Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Lịch Sử - Nhân Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Lịch Sử - Nhân Văn |
Chủ đề: CA DAO TỤC NGỮ | |
<< phần trước Trang of 16 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 28/Feb/2011 lúc 5:53am |
CA DAO TỤC NGỮ
1. Ta về ta tắm ao ta Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn 2. Tai em nghe anh đau đầu chưa khá 3. Tam sao thất bản 4. Tấn thối lưỡng nan, cực khổ trăm bề 5. Tập tàng đem nấu với suông 6. Tập tầm vông 7. Tàu súp lê một còn trông còn đợi 8. Tay bưng dĩa muối chấm gừng 9. Tay mang khăn gói sang sông 10. Tay mang túi bạc kè kè Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Feb/2011 lúc 5:54am |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 02/Mar/2011 lúc 10:46pm |
CA DAO TỤC NGỮ
11. Tay tiên rót chén rượu đào 12. Thà rằng chẳng biết cho xong 13. Thà rằng ăn nửa quả hồng 14. Thà thua xuống láng, xuống bưng 15. Tham thì thâm 16. Than rằng gối gấm không êm 17. Thân em như giếng giữa đường 18. Thân em như hạt mưa sa 19. Thân em như hạt mưa rào 20. Thân em như tấm lụa đào |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 02/Mar/2011 lúc 10:48pm |
CA DAO TỤC NGỮ
11. Tay tiên rót chén rượu đào 12. Thà rằng chẳng biết cho xong 13. Thà rằng ăn nửa quả hồng 14. Thà thua xuống láng, xuống bưng 15. Tham thì thâm 16. Than rằng gối gấm không êm 17. Thân em như giếng giữa đường 18. Thân em như hạt mưa sa 19. Thân em như hạt mưa rào 20. Thân em như tấm lụa đào |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 04/Mar/2011 lúc 7:50am |
CA DAO TỤC NGỮ
21. Thân em như thể trái chanh 22. Thân tui thui thủi một mình 23. Tháng Ba cơm gói ra hòn 24. Tháng Giêng là tháng ăn chơi 25. Tháng Tám có lệnh vua ra 26. Thằng Bờm có cái quạt mo 27. Thành thị chỗ nào cũng xí xô xí xào khách trú 28. Thất là mất 29. Thấy bạn mà chẳng thấy chàng 30. Thấy mặt đặt tên Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Mar/2011 lúc 7:50am |
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 16/Jun/2011 lúc 1:07pm |
Những câu Ca Dao mặn mà dễ thương! <<<Xin bấm vào
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 16/Jun/2011 lúc 1:09pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22937 |
Gởi ngày: 11/Nov/2013 lúc 9:01am |
Ca Dao Việt Nam ăn lắm thì hết miếng ngon, nói lắm thì hết lời khôn, hóa rồ ăn rồi nằm ngả nằm nghiêng, có ai lấy tớ thì khiêng tớ về ăn thì ăn lấy miếng ngon, làm thì chọn việc cỏn-con mà làm ai mà nói dối cùng ai, thì trời giáng họa cây khoai giữa đồng ai mà phụ nghiã quên công, thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm ai nhất thì tôi thứ nhì, ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba ai ơi, đã quyết thì hành, đã đốn thì vác cả cành lẫn cây ai ơi, chớ vội cười nhau, cây nào là chẳng có sâu chạm cành ai ơi, chớ vội cười nhau, cười người hôm trứơc hôm sau người cười ai ơi, đừng chóng chớ chầy, có công mài sắt có ngày nên kim ai ơi, giữ chí cho bền, mặc ai xoay hướng đổi nền mặc ai ai ơi, hãy ở cho lành, kiếp này chẳng gặp, đề dành kiếp sau ai về nhắn chị hàng cau, chiều buồm dấp nước giữ màu cho tươi ai về, tôi gửi buồng cau, buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy ai về, tôi gửi đôi giầy, phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi anh đánh thì tôi chịu đòn, tính tôi hoa-nguyệt, mười con chẳng chừa anh đi ba bữa anh về, rừng sâu nước độc, chớ hề ở lâu anh đi đàng ấy xa xa, để em ôm bóng trăng tà năm canh anh đi em ở lại nhà, hai vai gánh nặng mẹ già con thơ anh đi lúa chửa chia vè, anh về lúa đã đỏ hoe đầy đường anh kia có vợ hay chưa, mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào? anh ơi phải lính thì đi, cửa nhà đơn chiếc đã thì có em anh trông thân-thế tôi này, có ăn có mặc nó bầy ra đây áo người mặc đoạn cởi ra, chồng người ấp mượn, canh ba lại hoàn bắc cân thiên tạo mà cân, vàng thì nặng một, ái ân nặng mười bắc thang lên hỏi ông trời, những tiền cho gái có đòi được không bực mình chẳng muốn nói ra, muốn đi ăn cỗ chẳng ma nào mời ba đồng một bát nước chè, tuy rằng em đẹp nhưng què một chân bà già đã tám mươi tư, ngồi trong cửa sổ gửi thư lấy chồng bà gia khó tánh không vừa, con dâu cũng phải sớm trưa cho tròn ba năm ở với người đần, chẳng bằng một lúc ở gần người khôn ba phen quạ nói với diều, cù lao ông chưởng còn nhiều cá tôm ba phen quạ nói với diều, ngả kinh ông hóng có nhiều vịt con ba phen quạ nói với diều, vườn hoang cỏ rậm thì nhiều gà con bạc bảy đâu sánh vàng mười, mồ côi đâu sánh cùng người có cha bậu về, bậu nhớ qua chăng? qua về, qua nhớ hàm răng bậu cười bởi anh tham thích việc công, cho nên mới có bồ trong bịch ngoài bần cư tại thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm bán hàng ăn những chùm cau, chồng con có biết cơ cầu nầy chăng bạn vàng lại gặp bạn vàng, long, lân, qui, phụng, một đoàn tứ linh bảng treo tại chợ cai tài, bên văn bên võ có tài ra thi bao giờ cá lý hóa long, đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa bao giờ cho đến tháng năm, thổi nồi cơm nếp vừa nằm vừa ăn bao giờ cho khỉ đeo hoa, cho voi đánh sáp, cho gà nhuộm răng bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn bé nhưng mà bé hạt tiêu, bé cay, bé đắng, bé xiêu lòng người biết đâu là tổ chuồn-chuồn, biết đâu cú đậu, biết đâu lươn nằm bông lài, bông lý, bông ngâu, không bằng bông bưởi, thơm lâu, dịu dàng bông ngâu rụng xuống cội ngâu, em còn phụ mẫu dám đâu tư tình bông thơm thơm lạ thơm lùng, thơm cây, thơm rễ, người trồng cũng thơm bướm bay, bướm cũng bạc đầu, thấy hoa thiên-lý cúi đầu làm tôi bươm-bướm mà đậu cành hồng, đã yêu con chị, lại bồng con em cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư cá lên khỏi nước cá khô, làm thân con gái lõa lồ ai khen cá nục nấu với dưa hồng, lờ-lờ có kẻ mất chồng như chơi cám ơn bà nguyệt ông tơ, xe đôi chỉ thắm em nhờ được không? cầm vàng mà lội qua sông, vàng trôi không tiếc, tiếc công cầm vàng cạn đàm thì uống nước khe, hết người lịch-sự, thì ve người đần càng già, càng dẻo, càng dai, càng gẫy chân chõng, càng sai chân giường cây cao bóng mát không ngồi, ra ngồi chổ nắng trách trời không râm cây cao chẳng quản gió rung, đê cao chẳng quản nước sông tràn vào cây cao