồng”: cô giáo Lan. Anh nhìn người thiếu phụ trung niên đứng lên chào đồng môn trong buổi họp mặt, nụ cười trên môi  nhưng đôi mắt phảng phất buồn. Thân hình thiếu phụ hơi đẫy đà, nhưng anh vẫn nhận ra chiếc môi tròn như nũng nịu, vẫn đôi mắt sáng với hàng mi dài… Tất cả đã gợi cho anh một quá khứ thân thương. Người thiếu phụ đã bắt đầu bước xuống triền dốc tuổi thanh xuân, chính là cô giáo trẻ đẹp một thời anh đã gặp, đã từng quen biết, gắn bó tình cảm… ở thời điểm những năm 1971-1973.  

*  *  *

            Hồi ấy anh làm việc tại một quận trên quốc lộ 20. Anh đến phục vụ tại một địa phương này như một viên chức hành chánh gương mẫu, với phong thái trẻ trung phong nhã… Ngày đầu nhậm chức, các Trưởng chi đến văn phòng Quận gặp gỡ Phó quận để trao đổi vài câu chuyện làm quen; trong đó có ông Hiệu trưởng trường trung học địa phương. Đó là một thanh niên gầy thấp, nước da sạm nắng khác hẳn các bạn đồng nghiệp trắng trẻo cao ráo hơn. Với vẻ mặt tươi cười, ông ta ngỏ ý mời Phó quận đến thăm trường trung học do ông ta làm hiệu trưởng. Hôm sau, trên đường thăm các thân hào nhân sĩ, các vị lãnh đạo tôn giáo…, Phó quận ghé thăm trường Trung học như đã hứa.  Ông hiệu trưởng đón tiếp niềm nỡ, đưa anh đi thăm các lớp và sau cùng đến lớp 9, do một cô giáo phụ trách. Cô giáo có thân hình cao gầy, “mình hạc xương mai”,  dáng người yểu điệu; đặc biệt đôi mắt tròn to, lông mi dài cong vút. Cô mỉm cười chào tân Phó quận  khi anh bước vào lớp học. Theo lệnh cô giáo, cả lớp đồng loạt đứng dậy nghiêm trang chào khách. Anh nhìn toàn thể lớp học, thầm khen các học sinh ngoan ngoãn, có kỷ luật. Các học sinh đều mặc đồng phục, nam sinh với quần dài xanh đậm, áo trắng ngắn tay; nữ sinh với bộ quần áo dài trắng. Riêng cô giáo thướt tha trong chiếc áo dài hoa, đôi môi và hai má  ửng hồng, khiến khách đến thăm không biết do nghệ thuật trang điểm hay niềm vui sướng của cô giáo trước vị khách hào hoa đã làm cô ửng hồng đôi má…?  

*  *  *

            Tình hình an ninh quận “núi đá ba chồng” khá yên tĩnh; tuy nhiên tin tức tình báo cho biết những dân lái xe be vào rừng đốn gỗ, những người làm rẫy bái…thường tiếp tế gạo thóc, xăng nhớt, tiền bạc… cho địch ở vùng sâu ven sông La Ngà. Hình như chúng đang tập trung quân chuẩn bị tập kích vào quận. Trung tá quận trưởng chỉ thị Chi khu kiểm tra các đơn vị nghĩa quân, Cảnh sát tổ chức hành quân chận bắt những thành phần tiếp tế cho địch, Hành chánh quận kiểm tra các đơn vị NDTV về nhân số, vũ khí, bố phòng ban đêm…Hàng đêm, Phó quận cùng Trung úy Đức, đi thanh tra các chốt canh gác trong quận lỵ. Riêng hôm ấy, người sỹ quan trưởng ban NDTV bị bệnh, Phó quận đi công tác một mình. Khi xe chạy trước cư xá giáo chức, qua cửa sổ hé mở anh trông thấy thấp thoáng cô giáo Lan đang ngồi  đọc sách, bèn ghé vào thăm…Cô giáo vui mừng lẫn ngạc nhiên khi đón tiếp anh, và trước khi đi pha trà mời khách, cô kéo tấm màn che cửa sổ cho kín đáo. Anh hỏi cô giáo:

            - Xin lỗi cô Lan, tôi bất chợt vào thăm cô giáo lúc này có làm phiền cô không?

            - Dạ không sao! Ông Phó đến thăm thật vinh dự cho em lắm chứ. Hơn nữa từ lâu em cũng mong được hân hạnh tiếp chuyện với ông …

            Cô giáo Lan sinh ra trong một gia đình đông con miền Bắc, theo cha mẹ đi trên “tàu há mồm” vào Sài gòn lúc còn bé tí. Tốt nghiệp sư phạm, cô xin đi dạy tại vùng “núi đá ba chồng” vì nơi đây nhiều phong cảnh đẹp và lạ lùng khiến cô thích thú. Có lẽ đó cũng do bản tính của ông bố, từng làm việc vùng cao nguyên miền Bắc trước năm 1954, đã ảnh hưởng đến sở thích cô gái út của ông…Cô giáo Lan ngỏ ý mời anh, một ngày cuối tuần rảnh rỗi nào đó, đến nhà cô chơi và các cô giáo sẽ tổ chức nấu nướng ăn uống cho vui. Vì theo lời cô “quận này đẹp nhưng hơi buồn, mà chúng em đâu có nhậu nhẹt như các ông, nên chỉ tụ họp ăn uống tại nhà mà thôi!”… Ngoài đường có tiếng lao xao của toán NDTV đang tập họp để phân chia canh gác. Phó quận sực nhớ nhiệm vụ của mình, vội cáo từ cô giáo chủ nhà, ra xe tiếp tục đi công tác kiểm tra.

            Một buổi tối, trung úy Đức lái xe đưa Phó quận đi kiểm tra NDTV như thường lệ. Khi đi qua nhà cô Lan, anh ta chạy chậm lại và nói nhỏ:

            - Tối hôm  trước hình như ông Phó có vào thăm cô giáo ở đây phải không?

            - Có! Mà sao cậu biết hay vậy? Tối đó cậu bị bịnh ở nhà kia mà!

            Người sỹ quan trẻ cười hóm hỉnh:

            - “Đàn em” ở nhà nhưng có “đệ tử” kín đáo theo bảo vệ ông; để lỡ có chuyện gì tụi nó còn can thiệp kịp thời chứ “ông thầy”!

             Anh ta nhìn vào nhà cô Lan nói tiếp:

            - Ông Phó nhìn tấm màn cửa sổ trong nhà kia kìa…Khi ông  ngồi gần cửa sổ, đèn bên trong  hắt ra, bóng in lên tấm màn, làm sao ông “che mắt được thế gian”? Nhất là ông lại đậu xe trước nhà cô giáo nữa!  Đàn em làm việc ở đây khá lâu, biết nhiều chuyện ở thị trấn nhỏ bé này, nên chỉ dám khuyên ông Phó cẩn thận, nhất là đừng đến thăm chơi ông hiệu trưởng cũng ở trong dãy cư xá giáo chức!

            Phó quận mỉm cười cám ơn lời khuyên của người sỹ quan đặc trách NDTV quận bộc trực và tốt bụng đó. Trung úy Đức, trước đây là một giáo viên, nhưng không được biệt phái về nhiệm sở cũ nên đã xin về làm việc tại văn phòng hành chánh quận…Và cũng  theo lời của người sỹ quan gốc giáo chức đó, anh được biết nhiều điều bí ẩn về ông hiệu trưởng. Thỉnh thoảng ông ta nghỉ phép vài ngày, sau đó ông ta trở về với thân hình gầy ốm đen điu. Có một đồng nghiệp hỏi lý do, ông ta giải thích là đi Vũng Tàu tắm biển nên da bị cháy nắng!  

*  *  *

            Trong một buổi họp tại quận, Trung tá Quận trưởng quyết định tổ chức cuộc hành quân hỗn hợp tại Ấp 125. Phó quận, Chi khu phó cùng một trung đội nghĩa quân, một trung đội Cảnh sát dã chiến tham gia cuộc hành quân. Phó quận và Trung úy Đức đi cùng xe jeep với Đại uý Chi khu phó. Ấp 125 cách quận lỵ khoảng mười lăm cây số, phần lớn dân trong ấp làm nghề đốn cây, các chủ xe be vào rừng kéo gỗ. Mỗi khi vào rừng, họ mang theo gạo, mì gói, xăng dầu … đôi khi còn nhiều hơn số lượng cần dùng … Cho nên, sau một ngày và hai đêm làm việc, Cảnh sát và an ninh Chi khu bắt một số đối tượng tình nghi thường liên lạc và tiếp tế cho VC; những thành phần cư trú bất hợp pháp, trốn quân dịch; đồng thời tổ chức lại NDTV để phòng vệ Ấp. Cuộc hành quân chấm dứt vào sáng Chủ nhật. Phó quận định theo xe Jeep của Chi khu trở về, thì tài xế xe Scout của quận đã lái xe đến đón . Anh ta kín đáo đưa cho Phó quận một phong thư và nói nhỏ:

           - Cô giáo sáng nhờ em đưa cái thư này cho ông Phó…

            Bên trong phong thư dán kín chỉ có mảnh giấy nhỏ với vài hàng chữ mềm mại: “Hôm nay ngày nghỉ cuối tuần mà ông Phó còn làm việc sao? Khi xong việc trở về, xin ông ghé qua “tệ xá” để  chúng em được phép mời ông dùng bữa cơm thân mật trong gia đình…” Cuối thư không có chữ ký, nhưng anh biết  tác giả là ai rồi! Anh lên xe quận, viện cớ có việc cần nên về trước, để lại sau lưng nụ cười ý nhị của viên Trung úy phụ tá NDTV quận, người  “biết quá nhiều” về cô giáo … 

            Khi anh đến nhà cô giáo Lan, đã nghe tiếng cười nói của các cô bạn đồng nghiệp, mùi thức ăn thơm ngào ngạt tỏa khắp căn nhà. Cô chủ nhà từ bếp chạy ra cửa đón tiếp khách một cách thân tình, tươi cười đưa vào giới thiệu các nữ đồng nghiệp. Hôm nay cô Lan trông gọn gàng, tươi mát trong chiếc quần Jean màu xanh da trời bó sát đôi chân dài, chiếc áo polo ngắn tay hiệu Banlon màu beige khiến cho khuôn  mặt cô tươi  hẳn lên, trên đó đôi môi mọng tô hồng nhạt, tròn trĩnh như môi em bé nũng nịu,  đôi mi dài  như hai chiếc lông công khi xoè múa… Các cô giáo thi thố tài gia chánh, nấu nhiều món ăn đặc biệt dành cho vị khách đặc biệt. Trong bữa ăn, nhiều câu hỏi của các cô thật táo bạo, khiến vị khách bối rối. Nhưng những câu đối đáp thành thật, với một chút ý nhị khôi hài, khiến các cô vui cười thích thú. Cuối cùng anh đứng lên cáo từ, không quên cám ơn cô giáo chủ nhà và các bạn gái đồng nghiệp của cô. Cô Lan tiễn tận cửa khi anh ra về, quyến luyến nhìn theo với “con mắt có đuôi”.

 *  *  *

            Hiệp định Paris được chính thức ký kết vào 27-1-1973, quy định việc đình chiến tại Việt nam. Sau những ngày đó, quân cán chính tại quận được lệnh cảnh giác đề phòng việc vi phạm nhưng bắn của VC. Khoảng một tháng sau ngày đình chiến, một buổi chiều Trưởng Ấp 110 đang ngồi trong trụ sở bị kẻ lạ mặt, từ ngọn đồi phía sau lẻn  vào ném lựu đạn. Khi Nghĩa quân nghe tiếng nổ chạy đến, đã thấy Trưởng Ấp nằm bất động trên vũng máu và sau đó qua đời. Tỉnh gởi công điện chỉ thị Quận gởi gấp biên bản điều tra về vụ  trưởng Ấp đã bị ám sát, tổ chức cuộc biểu tình để người dân phản đối VC ám sát người cán bộ do dân bầu, để Tỉnh có bằng cớ yêu cầu Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đến tận nơi điều tra…Một cuộc tuần hành đông đảo dân chúng tại Ấp 110 và dân chúng tại quận lỵ, với xe trang bị máy phóng thanh của Chi Thông tin dẫn đầu đã đi dọc theo quốc lộ. Họ hô to những khẩu hiệu lên án VC sát hại Trưởng Ấp 110... Khi đoàn biểu tình tập trung vào hội trường gần chợ, Trưỏng chi Thông tin đến Văn phòng quận mời  Quận trưởng đến chủ tọa cuộc mít tinh. Trung tá Quận trưởng bận công tác, giao quyền cho Phó quận.

            Khi anh bước vào, đã thấy người dân ngồi chật cả hội trường, phần lớn là dân xe be, chủ trại cưa, đàn bà trẻ em và thân nhân Trưởng Ấp bị sát hại. Sau khi Xã trưởng lên  diễn đàn kết án VC sát hại dã man Trưởng Ấp 110 trong giờ làm việc tại Ấp…, Trưởng Chi Thông tin trao Phó Quận bản kiến nghị phản đối VC đã ám sát Trưởng Ấp do dân bầu ra, vi phạm lệnh ngừng bắn do Hiệp định Paris ấn định và yêu cầu Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đến tận nơi để điều tra nội vụ. Nhìn thấy đám đông người dân tham dự biểu tình, trong đó vợ con người Trưởng ấp bị ám sát đang ngồi ủ rũ đau buồn, anh thấy niềm căm phẫn dấy lên trong lòng. Anh bước lên máy vi âm, dõng dạc lên án hành vi ám sát hèn nhát của VC đối với một Trưởng ấp hiền lành, tận tâm phục vụ dân chúng, và hứa sẽ chuyển bản kiến nghị đến tận tay Ủy hội Kiểm soát Đình chiến khi họ đến đây điều tra nội vụ. Đồng thời không quên an ủi gia đình của Trưởng Ấp bị ám sát và chỉ thị Xã trưởng giúp họ sớm lập hồ sơ xin trợ cấp, đền bù phần nào nỗi đau đớn mất mát lớn lao của gia đình họ…

            Phó quận bước xuống chỗ ngồi giữa tiếng vỗ tay của dân chúng. Anh dự định bước theo Trưởng chi Thông tin ra khỏi hội trường trở về Văn phòng quận, bỗng thấy người tài xế thân tín từ hướng sân khấu hội trường chạy đến nói nhỏ:

            - Ông Phó đừng đi qua đám đông. Cô giáo mới cho biết có kẻ khả nghi trong hội trường…Ông bước ra cửa hông gần sân khấu kia, nhanh lên, em đi sau bảo vệ ông…

            Anh liếc nhìn xuống đám dân chúng đang nhốn nháo đứng dậy ra về, vội quay ngoắc lại hướng sân khấu, ra cửa hông hội trường và lên xe Scout đang đậu sẵn. Người nghĩa quân kiêm tài xế xe quận đi sát sau lưng Phó quận, nhanh chóng lên xe mở máy chạy… Khi  ra đến quốc lộ, anh nhìn thấy cô giáo đang đứng nép bên gốc cây, đầu đội nón lá, kín đáo nhìn về chiếc xe Scout đang chạy về hướng Văn phòng quận. Đó là lần cuối anh nhìn thấy cô giáo Lan…

            Buổi chiều, Trưởng chi Cảnh sát đến gặp Phó quận tại Văn phòng, báo cáo tin tức với vẻ mặt dương dương tự đắc:

            - Xin báo ông Phó biết, trưa nay có người mật báo, chúng tôi bắt được tên VC nằm vùng trước hội trường. Chúng tôi đang khai thác thêm, vì tên này nằm trong tổ ám sát Trưởng ấp 110. Cũng may cho ông Phó, nếu ông ra về bằng cửa chính thì gặp nguy rồi. Tên VC này đứng ngoài cửa chờ ông đi ra, sẽ ám sát ông rồi trà trộn vào đám đông chạy ra ngoài lộ, đồng bọn sẽ chở đi bằng xe Honda …

            Viên Đại úy Trưởng chi ngừng lại, nhìn Phó quận dò hỏi:

            - Nhưng sao ông Phó biết trước nguy hiểm mà đi ra bằng cửa hông hội trường?

             Phó quận nhìn người Trưởng chi Cảnh sát nửa đùa, nửa thật:

            - Thế ông Trưởng chi không biết tôi cũng có mật báo viên như bên Cảnh sát các ông sao?

            Nói xong, anh nghiêm nét mặt nhìn Đại úy Trưởng chi khiển trách:

           - Đúng ra Đại úy nên bố trí an ninh chu đáo hơn. Nếu tôi bị ám sát như Trưởng ấp 110 thì trách nhiệm thuộc về ai? Tôi yêu cầu từ nay trong những buổi mít-tinh đông đảo, nên cho Cảnh sát sắc phục ngồi ngay trong hội trường để lo việc bảo vệ an ninh, nhất là cho những viên chức xã ấp, các Trưởng chi, Quận trưởng, Phó quận… Nhưng dẫu sao, hôm nay Cảnh sát cũng đã thành công trong một công tác quan trọng như vậy, đáng khen ngợi!

            Viên Đại úy Trưởng chi, vốn tự phụ là một sỹ quan Cảnh sát giỏi, biết ông Phó quận “xi vin” này đã khiển trách đúng, bèn ngỏ lời cảm ơn rồi đứng nghiêm chào, quay gót ra khỏi phòng.

             Sau đó, Phó quận cho Trung úy Đức biết Cảnh sát đã bắt  được tên nằm vùng VC âm mưu ám sát anh ở hội trường trưa nay. Anh muốn đến nhà cô giáo cám ơn đã cho biết tin tức kịp thời, giúp anh tránh khỏi hiểm nguy hôm ấy. Mấy hôm sau, Trung úy Đức cho biết cô giáo đã rời khỏi quận. Theo tin tức từ các đồng nhiệp của cô, cô giáo đã tự động xin đổi về Tỉnh, không rõ vì lý do gì? Cô ra đi thầm lặng, vội vã, từ chối cả tiệc tiễn đưa của các bạn đồng nhiệp. Riêng anh, anh đã thoáng hiểu lý do sự ra đi âm thầm của cô. Có thể bọn nằm vùng VC, thông qua viên hiệu trưởng đáng nghi ngờ kia, đã hăm dọa cô giáo vì “biết quá nhiều” về đồng bọn chúng? Cũng có thể cô giáo đã “đánh hơi” sự hiểm nguy kề cận – cũng giống như trường hợp Phó quận suýt xảy ra?  Kể từ đó, anh không còn gặp cô giáo Lan, cô giáo xinh đẹp, có nhiều cảm tình với anh, cô gái trẻ có thừa can đảm, đã một lần cứu mạng anh!

*  *  *

            Sau khi đi tù “tập trung cải tạo” về, anh gặp lại Đức ở “chợ trời thuốc tây” đường Nguyễn Kim. Người phụ tá NDTV của anh hồi còn làm việc ở quận, sau những năm tù “cải tạo” ở  vùng rừng thiêng nước độc đã gầy ốm, cằn cỗi hẳn đi. Đức cho biết đã gặp cô  Lan một lần ở Sài gòn. Cô giáo vẫn còn nhớ đến người Phó quận trẻ tuổi nhiều tình cảm ngày xưa và cô đã nhờ Đức chuyển lời thăm hỏi đến “ông Phó thân mến của cô”!  Người cựu giáo viên ấy không còn đi dạy học nữa sau đợt “giảm biên chế”. Sau đó, cô đã nhận lời lấy ông hiệu trưởng, ông “xếp” cũ của cô.  Ông hiệu trưởng “nằm vùng bí mật” năm xưa, người chồng bất đắc dĩ của cô giáo Lan xinh đẹp một thời, nay đã là một cán bộ cấp cao trong ngành giáo dục tại Tỉnh. Ông ta đã mở một tiệm bán “vật liệu xây dựng” để cô vợ đứng trông nom tại ấp 125. Nơi này, ngày xưa Phó quận đã từng đến công tác “ngủ ấp”  hai đêm trong cuộc hành quân hỗn hợp để thanh lọc những phần tử tay sai của VC. Nay Ấp 125 đã phát triển trù phú, nhà cửa mọc lên như nấm sau cơn mưa hè. Những thành phần nằm vùng, những tên mang băng đỏ chạy theo “cách mạng giờ thứ 25”… đã phất lên làm giàu nhờ chiếm đoạt đất đai, rẫy bái của người dân tại đây để xây dựng nhà cửa, để bán chác…tạo nên cuộc sống phồn vinh ở xã hội mới.

