![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Thơ Văn | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 201 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Tại Black Friday Năm nào chị Bông cũng bận rộn cho bữa
tiệc Lễ Tạ Ơn, năm nay chị có mời hai gia đình bạn thân nên càng bận rộn
hơn. Ngoài việc chính là nướng con Gà Tây to tướng, chị phải làm vài
món phụ khác xung quanh con gà Tây thật đúng điệu và đặc sắc. Các bạn
hứa hẹn mỗi nhà mang đến vài món ăn Việt Nam cũng đình đám lắm, nào thịt
bò nướng lò, cá hấp hành gừng, cua lột tẩm bột… Chắc sau bữa tiệc Tạ Ơn
này chị lại phải ăn kiêng cho vơi bớt chất bổ béo trong người thôi. Dịp
lễ tết vui nhiều mà cũng… tai hại nhiều. ******************** Bữa tiệc Thanksgiving đông vui bắt đầu
lúc 5 giờ và tàn cuộc lúc gần 7 giờ chiều. Hai gia đình người bạn của
chị Bông cũng cần về nhà nghỉ ngơi để chuẩn bị cho buổi mua sắm Black
Friday. Bạn bè với nhau có khác, họ cũng nao nức đi mua sắm như chị
Bông. |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Tạ ơn người![]()
Chương Khuê |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 25/Nov/2019 lúc 10:55am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23867 |
![]() ![]() ![]() |
Vẫn Cám Ơn Cuộc Đời![]() May qúa hôm nay tiệm hơi vắng khách, thì
có bữa nọ bữa kia, chứ ngày nào cũng nhiều việc, khách mang quần áo tới
sửa và chị làm luôn tay thì giờ đâu mà ngồi nghĩ ngợi, rầu rầu như thế
này? Nguyễn Thị Thanh Dương |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23867 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23867 |
![]() ![]() ![]() |
Chị Hai Của Tôi![]()
Ba
tôi mất sớm, để lại cho mẹ một đàn con côi cút. Được bốn năm, thì đất
nước xảy ra cơn chính biến. Những tháng ngày đen tối, mẹ tôi vất vả,
xoay sở buôn bán bấp bênh, trong một xã hội không an bình. Anh Tư tôi
bàn với mẹ tìm đường vượt biên.
Anh Tư và em út, ra đi vào đầu thập niên 1980. Được cô tôi nhanh chân làm “người di tản buồn” năm 1975, bảo trợ hai anh em từ trại tỵ nạn Thái Lan vào Pennsylvania. Mười năm sau anh Tư bảo lãnh mẹ tôi qua đoàn tụ, được hai năm thì gia đình chị Hai Nhàn định cư diện HO.24, tại California nắng ấm, mẹ tôi ở với chị từ ngày đó. Rồi lần lượt người trước rước người sau, chúng tôi đến Hoa Kỳ theo diện O.D.P. để được quây quần bên mẹ.
*
Hiệp
Định Genève ngày 20/7/1954 chia đôi đất nước. Ba mẹ tôi vai đeo tay
nải, lưng cõng chị Nhàn theo hàng triệu người miền Bắc di cư, xuống tàu
há mồm vào Nam. Ba tôi tiếp tục nghề “gõ đầu trẻ” một thời gian, rồi
nhập ngũ theo lệnh động viên của chính phủ VNCH. Tôi không nhớ năm nào,
chỉ biết ba tôi thuyên chuyển đến nhiều nơi khác nhau. Chị em chúng tôi
được sinh ra ở những nơi ba đến làm việc, đứa thì ở Biên Hòa, đứa Bình
Dương. Có đứa ở Kontum, thuở thiếu thời mộc mạc như cánh lan rừng. Đứa
thì ở Pleiku, thành phố đầy lính, người dân luôn sống trong không khí
của tiền đồn, của lửa đạn và chiến tranh. Tại phố núi này ba tôi bị
thương, chuyển từ nhà thương Quân Đoàn II về Bệnh Viện Cộng Hòa, mẹ tôi
đi theo để nuôi ba. Được hai tháng, thì Tết Mậu Thân 1968, thừa lúc mọi
người nghỉ Tết không đề phòng, Cộng Sản đã bất ngờ tấn công những nơi
xung yếu và quan trọng của quân lực VNCH. Nhà tôi nằm ngay tầm giao
tranh, cháy thành tro. May mà chị Hai Nhàn dắt chúng tôi chạy thoát. Ba
được giải ngũ. Mẹ trở lại Pleiku, đem chúng tôi vào Sai gòn và dừng chân
tại đây luôn.
Ba mẹ tôi có mười người con, chết một còn chín, sáu gái ba trai. Sau mẹ, chị Nhàn là người tôi yêu quý nhất. Mẹ tôi kể, Ba chọn tên Nhàn cho chị, để vần với tên An của mẹ. Chị Nhàn là cả, nhưng theo người miền Nam, chúng tôi gọi là chị Hai. Tôi là con thứ năm, có nước da ngăm ngăm, nên được gọi là Năm Đen. Chị Hai hơn tôi tám tuổi, ngày ấy càng lớn trông chị càng xinh đẹp, với đôi mắt đen và mái tóc dài thả ngang vai. Vì ba tôi là nhà giáo, nên ba luôn quan tâm vấn đề học vấn cho con cái. Chị Hai Nhàn ở vào cái thời mà con gái phải chịu ảnh hưởng Nho Giáo “Tam Tòng Tứ Đức” và lập gia đình ở lứa tuổi đôi mươi, nên mười bảy, mười tám tuổi, chị đã có nhiều đám mai mối dạm hỏi, vì tính nết đoan trang và siêng năng. Nhưng ba tôi vẫn cho chị được phép cắp sách đến trường, không phải đi “gánh vác” sớm như các bạn cùng trang lứa. Sau này dù chị em chúng tôi đều đã có gia đình riêng. Nhưng những năm tháng gian nan vất vưởng, chị em đùm bọc nhau để sống, mẹ cũng lao đao vì cuộc mưu sinh, đã thành vết ký ức in hằn trong tôi.
Ngày
ba tôi mất, chị Nhàn hai mươi, em út mới hai tuổi. Chị thương mẹ vô
cùng, chị bỏ học để đi làm và sát cánh bên mẹ lo toan mọi bề. Đêm đêm
nhìn mẹ ngồi lặng lẽ trước hình ba trên bàn thờ, không gian như chùng
xuống, chị Hai đến bên mẹ an ủi trò chuyện, ôm đôi vai gầy, cầm bàn tay
khẳng khiu của mẹ, chị hứa không đi lấy chồng để ở bên mẹ suốt đời.
Năm
đó mẹ tôi mới bốn mươi hai, có một bác bạn thân của ba, vợ chết từ
ngoài Bắc, chỉ có ba bố con di cư vào Nam. Bác nói với mẹ tôi rằng: “Tôi
với anh nhà là chỗ thân tình, không may anh ấy đã ra đi. Tôi muốn được
ghé vai gánh bớt gánh nặng cho chị”. Mẹ tôi nghĩ đến cảnh con anh, con
tôi, con chúng ta. Lành ít, dữ nhiều, nên mẹ cảm ơn bác, rồi ở vậy nuôi
đàn con mồ côi cho đến hết đời.