thì gió càng lay, càng cao danh-vọng càng dày gian-truân cha chài, mẹ lưới, con câu, chàng rể đóng đáy, con dâu ngồi nò cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ thì tính tháng tính ngày chàng ơi phải lính thì đi, cửa nhà đơn chiếc, đã thì có em chàng ơi phụ thiếp làm chi, thiếp là cơm nguội, để khi đói lòng chàng về để áo lại đây, để khuya em đắp, gió tây lạnh lùng chẳng được miếng thịt miếng xôi, cũng được lời nói cho nguôi tấm lòng chẳng nên cơm cháo gì đâu, trở về đốt bãi, trồng dâu nuôi tằm chanh chua thì khế cũng chua, chanh bán có mùa, khế bán quanh năm cháu lành cháu ở cùng bà, cháu còn nghịch ngợm, cháu ra ngoài đường cháu ơi cháu ở với ông, để mẹ lấy chồng kiếm chút em con chỉ đâu mà buộc ngang trời, tay đâu mà đậy miệng cười thế-gian chỉ điều ai khéo vấn vương, mỗi người mỗi xứ, mà thương nhau đời chì khoe chì nặng hơn đồng, sao chì chẳng đúc nên còng, nên chuông chim khôn đậu nóc nhà quan, trai khôn tìm vợ, gái ngoan tìm chồng chim khôn chưa bắt đã bay, người khôn chưa nói dang tay đỡ lời chim khôn kêu tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dể nghe chim khôn thì khôn cả lông, khôn cả cái lồng, người xách cũng khôn chim khôn tránh lưới, tránh dò, người khôn tránh chốn xô-đồ mới khôn chim xanh đậu nhành cây khế, anh thương một nàng ở Huế mới vô chim, gà, cá, lợn, cành cau, mùa nào thức ấy giữ mầu nhà quê chiều chiều én liệng trên trời, rùa bò dưới nước, khỉ ngồi trên cây chiều chiều lại nhớ chiều chiều, nhớ người áo trắng khăn điều vắt vai chiều chiều lại nhớ chiều chiều, nhớ nồi cơm nguội nhớ niêu nước chè chiều chiều mây phủ hải vân, chim kêu ghềnh đá gẫm thân em buồn chiều chiều vịt lội cò bay, ông voi bẻ mía, chạy ngay vô rừng chớ chê em xấu em đen, em như nước đục đánh phèn lại trong chớ nghe quân tử nói òn, mà rồi có lúc ẫm con một mình chớ thấy hùm ngủ vuốt râu, đến khi hùm dậy, đầu-lâu không còn chợ chiều nhiều khế, ế chanh, nhiều con gái lạ nên anh chàng ràng chơi trăng từ thuở trăng non, chơi hoa từ thuở hoa còn trên cây chó đâu chó sủa chỗ không, chẳng thằng ăn trộm, cũng ông ăn mày chó ốm xấu mặt chủ nhà, nàng dâu rách rưới, mụ gia thẹn-thùng chốn uớc-mơ lất-lơ mà hỏng, nơi tình-cờ mà đóng nhân-duyên chồng đánh bạc, vợ đánh bài, chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng chồng cô, vợ cậu, chồng dì, trong ba người ấy, chết thì không tang chồng còng lại lấy vợ còng, nằm phản thì chật, nằm nong thì vừa chồng già vợ trẻ là tiên, vợ già chồng trẻ là duyên nợ-nần chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê chồng giận thì vợ làm lành, miệng cười hớn-hở, rằng : Anh giận gì ? chồng hen lại lấy vợ hen, đêm nằm cò-cử như kèn thổi đôi chồng khôn vợ đặng đi giày, vợ khôn chồng ắt có ngày làm quan chồng lớn vợ bé thì xinh, chồng bé vợ lớn ra tình chị em chồng người chẳng mượn được lâu, mượn người hôm trước, hôm sau người đòi chồng thấp mà lấy vợ cao, nồi tròn vung méo, úp sao cho vừa chữ rằng: "chi tứ vu qui", làm thân con gái, phải đi theo chồng chữ tình ai bứt cho rời, tơ hồng đã định đổi dời được đâu chừng nào đá nổi vông chìm, muối chua chanh mặn, mới tìm đặng anh chú kia nhổ mạ trên cồn, nước nôi không có miệng mồm lấm lem chuột chù chê khỉ rằng hôi, khỉ lại trả lời : cả họ mày thơm chuồn-chuồn có cánh thì bay, kẻo thằng ỏng bụng bắt mày đem chôn chuông già đồng điệu chuông kêu, anh già lời nói, em xiêu tấm lòng cờ bạc canh đỏ, canh đen, nào ai có dại đem tiền vứt đi cờ bạc là bác thằng bần, ruộng nương bán hết, chôn chân vào cùm cơm ăn mỗi bữa một lưng, hơi đâu đi giận người dưng thêm phiền cơm hẩm nấu với cá kho, chồng xấu vợ xấu nhưng lo mà gầy cơm sôi cả lửa thì khê, việc làm hay hỏng là lề thế gian có chồng chẳng được đi dâu, có con chẳng được đứng lâu một giờ có chồng mà chẳng có con, khác chi hoa nở trên non một mình có cưới mà chẳng có cheo, nhân duyên trắc trở, như kèo không đinh có duyên lấy được chồng già, ăn xôi bỏ cháy, ăn gà bỏ xương có khó mới có mà ăn, không dưng ai dể mang phần tới cho cô kia đen thủi đen thui, phấn đánh vô hồi, đen vẫn hoàn đen cô kia má tựa hồng than, nằm đâu ngủ đãy, lại toan chê chồng có trầu mà chẳng có cau, làm sao cho đỏ môi nhau thì làm có vàng, vàng chẳng phân phô, có con, con nói trầm trồ mẹ nghe có vất vả mới thanh nhàn, không dưng ai dể cầm tàn che cho có việc thì lo phay pháy, không việc thì ngáy pho pho con cô, con cậu thời xa, con chú, con bác, thật là anh em con cóc nằm ép bờ ao, lăm-le lại muốn đớp sao trên trời con gà con vịt cũng không, bóng tre có mát, ngoài đồng không ai con gái giống cha giàu ba họ, con trai giống mẹ khó ba đời con gái giống cha, giầu ba mươi đụn, con trai giống mẹ khó lụn tận xương con gái là con người ta, con dâu mới thật mẹ cha cưới về con gái mới về nhà chồng, thổi cơm nồi đồng, nửa sống nửa khê con gái mười hai bến sông, bến đục thì chịu, bến trong thì nhờ con mèo con chuột có lông, ống tre có mắt, nồi đồng có quai con người có cố, có ông, như cây có cội, như sông có nguồn con ông Ðô-Ðốc, Quận-Công, lấy chồng cũng phải gọi chồng bằng anh con quạ tha lá lợp nhà, con cu chẻ lạt, con gà dừng phên con quan thì lại làm quan, con nhà kẻ khó đót than tối ngày con quì lậy chúa ba ngôi, con lấy được vợ con thôi nhà thờ con sâu làm rầu nồi canh, một người làm đĩ xấu danh đàn bà còn duyên đỏng-đảnh chê chồng, hết duyên, ngồi gốc cây hồng nhặt hoa còn duyên kẻ đón người đưa, hết duyên đi sớm về trưa một mình còn duyên kẻ đón người đưa, hết duyên, đi sớm đi trưa mặc lòng còn duyên kẻ đón người đưa, hết duyên, vắng ngắt như chùa bà Ðanh còn duyên kén những trai tơ, hết duyên, ông lão cũng vơ làm chồng còn duyên như tượng tô vàng, hết duyên, như tổ ong tàn ngày mưa còn tiền, chè chén cũng hay, hết tiền, đi ngủ lại hay giật mình còn trời, còn nước, còn non, còn cô bán rượu anh còn say-sưa công cha như núi Thái-Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chẩy ra công danh theo đuổi mà chi, sao bằng chăm chỉ lấy nghề canh nông cực lòng em phải nói ra, chờ trăng, trăng xế, chờ hoa, hoa tàn cười người chớ có cười lâu, cười người hôm trước hôm sau người cười của đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh-hùng mà thôi của làm ra để trên gác, của cờ bạc để ngoài sân, của phù-vân để ngoài ngõ của trời trời lại lấy đi, trơ trơ cặp mắt làm chi được trời củi đậu nấu đậu ra dầu, lấy em không đặng cạo đầu đi tu cũng đòi ăn đếch với chanh, vừa chua, vừa chát, vừa tanh cả mồm cũng đòi ăn đếch với gừng, vừa cay, vừa đắng, vừa sưng cả mồm cũng nhờ đôi bác đôi bên, mỗi người mỗi tiếng, mới nên can thường dầu ai đá ngả xô nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiền ba chân dầu ai nói đông nói tây, lòng ta vẫn vững như cây trên rừng dẫu ngồi cửa sổ trạm rồng, chiếu hoa nệm gấm, không chồng cũng hư dạy con dạy thuở còn thơ, dạy vợ dạy thuở ban sơ mới về dạy con, dạy thuở lên ba, dạy vợ dạy thuở mẹ cha đưa về diều hâu quà quạ kên kên, ba giống chim ấy hay thèm thịt thiu dốc một lòng lấy chồng dốt nát, để ra vào rửa bát nấu cơm dốc một lòng lấy chồng hay chữ, để ra vào kinh sử mà nghe dù ai cho bạc cho vàng, chẳng bằng trông thấy mặt chàng hôm nay dù ai nói ngược, nói xuôi, ta đây vẫn giữ đạo trời khăng-khăng dù chàng năm thiếp bẩy thê, cũng không tránh khỏi gái xề này đâu duyên sao cắt cớ hỡi duyên, cầm gương gương tối, cầm vàng vàng phai đã thành gia thất thì thôi, đèo bồng chi nữa, tội trời ai mang? đã từng ăn bát cơm đày, đã từng nhịn đói bẩy ngày không ăn đàn bà chân y0u, mềm tay, làm ăn chẳng được lại hay nỏ mồm đàn bà lanh-lảnh tiếng đồng, một là sát chồng, hai là hại con đàn đâu mà gẩy tai trâu, đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi đàn ông chẳng xứng chút nào, vợ kia vợ nọ biết bao cho vừa đàn ông leo núi đốn cây, đàn bà bán chợ nuôi bầy con thơ đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà đàn ông miệng rộng thì tài, đàn bà miệng rộng điếc tai xóm giềng đắng cay cũng thể ruột rà, ngọt-ngào cho lắm cũng là người dưng đánh cờ nước bí không toan, dù anh khéo liệu, trăm bàn cũng thua đắt hàng gập ả, gập anh, ế hàng gập những thong-manh quáng gà đêm đêm vuốt bụng thở dài, thở ngắn bằng trạch, thở dài bằng lươn đêm khuya thiếp mới hỏi chàng, cau khô ăn với trầu vàng xứng chăng đêm nằm tơ tưởng, tưởng tơ, chiêm bao thấy bậu, dậy rờ chiếu không đêm qua chớp bể mưa nguồn, hỏi người tri-kỷ có buồn hay không đêm qua đốt đỉnh hương trầm, khói lên nghi ngút âm thầm lòng ai đêm qua mới gọi là đêm, ruột xót như muối, dạ mềm như dưa đến đây dầu đói giả no, dầu khôn giả dại đặng dò ý em đến đây dầu lạ sau quen, bóng trăng là nghĩa, ngọn đèn là duyên đi đâu cho thiếp đi cùng, đói no thiếp chịu, lạnh-lùng thiếp cam đi đâu có anh, có tôi, người ta mới biết là đôi vợ chồng đi đâu mà vội mà vàng, mà bỏ túi bạc, mà mang túi chì đi đâu mà vội mà vàng, mà vấp phải đá mà quàng phải dây đi cho biết đó biết đây, ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn đĩ dại làm hại thằng tù, nó cho cái kẹo, nó cù cả đêm đi lâu mới biết đường dài, ở lâu mới biết con người phải chăng đi ra đường soi gương phấn sáp, khi về nhà liếm-láp nồi niêu đố ai bắt trạch đằng đuôi, bắt chim đầu cánh, bắt người trong trăng đố ai lặn xuống vực sâu, mà đó miệng cá, uốn câu cho vừa đố ai nằm võng không đưa, ru con không hát anh chừa nguyệt hoa đó đây trước lạ sau quen, chẳng gần, qua lại đôi phen cũng gần đó vàng đây cũng đồng đen, đó hoa thiên lý, đây sen nhị hồ đói lòng nằm gốc cây cung, chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng đói no một vợ một chồng, một niêu cơm tấm mà thương nhau đời đôi ta được gặp nhau đây, khác chi chim phụng gặp cây ngô đồng đốt than nướng cá cho vàng, lấy tiền mua rượu cho chàng uống chơi đường dài mới biết ngựa hay, có con mới biết công dầy mẹ cha em lấy chồng nay biết bao năm, mà anh còn tưởng những ngày còn đâu em như trái mít chín cây, anh như con quạ chờ ngày tới nêm em như trái mít chín cây, anh như con quạ rỉa cây ăn lần gặp mặt anh đây em chẳng dám chào, sợ cha mẹ hỏi thằng nào biết con gặp mặt anh đây em chẳng muốn chào, hay là em có chốn sang giàu hơn anh gần sông cội mới ngả kề, tiếng tăm anh chịu em về tay ai giàu đâu đến kẻ ngủ trưa, sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày giầu thì cơm cháo bổ lao, đói thì đánh điếu thuốc lào cầm hơi gió bay cầu thấp cầu cao, gió bay cầu nào con chỉ mẹ coi gió đưa bông lách bông lau, gió đưa em bậu xuống tàu ăng lê gió đưa mười tám lá xoài, bên văn bên võ có tài hát thi gió đưa trăng là trăng đưa gió, trăng lặn rồi gió biết đưa ai? gió mùa thu mẹ ru con ngủ, năm canh chầy, thức đủ về năm học cho lắm, tắm cũng ở truồng hai tay bưng quả bánh bò, giấu cha, giấu mẹ cho trò đi thi hoa thơm ai nỡ bỏ rơi, người khôn ai nỡ nặng lời mà chi hoa thơm mất nhụy đi rồi, còn thơm đâu nữa mà người ước ao hoa thơm mất nhụy đi rồi, dẫu rằng trang điểm cũng thời vô duyên hòn đất mà biết nói năng, ông thầy địa lý hàm răng không còn hơn nhau tấm áo tấm quần, thả ra mình trần ai cũng như ai hồn rằng hồn thác ban ngày, thương con nhớ vợ hồn rày thác đêm khuyên chàng đọc sách ngâm thơ, dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu kim vàng ai nỡ uốn câu, người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời kình-nghê vui thú kình-nghê, tép tôm thì lại vui bề tép tôm lạ cho đêm ấy mới thành, nhớ ai ai nhớ biết mình nhớ ai lập vườn thì phải khai mương, làm trai hai vợ phải thương cho đồng làm trai giữ trọn ba giềng, thảo cha ngay chúa, vợ hiền chớ vong làm trai rửa bát quét nhà, vợ gọi thì dạ bẩm bà con đây lan huệ sầu ai lan huệ héo, lan huệ sầu chồng, trong héo ngoài tươi lấy anh chớ thắp đèn dầu, đã không sáng rõ càng rầu thấu xương lấy chồng trà rượu là tiên, lấy chồng cờ bạc là duyên nợ nần lên non bẻ lá họa hình, họa cho thấy mặt kẻo tình nhớ thương lên non chọn đá thử vàng, thử cho đúng lượng mấy ngàn cũng mua lên non mới biết non cao, nuôi con mới biết công lao mẫu từ lên xe túc một tiếng còi, thương con nhớ vợ, lịnh đòi phải đi lênh đênh một chiếc thuyền tình, mười hai bến nước, gởi mình vào đâu lỡ quan, lỡ lính, lỡ làng, lỡ bề dân giả, lỡ hàng công khanh lỡ tay đã nhúng vào chàm, dại rồi mới biết nên làm sao đây lửa nhen vừa mới bén trầm, trách lòng cha mẹ nỡ cầm duyên con mẫu đơn mọc cạnh nhà thờ, đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng mẹ cha bú mớm nâng niu, tội trời thì chịu, không yêu bằng chồng mẹ già ở tấm lều tranh, đói no chẳng biết rách lành không hay mẹ già ở tấm lều tranh, sớm thăm tối viếng mới đành dạ con mẹ ơi con đã có bầu, con ơi mẹ cũng một sầu như con mẹ tôi đã có người nuôi, tôi theo chú lái cho xuôi một bề mẹ với cha thật là khó kiếm, đạo vợ chồng chẳng hiếm chi nơi mèo tha miếng thịt thì đòi, kểnh tha con lợn mắt coi chừng chừng miếng ăn là miếng tồi-tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu miếng trầu ăn nặng bằng chì, ăn rồi em biết lấy gì đền ơn ? mình nhớ ta như cà nhớ nước, ta nhớ mình như cuội nhớ trăng một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao một lần cho tởn tới già, đừng đi nước mặn mà hà ăn chơn một liều ba bảy cũng liều, cũng như con trẻ chơi diều đứt dây một mai nước ngập nhà trôi, hoa rơi lá rụng còn ngồi chờ chi một mình vừa chống vừa chèo, không ai tát nước đỡ nghèo một khi muốn lên non tìm con chim lạ, chớ chốn thị thiềng chim lạ thiếu chi nào khi lên võng xuống dù, kêu dân dân dạ, bây giờ dạ dân nào khi nặng gánh em chờ, qua truông em đợi, bây giờ phụ em nghèo mà hay chữ thì hơn, giàu mà hay chữ như sơn thếp vàng ngó lên đám bắp trổ cờ, đám dưa trổ nụ, đám cà trổ bông ngó lên nhang tắt đèn lờ, mẫu thân đâu vắng bàn thờ lạnh tanh ngồi bên cửa sổ chạm rồng, chăn loan gối phụng không chồng cũng hư ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, miệng nhai cơm bún lưỡi lừa cá xương ngồi buồn vọc nước giỡn trăng, gió xao, trăng lặn buồn ơi là buồn ngồi rồi sao chẳng xé gai, đến khi có cá mượn chài ai cho người đời ai khỏi gian nan, gian nan có thuở, thanh nhàn có khi người hiền khác thế chi lan, gần hơi cho lắm lại càng thơm lây nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên nhớ ai ra ngẫn vào ngơ, nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai nhớ em như hút thuốc lào, hút xong một điếu lao-đao cả ngày những nghe nói đã thẹn thùng, nước đời lắm nỗi lạ-lùng khắc-khe nước sông trong chảy lộn sông ngoài, thương người xa xứ lạc loài đến đây nước trên nguồn chảy xuống ruộng xanh, khổ thì chịu khổ lìa anh không lìa ông hương ông xã biểu đưng, ông trưởng biểu nghỉ ông trùm biểu thôi ở đời đừng có trèo cao, lỡ tay một chút lại nhào xuống luôn ở đời lắm sự trái ngang, người ngay mắc nạn kẻ gian đứng cười ở đâu cũng có anh hùng, thời nào cũng có kẻ khùng người điên phận gái tứ đức vẹn tuyền, công dung ngôn hạnh vẹn tuyền trước sau phải cho bền chí câu cua, mặc ai câu trạnh câu rùa mặc ai phụng hoàng đầu đỏ mỏ đen, ra đi mẹ dặn, gặp em kết nguyền qua cầu ngã nón trông cầu, cầu bao nhiêu nhịp em sầu bấy nhiêu qua cầu ngã nón trông đình, đình bao nhiêu ngói em thương mình bấy nhiêu qua cầu than thở cùng cầu, cầu bao nhiều nhịp, dạ sầu bấy nhiêu quạt này mát lắm ai ơi, quạt rồi để lại chớ chơi cầm về quay tơ thì giữ mối tơ, dầu năm bảy mối cũng chờ mối anh quyết lòng chờ đợi trò thi, dầu ba mươi tuổi lỡ thì cũng ưng ra đi là sự đã liều, mưa mai chẳng biết, nắng chiều chẳng hay ra đi mẹ đà dặn rằng, điếu xin thì hút, điếu mua thì đừng ra đi, em một ngó chừng, ngó sông, sông rộng, ngó rừng, rừng cao rủ nhau lên núi dạo chơi, mặt trời đã lặn sương rơi đã mù rủ nhau xuống biển bắt cua, lên non bắn nhạn, vô chùa nghe kinh rượu kia nào có say người, hỡi người say rượu, chớ cười rượu say rượu nằm trong nhạo chờ nem, anh nằm phòng vắng chờ em một mình sáng trăng trải chiếu hai hàng, bên anh đọc sách bên nàng quay tơ say là say nghĩa say nhan, say thơ Lý Bạch, say đàn Bá Nha sơn lâm mấy cội tượng vàng, cành bao nhiêu lá thương chàng bấy nhiêu sông sâu cá lội biệt tăm, người thương có ngãi trăm năm cũng chờ sống thời say rượu lè nhè, chết thời cặp mắt đỏ kè thấy ghê sống thì con chẳng cho ăn, đến khi thác xuống làm văn tế ruồi ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn tai nghe quan huyện đòi hầu, mua chanh cùng khế gội đầu cho trơn tay bưng dĩa muối chén gừng, gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau than rằng gối gấm không êm, gối lụa không mềm bằng gối tay em than thân trách phận giận thời, vì đâu đến nỗi một đời dở dang tháng ngày lận đận lưng cong, trông sau ngó trước cõi lòng nát tan thấy em như thấy mặt trời, thấy thời thấy vậy trao lời khó trao thế gian ba sự chẳng chừa, rượu nồng dê béo gái vừa mởn-mơ thị ơi rớt bị bà già, đem về bà hửi chứ bà không ăn thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng, khác gì như thể phượng hoàng gặp nhau thiên minh minh địa minh minh, trời cao đất rộng thiên linh lắm mà thôi thôi bớt thảm giảm sầu, gối loan chẳng đặng giao đầu thời thôi thứ nhất sợ kẻ anh-hùng, thứ nhì sợ kẻ khốn-cùng liều thân thứ nhất muố i tiêu, thứ nhì việt-kiều thủng thẳng mà lượm hoa rơi, ở cho có chí hơn người trèo cao thương ai thương cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng thương chàng, thương lắm chàng ơi, biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than thương em thề-thốt với trời, thương luôn cả cái nốt ruồi em ơi thuyền ai lơ lửng bên sông, cho qua giang họ chút lòng nhớ quê tìm em như thể tìm chim, chim ăn biển bắc, đi tìm biển đông tới đây chẳng hát thì hò, chẳng phải như cò ngóng cổ mà nghe tới đây lạ xứ lạ người, trăm bề nhẫn nhịn đừng cười tôi quê tới đây lạt miệng thèm chanh, ở nhà đã có cam sành chín cây tóc em dài, em cài bông hoa lý, miệng em cười có ý anh thương tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người trăm năm dầu lỗi hẹn hò, cây đa còn đó con đò khác đưa trâu anh con cỡi con dòng, lại thêm con nghé cực lòng thằng chăn trời mưa dưới biển mưa lên, trai hai mươi tuổi muốn khênh bà già trông người lại gẫm đến ta, một dầy một mỏng biết là có ngươi trúc xinh trúc mọc đầu đình, bậu xinh bậu đứng một mình cũng xinh từng mây chưa bỗng cánh hồng, tiêu ma tuế nguyệt ngại ngùng tu mi vắng tanh như buổi chợ chiều, điù-hiu như buổi người yêu lấy chồng vai mang khăn gói thẳng xông, mẹ kêu mặc mẹ, theo chồng phải theo vàng thời thử lửa thử than, người khôn thử tiếng, người ngoan thử lời vì dây thiên lý ngang trời, để cho tài tử gặp người giai nhân việt-gian, việt-cộng, việt-kiều, ba thằng hợp lại tiêu-điều Việt-Nam vô chùa thấy Phật muốn tu, về nhà thấy mẹ công phu chưa đành xăm xăm bước tới cây chanh, lăm le muốn bẻ, sợ nhành chông gai xưa kia có thế này đâu, chỉ vì sợ vợ mà râu quặp vào yêu anh tâm trí hao mòn, yêu anh đến thác cũng còn yêu anh yêu nhau chữ vị là vì, chữ dục là muốn, chữ tùy là theo st. |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged | |
lo cong
Senior Member Tham gia ngày: 30/Oct/2007 Đến từ: Canada Thành viên: OffLine Số bài: 2596 |
Gởi ngày: 15/Nov/2014 lúc 11:42am |
Ca Dao, Tục Ngữ Về Địa Danh 3 Miền
Miền Nam Sài Gòn:
Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 15/Nov/2014 lúc 11:50am |
|
Lộ Công Mười Lăm
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 12/Dec/2014 lúc 8:47am |
CA DAO NAM BỘ Ca dao của vùng đất mới 1. Vẻ hoang vu của thiên nhiên - một dấu ấn trong những bài ca của thiên nhiên đất nước Vùng Nam Bộ giàu đẹp đáng tự hào ngày nay lại là vùng đất bỏ hoang hàng ngàn năm từ sau khi đế quốc Phù Nam tan rã vào thế kỷ thứ VI. Bao nhiêu thế kỷ trôi qua, mảnh đất màu mỡ này vẫn ngủ yên vì người bản địa vốn quá thưa thớt lại lạc hậu về kỹ thuật nông nghiệp. Cũng có thể một phần do thiên nhiên sẵn giàu có, ưu đãi nên họ không cần khai thác thêm. Những vùng đất cao đủ trồng tỉa, những con rạch thừa cá tôm, những cánh rừng thừa hương liệu, gỗ,.. đã đảm bảo cho đời sống. Mãi đến thế kỷ thứ XVII, những người Việt đầu tiên “đi mở cõi” đến vùng đất mới, nhận ra ngay vẻ hoang sơ của nó: Muỗi kêu như sáo thổi Đỉa lội như bánh canh Cỏ mọc thành tinh Rắn đồng biết gáy Cảnh Rừng thiêng nước độc thú bầy Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội đầy như bánh canh Nét hoang sơ của thiên nhiên Nam Bộ buổi đầu khai phá thể hiện ở môi trường khắc nghiệt “rừng thiêng nước độc”: Tháp Mười nước mặn, đồng chua Nửa mùa nắng cháy nửa mùa nước dâng Sấu và Cọp là hai loại tượng trưng cho sức mạnh hoang dã luôn luôn đe doạ con người. Tục ngữ “xuống sông hớt trứng sấu, lên bờ xỉa răng cọp” và thành ngử “hùm tha, sấu bắt” khá phổ biến trong lời ăn tiếng nói của nhân dân mãi cho đến ngày nay. Ca dao nói nhiều về hai loài này. Trên cạn có cọp, “cọp đua”, “cọp um”. U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường Dưới sông sấu lội trên rừng cọp đua Cà Mau khỉ khọt trên bưng Dưới sông sấu lội trên rừng cọp um. Cọp sống ở khắp nơi từ miền Đông Nam Bộ (đất giồng) xuống tận miền Tây sình lầy, nước mặn của rừng U Minh, Rạch Giá. Người dân là kính nể, gọi cọp bằng ông, thậm chí tôn lên làm hương cả, nhưng có lúc lại coi thường, giết cọp bằng nhiều cách. Cọp cũng là loài thú dữ quyết tâm bám giữ địa bàn sinh sống cho dù phải chạm trán với con người. Đối lại, lúc mới khẩn hoang, dù cọp tới lui là mối nguy hiểm nhưng con người cũng phải bám đất để sinh cơ lập nghiệp. Nhiều giai thoại dân gian về chuyện đấu với cọp vẫn còn. Nếu trên bờ có cọp thì dưới nước có sấu, “sấu lội”, “sấu cắn chưng” và “sấu vẫy vùng”. Tháp Mười sinh nghiệp phèn chua Hổ mây, cá sấu thi đua vẫy vùng Nét hoang dã của Nam Bộ còn thể hiện gián tiếp qua tâm trạng lo sợ của người đi khai hoang, cảnh vật lạ lùng khiến cho người ta sợ mọi thứ: Tới đây xứ sở lạ lùng Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê Chèo ghe sợ sấu ăn chưng Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma. Song song với nét hoang vu nêu trên, thiên nhiên có phần ưu đãi cho người đi tìm cuộc sống mới. Tín ngưỡng dân gian Nam bộ vẫn tin rằng “Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn”. Sản vật “trời cho” thật là phong phú và dường như luôn sẵn có. Gạo thì Đồng Nai, gạo Cần Đước, gạo Cần Thơ… lúa thì có lúa “nàng co”, “nàng quốc”, “lúa trời”… Hết gạo thì có Đồng Nai Hết củi thì có Tân Sài chở vô Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai Ai về xin nhớ cho ai theo cùng Cám ơn hạt lúa nàng co Nợ nần trả hết, lại no tấm lòng Ai ơi về miệt Tháp Mười Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn Nhóm từ “gạo thơm” và “gạo trắng nước trong” (hoặc “nước trong gạo trắng”) được lặp lại như một điệp khúc của bài ca về sự giàu có: Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi Gạo thơm Nàng Quốc em nuôi mẹ già Đồng Nai gạo trắng nước trong Ai đi đến đó thì không muốn về Ai về Gia Định thì về Nước trong gạo trắng dễ bề làm ăn Trong một chừng mực nào đó có thể gắn sự giàu có sản vật tự nhiên với nét hoang sơ của môi trường. Vì thiên nhiên hoang vu nên tất cả các loài vật đều có điều kiện để sinh sôi nảy nở. Ngược lại chính sự tồn tại của các loài trong tự nhiên một cách “tự do” với số lượng nhiều tạo nên chất hoang sơ, tính “sẵn có”: Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng Về sông ăn cá về đồng ăn cua Bắt cua làm mắm cho chua Gởi về quê nội khỏi mua tốn tiền . 2. Hình ảnh người đi khai hoang Như đã trình bày ở trên, trước đây ba thế kỷ Nam Bộ là vùng đất hoang vu với “rừng thiêng nước độc”, rắn, cá sấu, cọp và voi… Sau mấy trăm năm vùng đất này đã trở thành nơi trù phú nhất nước. Mẹ mong gả thiếp về vườn Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh Biên Hòa bưởi chẳng đắng the Ăn vào ngọt lịm như chè đậu xanh Những người trồng tỉa ngày sau phải nhớ đến những “bậc tiền nhân”, “mở cõi”, đi khai hoang. Nhìn toàn cục đó là kết tinh của mồ hôi và xương máu của nhiều thế hệ kế tiếp nhau đầy cảnh hoang sơ lùi dần vào quá khứ. Bắt đầu là cuộc khai khẩn miền Đông với lời khích lệ những bậc mày râu: Làm trai cho đáng thân trai Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng Rồi người đi lập nghiệp đến miền Tây: Cần Thơ gạo trắng nước trong Ai về xứ bạc thong dong cuộc đời Muốn ăn bông súng cá kho Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm Bạc Liêu nước chảy lờ đờ Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu Người Triều Châu nói riêng, Người Hoa nói chung, có mặt ở Nam bộ gần như cùng lúc với người Việt, họ vừa là những trung thần của nhà Minh, âm mưu chống lại nhà Thanh, vừa là người đi khai hoang. Tinh thần phóng khoáng và lòng mến khách của người Việt Nam giúp họ gắn bó với mảnh đất này. Dương Ngạn Dịch, Mạc Cửu, Trần Thượng Xuyên… là người Hoa được nhắc nhở đến như những nhân vật lịch sử. Ở thị trấn Hà Tiên ngày nay, Lăng Mạc Cửu xâu trên một ngọn đồi có hàng chữ trang trọng: “Khai trấn công thần”. Người Việt nhìn nhận thực tại này bằng thái độ hòa hợp, đoàn kết. Người Hoa đã góp một phần công sức cùng với người Việt mở mang bờ cõi. Nếu ban đầu “Đất Cần Thơ nam thanh nữ tú, xứ Rạch Giá vượn hú chim kêu” thì sau đó xứ “Nam thanh nữ tú” lớn dần, xứ “vượn hú chim kêu” hẹp dần trước nỗ lực phi thường của những con người gan góc, kiên trì. Vậy mà, khi mới đến vùng đất mới, những con người đó vẫn không tránh khỏi cảm giác: Tới đây xứ sở lạ lùng Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng ghê Vẫn biết rằng những lưu dân từ miền Trung đã quyết chí lập nghiệp, nhưng vẫn là con người giàu tình cảm thì làm sao họ không buồn cho được: U Minh, Rạch Giá thị quá Sơn Trường. Gió đưa bông sậy dạ buồn nhớ ai. Trời xanh kinh đỏ đất xanh Đỉa bu, muỗi cắn làm anh nhớ nàng. Mênh mông trời nước một màu Nhóc nhen kêu rộ bắt xàu ruột gan. Tâm trạng buồn - nhớ là tâm trạng rất thực: buồn trước cảnh hiu quạnh, buồn vì xa xứ, nhớ thì nhớ quê, nhớ nhà, nhớ người thân yêu. Cái nhớ của người buộc phải lìa cố quán ra đi chấp nhận cực khổ, chết chóc vì rừng thiêng nước độc, thú dữ chứ không cam tâm chết vì bọn quan lại, địa chủ quê nhà. Trụ lại ở vùng đất mới,lưu dân bắt đầu cuộc sống mới: Trai tứ chiếng, gái giang hồ Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên Những con người của “tứ chiếng giang hồ” nghĩa là của mọi miền quê tụ về đây. Câu ca dao trên là một lời nhận định, một kết luận khái quát, xác lập với lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ. Lịch sử đã chứng minh những con người tiên phong đi khai phá đất mới ở phương Nam đã bám đất bằng tất cả sức mạnh của đôi bàn tay, của ý chí vươn tới, của năng lực tổ chức, của tình đoàn kết chung lưng đấu cật. Ca dao Nam bộ đã ghi lại những hình ảnh cụ thể: Chiều chiều ông Ngữ thả câu Sấu lôi ông Ngữ cắm đầu xuống sông Chiều chiều ông Lữ đi câu Sấu cắn ông Lữ biết đâu mà tìm Ông Ngữ, Ông Lữ là những con người mang tính tượng trưng, họ là những nông dân Nam Bộ với những cực nhọc, vất vả và không ít khó khăn công việc “phá sơn lâm, đâm hà bá”. Câu tục ngữ “nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá” được truyền tụng khá phổ biến trong dân gian Nam bộ, chỉ hai công việc: khai phá rừng hoang và đánh bắt thủy sản, hai việc mang lại cuộc sống no đủ cho những lưu dân thời kỳ đầu. Song, không phải lúc nào họ cũng gặt hái được kết quả mong muốn mà còn có lúc gặp thất bại, trả giá đắt. Riêng bài ca dao về ông Lữ đã từng có mặt ở vùng Nam Trung bộ: Chiều chiều ông Lữ đi câu Bỏ ve, bỏ chén, bỏ bầu ai mang Chiều chiều ông Lữ đi cày Trâu tha gãy ách khoanh tay ngồi bờ Rõ ràng “ông Lữ” người đi khai phá, từ Trung bộ khẩn hoang dần đến Nam Trung bộ rồi vào Nam bộ. Những bậc tiền hiền, hậu hiền (những thế hệ đầu tiên có công khai phá) được thờ cúng trong đình làng Nam bộ và ngay trong mỗi gia đình. Mỗi khi có đám giỗ cúng ông bà người Nam bộ thường bày thêm một mâm ở ngưỡng cửa hoặc ngoài sân gọi là mâm đất đai để tỏ lòng biết ơn những người đầu tiên khai phá đồng thời xin các vị này phù hộ. Bên cạnh đó, có lễ cúng chúa Ngung ma nương để xin “mướn đất” với người “khuất mặt”. Người ta thường gặp ở gò hoang hoặc gần bờ sông những bộ xương người. Chắc rằng đó là xương của những người tiên phong đi khai khẩn đã chết hoặc vì thú dữ hoặc vì bệnh tật… Trong vô số những người như vậy, ca dao Nam bộ ghi lại vài tên tuổi cụ thể: Chiều chiều quạ nói với diều Cù lao ông Chưởng có nhiều cá tôm Ông Chưởng tức là ông Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh, trên đường hành quân đã dừng lại một cù lao (huyện Chợ Mới hiện nay) của An Giang. Đoàn quân của ông đã phát hoang, canh tác trên cù lao này. Không thể so sánh với ông Chưởng cơ - bậc khai quốc công thần của triều Nguyễn, ông Móm trong bài ca dao sau lại kém may mắn hơn: Ruộng cò bay dặm dò truông cóc Cháu con ông Móm lăn lóc cơ hàn Ai xuôi khiến cảnh bẽ bàng Mồ ông còn đó họ hàng chẳng thăm. Vào đầu thế kỷ 17, ông Móm là người đầu tiên từ Quảng Ngãi vào khai phá vùng Truông Cóc (Đồn Sơn - Gò Công Tây - Tiền Giang) mở đầu cho những người lập nghiệp vùng này, nhưng buồn thay, ông lại bị họ hàng bỏ quên. Nhưng cũng có thể họ hàng của ông không còn ai nữa. Có một điều an ủi, nhân dân - tác giả bài ca dao vẫn còn ghi công ông “ruộng cò bay dặm dày…”. Tóm tại, ca dao Nam bộ đã ghi lại được hình ảnh của người đi khai phá đất mới. Đôi khi họ như những người lính ra đi không trở lại vì “Rừng thiêng nước độc, thú bầy”. Nhưng nét nổi bật của họ không phải là nỗi buồn nhớ mang mác mà là ý chí vượt gian nan, dũng cảm, gan góc với biết bao nhiêu cực nhọc nguy hiểm để làm công việc “khai sơn phá thạch”, biến mảnh đất này từ hoang sơ trở thành nơi trù phú../. Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 12/Dec/2014 lúc 9:12am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 02/Nov/2016 lúc 9:14am |
Đường xa thì thật là xa, Mượn mình làm mối cho ta một người Một người mười chín đôi mươi, Một người vừa đẹp vừa tươi như mình. Mình về mình nhớ ta chăng? Ta về, ta nhớ hàm răng mình cười. Năm quan mua lấy miệng cười, Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen Răng đen ai nhuộm cho mình, Cho răng mình đẹp cho tình anh say. Con tằm bối rối vì tơ, Anh say sưa vì rượu, em ngẩn ngơ vì tình. Ước gì sông rộng một gang, Bắc cầu dải yếm, để chàng sang chơi! Thấy anh như thấy mặt trời, Chói chang khó ngó, trao lời khó trao. Cao ly sắc với ngưu hoàng, Uống không mát dạ bằng thiếp với chàng gặp nhau. Em là con gái Kẻ Mơ, Em đi bán rượu tình cờ gặp anh. Rượu ngon chẳng quản be sành, Áo rách khéo vá hơn lành vụng may. Rượu lạt uống lắm cũng say, Áo rách có mụn, vá ngay lại lành. Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên. Ba thương má lúm đồng tiền, Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua. Năm thương cổ yếm đeo bùa, Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng Bảy thương nết ở khôn ngoan, Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh. Chín thương cô ở một mình, Mười thương con mắt có tình với ai. Một yêu mặt trắng má tròn Hai yêu môi mọng thoa son điểm hồng Ba yêu mắt sáng mày cong Bốn yêu mái tóc nực nồng nước hoa Năm yêu mảnh áo ngắn tà Sáu yêu quần trắng là đà gót sen Bảy yêu vóc liễu dịu mềm Tám yêu giọng nói vừa hiền vừa vui Chín yêu học thức hơn người Mười yêu, yêu cả đức tài hình dong! Năm con ngựa bạch sang sông Năm gian nhà ngói đèn trong đèn ngoài. Đèn yêu ai mà đèn chẳng tắt? Ta yêu mình nước mắt nhỏ ra. Yêu nhau cởi áo cho nhau, Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay. Yêu nhau chẳng quản đường xa, Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều. Yêu nhau vạn sự chẳng nề, Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Yêu nhau ruột héo, xương mòn, Yêu nhau đến thác vẫn còn yêu nhau Yêu nhau, cau sáu bổ ba, Ghét nhau, cau sáu bổ ra làm mười. Yêu nhau chẳng lấy được nhau, Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già, Bao giờ sum họp một nhà, Con lợn lại béo, cau già lại non. Em về anh mượn khăn tay, Gói câu tình nghĩa, lâu ngày sợ quên. Anh về, em nắm cổ tay, Em dặn câu này, anh chớ có quên. Đôi ta đã trót lời nguyền, Chớ xa xôi mặt mà quên mảng lòng. Cây đa rụng lá đầy đình, Bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu. Cây đa cũ, bến đò xưa, Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ. Tay nâng chén muối đĩa gừng, Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau. Có yêu thì nói rằng yêu, Chẳng yêu thì nói một điều cho xong, Làm chi dở đục, dở trong, Lờ đờ nước hến, cho lòng tương tư. Mình nói dối ta mình hãy còn son, Ta đi qua ngõ, thấy con mình bò. Con mình những trấu cùng tro, Ta đi xách nước rửa cho con mình. Cá sầu, cá trở đầu đuôi, Người sầu lên ngược, xuống xuôi vẫn sầu. Chim chuyền nhành ớt líu lo, Sầu ai nên nỗi ốm o gầy mòn Đã mang lấy cái thân tằm, Không vương tơ nữa cũng nằm trong tơ. Đêm nằm tơ tưởng tưởng tơ, Chiêm bao thấy bậu, dậy sờ chiếu không. Chim buồn chim bay về núi, Cá buồn cá chúi xuống sông. Người buồn ra ngõ đứng trông, Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người. Ai làm cho bướm lìa hoa, Cho chim xanh nở bay qua vườn hồng. Ai đi muôn dặm non sông, Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy? Cá sầu cá trở đầu đuôi, Người sầu lên ngược xuống xuôi vẫn sầu. Một đàn cò trắng bay quanh, Cho loan nhớ phượng cho mình nhớ ta. Mình nhớ ta như cà nhớ muối, Ta nhớ mình như Cuội nhớ trăng. Mình về, mình nhớ ta chăng? Đêm qua (Nửa đêm) ra đứng bờ ao Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ Buồn trông con nhện giăng tơ Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ? Buồn trông chênh chếch sao mai Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ ? Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất. Khăn thương nhớ ai, Khăn vắt trên vai. Khăn thương nhớ ai, Khăn chùi nước mắt. Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt. Mắt thương nhớ ai, Mắt ngủ không yên. Đêm qua em những lo phiền, Lo vì một nỗi chưa yên mọi bề… Nhớ ai em những khóc thầm, Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa. Nhớ ai ngơ ngẩn, ngẩn ngơ, Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai? Nhớ ai bổi hổi bồi hồi, Như đứng đống lửa, như ngồi đống than. Đêm nằm ở dưới bóng trăng, Thương cha, nhớ mẹ không bằng nhớ em. Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy, Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa. Em thương anh không dám nói ra. Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời. Anh với em cũng muốn kết đôi, Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan. Trời mưa ướt lá trầu hương Ướt anh anh chịu, ướt người thương anh buồn Trời mưa ướt lá trầu vàng Ướt em em chịu, ướt chàng em thương Mưa lâm râm ướt dầm lá hẹ, Em thương người không mẹ không cha. Khi thương chẳng kể gần xa, Khi thương chẳng phải ruột rà cũng thương. Khổ qua xanh khổ qua trắng (2) Khổ qua măc nắng khổ qua đèo Anh thương em mấy núi cũng trèo Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua. Có đêm ra đứng đàng tây Trông lên lại thấy bóng mây tà ta Có đêm ra đứng vườn hoa Trông lên lại thấy sao tà xanh xanh Có đêm thơ thẩn một mình Ở đây thức đã năm canh rõ ràng Có đêm tạc đá ghi vàng Ngày nào em chả nhớ chàng chàng ơi Thương chàng thương lắm chàng ơi Miệng nhớ chàng nói, nhớ lời chàng than Nhớ chàng như nhớ lạng vàng Khát khao vì nết mơ màng vì duyên Nhớ chàng như bút nhớ nghiêng Như mực nhớ giấy như thuyền nhớ sông Nhớ chàng như vợ nhớ chồng Như chim nhớ tổ như rồng nhớ mây Nhớ chàng ra ngẩn vào ngây Sư ông nhớ Bụt mõ rày nhớ chuông Nhớ chàng vì nợ vì duyên Vì ông Tơ Nguyệt đã khuyên lấy chàng. Chim xa bầy thương cây nhớ cội, Người xa người tội lắm người ơi! Đêm hè gió mát trăng thanh Em ngồi canh cửi còn anh vá chài Nhất thương là cái hoa lài Nhì thương ai đó áo dài tấm thân Gặp người sao có một lần Để em thương nhớ tần ngần suốt năm Đôi ta như lửa mới nhen, Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu. Đôi ta như thể con tằm, Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong. Đôi ta như thể con ong, Con quấn con quýt, con trong con ngoài. Đôi ta như rượu với men, Đang say ngây ngất, ai dèm chớ xa. Đó với đây như cây bén rễ Anh không thương mình há dễ thương ai ? Hỡi cô gánh cỏ đường vòng Vai anh không gánh nhưng lòng anh thương Hỡi cô gánh cỏ đường vòng Cho anh gánh hộ để làm chồng một vai. Cây đa rụng lá đầy đình (đầu đình) (sân đình) Bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu. Chăn đơn nửa đáp (gối chiếc) nửa hòng Cạn sông lở núi ta đừng quên nhau Từ ngày ăn phải miếng trầu Miệng ăn xôi đỏ dạ sầu đăm chiêu Biết rằng thuốc dấu hay bùa yêu Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa Làm cho quên mẹ quên cha Làm cho quên cửa quên nhà Làm cho quên cả đường ra lối vào Làm cho quên cá dưới ao Quên sông tắm mát, quên sao trên trời Đất Bụt mà ném chim trời Ông Tơ Bà Nguyệt xe dây nhợ nửa vời ra đâu Cho nên cá chẳng bén câu Lược chẳng bén dầu, chỉ chẳng bén kim Thương nhau nên phải đi tìm Nhớ nhau một lúc như chim lạc đàn. Xa xôi dịch lại cho gần, Làm thân con nhện mấy lần vương tơ. Chuồn chuồn mắc phải tơ vương, Nào ai quấn quýt thì thương nhau cùng. Đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ, Đèn Mỷ Tho ngọn tỏ, ngọn lu. Anh về học lấy chữ nhu, Chín trăng em đợi, mười thu em chờ. Trăm năm ghi tạc chữ đồng Dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai. Rủ nhau xuống bể mò cua, Đem về nấu quả mơ chua trên rừng Em ơi chua ngọt đã từng Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau. Được vàng được bạc trên tay, Em không mừng rỡ bằng nay gặp chàng. Trèo lên khung