            Đối với anh, những kỷ niệm với cô giáo Lan tưởng đã theo thời gian trôi vào quá khứ lãng quên. Nhưng hôm nay, anh đã gặp lại cô trong một hoàn cảnh thật bất ngờ. Trưởng ban tổ chức buổi họp mặt tân niên, cựu Trung úy Đức, đã đưa anh đến gặp lại người xưa. Anh nhìn cố nhân, không nói nên lời…Anh chỉ biết cầu chúc cho cô một cuộc sống an bình, cả trong tâm hồn lẫn thể chất.  

            Hai hôm sau, anh và Đức đưa cô giáo lên phi trường LAX để trở về Việt nam. Khi chia tay ở phi trường, cô giáo  nhìn anh nở nụ cười buồn, vẫy tay chào từ biệt rồi bước vào khu cách ly. Anh nhìn theo bóng dáng cô đơn ấy đang lầm lũi bước đi. Cô không đi lên chiếc thang cuốn chạy dọc theo hành lang, mà từ từ bước. Chiếc túi xách nặng trĩu trì kéo vai cô, như đứa trẻ níu tay mẹ đòi ở lại  cái xứ sở mà người tỵ nạn ở đây chỉ xem như “vùng đất  tạm dung”. Khi chiếc bóng cô đơn ấy đã khuất nơi ngã rẻ trong phi trường, anh thẫn thờ quay ra. Trong quá khứ, anh và cô giáo  đã có một thời gắn bó tình cảm. Nay thì tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Cuộc gặp gỡ thoáng chốc đã khơi lại trong anh những tình cảm êm đềm ngày xưa. Để rồi hôm nay cô đành chia tay  bạn bè thân mến ngày xưa, trở về sống với người chồng chỉ biết lo danh vọng phú quý; trở lại sống trong một xã hội mà ở đó sau năm 75’,  những kẻ xu nịnh chạy theo chế độ mới đã vội quay lưng lại với quá khứ thân thương và nhân ái trước đây.  

            Anh đã tiễn đưa cô về bên ấy, lòng cảm thấy nao nao buồn và chợt nhớ đến những lời thơ trong bài  “Tiễn Em” của Cung Trầm Tưởng:

Lên xe tiễn em đi 
Chưa bao giờ buồn thế 
Trời mùa Đông Paris
Suốt đời làm chia ly…

            Anh kéo cao cổ chiếc áo jacket để bớt lạnh và thầm nghĩ: chắc hẳn mùa này ở vùng “núi đá ba chồng”, gió đêm cũng làm lạnh lòng người ở lại lắm. Và chắc hẳn cũng lạnh con tim kẻ ly hương khi âm thầm nhớ lại hình bóng người xưa, mà giờ đây chỉ còn là kỷ niệm…

            Hồi ức
         

Tam Bách




mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 09/Dec/2014 lúc 7:35pm


Người con gái sông Hương

Displaying%20
Nicole Dương 2006
   
LGT: Sách của W. Nicole Dương (Dương Như Nguyện), cuốn ” Mimi and Her Miror” và “Postcards From Nam”, nữ thẩm phán Hoa Kỳ đầu tiên gốc Việt, vừa đoạt luôn giải nhất và giải nhì của cuộc giải thưởng sách quốc tế, dạng tiểu thuyết đa văn hóa (category: multicultural fiction), được tổ chức bởi JPX Media Group của Los Angeles, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Chào đời tại Hội An, Quảng Nam và đến Hoa Kỳ năm 1975, Nicole tốt nghiệp Cử Nhân Báo Chí tại ĐH Southern Illinois, sau đó Tiến Sĩ Luật của DH Houston và LLM của Harvard. Tuổi 24, cô đã làm Tổng Giám Đốc Vụ Bồi Thường Rủi Ro cho Quận Học Chánh Houston, rồi tốt nghiệp luật sư năm 1984. Hành nghề luật được 18 năm thì cô trở thành giáo sư luật thực thụ ở đại học Denver. Cô viết văn từ khi còn ở Việt Nam và là người cuối cùng đoạt giải danh dự cuộc thi Văn Chương Phụ Nữ Toàn Quốc Lễ Hai Bà Trưng của Việt Nam Cộng Hòa. Cuốn “Con gái của sông Hương” xuất bản năm 2005 gây nhiều tiếng vang 

Một thời để yêu

Cuộc chiến Việt Nam đã để lại biết bao nhiêu cuộc tình éo le sầu thảm. Một thời để yêu và một thời để chết. Một thời bên nhau, đại bác xa xa vọng về và hỏa châu thắp sáng chân trời. Rồi tù đầy chia cắt. Anh trở về dang dở đời em. Nhiều trường hợp sau hơn 10 năm ngục tù, anh trở về, em đã đem con qua Mỹ và đi xa hơn nữa, em đã sang ngang. Cũng như hàng trăm người khác, chuyện cô gái sông 


Hương mà tôi kể cho quý vị hôm nay cũng vậy mà thôi.

Nhưng đây là câu chuyện trong gia đình anh chị em cùng khóa của chúng tôi, xin kể lại để quý vị nghĩ rằng đây là khổ đau hay hạnh phúc. Ðặc biệt đây là câu chuyện liên quan đến mặt trận Quảng Trị năm 1972. Chàng là sĩ quan thủy quân lục chiến, tốt nghiệp Ðà Lạt, cùng khóa với chúng tôi. Năm đó đã trên 30 tuổi, ly dị vợ, sống độc thân, đẹp trai và có thể nói là hào hoa phong nhã.Ðời thủy quân lục chiến, 12 tháng anh đi, nay đây mai đó. Còn nhớ bài ca của lính mũ xanh. Tháng hai đem quân ra Huế... và ở đó trung tá Nguyễn đã gặp cô Lan Hương, sinh viên văn khoa, người con gái sông Hương. Lúc đó vào đầu thập niên 70, em mới 20 tuổi. Cô gái Huế cũng có nhiều bạn trai theo đuổi và phần cô cũng rất đào hoa. Ðược coi là người đẹp văn khoa xứ Huế. Gặp chàng sĩ quan Bắc Kỳ, áo mầu lính biển với mũ xanh, mang vóc dáng của người hùng thời chinh chiến, Lan Hương bỏ tất cả để theo chàng.



Nicole và Bà Hoàng Đc Nhã trong bui trao gii Văn Chương 1975


Cô Lan Hương
Chị cả một gia đình lễ giáo bảo thủ, cha mẹ cô hoàn toàn chống đối cuộc hôn nhân hết sức phiêu lưu. Anh chàng Bắc kỳ hơi lớn tuổi, quá khứ chẳng biết ra sao, đi thứ lính không biết chết ngày nào, không ai lại muốn con gái sớm thành góa phụ.Nhưng cô gái sông Hương bướng bỉnh đã bỏ nhà theo sư đoàn thủy quân lục chiến vào Saigon mất tăm dạng. Nàng chỉ trở về với đứa con trong bụng để rồi gia đình cũng phải đành chấp nhận cho chàng rể bất đắc dĩ ra mắt nhạc gia và chờ đón đứa cháu ra đời.Lúc đó đúng vào giai đoạn trung tá Nguyễn cùng với lữ đoàn đang chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị. Lan Hương đau bụng vào nhà thương khi Bắc quân tấn công thủy quân lục chiến tại Ái Tử.Hương kể rằng đại bác chẳng biết từ đâu vọng về ngày đêm. Rồi bom nổ, tiếng máy bay xé ngang trời. Dân chúng bị thương, bị chết đem vào bệnh viện cho đến ngày 6 tháng 4 năm 1972 đứa con trai đầu lòng của cô gái sông Hương ra đời. Ðặt tên cháu là Vũ.Cũng ngày hôm đó, từ mặt trận trung tá Nguyễn bay trực thăng về hậu cứ, rồi xe nhà binh cùng với binh sĩ ào vào thăm vợ con được ít phút rồi lại ra đi.Lính tráng đi với ông thầy, súng đạn đầy người, áo quần tơi tả, đến rồi đi tưởng như trong phim ảnh.Cô sinh viên nay trở thành bà mẹ trẻ ôm con khóc không biết rồi đây anh có trở về không ? Ðó là những ngày đầu của người con gái nếm mùi đau thương chinh chiến. Mấy năm trước, dù Mậu Thân với bom đạn và xác người chôn ở vườn nhà, tuy có sợ hãi nhưng vẫn còn ở tuổi ngây thơ. Bây giờ chiến tranh mới thâm nhập vào da thịt.
Suốt 6 tháng dài từ tháng 4 tới tháng 9 năm 1972 Lan Hương thực sự sống với chiến trường Quảng Trị. Theo tin chiến sự mỗi ngày. Quân ta quân địch đánh nhau ở đâu. Thủy quân lục chiến rút lui ra sao, rồi đơn vị về Huế dưỡng quân để lên đường vượt Mỹ Chánh thế nào.Người con gái sông Hương cùng thở theo hơi thở của cả đoàn quân mũ xanh. Khi đánh vào Cổ Thành, lính bên ta chết bao nhiêu, xác đem về đầy các xe nhà binh, máy bay chở về Saigon không kịp còn nằm chờ ở phi trường.Cô sống trong những cơn ác mộng ngày đêm, không đêm nào là không có cơn mộng dữ. Ðứa con đầu lòng đã sống trong niềm lo bất tận của mẹ.Tiếp theo là 1 tin vui trong giai đoạn mới của binh nghiệp. Trung tá Nguyễn đổi về Saigon làm trung đoàn trưởng 1 trung đoàn bộ binh. Mặt trận miền Ðông cũng không kém phần ác liệt, tuy nhiên không khí thủ đô làm cho gia đình có được những giây phút tương đối an toàn.Mới đây, từ bên Arizona, đọc những bài viết về trận Quảng Trị và dự trù làm phim, cô Lan Hương đã viết cho gia đình tôi một đoạn email.
“Ðọc những chuyện về trận Quảng trị 37 năm về trước, em hết sức xúc động. Ðó là một phần cuộc đời của em không bao giờ quên được. Cuộc đời làm vợ lính thủy quân lục chiến, làm mẹ lần đầu. Và do những tình cờ em lại quen biết với gia đình anh chị suốt bao năm nay.”


Tháng Tư, ngày định mệnh
Mặc dù là bạn cùng khóa, nhưng tôi không hề biết về gia cảnh của trung tá Nguyễn. Hai tuần trước ngày 30 tháng 4-1975, tôi có dịp đi cùng người anh của Nguyễn lên chiến trường miền Ðông để thăm trung đoàn tại Bến Cát. Anh của Nguyễn là trung tá Tâm, cùng làm việc với chúng tôi tại Tổng Tham Mưu.Xem tình hình tại chỗ, thấy hoàn cảnh của Nguyễn, với trách nhiệm chỉ huy tại chiến trường, rõ ràng là việc di tản hoàn toàn không có điều kiện.Sáng 30 tháng 4-1975, chúng tôi đi bằng tàu quân vận tại Khánh Hội, theo sau đoàn tàu Hải quân. Gia đình anh Tâm chạy theo chúng tôi lại có cả cô em dâu và 1 đứa con 3 tuổi. Cô em dâu lại đang mang bầu, chính là Lan Hương của trung tá Nguyễn. Người con gái sông Hương của thủy quân lục chiến và đứa con trai là thằng bé ra đời trong thời gian mùa hè 72 tại Quảng trị.Mang bầu đứa con thứ hai, với thằng bé 3 tuổi, chạy theo anh chị, xuống tàu ra khơi. Lúc đó, thực sự tất cả chúng tôi cũng mơ hồ không biết đi đâu. Có thể về miền Tây, ra Phú quốc, ra Côn sơn theo Hải quân hay chờ tàu Mỹ vớt. Nhiều gia đình hy vọng thoát cơn hồng thủy, nhưng Lan Hương tan nát trong lòng. Biết thế này em ở lại Saigon chờ anh Nguyễn.Sau cùng, trải qua chuyến hải hành đầy nước mắt, mẹ con theo anh chị đến đảo Guam thì cô quyết định xin ghi danh theo con tàu Việt Nam Thương Tín để trở về. Tuy nhiên vì sắp đến ngày sanh, lại thấy những người xin về có những hoạt động đấu tranh quá dữ dội nên sau cùng cô ở lại. Khóc thì vẫn khóc.Qua đến miền đông nước Mỹ, Lan Hương sanh đứa con trai thứ nhì trong trại tỵ nạn Fort Chaffee đặt tên là thằng Việt.Họ Ðạo miền Trung Mỹ bảo trợ cho Lan Hương nuôi con. Hai đứa bé còn thật nhỏ. Những bà vú Hoa Kỳ tình nguyện thay phiên đến trong nhà trông con để mẹ đi học. Xứ Huế với dòng sông Hương, gia đình cha mẹ, các em vẫn xa tít mù khơi. Không có tin tức gì về anh Nguyễn. Nào biết còn sống hay chết. Ðã đi tù hay mất tích.Những buổi tối mùa đông của miền băng giá, cô vẫn lặn lội đi học. Xa cách những vùng có đông người Việt. Gia đình anh chị bên nhà Nguyễn cũng bận rộn về sinh kế. Những đứa con còn nhỏ dại. Cô sinh viên văn khoa của sông Hương lầm lũi trở thành bà mẹ trẻ học trò tỵ nạn trong kiếp sống cô đơn.

Lỡ bước sang ngang

Trong hoàn cảnh đó, trải qua gần 5 năm hấp thụ nền văn minh Mỹ quốc, Lan Hương gặp ông giáo sư dạy chương trình điện toán. Ông thầy Mỹ cũng đã ly dị vợ từ lâu đem lòng thương yêu cô gái Việt và xin cưới.Trung tá Tâm, anh của Nguyễn, điện thoại cho chúng tôi nói rằng 2 người đến nói chuyện để xin phép được lập gia đình. Tuy là vai anh chồng và là bác của những đứa con nhưng làm sao trả lời được.Ai mà có thể quyết định Yes hay No.Nếu không đồng ý thì cũng không ngăn cản được. Vả lại, nếu cô Hương ở vậy làm sao nuôi con thành người . Những đứa nhỏ sắp sửa vào trường. Rồi trung học, đại học. Tin nhà không có. Biết Nguyễn sống chết ra sao và sẽ chờ đến bao giờ.Hơn nữa cũng chẳng phải thuần túy vì sinh kế. Cô gái sông Hương ngày xưa đã có một thời nhiệt tình để yêu. Ðã có can đảm bỏ nhà đi theo sư đoàn thủy quân lục chiến.Ngày nay nàng đã tìm thấy hơi ấm tình yêu mới bên cạnh ông thầy đại học vào những lớp tối mùa đông. Cô ở vào tuổi 30 khi gặp anh chàng người Mỹ, cũng cao lớn đẹp trai vững vàng như trung tá Thủy quân lục chiến của mùa hè Quảng Trị ngày xưa.Ngày cưới đã ấn định. Tháng 7 năm 1980. Hai đứa con trai nhỏ vô tư vui vẻ làm quen với người cha Hoa Kỳ bao dung và tận tụy.Nhưng số mệnh vẫn còn nhiều cay đắng. Ba ngày trước khi làm đám cưới, Lan Hương nhận được thư nhà từ Huế gửi qua. Kèm theo là mẩu giấy nhỏ nhắn tin của Nguyễn, còn sống, vẫn ở tù, chẳng biết ở đâu. Không biết còn sống được bao lâu. Nhưng còn sống.Lan Hương nhớ lại, những ngày xa xưa của năm 80, gần 30 năm về trước là những giờ phút hết sức trăn trở. Vui mừng cho 2 đứa con vẫn còn bố. Nhưng bẽ bàng cho duyên phận. Sau cùng, đám cưới vẫn tiến hành qua những ngày đầy nước mắt.Rồi ngày tháng trôi qua, cuộc sống trên đất Mỹ với người chồng yêu thương, hết sức quân tử đã tạo thành 1 gia đình kiểu mẩu. Lan Hương có nhiều cơ hội giúp đỡ cha mẹ và các em. Gửi quà về tiếp tế cho Nguyễn trong trong trại tù từ Bắc vào Nam.Từ trong trại, anh Nguyễn mơ hồ biết là vợ con đã qua Mỹ nhưng không có nhiều tin tức. Sau hơn 13 năm “ lao động cải tạo “ người anh hùng TQLC một thời được trở lại Saigon.Biết tin vợ con hạnh phúc trong gia đình mới. Anh tìm lại người vợ cũ, làm hồ sơ HO đưa tất cả qua Hoa Kỳ. Ðịnh cư tại miền Trung Mỹ. Tuy giấy tờ là 1 gia đình nhưng Nguyễn vẫn sống độc thân như thời kỳ trước 75 . Gia đình mới của Lan Hương bây giờ đã dọn qua sống tại miền Tây.
 
Anh trở về, dang dở đời em...
Mùa xuân năm 1991, cô gái sông Hương giờ đây đã 40 tuổi, đem 2 con qua miền Ðông gặp bố lần đầu tiên. Trước khi đi, người chồng Mỹ cầm tay Hương mà nói rằng: “Em hãy đi và thử hỏi lòng mình 1 lần cho rõ ràng. Nếu đây là lần chúng ta chia tay, anh cũng đành chấp nhận. Chuyện của chúng ta sau 10 năm, đến đây là đoạn cuối. Nhưng nếu em trở lại, thì xin nói lời chia tay rõ ràng với Mr. Nguyễn. Ðối với anh, Nguyễn luôn luôn là 1 người anh hùng. Nếu cần thì anh cũng phải hy sinh. Cảm ơn em đã cho anh một gia đình trong 10 năm hạnh phúc.Tiếp đến cuộc gặp gỡ đầy đau thương của vợ chồng và bố con ông HO. Trời mùa đông Hoa Kỳ hình như có cả cơn gió Lào thổi về Quảng trị. Nguyễn cũng có tâm trạng ước mong đoàn tụ nhưng rồi chợt biết là đã ngàn trùng xa cách. Nàng đã có gia đình mới. Mẹ con thấm nhuần văn hóa Mỹ. Anh không thể và cũng không có khả năng phá vỡ được bức tường ngăn cách đã xây dựng từ 15 năm qua.Ðành để cho định mệnh đóng vai trò quyết định. Dự trù ra đi 1 tuần nhưng 4 ngày sau Lan Hương đã đem con trở về với ông bố Mỹ. Và 1 lần nữa người cha Hoa Kỳ sung sướng đón mẹ con Việt Nam trong vòng tay mở rộng. Gia đình Lan Hương sống tại San Francisco nên có cơ hội gần gia đình chúng tôi như cô em gái. Chúng tôi biết hết gia cảnh, và cô cũng vui lòng kể hết chuyện đời.
 
Cay đắng nở hoa...
Tháng 5 năm 2002, chúng tôi nhận được thiếp mời đi dự đám cưới cháu Việt tại Arizona. Bác sĩ Việt 27 tuổi lấy cô vợ Mỹ, bạn học thời sinh viên tại nơi tiểu bang đồng khô cỏ cháy nhưng mang đầy truyền thống hết sức Hoa Kỳ.Gia đình nhà vợ giàu có và bề thế. Bạn bè anh chị em nhà cô dâu Mỹ rất khích động ồn ào khi đón được chú rể bác sĩ Việt Nam đẹp trai độc đáo như tài tử Kong Fu Bruce Lee.Lễ cưới cử hành long trọng tại nhà thờ. Ông bố vợ đại diện gia đình nhà gái chào mừng nhà trai và quan khách. Nhà trai của bác sĩ Việt gồm cả 2 quốc gia Hoa Kỳ-Việt Nam từ bốn phương kéo về.Ông bố chồng Hoa Kỳ đứng lên giới thiệu ông bố chồng Việt Nam là trung tá Nguyễn của chúng ta. Vị giáo sư điện toán của đại học nói rằng đây là người anh hùng Thủy quân lục chiến Việt Nam, đã chiến đấu 20 năm cho miền Nam tự do từ Tết Offensive 68 cho đến Easter Offensive 72. Ðã trải qua hơn 13 năm làm tù binh trong trại tù cộng sản. Mr. Nguyễn là anh hùng của ngày xưa và là anh hùng của ngày hôm nay
Với tư cách là bạn bè và là khách của nhà trai, tôi có dịp lên tiếng nhắc lại những ngày Nguyễn chiến đấu tại Quảng Trị, những ngày anh ở lại Bến Cát cho đến khi Tư lệnh sư đoàn tự vẫn và ông bị bắt vào tù. Mrs. Nguyễn mang bầu đi cùng chúng tôi ra khơi, được tàu Mỹ vớt, sanh cháu Việt trong trại tỵ nạn. Ðặt tên Việt để nhớ mãi về quê hương. Và hôm nay... Không khí cảm động và hơi căng thẳng, nên chúng tôi tìm cách kết luận nhẹ nhàng,... và hôm nay, Dr.Việt bỏ người cha Marin Corp Việt Nam và cả người cha giáo sư đại học Hoa Kỳ để về ở rể với người cha vợ Arizona chỉ vì cậu bác sĩ của chúng tôi đi theo tiếng gọi của ái tình...Tiếp theo, MC là em gái của cô dâu giới thiệu bà mẹ Lan Hương đi lên chứng kiến lễ cưới của con trai. Ông chồng cũ Việt Nam đi 1 bên, ông chồng hiện tại Hoa Kỳ đi 1 bên. Cô gái sông Hương khoác tay cả 2 chàng đi lên bàn thờ. Quan khách vỗ tay tán thưởng còn nhiều hơn là dành cho cô dâu chú rể.Trong đời chúng tôi, chưa từng dự 1 đám cưới nào như vậy. Chú rể mới chụp hình kỷ niệm với 3 ông bố. Bức hình là một di tích lịch sử của gia đình.

Họp khóa mùa Xuân
Tháng 3 năm 2004, kỷ niệm 50 năm của 1 khóa quân trường. Anh em chúng tôi vào trường Ðà lạt tháng 3 năm 1954. 50 năm sau anh em gặp lại tại Orange County, điểm danh xem ai còn ai mất.Cô Lan Hương đến dự đi cùng gia đình chúng tôi. Anh Nguyễn độc thân từ miền Ðông về gặp anh em. Ði cùng gia đình trung tá Tâm, chúng tôi đều là những ông già 70 tuổi.Riêng cô gái sông Hương vẫn còn trẻ như ngày xưa. Anh em họp mặt hết sức cảm động. Giới thiệu từng trung đội của năm 1954 xa xôi. Thời gian đó chúng tôi xa Hà Nội năm lên 18 chưa từng biết yêu. Ðến năm 1975 thì bao nhiêu mộng đẹp bay ra thành khói tan theo mây chiều.Từ Vũ thế Quang, Nguyễn hữu Luyện và anh Nguyễn của đại đội 5, cho đến các bạn của đại đội 6 như Lại Thọ, Trần quốc Lịch, Lê xuân Ðịnh.Tiết mục sau cùng là người đẹp trao vòng hoa chiến thắng một đời cho các chiến sĩ cao niên. Chị Thiều, nữ sinh Sài Gòn trao vòng hoa cho nhẩy dù Ngô quang Thiều như chuyện tình năm xưa của thời chiến dịch Hoàng Diệu. Lan Hương của xứ Huế trao hoa cho anh Nguyễn, thủy quân lục chiến.Bây giờ anh Thiều và một số bạn khác đã ra đi, nhưng Nguyễn và Lan Hương vẫn còn đây. Vẫn là cha mẹ của những đứa con, là ông bà của các cháu, nhưng chàng trai Hà Nội và cô gái xứ Huế chỉ còn biết nhau trong tình bạn.Vì đây là chuyện thật nên vào tháng 10 năm nay 2009, nếu các bạn tò mò muốn biết mặt những nhân vật từ trong tiểu thuyết bước ra cuộc đời, thì xin đến San Jose. Khóa chúng tôi họp mặt lần cuối, kỷ niệm 55 năm kể từ khi ra trường tháng 10 năm 1954.Sau này, có lẽ lực bất tòng tâm. Năm 2014 kỷ niệm 60 năm nhập ngũ, anh em chúng tôi sẽ tổ chức tại gia. Nhà ai nấy làm. Chỉ có thể mời cô Lan Hương đến dự. Vì cô gái sông Hương mãi mãi tuổi 20.








mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 27/Dec/2014 lúc 11:05pm

Thp li bình nhang 
Tuesday, December 23, 2014 6:35:44 PM 

 

Ngô Nhân Dụng

 

Chúng ta đang nhận được nhiều lời chúc bình an, hạnh phúc vào dịp Lễ Giáng Sinh. Dù người bên lương hay bên giáo, ai cũng có thể chia sẻ những giờ phút bình an khi nghe câu hát “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời” đang vang vang chung quanh mình nhắc nhở sự tích Chúa xuống làm người. 

Chúng tôi muốn gửi đến quý vị độc giả những lời chúc lành bằng một câu chuyện, hy vọng sẽ chia sẻ một niềm vui trong mùa của hy vọng. Chuyện này lấy từ tiểu thuyết Ác Mộng của Ngô Ngọc Bội, xuất bản trước đây chừng một phần tư thế kỷ.

Một nhân vật của Ngô Ngọc Bội trong tiểu thuyết Ác Mộng là Lê Đôn. Ông thầy giáo yêu nước đã tham gia kháng chiến chống Pháp, đã lập công, nhưng đến thời “cải cách ruộng đất” thì bị truy là địa chủ. Vợ ông phải đấu tố chồng. Học trò ông đứng ra tố cáo thầy. Hai đứa con 11 tuổi và 16 tuổi bỏ trốn lên miền núi, sống nhờ người Mán. 

Nhà thầy giáo Lê Đôn đã bị đám cốt cán chiếm, họ chia nhau các món đồ đạc, hành động được các cố vấn Trung Quốc dạy là “chia quả thực.” Họ gỡ cả cánh cửa, cả bàn thờ đem bán. Có cái “bát nhang” cổ là của gia bảo, được tổ tiên truyền lại từ năm sáu trăm năm, các bần cố nông cũng đem đổi lấy gạo chia nhau. Mấy năm sau, Đảng Cộng Sản “sửa sai,” ông Lê Đôn được “đổi nhãn hiệu;” từ “địa chủ cường hào ác bá” đổi thành “địa chủ kháng chiến.” Khi nhà được trả lại, tất cả đã tan hoang. Con rể ông, từng là một cán bộ cải cách ruộng đất, đi lên miền núi tìm em vợ. Hai cậu con trai không nhận gia đình nữa, bỏ hết cả họ hàng, nhất định không về. “Bố mẹ chết rồi. Anh em ly tán. Máu mủ họ hàng chẳng biết thương nhau... Cái đất nước này chỉ cần ba lần làm, ba lần sửa sai như thế thôi, nó sẽ trở thành một vùng hoang mạc.”

Trong chương cuối cuốn Ác Mộng, gia đình thầy giáo Lê Đôn đã xin được phép cải táng mộ. Hai xương cánh tay của ông bị trói bằng dây dù gỡ mãi không ra. Anh con rể ghé răng cắn, dây không đứt. “Khốn nạn quá, chả nhẽ lại không tháo dây trói cho thầy!” Ngô Ngọc Bội kể, “Đã có nơi người ta lấy đoạn dây thép [trói địa chủ trước khi hạ sát] đem về thờ; [chính quyền] địa phương phải cho người lẩn vào nhà ăn cắp để thủ tiêu... Có anh cán bộ đã nhặt ba cái đầu đạn [bắn chết cha mẹ mình] cất đi. Chi bộ phải dỗ mãi anh mới đem ra trả, rồi mang vứt xuống sông.”

Sau lễ cải táng thầy giáo Lê Đôn, buổi chiều gia đình đang ngồi ăn cơm thì có một ông khách lạ lớn tuổi không biết từ đâu tới thản nhiên bước vào nhà. Ông mở cái túi sách, lấy ra một bát nhang, đặt lên bàn thờ.

“Tôi người xã bên, quen thân với ông Lê Đôn từ nhỏ. Có người bên làng ta đem bán cho tôi cái bát hương này. Chẳng đáng bao nhiêu đâu, chỉ hai đấu gạo thôi. Tôi là người Công Giáo, bên chúng tôi không thờ bát hương. Nhưng biết gia đình ông Lê Đôn, [biết cái bát hương này là] của gia bảo, nên tôi đã trả hai đấu gạo [mua] và giữ lại. Hôm nay gia đình làm việc ‘thay nhà’ cho ông Lê Đôn,” ông nghẹn ngào bật khóc. “Tôi trả lại cho gia đình để thờ phụng tổ tiên, ‘uống nước nhớ nguồn!’ Thứ này nếu tôi tham lam đem bán cũng có thể kiếm cho cháu chiếc xe đạp sang. Nhưng tôi là người ‘có đạo’ không bao giờ làm thế... Ở vùng ta những người như ông Lê Đôn rất hiếm hoi... Tôi xin phép cắm một tuần nhang... tưởng niệm ông...”

Nhưng giữa cơn ác mộng mênh mang, oán mờ trời đất, Ngô Ngọc Bội đã kết thúc với một niềm hy vọng. Chúng ta biết người Việt là một dân tộc “có đạo,” dù theo đạo Phật, đạo Chúa hay đạo Khổng, đạo Lão. Đảng Cộng Sản đã tàn phá, hủy hoại những nền móng đạo lý, nhưng không giết được tính thiện trong con người. Không giết được trí nhớ tập thể của dân tộc, trong đó người ta đều biết ăn ở với nhau có nghĩa, có tình. Nền đạo lý cổ truyền như những đóm lửa vẫn cháy leo lét suốt những đêm dài, chỉ chờ ngày cùng bùng lên soi sáng tương lai. Mọi người sẽ thắp lại bình nhang trên bàn thờ, xin nhận lỗi với tổ tiên, xin hứa chính mình sẽ giữ gìn đạo lý cho con cháu bắt chước, theo nền nếp cha ông. Cái đất nước này sẽ không trở thành một vùng hoang mạc. Ngày hồi sinh sắp tới. Trong mùa Lễ Giáng Sinh năm nay chúng ta hãy cùng thắp lại bình nhang trong lòng mình, chia sẻ với nhau niềm tin tưởng ngày phục sinh sắp tới./.

 


mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 29/Dec/2014 lúc 11:13pm

Tưởng Rằng Đã Yên

Tác Giả: Hồng Hoang


Mọi chuyện rồi cũng êm xuôi. Và sẽ chìm vào quên lãng như định luật thời gian. Huấn nghĩ như vậy trong lúc một mình ngồi trên phiến đá nhìn dòng sông hiền hòa, phẳng lặng. Huấn nhìn mãi vào nơi chiếc xe mình đã lao xuống cách đây sáu tháng... Nơi đó, linh hồn Trinh, người vợ thông minh, xinh đẹp của Huấn, đã rời khỏi thân xác.
    Huấn bây giờ là người góa vợ, cô đơn đi, về lặng lẽ như một chiếc bóng. Nhiều lúc Huấn tự hỏi: mình còn làm được gì, khi hạnh phúc đã chợt đến rồi chợt đi? Ân hận không? Hối tiếc không? Còn nữa, Huấn không biết mình có nên vui mừng hay không, khi những cuộc điều tra, thẩm vấn của cảnh sát đã thật sự chấm dứt. Bởi vì trước sau gì Huấn cũng giữ đúng một lời khai:
    - Đêm đó, hai vợ chồng đưa nhau đi ăn ở nhà hàng Salmon House bên hướng Tây Bắc của thành phố. Trên đường lái xe về nhà, lúc đi ngang qua cây cầu, không hiểu vì lý do gì, Huấn bất ngờ bị chóng mặt, choáng váng nên lạc tay lái. Chiếc xe đâm vào thành cầu trước khi lao thẳng xuống sông. Khi đội cấp cứu đến thì đã muộn: Trinh bị chết ngộp trong xe với một vết thương nhẹ trên đầu. Huấn trồi được lên khỏi mặt nước nên thoát chết.
    Điều tra viên tình nghi Huấn hoặc cố ý giết vợ, hoặc đã uống quá say. Nhân viên nhà hàng xác nhận, họ đã thấy hai vợ chồng vừa ăn vừa trò chuyện một cách vui vẻ, hạnh phúc và chàng chỉ uống một ly rượu khai vị thôi. Kết quả nồng độ rượu đo trong người Huấn cũng chứng minh như thế. Tuy nhiên, họ đã tìm tòi, lục soát tất cả những nơi và những gì họ cho là cần thiết. Họ thẩm vấn tới, họ điều tra lui, họ tìm gặp Huấn nhiều đến độ Huấn tưởng chừng như một mụt mụn nhỏ trên khuôn mặt mình họ cũng sẽ tìm thấy! Cuối cùng, họ phải đi đến chỗ kết thúc. Trinh chết là do tai nạn vì họ chẳng tìm ra được dấu vết gì khả nghi để buộc tội. Họ đã thật sự buông tha cho Huấn trở về với công việc hằng ngày của chàng.
    ****
    Tối nay, Huấn đang theo dõi trận đánh dã cầu trên TV thì điện thoại reo.
    - Hello!
    - Hello. Xin lỗi, anh là Huấn phải không?
    - Phải, Huấn đây. Xin lỗi, ai gọi thế?
    - Tôi là Hạnh.
    - Hạnh...? Xin vui lòng nói rõ hơn, tôi quên mất cô là ai rồi.
    Tiếng cười khúc khích:
    - Anh Huấn đâu có quên Hạnh... vì Hạnh là một người xa lạ, chưa từng tiếp xúc, chưa từng gặp gỡ, làm sao anh Huấn nhớ cho được?.
    - Thế hở?. Vậy Hạnh là ai?. Tại sao gọi cho tôi?.
    - Khoan đã, trước khi trả lời anh Huấn, Hạnh xin được quyền.. ưu tiên.
    - Ưu tiên gì?.
    - Ưu tiên được hỏi trước: Anh Huấn đã lập gia đình chưa?.
    - Tại sao cô hỏi tôi câu đó?.
    - Tại vì... nó khá quan trọng để Hạnh quyết định sẽ tiếp tục nói chuyện với anh Huấn hay sẽ buông điện thoại xuống ngay bây giờ. Mong anh Huấn thành thật, đừng lo ngại, Hạnh không có ý đùa giỡn gì đâu.
    Khá lâu Huấn chưa có dịp nói chuyện với một người con gái nào nên cũng cảm thấy hay hay:
    - Được rồi, tôi lập gia đình cách đây ba năm... nhưng vợ tôi đã qua đời trong một tai nạn.
    - Anh Huấn có buồn lắm không?.
    - Dĩ nhiên rồi. Câu hỏi hơi lạ đó.
    - Thế bây giờ anh Huấn đã có bạn gái nào chưa?.
    Huấn cuời:
    - Cô Hạnh tham lam quá, chỉ xin hỏi một câu, giờ đến câu thứ hai, thứ ba. Tôi sẽ không trả lời thêm, nếu cô không cho tôi biết rõ cô là ai.
    - Xin lỗi anh Huấn nghen. Hạnh là người mới đến thành phố này được tháng. Không thân nhân, không bạn bè cũng chưa có việc làm. Ngày nào cũng một mình lái xe chạy lòng vòng, buồn quá. Rồi anh Huấn biết sao không? Hạnh chợt nghĩ ra một cách là tìm trong điện thoại niên giám tên người Việt để... làm quen. Anh Huấn thấy Hạnh tài chưa? Hạnh đã nhắm mắt chọn ra năm tên: Phúc, Lộc, Nam, Kinh và Huấn. Lần đầu tiên Hạnh gọi người tên Lộc, đó là một anh chàng đã có gia đình. Lần thứ nhì Hạnh gọi người tên Kinh, ông này đã gần bảy mươi tuổi. Vẫn chưa nãn chí, Hạnh gọi thử lần thứ ba với người tên Huấn. Bây giờ Hạnh đang nghĩ là Hạnh sẽ không cần phải gọi đến lần thứ tư nữa, phải vậy không anh Huấn? Trừ trường hợp anh Huấn nói rằng anh Huấn không thích làm quen với Hạnh.
    - Cô Hạnh chắc thích phiêu lưu lắm?.
    - Không biết có phải vậy không, nhưng khi mình muốn đạt được một việc gì, nếu không nghĩ ra cách này hoặc cách khác để thực hành thì làm sao đạt được?. Từ trước, người ta vẫn quen nhau qua mục Kết Bạn Thư Tín, bây giờ, quen nhau qua cuốn điện thoại niên giám, một phát minh mới, phải không?.
    - Tình trạng gia đình tôi, cô đã biết rồi, vậy cô nghĩ sao?.
    - Hạnh đang chờ nghe cảm nghĩ của anh Huấn. Hạnh có phải là một người con gái quá táo bạo không?.
    - Không đâu, người khác còn làm những chuyện khủng khiếp hơn nhiều. Tôi cảm thấy vui vui bởi vì từ ngày vợ tôi chết, tôi chưa có bạn gái. Một mình đi ra đi vào, căn nhà bỗng trở nên rộng lớn và trống vắng hơn. Có lần bạn tôi ngõ ý giới thiệu cho tôi một cô, nhưng tôi chưa cảm thấy thoải mái nên đã từ chối. Hôm nay, cô Hạnh đến với tôi bằng một phương cách nghe ra cũng hay hay, tại sao tôi không chấp nhận nhỉ?.
    - Vậy cả hai chúng ta đều đồng ý đấy nhé?.
    - Bỏ phiếu thuận! Nghe giọng nói, tôi đoán chắc Hạnh còn trẻ lắm, có thể chưa tới ba mươi. Hạnh biết tôi bao nhiêu tuổi không?.
    - A.... chắc anh Huấn cũng chưa đến nỗi là ông già bảy mươi?.
    - Chưa đâu, chỉ mới sáu mươi chín thôi.
    Huấn thích thú cười thật lớn. Hạnh cười theo:
    - Anh Huấn đoán Hạnh còn trẻ thì đúng rồi, nhưng anh Huấn có biết dung nhan Hạnh xấu xí đến cỡ nào không?.
    - Tôi nghĩ, nếu Hạnh có xấu chắc cũng chưa đến nỗi được xếp hạng nhất trong danh sách những người thiếu nhan sắc.
    - Anh Huấn nói đúng đó, nhưng hình như Hạnh cũng đứng vào hạng nhì, vì mụ phù thủy đã chiếm mất hạng nhất rồi.
    Cả hai cùng cười giòn giã.
    ***
    Huấn bây giờ không còn là Huấn của ngày nào vợ mới chết. Từ một giai đoạn bất an chuyển qua một giai đoạn bình thản và rồi Huấn được sống lại trong cảm giác của một người đàn ông đang yêu đời, yêu người và yêu tất cả mọi vật chung quanh mình. Sau lần thứ nhì nói chuyện qua điện thoại, Huấn và Hạnh hẹn gặp nhau. Lúc đầu Huấn chỉ tưởng tượng ra một nhan sắc khiêm nhường ở người con gái này, nếu không như vậy cô ta đâu còn độc thân đến giờ.
    Buổi đầu tiên diện kiến, Huấn đã bàng hoàng, sững sốt kêu lên:
    - Hạnh đẹp quá!
    Đúng vậy, Hạnh là cô gái mang hai dòng máu Mỹ-Việt. Hạnh là một kết hợp của hai nét đẹp Á Đông và Tây Phương. Nếu muốn tìm một khuyết điểm nào đó trên khuôn mặt hay vóc dáng Hạnh sẽ không phải là chuyện dễ. Ngay phút giây đầu tiên đó, Huấn đã cảm thấy hồn mình như chết đuối trên dòng suối tóc nâu đậm, óng mượt chảy hững hờ từ bờ vai xuống tới nửa lưng. Chỉ một chút trang điểm tự nhiên thôi, Hạnh đã nhìn như một bức tranh truyền thần mờ ảo trước mắt Huấn.
    Ngày trước, Huấn vẫn cho rằng chỉ có Trinh, vợ mình mới là người con gái đẹp và duyên dáng như một nữ hoàng, nhưng bây giờ, nếu đem so sánh với Hạnh thì Trinh là người bị mất vương miện. Hạnh đã đến với Huấn như một cơn phong ba, bão táp cuốn hút đời chàng vào những mơ mộng cho tương lai. Một kỹ sư điện toán trong một công ty lớn nhất nhì trên thị trường, vừa mất người vợ xinh đẹp lại ôm ngay vào được một người con gái khác còn xinh đẹp hơn nữa, không trách sao Huấn đang ngất ngây với ý nghĩ: đúng là đời đẹp như mơ!
    Hạnh nhí nhảnh nhưng dễ thương; thông minh nhưng tế nhị. Hạnh không kiêu căng, tự phụ về sắc đẹp của mình. Huấn đưa Hạnh thăm viếng khắp nơi trong thành phố, rồi đến những vùng thôn quê. Hạnh luôn nói những lời thán phục hoặc biết ơn đối với Huấn, chẳng hạn như:
    - Em thật không ngờ mình lại có được những ngày tươi đẹp như hôm nay. Vừa được rong chơi ở những nơi sang trọng, vừa được một người đàn ông lịch sự, học thức bên cạnh, lúc nào cũng sẵn sàng chìu chuộng, em còn tìm ai hơn anh Huấn nữa đây?.
    Huấn đáp lại:
    - Anh mới là người may mắn đó chứ, có được một người đẹp lại dễ thương như Hạnh để đưa đi chơi chắc đâu còn diễm phúc nào hơn?.
    Trong suốt ba tháng quen nhau, chưa lúc nào Hạnh để nụ cười biến mất trên môi. Cho đến một hôm, Huấn tỏ thật lòng mình về một tình yêu mãnh liệt phát xuất tự trái tim, tự nhiên nụ cười đang tươi mát của Hạnh bỗng héo úa đi. Nàng lắc đầu, buồn bã xoay nơi khác. Huấn năn nỉ mãi, nàng cũng không nói gì hơn ngoài ánh mắt đầy suy tư, xa vắng. Sau buổi đó, Hạnh lánh mặt Huấn không một lời từ giã. Căn phòng trong chung cư của Hạnh đã trả lại. Một tuần qua rồi hai, ba tuần qua, Hạnh vẫn bặt tin. Huấn đau khổ như điên cuồng. Huấn lang thang ngoài phố để nhìn người qua lại mong gặp khuôn mặt quen thuộc của nàng. Huấn lái xe khắp các nẻo đường hy vọng sẽ bắt gặp Hạnh một nơi nào đó, nhưng mọi cách đều thất bại.
    Sau một tháng trời tìm kiếm, Huấn hoàn toàn thất vọng. Đêm nay, Huấn mệt mõi trở về nhà sau mấy tiếng đồng hồ lái xe lang thang. Chưa kịp thay quần áo thì chuông cửa reo vang mấy lần liên tiếp như thể gấp rút lắm. Huấn mừng rỡ đến sững sờ khi khuôn mặt hiện ra nơi khung cửa chính là Hạnh. Nàng đi vội vào trong rồi ôm chặt lấy Huấn trong lúc đôi dòng lệ tuôn tràn trên má. Huấn để yên cho Hạnh khóc trên vai mình, đến khi những thổn thức lắng dần, Huấn hỏi nhỏ:
    - Tại sao em khóc?. Tại sao em tránh gặp mặt anh?.
    Hạnh nghẹn ngào:
    - Không phải em... tránh gặp anh, em chỉ... chạy trốn một người khác.
    - Ai vậy?.
    - Chồng em.
    - Em có chồng?.
    - Phải, nhưng anh ấy là một người vũ phu và tàn nhẫn. Em xin lỗi đã giấu anh.
    Huấn ngồi yên lặng nghe hơi thở mình nặng nề hơn. Sự thật quá phũ phàng không ngờ nổi. Giọng Hạnh kể lễ:
    - Trước khi lập gia đình với nhau, anh ấy là một người đàn ông hết sức hòa nhã, nhưng em đã lầm. Anh ấy không thể nào hòa nhã sau những cơn say. Anh ấy bắt đầu kiếm chuyện cả với những người bạn nào chỉ vô tình nhìn em hoặc nói với em một câu rất thông thường, chẳng hạn như "Hạnh có khỏe không?" "Khỏe hay không cũng là vợ tao, mày hỏi làm gì?". Mãi rồi những chuyện xảy ra đó khiến em xấu hổ. Em ngăn cản không cho anh ấy uống rượu nữa thì anh ấy bỏ nhà đi mất tiêu ba bốn ngày liền. Em đòi ra toà ly dị, anh ấy hăm dọa sẽ giết em. Em sợ quá nên bỏ nhà trốn đi. Nơi này em đã gặp anh và chúng ta đã có được những kỷ niệm không bao giờ quên. Nhưng bây giờ, em phải bỏ trốn đi nơi khác nữa, vì chồng em vừa tìm ra em ở đây. Anh ấy hăm dọa thêm rằng nếu bắt gặp người đàn ông nào đi với em, anh ấy sẽ giết chết cả hai rồi tự sát hoặc đi tù.
    Hạnh ôm Huấn chặt hơn:
    - Anh Huấn ơi, em không thể nào ở lại đây, em không muốn anh bị mang họa vì em. Cuộc đời em đã sóng gió quen rồi, thà em bỏ đi chứ không thể nào trở lại với con người tàn nhẫn đó.
    Hạnh lại khóc nức nở hơn. Huấn không biết làm gì hơn là vuốt mãi suối tóc mềm mại của nàng. Thời gian vẫn trôi. Hạnh ngưng khóc, nhưng nàng cứ ngồi thẫn thờ. Huấn chợt nhớ ra:
    - Em đã ăn gì chưa?. Em đói bụng không, để anh đi mua gì về cho em ăn nghen?.
    - Thôi anh ạ, đừng đi ra ngoài bây giờ, em chưa ăn gì, nhưng không cảm thấy đói. Anh có sữa tươi cho em một ly là được rồi.
    Huấn đi lấy ly sữa đến, nàng uống một hơi hết phân nữa rồi dợm đứng lên. Huấn vội hỏi:
    - Em định đi đâu vậy?.
    - Về khách sạn.
    -Thôi... em hãy ở lại đây với anh.
    - Không nên đâu anh. Nguy hiểm cho anh lắm.
    - Anh không sợ, chỉ sợ nguy hiểm cho em. Biết đâu chồng em đang rình rập đâu đó ngoài đường. Anh không thể để em đi như vậy.
    - Anh không sợ chồng em sẽ giết luôn cả anh với em sao?.
    - Không, vì anh yêu em. Nếu em cũng yêu anh thì...
    Huấn ngập ngừng không dám nói thêm.
    - Thì sao hả anh?. Anh sẽ bằng lòng chết chung với em phải không?.
    - Cũng có thể lắm chứ!.
    Hạnh mừng rỡ ôm chầm lấy Huấn và cả hai hôn nhau đắm đuối. Lâu lắm họ vẫn chưa rời nhau ra. Rồi Huấn dang tay nhấc bổng người Hạnh lên để đi thẳng vào phòng ngủ. Chàng đặt nàng nằm xuống chiếc giường nệm êm ái, cả hai tiếp tục ôm xiết lấy nhau.
    Một lúc sau, Huấn ngồi nhổm dậy, vói tay qua chiếc bàn nhỏ ở cạnh đầu giường để lấy điếu thuốc đốt hút. Hạnh vẫn nằm im với chiếc mền kéo ngang nửa ngực. Huấn phà khói thuốc vào không khí rồi xoay lại nhìn nửa vùng ngực đang phô bày, cảm thấy vẫn còn thèm úp mặt lên đó. Đầu óc Huấn làm việc thật nhanh, quyết định cũng thật nhanh:
    - Em tưởng rằng anh sẽ bằng lòng chết chung với em dưới bàn tay của chồng em à?. Anh đâu có dại dột như vậy.
    Hạnh mở to mắt:
    - Nghĩa là sao?. Anh nói nếu em cũng yêu anh... Em bây giờ đâu còn ai thân thích ngoài anh ra, nếu không yêu anh thì yêu ai?. Hơn nữa, nếu không yêu anh, em đâu dễ gì nằm với anh như vầy. Vậy thôi, để em ra đi.
    Huấn vội vàng ôm lấy đầu Hạnh:
    - Đừng hiểu lầm anh, cưng. Ý anh muốn nói là cả hai chúng ta không nên dại dột để hắn ra tay trước. Mình phải hành động trước khi hắn hành động.
    - Em chưa hiểu.
    - Hắn có thể giết mình được thì mình cũng có thể giết hắn được vậy.
    Hạnh chớp chớp mắt nhìn Huấn:
    - Ừ nhỉ?. nhưng... mình sẽ đi tù chung thân?.
    Huấn cười nhẹ:
    - Mình phải khôn chứ em. Mình đâu có công khai giết đâu mà đi tù?.
    - Mướn người à?.
    - Mướn người cũng thua. Anh muốn nói là mình phải xếp đặt chương trình hành động. Em nghe anh hỏi đây, em có dám ra tay không?. Chỉ có một mình em mới làm được chuyện này, nếu em bằng lòng anh mới nói ra.
    - Để em suy nghĩ.
    Hạnh nằm im trong giây lát rồi chồm người lên lấy chiếc ví tay của nàng trên đầu giường mở ra. Hạnh soi lại mặt mình trong chiếc gương nhỏ và chải lại những sợi tóc lòa xòa trước trán bằng chiếc lược nhỏ màu đen. Huấn yên lặng nhìn và chờ đợi. Sau khi để mọi thứ vào chỗ cũ, Hạnh nói:
    - Được rồi, em sẽ làm. Nếu em không giết hắn thì hắn sẽ giết em. Em giết người để tự tồn và được tự do chung sống với anh. Anh nói đi.
    Huấn nghiêm nét mặt:
    - Này nhé, em hãy giả vờ như thể em bằng lòng trở về với hắn. Rồi em sắp đặt một ngày cho hai người đi ăn tối ở một nhà hàng nào đó bên hướng Tây Bắc. Em cố ép cho hắn uống rượu càng nhiều càng tốt, nhưng em đừng uống vì em sẽ là người lái xe về. Rồi khi xe chạy ngang qua cây cầu, em giả vờ như bị lạc tay lái, để chiếc xe bay qua thành cầu, bay thẳng xuống sông. Trước đó, em phải nhớ chuẩn bị hai điều: thứ nhất là khóa cánh cửa bên hắn; thứ hai là nhanh tay mở cánh cửa bên em khi chiếc xe vừa bay xuống nước. Như vậy em sẽ có thể thoát ra ngoài dễ dàng và nước sẽ tràn vào xe nhanh hơn. Hắn đã say ngất ngư thì không thể nào phản ứng kịp thời. Chỉ cần năm phút kẹt trong xe, linh hồn hắn sẽ vĩnh viễn rời khỏi xác. Còn em sẽ trồi lên mặt nước chờ đội cứu cấp tới.
    Hạnh chăm chú nghe, nhưng chưa nói gì. Huấn bồi thêm:
    - Cách này vừa dễ, vừa an toàn, em không phải trực tiếp cầm một thứ vũ khí nào để giết người. Không có bằng chứng nào để kết tội em, tất cả chỉ là do tai nạn.
    - Anh nói đúng, cách này dễ quá, nhưng sao anh biết chắc là cảnh sát sẽ để yên cho em mà không điều tra?.
    - Họ sẽ điều tra chứ em, nhưng em cứ bình tĩnh giữ đúng một lời khai như sau: đêm đó chồng em uống rượu quá nhiều nên em phải lái xe về. Khi xe chạy ngang trên cầu, chồng em đã bất ngờ giành giựt tay lái nên chiếc xe mất thăng bằng, lao xuống sông. Chồng em không thoát ra được nên chết ngộp trong nước, thế thôi. Đâu có ai làm nhân chứng.
    Hạnh vuốt lưng Huấn:
    - Có chứ anh.
    - Ai?.
    - Anh đây nè! Nhưng thôi, em chỉ nói chơi thôi. Anh có chắc là em sẽ không bị đi tù?.
    - Em sẽ hoàn toàn vô tội, anh bảo đảm.
    - Nhưng anh ơi, cảnh sát có trăm phương ngàn kế để tìm ra sự thật.
    - Đâu phải vụ giết người nào họ cũng tìm ra hết đâu. Em còn nhớ anh đã nói rằng vợ anh chết do một tai nạn không?. Tai nạn hắn sắp chết cũng giống như tai nạn vợ anh đã chết vậy.
    Hạnh mở mắt thật to:
    - Nghĩa là anh đã giết vợ bằng cách đó và cảnh sát đã không kết tội được anh?.
    - Đúng vậy.
    - Tại sao anh giết chị ấy?.
    - Trinh đã ngoại tình trong lúc anh vẫn yêu nàng hết lòng.
    - Anh tàn nhẫn quá...
    - Trinh đã tàn nhẫn với anh trước. Trinh đã giới thiệu với anh rằng gã đó là anh họ của Trinh và hắn vẫn thường ghé nhà chơi, kể cả những lúc không có anh ở nhà. Sau đó, anh khám phá ra, hắn chính là gã nhân tình cũ của nàng. Như vậy, mỗi lần hắn đến không có anh ở nhà thì hắn và Trinh đã làm gì?. Anh phải có thừa thông minh để hiểu rằng họ đã làm chuyện tồi bại chứ.
    - Sao anh không chọn giải pháp ly dị?.
    - Ly dị thì anh cũng là người thua cuộc, Trinh sẽ thuộc về hắn và hắn sẽ hưởng phân nửa tài sản mà anh phải chia cho Trinh.
    - Anh có bắt quả tang lần nào chưa?
    - Dĩ nhiên họ cũng phải thông minh để không bị bắt quả tang chứ em.
    - Anh đã kết tội tử hình một người mà không có bằng chứng.
    - Thôi em ơi, đừng nói chuyện đó nữa, hãy nói chuyện mình đi. Em có đồng ý giết hắn bằng cách đó không?.
    - Đồng ý. Bây giờ em cần ngủ để mai còn tỉnh táo hành động. Anh cũng phải đi làm nữa. Ngủ đi anh.
    - Mình ngủ.
    ***
    Huấn đang ngồi trong văn phòng. Đột nhiên cánh cửa bị xô mạnh. Hai người đàn ông ập vào thật nhanh:
    - Ông Nguyễn Minh Huấn, chúng tôi được lịnh bắt giữ ông vì tình nghi giết nguời.
    Trong lúc mắt Huấn mở lớn, chiếc còng sắt lạnh lùng tra vào cổ tay Huấn kéo về phía sau lưng.
    - Tôi không hiểu gì hết?.
    - Ông có quyền giữ im lặng. Những gì ông nói, có thể được dùng để kết tội ông trước tòa án.
    ***
    Trong phòng điều tra, Huấn được nghe lại một đoạn băng ghi âm, bắt đầu là tiếng nói của Hạnh:
    “- Được rồi, em sẽ làm. Nếu em không giết hắn thì hắn sẽ giết em.” “Em giết người để tự tồn và được tự do chung sống với anh. Anh nói đi.”
    “-Này nhé, em hãy giả vờ như thể em bằng lòng trở về với hắn…”
    Cả người Huấn bắt đầu toát mồ hôi. Sắc mặt Huấn từ từ đỏ rần lên trong lúc tiếng nói của Huấn và Hạnh vẫn tiếp tục phát ra từ cuộn băng cho tới đoạn cuối cùng không sót một chữ nào của cuộc đối thoại đêm đó.
    “- Đồng ý. Bây giờ em cần ngủ để mai còn tỉnh táo hành động. Anh cũng phải đi làm nữa. Ngủ đi anh.”
    "- Mình ngủ."
    Cuộn băng chấm dứt bằng một tiếng động khô khan, sắt lạnh. Huấn bàng hoàng cất tiếng:
    - Thì ra... các ông đã... đặt máy ghi âm... trong phòng tôi?.
    - Không. Hồ sơ của anh, chúng tôi đã xếp lại. Chúng tôi đã tin rằng anh là kẻ vô tội, nhưng một người khác đã căn cứ vào lá thư này mà nhất định rằng vợ ông chết không phải do tai nạn. Người đó đã bằng lòng bỏ tiền ra mướn thám tử tư tiếp tục cuộc điều tra. Ông có muốn đọc lá thư không?.
    - Có.
    Huấn bắt đầu lướt mắt qua những dòng chữ rất quen thuộc của Trinh.
    " Em van anh đừng đến gặp em nữa. Anh nên cố gắng quên em. Em đã có chồng tức là em đã chọn cho mình một hướng đi rõ ràng. Tại sao anh không chịu hiểu như vậy?. Ly nước đã đỗ xuống đất, anh không thể nào hốt lại được. Huấn là một người chồng rất tốt, xứng đáng để cho em kính trọng. Em vô cùng hối hận vì đã giới thiệu anh là anh họ em, nhưng ngoài cách đó ra, em đâu thể nào nói anh là người tình cũ?. Em đâu ngờ là anh dám ngang nhiên đến gõ cửa tìm em trong lúc Huấn đang ở nhà. Tưởng đâu chỉ lần đó thôi, ai ngờ anh cứ tiếp tục đến, nhưng mà gặp nhau để làm gì nữa?. Anh vịn vào lý do là anh họ thì có quyền đến thăm, sai bét rồi anh ơi! Lương tâm em đang cắn rứt vì đã nói láo chồng em.
    Gần đây, Huấn có thái độ khó hiểu lắm. Huấn không nói gì hết, nhưng em đoán là Huấn đã tìm ra việc em gian dối, lỡ rồi, em không biết phải làm gì. Đôi lúc, em có thể nhìn thấy trong mắt Huấn tia sáng của một kẻ sắp làm một việc gì đó khủng khiếp lắm, như giết người chẳng hạn. Huấn sẽ giết ai, anh hay em?. Từ giác quan thứ sáu, em linh cảm một điều nguy hiểm sẽ xãy ra cho em, không sớm thì muộn.
    Anh hãy bỏ thành phố này, đừng bao giờ trở lại gặp em. Em van anh, trăm ngàn lần, hãy tìm quên ở một người con gái khác. Tình đã xa, anh đừng mong gì ở em nữa, coi như đây là lời cuối cho nhau. Vĩnh biệt".
    Huấn buông thỏng cánh tay, lá thư rơi xuống đất. Nhân viên điều tra đi đến, cúi lượm lá thư lên và nói:
    - Bây giờ tôi xin trả lời cho xong câu hỏi của ông lúc nãy: Văn phòng thám tử tư đã dựng lên một vỡ kịch. Trong đó, nam diễn viên là ông và nữ diễn viên chính là nữ thám tử mỹ miều, duyên dáng tên Hạnh. Cô ta đã thi hành công tác này quá tuyệt vời. Những gì ông nói đều được ghi âm, nhưng chỉ có đoạn băng ông vừa nghe là đáng giá thôi.
    Huấn nhớ lại, Hạnh đã lấy ví tay trên đầu giường để soi gương và chải tóc khi chàng bắt đầu nói.

Hồng Hoang


mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 01/Jan/2015 lúc 8:51pm


Giọt Máu Rơi Của Người Lính Chết Trẻ
(Phùng Annie Kim)


Với 14 bài viết trong năm, trong đó có bài "Chú Lính Mỹ" tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà là một nhà giáo, định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1991, hiện là cư dân Westminster, California. Bài viết mới nhất của Phùng Annie Kim là câu chuyện hơn 40 năm sau của chiếc trực thăng U-H1 bị bắn rơi trong cuộc hành quân Hạ Lào năm 1971. Sự việc, khung cảnh chuyện kể là có thật nhưng danh tính nhân vật trong truyện do tác giả hư cấu.

* * *


1.
Bà Tư nằm trăn trở hoài trên chiếc giường nệm thấp. Chăn êm nệm ấm, thân thể mát mẻ, thoải mái mà bà vẫn trằn trọc chưa ngủ được. Với cái tuổi tám mươi này, đôi khi bà hay quên những chuyện lặt vặt vừa mới xảy ra như ăn rồi mà nhất định bảo chưa ăn, chưa uống thuốc mà quyết liệt không chịu uống nữa, chưa đi tắm mà bảo vừa tắm xong.Thế mà sáng nay, có một chuyện bà không quên. Quyền, con trai bà cho biết Sơn, thằng cháu nội bên Minnesota gọi phone về báo tin sẽ về Cali thăm bà vào dịp lễ Giáng sinh.

Cả ngày nay, bà nôn nóng, cứ đi ra rồi lại đi vào. Bà cầm quyển lịch trong tay đếm từng ngày. Còn hơn một tháng nữa. Sao mà lâu quá! Bà bảo Quyền và Quyên phải dọn cái này, dẹp cái kia, sửa soạn nhà cửa để đón thằng nhỏ.

Nói đến bộ nhớ và sức khỏe của bà cụ tuổi ngoài tám mươi như bà Tư kể cũng hiếm. Chuyện quá khứ, bà nhớ vanh vách các chuyện gia đình xa xưa thời ông cố bà sơ nào hay những kỷ niệm thuở hàn vi ở Việt nam. Nếu có bà con nào đến chơi gợi nhắc chuyện xưa, bà kể lan man hàng giờ không dứt và không sót chi tiết nào. Bà thuộc kinh Phật làu làu. Tiền để dành đi cúng chùa, bà đếm chính xác và biết sắp xếp thành từng loại. Bà dặn cô con gái may cái túi lớn phía trước trong áo lót, bà cất tiền và gài kỹ bằng nút bấm.Việc di chuyển, bà đi lại chậm chạp nhưng vững vàng không cần đến cây gậy. Ban đêm, bà không cần đánh thức các con, tự đi restroom trong căn phòng lớn gần giường ngủ của bà. Bà ăn chay, tập hít thở, đi bộ đều đặn với Quyền mỗi ngày trong khu townhouse. Bà còn xỏ kim được bằng sợi chỉ trắng. Tai bà còn nghe rõ người khác chuyện trò. Mỗi đêm, bà chỉ chợp mắt vài tiếng đồng hồ. Thì giờ của bà hầu hết là những thời công phu sớm tối trước bàn thờ Phật. Bà tọa thiền, tụng kinh, thì thầm cầu nguyện dưới ngọn đèn vàng trong căn phòng ngủ chung quanh trang trí toàn là hình, tượng Phật.

Hơn mười năm nay, nhà bà là một cái chùa nhỏ thanh tịnh và yên tĩnh. Bà xuống tóc, tịnh tu tại gia, sống an lạc, mặc các bộ quần áo màu nâu hoặc màu lam. Các con gọi bà bằng "Cô Diệu" thay vì gọi bằng "Má".

Trong bốn cái cửa "sinh, lão, bệnh, tử" của cuộc đời ai cũng phải trải qua, bà Tư đã vượt qua cái cửa thứ hai và thứ ba một cách nhẹ nhàng. Ai hỏi bà về tuổi già và bệnh tật, bà nói bà chẳng có bệnh gì ngoài bệnh của người già nghĩa là sức khỏe bà một ngày một yếu đi như ngọn đèn dầu, hết dầu thì đèn tắt.

Còn cái cửa "tử" cuối cùng? Bà đang chuẩn bị đấy thôi. Ngoài tám mươi rồi, bà Tư không mong kéo dài tuổi thọ thêm nữa. Ai hỏi cụ bà sợ chết không, bà lắc đầu nói chỉ sợ bệnh nằm liệt giường khổ cho cái thân già và cho con cháu. Trước đây, bà thường nói với các con bà chuẩn bị sẵn cho chuyến đi cuối đời nhưng từ khi gặp lại thằng cháu nội sau bốn mươi năm trăn trở vì nó, bà như được hồi sinh. Bà vui nên càng ngày trông bà càng khỏe ra. Bà yêu đời và ham sống. Vợ chồng thằng Quyền lấy nhau bốn mươi năm không có con, thằng cháu nội đích tôn lưu lạc này như cục vàng quý đối với bà, mang đến tuổi già của bà cả một mùa xuân.

Trong đêm khuya, bà Tư nằm nhớ lại cuộc đời khổ cực của bà trong sáu mươi năm từ lúc lấy ông Tư là hạ sĩ quan nghèo cục Quân nhu thuộc bộ Tổng Tham mưu, lương lậu không đủ nuôi bốn đứa con ăn học, cả nhà sống nhờ vào lò bún thủ công của bà. Bà thức khuya dậy sớm làm bún. Ông Tư và các con bà chia phiên nhau vừa đi học, đi làm, vừa chạy Honda bỏ mối bún ở chợ và các quán ăn ở Sài gòn. Thời chiến tranh leo thang, luật tổng động viên ra đời, Quyền bị đổi ra vùng một chiến thuật ngành quân vận. Quang, đứa con trai thứ hai theo anh ra Đà nẵng nộp đơn vào sư đoàn một không quân phục vụ ngành an ninh và phòng thủ phi trường. Đêm đêm, bà mẹ già chỉ biết cầu nguyện cho hai đứa con đi lính xa nhà thoát khỏi cảnh bom đạn trong cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt.

Được tin trong một chuyến vận chuyển vũ khí, đoàn xe của Quyền rơi vào ổ phục kích của Việt cộng. Quyền bị gẫy nát một chân, được xếp vào loại tàn phế và được giải ngũ. Bà vui mừng vì Quyền vừa thoát được bàn tay tử thần, được chuyển vào Sài gòn cũng là lúc một nỗi lo khác lại đến. Quang tình nguyện chuyển sang ngành tác chiến, trở thành xạ thủ trực thăng của phi đoàn 213. Thời gian này, Quang yêu Phượng, cô y tá nổi tiếng là người đẹp của bệnh viện Đà nẵng. Mối tình này đã đơm hoa kết trái đó là thằng Sơn, cháu nội của bà Tư bây giờ.

Sáng ngày mười tháng hai năm một chín bảy mốt, trong một phi vụ tại Hạ Lào, gia đình bà được tin chiếc trực thăng U-H1 bị bắn rơi, Quang và phi hành đoàn tổng cộng mười một người đều tử trận, không thể tìm được xác..

Tin con trai tử nạn một cách thảm khốc, sau đó là nhận giấy báo tử chính thức và tiền tử tuất của Quang, lòng bà mẹ thương con vẫn thầm nuôi niềm hy vọng. Biết đâu chừng thằng Quang còn sống sót và sẽ trở về. Quang là một thằng lanh lợi và thông minh. Biết đâu chừng nó nhảy dù ra khỏi máy bay trước khi máy bay trúng đạn, bốc cháy. Biết đâu chừng nó còn sống và bị bắt làm tù binh tại Lào hoặc bị đưa ra ngoài Bắc. Biết đâu chừng nó chỉ bị thương ở đầu và mất trí nhớ nên sống lang bạt, không tìm được đường về với gia đình. Bà đi tìm người giúp bà câu trả lời. Bà đi xem bói. Ông thầy bói quả quyết thằng Quang còn sống. Số nó đào hoa nếu lấy vợ sớm sẽ có cháu cho bà ẵm bồng. Bà sống, chờ đợi, tin tưởng và hy vọng mỏi mòn với ba chữ "biết đâu chừng"...

Sau khi mất nước, bà Tư nghe tin đồn có nhiều tù binh Việt Nam Cộng Hòa được chính phủ Hà nội thả về theo quy ước quốc tế về việc trao đổi tù binh. Quyền nói với bà Tư làm gì có chuyện thả tù binh trong khi hàng trăm ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, các viên chức chế độ cũ gọi chung là "ngụy quân", "ngụy quyền" bị kẹt lại, phải ra trình diện và bị giam giữ ở các trại tập trung để "học tập cải tạo". Quyền may mắn là hạ sĩ quan đã giải ngũ nên không nằm trong số đó. Nếu không, bà Tư lại phải lê lết trong các khu rừng để thăm nuôi thằng con tù.

Tin đứa con tử trận chưa làm ráo nước mắt bà mẹ thì hai năm sau ông Tư mất vì tai biến mạch máu não. Thằng Quốc, con trai thứ ba học hành và lớn lên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa vừa tốt nghiệp trung học. Năm một chín bảy tám, mặc dù có hai anh đi lính và tử trận dưới chế độ "Mỹ ngụy", nhà nước Cộng sản vẫn bắt con "ngụy" không đủ tiêu chuẩn vào đại học được "ưu tiên" thi hành nghĩa vụ quân sự ở chiến trường Campuchia. Bà khóc hết nước mắt. Bà tính đường lui, trở về quê ở Gò công cho thằng Quốc trốn nghĩa vụ. Nào ngờ mạng lưới công an ở các xã, huyện còn dầy đặc hơn thành phố. Bà bị công an địa phương bắt giam trong trại tù cải tạo lao động thời hạn hai năm vì tội không thi hành luật pháp và cố tình bao che cho tội phạm.

Nếu bị ở tù để cho thằng con không phải đi lính, bà Tư sẵn sàng hy sinh cái mạng già để cứu con. Nào ngờ bọn chúng, một mặt bắt giam bà đi lao động, một mặt ruồng bắt Quốc và làm áp lực để Quốc ra trình diện. Thời đó, cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước Cộng sản Việt nam và Campuchia được sự hậu thuẫn của Trung Quốc càng ngày càng ác liệt. Thằng nhỏ mười tám tuổi vừa tốt nghiệp trung học, không biết gì về súng ống trận mạc, không biết gì về chiến tranh, không có chút lý tưởng gì về tổ quốc, niềm mơ ước duy nhất của nó là được vào đại học thất bại, bà mẹ đang ở tù, Quốc chấp nhận trình diện, lên đường ra trận để bà mẹ già được tha về sớm.

Một năm sau, Long, người đồng đội của Quốc bị thương về phép, kể lại cho gia đình bà Tư về cái chết của Quốc. Trong một chuyến vượt sông Mekong qua ngả Neak Luang phía bắc tỉnh Kompong Cham, chưa kịp tiến vào Phnom Penh, trước khi được tiếp viện, sư đoàn 7 của Quốc đã đụng độ một trận lớn với quân Kmer Đỏ. Toàn bộ sư đoàn bị tiêu diệt chỉ còn sống sót một người là Long. Thi thể Quốc và cả sư đoàn được chôn cất ở nghĩa trang liệt sĩ Tây Ninh. Ít lâu sau, giấy báo tử gửi về. Cuối năm giấy chứng nhận là gia đình liệt sĩ đến tay bà. Bà Tư được ủy ban nhân dân truy tặng là "mẹ chiến sĩ", "mẹ anh hùng".

Hàng năm, vào những ngày lễ thương binh liệt sĩ, cán bộ của ủy ban nhân dân đến thăm hỏi, tặng quà và khen thưởng những gia đình liệt sĩ như bà. Bà treo cái khung gỗ có lộng tờ giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ hình cờ đỏ sao vàng trên tường. Ít hôm sau, bà lấy xuống, cất vào ngăn tủ. Cứ như thế cho đến ngày bà qua Mỹ.

Cuộc đời bà Tư là một chuỗi dài những giọt nước mắt vì mất mát. Bà chỉ là một bà mẹ Việt nam bình thường, nghèo khổ, ít học. Bà không biết gì về các từ ngữ chính trị dao to búa lớn như lý tưởng, tổ quốc, ý thức hệ, cộng sản, tư bản, cộng hòa xã hội chủ nghĩa, độc lập, tự do, hạnh phúc, liệt sĩ, anh hùng, hy sinh... Bà chỉ là một bà mẹ thương con, một nạn nhân chịu nhiều nỗi đau thương trong chiến tranh. Chiến tranh đã làm một đứa con bà bị tàn phế, tật nguyền. Chiến tranh cướp mất hai đứa con bà, một đứa gửi nắm xương tàn trên chiến trường Hạ Lào xa xôi còn một đứa được vinh danh là liệt sĩ.

Trước khi đi Mỹ, Long đưa gia đình bà đã đến nghĩa trang liệt sĩ ở Tây Ninh thăm mộ Quốc. Cơn mưa làm cho con đường đi vào nghĩa trang lầy lội, ướt át. Mộ Quốc và năm người đồng đội nằm ngay gần lối đi, xây quanh nhau thành một vòng tròn, chính giữa là một bồn hoa. Trước cái chết, mọi người đều bình đẳng. Hàng ngàn những ngôi mộ thấp, mộ bia màu trắng, xây cùng một kiểu. Dòng chữ màu vàng khắc trên mộ bia "Nơi an nghỉ của liệt sĩ Trần Hưng Quốc, hai mươi tuổi, sinh ngày hai mươi tháng ba năm một chín năm mươi tám, hy sinh tại chiến trường Campuchia".

Năm một ngàn chín trăm tám mươi chín, Quyền may mắn được gia đình bên vợ bảo lãnh qua Mỹ. Năm năm sau, Quyền bảo lãnh cho bà Tư và Quyên. Quyền muốn bốc mộ Quốc đem tro cốt qua Mỹ nhưng bà Tư lắc đầu:

-Thôi con ơi, thằng Quốc đã nằm xuống nơi mảnh đất Tây Ninh này. Hãy để nó yên nghỉ ở quê hương với đồng đội của nó. Không mang tro cốt nó theo nhưng nó vẫn gần Cô trong những câu kinh tiếng kệ hàng ngày.

Rồi bà ngậm ngùi:

- Cô chỉ còn một nỗi ray rứt về số phận thằng Quang ở Hạ Lào. Không một dấu tích gì về chiếc máy bay trực thăng bị bắn rớt thì làm sao biết được. Không chừng nó còn sống, không chừng gì đắp cho nó một nấm mộ.

2.
Sau một tai nạn xe hơi, chân bên trái bị bó bột làm Phượng đi lại khó khăn phải dùng cây nạng gỗ. Mỗi ngày có một cô "care giver" đến chăm sóc sức khỏe cho Phượng, giúp Phượng ăn uống, tắm rửa, dọn dẹp nhà cửa. Một cô khác đến làm vật lý trị liệu cho cái chân bên phải đã hồi phục dần. Căn nhà bây giờ vắng vẻ chỉ có hai mẹ con. Chị Phương đã dọn về Cali từ lâu. Bà mẹ Phượng mất đã năm năm. Ông Daniel mất năm ngoái. Thằng Sơn ly dị vợ, về ở với Phượng. Nó bận bịu suốt ngày trong bệnh viện. Năm ngoái, lễ Thankgivings hai mẹ con về thăm bà Tư. Năm nay, chân đau, không về được, Phượng nhắc con nhớ lấy phép nghỉ về Cali thăm bà nội vào dịp lễ Giáng sinh. Bà nội già yếu rồi. Bà sống không còn bao nhiêu năm nữa.

Từ ngày tìm được tông tích của người cha quá cố, thằng Sơn gắn bó với gia đình bên nội. Vào những ngày nghỉ, Sơn gọi về thăm bà nội, hai bà cháu nói chuyện rất lâu, có khi cả tiếng đồng hồ. Nó nói tiếng Việt giỏi nhờ sống gần bà ngoại từ bé.

Phượng hồi tưởng lại bốn mươi năm trôi qua, ngày đó cả hai đều rất trẻ. Phượng hơn Quang hai tuổi, là y tá ở bệnh viện Đà nẵng, gặp Quang trong một buổi tiệc của sư đoàn hai không quân tổ chức tại câu lạc bộ trong phi trường. Trai tài gái sắc gặp nhau. Quang vừa đẹp trai lại tài hoa, biết chơi đàn guitar, hát rất hay những bản nhạc về lính của nhạc sĩ Nhật Trường. Hai đứa dự định sẽ làm một cái đám cưới đơn giản. Quang sẽ lấy thời gian nghỉ phép đưa Phượng vào Sài Gòn ra mắt gia đình Quang. Thời gian đó Quang bận đi học khóa bắn súng và trở thành người xạ thủ gan lì và dũng mãnh của không đoàn 41, phi đòan 213. Những cuộc hẹn hò ở bến sông Hàn, những cuộc đi chơi xa ở đồi Bà Nà, chùa Non Nước, bảo tàng Chàm ở Mỹ Sơn...đưa đến kết quả là Phượng có thai.

Phượng chưa kịp báo tin mừng cho Quang thì một hôm, người bạn trong phi đoàn của Quang đến cho hay cuộc hành quân 719 Lam Sơn tại Hạ Lào ngày mười tháng hai năm một ngàn chín trăm bảy mốt, chiếc trực thăng U-H1 Huey bị bắn rơi. Tất cả những người có mặt trong chuyến bay gồm hai vị sĩ quan cấp tá, hai phi công, ba phóng viên Mỹ, một phóng viên Nhật, một phóng viên người Việt, hai nhân viên phi hành đoàn trong đó có trung sĩ thiện xạ Trần Vinh Quang, tất cả mười một người đều tử trận.

Tin đến như một cú sét đánh. Đất trời như nổ tung trước mắt Phượng. Phượng chỉ biết khóc và khóc. Phượng ôm cái bụng bầu ba tháng. Không có một tờ hôn thú. Không có một liên hệ hay tin tức gì liên quan với gia đình Quang ở Sài gòn. Quang chết thật bất ngờ. Quang chết ở lứa tuổi đôi mươi. Quang chết không để lại một dấu tích gì ngay cả một hạt bụi. Phượng chỉ còn giữ lại những kỷ niệm đẹp của một thời yêu nhau còn lưu lại trong ký ức và qua những bức hình hẹn hò xưa cũ.

Có lúc đau khổ và tuyệt vọng quá, Phượng nghĩ mình không còn sức để giữ cái thai, "giọt máu rơi của người lính chết trẻ". Quang đi qua cuộc đời Phượng như một cơn gió thoảng. Có lúc Phượng muốn chết theo Quang nhưng nghĩ đến một sinh vật bé nhỏ đang lớn dần từng ngày trong bụng mình, Phượng không có quyền từ chối trách nhiệm làm mẹ với nó. Có lúc Phượng muốn bỏ cái thai vì dư luận xã hội, vì tương lai của người mẹ trẻ nhưng đứa bé kia có tội tình gì. Nó là mật ngọt của hương vị tình yêu đã đơm hoa kết trái. Phượng phải sống để thay Quang bù đắp cho đứa trẻ mồ côi mất tình thương cha. Phượng phải sống, sống để nuôi con, vì con.

Phương làm đơn xin nghỉ việc, ở nhà nghỉ ngơi, dưỡng thai chờ đến ngày sinh nở. Kinh tế gia đình trông mong vào cửa hàng bán thực phẩm lấy từ các PX Mỹ của chị Phương. Chuyện sinh nở và chăm sóc bé đã có bà ngoại. Thằng Sơn ra đời trong sự thương yêu, đùm bọc của mẹ, bà ngoại và dì Phương. Sơn khỏe mạnh, dễ nuôi, càng lớn nó càng giống Quang. Phượng đặt tên nó là Trần Mỹ Sơn, tên vùng đất lịch sử của người Chàm, một thắng cảnh du lịch ở Đà Nẵng, kỷ niệm một chuyến du lịch ba ngày phép với Quang và cũng là nơi thằng Sơn tượng hình trong bụng Phượng.

Thằng Sơn lẩm chẩm biết đi cũng là lúc Phượng phải gửi con cho bà ngoại để đi làm phụ với chị Phương nuôi thằng Sơn. Với vốn liếng sinh ngữ khá và nghề y tá trước đây, Phượng được người quen giới thiệu vào làm tại bệnh viện Hải Quân Mỹ chuyên chữa cho các thương binh Mỹ từ chiến trường chuyển về.

Những ngày đầu tiên chứng kiến những chiếc trực thăng đậu ở sân trước bệnh viện, những nhân viên tải thương vội vã chuyển những chiếc cáng phủ lá cờ Mỹ từ trên trực thăng xuống, những người lính Mỹ giơ tay chào vĩnh biệt, Phượng không cầm được nước mắt. Phượng khóc cho ai, Phượng hay cho những người vợ, những ông bố, bà mẹ ở bên kia bờ đại dương một ngày nào đó sẽ nhận những chiếc quan tài phủ lá cờ Mỹ?

Còn Quang, người chồng chưa cưới của Phượng, có "hạt bụi nào..." hay chiếc "...hòm gỗ cài hoa" nào cho anh?

Phượng quen dần với công việc của người y tá lúc nào cũng bận rộn và căng thẳng trong bệnh viện. Là một y tá giỏi, siêng năng, chịu khó học hỏi, Phượng có thêm những đức tính cần thiết đó là sự ân cần, kiên nhẫn và dịu dàng với bệnh nhân. Phượng được bác sĩ Daniel trưởng khoa mổ đặc biệt lưu ý và chấp thuận cho Phượng là y tá phụ trong ê kíp mổ của ông. Có những ca mổ kéo dài đến khuya hoặc những ca trực đêm, Phượng có dịp kể cho ông nghe về cuộc đời bất hạnh của mình. Phượng biết thêm về đời tư của vị bác sĩ ít nói này. Ông lớn hơn Phượng mười hai tuổi, là bác sĩ giỏi trong ngành hải quân, vợ và đứa con gái chết vì tai nạn xe hơi, ông tình nguyện sang Việt nam công tác. Sang năm ông sẽ về Mỹ vì hết hợp đồng. Với chính sách "Việt nam hóa chiến tranh" và Hiệp Định Paris sắp ký kết, người Mỹ đang chuẩn bị rút dần về nước.

Vào một đêm trực chỉ có vài người y tá, Daniel cùng có mặt, Phượng đã suýt bật khóc vì cảm động trước lời cầu hôn bất ngờ của Daniel. Vị bác sĩ này thố lộ đã để ý đến cô y tá người Việt nam xinh đẹp và hiền hòa này trong những ca mổ. Ông tình cờ chứng kiến hình ảnh Phượng chăm sóc những người thương binh làm ông xúc động. Ông nói không phải chỉ là hoàn thành công việc mà thôi, Phượng đến với các bệnh nhân bằng tất cả trái tim của mình. Cô chia sẻ nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần của họ trong từng mũi kim nhẹ nhàng, từng viên thuốc khó uống, từng lời nói an ủi dịu dàng, từng cử chỉ vỗ về, dỗ dành. Những người thương binh Mỹ trong bệnh viện Hải Quân này đều quý mến cô y tá người Việt có cái tên Mỹ Sophie dễ thương này. Họ chưa hiểu hết cảnh đời của Phượng. Chồng Phượng cũng là lính. Cô thương những người lính như thương Quang, thương bản thân và thương cuộc đời bất hạnh của mình.

Phượng chấp nhận lời cầu hôn của Daniel với một điều kiện Daniel bảo lãnh bà mẹ, chị Phương và bé Sơn cùng sang Mỹ. Căn nhà lớn năm phòng ở đường North Smith, Minnesota là tổ ấm của gia đình Phượng. Chị Phương vừa đi học vừa đi làm một thời gian, sau đó chị dọn về Cali mở một tiệm ăn với người yêu cũ. Phượng đi học lại. Bà mẹ ở nhà nội trợ trông nom nhà cửa, chăm sóc Sơn. Daniel làm việc ở United Hospital gần nhà. Bé Sơn càng lớn càng quấn quít Daniel. Suốt ngày Sơn đeo theo ông bố dượng vui tính. Daniel rất thương thằng con nuôi học giỏi và lễ phép. Theo gương học tập và chỉ dạy của ông bố dượng, Sơn học ngành y, sau này trở thành bác sĩ Shawn Tran chuyên khoa mổ tim ở St John s Hospital. Bốn mươi năm trôi qua, cái chết thảm khốc của Quang và niềm đau nỗi khổ của Phượng dần dần phôi pha theo thời gian nhờ vào tình yêu, sự bao dung và lòng tử tế của người chồng Mỹ tốt bụng đã cưu mang gia đình Phượng, mang đến cho Phượng một cuộc sống mới, êm đềm và hạnh phúc.

Một ngày, Phượng nhận được cú phone bất ngờ của chị Phương. Bên kia đầu dây, giọng chị lanh lảnh:

- Phượng ơi, tao nói chuyện này mầy bình tĩnh nghe đừng có xỉu nghen. Tao vừa đọc báo. Có người viết về cái chết của thằng Quang chồng mày hồi xửa hồi xưa. Có tấm hình thằng Quang chụp hồi còn trẻ. Mày tin không, má thằng Quang còn sống. Gia đình thằng Quang qua Mỹ ở khu Việt nam gần tiệm của tao. Bài báo kể người ta đào được xác chiếc máy bay rớt và hốt cốt mang về để ở viện bảo tàng nào đó trên Washington D. C.Chuyện dài dòng lắm. Tao ra bưu điện gửi cho mầy bài báo này liền. Overnight mai mầy nhận được. Bình tĩnh nghen mậy. Chuyện đâu còn đó. Khoan nói cho thằng Sơn biết. Mầy đọc báo xong rồi mình tính.

Suốt đêm qua Phượng mất ngủ, mong cho trời mau sáng để nhận thư tốc hành của bưu điện. Người đưa thư trao bì thư hình con én màu xanh và yêu cầu Phượng ký tên.Tay Phượng run run khi cầm cây viết.Cầm tờ báo trong tay, Phượng lật tới, lật lui, tìm mãi mới thấy cột báo. Tấm hình Quang hồi hai mươi tuổi, nét mặt đẹp trai, nghiêm nghị, ánh mắt buồn xa xôi, oai vệ trong bộ treillis, túi áo trái có in tên "Quang" màu trắng. Bài báo viết chi tiết về chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, về bà mẹ chồng Phượng chưa hề gặp mặt và một chi tiết quan trọng là viện bảo tàng Newseum ở Washington D. C hiện nay đang lưu trữ hài cốt của những người tử nạn.

Phượng nói với Shawn Phượng về Cali thăm dì Phương. Hai chị em đến tòa soạn gặp người phóng viên và xin địa chỉ nhà má Quang. Cuộc gặp gỡ đầu tiên, cả nhà bà Tư nhìn Phượng với cặp mắt tò mò, xa lạ và nghi ngờ. Bà Tư, vợ chồng Quyền và Quyên không tin có chuyện một người phụ nữ, hơn bốn mươi năm đến gia đình bà tự nhận là vợ của Quang. Họ không tin Quang có một đứa con trai ngoài bốn mươi tuổi. Họ không tin bốn mươi năm trôi qua trên đất nước Mỹ này lại có cuộc gặp gỡ ly kỳ ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Khi Phượng đem tất cả hình ảnh của Quang và Phượng chụp hồi còn trẻ ở Đà nẵng, hình thằng Sơn hồi còn nhỏ cho đến khi tốt nghiệp ra trường đậu bằng bác sĩ, nhất là tấm hình Quyền cung cấp cho người phóng viên đăng trên báo so với tấm hình ố vàng Phượng cầm trong tay là một, bà Tư bật khóc nức nở như một đứa trẻ. Xúc động, mừng vui, hạnh phúc dâng trào trong lòng bà mẹ già vào cuối đời. Từ đó, Phượng thường xuyên gọi điện thoại về Cali thăm bà. Tháng sau, Phượng dẫn Shawn về giới thiệu thằng cháu đích tôn của dòng họ Trần. Năm ngoái hai mẹ con về Cali. Năm nay, thằng Shawn về một mình thăm bà nội

3.
Sau đây là lời kể chuyện của nhân vật chính Trần Mỹ Sơn.

Tôi tên là Shawn Tran. Daddy đặt tên "Shawn" có nghĩa là "God is gracious ". Daddy nói tôi là ân sủng của Chúa mang đến cho Daddy. "Shawn" nghe giống như tên "Sơn", Trần Mỹ Sơn. Ngoại nói "Mỹ" có nghĩa là đẹp, "Sơn"có nghĩa là ngọn núi. Tên tôi là một ngọn núi đẹp. Mẹ nói Daddy chỉ là cha nuôi, cha ruột của tôi mất từ khi tôi còn trong bụng mẹ. Daddy đưa mẹ, bà ngoại, dì Phương và tôi qua Mỹ. Họ nuôi tôi khôn lớn. Tôi theo học nghề bác sĩ mổ tim của Daddy. Cả nhà ai cũng muốn tôi học nghề này để sau này chữa tim cho mọi người.

Sau chuyến đi Cali thăm dì Phương, mẹ kể rằng mẹ đã gặp gia đình bà nội ở Cali qua một tờ báo Việt ngữ. Trong chương trình POW (prisoners of war) và MIA (missing in action) tìm hài cốt của những người Mỹ mất tích thời chiến tranh Việt nam, họ đã tìm được những dấu tích về cái chết của ba tôi. Hiện nay, chúng được lưu giữ ở Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D.C. Mẹ đọc bài báo cho tôi nghe. Dù mẹ chưa nói, qua ánh mắt của mẹ, tôi hiểu rằng tôi phải đi một chuyến về Cali với mẹ, đến thăm bà nội, người đàn bà đã khóc nhiều về cái chết của ba tôi.

Từ Cali về, tôi tìm đọc những tài liệu về POW, MIA, những bài viết của các ký giả trong chuyến đào bới tìm dấu tích của chiếc trực thăng lâm nạn, về chiến tranh, cuộc hành quân Lam sơn nhất là về buổi lễ tưởng niệm và vinh danh những người bị mất tích tổ chức ngày mười tháng tám năm hai ngàn mười ở viện Bảo Tàng Newseum.

Bài viết của ký giả Richard Pyle viết về buổi lễ và những người tham dự. Họ là ai? Là những người mẹ, những người vợ, những đứa con đến từ Việt nam, Canada xa xôi, tay cầm những tấm "plaque", đầm đìa những giọt nước mắt khi ban tổ chức nhắc đến tên tuổi và vinh danh những người thân của họ đã hy sinh. Xạ thủ Trần Vinh Quang không được nhắc đến. Gia đình bà nội, mẹ tôi và tôi không được mời đến. Ban tổ chức buổi tưởng niệm này đâu biết rằng sau bốn mươi năm, gia đình trung sĩ xạ thủ Trần Vinh Quang đang sống ở nước Mỹ? Và tôi, đứa con rơi của xạ thủ Trần Vinh Quang là một công dân Mỹ, tìm được tông tích của bà nội và ba tôi năm ngoái trong một bài báo Việt ngữ ở cộng đồng người Việt ?

Sau khi thăm bà nội ở Cali, tôi đã đến thăm Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D. C. Trong chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, có ba người ký giả Mỹ và một người Nhật. Tôi đã đọc thấy tên tuổi và hình ảnh họ được gắn trên bức tường kính gọi là "Journalists Memorial Wall 1971 Vietnam War". Viện bảo tàng này là nơi lưu giữ những chứng tích và vinh danh những ký giả Mỹ và những ký giả quốc tế đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ. Điều gì đã khiến họ lao vào cái nghề nguy hiểm này? Sự đam mê nghề nghiệp, sự khao khát muốn ghi nhận những tin tức mới, nóng hổi nhất, trung thực nhất. Họ muốn những có "big shot" là những tấm hình ý nghĩa, độc đáo, đầy ấn tượng về sự tàn khốc của chiến tranh gửi đến những người ở sau mặt trận. Viện bảo tàng Newseum đã làm công việc đầy tính nhân đạo khi vinh danh những người chiến sĩ không mang súng gan dạ và thầm lặng này.

Nhắc đến bà nội, tôi mê những câu chuyện bà kể về ba tôi. Bà có tài kể chuyện sống động, chi tiết và hấp dẫn. Tôi không ngờ bà nhớ nhiều kỷ niệm về ba tôi đến thế. Hình như trong ba người con trai, ba tôi là đứa con cứng đầu và làm cho bà khóc nhiều nhất nhưng cũng là đứa con bà thương nhất. Ba tình nguyện chuyển ngành an ninh sang học bắn súng để ra tác chiến ngoài mặt trận đối với bà là một sự chọn lựa kinh khủng và ngu xuẩn làm bà đau lòng. Bà không muốn mất con.

Điều gì khiến ba tôi chọn lựa giữa công việc an ninh nhàn nhã ở hậu phương với đời lính gian khổ đầy hiểm nguy ngoài mặt trận? Lý tưởng? Tổ quốc ? Hay cả hai? Lần đầu tiên đi với mẹ về Cali gặp bà nội, bà đã cho tôi nguồn cảm hứng muốn tìm hiểu về ba,về cái chết của ba, về cuộc chiến tranh trên quê hương mà bấy lâu nay tôi hững hờ, quên lãng. Tôi lớn lên ở xứ Mỹ. Tôi không có quá khứ. Tương lai của tôi là những dự tính và ước mơ.

Tôi sinh ra tại Đà nẵng, vùng đất của quê ngoại, trên bản đồ quân sự thuộc vùng một chiến thuật. Cuộc chiến bắt đầu từ năm một chín năm mươi lăm đến một chín bảy lăm. Năm một chín bảy mốt là năm ba tôi mất, lúc đó tôi còn trong bụng mẹ được ba tháng tuổi. Thật là trễ tràng làm sao! Hơn bốn mươi năm trôi qua, bây giờ tôi mới có dịp tìm hiểu về chiến tranh ở đất nước tôi và biết đây là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai thế lực, hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản kéo dài hai mươi năm. Ở miền nam, Mỹ và phe Đồng Minh ủng hộ chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Bên kia dòng sông Bến Hải, Liện Xô và Trung quốc ủng hộ hai phe, tuy hai mà là một: Cộng sản Bắc Việt và tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Trải qua nhiều giai đoạn, cuộc chiến tranh này có những cái tên như là "chiến tranh đặc biệt" (1960-1965) "chiến tranh cục bộ" (1965-1968) "Việt nam hóa chiến tranh" (1969-1972). Ngày ba mươi tháng tư năm một chín bảy lăm là ngày cuộc chiến tranh chấm dứt. Toàn bộ miền Nam rơi vào tay Cộng sản.

"Việt nam hóa chiến tranh" có thể hiểu đây là cuộc chiến của người Việt nam.Có người nói người Mỹ đã bỏ rơi miền Nam và đồng minh. Họ rút lui, không chủ động tham gia cuộc chiến bằng nhân sự. Họ chỉ viện trợ vũ khí. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải tự lực chiến đấu. Theo lời mẹ kể, với lý tưởng chiến đấu quyết bảo vệ miền Nam và lòng yêu nước chân thành, ba tôi tình nguyện lao vào cuộc chiến đầy hiểm nguy này và biết rằng sự ra đi không hẹn ngày về.

Vào thời điểm đó, Cộng sản miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chuyển mục tiêu sang chiến trường Lào và Cam puchia, xây dựng căn cứ địa làm bàn đạp tấn công miền Nam. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào ngày tám tháng hai năm một chín bảy mốt. Hai ngày sau, chiếc máy bay trực thăng H- U1 Huey không phải là trực thăng chiến đấu hay trực thăng võ trang có bọc thép tốt và chống đạn xe tăng. Đây chỉ là loại trực thăng vận tải vỏ thép mỏng, võ trang yếu, chở các phóng viên và các cấp chỉ huy đi thị sát chiến trường. Trong chuyến bay có mười một người, ba tôi là tay súng giỏi nhưng bất ngờ lọt vào mạng lưới phòng không mạnh và dầy đặc của địch, lại thêm sương mù, chiếc trực thăng trúng đạn và bốc cháy.

Năm 1992, những người trong chương trình POW và MIA có nhiệm vụ tìm kiếm những người Mỹ mất tích đã đến Hạ Lào nơi chiếc trực thăng rớt. Năm 1994, họ tiếp tục công việc đào bới. Cùng với một số tin tức được cung cấp từ những bạn đồng đội trong không đoàn 41, phi đoàn 213 còn sống ở Mỹ, họ đã định vị đúng tọa độ và đã tìm được những mảnh kính của máy chụp hình, đồng hồ và những mảnh thép vỡ của máy bay. Họ đã sàng lọc những khúc xương cốt lẫn lộn với đất đá và đem về lưu trữ tại Viện Bảo Tàng. Xương cốt này không phải của một ai mà là của mười một người hy sinh trong đó có ba tôi. Nó không thuộc về cá nhân hay gia đình nào, nó thuộc về lịch sử của nước Mỹ.

Món quà tôi mang về cho bà nội lần này là những hình ảnh của Viện Bảo Tàng Newseum. Tôi sẽ nói với bà nội ba tôi đã được an nghỉ ở một ngôi nhà gần nhà của Tổng Thống Mỹ. Ngôi nhà ấy vĩ đại, có mười tầng lầu, mười lăm rạp chiếu bóng, mười bốn hành lang và hàng ngày có hàng chục ngàn người đến đây thăm viếng. Bà nội hãy yên lòng. Con trai cứng đầu của bà được an nghỉ ở một trong những nơi danh dự nhất của nước Mỹ. Còn một điều nữa, bà nội hãy tin rằng với tất cả chứng cứ về liên hệ huyết thống và hình ảnh, với sự công bằng và trung thực, tôi sẽ làm đủ mọi cách để Viện Bảo Tàng Newseum cần phải có một buổi lễ tưởng niệm cho ba tôi. Người cuối cùng phải là người đặc biệt. "The last but not the least". Bà nội hãy giữ sức khỏe để một ngày không xa, gia đình bà nội, mẹ và tôi sẽ đếnViện Bảo Tàng Newseum tham dự buổi lễ vinh danh trung sĩ Trần Vinh Quang. Nỗi đau khổ của bà nội và mẹ sau bốn mươi năm phải được đền bù xứng đáng trong lịch sử nước Mỹ.

Tôi sẽ nói với cậu Quyền lần này tôi muốn cậu dẫn tôi đến thăm một địa danh lịch sử ở khu Little Saigon nơi có cộng đồng người Việt sinh sống đó là tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ "Vietnam War Memorial" ở Westminster. Hai người lính Mỹ, Việt cầm súng đứng bên nhau bên cạnh hai lá cờ Việt, Mỹ vẫn là hình ảnh đẹp, oai hùng và ý nghĩa. Trong tâm tôi sẽ không dấy lên chút tình cảm căm hận nào.Trái lại, đầy sự ngưỡng mộ và biết ơn. Người lính Việt Nam Cộng Hòa đó cũng chính là hình ảnh của ba tôi ngày xưa. Ba tôi chiến đấu vì lá cờ vàng cũng như những người lính Mỹ đã chiến đấu vì nền độc lập, tự do của nước Mỹ và cho nhân loại trong khối tự do.

Năm nay tôi đã bốn mươi ba tuổi. Đã hơn nửa đời người. Không quá muộn màng cho tôi khi tôi tìm về với cội nguồn của gia đình, quê hương và dân tộc mà trước đây tôi như một người xa lạ. Tôi muốn cám ơn bà nội, cậu mợ Quyền, dì Quyên những thân tộc đã nối lại sợi dây huyết thống thiêng liêng của dòng họ Trần. Tôi cảm nhận được tình thương quá bao la và đặc biệt bà dành cho ba tôi và đứa cháu nội này. Một ngày nào đó bà sẽ từ giã cõi đời. Tôi biết chắc một điều bà sẽ ra đi thanh thản, bình yên vì theo lời di chúc của bà, tôi sẽ thay ba tôi ôm chiếc hình của bà trong ngày tang lễ.

Tôi muốn cám ơn bà ngoại, mẹ tôi và dì Phương đã chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ tôi từ tấm bé cho đến khi tôi trưởng thành. Những chai sữa ngọt đầu đời là những ngày dì Phương dãi dầu mưa nắng ngoài chợ trời đem về cho tôi.Tôi nói và đọc được tiếng Việt là nhờ những buổi hai bà cháu cùng ngồi rù rì học với nhau ngoài vườn và từ những câu chuyện cổ tích tôi nghe hoài không chán. Và mẹ tôi, người mẹ tuyệt vời, tôi không có lời lẽ nào hơn để ca ngợi bà. Bà đã mạnh mẽ đứng lên vượt lên trên nổi khổ đau giữ lại cho tôi hình hài này.

Từ trong đáy lòng, tôi chân thành cám ơn Daddy Daniel, cha nuôi người Mỹ của tôi. Ông là cây cổ thụ cho gia đình tôi nương dựa bốn mươi năm qua. Danh vọng, địa vị, tiền bạc, hạnh phúc, tình thương tôi có được ngày hôm nay phát xuất từ tấm lòng nhân hậu và bao dung của ông.

Cuối cùng là những lời xin lỗi muộn màng của tôi với Ba.

Hơn bốn mươi năm qua, trong tâm tưởng, tôi đã quên tôi còn một người cha.Tôi không giữ chút kỷ niệm gì trong ký ức về ông vì ông đã ra đi trước khi tôi cất tiếng khóc chào đời.Thật là kỳ diệu khi gặp lại bà nội. Bà là chiếc cầu nối vững vàng, là bàn tay nắm dịu dàng và ấm áp dẫn tôi đến với Ba, là chất keo dính ngọt ngào làm cho hình ảnh Ba như sống dậy trong lòng tôi.Giờ đây, nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung hình ảnh ông hiện ra rõ ràng, thân thiết, gần gũi và đầy tình yêu thương.

Tôi rất hãnh diện về Ba tôi, người lính Việt Nam Cộng Hòa, anh dũng, kiêu hùng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ miền Nam. Lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công ơn ông và những người đồng đội. Ông mãi mãi là hình ảnh đẹp nhất trong lòng tôi, giọt máu rơi của ông, người lính chết trẻ.

Phùng Annie Kim

 

 

__._,_.___

 


1.
Bà Tư nằm trăn trở hoài trên chiếc giường nệm thấp. Chăn êm nệm ấm, thân thể mát mẻ, thoải mái mà bà vẫn trằn trọc chưa ngủ được. Với cái tuổi tám mươi này, đôi khi bà hay quên những chuyện lặt vặt vừa mới xảy ra như ăn rồi mà nhất định bảo chưa ăn, chưa uống thuốc mà quyết liệt không chịu uống nữa, chưa đi tắm mà bảo vừa tắm xong.Thế mà sáng nay, có một chuyện bà không quên. Quyền, con trai bà cho biết Sơn, thằng cháu nội bên Minnesota gọi phone về báo tin sẽ về Cali thăm bà vào dịp lễ Giáng sinh.

Cả ngày nay, bà nôn nóng, cứ đi ra rồi lại đi vào. Bà cầm quyển lịch trong tay đếm từng ngày. Còn hơn một tháng nữa. Sao mà lâu quá! Bà bảo Quyền và Quyên phải dọn cái này, dẹp cái kia, sửa soạn nhà cửa để đón thằng nhỏ.

Nói đến bộ nhớ và sức khỏe của bà cụ tuổi ngoài tám mươi như bà Tư kể cũng hiếm. Chuyện quá khứ, bà nhớ vanh vách các chuyện gia đình xa xưa thời ông cố bà sơ nào hay những kỷ niệm thuở hàn vi ở Việt nam. Nếu có bà con nào đến chơi gợi nhắc chuyện xưa, bà kể lan man hàng giờ không dứt và không sót chi tiết nào. Bà thuộc kinh Phật làu làu. Tiền để dành đi cúng chùa, bà đếm chính xác và biết sắp xếp thành từng loại. Bà dặn cô con gái may cái túi lớn phía trước trong áo lót, bà cất tiền và gài kỹ bằng nút bấm.Việc di chuyển, bà đi lại chậm chạp nhưng vững vàng không cần đến cây gậy. Ban đêm, bà không cần đánh thức các con, tự đi restroom trong căn phòng lớn gần giường ngủ của bà. Bà ăn chay, tập hít thở, đi bộ đều đặn với Quyền mỗi ngày trong khu townhouse. Bà còn xỏ kim được bằng sợi chỉ trắng. Tai bà còn nghe rõ người khác chuyện trò. Mỗi đêm, bà chỉ chợp mắt vài tiếng đồng hồ. Thì giờ của bà hầu hết là những thời công phu sớm tối trước bàn thờ Phật. Bà tọa thiền, tụng kinh, thì thầm cầu nguyện dưới ngọn đèn vàng trong căn phòng ngủ chung quanh trang trí toàn là hình, tượng Phật.

Hơn mười năm nay, nhà bà là một cái chùa nhỏ thanh tịnh và yên tĩnh. Bà xuống tóc, tịnh tu tại gia, sống an lạc, mặc các bộ quần áo màu nâu hoặc màu lam. Các con gọi bà bằng "Cô Diệu" thay vì gọi bằng "Má".

Trong bốn cái cửa "sinh, lão, bệnh, tử" của cuộc đời ai cũng phải trải qua, bà Tư đã vượt qua cái cửa thứ hai và thứ ba một cách nhẹ nhàng. Ai hỏi bà về tuổi già và bệnh tật, bà nói bà chẳng có bệnh gì ngoài bệnh của người già nghĩa là sức khỏe bà một ngày một yếu đi như ngọn đèn dầu, hết dầu thì đèn tắt.

Còn cái cửa "tử" cuối cùng? Bà đang chuẩn bị đấy thôi. Ngoài tám mươi rồi, bà Tư không mong kéo dài tuổi thọ thêm nữa. Ai hỏi cụ bà sợ chết không, bà lắc đầu nói chỉ sợ bệnh nằm liệt giường khổ cho cái thân già và cho con cháu. Trước đây, bà thường nói với các con bà chuẩn bị sẵn cho chuyến đi cuối đời nhưng từ khi gặp lại thằng cháu nội sau bốn mươi năm trăn trở vì nó, bà như được hồi sinh. Bà vui nên càng ngày trông bà càng khỏe ra. Bà yêu đời và ham sống. Vợ chồng thằng Quyền lấy nhau bốn mươi năm không có con, thằng cháu nội đích tôn lưu lạc này như cục vàng quý đối với bà, mang đến tuổi già của bà cả một mùa xuân.

Trong đêm khuya, bà Tư nằm nhớ lại cuộc đời khổ cực của bà trong sáu mươi năm từ lúc lấy ông Tư là hạ sĩ quan nghèo cục Quân nhu thuộc bộ Tổng Tham mưu, lương lậu không đủ nuôi bốn đứa con ăn học, cả nhà sống nhờ vào lò bún thủ công của bà. Bà thức khuya dậy sớm làm bún. Ông Tư và các con bà chia phiên nhau vừa đi học, đi làm, vừa chạy Honda bỏ mối bún ở chợ và các quán ăn ở Sài gòn. Thời chiến tranh leo thang, luật tổng động viên ra đời, Quyền bị đổi ra vùng một chiến thuật ngành quân vận. Quang, đứa con trai thứ hai theo anh ra Đà nẵng nộp đơn vào sư đoàn một không quân phục vụ ngành an ninh và phòng thủ phi trường. Đêm đêm, bà mẹ già chỉ biết cầu nguyện cho hai đứa con đi lính xa nhà thoát khỏi cảnh bom đạn trong cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt.

Được tin trong một chuyến vận chuyển vũ khí, đoàn xe của Quyền rơi vào ổ phục kích của Việt cộng. Quyền bị gẫy nát một chân, được xếp vào loại tàn phế và được giải ngũ. Bà vui mừng vì Quyền vừa thoát được bàn tay tử thần, được chuyển vào Sài gòn cũng là lúc một nỗi lo khác lại đến. Quang tình nguyện chuyển sang ngành tác chiến, trở thành xạ thủ trực thăng của phi đoàn 213. Thời gian này, Quang yêu Phượng, cô y tá nổi tiếng là người đẹp của bệnh viện Đà nẵng. Mối tình này đã đơm hoa kết trái đó là thằng Sơn, cháu nội của bà Tư bây giờ.

Sáng ngày mười tháng hai năm một chín bảy mốt, trong một phi vụ tại Hạ Lào, gia đình bà được tin chiếc trực thăng U-H1 bị bắn rơi, Quang và phi hành đoàn tổng cộng mười một người đều tử trận, không thể tìm được xác..

Tin con trai tử nạn một cách thảm khốc, sau đó là nhận giấy báo tử chính thức và tiền tử tuất của Quang, lòng bà mẹ thương con vẫn thầm nuôi niềm hy vọng. Biết đâu chừng thằng Quang còn sống sót và sẽ trở về. Quang là một thằng lanh lợi và thông minh. Biết đâu chừng nó nhảy dù ra khỏi máy bay trước khi máy bay trúng đạn, bốc cháy. Biết đâu chừng nó còn sống và bị bắt làm tù binh tại Lào hoặc bị đưa ra ngoài Bắc. Biết đâu chừng nó chỉ bị thương ở đầu và mất trí nhớ nên sống lang bạt, không tìm được đường về với gia đình. Bà đi tìm người giúp bà câu trả lời. Bà đi xem bói. Ông thầy bói quả quyết thằng Quang còn sống. Số nó đào hoa nếu lấy vợ sớm sẽ có cháu cho bà ẵm bồng. Bà sống, chờ đợi, tin tưởng và hy vọng mỏi mòn với ba chữ "biết đâu chừng"...

Sau khi mất nước, bà Tư nghe tin đồn có nhiều tù binh Việt Nam Cộng Hòa được chính phủ Hà nội thả về theo quy ước quốc tế về việc trao đổi tù binh. Quyền nói với bà Tư làm gì có chuyện thả tù binh trong khi hàng trăm ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, các viên chức chế độ cũ gọi chung là "ngụy quân", "ngụy quyền" bị kẹt lại, phải ra trình diện và bị giam giữ ở các trại tập trung để "học tập cải tạo". Quyền may mắn là hạ sĩ quan đã giải ngũ nên không nằm trong số đó. Nếu không, bà Tư lại phải lê lết trong các khu rừng để thăm nuôi thằng con tù.

Tin đứa con tử trận chưa làm ráo nước mắt bà mẹ thì hai năm sau ông Tư mất vì tai biến mạch máu não. Thằng Quốc, con trai thứ ba học hành và lớn lên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa vừa tốt nghiệp trung học. Năm một chín bảy tám, mặc dù có hai anh đi lính và tử trận dưới chế độ "Mỹ ngụy", nhà nước Cộng sản vẫn bắt con "ngụy" không đủ tiêu chuẩn vào đại học được "ưu tiên" thi hành nghĩa vụ quân sự ở chiến trường Campuchia. Bà khóc hết nước mắt. Bà tính đường lui, trở về quê ở Gò công cho thằng Quốc trốn nghĩa vụ. Nào ngờ mạng lưới công an ở các xã, huyện còn dầy đặc hơn thành phố. Bà bị công an địa phương bắt giam trong trại tù cải tạo lao động thời hạn hai năm vì tội không thi hành luật pháp và cố tình bao che cho tội phạm.

Nếu bị ở tù để cho thằng con không phải đi lính, bà Tư sẵn sàng hy sinh cái mạng già để cứu con. Nào ngờ bọn chúng, một mặt bắt giam bà đi lao động, một mặt ruồng bắt Quốc và làm áp lực để Quốc ra trình diện. Thời đó, cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước Cộng sản Việt nam và Campuchia được sự hậu thuẫn của Trung Quốc càng ngày càng ác liệt. Thằng nhỏ mười tám tuổi vừa tốt nghiệp trung học, không biết gì về súng ống trận mạc, không biết gì về chiến tranh, không có chút lý tưởng gì về tổ quốc, niềm mơ ước duy nhất của nó là được vào đại học thất bại, bà mẹ đang ở tù, Quốc chấp nhận trình diện, lên đường ra trận để bà mẹ già được tha về sớm.

Một năm sau, Long, người đồng đội của Quốc bị thương về phép, kể lại cho gia đình bà Tư về cái chết của Quốc. Trong một chuyến vượt sông Mekong qua ngả Neak Luang phía bắc tỉnh Kompong Cham, chưa kịp tiến vào Phnom Penh, trước khi được tiếp viện, sư đoàn 7 của Quốc đã đụng độ một trận lớn với quân Kmer Đỏ. Toàn bộ sư đoàn bị tiêu diệt chỉ còn sống sót một người là Long. Thi thể Quốc và cả sư đoàn được chôn cất ở nghĩa trang liệt sĩ Tây Ninh. Ít lâu sau, giấy báo tử gửi về. Cuối năm giấy chứng nhận là gia đình liệt sĩ đến tay bà. Bà Tư được ủy ban nhân dân truy tặng là "mẹ chiến sĩ", "mẹ anh hùng".

Hàng năm, vào những ngày lễ thương binh liệt sĩ, cán bộ của ủy ban nhân dân đến thăm hỏi, tặng quà và khen thưởng những gia đình liệt sĩ như bà. Bà treo cái khung gỗ có lộng tờ giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ hình cờ đỏ sao vàng trên tường. Ít hôm sau, bà lấy xuống, cất vào ngăn tủ. Cứ như thế cho đến ngày bà qua Mỹ.

Cuộc đời bà Tư là một chuỗi dài những giọt nước mắt vì mất mát. Bà chỉ là một bà mẹ Việt nam bình thường, nghèo khổ, ít học. Bà không biết gì về các từ ngữ chính trị dao to búa lớn như lý tưởng, tổ quốc, ý thức hệ, cộng sản, tư bản, cộng hòa xã hội chủ nghĩa, độc lập, tự do, hạnh phúc, liệt sĩ, anh hùng, hy sinh... Bà chỉ là một bà mẹ thương con, một nạn nhân chịu nhiều nỗi đau thương trong chiến tranh. Chiến tranh đã làm một đứa con bà bị tàn phế, tật nguyền. Chiến tranh cướp mất hai đứa con bà, một đứa gửi nắm xương tàn trên chiến trường Hạ Lào xa xôi còn một đứa được vinh danh là liệt sĩ.

Trước khi đi Mỹ, Long đưa gia đình bà đã đến nghĩa trang liệt sĩ ở Tây Ninh thăm mộ Quốc. Cơn mưa làm cho con đường đi vào nghĩa trang lầy lội, ướt át. Mộ Quốc và năm người đồng đội nằm ngay gần lối đi, xây quanh nhau thành một vòng tròn, chính giữa là một bồn hoa. Trước cái chết, mọi người đều bình đẳng. Hàng ngàn những ngôi mộ thấp, mộ bia màu trắng, xây cùng một kiểu. Dòng chữ màu vàng khắc trên mộ bia "Nơi an nghỉ của liệt sĩ Trần Hưng Quốc, hai mươi tuổi, sinh ngày hai mươi tháng ba năm một chín năm mươi tám, hy sinh tại chiến trường Campuchia".

Năm một ngàn chín trăm tám mươi chín, Quyền may mắn được gia đình bên vợ bảo lãnh qua Mỹ. Năm năm sau, Quyền bảo lãnh cho bà Tư và Quyên. Quyền muốn bốc mộ Quốc đem tro cốt qua Mỹ nhưng bà Tư lắc đầu:

-Thôi con ơi, thằng Quốc đã nằm xuống nơi mảnh đất Tây Ninh này. Hãy để nó yên nghỉ ở quê hương với đồng đội của nó. Không mang tro cốt nó theo nhưng nó vẫn gần Cô trong những câu kinh tiếng kệ hàng ngày.

Rồi bà ngậm ngùi:

- Cô chỉ còn một nỗi ray rứt về số phận thằng Quang ở Hạ Lào. Không một dấu tích gì về chiếc máy bay trực thăng bị bắn rớt thì làm sao biết được. Không chừng nó còn sống, không chừng gì đắp cho nó một nấm mộ.

2.
Sau một tai nạn xe hơi, chân bên trái bị bó bột làm Phượng đi lại khó khăn phải dùng cây nạng gỗ. Mỗi ngày có một cô "care giver" đến chăm sóc sức khỏe cho Phượng, giúp Phượng ăn uống, tắm rửa, dọn dẹp nhà cửa. Một cô khác đến làm vật lý trị liệu cho cái chân bên phải đã hồi phục dần. Căn nhà bây giờ vắng vẻ chỉ có hai mẹ con. Chị Phương đã dọn về Cali từ lâu. Bà mẹ Phượng mất đã năm năm. Ông Daniel mất năm ngoái. Thằng Sơn ly dị vợ, về ở với Phượng. Nó bận bịu suốt ngày trong bệnh viện. Năm ngoái, lễ Thankgivings hai mẹ con về thăm bà Tư. Năm nay, chân đau, không về được, Phượng nhắc con nhớ lấy phép nghỉ về Cali thăm bà nội vào dịp lễ Giáng sinh. Bà nội già yếu rồi. Bà sống không còn bao nhiêu năm nữa.

Từ ngày tìm được tông tích của người cha quá cố, thằng Sơn gắn bó với gia đình bên nội. Vào những ngày nghỉ, Sơn gọi về thăm bà nội, hai bà cháu nói chuyện rất lâu, có khi cả tiếng đồng hồ. Nó nói tiếng Việt giỏi nhờ sống gần bà ngoại từ bé.

Phượng hồi tưởng lại bốn mươi năm trôi qua, ngày đó cả hai đều rất trẻ. Phượng hơn Quang hai tuổi, là y tá ở bệnh viện Đà nẵng, gặp Quang trong một buổi tiệc của sư đoàn hai không quân tổ chức tại câu lạc bộ trong phi trường. Trai tài gái sắc gặp nhau. Quang vừa đẹp trai lại tài hoa, biết chơi đàn guitar, hát rất hay những bản nhạc về lính của nhạc sĩ Nhật Trường. Hai đứa dự định sẽ làm một cái đám cưới đơn giản. Quang sẽ lấy thời gian nghỉ phép đưa Phượng vào Sài Gòn ra mắt gia đình Quang. Thời gian đó Quang bận đi học khóa bắn súng và trở thành người xạ thủ gan lì và dũng mãnh của không đoàn 41, phi đòan 213. Những cuộc hẹn hò ở bến sông Hàn, những cuộc đi chơi xa ở đồi Bà Nà, chùa Non Nước, bảo tàng Chàm ở Mỹ Sơn...đưa đến kết quả là Phượng có thai.

Phượng chưa kịp báo tin mừng cho Quang thì một hôm, người bạn trong phi đoàn của Quang đến cho hay cuộc hành quân 719 Lam Sơn tại Hạ Lào ngày mười tháng hai năm một ngàn chín trăm bảy mốt, chiếc trực thăng U-H1 Huey bị bắn rơi. Tất cả những người có mặt trong chuyến bay gồm hai vị sĩ quan cấp tá, hai phi công, ba phóng viên Mỹ, một phóng viên Nhật, một phóng viên người Việt, hai nhân viên phi hành đoàn trong đó có trung sĩ thiện xạ Trần Vinh Quang, tất cả mười một người đều tử trận.

Tin đến như một cú sét đánh. Đất trời như nổ tung trước mắt Phượng. Phượng chỉ biết khóc và khóc. Phượng ôm cái bụng bầu ba tháng. Không có một tờ hôn thú. Không có một liên hệ hay tin tức gì liên quan với gia đình Quang ở Sài gòn. Quang chết thật bất ngờ. Quang chết ở lứa tuổi đôi mươi. Quang chết không để lại một dấu tích gì ngay cả một hạt bụi. Phượng chỉ còn giữ lại những kỷ niệm đẹp của một thời yêu nhau còn lưu lại trong ký ức và qua những bức hình hẹn hò xưa cũ.

Có lúc đau khổ và tuyệt vọng quá, Phượng nghĩ mình không còn sức để giữ cái thai, "giọt máu rơi của người lính chết trẻ". Quang đi qua cuộc đời Phượng như một cơn gió thoảng. Có lúc Phượng muốn chết theo Quang nhưng nghĩ đến một sinh vật bé nhỏ đang lớn dần từng ngày trong bụng mình, Phượng không có quyền từ chối trách nhiệm làm mẹ với nó. Có lúc Phượng muốn bỏ cái thai vì dư luận xã hội, vì tương lai của người mẹ trẻ nhưng đứa bé kia có tội tình gì. Nó là mật ngọt của hương vị tình yêu đã đơm hoa kết trái. Phượng phải sống để thay Quang bù đắp cho đứa trẻ mồ côi mất tình thương cha. Phượng phải sống, sống để nuôi con, vì con.

Phương làm đơn xin nghỉ việc, ở nhà nghỉ ngơi, dưỡng thai chờ đến ngày sinh nở. Kinh tế gia đình trông mong vào cửa hàng bán thực phẩm lấy từ các PX Mỹ của chị Phương. Chuyện sinh nở và chăm sóc bé đã có bà ngoại. Thằng Sơn ra đời trong sự thương yêu, đùm bọc của mẹ, bà ngoại và dì Phương. Sơn khỏe mạnh, dễ nuôi, càng lớn nó càng giống Quang. Phượng đặt tên nó là Trần Mỹ Sơn, tên vùng đất lịch sử của người Chàm, một thắng cảnh du lịch ở Đà Nẵng, kỷ niệm một chuyến du lịch ba ngày phép với Quang và cũng là nơi thằng Sơn tượng hình trong bụng Phượng.

Thằng Sơn lẩm chẩm biết đi cũng là lúc Phượng phải gửi con cho bà ngoại để đi làm phụ với chị Phương nuôi thằng Sơn. Với vốn liếng sinh ngữ khá và nghề y tá trước đây, Phượng được người quen giới thiệu vào làm tại bệnh viện Hải Quân Mỹ chuyên chữa cho các thương binh Mỹ từ chiến trường chuyển về.

Những ngày đầu tiên chứng kiến những chiếc trực thăng đậu ở sân trước bệnh viện, những nhân viên tải thương vội vã chuyển những chiếc cáng phủ lá cờ Mỹ từ trên trực thăng xuống, những người lính Mỹ giơ tay chào vĩnh biệt, Phượng không cầm được nước mắt. Phượng khóc cho ai, Phượng hay cho những người vợ, những ông bố, bà mẹ ở bên kia bờ đại dương một ngày nào đó sẽ nhận những chiếc quan tài phủ lá cờ Mỹ?

Còn Quang, người chồng chưa cưới của Phượng, có "hạt bụi nào..." hay chiếc "...hòm gỗ cài hoa" nào cho anh?

Phượng quen dần với công việc của người y tá lúc nào cũng bận rộn và căng thẳng trong bệnh viện. Là một y tá giỏi, siêng năng, chịu khó học hỏi, Phượng có thêm những đức tính cần thiết đó là sự ân cần, kiên nhẫn và dịu dàng với bệnh nhân. Phượng được bác sĩ Daniel trưởng khoa mổ đặc biệt lưu ý và chấp thuận cho Phượng là y tá phụ trong ê kíp mổ của ông. Có những ca mổ kéo dài đến khuya hoặc những ca trực đêm, Phượng có dịp kể cho ông nghe về cuộc đời bất hạnh của mình. Phượng biết thêm về đời tư của vị bác sĩ ít nói này. Ông lớn hơn Phượng mười hai tuổi, là bác sĩ giỏi trong ngành hải quân, vợ và đứa con gái chết vì tai nạn xe hơi, ông tình nguyện sang Việt nam công tác. Sang năm ông sẽ về Mỹ vì hết hợp đồng. Với chính sách "Việt nam hóa chiến tranh" và Hiệp Định Paris sắp ký kết, người Mỹ đang chuẩn bị rút dần về nước.

Vào một đêm trực chỉ có vài người y tá, Daniel cùng có mặt, Phượng đã suýt bật khóc vì cảm động trước lời cầu hôn bất ngờ của Daniel. Vị bác sĩ này thố lộ đã để ý đến cô y tá người Việt nam xinh đẹp và hiền hòa này trong những ca mổ. Ông tình cờ chứng kiến hình ảnh Phượng chăm sóc những người thương binh làm ông xúc động. Ông nói không phải chỉ là hoàn thành công việc mà thôi, Phượng đến với các bệnh nhân bằng tất cả trái tim của mình. Cô chia sẻ nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần của họ trong từng mũi kim nhẹ nhàng, từng viên thuốc khó uống, từng lời nói an ủi dịu dàng, từng cử chỉ vỗ về, dỗ dành. Những người thương binh Mỹ trong bệnh viện Hải Quân này đều quý mến cô y tá người Việt có cái tên Mỹ Sophie dễ thương này. Họ chưa hiểu hết cảnh đời của Phượng. Chồng Phượng cũng là lính. Cô thương những người lính như thương Quang, thương bản thân và thương cuộc đời bất hạnh của mình.

Phượng chấp nhận lời cầu hôn của Daniel với một điều kiện Daniel bảo lãnh bà mẹ, chị Phương và bé Sơn cùng sang Mỹ. Căn nhà lớn năm phòng ở đường North Smith, Minnesota là tổ ấm của gia đình Phượng. Chị Phương vừa đi học vừa đi làm một thời gian, sau đó chị dọn về Cali mở một tiệm ăn với người yêu cũ. Phượng đi học lại. Bà mẹ ở nhà nội trợ trông nom nhà cửa, chăm sóc Sơn. Daniel làm việc ở United Hospital gần nhà. Bé Sơn càng lớn càng quấn quít Daniel. Suốt ngày Sơn đeo theo ông bố dượng vui tính. Daniel rất thương thằng con nuôi học giỏi và lễ phép. Theo gương học tập và chỉ dạy của ông bố dượng, Sơn học ngành y, sau này trở thành bác sĩ Shawn Tran chuyên khoa mổ tim ở St John s Hospital. Bốn mươi năm trôi qua, cái chết thảm khốc của Quang và niềm đau nỗi khổ của Phượng dần dần phôi pha theo thời gian nhờ vào tình yêu, sự bao dung và lòng tử tế của người chồng Mỹ tốt bụng đã cưu mang gia đình Phượng, mang đến cho Phượng một cuộc sống mới, êm đềm và hạnh phúc.

Một ngày, Phượng nhận được cú phone bất ngờ của chị Phương. Bên kia đầu dây, giọng chị lanh lảnh:

- Phượng ơi, tao nói chuyện này mầy bình tĩnh nghe đừng có xỉu nghen. Tao vừa đọc báo. Có người viết về cái chết của thằng Quang chồng mày hồi xửa hồi xưa. Có tấm hình thằng Quang chụp hồi còn trẻ. Mày tin không, má thằng Quang còn sống. Gia đình thằng Quang qua Mỹ ở khu Việt nam gần tiệm của tao. Bài báo kể người ta đào được xác chiếc máy bay rớt và hốt cốt mang về để ở viện bảo tàng nào đó trên Washington D. C.Chuyện dài dòng lắm. Tao ra bưu điện gửi cho mầy bài báo này liền. Overnight mai mầy nhận được. Bình tĩnh nghen mậy. Chuyện đâu còn đó. Khoan nói cho thằng Sơn biết. Mầy đọc báo xong rồi mình tính.

Suốt đêm qua Phượng mất ngủ, mong cho trời mau sáng để nhận thư tốc hành của bưu điện. Người đưa thư trao bì thư hình con én màu xanh và yêu cầu Phượng ký tên.Tay Phượng run run khi cầm cây viết.Cầm tờ báo trong tay, Phượng lật tới, lật lui, tìm mãi mới thấy cột báo. Tấm hình Quang hồi hai mươi tuổi, nét mặt đẹp trai, nghiêm nghị, ánh mắt buồn xa xôi, oai vệ trong bộ treillis, túi áo trái có in tên "Quang" màu trắng. Bài báo viết chi tiết về chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, về bà mẹ chồng Phượng chưa hề gặp mặt và một chi tiết quan trọng là viện bảo tàng Newseum ở Washington D. C hiện nay đang lưu trữ hài cốt của những người tử nạn.

Phượng nói với Shawn Phượng về Cali thăm dì Phương. Hai chị em đến tòa soạn gặp người phóng viên và xin địa chỉ nhà má Quang. Cuộc gặp gỡ đầu tiên, cả nhà bà Tư nhìn Phượng với cặp mắt tò mò, xa lạ và nghi ngờ. Bà Tư, vợ chồng Quyền và Quyên không tin có chuyện một người phụ nữ, hơn bốn mươi năm đến gia đình bà tự nhận là vợ của Quang. Họ không tin Quang có một đứa con trai ngoài bốn mươi tuổi. Họ không tin bốn mươi năm trôi qua trên đất nước Mỹ này lại có cuộc gặp gỡ ly kỳ ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Khi Phượng đem tất cả hình ảnh của Quang và Phượng chụp hồi còn trẻ ở Đà nẵng, hình thằng Sơn hồi còn nhỏ cho đến khi tốt nghiệp ra trường đậu bằng bác sĩ, nhất là tấm hình Quyền cung cấp cho người phóng viên đăng trên báo so với tấm hình ố vàng Phượng cầm trong tay là một, bà Tư bật khóc nức nở như một đứa trẻ. Xúc động, mừng vui, hạnh phúc dâng trào trong lòng bà mẹ già vào cuối đời. Từ đó, Phượng thường xuyên gọi điện thoại về Cali thăm bà. Tháng sau, Phượng dẫn Shawn về giới thiệu thằng cháu đích tôn của dòng họ Trần. Năm ngoái hai mẹ con về Cali. Năm nay, thằng Shawn về một mình thăm bà nội

3.
Sau đây là lời kể chuyện của nhân vật chính Trần Mỹ Sơn.

Tôi tên là Shawn Tran. Daddy đặt tên "Shawn" có nghĩa là "God is gracious ". Daddy nói tôi là ân sủng của Chúa mang đến cho Daddy. "Shawn" nghe giống như tên "Sơn", Trần Mỹ Sơn. Ngoại nói "Mỹ" có nghĩa là đẹp, "Sơn"có nghĩa là ngọn núi. Tên tôi là một ngọn núi đẹp. Mẹ nói Daddy chỉ là cha nuôi, cha ruột của tôi mất từ khi tôi còn trong bụng mẹ. Daddy đưa mẹ, bà ngoại, dì Phương và tôi qua Mỹ. Họ nuôi tôi khôn lớn. Tôi theo học nghề bác sĩ mổ tim của Daddy. Cả nhà ai cũng muốn tôi học nghề này để sau này chữa tim cho mọi người.

Sau chuyến đi Cali thăm dì Phương, mẹ kể rằng mẹ đã gặp gia đình bà nội ở Cali qua một tờ báo Việt ngữ. Trong chương trình POW (prisoners of war) và MIA (missing in action) tìm hài cốt của những người Mỹ mất tích thời chiến tranh Việt nam, họ đã tìm được những dấu tích về cái chết của ba tôi. Hiện nay, chúng được lưu giữ ở Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D.C. Mẹ đọc bài báo cho tôi nghe. Dù mẹ chưa nói, qua ánh mắt của mẹ, tôi hiểu rằng tôi phải đi một chuyến về Cali với mẹ, đến thăm bà nội, người đàn bà đã khóc nhiều về cái chết của ba tôi.

Từ Cali về, tôi tìm đọc những tài liệu về POW, MIA, những bài viết của các ký giả trong chuyến đào bới tìm dấu tích của chiếc trực thăng lâm nạn, về chiến tranh, cuộc hành quân Lam sơn nhất là về buổi lễ tưởng niệm và vinh danh những người bị mất tích tổ chức ngày mười tháng tám năm hai ngàn mười ở viện Bảo Tàng Newseum.

Bài viết của ký giả Richard Pyle viết về buổi lễ và những người tham dự. Họ là ai? Là những người mẹ, những người vợ, những đứa con đến từ Việt nam, Canada xa xôi, tay cầm những tấm "plaque", đầm đìa những giọt nước mắt khi ban tổ chức nhắc đến tên tuổi và vinh danh những người thân của họ đã hy sinh. Xạ thủ Trần Vinh Quang không được nhắc đến. Gia đình bà nội, mẹ tôi và tôi không được mời đến. Ban tổ chức buổi tưởng niệm này đâu biết rằng sau bốn mươi năm, gia đình trung sĩ xạ thủ Trần Vinh Quang đang sống ở nước Mỹ? Và tôi, đứa con rơi của xạ thủ Trần Vinh Quang là một công dân Mỹ, tìm được tông tích của bà nội và ba tôi năm ngoái trong một bài báo Việt ngữ ở cộng đồng người Việt ?

Sau khi thăm bà nội ở Cali, tôi đã đến thăm Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D. C. Trong chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, có ba người ký giả Mỹ và một người Nhật. Tôi đã đọc thấy tên tuổi và hình ảnh họ được gắn trên bức tường kính gọi là "Journalists Memorial Wall 1971 Vietnam War". Viện bảo tàng này là nơi lưu giữ những chứng tích và vinh danh những ký giả Mỹ và những ký giả quốc tế đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ. Điều gì đã khiến họ lao vào cái nghề nguy hiểm này? Sự đam mê nghề nghiệp, sự khao khát muốn ghi nhận những tin tức mới, nóng hổi nhất, trung thực nhất. Họ muốn những có "big shot" là những tấm hình ý nghĩa, độc đáo, đầy ấn tượng về sự tàn khốc của chiến tranh gửi đến những người ở sau mặt trận. Viện bảo tàng Newseum đã làm công việc đầy tính nhân đạo khi vinh danh những người chiến sĩ không mang súng gan dạ và thầm lặng này.

Nhắc đến bà nội, tôi mê những câu chuyện bà kể về ba tôi. Bà có tài kể chuyện sống động, chi tiết và hấp dẫn. Tôi không ngờ bà nhớ nhiều kỷ niệm về ba tôi đến thế. Hình như trong ba người con trai, ba tôi là đứa con cứng đầu và làm cho bà khóc nhiều nhất nhưng cũng là đứa con bà thương nhất. Ba tình nguyện chuyển ngành an ninh sang học bắn súng để ra tác chiến ngoài mặt trận đối với bà là một sự chọn lựa kinh khủng và ngu xuẩn làm bà đau lòng. Bà không muốn mất con.

Điều gì khiến ba tôi chọn lựa giữa công việc an ninh nhàn nhã ở hậu phương với đời lính gian khổ đầy hiểm nguy ngoài mặt trận? Lý tưởng? Tổ quốc ? Hay cả hai? Lần đầu tiên đi với mẹ về Cali gặp bà nội, bà đã cho tôi nguồn cảm hứng muốn tìm hiểu về ba,về cái chết của ba, về cuộc chiến tranh trên quê hương mà bấy lâu nay tôi hững hờ, quên lãng. Tôi lớn lên ở xứ Mỹ. Tôi không có quá khứ. Tương lai của tôi là những dự tính và ước mơ.

Tôi sinh ra tại Đà nẵng, vùng đất của quê ngoại, trên bản đồ quân sự thuộc vùng một chiến thuật. Cuộc chiến bắt đầu từ năm một chín năm mươi lăm đến một chín bảy lăm. Năm một chín bảy mốt là năm ba tôi mất, lúc đó tôi còn trong bụng mẹ được ba tháng tuổi. Thật là trễ tràng làm sao! Hơn bốn mươi năm trôi qua, bây giờ tôi mới có dịp tìm hiểu về chiến tranh ở đất nước tôi và biết đây là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai thế lực, hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản kéo dài hai mươi năm. Ở miền nam, Mỹ và phe Đồng Minh ủng hộ chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Bên kia dòng sông Bến Hải, Liện Xô và Trung quốc ủng hộ hai phe, tuy hai mà là một: Cộng sản Bắc Việt và tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Trải qua nhiều giai đoạn, cuộc chiến tranh này có những cái tên như là "chiến tranh đặc biệt" (1960-1965) "chiến tranh cục bộ" (1965-1968) "Việt nam hóa chiến tranh" (1969-1972). Ngày ba mươi tháng tư năm một chín bảy lăm là ngày cuộc chiến tranh chấm dứt. Toàn bộ miền Nam rơi vào tay Cộng sản.

"Việt nam hóa chiến tranh" có thể hiểu đây là cuộc chiến của người Việt nam.Có người nói người Mỹ đã bỏ rơi miền Nam và đồng minh. Họ rút lui, không chủ động tham gia cuộc chiến bằng nhân sự. Họ chỉ viện trợ vũ khí. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải tự lực chiến đấu. Theo lời mẹ kể, với lý tưởng chiến đấu quyết bảo vệ miền Nam và lòng yêu nước chân thành, ba tôi tình nguyện lao vào cuộc chiến đầy hiểm nguy này và biết rằng sự ra đi không hẹn ngày về.

Vào thời điểm đó, Cộng sản miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chuyển mục tiêu sang chiến trường Lào và Cam puchia, xây dựng căn cứ địa làm bàn đạp tấn công miền Nam. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào ngày tám tháng hai năm một chín bảy mốt. Hai ngày sau, chiếc máy bay trực thăng H- U1 Huey không phải là trực thăng chiến đấu hay trực thăng võ trang có bọc thép tốt và chống đạn xe tăng. Đây chỉ là loại trực thăng vận tải vỏ thép mỏng, võ trang yếu, chở các phóng viên và các cấp chỉ huy đi thị sát chiến trường. Trong chuyến bay có mười một người, ba tôi là tay súng giỏi nhưng bất ngờ lọt vào mạng lưới phòng không mạnh và dầy đặc của địch, lại thêm sương mù, chiếc trực thăng trúng đạn và bốc cháy.

Năm 1992, những người trong chương trình POW và MIA có nhiệm vụ tìm kiếm những người Mỹ mất tích đã đến Hạ Lào nơi chiếc trực thăng rớt. Năm 1994, họ tiếp tục công việc đào bới. Cùng với một số tin tức được cung cấp từ những bạn đồng đội trong không đoàn 41, phi đoàn 213 còn sống ở Mỹ, họ đã định vị đúng tọa độ và đã tìm được những mảnh kính của máy chụp hình, đồng hồ và những mảnh thép vỡ của máy bay. Họ đã sàng lọc những khúc xương cốt lẫn lộn với đất đá và đem về lưu trữ tại Viện Bảo Tàng. Xương cốt này không phải của một ai mà là của mười một người hy sinh trong đó có ba tôi. Nó không thuộc về cá nhân hay gia đình nào, nó thuộc về lịch sử của nước Mỹ.

Món quà tôi mang về cho bà nội lần này là những hình ảnh của Viện Bảo Tàng Newseum. Tôi sẽ nói với bà nội ba tôi đã được an nghỉ ở một ngôi nhà gần nhà của Tổng Thống Mỹ. Ngôi nhà ấy vĩ đại, có mười tầng lầu, mười lăm rạp chiếu bóng, mười bốn hành lang và hàng ngày có hàng chục ngàn người đến đây thăm viếng. Bà nội hãy yên lòng. Con trai cứng đầu của bà được an nghỉ ở một trong những nơi danh dự nhất của nước Mỹ. Còn một điều nữa, bà nội hãy tin rằng với tất cả chứng cứ về liên hệ huyết thống và hình ảnh, với sự công bằng và trung thực, tôi sẽ làm đủ mọi cách để Viện Bảo Tàng Newseum cần phải có một buổi lễ tưởng niệm cho ba tôi. Người cuối cùng phải là người đặc biệt. "The last but not the least". Bà nội hãy giữ sức khỏe để một ngày không xa, gia đình bà nội, mẹ và tôi sẽ đếnViện Bảo Tàng Newseum tham dự buổi lễ vinh danh trung sĩ Trần Vinh Quang. Nỗi đau khổ của bà nội và mẹ sau bốn mươi năm phải được đền bù xứng đáng trong lịch sử nước Mỹ.

Tôi sẽ nói với cậu Quyền lần này tôi muốn cậu dẫn tôi đến thăm một địa danh lịch sử ở khu Little Saigon nơi có cộng đồng người Việt sinh sống đó là tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ "Vietnam War Memorial" ở Westminster. Hai người lính Mỹ, Việt cầm súng đứng bên nhau bên cạnh hai lá cờ Việt, Mỹ vẫn là hình ảnh đẹp, oai hùng và ý nghĩa. Trong tâm tôi sẽ không dấy lên chút tình cảm căm hận nào.Trái lại, đầy sự ngưỡng mộ và biết ơn. Người lính Việt Nam Cộng Hòa đó cũng chính là hình ảnh của ba tôi ngày xưa. Ba tôi chiến đấu vì lá cờ vàng cũng như những người lính Mỹ đã chiến đấu vì nền độc lập, tự do của nước Mỹ và cho nhân loại trong khối tự do.

Năm nay tôi đã bốn mươi ba tuổi. Đã hơn nửa đời người. Không quá muộn màng cho tôi khi tôi tìm về với cội nguồn của gia đình, quê hương và dân tộc mà trước đây tôi như một người xa lạ. Tôi muốn cám ơn bà nội, cậu mợ Quyền, dì Quyên những thân tộc đã nối lại sợi dây huyết thống thiêng liêng của dòng họ Trần. Tôi cảm nhận được tình thương quá bao la và đặc biệt bà dành cho ba tôi và đứa cháu nội này. Một ngày nào đó bà sẽ từ giã cõi đời. Tôi biết chắc một điều bà sẽ ra đi thanh thản, bình yên vì theo lời di chúc của bà, tôi sẽ thay ba tôi ôm chiếc hình của bà trong ngày tang lễ.

Tôi muốn cám ơn bà ngoại, mẹ tôi và dì Phương đã chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ tôi từ tấm bé cho đến khi tôi trưởng thành. Những chai sữa ngọt đầu đời là những ngày dì Phương dãi dầu mưa nắng ngoài chợ trời đem về cho tôi.Tôi nói và đọc được tiếng Việt là nhờ những buổi hai bà cháu cùng ngồi rù rì học với nhau ngoài vườn và từ những câu chuyện cổ tích tôi nghe hoài không chán. Và mẹ tôi, người mẹ tuyệt vời, tôi không có lời lẽ nào hơn để ca ngợi bà. Bà đã mạnh mẽ đứng lên vượt lên trên nổi khổ đau giữ lại cho tôi hình hài này.

Từ trong đáy lòng, tôi chân thành cám ơn Daddy Daniel, cha nuôi người Mỹ của tôi. Ông là cây cổ thụ cho gia đình tôi nương dựa bốn mươi năm qua. Danh vọng, địa vị, tiền bạc, hạnh phúc, tình thương tôi có được ngày hôm nay phát xuất từ tấm lòng nhân hậu và bao dung của ông.

Cuối cùng là những lời xin lỗi muộn màng của tôi với Ba.

Hơn bốn mươi năm qua, trong tâm tưởng, tôi đã quên tôi còn một người cha.Tôi không giữ chút kỷ niệm gì trong ký ức về ông vì ông đã ra đi trước khi tôi cất tiếng khóc chào đời.Thật là kỳ diệu khi gặp lại bà nội. Bà là chiếc cầu nối vững vàng, là bàn tay nắm dịu dàng và ấm áp dẫn tôi đến với Ba, là chất keo dính ngọt ngào làm cho hình ảnh Ba như sống dậy trong lòng tôi.Giờ đây, nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung hình ảnh ông hiện ra rõ ràng, thân thiết, gần gũi và đầy tình yêu thương.

Tôi rất hãnh diện về Ba tôi, người lính Việt Nam Cộng Hòa, anh dũng, kiêu hùng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ miền Nam. Lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công ơn ông và những người đồng đội. Ông mãi mãi là hình ảnh đẹp nhất trong lòng tôi, giọt máu rơi của ông, người lính chết trẻ.

Phùng Annie Kim
   __._,_.___

 


mk
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 14 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.283 seconds.