Chị
Hai tôi tốt nghiệp, khóa Tu Nghiệp Công Chức tại Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh. Năm 1970 chị trúng tuyển vào làm thư ký Bộ Ngoại Giao Việt Nam
Cộng Hòa, nằm trên đường Alexandre de Rhodes Saigon, gần nhà thờ Đức Bà,
nên sáng nào trước khi vào làm việc, chị cũng ghé nhà thờ viếng Mình
Thánh Chúa và cầu nguyện. Chị cần kiệm, không chưng diện, lãnh được bao
nhiêu tiền đưa hết cho mẹ. Hàng tháng Bộ NG bán cho nhân viên, một bao
gạo 50 ký theo tiêu chuẩn chính phủ, chị ràng sau xe Honda Dame chở về,
để mẹ nuôi các em. Bốn đứa bé nhất: Giáo 9 tuổi, Hường 7 tuổi, Vy 5
tuổi, Út Trí 3 tuổi, đó là lứa tuổi mà các em cần sự dạy dỗ, giám sát
của người lớn, mà mẹ thì mải buôn bán đầu tắt mặt tối từ sáng sớm tới
chiều muộn mới về, chỉ có chị em chúng tôi thay nhau, đứa lớn coi đứa
bé, nên các em quấn quýt bên chị.
Ngoài
những lúc đi làm, chị dành thời giờ chăm sóc các em, chị ngồi cặm cụi
may cho từng đứa, từ chiếc áo, chiếc quần mới, để ngày cuối tuần, chị
dẫn các em đến công viên chạy tung tăng, hoặc vào sở thú cho các em xem
voi xem khỉ, rồi ôm các em vào lòng mà ứa nước mắt. Ngày Tết Trung Thu,
chị chở ba em nhỏ đến nơi chị làm việc, để lãnh bánh Trung Thu, mà Bộ NG
dành cho con em của nhân viên. Ngày lễ nghỉ, chị hay đổ bánh xèo cho
chúng tôi ăn, đó là món bánh vừa rẻ vừa ngon mà chúng tôi rất thích. Nên
chúng tôi còn gọi là chị Hai bánh xèo.
Vì
nhà tôi ở Bảy Hiền sau chợ Tân bình, nên thuận tiện việc học hành cho
các em, chỉ được một hai người lên đai học, còn lại đều tốt nghiệp cấp
ba. Đó là vốn liếng quý giá cho các em bước chân vào đời. Chúng tôi thật
may mắn được làm em của chị. Nhưng tiếng lành đồn xa, vừa mãn tang ba
đã có hai ba đám ngỏ lời, cũng là chỗ người làng quen biết. Họ rỉ rón
với mẹ: “Tôi thấy cháu vừa được người được nết, nên muốn kết tình thông
gia với bà ?...”.
Mẹ trả lời: “Cảm ơn bà đã để ý đến con tôi, để tôi dò ý cháu xem”.
Nhưng chị đều từ chối, không nhận lời. Vì còn trách nhiệm với đàn em…
Rồi
một hôm, cậu Năm em họ của mẹ, biết chị Hai tôi đang làm việc tại Bộ
NG, trong Nha Nghiên Cứu Sưu Tầm, phụ trách việc gửi đến các nơi cần
thiết, những cuốn sách “Ngoại Giao Kỷ Yếu”. Có tựa đề: “Hiệp Định về
Chấm Dứt Chiến Tranh, Lập Lại Hòa Bình ở Việt Nam” (Ký tại Paris ngày
27-01-1973) nên cậu đã dẫn một người bạn là sĩ quan an ninh, đang làm
việc tại Bộ Tổng Tham Mưu, đến nhờ chị dẫn vào ông Giám Đốc, xin cuốn
sách đó. Cuộc gặp lần ấy đã kết thành duyên phận giữa chị Hai tôi và anh
Rể. Vì từ đó anh theo cậu đến nhà tôi, để tìm hiểu chị, mà những đứa em
nhỏ bé, đứa thì ôm vai đứa bá cổ, như người anh đi xa mới về. Vài tháng
sau bố anh đến, nói chuyện với mẹ tôi thật lâu. Để đêm về, tôi thấy chị
hay trở mình, đôi lúc thở dài. Rồi mẹ khuyên chị: “Thân con gái chỉ có
một thời! Anh em thì ‘kiến giả nhất phận’. Mai sau các em khôn lớn,
chúng phải lo bổn phận gia đình. Về già con vò võ một mình cô đơn”. Và
chị đã vâng lời mẹ
Sau này, nói về cuốn sách “Ngoại Giao Kỷ Yếu” mà anh chị quen nhau, đối với chị buồn nhiều hơn vui.
Tại
sao? Chị Hai giải thích: Cuốn sách “Hiệp Định Ba Lê, là một Hiệp Định
không có lợi cho miền Nam. Vào giai đoạn ấy các bên tham chiến và Hoa
Kỳ, đều muốn mưu tìm một giải pháp hòa bình. Tuy nhiên, Sau năm năm trời
thương thuyết (1968 tới 1973), nhằm chấm dứt chiến tranh. Buộc các bên
ngưng bắn, để Mỹ rút về nước trong danh dự. Nhưng thực chất Cộng Sản
Việt Nam đã không thi hành nghiêm chỉnh, không thực hiện những điều
khoản đã thỏa thuận. Chỉ vài tháng sau khi Hiệp Định Paris 27-01-1973
được ký kết, CS Bắc Việt đã vi phạm, xua quân tấn công Việt Nam Cộng
Hòa.
Vì
chủ trương thay đổi chiến lược của chính phủ Hoa Kỳ và quyền lợi riêng
tư, mà Mỹ đã không giữ lời hứa, là sẽ phản ứng mạnh mẽ, nếu Bắc Việt vi
phạm Hiệp Định. Mỹ cũng không giúp VNCH chống đỡ những cuộc tấn công từ
miền Bắc. Không tiếp tục viện trợ vũ khí, đạn dược. Để rồi miền Nam
thiếu súng đạn, thiếu tất cả mọi thứ. Trong khi miền Bắc được tiếp tế
bởi Liên Xô và Trung Cộng. Sự chênh lệch về phương diện quân sự, là điểm
khởi đầu dẫn tới sự cáo chung của miền Nam, đưa đến thảm họa năm 1975”.
Gieo bao đau thương cho dân lành. Trong đó có gia đình chị Hai tôi.
*
Chị
Hai tôi tên là Nhàn, nhưng chị lại vất vả lắm, chị cứ mải miết ở nhà
nuôi các em. Khi bạn bè cùng tuổi đã tay dắt, tay bồng, chị mới lập gia
đình. Giáng sinh năm 1973, chị tôi lên xe hoa theo chồng. Bước chân đi
mà nước mắt lưng tròng, chị quay lại dặn dò:
“Em ơi! Em ở lại nhà,
Vườn dâu em đốn mẹ già em thương. Mẹ già một nắng hai sương, Chị đi một bước trăm đường xót xa…” (NB)
Chẳng
bao lâu đất nước đổi chủ. Anh rể phải đi tù, như những người sĩ quan
VNCH khác. Chị lại bồng con đi thăm nuôi chồng trong tù “cải tạo”. Bươn
chải trong xã hội mới. Nhưng chị luôn an phận và chấp nhận, để làm tròn
bổn phận dâu con trong một gia đình “Tứ đại đồng đường” sống chung một
mái nhà “đi thưa về trình”, mà vẫn đầm ấm yên vui.
“Gái
có công thì chồng chẳng phụ”. Sau sáu năm tù đày, anh rể tôi được thả
về, anh rất yêu thương quý mến chị. Nên khi sang đến Mỹ, anh cùng với
chị thay chúng tôi phụng dưỡng mẹ già. Vì thời trẻ mẹ tôi vất vả lo cho
đàn con, đã làm ảnh hưởng đến sức khỏe về già. Nhưng nhờ anh chị chăm
sóc chu đáo, mẹ được an vui bên con cháu trong tuổi hạc.
Bảy
gia đình ở Cali và hai gia đình bên Texas, thành đại gia đình kể cả dâu
rể cháu chắt, năm, sáu chục người. Mỗi dịp lễ, cửa nhà anh chị lại rộng
mở, đón chúng tôi qui tụ về đầy đủ bên mẹ. Chị Hai tôi là đầu tàu, lại ở
Mỹ gần 30 năm, nên quá quen thuộc với những ngày lễ truyền thống, từ
New year, Thanksgiving đến Christmas…. Chị tỉ mỉ gói từng món quà nhỏ,
bánh kẹo hay đồ chơi, rồi đặt ra những trò giải trí, có thưởng, khiến
không khí đêm giáng sinh rộn rã tiếng nói cười. Ngày Mother’s Day, hay
Tết chúng tôi tụ họp chúc mừng mẹ, trong niềm vui đoàn tụ, quây quần bên
bàn ăn, thưởng thức những món Việt Nam tự tay chị Hai nấu như: Phở gà,
hủ tíu Nam Vang, dê giả cầy… Chị đã để hết tâm sức vào làm với cả tấm
lòng yêu thương, nên rất ngon. Chúng tôi cứ áy náy, nhà mình đông quá
làm chị Hai cực. Nhưng chị nói: “Một năm có vài ngày lễ, các em về đầy
đủ, thấy mẹ vui là chị mừng. Hãy trân quý những giây phút đoàn viên
này”.
Đặc
biệt những đứa cháu lớn lên tại Mỹ, cứ mong đến ngày Thanksgiving để
được ăn gà tây bác Hai nướng. Có năm chị tính đổi món khác, nhưng các
cháu phản đối, rồi nhao nhao lên nói: -Con thích ăn Turkey bác Hai
nướng. Con thích nhân nhồi trong con gà hơn…. Mà thật, năm nào con gà
nướng của chị cũng được con cháu, chiếu cố tận tình, chỉ chừa lại bộ
xương. Hôm nào đầy đủ mặt “bá quan văn võ”, lễ tạ ơn chị phải nướng hai
con gà mới đủ.
Tôi
còn nhớ năm 2014, mùa lễ Thanksgiving đầu tiên mới qua Mỹ. Ông xã tôi
vừa xin được việc ***embler trong hãng điện tử vài tháng, cũng được tặng
một con gà tây 19 lbs, như mọi người. Ổng khệ nệ bưng con gà bự tổ
chảng về nhà, loay hoay với con gà mãi, không biết phải làm sao? Tôi bèn
gọi điện thoại hỏi chị Hai, thì may quá chị cười rồi bảo: “Còn hai ngày
nữa mới tới ngày lễ, trước nhất em bỏ nó vào ngăn đá. Sáng sớm mai lấy
ra ‘xả đá’, ngày mốt mang qua đây, chị sẽ chỉ cho em cách chế biến thành
món thật ngon mà em chưa từng được ăn”.
Đúng
ngày lễ tôi đem con gà đến. Chị bảo tôi ngâm trong nước lạnh, cho đến
khi thịt thật mềm.Thấy chị rinh con gà nặng chịch mà ái ngại, tôi vụng
về đỡ lấy tính làm, nhưng coi bộ được phục vụ mọi người là niềm vui của
chị, tôi đành làm “thợ vịn”. Vừa làm chị vừa chỉ cho tôi hết những bí
quyết và kinh nghiệm mà chị đã nướng con “gà gô” này nhiều lần.
Chị
bảo tôi lấy sẵn một chén muối và năm trái chanh. Rồi chị xát muối vào
thân con gà chà thật kỹ, xong xả nước âm ấm, làm như vậy nhiều lần cho
hết chỗ muối. Sau đó tiếp tục xát chanh khắp thân gà, nhất là ở (nách)
bên dưới cánh, chị dùng ngón tay kỳ cọ như tắm cho em bé, tôi thấy ghét
nổi lều bều trên mặt nước đen ngòm, như người ở dơ lâu ngày không tắm.
Xát chanh xả nước lạnh nhiều lần như vậy, khi nào ra nước trong mới
được. Chị nói: “Da gà tây dầy lắm không sợ rách. Thân nó lớn bằng một
con heo sữa, mà không bao giờ được tắm như heo, nên gà tây sau khi nhổ
lông, ghét tích lũy nhiều ngày để lại mùi hôi rình. Tôi tính như vậy là
chị rửa hết gần một tiếng đồng hồ, thật công phu.
Trong
khi chị Hai kỳ cọ, m***age cho con gà, thì tôi bóc hành lột tỏi, rồi
thái mỏng được một chén nhỏ. Xé gói gia vị có tên BAG’N SEASON- Original
Chicken để sẵn. Kế đến múc ba muỗng gia vị trong lọ, có tên Perfect
Pinch-Original Chicken, thêm hai muỗng soup nước mắm, một lon Cocorico,
một lon nước soup gà. Cho hết các thứ hỗn hợp Đông, Tây này vào một tô
lớn quậy đều, sẽ tạo nên một sự hòa hợp hương vị thơm ngon.
Đợi
con gà ráo nước. Chị đặt nằm ngửa tênh hênh trên một cái khay, xối hết
tô nước hỗn hợp lên con gà. Sau đó khoảng mười lăm phút, lại múc nước
dưới khay rưới từ ức xuống, cho tới quá trưa gà thấm đều. Chị mở oven
lên 350 độ F, rồi đặt con gà vào lò cho đến khi nóng chảy mỡ, thì múc
nước juices từ con gà tiết ra dội lại khắp con gà, vớt hành tỏi bỏ lên
ức gà cho thơm, khoảng 30-40 phút rưới một lần. Cho đến khi gà vàng đều,
kéo khay ra khỏi lò lật úp gà xuống để nướng phía lưng.
Phần
tôi được chị phân công làm nhân nhồi trong bụng con gà. Tôi quay lạp
xưởng cho chảy mỡ, rồi bỏ hành hương thái mỏng vào phi cho thơm, cho tôm
khô đã ngâm sẵn vào, sau đó cho giò lụa thái hột lựu đảo đều, thêm chút
nước mắm. Khi xôi vừa chín tới, liền trộn nhân vào, ghế nhiều lần cho
ngấm đều, thành xôi thập cẩm.
Sau
cùng chị mang gà ra lần cuối, lật ngửa con gà để nhồi nhân vào bụng, ém
chặt lại, đút lò nướng tiếp, cho đến khi con gà thành màu vàng nâu rất
đẹp. Chị nói gà đã chín rồi, hai chị em khiêng gà ra khỏi lò. Như vậy là
chị nướng một con gà khoảng năm tiếng đồng hồ.
Chị
đặt con gà vào khay mới, múc hết nước ở khay cũ ra tô, để dùng làm nước
sốt, ăn với khoai tây nướng, hoặc bắp hộp trộn cheese. Con gà tây nóng
hổi hấp dẫn được đặt chễm chệ trên bàn, giữa các món ăn của mọi người
đóng góp. Nào là: Khoai tây nghiền trắng, cạnh Salads xanh, carrots đỏ,
bánh mì vàng óng bơ. Còn thêm mấy món Việt Nam, chả giò, nem nướng…. Để
phòng ai không ăn quen thức ăn Mỹ. Nhưng đắt hàng nhất là miếng ức gà,
chị ướp sao mà ngon, mà bùi như miếng gan heo, không còn hôi mùi gà tây.
Buổi
tối Thanksgiving hôm ấy thật ấm cúng bên mẹ, chúng tôi nói lên lòng
biết ơn. Nhờ Anh Tư bảo lãnh đợt đầu cho ba người. Còn ba đứa sau mẹ đậu
quốc tịch, anh chị Hai bỏ thời giờ đi làm giấy tờ, tôi là đứa con cuối
cùng đến Mỹ trong chín đứa con của mẹ. Đối với tôi bữa tiệc “Tạ ơn” đầu
tiên trên đất nước Hoa Kỳ, Thật ý nghĩa và sâu sắc, từ món gà tây đút
lò, chị Hai đã tỉ mỉ chỉ bảo, làm em nhớ lại những ngày chúng em còn thơ
dại, đã được chị chăm sóc dậy dỗ. Trong hoàn cảnh ấy khiến tôi xúc động
đến trào nước mắt.
Tạ
ơn Thiên Chúa đã cho chúng con đến được xứ sở này. Cảm ơn ba mẹ, đã
sinh ra, nuôi nấng dạy dỗ chúng con nên người. Cảm ơn anh chị em đã cùng
tôi lớn lên trong gia đình đông đúc. Cảm ơn anh chị Hai đã cho chúng em
sống chung, những ngày tháng còn ngỡ ngàng mới định cư. Cảm ơn anh rể
đã san sẻ tình thương của anh cho chúng em, ngay từ những ngày đầu tiên
anh mới quen chị. Đến nhà để tìm hiểu gia cảnh, mà anh đã giang tay ôm
hết những đứa em bé nhỏ, côi cút của chị vào lòng và thương yêu như ruột
thịt, anh đã đánh trúng vào tâm lý của chị Hai, đã làm chị của em cảm
động, để rồi cùng anh nắm tay dìu dắt chúng em cho tới ngày nay.
Cảm
ơn đất Nước Hoa Kỳ đã cưu mang gia đình tôi, từ những ngày cơ cực, cùng
hàng triệu người Việt tỵ Nạn, để được sống tự do, được học hỏi, để có
công ăn việc làm ổn định. Cảm ơn những người bạn làm cùng sở, và những
người bản xứ chung quanh, đã đối xử tử tế với tôi.
*
Lễ
Thanksgiving năm nay mẹ tôi không còn nữa. Mẹ đã bỏ chúng con ra đi
thanh thản, an nhiên tự tại, trong ngôi nhà ấm cúng tại thành phố
Westminster, trong vòng tay hiếu thảo của anh chị Hai và bên tiếng khóc
tiếc thương, của đàn con cháu đông đúc nơi xứ người.
Chị
Hai ơi! Em xin thay mặt tất cả các anh chị em, cám ơn chị với trăm ngàn
lời, nói sao cho vừa. Chúng em luôn thương yêu chị thật nhiều. Chắc
trên thiên đàng, mẹ rất hài lòng với người con gái lớn của mẹ. Xin mẹ
cầu cùng Chúa, phù hộ cho chị em chúng con nhiều hơn.
Năng Khiếu ![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 03/Dec/2019 lúc 10:48am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23867 |
![]() ![]() ![]() |
Truyện Mùa Giáng Sinh của Mary Higgins Clark
![]()
ALL THROUGH THE NIGHT
Truyện Mùa Giáng Sinh của Mary Higgins Clark
Mary Higgins Clark, tác giả của những truyện nghẹt thở ăn khách hiện
nay, có vẻ là một mẫu người sùng đạo. Sự kiện hai trong mười tám tiểu
thuyết của bà - Silent Night và All Through The Night - được dàn dựng
trong khung cảnh an bình, thánh thiện của mùa Giáng Sinh đã cho người
đọc nhận xét đó. Xin sơ lược một cuốn truyện nêu trên nhân mùa Giáng
Sinh như một quà đọc cho mọi người.
All Through The Night, tựa đề của một nhạc khúc Giáng Sinh, đã được dùng làm tên cuốn sách.
Ngay chương đầu cuốn truyện người đọc đã nín thở theo dõi sự việc đang diễn ra...
***
Còn hai mươi hai ngày nữa mới đến lễ Giáng Sinh. Đêm đã xuống từ
lâu. Bên trong một nhà tho ở khu Manhattan, thuộc đô thị Nữu Ước, linh
mục Ferris đang xem xét mọi nơi, khóa cửa nẻo cẩn thận, tắt đèn, trước
khi lui về phòng riêng kế cận nhà thờ nghỉ đêm. Im phăng phắc. Tên trộm
Lenny nép mình sau chỗ xưng tội, chờ vị linh mục đi qua trên đường tiến
ra cửa sau nhà thờ. Có tiếng cửa đóng mạnh. Hắn thở phào. Còn lại một
mình, hắn ra tay.
Bên ngoài nhà thờ, Sondra, một cô gái mười tám
tuổi đứng bên kia đường, trước cửa một tòa nhà đang sửa chữa, nhìn sang
nhà thờ. Cô ta phải yên chí là linh mục Ferris đã rời nhà thờ về tư thất
của ông mới đem đứa bé đặt trên bực thềm nhà thờ. Vừa lâm bồn trước đó
mấy tiếng đồng hồ trong một phòng khách sạn rẻ tiền, cô cảm thấy yếu,
phải tựa vào khung cửa cho vững.
Cha Ferris từ trong nhà thờ bước ra, đi thẳng đến căn nhà kế cận.
Sondra biết đã đến lúc thi hành công việc. Cô đã sắm sửa áo quần, tả
lót, bình sữa, chăn mền, một chiếc xe đẩy, một bao bằng giấy. Mở nút áo
choàng, nhẹ nhàng bồng đứa bé đặt trong bao giấy, với tay xách chiếc xe
đẩy đã xếp lại, cô mang tất cả sang bên kia đường trong lúc không có một
ai qua lại trên đường để trông thấy cô. Cô chạy ngược lên ba bực thềm,
mở chiếc xe đẩy, gài thắng, đặt đứa bé vào xe, đặt mớ đồ “phụ tùng” dưới
chân đứa bé, cài tờ giấy cô viết sẵn, trong đó cô xin ai đó hãy tìm
giúp cho đứa bé một gia đình từ tâm, còn cô không thể nuôi nó được dù
lúc nào cũng yêu thương con. Sondra quì xuống nhìn đứa bé một hồi lâu,
thì thầm, “mẹ yêu con, tạm biệt” rồi đứng dậy chạy xuống mấy bực thềm,
ra đường phố. Cô sẽ gọi linh mục Ferris từ một điện thoại công cọng ở
ngã tư kế cận.
Trong khi đó, bên trong nhà thờ tên trộm Lenny vơ
vét tiền con chiên họ đạo quyên góp, và đập vỡ tủ đựng chiếc cúp có nạm
kim cương, một báu vật của nhà thờ. Xong, hắn vội vã thoát ra trước khi
hệ thống báo động của nhà thờ hoạt động. Nhưng xe cảnh sát hụ còi inh ỏi
đang tiến đến. Thoáng trông thấy chiếc xe đẩy con nít để ở bực thềm,
hắn liền bê xuống đường và ngang nhiên đẩy đi, làm ra vẻ một người đàn
ông lương thiện, có con cái đề huề. Vô gia cư, vô nghề nghiệp, buôn bán
ma túy, và làm mọi việc phi pháp nào có thể kiếm tiền được, hắn đang trú
tạm nhà người cô ruột. Và hắn ung dung đẩy chiếc xe giữ trẻ về nơi ấy.
Về tới nhà cô của hắn được an toàn, Lenny chưa kịp mừng thì bỗng sững
sốt khi nghe tiếng khóc oe oe rồi cái bao giấy cử động: một bé sơ sinh.
Hắn gỡ mảnh giấy ghim trên chăn, bắt đầu đọc. Xin làm ơn tìm cho bé gái
của tôi một gia đình từ tâm. Tổ tiên bố của cháu là người Ý; ông bà tôi
gốc Ái Nhĩ Lan. Cả hai bên gia đình theo tôi biết không hề có bệnh di
truyền, vì thế cháu sẽ lớn lên khỏe mạnh. Tôi yêu con, nhưng không thể
chăm sóc cháu được. Nếu một mai cháu có hỏi về mẹ nó, xin cho cháu đọc
mấy giòng này. Hãy nói cho cháu biết rằng những giờ phút hạnh phúc nhất
trong đời tôi mãi mãi là những lúc tôi ôm nó trên tay sau khi sinh cháu.
Những lúc đó chỉ còn có hai mẹ con trên đời này.
Bà Lilly, người cô hắn, đang quyết tâm tống khứ thằng cháu ăn hại ra
khỏi nhà, cũng sửng sốt, cúi nhìn trong chiếc xe đẩy. “Mày tính sao bây
giờ? Mày lượm đứa bé này ở đâu thế?” Lenny nghĩ nhanh, hắn không muốn
rời căn chung cư này, một vỏ bọc an toàn cho hắn. Hắn nghĩ ra một câu
chuyện.
“Nó là con của cháu đấy, cô Lilly ạ. Mẹ nó là người con
gái cháu yêu, nhưng cô ấy sắp dọn đi California, muốn đem cho đứa bé cho
người ta nuôi. Cháu muốn giữ bé lại”.
Bà Lilly mở các món quấn quanh đứa bé sơ sinh, ẵm nó lên và nét mặt bà bỗng thay đổi. Bà hỏi Lenny:
“Tên nó là gì?”
Lenny nghĩ đến hột kim cương hình ngôi sao trên báu vật của nhà thờ, vụt miệng nói:
“Thưa cô, cháu tên là Star.”
“Star,” bà Lilly Maldonado lẩm nhẩm, “trong tiếng Ý cháu sẽ được gọi Stellina, có nghĩa là vì sao nhỏ.”
Lim dim đôi mắt, Lenny nhìn sự khắng khít vừa nẩy sinh giữa một trẻ sơ
sinh và một bà già. Hắn tự nhủ không ai biết hắn bắt cóc đứa bé, và cùng
lắm, nếu có gì lôi thôi về đứa bé, thì hắn đã có mảnh giấy nầy để chứng
minh hắn chẳng ăn cắp của ai.
Trời trở lạnh hơn. Từ một điện
thoại công cộng ở ngã tư kế cận, Sondra gọi Linh mục Ferris. Bên kia đầu
dây, một giọng đàn ông xưng danh là cha Dailey, và cho biết cha Ferris
đang bận tiếp chuyện với cảnh sát bên ngoài tòa nhà, vì có chuyện khẩn
cấp.
Sondra lặng lẽ gác điện thoại. Cô yên chí là người ta đã tìm
thấy con mình. Đứa bé được an toàn. Cha Ferris sẽ tìm cho nó một mái
nhà tốt.
Một giờ đồng hồ sau Sondra đã ngồi trên xe buýt xuôi về
Birmingham, tiểu bang Alabama. Cô đang theo học ở phân khoa âm nhạc của
đại học tại đó, và chuyên về vĩ cầm. Tài năng đặc biệt của cô đang hứa
hẹn một chỗ đứng vinh quang trên sân khấu trình diễn tương lai.
Chương đầu cuốn sách, hay màn đầu của câu chuyện, đã hé mở cho người đọc
một chuỗi sự việc mà nhiều năm sau mới phơi bày ra ánh sáng những
nguyên ủy, gốc rễ, mối mớ của chúng.
*
Bảy năm trôi qua.
Chu kỳ thời tiết đang bước vào độ giá lạnh của những ngày đầu tháng
chạp. Giáng Sinh lại sắp về. Sondra Lewis trở lại New York lần này với
vinh quang đang cho đón nàng. Cô sẽ biểu diễn vĩ cầm ở Carnegie Hall,
sân khấu ước mơ của tất cả nghệ sĩ mầm non. Cô không tin nổi có ngày
điều đó lại xảy ra. Vậy mà Sondra không thay háo hức, sung sướng, chỉ
thấy lòng nặng trĩu, đầy bất an, tuyệt vọng. Cô đã gọi điện thoại đến
nhà thờ St. Clement’s giả làm một phóng viên dò hỏi về sự kiện một đứa
bé sơ sinh bị bỏ trên bực thềm vào đêm mồng ba tháng chạp bảy năm trước,
để bàng hoàng, chết điếng khi nghe một giọng nói đầy vẻ ngạc nhiên,
sửng sốt đáp lại rằng chẳng bao giờ có một sự việc như thế từ hai mươi
năm nay chứ chẳng riêng bảy năm trở lại đây đâu! Ôi, ai đã nuôi con
nàng, hay đứa bé đã chết ngay vì lạnh, sau khi nàng bỏ đi.
Nước
mắt tự dưng cứ trào ra, Sondra không làm sao cầm giữ lại được. Hai ngày
rồi, Sondra cứ lảng vảng trước nhà thờ, bên kia đường, và sáng nay đã
vào dự lễ sớm trong nhà thờ. Xong lễ Sondra bước nhanh ra khỏi nhà thờ,
không cho cha Ferris có dịp hỏi, vì vị linh mục cũng nhận thấy vẻ khác
thường nơi người phụ nữ trẻ.
Nàng cầu nguyện để được gặp lại con.
Lúc lên mười hai tuổi Sondra đã được ông nội - vừa là dưỡng phụ, vừa là
thầy vĩ cầm của mình - dẫn đến đây một lần. Ông nội cho biết St.
Clement’s linh nghiệm lắm; ông nội đã cầu được bao nhiêu điều trong đời
mình, kể cả được khỏi hẳn chứng thấp khớp ngón tay, một sự nghiệt ngã
cho một nghệ sĩ vĩ cầm như ông.