cửi dệt hàng, Cửi kêu lăng líu, dạ thương chàng líu lăng. Lời nguyền dưới nước trên trăng Trăm năm không bỏ đạo hằng cùng anh. Ăn cơm ba chén lưng lưng Uống nước cầm chừng để dạ thương em Đũa tre một chiếc khó cầm, Thương nhau phải tính, thương thầm khó thương. Nhà anh chỉ có một gian Nửa thì làm bếp, nửa toan làm buồng. Nhà anh chẳng chiếu chẳng giường Chỉ ấm ổ rạ, nàng thương chăng là? Yêu nhau chẳng quản cửa nhà Chuồng chim cũng lấy, chuồng gà cũng theọ Yêu nhau chẳng quản giàu nghèo Không bùa không thuốc mà theo mới là. Đấy với đây chẳng duyên thì nợ Đây với đấy chẳng vợ thì chồng Dây tơ hồng chưa se đã mắc Rượu Quỳnh Tương chưa nhắp đã say Chẳng thương chẳng nhớ sao hay đi tìm Tìm em như thể tìm chim Chim bay bể Bắc đi tìm bể Ðông. Đầu làng có con chim xanh Ăn no tắm mát đậu cành dâu giạ Anh thương cô mình tha thiết thiết tha Cành cao cao bổng, cành lá la đà. Đầu năm ăn quả Thanh Yên Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng Vì cam cho quýt phải lòng (đèo bồng) Vì em nhan sắc cho lòng anh thương. Có đêm ra đứng đàng Tây, Trông lên lại thấy bóng mây tà tà, Có đêm ra đứng vườn hoa, Trông lên lại thấy sao tà tà xanh. Có đêm thơ thẩn một mình, Ở đây thức đã năm canh rõ ràng, Có đêm tạc đá ghi vàng, Ngày nào em chả nhớ chàng chàng ơi. Thương chàng thương lắm chàng ơi, Miệng nhớ chàng nói, nhớ lời chàng than. Nhớ chàng như nhớ lạng vàng, Khát khao vì nết mơ màng vì duyên. Nhớ chàng như bút nhớ nghiêng, Như mực nhớ giấy như thuyền nhớ sông. Nhớ chàng như vợ nhớ chồng, Như chim nhớ tổ, như rồng nhớ mây. Nhớ chàng ra ngẩn vào ngây, Sư ông nhớ Bụt, mỏ rày nhớ chuông. Nhớ chàng vì nợ vì duyên, Vì ông tơ nguyệt đã khuyên lấy chàng. |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 14/Jan/2018 lúc 7:36am |
90 CÂU THÀNH NGỮ-TỤC NGỮ
1. Ông chẳng bà chuộc: Sự tích xưa, có người đánh rơi viên ngọc, vợ chồng Chẫu Chàng bắt được. Người ấy xin chuộc lại. Vợ đồng ý "chuộc thì chuộc", chồng thì dứt khoát "chẳng chuộc". Sự bất hòa của vợ chồng Chẫu Chàng, do nhân dân tưởng tưởng ra, đã tạo nên thành ngữ này để diễn đạt ý không thống nhất, không ăn khớp giữa người này với người khác. Nhiều thành ngữ như "Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", "Ông nói gà bà nói vịt" cũng diễn đạt ý này. 2. Quan xa nha gần: (Quan thì xa, bản nha thì gần) Nha là phòng giấy của các quan. Nha môn là cửa quan. Nha lại là những người làm việc ở phòng giấy các quan. Ngày trước, khi người dân có việc kêu kiện, bọn nha lại thường làm khó dễ để vòi tiền. Vì vậy mới có câu thành ngữ này. 3. Ra môn ra khoai: Thành ngữ này có nghĩa là rành mạch, rõ ràng. Sở dĩ có thành ngữ này là vì cây khoai môn và cây khoai sọ rất dễ bị nhầm lẫn. Khoai môn là khoai có thân và lá dùng làm thức ăn cho lợn, củ ăn bị ngứa lưỡi, thân hình rất giống khoai sọ. Thành ngữ này thường bị nói lầm "ra ngô ra khoai". Cây ngô và cây khoai không thể lầm được. 4. Rách như tổ đỉa: Có người tưởng tổ đỉa là tổ con đỉa. Cũng chưa ai biết con đỉa có tổ hay không. Tổ đỉa ở thành ngữ này là cây tổ đỉa, một loại cây thường mọc ở ven bờ ao. Cây tổ đỉa có lá như lá cây đinh lăng, trông lởm chởm và rách như xé ra từng mảnh nhỏ. Vì vậy, ai mặc rách rưới quá, người ta thường nói "rách như tổ đỉa." 5. Rối như bòng bong: Nếu quan sát một người ngồi vót nan để đan rổ rá, ta thấy những xơ tre nứa mỏng cuộn xoắn vào nhau thành một mớ, khó gỡ ra được. Đó là mớ bong bong. Thành ngữ ta còn có câu : rối như tơ vò, rối như canh hẹ, rối như gà mắc tóc, rối tinh rối mù. Thành ngữ "rối như bong bong" dùng để chỉ tâm trạng hoặc sự việc khó gỡ ra được vì không tìm thấy đầu mối. 6. Sáng tai họ, điếc tai cày: Thành ngữ này có nghĩa lười biếng, không chăm chỉ làm việc. Khi cày ruộng, người đi cày hô "họ"thì trâu đứng lại ngay, vì nó được nghỉ. Nếu hô "vắt" thì phải kéo cày. Nguyễn Khuyến, trong bài "Anh giả điếc" có câu Trong thiên hạ có anh giả điếc Khéo ngơ ngơ, ngác ngác, ngỡ là ngây Chẳng ai ngờ : sáng tai họ điếc tai cày Lối điếc ấy sau này em muốn học. 7. Sẩy đàn tai nghé: Thành ngữ này dùng để chỉ sự chia lìa, tan nát của một gia đình hoặc một tập thể nào đó khi mất người đứng đầu.Thành ngữ này bắt nguồn từ đời sống của bầy trâu rừng. Bầy trâu bao giờ cũng có những con trâu đực đầu đàn để chống chọi với thú dữ, bảo vệ cả đàn (thường có trâu cái và bầy nghé con). Nếu mất trâu đầu đàn thì cả đàn sẽ tan tác vì bị thú dữ ăn thịt dần. Sẩy là từ cổ, có nghĩa là mất, chết. Tục ngữ có câu: "Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì". 8. Sơn cùng thủy tận: Đây là thành ngữ gốc Hán (cùng là cuối, tận là hết), nơi cuối dãy núi, hết nguồn nước, dùng để chỉ những nơi hẻo lánh, hoang vu. Một thành ngữ khác thâm sơn cùng cốc cũng để diễn đạt ý này. (Thâm sơn là núi sâu, cùng cốc là cuối hang núi) 9. Sơn hào hải vị: Sơn hào là món ăn quý lấy từ động vật rừng như bàn chân gấu, lộc nhung. Hải vị là món ăn quý lấy từ biển như bào ngư, hải sâm… Thành ngữ này dùng để chỉ các món ăn sang trọng. Câu này gần nghĩa với câu "Cao lương mĩ vị" (cao là thịt béo, lương là gạo trắng, mĩ vịlà ngon miệng) 10. Sư tử Hà Đông-Giấm chua lửa nồng: Các thành ngữ này đều dùng để chỉ những người phụ nữ hay ghen. – Hà Đông là một địa danh Trung Quốc, tục truyền có nhiều sư tử và sư tử cái thường bắt nạt sư tử đực. Ông Trần Quý Thường, bạn thân của Tô Đông Pha, có bà vợ hay ghen. Tô Đông Pha liền làm bài thơ đùa bạn, trong đó có câu : Hốt kiến Hà Đông sư tử hống Trụ trượng lạc phủ tâm mang nhiên. (chợt nghe tiếng sư tử Hà Đông rống lên. Đang chống gậy lòng hoảng hốt đánh rơi cả gậy). – Vua nước kim rất yêu hai cung nữ. Trước khi mất, vua dặn phải chôn theo hai cung nữ đó. Hoàng hậu rất ghen, nên trước khi chôn hai cung nữ, đã đổ giấm vào quan tài để xác và xương mau tan, không thể hầu hạ đức vua được. Lửa nồng dịch từ Hỏa cang (nóng như hang đốt lửa) cũng để chỉ tính ghen. Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh giải thích lửa nồng là chốn lầu xanh (sống ở nơi ngột ngạt). Truyện Kiều có câu: Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng. còn tiếp.... st. |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged | |
<< phần trước Trang of 16 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |