Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Quê Hương Gò Công
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Quê Hương Gò Công
Message Icon Chủ đề: Cảnh cũ Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 19 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 26/Apr/2008 lúc 12:16am

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Gởi ngày: 26/Apr/2008 lúc 7:20am
Đình Gò Công chụp từ phía sau lúc Đình hoang phế bị trưng dụng làm họp tác xã đan lát, làm nhà ở làm văn phòng thậm chí có nuôi heo trong đình . sa91c thần và khí cụ thờ cùng vất bừa bải... Một số người thỉnh sắc về tạm trú thờ trong lăng Võ Tánh. Đình bây giờ dã được trả lại cho dân Gò Công, lần tái cúng dình đầu tiên được tổ chức rất long trọng( Ảnh Võ Nhơn Quới)( Xin quý vị am tường về Đình Gò Công chỉ dẫn cho biết Vị nào được phong trong sắc thần Gò Công và phong dưới triều vua nào. Rất mong đọc được trả lời )
http://i32.tinypic.com/30c8xvp.jpg


Chỉnh sửa lại bởi thylanthao - 26/Apr/2008 lúc 7:21am
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
IP IP Logged
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Gởi ngày: 26/Apr/2008 lúc 7:28am
Đất người lưu lạc, lâu rồi không được nhìn thấy con Trâu
http://i26.tinypic.com/2zgri0y.jpg
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
IP IP Logged
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Gởi ngày: 26/Apr/2008 lúc 9:34am
Bên hông Đình Gò Công.... Tiệm Hoàng hải gợi lại biết bao nhiêu kỷ niệm, trước là tiệm chụp hính sau là quán cà phê... Thời khoàng 65-66 vẫn thường uống cà phê ở đây
http://i25.tinypic.com/ou2gyp.jpg
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 26/Apr/2008 lúc 11:58pm



Chỉnh sửa lại bởi Hoang_Ngoc_Hung - 27/Apr/2008 lúc 12:18am
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2008 lúc 12:24am

ĐÌNH LÀNG THÀNH PHỐ

NAY LÀ ĐÌNH TRUNG GÒ CÔNG

 

Photo%20Sharing%20and%20Video%20Hosting%20at%20Photobucket

Nguồn: Phan Thanh Sắc
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2008 lúc 12:25am

PHAN THANH SẮC

ĐÌNH LÀNG THÀNH PHỐ

        

I. TỔNG QUAN

 

     Đình cất trong các năm 1930 -1932  bốn mặt giáp đường lộ. Đình hướng mặt về phương Bắc tức nhìn thấy Nhà việc của làng Thành Phố, cách một khoảng đất để trống, trồng cây cỏ có hàng có luống, rộng cũng bằng diện tích ngôi đình, cũng bốn bề giáp lộ. Sau đình qua lộ còn khoảng đất trống ngắn và cái hồ chứa nước mưa rất lớn.

     Thường đình làng ở Nam Bộ đều quay mặt về hướng Nam là hướng theo phong thuỷ là hướng mang dương tính gắn với hạnh phúc, với điều thiện. Đây cũng là ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa:

“Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ”

     Tức là thánh nhân ngồi quay hướng Nam để nghe lời tâu bày của thiên hạ, đó là hướng của thần linh khi các ngài thành vua tinh thần của quần chúng[1]

     Nhưng việc quay đình về hướng nào ở đây lại tuỳ thuộc vào sự hoà hợp thích ứng của kiến trúc với môi trường tự nhiên. Đình nầy nằm trên trục với Nhà việc làng nên quay mặt về hướng Bắc.

 

     Đình Thành Phố quay về hướng Bắc nhưng cách bố trí trong đình lại theo cách bố trí của ngôi đình truyền thống quay theo hướng Nam. Nói môt cách dễ hiểu khi ta đứng trước đình, ta nên tưởng tượng mình đang đứng hướng Nam ngó thấy đình ở hướng Bắc. Bên phải ta là Đông và bên trái ta là Tây

     Vì vậy trong đình, bố trí hai bàn thờ ở hai bên phải và trái phía trước hương án thờ Thành Hoàng được gọi là Đông Hiến và Tây Hiến. Bên Đông Hiến thờ Tà Văn Ban. Bên Tây Hiến thờ Hữu Võ Ban.

     Đông và Tây ở đây không phải là Đông Tây thực địa. Quan niệm như sau, ta đứng trước ngó bàn thờ thì ta ở hướng Nam, bàn thờ là hướng Bắc, bên phải ta là hướng Đông, bên trái ta là hướng Tây.[2]

     Điều nầy chứng tỏ trong tâm thức người dân ở đây mặt trước của thần thuộc về hướng Nam (cũng như mặt trước của bàn thờ). Nói các khác, trong tiến trình khai phá định cư ở vùng đất mới, cư dân Việt miền Nam nói chung và Gò Công nói riêng vẫn còn mang đậm dấu ấn chung của dân tộc. Từ trong tâm thức họ vẫn xem vị thần - người thay mặt vua - quay về hướng Nam để luôn theo dõi cuộc sống và lắng nghe lời thỉnh cầu của họ[3]

 

     Tiếc là đình không còn khuôn viên rộng, không cây cao bóng cả, không còn cổng vào đình. Nhìn chung thấy một khối trơ trọi thiếu đi vẽ u nhã của một ngôi đình ở làng quê, vì đây là một ngôi đình trong thành phố. Ngay ở ấp Gò Tre, một ấp lớn và lâu đời của thôn Thuận Ngãi xưa, giờ thuộc làng Thành Phố cũng tu sửa ngôi đình nhỏ giữa ấp cũng đồng thời các năm 1930, nhưng không được gọi là đình mà gọi là Nhà vuông, mà còn có khuôn viên rộng cả mẩu tây, có cây da cao thân lớn nhiều người ôm. Không là đình chánh mà khung cảnh và sắc thái rõ là ngôi đình làng thôn Việt. Còn nếu làng Thành Phố xây đình ở đây tức là tại ấp Gò Tre, thì ngôi đình sẽ là ngôi đình lẫm liệt nhất vùng. Nhưng đình thì phải gần “nhà việc”, để Ban Hội tề hợp dân bàn chuyện trong làng, xa quá thì bất tiện.

     Như sau nầy tôi có dạy học tại làng Tân Niên Đông (1956), tổng Hoà Lạc Thượng, tôi thấy và gần gủi với đình của làng nầy. Đình gần nhà việc làng Tân niên Đông, có khuôn viên rộng, có rào chung quanh, có cổng uy nghi, trước mặt tiền có bình phong đắp nổi hình tùng hổ, khó có ngôi đình nào trong tỉnh và các vùng lân cận sánh được.

   

     Được biết đây từ 1800 là đền thờ ông Phạm văn Thi. Ông Thi có người con gái là Phạm thị Vi (hay Du) gả cho Phạm Đăng Hưng sanh Đức Bà Từ Dũ và người con trai là Phạm Ngũ Văn làm tới chức Đông các điện đại học sĩ tại triều đình Huế, thời vua Tự Đức.

 

     Khi vua Tự Đức lên ngôi, con cháu họ Phạm bên ngoại Đức bà Từ Dũ nầy đều ở Kinh nên ngôi nhà thờ được cải biến thành Đình làng Tân Niên Đông. Đình có sắc phong Thần đời Tự Đức thứ 5. Lạ là đình có thêm sắc thứ nhì phong Bạch Mã thần không hiểu tích gì? Hay là đình thờ thần “Bạch mã Thái giám” mà triều đình có sắc phong “thượng đẳng thần” như nhiều ngôi đình khác?

 

*  *   *

 

       Trở lại, còn đình một khối như đình làng Thành Phố đây tuy thiếu khuôn viên cây cối nhưng cất khá hiện đại, cây gỗ thuộc loại quí bền chắc, lại việc trang trí trong đình hực hở ở ngôi điện thờ, vật dụng đầy đủ, đặc biệt nằm trên trục với “Nhà việc làng”, ứng cho hội hè đình đám. Đình khi hát cúng, cầu an cũng hội tụ dân cả làng và cả các làng lân cận.

 

 



             [1] Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí  [22;80]

  [2] Tất cả các đình, đền, miếu, thánh thất, nhà thờ ở Gò Công đều quan niệm Đông Tây nầy.

                [3] Đình ở TP HCM, Hồ Tường chủ biên, NXB Trẻ 2005, tr.32

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2008 lúc 12:26am
 (tiếp theo)

PHẦN II. DIỆN MẠO ĐÌNH LÀNG THÀNH PHỐ

 

        Đình làng Thành Phố là đình phố chợ, việc làng việc nước ít họp nơi đây, chỉ còn chức năng là nơi giao hoà giữa phần tích tụ tinh anh, vị “thành hoàng” bảo vệ dân bổn cảnh qua các cuộc tế tự hàng năm, lệ vào trung tuần tháng hai âm lịch.

 

         Mặt trước đình hướng về Bắc, thấy Nhà việc lại là bắt đầu của toà Võ ca, hậu trường của sân khấu

 

         Mặt đình thấy chia như 5 căn 6 cột có liển đối từng cặp.  Ba bộ cửa cây dạng song, lộng hình chữ “thọ” tròn  Cửa sơn đỏ, nhìn xa cho biết đó là cửa của ngôi đình cỗ. (Nay mặt nầy có tấm biển đỏ chữ vàng “ĐÌNH TRUNG”)

 

      Toàn thể ngôi đình là một phức hợp kiến trúc gồm ba toà xếp nếp theo hướng Bắc Nam. Các toà lần lượt từ mặt tiền: toà Võ ca, toà Võ Quy và toà Chánh điện có Hậu sở.

      Mỗi toà cất theo lối 3 gian hai chái, toà nầy chồng lớp toà kia theo hàng dọc, cách xếp như vậy cũng gọi là thế “sấp đọi”. trên mặt bằng hình “nét sổ” dọc.

      Toà nào cũng có 4 hàng cột dọc, hai hàng cột hai bên hong là tường thế cột, nếu là đình cỗ kiểu nầy không vôi gạch là 6 hàng cột.

 

TÒA VÕ CA

 

      Toà “Võ ca” là một kiến trúc đặc biệt chỉ có ở các đình phương Nam. Thường thì đây là chỗ tập kết người và nghi trượng phục vụ cúng tế, đồng thời là nơi diễn tuồng hát vào dịp lễ hội ở đình. Theo tự điển của Huỳnh Tịnh Của thì võ là cái nhà, ca là ca hát. Võ ca là nhà ca hát. Theo cách hiểu đơn giản của dân làng xưa thì Võ ca là nhà để hát bội vì sự xâm nhập diễn xướng của dân gian vào lễ hội hay lễ kỳ yên của người Việt ở Nam bộ là hát bội. Không thể quan niệm rằng có lễ kỳ yên ở đình mà không có hát bội.  Hát bội trước để cúng thần, sau để cho dân coi. Nếu nhớ cội nguồn đây là vốn văn hoá của người Việt khi đi vào khai phá vùng đất lạ nầy đã mang từ miền Trung vào cùng với những hành trang khác. Có ý kiến cho rằng khi cúng đình phải hát bội có liên quan đến chủ trương nâng đở, cổ vũ nghệ thuật hát bội của vị Tổng Trấn đất Gia Định xưa (toàn miền Nam) là Lê văn Duyệt - một vị quan đại thần rất mê hát bội và võ nghệ. Thế nhưng phải biết, địa điểm hát bội cúng đình bao giờ cũng diễn ra bên trong đình, tại gian hay toà Võ ca. Thấy ở ngoài Bắc trước hương án còn diễn các trò diễn sân khấu ở hội làng đều ở sân đình. Vậy chất linh thiêng ở các đình làng Nam bộ đã phai dần, nhường chỗ cho chất thế tục len vào.

   Buổi ban đầu, không rõ do trật tự ngày lễ hội quy định kiến trúc đình làng hay do kiến trúc đình làng Nam bộ với gian hay toà Võ ca làm trọn vẹn nhiệm vụ là nơi giải trí cho dân làng trong ngày lễ hội đình mà hệ quả dẫn đến lễ hội đình Nam Bộ diễn ra thiếu đa dạng và phong phú như vậy (xét toàn cục).

  Xét về nội dung bên trong Võ ca chia làm hai khu vực: Phần ngoài cùng từ cổng vào (đình Thành Phố không có cổng mà có mặt tiền ngó về Công sở làng) là hậu trường, dân gọi là buồng hát. Kiểu cách đơn sơ như thảo bạt, sâu 4 thước. Buồng hát có hai cửa để đào kép ra vào sân khấu: cửa “sinh” ở bên trái “thần” để đi ra , cửa “tử” ở bên phải dùng đi vào. Quy định nầy là được căn cứ theo quan niệm “sinh vi tướng, tử vi thần” mà ngay cả nội dung của các tuồng hát trong những ngày lễ hội tại đây cũng phải dựa theo. Trên cả hai cửa có dấu riêng, bây giờ không thấy. Buồng hát cũng là nơi nghỉ ngủ của đào kép.

    Kế đến là sân khấu khá cao rộng rãi, đây là nơi để diễn tuồng và để thực hiện một số nghi thức cúng thần như: lễ Xây Chầu, lễ Đại Bội. Mặt trước sân khấu hướng về “thần” trong Chánh điện.

   Phần trong Võ ca trước sân khấu nền thấp so với toà Võ quy thấp cả thước (nay nâng lên thấp 6 tấc), để khoảng trống, khi có hát bội, xếp ghế thành chỗ xem hát. Ở đây người xem hát ngồi thấp không án mặt “thần” ở Chánh điện.

 

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2008 lúc 12:27am
 (tiếp theo)

TÒA VÕ QUY

 

 

   Từ nền Võ ca phải bước ba bực thang lên nền toà Võ quy.

   Toà Võ quy nền cao bằng toà Chánh điện, nối liền sát Võ ca và Chánh điện tạo thành một khối kiến trúc chính của đình. Không gian mênh mông ây có một chiều sâu để tạo sự thâm nghiêm cần thiết cho một kiến trúc thờ tự. Toà Võ quy hẹp hơn hai toà như là toà trung gian giữa toà Võ ca và Chánh điện. Nền toà Võ quy cao hơn toà Võ ca và bằng toà Chánh điện.

   Hai bên hong  trái phải toà Võ quy có hai cửa vào như là cửa chánh vào đình. Phía ngoài cửa, cập theo nền xây hai thang phải, trái có nhiều bậc lên ngạch trống trước cửa để vào cửa. Bên ngoài các thang và ngưởng cửa đều có song sắt và tay vịn bằng gỗ ngừa ngã xuống hè lộ. Ngạch cửa cao cả thước rưởi so với mặt đường[1]. Trên còn có bốn chữ Nho khắc trên ván cao hơn  cửa cả thước. Chữ đen trên ván sơn đỏ. Đọc từ phải qua: Đình Thành Phố Thôn

    Toà Võ quy để quy tụ mọi người vào đây để chuẩn bị lễ thần khi chưa vào toà Chánh điện có bàn thờ thần. Vậy toà Võ quy có thể hiểu như nhà khách. Một hàng cửa phân cách mặt của toà Chánh điện. Cửa dược làm bằng loại gỗ quý chắc chắn theo dạng “thượng song hạ bản”, phía trên có những chấn song con tiện để lấy ánh sánh từ toà Võ quy vào và thông gió, phía dưới là những bản gỗ phân thành những ô hộc. Trang trí ở vòm cửa được chạm trổ khá công phu và rất đẹp. Cửa sơn son và gồm 5 bộ ứng với cấu trúc mỗi toà ba gian hai chái , bốn hàng cột giữa và 2 cột gạch tường hai bên. Ngày thường cửa vào toà Chánh điện đóng kín thâm nghiêm.

    Toà Võ quy và Võ ca nối liền nhau rộng rãi nếu có cuộc họp đông người cũng tổ chức được. Đình làng Thành Phố nguyên nầy là đình tỉnh lỵ nên việc họp người dân thường xảy ra. Các năm từ 1947 cho đến 1952 vì rạp hát nằm trong khu vực quân sự của Pháp, toà Võ ca và Võ quy có lúc cho các gánh hát cải lương mướn hát ban đêm thế rạp hát, cũng có vẻ một rạp hát lắm! Chỉ cần có vải che hai bên hong. Hai cửa vô ra ở hai bên hong toà Võ quy. Cũng nhờ thế làm rạp hát mà dân Chợ Gò vốn mê cải lương xem đươc các gánh hát khá lớn ở Sài Gòn xuống hát như gánh Kim Chưởng, gánh Thanh Tao v.v. Một thời vang bóng...!

   Vào toà Võ quy có cảm giác như vào nơi thoáng đạt khiến cho lòng lắng lại để sẳn sàng vào Chánh điện cúng tế.

   Toà Võ quy cũng như hai toà hai đầu, không cất có hàng cột cái mà đâm trính kiểu nhà “rường” miền Trung. Sáu tấm hoành phi  khắc đại tự sơn son thếp vàng, đặt trên các cây “xiên” cột hàng nhì trước Chánh điện do các bậc học nho phụng cúng.

   Sáu bức hoành phi nầy đặt quá cao nên không đọc được các hàng lạc khoản được để biết vị nào tặng và năm tháng phụng cúng cho đình. Biết được chi tiết ở các lạc khoản trên các hoành phi là biết được lịch sử lập đình và mức độ tính ngưởng quan trong của những vị phụng cúng. Nếu người cúng là một quan lại triều đình, dù rằng đình cất thời thuộc Pháp, ta cũng có thể hiểu là đình còn mối liên hệ với triều đình. Hay các hoành phi chi do các quan tân trào như Đốc phủ sứ, Phủ, Huyện của Tân trào thì biết đình không còn liên hệ gì với Cựu trào cả. Tôi viết các giòng nầy vì theo ký ức của nhiều người lớn tuổi trên 80 hiện còn minh mẩn và ở Chợ Gò Công từ nhỏ nói với tôi là đình được xây cất thời các năm đầu 1930. Còn anh Trương Ngọc Tường, nhà nghiên cứu về đình và các văn bản cổ có uy tín, người ở Cai Lậy, trong một lần gặp, anh nói rằng đình Thành Phố lập năm 1912 vì anh đọc được trong đình. Nếu năm 1912 là năm Nhâm tý, tôi tìm xem các chữ nho xưa trong đình không thấy câu đối hay chỗ nào khắc “Nhâm Tý Niên” cả. Chắc nếu có chữ Nhâm Tý thì sẽ ở các “lạc khoản” của 6 bức hoành phi. Tôi không đọc được. Đáng tiếc!

     Toà Võ quy giáp với toà Võ ca và toà Chánh điện ở hàng cột hàng nhì, nhưng không phải là cột gỗ mà xây cột gạch vuông. Phía giáp Võ ca thì để các khoảng trống giữa các cột gạch. Phía giáp toà Chánh điện cũng là cột hàng nhì chung với Chánh điện. Các khoảng trống đặt cửa để phân cách, một hàng cửa (được mô tả) được thiết lập tại đây. Các cửa nầy trở thành cửa chính đi vào Chánh điện.

 



[1] Năm 2004 Gò Công nâng các mặt đường nội thị lên gần 5 tấc nên, ngạch cửa đình thấp xuống. Nhìn chung nền đình thấp xuống nửa thước so với ngày xưa!

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 27/Apr/2008 lúc 12:28am
(tiếp theo)
 
TÒA CHÁNH ĐIỆN

      Toà Chánh điện là nơi quan trọng nhất trong ngôi đình vì là nơi thần linh ngự trị. Đây thâm nghiêm tựa cung cấm của một vị vua, đó là thần Thành Hoàng làng. Các cửa chánh mở hết các gian Chánh điện rộng như 5 gian (ba gian hai chái). Các cửa nầy đóng quanh năm chỉ mở trong các ngày lễ lớn sau khi làm lễ khai môn xin phép thần (đó là nói hồi xa xưa). Hằng ngày muốn vào bên trong để thắp hương, đốt đèn, phải đi từ Hậu sở qua hai cửa hong. Cửa mặt Chánh điện cũng như cửa bên hong toà Võ quy làm cửa chánh vào đình được làm bằng loại gỗ quý chắc chắn theo dạng “thượng song hạ bản”, phía trên  có những chấn song con tiện để lấy ánh sáng và thông gió, phía dưới là những bản gỗ phân thành những ô hộc. Trang trí ở vòm cửa được chạm trổ quá công phu và sơn son rất đẹp.

   Toàn bộ khu thờ bên trong đình là cả một triều đình tượng trưng. Ở giữa cuối cùng là bàn thờ thần Thành Hoàng có bài vị ở long ngai. Hai bên bằng dãy là hai bàn thờ qui mô kém hơn một chút thờ theo trật tự ngôi vị: Tả Văn Ban (Đông), Hữu Võ Ban (Tây). Hai bàn thờ  Tiền hiền, Hậu hiền, phía ngoài tựa vách hong ngó mặt nhau...khắp nơi chạm rồng trổ phượng bay lượn, có sơn son thếp vàng. Tất cả bày ra như một cuộc thiết triều thật sự tại hoàng cung. Nơi đây có thể nói là nơi tập trung tài năng mỹ thuật trang trí của làng Việt ở phương Nam.

   Đồ thờ đặt trên các hương án là đồ tự khí “ngũ sự”: một lư hương lớn hay vừa theo ngôi vị, lư bằng đồng bóng sáng loáng, đốt trầm khi chúng tế. Lưu ý con lân trên nấp lư đầu quay sang “tả” tức “Đông”. Lư hương nhà dân thường thì con lân có đầu quay sang “hữu” tức “Tây”. Khác biệt nầy do gia phụ nguyên là Hương cả Chánh tế đình nầy trước 1975 chỉ cho tôi, sau nầy tôi đi các đình cũ và nhận thấy đúng như thế. Không thấy có sách vở nào ngày nay viết về “đình” có nêu chi tiết nhỏ nhặt nầy.

  Một bát nhang đặt sau lư hương trầm, bình bông bên “Đông”, mâm ngũ quả hay các quả đặt bên “Tây”, rồi một cái kỷ con gọi là “tam sơn” sau bát nhang , đạt ba chén rượu v.v.

   Trên bàn thờ chính có một bài vị khắc mỹ tự của thần Thành Hoàng được đặt trong khám sơn son thếp vàng.

   Trước hương án  có chừa khoảng cách để tế lạy có đặt long đình làm bằng gỗ ván, chạm trổ sơn son thếp vàng rực rỡ, dùng rước “sắc” trong các lễ hội lớn của đình. Hiện long đình trong đặt “sắc thần”. Hai bên hương án “thần” có đôi hạc đứng trên lưng rùa cao lớn, tượng trưng cho âm dương hoà hợp và sự trường cửu của thần Thành Hoàng cùng với dân làng.   Rùa hạc có tự lâu đời không những ở đình nầy mà đình nào cũng có rùa hạc vì là hai con vật tượng trưng rất tiêu biểu!

   Cạnh đó bày la liệt lộng, tàn, lỗ bộ, bát bửu, bát kích...

   Ai cũng biết đôi lộng ngày xưa dân thường có thể sử dụng trong các lễ cưới gả và tang ma, nhưng đôi tàn (bằng vải quấn tròn rủ xuống v.v.) không bao giờ được sử dụng. Vì tàn chỉ dành riêng cho vua chúa thánh thần. Đình làng Thành Phố nầy ngày thường có cặp lộng nhưng cụp lại, khi có lễ mới dương lên và treo bốn tàn màu sắc đẹp đẽ, thêm treo cờ “ngũ hành”, cờ đuôi nheo.

   Bộ Lỗ bộ được xem là loại nghi trượng vừa biểu hiện quyền lực của thánh thần, vừa tạo vẻ uy nghiêm nơi thừa tự. Lỗ bộ làm bằng gỗ và có tám cặp gồm: biển có chữ “Tĩnh túc” và “Hồi Ty”, phủ việt (búa vàng), tay văn, tay võ, gậy đầu rồng, chuỳ, gươm và giáo.

   Lại có những đồ nghi vệ gồm có: bát bửu (bình bầu, bút, quạt vả, ống tiêu, giỏ hoa, cây kiếm, khánh, phất trần), ngoài ra còn có bát kích (thanh đao, mác trường, chuỳ, kiếm,, câu liêm, đinh ba, xà mâu, giáo). Nhưng nhớ ở đình xưa dàn thờ hai bộ “lỗ bộ” và “bát bửu” tất cả được tám cặp.

  Biểu tượng thiêng liêng tôn thờ ở bàn thờ chánh là một chữ “Thần”  (       ) sơn đen rất to được chạm nổi trên nền hồi văn, đặt trong nền khám thờ, xung quanh chạm trổ rồng phượng hoa lá , sơn son thếp vàng lộng lẩy.

   Chữ “Thần” với nét sổ đứng mạnh mẽ như cột trụ, chống đở cho cả vùng “bổn cảnh”, nét oai linh “hộ quốc tí dân” của vị “Thành Hoàng” như lời xưng tụng trong “Sắc vua phong thượng đẳng thần” đời Tự Đức năm thứ 5.

    Thật ra “sắc phong “nầy là sắc phong thần đình Thuận Ngãi, khi thôn Thuận Ngãi được Triều đình chọn làm lỵ sở Huyện mới hợp nhất hai huyện đông tây (vùng Gò Công) thành Huyện Tân Hoà năm 1852. Thôn Thuận Ngãi trước 1852 cũng là lỵ sở của huyện Tân Hoà cũ (Gò Công bên Đông), nhưng thua Chợ Dinh (Đồng sơn) là lỵ sở của huyện Tân Thạnh (Gò công bên Tây) đồng thời là lỵ sở Phủ Hoà Thạnh, phát triển sầm uất hơn. Nay 1852, thôn Thuận Ngãi bắt đầu thịnh dần dần hơn cả Chợ Dinh.

    Trở lại, đồng thời cùng năm lập lỵ sở huyện Tân Hoà mới, đình Thuận Ngãi có tự lâu đời được phong sắc cùng mươi ngôi đình trong huyện.

     Khi Pháp lập làng Thành phố, ngôi đình cổ Thuận Ngãi còn được duy trì cúng tế gần sáu mươi năm. Năm 1930 - 1932, đình bây giờ mới được cất và chính thức gọi là “Đình Thành Phố Thôn” như ở trên đã đề cập. Đình cất mới nhưng tinh thần vẫn là đình cũ. Có sắc thần, nên sau không xin sắc nữa. Đời Khải Định và Bảo Đại vẫn còn phong sắc cho những đình còn lại ở Gò Công dù đã thuộc Pháp. Vậy ở bàn thờ chính, chữ thần là thờ vị thượng đẳng thần “Thành hoàng bổn cảnh” tức vị thần thuộc “thiên thần” không tên tuổi.

    Nhưng khi nhìn hai bàn thờ “trái”, “phải”  của bàn thờ thần chánh, thờ Tả Văn Ban và Hữu Võ Ban, đọc hai cặp liển đối, thì biết ngay, khi cất lại đình, hội đồng hào mục, những bậc túc nho làng Thành Phố, thờ vị thần tại đình nầy là vị “nhân thần” như trên mười ngôi đình trong tỉnh Gò Công đã thờ và có “sắc vua phong” chánh thức.

   Sắc của đình làng Thành Phố Gò Công do vua Bảo Đại phong năm 1930 hiện cất giữ tại Đền Võ Quốc Công ở Gò Tre, xã Long Thuận.[1]

    Vị đó là “Trung liệt Võ công tôn thần” tức Hoài Quốc Công Võ Tánh, xưa là Phò mã Huân thần khai quốc của Triều Nguyễn.

     Vậy đình làng Thành Phố dù sắc thần cũ “Thượng đẳng thần”, nhưng thờ vị thần của vùng Khổng tước Nguyên xưa:

Hoài Quốc Công Võ Tánh

       Nhớ, khi khởi nghiệp năm 1884, Võ Tánh xưng là Tổng nhung đạo quân Kiến Hoà và trương cờ có 4 chữ “Khổng Tước Nguyên Võ”. Trong Văn tế khi cúng xướng xưng tụng trước tiên như sau:

 

       Khâm Sai Chưởng Hậu Quân Bình Tây Tham Thặng Thượng Tướng Quân gia tặng Quận Công Dực Vận Công Thần đặc tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân, Thượng Trụ Quốc Thái Úy Hoài Quốc Công TÁNH truy tặng Trung Liệt Võ Công Tôn Thần, Ứng Nghĩa Đạo Khâm Sai Chưởng Cơ gia tặng Dương VÕ Công Thần Trấn Quốc Đại Tướng Quân

 

      Còn trên bàn thờ bên đông Tả Văn Ban có hai câu liễn là:

 

     Gia Long Tả Vận Công Hoằng Khai Quốc

        Đại Nam Luận phong Lễ Hiệp Mậu Gia”

 

     Đọc hai câu nầy biết là thờ một văn thần thời Gia Long lập quốc.

     Trong Văn tế thần khi cúng đình Thành Phố, phần xưng tụng vị tham mưu “văn”, ghi bằng chữ nho như sau:

 

     Lễ Bộ Thượng Thơ gia tặng Tán Trị Công Thần đặc tiến    Trụ Quốc Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Lý Tự Khanh Thái Tử Thái Sư CHÂU Ninh Hoà Quận Công thuỵ Trung Ý NGÔ Công Tôn Thần”

 

       Dù viết chữ nho nhưng dễ hiểu, vị thần nầy là Ngô Tùng Châu, viên quan văn cùng Võ Tánh thủ thành và tử tiết tại Bình Định Thành năm 1801.

        Trên bàn thờ bên tây Hữu Võ Ban có hai câu liễn cũng bằng chữ Nho như sau:

 

          Văn Trị Hi Triều Tôn Chi Viết Bá

           Vũ Công Thái Vận Biểu Nhi Xưng Công”

 

        Rõ là thờ võ thần tướng hạ của vị chánh thần nghĩa chung chung, nhưng trong văn tế cúng thần xưng tụng như sau:

 

    Thống Binh Chưởng Cơ Doanh Nghị Hoà Hầu

       thuỵ Trung Liệt  Nguyễn Công Tướng Quân”

 

       Theo chức tước vị võ thần nầy là Nghị Hoà Hầu Nguyễn Tấn Huyên, vị tướng đã nhảy vào lửa cùng thiêu mình với chủ tướng Võ Tánh ở Bác giác lầu cũng năm 1801 đó!

   Trong khi cúng tế, ban Quí tế còn đặt bàn Hội đồng trước long đình để bày các lễ vật cúng thần.



[1] Xin xem bài viết “Bãi Khổng Tước” của cùng người viết có chi tiết về “sắc thần” làng Thành Phố.

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 19 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.090 seconds.