Stellina, đứa bé sơ sinh bị bỏ
trên bực thềm nhà thờ St. Clement trong một đêm tháng chạp giá lạnh năm
xưa, nay đã lên bảy. Nó lớn lên trong sự nuôi nấng đùm bọc của Nội
Maldonado, và trong sự hờ hững, vô trách nhiệm của người bố Lenny. Cô bé
đẹp như thiên thần. Mỗi ngày, sau buổi học, Stellina cùng một số trẻ em
cùng lứa trong khu phố đến vui chơi, sinh hoạt tại một nhà giữ trẻ miễn
phí do các bà phước đảm trách, cho đến sau giờ làm việc phụ huynh đến
đón con em mình về.
Willy và vợ, Alvirah, đôi vợ chồng đã nghỉ
hưu, rất tích cực trong các hoạt động hỗ trợ nhà giữ trẻ này - Willy với
tay nghề thợ ống nước, và Alvirah với óc sáng kiến, cùng một trực giác
thám tử sắc bén. Chính trực giác này đã giúp khám phá và bẻ gãy âm mưu
chiếm đoạt một bất động sản bằng di chúc giả mạo, tức cứu được tòa nhà
sẽ làm trụ sở tương lai của nhà giữ trẻ nói trên.
Sự lai vãng
trước nhà thờ St. Clement’s của Sondra Lewis không thoát khỏi cặp mắt
tinh tường của Alvirah. Rồi chân dung của nàng xuất hiện khắp đô thị New
York trong các bích chương quảng cáo cho cuộc trình diễn vĩ cầm sắp tới
tại trung tâm nghệ thuật Carnegie Hall càng thách thức óc điều tra của
người đàn bà trên sáu mươi này. Chờ cho Sondra đến, đứng bên kia đường
nhìn chăm chú sang nhà thờ, Alvirah nhẹ nhàng bước từ sau lưng đến vỗ
nhẹ vai ngưoi thiếu nữ và dịu dàng mở lời muốn giúp đỡ... Cả hai đón
taxi về nhà của Alvirah. Sondra thổ lộ mọi chuyện.
Ra về, ngang
qua phòng khách, bên cạnh chiếc dương cầm với cuốn sách nhạc mở ở trang
của nhạc khúc All Through The Night, Sondra dừng lại, dùng một tay nhấn
trên phím chơi bản nhạc. Nàng chơi lại bài nhạc một lần nữa và khẽ hát
theo:
Ngủ đi con
Và cầu xin
Mọi an bình
Cho con suốt đêm.
Chúa sẽ phái thiên thần
Xuống gìn giữ con
Suốt đêm.
Ngừng hát, giọng nàng thốt lên như òa vỡ, “Em mong con em đã tìm được
một thiên thần đêm đó.” Alvirah hứa hẹn, “Tôi sẽ gọi cho em hay mọi
chuyện.”
Buổi trình diễn mùa Giáng Sinh do các trẻ em tại nhà giữ
trẻ xem rất ngoạn mục, một thành công sau bao nhiêu tuần luyện tập và
chỉ dạy. Stellina đã thuyết phục được Nội Lilly aldonado cho mang chiếc
cúp bằng bạc đến dùng trong buổi trình diễn, chiếc cúp mà tên trộm Lenny
đã lấy của nhà thờ St Clement’s, và nói dối là của mẹ của Stellina giao
lại cho hắn ta. Hắn ta còn nói đó là báu vật của một đức giám mục, bác
của ngưoi yêu. Bà Maldonado đã tin đó là một vật linh nghiệm, và bà
thường bảo Stellina như thế. Cô bé vẫn hay ôm chiếc cúp ban đêm nằm ngủ,
và mỗi lần như vậy Stellina cảm thay ấm áp, bớt đi cảm giác cô đơn,
dường như được gần mẹ mình. Và cô bé cũng thường ôm chiếc cúp cầu nguyện
mẹ mình sớm trở về. Alvirah bỗng chú ý đến hai điều khác thường: chiếc
cúp bạc, và cô bé Stellina với khuôn mặt sao giống Sondra thế! Bà ta đã
nghi đó chính là món báu vật mất cắp của nhà thờ, cùng với với đứa hài
nhi bị mất tích. Alvirah đem mấy tấm ảnh chụp chiếc cúp và cô bé
Stellina cho linh mục Ferris xem. Ông ấy xác nhận báu vật bị đánh cắp
giống hệt như vật trong hình. Bà Alvirah mơ hồ thấy có ánh sáng ở cuối
đường hầm rồi!
Trong khi đó, bà Lilly Maldonado lên cơn đau tim,
phải vào bệnh viện cấp cứu. Bé Stellina ở nhà một mình, chờ bố về. Lenny
là mục tiêu theo dõi của cảnh sát từ bao lâu nay, và hôm nay cảnh sát
đã đủ yếu tố để ra tay tóm cổ hung thủ. Hắn ta vội vã chạy về nhà vơ vét
tiền bạc cùng giấy tờ, tài liệu phi pháp cất dấu trong phòng ngủ để tẩu
tán. Với lại hắn thấy cần bắt Stellina theo, vì nghĩ đứa bé có triển
vọng là ngôi sao hộ mệnh của hắn. Hắn ra lệnh cô bé chạy theo hắn lập
tức, không được mang theo món gì cả, ngoại trừ chiếc cúp bạc mà hắn muốn
phi tang, mặc cho Stellina cứ năn nỉ bố dẫn mình vào bệnh viện thăm bà
Nội. Vừa xuống tới đường, cả hai đã phải khựng lại, vì cảnh sát đã bủa
vây. Lenny dùng mạng sống của Stellina làm áp lực, và cảnh sát đành để
hắn đẩy cô bé vào xe với hắn. Nhưng trời bất dung gian, trong lúc hắn
buông tay khỏi cô bé để nổ máy xe thì Stellina mở cửa phóng mình ra khỏi
xe, ôm theo chiếc cúp bạc. Cô bé quyết tâm đi tới bệnh viện thăm Nội
cho bằng được! Cảnh sát ập đến chiếc xe của Lenny. Cô bé với nguyên bộ
đồ mặc để trình diễn vai đức Mẹ Ơn Phước, ôm chiếc cúp bạc chạy theo con
phố về phía bệnh viện St. Luke.
Lenny bị bắt. Mười phút sau,
cảnh sát, linh mục Ferris và vợ chồng Willy-Alvirah có mặt tại căn chung
cư mà cô bé Stellina đã sống bảy năm trời với người nuôi dưỡng mình.
Lục soát phòng của Lenny, cảnh sát tìm thay một mảnh giấy nhàu nát kẹp
giữa kệ để đồ và bức tượng: mảnh giấy mà người mẹ trẻ đáng thương cách
đây bảy năm đã cài trên tấm chăn của con mình. Bà Alvirah đọc nhanh may
giòng chữ nguệch ngoạc để thấy mọi sự đã được xác nhận hùng hồn, đúng
như bà đã nghi. Bà gọi điện thoại cho Sondra.
*
Đoạn kết
là khung cảnh đoàn tụ đầy mủi lòng của một câu chuyện có hậu. Bên giường
bệnh của bà nội Lilly Maldonado, bé Stellina đang nói về buổi tình
diễn, về việc giữ gìn chiếc cúp bạc như đã hứa với bà, và về lời mình
cầu xin mẹ sớm trở về. Đúng lúc cô bé cất tiếng hỏi, “Nội có nghĩ rằng
Chúa sẽ gởi mẹ về với con không?” thì Sondra vừa đến sau lưng Stellina.
Nàng quì xuống, thổn thức, và ôm cô bé vào lòng. Ngoài hành lang bệnh
viện, bà Alvirah thoáng thấy cảnh tượng trên, nhẹ nhàng khép cửa lại. Bà
nói, “Có những khoảnh khắc cần được sống trong riêng tư. Có những lúc
không cần phải hiển thị cũng biết rằng nếu ta có đức tin mạnh và bền
vững thì những mong ước của ta sẽ thành hiện thực”. Hà Kỳ Lam biên dịch
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23867 |
![]() ![]() ![]() |
Đêm Của Người Trinh Nữ
Lúc này quán đã hơi vắng khách. Mỗi lần Trinh đến gần, anh nhìn cô, ánh mắt là một lời van xin. Khi anh kêu cà phê, nước chanh, đều là thứ rẻ tiền, Trinh, cô chủ quán mang đến rồi bỏ đi ngay. Khi anh gọi xị rượu với chục nem chả Ninh Hoà, thì cái phiếu tính tiền đã lên kha khá, Trinh ghé lại ngồi với anh một chốc cho phải phép. Anh chỉ đợi có thế. Anh bắt đầu nói chuyện thơ. Trinh biết anh Tình này là thủ kho Hợp tác xã. Đã có lần Trinh đến kho, thấy anh ta cắm cúi làm việc, mặt mày khó đăm đăm. Nàng còn phải xếp hàng chờ nhiều người tới trước, nhìn lên thấy có dán tờ báo tường. Để giết thì giờ Trinh đến xem. Có một bài thơ, nhan đề” mùa lúa mới” dưới kí tên Trần Tình. Trần Tình là đích thị anh chàng thi sĩ này đây! Bây giờ Trinh đang khổ vì bài thơ ấy, một bài thơ tiêu biểu về sản xuất nông nghiệp và nhiều bài thơ khác. Anh đọc hết bài này đến bài khác tưởng như bất tận. Anh làm thủ kho. Ngoài cái kho vật tư nông nghiệp mà nhiều hơn cả là phân hữu cơ. Phân hữu cơ thường là phân xanh, phân chuồng, nông dân tự làm lấy không nơi nào bán, cũng không ai chứa trong kho. Nhưng vùng này nông dân trồng nhiều lê-guym, thường dùng phân xác mắm. Xác mắm là xương cá còn lại sau khi người ta đã lấy hết nước mắm, cũng gọi là phân hữu cơ. Phân xác mắm, ướt át hôi hám, thường đựng trong bao nhưng vẫn để chảy ra ngòai dòng nước đen. Sống suốt ngày trong bầu không khí ô nhiểm ấy anh đã quen, nên vẫn phóng bút làm thơ tình dài dài được. Trinh là người mới đến rất khó chịu. Trinh thấy người thủ kho này, ngoài mấy bao xác mắm ra anh còn có cả một kho thơ đồ sộ. Đứng quan sát anh làm việc một lúc Trinh thấy anh là một cán bộ rất nghiêm khắc và cũng rất nguyên tắc. Anh ta hết giở công văn này, chỉ thị kia để từ chối cấp phân cho xã viên. Nhưng về thơ anh lại xuất kho một cách vô nguyên tắc, vô tội vạ và rất hào phóng, thoải mái. Ngồi nghe nhà thơ nói chuyện một lúc Trinh thấy hết chịu nổi. Nàng còn phải dọn dẹp, quét nhà cửa, ngủ một giấc để ngày mai có sức mở cửa hàng. Trinh là chủ nhân một cái quán cà phê ở trước cửa uỷ ban huyện. Nói là quán cà phê song Trinh bán đủ thứ bia rượu, đồ nhậu. Trinh làm bà chủ và còn là người giúp việc cho mình, nàng chẳng thuê mướn ai. Trinh ba mươi hai tuổi, chồng chết để lại đứa con trai mười hai tuổi học lớp bảy. Nàng cư ngụ trong ngôi nhà của bên chồng. Cha mẹ chồng cho nàng ở căn nhà này để mua bán nuôi con. Trinh có nhan sắc mặn mòi. Nơi đây nếu mở cuộc thi hoa hậu chắc nàng chiếm vương miện. Nàng hấp dẫn bọn đàn ông từ những lão năm sáu mươi, đến mấy cha sồn sồn và cả bọn choai choai mười tám đôi mươi. Anh Tình ngồi coi kho, thời gian rảnh rất nhiều, viết hàng trăm bài thơ tình tặnh cho nàng chủ quán. Hôm nay nhờ chất rượu gạo nước nhất pha nước dừa xiêm giúp cho hồn thơ anh thêm tung cánh. Nó còn giúp cho anh thêm can đảm để nói lên lời đề nghị sau cùng: rằng, đêm nay cho anh ngủ lại ! Khi nghe anh nói, Trinh im lặng, nét mặt không biểu lộ cãm xúc nào, không đồng ý cũng chẳng từ chối. Cô đứng lên đi ra sau. Anh Tình tưởng cô chấp nhận “lời đề nghị khiếm nhã ”. Anh ngâm nga vài câu cảm tác ngay trong cái thời khắc cực kì hứng khởi này. Trinh không ra sau mà vô phòng, khép cửa hờ. Nàng cởi bộ đồ xoa bông ra, mặc cái quần lãnh đen, chiếc sơ mi trắng vào. Quơ vội lược chải dăm ba cái lên mái tóc tém. Tất cả những động tác này không mất đến mười giây đồng hồ, rồi vội vàng bước ra, thực đúng là một kỷ lục đáng ghi vào sách Guiness về việc thay đổi xiêm y. Trinh đi quanh mấy bàn, lấy thêm quả chanh, cục nước đá, rồi tới bàn anh Tình. Tình nhắc lại đề nghị. Trinh nói: - Bữa nay em kẹt rồi … Tình hỏi: - Kẹt gì? Trinh cười: - Đồ mù…bộ không thấy người ta mặc quần đen đây sao ? Tội nghiệp nhà thơ, cả một sự đổi trắng thay đen như thế mà anh không biết. Giờ đây sự thực đen tối làm cho hồn thơ anh đang ngự trên cao chín tầng mây rơi ập xuống. Anh Tình, tuy làm thơ rất dở, nhưng anh quả là một tâm hồn thơ chính hiệu. Sự thay đổi từ bộ đồ xoa bông sang cái quần lãnh đen áo trắng đột ngột quá anh khônh kịp nhận ra. Thương thay, ngọn lửa thơ trong anh cũng tắt ngấm theo cái màu đen u ám đó. Anh đứng lên, trả tiền đi về. Lẫm bẫm câu thơ” Đêm nay lửa tắt bình khô rượu. Đời vắng em rồi say với ai?...”Trinh rất mừng, nhủ thầm: Đồ khùng! Uống hết thì bình khô, còn đòi say với ai? Thằng cha này dai như giẻ rách. Không có cách đó hắn ngồi đến sáng!
Đêm nay anh Mười đến, người ân nghĩa không thể từ chối một cách sỗ sàng được. Lão lại gõ cửa, lần sau to hơn lần trước. Trinh giả vờ ngủ, nhưng lão này dai quá, gõ không xong lão gọi: - Trinh ơi, em Hai ơi, dậy đi ! Trinh sợ hàng xóm nghe. Nàng ngồi dậy đưa chân tìm dép. Nghe tiếng dép lê trong nhà, Mười Dư rất mừng. Trinh tới bên cửa, không mở cửa cũng không mở đèn, hỏi vọng ra: - Anh Mười đó hả? - Ừ, mở cửa cho tui vô. Trinh nói: - Không được đâu. - Tại sao? - Thằng Lắm ( Con riêng của Trinh với người chồng trước ) chưa ngủ… Sự thật thằng bé này ngủ từ hồi tám giờ. Trinh tiếp: - Hắn đau răng khóc cả đêm, mới cho uống mấy viên thuốc APC, đã đỡ nhưng chưa ngủ. Nó mà thức thì không được. Nó biết chuyện, mét bên nội, lấy lại cái nhà này thì nguy to! Ngoài cửa yên lặng, Trinh mừng thầm. Mười Dư nghĩ: Người ta tin ra ngõ gặp đàn bà xui, thiệt đúng. Lúc mình mới bước ra cửa, tưởng đêm khuya thanh vắng không người, ai dègặp phải con mụ bán bánh canh gánh cái gánh không đi về. Quả nhiên tới gặp thằng nhỏ đau răng. Sao không đau lúc khác? Lão bước xuống sân, chân lạo sạo trong sỏi. Bên trong vọng ra tiếng an ủi rất dễ thương của Trinh: - Thôi chịu phiền, để khi khác nghe anh Mười… Trinh vô nhà leo lên giường thầm nghĩ, không biết có được yên thân không? Mấy con muỗi đói vo ve. Trinh tốc mùng lên, lấy tờ báo cũ quơ đuổi, bỏ mùng xuống tính ngủ, lại nghe tiếng muỗi vo ve, nàng nghĩ, thôi mặc kệ, cứ ngủ. Vừa nghĩ tơi đó lại có tiếng gõ cửa. Lần này một chậm hai nhanh. Trong cơn chập chờn Trinh cũng biết ai tới tìm mình. Đây là ám hiệu của anh Khanh cán bộ. Anh ta có tám con, trai có gái có, lại được cử làm cán bộ kế hoạch hoá gia đình. Người đầu tiên anh vận động là vợ. Chị ta nói:” Tui triệt, ông cũng triệt. Để một mình ông lôi thôi hả?” Anh nói: - Triệt sản một người thôi, cần chi cả hai ? Anh nghe bọn thanh niên nói, triệt sản xong thằng đàn ông ngó như con gà trống thiến chỉ được cái tốt mã, hết cả khí phách gà trống, con gà con đuổi cũng chạy. Suốt ngày lúc thúc kiếm ăn trong vườn. Lần này anh nói láo với vợ. - Ừ, muốn triệt thì triệt! Lỡ có gì thì đừng có trách tui…( ý anh muốn nói từ nay anh không mần ăn gì được thì đừng trách ) Trinh đứng trong nhànói vọng ra: - Khanh phải không ? - Ừ, anh đây, mở cửa vô tí coi. Trinh giọng sành sõi: - Làm cán bộ mà chẳng biết gì cả… Khanh: - Biết gì? Trinh: - Đêm nay công an đi kiểm tra hành chính! Khanh: - Sao em biết? Trinh: - Quán nhậu mà chuyện gì chẳng biết ? Anh không nghe chó sủa xóm trên xóm dưới đó sao, nhìn ra bờ sông thấy ánh đèn pin lấp lóa ! Trinh nói láo, đứng trong nhà làm sao thấy ánh đèn ở ngoài ? Nhưng vì lính quýnh anh Khanh không nhận ra điều phi lí. Anh vội vàng đi như chạy, chỉ kịp hẹn:” Thôi tối mai nhé” Trinh ừ hử cho qua chuyện, đó chỉ là cái kế hõan binh. Tối mai sẽ có kế khác, tam thập lục kế mà. Trinh lên giường, chưa chi lại nghe tiếng gõ cửa. Nàng lên tiếng: - Ai? - “Long thuỷ lợi” đây ! Xã tuy nhỏ nhưng có tới hai anh cùng tên Long. Một là “Long thuỷ lợi” giữ cái trạm bơm nước nhỏ. Và một là” Long thương nghiệp” trưởng cửa hàng bách hoá tổng hợp. Gọi thế nghe cho oai chứ cửa hàng chỉ có mấy chai nước mắm hạng ba, mấy cây chổi đót, xã viên múôn mua cũng không đơn giản tí nào, phải xin được cái phiếu với hai ba con dấu cùng chữ kí của chủ nhiệm, chủ tịch. Tại quán nhậu này đã có lần Long thuỷ lợi tát tai Long thương nghiệp vì cái tội Long thương nghiệp nói xấu anh về việc để trộm rinh máy bôm nước phải làm bảy bản kiểm điểm. Hai con rồng này vốn chẳng ưa gì nhau, nên “choảng” nhau là chuyện không thể tránh, song lần đó đã làm bễ bốn cái ly cối lơn của Trinh. Hai bên cùng móc tiền ra đền. Long thuỷ lợi ngầm khinh Long thương nghiệp nên khi nào phải xưng danh anh đều thêm cái ”hậu tố thuỷ lợi” để thiên hạ không lầm anh với thằng ở dơ nhất xã là Long Thương nghiệp. Trinh chưa tìm ra lí do gì để từ chối anh chàng khách không mời thứ tư đến quấy rối này. Song đầu óc nàng vốn rất nhanh nhạy đối phó với những vấn đề khó khăn kiểu này. Trinh vội vàng quơ ve dầu gió đầu tủ, nhỏ mấy gịot vào bàn tay, xoa xoa. Trong đêm khuya mùi dầu lan toả rất nhanh. Trinh than : - Từ chiều tới giờ em trúng gío, toàn thân đau nhức. Hai vai không gồng gánh gì mà mỏi nhừ. Cổ cũng đau, nuốt nước bọt đau lắm. Em ra chợ đầu cầu hỏi đại lý thuốc mua mấy viên “bi” ( bipénicillin) uống rồi, chưa thấy đỡ. Long thủy lợi nghe mùi dầu gó tưởng nàng bệnh thật, thấy thương, nói: - Tội nghiệp em Hai. Mai anh dẫn y sĩ Bảy đến bắt mạch cho toa, tới bệnh xá lấy thuốc về uống, ra chợ mua phải thuốc dỏm uống không hết đâu. Long thuỷ lợi thấy “đối tác” bệnh kiểu này không thể làm gì được, bỏ về. Khi đi qua nhà mụ Bốn Hoà, đầu óc anh nghĩ đâu đâu, bỗng con chó xô ra sủa khiến anh giật thót mình, rủa thầm:” Mẹ cha mầy! Bọn câu chó đâu không tới kéo cổ đi cho rồi!”
Bên kia hàng rào nhà bác Bá. Ông cụ dậy sớm xô chiếc cửa gỗ lớn lâu ngày không tra dầu kêu ken két. Ông cụ ra sân nhìn thấy Trinh ngồi quạt lò, đêm qua ông cụ cũng thức cả đêm tụng cho hết bộ kinh Địa Tạng, ông biết hết mọi việc xảy ra bên nhà Trinh. Cụ nhủ thầm :” Tội nghiệp, bọn đàn ông rậm rật bất nhơn khiến con nhỏ thức trắng đêm, lại dậy sớm làm lụng nuôi con. Đêm của người ghê gớm thật “./. Quý Thể |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 201 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |