![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Thơ Văn | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 201 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23847 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23847 |
![]() ![]() ![]() |
Nước chảy đôi dòng Nhất Linh |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
hoangngochung
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 27/Nov/2010 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 513 |
![]() ![]() ![]() |
NƯỚC CHẢY ĐÔI DÒNG
Người đàn bà không để ý đến Sinh, vẻ mặt thản nhiên như không biết mình vui hay
khổ, không biết mình là xinh đẹp, như không bao giờ nghĩ đến rằng người đẹp như
mình có xứng đáng với cái cảnh đời ấy không ***
|
|
hung0989077120@ahoo.com
|
|
![]() |
|
hoangngochung
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 27/Nov/2010 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 513 |
![]() ![]() ![]() |
.
Xuân đã đem mong nhớ trở về Lòng cô lái ở bên sông kia Cô hồi tưởng lại ba xuân trước Trên bến cùng ai đã nặng thề.
Nhưng rồi người khách tình xuân ấy Ði biệt không về với bến sông. Ðã mấy lần xuân trôi chảy mãi Mấy lần cô gái mỏi mòn trông.
Xuân này đến nữa, đã ba xuân Ðốm lửa tình duyên tắt nguội dần Chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi Cô đành lỗi ước với tình quân.
Bỏ thuyền, bỏ lái bỏ dòng sông Cô lái đò kia đi lấy chồng. Vắng bóng cô em từ dạo ấy Ðể buồn cho những khách sang sông.
Cô lái đò trong đời thực của thi sĩ Nguyễn BínhLê Hoài Nam Trước đó nhiều năm Nguyễn Bính đã có bài thơ "Cô lái đò" khá nổi tiếng. Cũng chưa ai hỏi xem thi sĩ lấy chất liệu từ một cô lái đò thực hay chỉ là do ông tưởng tượng ra. Song, vào cái thời điểm biết chuyện cô lái đò sông Châu tên Thoa không lấy tiền mỗi khi Nguyễn Bính qua đò, thì anh em trong phòng văn nghệ bắt đầu bàn tán. Mọi người nói ra nói vào mãi rồi cũng đi đến một phỏng đoán: Chắc chắn cô Thoa đã đọc bài thơ Cô lái đò và hẳn rằng cô rất thích nên mới "tự vận vào mình"...
Năm 1965. Không quân Mỹ leo thang bắn phá.
Cơ quan Ty văn hóa Nam Hà phải về xã Nhân Nghĩa, huyện Lý Nhân. Thi sĩ
Nguyễn Bính khi ấy làm biên tập viên văn nghệ của Ty. Từ xã Nhân Nghĩa về thành
phố Nam
Định, nếu đi tắt cho gần, phải qua sông Châu bằng một con đò ngang. Sông Châu bắt nguồn từ sông Hồng qua thị xã Phủ Lý nối vào sông Đáy. Đôi bờ xanh mướt cây cối, rau quả. Cái bến đò Nhân Nghĩa quê kiểng mà nên thơ. Từ nơi sơ tán, thi sĩ Nguyễn Bính rất thích đi qua đò sang chợ Chủ, thuộc đất Bình Lục. Chợ Chủ có món thuốc lào Tiên Lãng đóng gói, hút đậm khói, say lâu, rất hợp khẩu vị Nguyễn Bính. Cứ hết thuốc lào Nguyễn Bính lại qua đò sang chợ. Người chèo đò là một thiếu nữ thôn quê tên là Thoa. Dù dầu dãi nắng mưa chèo đò quanh năm, tiếp xúc với đủ hạng người, nhưng Thoa vẫn giữ được cái vẻ nền nã, mặn mà. Trong những vị khách của Ty Văn hóa hay qua đò thì Nguyễn Bính không có vẻ gì là hào hoa phong nhã, trái lại, ông gầy còm, da nâu sạm, răng vàng khè ám khói thuốc, tóc rễ tre dựng ngược bơ phờ; trang phục thì hầu như lúc nào cũng quần ka ki nhầu nhĩ, áo nâu xồng, dép cao su. Ấy thế mà lần nào Nguyễn Bính qua đò khi rút tiền trả, cô Thoa cũng không lấy. Trước đó nhiều năm Nguyễn Bính đã có bài thơ "Cô lái đò" khá nổi tiếng. Cũng chưa ai hỏi xem thi sĩ lấy chất liệu từ một cô lái đò thực hay chỉ là do ông tưởng tượng ra. Song, vào cái thời điểm biết chuyện cô lái đò sông Châu tên Thoa không lấy tiền mỗi khi Nguyễn Bính qua đò, thì anh em trong phòng văn nghệ bắt đầu bàn tán, khi xì xầm khi rôm rả. Mọi người nói ra nói vào mãi rồi cũng đi đến một phỏng đoán: Chắc chắn cô Thoa đã đọc bài thơ Cô lái đò và hẳn rằng cô rất thích nên mới "tự vận vào mình", tự cho rằng mình cũng là nàng thơ của Nguyễn Bính, có thế cô mới yêu quý ông đến nhường ấy! Rồi một hôm có người dúi vào tay Nguyễn Bính một bản chép tay bài "Cô lái đò" của ông. Nguyễn Bính đọc, rất lấy làm ngạc nhiên bởi bài thơ nguyên bản ông sáng tác kết thúc bằng khổ: "Bỏ thuyền, bỏ lái, bỏ dòng trong Cô lái đò kia đi lấy chồng Vắng bóng cô em từ dạo ấy Để buồn cho những khách sang sông" thì bây giờ lại có thêm một khổ thơ cuối: "Thế rồi trên bến một đêm kia Người khách tình duyên lại trở về Cô lái đã vui duyên phận mới Khách còn trở lại nữa làm chi...". Nhìn nét chữ mềm mại, mọi người cho rằng, thủ phạm của khổ thơ "nối điêu" này hẳn là cô Thoa chứ chẳng ai vào đây. Hỏi Nguyễn Bính, ông chỉ tủm tỉm cười ra chiều đắc ý lắm. Dù khổ thơ không thật ăn nhập lắm với hơi thơ của "Cô lái đò", nhưng Nguyễn Bính vẫn rất thích. Ông bảo kể từ nay bài "Cô lái đò" sẽ giữ lại khổ thơ thêm thắt ấy. Cuối năm, nhằm ngày tận cùng của tháng áp tết, Nguyễn Bính mất đột ngột. Vì điều kiện chiến tranh, phương tiện thông tin còn sơ sài, không phải ai quen biết Nguyễn Bính cũng biết ngay chuyện buồn này. Khoảng hai tháng sau, nhà văn Chu Văn đi đò qua sông Châu. Cô Thoa vẫn gò lưng mải miết chèo đò đưa khách qua sông. Nhà văn Chu Văn hỏi Thoa: - Cháu biết tin gì về bác Nguyễn Bính chưa? Thoa tròn mắt có vẻ ngỡ ngàng, hỏi lại: - Bác ấy làm sao, hay là bác ấy bị ốm? - Không, bác ấy ra đi đột ngột vào tối ba mươi tết vừa rồi, cháu ạ - Chu Văn nói. Thoa buông mái chèo. Tay chân rụng rời. Con đò xoay ngang. Một tiếng nấc nghẹn. Lát sau Thoa mới tỉnh táo trở lại cầm chèo. Cô nói, giọng khàn đặc, như uống phải nước mắt: “Giá chết thay được thì cháu xin chết thay để bác ấy được sống... còn làm thơ...”
Tác giả “cô lái đò” được cô lái đò hậu tạ![]() Bài thơ “Cô lái đò”, Nguyễn Bính viết vào những năm bốn mươi của thế kỷ XX, là một trong những bài thơ hay được nhiều người thuộc. Trong đó có “Cô lái đò” ở Nhân Hậu, trên sông Châu Giang tên là Thoa. Bến đò Nhân Hậu ngày đó rất đông khách, cô Thoa lúc đó mới hơn hai mươi tuổi, người trắng trẻo mảnh mai, xinh xắn, lại thêm má lúm đồng tiền nên càng duyên. Một lần cô Thoa chở khách đã ra gần giữa sông thì thấy Nguyễn Bính dáng người hom hem đứng trên bờ, tay cầm chiếc mũ cát giơ cao vẫy vẫy. Cô Thoa liền cáo lỗi các vị khách và giới thiệu người vẫy kia là nhà thơ Nguyễn Bính, tác giả bài thơ “Cô lái đò” năm xưa. Cô quay mũi thuyền rồi đọc mấy câu thơ trong bài cho khách nghe: Xuân đã đem mong nhớ trở về Cô Thoa giới thiệu Nguyễn Bính còn là tác giả “Lỡ bước sang ngang”. Đến lúc này thì mọi người khách mới thật sự thông cảm, chứ lúc nãy họ còn khó chịu vì không biết ông khách kia là ai. Quả là thơ Nguyễn Bính đã “ưu tiên” Nguyễn Bính thoát cảnh lỡ đò. Tác giả “Lỡ bước sang ngang” vừa được ưu ái “sang ngang”. Đây cũng là dịp cô lái đò “hậu tạ” tác giả “Cô lái đò” thời Tự lực văn đoàn bằng một cử chỉ đẹp. Sau này, theo nhà văn Đắc Trung cho biết, khi được tin Nguyễn Bính mất (tháng 1-1996) cô Thoa khóc sưng cả mắt và nói với nhà văn Chu Văn: “Giá mà cháu chết được thay cho bác Bính sống để bác ấy làm thơ”. Thật còn tình cảm nào hơn cô lái đò trên sông Châu Giang ngày ấy với Nguyễn Bính nữa không? Lê Hồng Thiện
. *** CÔ LÁI ĐÒ (Nguyễn Đình Phúc – Nguyễn Bính) § Ca sĩ Hoàng Oanh (ngâm thơ và hát) – trước 1975 http://m.nhaccuatui.com/nghe?M=iQ1FvqQg3h § Tài tử Ngọc Bảo: http://m.nhaccuatui.com/nghe?M=jZscVjj1u8 § Danh ca Sĩ Phú http://m.nhaccuatui.com/nghe?M=yIIJm4tI35 § Nhạc sĩ Duy Khánh http://m.nhaccuatui.com/nghe?M=dyCrJuMXBo § Nghệ sĩ Minh Cảnh và Phượng Liên (tân cổ nhạc) http://m.nhaccuatui.com/nghe?M=HRar6nAgGf |
|
hung0989077120@ahoo.com
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23847 |
![]() ![]() ![]() |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23847 |
![]() ![]() ![]() |
Cánh Đồng Bất Tận
![]() Nguyễn Ngọc Tư http://trongcom.com/?cID=3&gID=1&tID=116 Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 18/Feb/2012 lúc 10:14am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Nhang Tàn Canh ![]() Tầng trệt hơi tối vi không có cửa sổ, Thằng Bảy và Phạm ở. Tầng trên sáng sủa hơn, có cửa sổ thông gió hai bên hông nhà. Phòng ăn chung nhà bếp, chúng tôi ít dùng, bởi vì ăn cơm tháng , đâu cần nấu nướng gì. Phòng ngủ, hai thằng bạn khác kê hai cái giường single ở chung. Phía trước là phòng thờ cúng, bàn thờ lâu ngày không nhang khói, lạnh tanh, điêu tàn, cổ tích, có lẽ vì quá cũ kỹ, nên khi dọn nhà người chủ không muốn mang đi. Tôi ở phòng này, rộng rãi, không ồn ào, dễ học bài. Ðặc biệt nhà này phòng vệ sinh ngoại trừ chỗ để tắm, còn có cái bồn treo lơ lửng trên tường, dành cho đàn ông, không thích hợp cho đàn bà! Không có nơi đại tiện, nhưng cũng chẳng sao, đi bộ chỉ 50 thước đến cuối hẻm có dãy public toilet nằm trên ao rao muống từa tựa như ở quê nhà, cặp bến đò thợ nhuộm..Mỗi đêm chúng tôi hay kéo nhau đi tập thể, lâu ngày cũng thành thói quen dễ thương, nhất là có lúc ngồi toilet sát bên với một cô bắc kỳ nho nhỏ, ngăn cách nhau chỉ một tấm vách lá rách nhiều chỗ, vừa toilet vừa nói chuyện lãng mạn, đời còn thú vị nào hơn!! Thằng Phạm, ngoài giờ học chữ, còn đi học thổi sáo với thầy Nguyễn Ðình Nghĩa, tiếng sáo của nó càng ngày càng dữ dội, động tim, mỗi khi nghe nó thổi bài Phụng Vũ, tôi muốn bỏ học, về quê chăn trâu cho hết một kiếp người! Tôi có ghi danh học thêm môn Anh văn vào mỗi tối thứ bảy. Có một đêm, lúc tan học, tôi thả bộ ngược đường Hiền Vương, dọc theo bức tường nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi cao quá đầu người để về nhà, lúc đó trời mưa nho nhỏ, chỉ vừa đủ ướt tóc, đường vắng hoe, gió thổi mạnh làm rơi xuống những chiếc lá còn xanh chưa muốn rụng, gió cũng làm những ngọn thông phía trong nghĩa địa reo vi vu, réo rắt, âm thanh mỗi lúc càng lớn thêm như tiếng sáo, tôi nghe giống bài Phụng Vũ thằng Phạm hay chơi, mênh mông, rồi quyện vào cái âm thanh chơi vơi của bài Trương Chi, hai thứ âm thanh ngược chiều cộng hưởng tạo ra thứ tiếng rất lạ nửa như tiếc thương, nửa nghe ai oán từ một cõi xa nào. Dòng âm thanh đuổi tôi càng lúc càng gần, như bước chân ai theo sau tôi. Mưa bắt đầu nặng hạt thấm ướt áo, con đường Hiền Vương lùi lại, tôi rẽ vào lối Bùi Hữu Nghĩa. Ðường vắng lắm, những ngọn đèn trên cao hắt hiu dội xuống thứ ánh sáng mờ ảo, bệnh hoạn. Thấy lạnh, tôi đưa tay định kéo cổ áo lên cao, chưa kịp, một bàn tay lạnh ngắt đã choàng qua cổ tôi, bất ngờ , tôi quay lại rất nhanh. Ðâu có ai ! Tim đập mạnh, tôi đi như chạy, vừa tới cầu sắt, tôi thấy có người con gái mặc áo dài trắng, đi ngược chiều tôi, càng đến gần, mới nhận thấy chân nàng không đụng đất, sợ quá, tôi vụt chạy nhanh qua mặt nàng, tà áo trắng chợt dài thêm như muốn cuốn tôi vào, rồi bỗng nhiên tan ra như mây, thấy lạ quá, tôi cố hết sức bình tĩnh để nhìn lại, bên kia cầu, có người mặc áo mưa kín đầu, đen thui, đang đuổi tôi, tôi chạy nhanh , bóng đen càng nhanh hơn, mệt quá đứng lại để thở, bóng đen cũng đứng lại, tôi tiếp tục chạy đến khi nghe được tiếng chuông nhà thờ Thánh Mẫu đổ, bóng đen biến mất? Về đến nhà, mở cửa bước vào, vắng tanh, tối thứ bảy đâu đứa nào muốn ở nhà, tôi lên lầu, thay bộ quần áo bị ướt, xong đến thắp hương bàn thờ, một dãy ly hương cả chục cái, đâu biết thờ ai, nhưng có khói nhang, lòng tôi thấy ấm áp, đỡ sợ. Ðịnh nằm ngã lưng một chút sẽ học bài, mới vừa thiu thỉu ngủ, tôi nghe tiếng nước chảy dưới phòng tắm, mừng lắm vì biết bạn đã về, ngồi dậy, đi xuống nhà bếp nói với bạn vài câu, thằng nào tắm sao không mở đèn, lười như heo, tôi chửi thầm, nước chảy mạnh thêm. Tôi đến mở công tắt điện, nước ngưng chảy, nhìn vào phòng tắm không đóng cửa, đâu thấy ai tắm, tôi nghĩ hay mình đã nghe lầm tiếng nước mưa chảy trên máng xối. Mưa gì dai dẳng, mưa hoài không dứt. Tắt đèn, định đi ngủ, nhưng tôi lại vén tấm màn sáo cửa sổ, xem mưa đã nhẹ hạt chưa, ngay lúc đó đèn nhà bên kia vụt sáng, nhìn qua cửa sổ kính, không kéo màn, cách chỗ tôi đứng chưa đầy nửa thước, người con gái mặc áo dài trắng, tóc xõa dài quá lưng, đi tới đi lui như đang tìm kiếm vật gì, rồi nàng đến tấm gương lớn đặt trên bàn trang điểm, nhìn khuôn mặt mình trong đó, sửa lại mái tóc, có vẻ như đã hài lòng, nàng đưa tay mở từ từ các cúc áo, chiếc áo dài được cởi ra, treo cẩn thận trên móc áo, kế đến là chiếc áo nịt vú cũng được bung ra, tôi bàng hoàng, nín thở, trời ơi, một kỳ quan rực rỡ thênh thang trước mắt tôi, thì ra tất cả những huyền bí chỉ ở phía sau một chút lụa là mỏng manh...Tôi đâu có đủ chữ nghĩa để diễn tả nhan sắc nàng, ngay cả ông Nguyên Sa có sống lại, chắc cũng chỉ viết được : Da em trắng, anh chẳng cần ánh sáng Tóc em dài, anh chẳng tiếc mùa xuân Trên cuộc đời này chẳng có giai nhân Bởi anh gọi tên em là nhan sắc... Rồi nàng tắt đèn trên trần, còn lại ánh sáng lờ mờ từ chiếc đèn ngủ ,tôi thấy dáng nàng không che đậy, chơi vơi, nửa có, nửa không. Tim tôi như ngừng đập, mãi đến lúc nàng cuộn mình trong chăn, ánh sáng từ chiếc đèn ngủ vụt tắt, tôi thẫn thờ trở lại phòng, những cây nhang trên bàn thờ sắp tàn, khói bay nghi ngút, quyện theo mùi trầm mênh mông cả góc phòng. Tôi lên giường ôm theo chân dung tuyệt vời vào giấc ngủ, nhưng cứ trằn trọc mãi, trong trạng thái như mê sảng, tôi nghe trên ngực mình nóng lắm, khó thở, rồi một mái tóc dài chợt xõa xuống mũi tôi, hương quỳnh tan vào da thịt, gần như nghẹt thở, hoảng hốt, tôi đưa tay lùa giấc mơ, bật ngồi dậy, đâu có gì chung quanh, ngoài dãy lư hương buồn thiu, bất động trên bàn thờ?Tôi cố gắng đi vào giấc ngủ nhưng cả đêm không thể nào ngủ được, chỉ mơ màng, cho đến khi nghe tiếng rao mời của thằng nhỏ bán bánh mì nóng, biết trời sắp sáng. Tôi thức dậy, làm vệ sinh cá nhân, vừa định đi tắm, mới hay cả người tôi mùi khói nhang nực nồng. Dòng nước lạnh tưới xuống, tôi tỉnh táo đôi chút, chải lại mái tóc se sua cuộc đời, lạ quá, tóc tôi lược chải hoài không giáp! Bên ánh sáng lờ mờ, tôi nhìn tôi trong gương, mắt tôi đen láy, môi tôi ngọt ngào như múi quít chín cây, chiếc mũi cao , thon nhỏ nổi bật giữa làn da tươi non như trái mận vào mùa , trời ơi, tôi đâu phải là tôi, kinh khủng , tưởng như đang mơ. Bằng hết sự can đảm nhìn thật kỹ trong gương lần nữa, đôi ngực tôi no tròn khêu gợi thẳng góc với mặt phẳng của làn gương, tôi chết sững, muốn hét to lên để đánh thức nỗi kinh hoàng, muốn bỏ chạy khỏi nơi u uẩn, nhưng tôi không cử động nổi, dùng hết tàn lực, tay tôi đập mạnh xuống tấm gương, dáng người con gái tôi đã thấy vào buổi tối như giẫy giụa nhiều lần, tan ra, trôi lênh đênh theo sóng thủy tinh, rồi biến mất? Tôi bỏ đi thật nhanh, bước ra cửa, tôi gặp thằng Phạm cũng vừa trở về sau một đêm rong chơi mệt mỏi, tôi đi như ma đuổi, không quay lại chào nó. Ghé vào quán bên đường uống một tách cà phê buổi sáng, lòng nôn nao khó tả, châm điếu thuốc, tỉnh táo đôi chút, hôm nay chủ nhật, được rỗi rảnh, đến nhà bà dì chơi, có bà con bên cạnh cũng đỡ cô đơn. Mãi đến tối tôi mới trở về nhà, mở cửa, nhà vắng hoe, bạn bè chưa đứa nào về cả. Tôi đi thẳng lên lầu, định lấy tập vở ra ôn bài cho buổi học ngày mai, đúng lúc tiếng sáo thổi bài Phụng Vũ của thằng Phạm trổi lên, mừng quá, có bạn trong lúc này thật là cần thiết, tôi bước xuống định nói vài câu với bạn, tiếng sáo chợt ngưng lại, nhìn quanh quất, không thấy bạn, nhanh thật, tôi nghĩ chắc nó đã ra ao rau muống toilet, tôi cũng thả bộ ra ngoài đó cho vui. Ðêm nay trăng rất tròn và sáng lắm, ồ, tuyệt diệu, trước mắt tôi là con đường trải nhựa thênh thang, ao rau muống đã được lắp kín, hàng cây đứng thẳng tắp hai bên như hàng nến đang cháy lung linh. Ðưa tầm mắt xa hơn, có người con gái với đôi tà áo dài trắng phất phơ theo gió, lùa bóng trăng, lúc mờ lúc tỏ, từ từ tiến tới phía tôi đang đứng, vừa đi nàng vừa thổi sáo, khúc nhạc giống y như của thằng Phạm. Cảnh đẹp, người đẹp, tôi như chơi vơi giữa không gian kỳ ảo, định đi vào, nhưng bước chân vừa đặt xuống dòng nước đã lênh lang , phủ khắp, cũng may tôi rút chân lại kịp lúc, nếu không, biết có còn là tôi ! Lúc đó vắng lắm, không người toilet? Tôi trở lại nhà, tắm rửa, đốt nhang , trong lòng vẫn còn mơ hồ lắm, màu khói mong manh bay lên, dù sao, có chút nhang khói cũng thấy dễ chịu. Cả đêm tôi miên man nghĩ ngợi về những chuyện liên tục xảy ra, có thể nào tôi bị bệnh yếu bóng vía hay tâm thần bất ổn? Ðến gần sáng tôi chợp mắt được một chút, không có gì xảy ra, mặt trận miền tây vẫn còn yên tĩnh? Buổi sáng thức dậy, ngồi trước ban công ôn bài, mấy thằng bạn tôi chắc đã tới lớp, tôi được trống 2 giờ đầu, có thằng nhỏ bán báo đi ngang, tôi gọi nó lên lầu mua tờ báo, rồi gợi chuyện hỏi thăm về cô gái kỳ hoặc đó, nó nhìn tôi bằng đôi mắt đầy bí ẩn, rồi hỏi : - Anh mới dọn về đây, sao quen được chị ấy? Tôi trả lời nó : - Ðâu có quen biết gì, chỉ nhìn thấy! Thằng nhỏ tròn xoe đôi mắt : - Anh nhìn thấy chị ấy? Nằm mơ hả? - Thấy thật chớ mơ gi, tối hôm qua rõ ràng anh thấy người con gái... Mặt thằng nhỏ biến sắc, nó nói như cà lăm : - Chị...chị ấy chết cả năm rồi. Hay anh thấy... ?ma! Tôi bắt đầu thấy lạnh người, tay tôi run run, thằng nhỏ kể tiếp : - Chị ấy là hoa khôi xóm này, con một, học ở trường Lê văn Duyệt, bị mất tích, sau đó người ta tìm được xác chị ở ao rau muống, ba má chị buồn như điên, anh không tin em, cứ vào nghĩa trang Mạc đỉnh Chi sẽ thấy mộ chị, dễ tìm lắm, nằm sát vách tường đường Hiền Vương.. Tôi nghe lùng bùng lỗ tai. Ma? Có phải tôi đang gặp ma? Buổi chiều tan học, còn sớm, tôi tò mò, muốn biết sự thật về câu chuyện kể của thằng nhỏ bán báo, ghé vào nghĩa trang, tìm thấy mộ nàng cũng không khó lắm, đúng rồi, trên mộ bia là tấm hình của nàng tôi gặp đêm trước, kinh hoàng quá, cây nhang còn đang cháy dở, dĩa bánh bò, bánh da lợn còn tươi, vàng mã và bó bông hồng nằm ngay ngắn trước mộ, chắc ba má nàng vừa ghé thăm...Tôi cúi xuống đốt cho người quá cố nén hương, đúng lúc cơn giông ùa tới, dữ dội, những cây thông lả xuống gần tới đất, bó bông hồng bay lên cao, những tờ vàng mã đủ màu cũng bay theo, rồi mưa đổ xuống mênh mông, dễ sợ, trời đất tối đen, tôi vừa bị ướt vừa bị lạnh lắm, tìm đường ra, nhưng dòng nước mưa ngập cao, mất lối, những ngôi mộ như đang trôi trên biển, rồi một tiếng kêu thảng thốt, lạnh tanh từ trên cao vọng xuống, một con chim rất lớn, lông trắng tươi như con thiên nga rớt ngay trên mộ nàng chết một cách thảm thiết? Tôi sợ quá, bỏ chạy, sóng vỗ ồ ạt quanh chân, nghĩa trang mỗi lúc như lớn thêm, những ngôi mộ trôi lênh đênh trắng cả biển... Càng lạnh, cơn đói bụng càng gào thét, rã rời, mãi rất lâu, tôi đã đến được đường Mạc đỉnh Chi, tìm một quán ăn nhưng không thấy. Con đường này tôi đã đi qua rất nhiều lần, nhưng hôm nay thấy lạ quá, phố xá thênh thang, nhà cửa lộng lẫy, hình như mọi người đã ngủ, im lìm. Cơn đói trong tôi dữ dội thêm, chợt nghe thèm một tô mì khô sợi lớn của chú Siều kế rạp Huê Tinh, hay dĩa bánh tầm xíu mại ở quán Thuận Thành, sát nhà Ba Cuội, một dĩa cơm tấm bì sườn chả, trứng Bà Năm Sót, tô hủ tíu xí quách bà Tư Ù, tô canh chua cá rô mề Bà Sáu Mập, hay cái lẩu gà Anh Ðào gần Cầu Phán Tề?Từng món ăn đi ngang qua trí tưởng, cơn đói hoành hành, tàn nhẫn thêm, vừa sắp lả đi, tôi gặp được người đàn bà tuổi độ trung niên mời vào nhà, ngỡ là quán mới mở, buồn ngủ gặp chiếu manh, tôi đâu còn sức để từ chối, bước vào nhà, trời ơi, một căn nhà sang trọng, hoành tráng tôi chưa bao giờ thấy, dù trong phim ảnh, chiếc bàn ăn kê giữa nhà, thức ăn đã dọn sẵn, bốc khói, thơm lừng, giữa bàn là ngọn nến đang cháy, khung cảnh vô cùng lãng mạn. Người đàn bà mời tôi ngồi, từ trong , một kiều nữ bước ra, kiêu sa, quí phái , nàng mặc chiếc áo đầm màu hoàng yến với những hàng kim tuyến chiếu lấp lánh, cổ áo xẻ sâu xuống để hở nửa phần ngực nhấp nhô theo nhịp thở. Nàng chào tôi rất thân thiện, nghiêng một bên má qua vai tôi, tôi đặt xuống nàng nụ hôn nhẹ nhàng, tôi nghe từ nàng thoảng mùi hương quế tuyệt vời. Chúng tôi ngồi đối diện, bắt đầu vào tiệc, món ăn ngon và lạ miệng quá, trái cật heo nọc hầm với củ sâm ngàn năm, được đựng trong cái thố của vua Minh Mạng, gân hưu, thịt gà ninh, thịt móng ngựa, nem công, thấu thỏ, nham bò, khum lệt, hầm câu, cao lầu, sâu mây ?và còn quá nhiều món khác nữa được liên tục mang lên, đói quá tôi ăn một cách vội vã, quên mất người đẹp đang ngồi nhìn tôi mỉm cười, tội nghiệp? Ðợi một chút, có thể nàng biết tôi đã qua cơn đói, nàng ân cần mời tôi nâng ly, bồ đào mỹ tửu màu hổ phách chạy qua cơ thể lâng lâng da thịt, bây giờ tôi mới thấy nàng đẹp, tuyệt vời, lộng lẫỵ..Rồi dòng nhạc lừng danh của Francis Lai và Arl Sigman chợt dềnh lên, âm thanh nồng nàn, đắm đuối... Where do I begin to tell the story of how great a love can be. The sweet love story that is older than the sea . The simple truth about the love she bring to me ? Where do I start ? With her first hello, she gave a meaning to this empty world of mine. Therẻd never be another time . She came into my life and made the loving fine. Tôi dìu nàng vào điệu slow ấm áp, trữ tình, ánh đèn mờ dần và chúng tôi hôn nhau, giữa dòng âm thanh mênh mông, dịu dàng?Nàng nắm tay tôi, chúng tôi đi vào phòng ngủ, đêm huyền thoại rực rỡ mở cửa đợi chờ... Chúng tôi có với nhau một đêm rất thiên đường, cho đến lúc ánh nắng chiếu vào mặt tôi, như có ai đang lay vai tôi, giật mình, tỉnh giấc, tôi gặp ngay người phu giữ mộ. Trời ơi, tôi đã ngủ một đêm trên mộ nàng, trên tay ôm con chim đã chết cứng đơ. Tôi muốn nói vài lời, nhưng miệng tôi không mở được, như nghẹt thở, đưa tay vào miệng, tóc, cả cuộn, tôi kéo ra, dài lắm, kéo hoài chưa hết, quần áo tôi rách nát, những tờ vàng mã bị nước cuốn đi rồi tấp vào người tôi đủ màu tàn canh. Người giữ mộ nhìn tôi, lắc đầu, bỏ đi lặng lẽ? Hư Vô Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 21/Feb/2012 lúc 12:24pm |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23847 |
![]() ![]() ![]() |
Về lại Gò CôngGò Công xưa Bỏ lại sau lưng những ồn ã của phố thị, một ngày cuối năm, tôi quyết định xuôi đò về Gò Công thăm cậu một chuyến. Một máy ảnh, một điện thoại, một cuốn sổ cùng cây viết để ghi chép, vài vật dụng cá nhân… đó là tất cả hành trang của tôi mang theo. Ca nô rời bến Phú Tân lướt nhanh qua sông lớn, sông nhỏ, qua cánh rừng đước, rừng tràm xanh ngút ngàn khoảng 2,5 giờ từ Cái Đôi Vàm đến Gò Công ( thuộc xã Nguyễn Việt Khái, Huyện Phú Tân ) đi tiếp vào kênh Thí Điểm, nhà cậu tôi ở đó. Cậu tôi, làn da cháy nắng, nhoẻn miệng cười đón đứa cháu ở Cà Mau ngót 30 năm mà chân vẫn bước chưa quen cây cầu khỉ chênh vênh. Trước mắt tôi, cửa biển Gò Công liền rừng là biển, một màu xanh thăm thẳm tiếp nối tưởng chừng như vô tận. Tôi đón gió từ mặt sông, gió thổi từ muôn phía, rừng tràm hòa điệu thổi sáo vi vu, cá từng đàn đùa giỡn với từng lượn sóng nhấp nhô. Tôi đón nắng rực rỡ và bầu trời trong xanh quyến rũ mênh mông. Tôi say sưa trong vũ điệu của sự sống bất tận và mãnh liệt của đất trời và cảm thấy sự bon chen, tất bật, bận rộn của cuộc sống dường như chẳng chạm đến nơi này. Múc gáo nước mưa uống cạn, nghe vị ngọt đọng lại và mùi hăng hắc của mái lá… Mà cảm nhận ngay sự bình yên trong từng giọt nước ngọt giữa vùng đất cuối trời được khai phá vào cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII. Vùng đất quần tụ cả 3 dân tộc: Kinh, Hoa, Khmer chân dính phèn, da cháy nắng từng ngày khai hoang lập địa để tạo nên một Cà Mau tươi đẹp hôm nay. Tôi đi miên man trong ánh bình minh rực rỡ, trong sự hòa quyện kỳ diệu của thiên nhiên. Rừng đước như thành lũy bao bọc hơn 400 hộ dân trước cửa biển Gò Công. Kỳ diệu và lạ lùng sức sống rừng đước, từng chùm rễ từ giữa thân thẳng tắp và mạnh mẽ cắm sâu xuống lòng đất để dựng thân cây đứng vững vàng. Quả đước cũng thẳng ngay như mũi tên theo gió rung cắm xuống bùn đất khi xa khi gần rồi cây đước lại mọc lên. Cây này tiếp nối cây khác, hàng này tiếp nối hàng khác, tất cả quấn quýt bám chặt vào nhau tạo thành rừng bạt ngàn. Ôi xứ sở của những con người sống có khí phách, hiên ngang, hào sảng, bản lĩnh đội trời đạp đất thời mở cõi như hiển hiện qua sự sống mãnh liệt của rừng đước, rừng tràm. Tôi bắt gặp trên nền xanh ấy là bóng áo hồng của cô thôn nữ đang chèo xuồng trên sông, tiếng hò của cô theo sóng nước dập dìu hòa điệu : “Hò... ơ... ơ... ớ... ớ... Anh ơi, anh về tìm vảy con cá trê vàng... Anh tìm gan con tép bạc... ơ... ơ... thì em với chàng gặp nhau... ơ... ơ...”. Giữa biển rừng mênh mang tiếng hò khoan cất lên tha thiết làm ấm cả buổi bình minh. Xa xa từng đoàn tàu vươn mình, ra khơi hứa hẹn thuyền về đầy khoang cá. Bình yên thấm đẫm cả một vùng cửa biển Gò Công. Cậu tôi mỉm cười nhìn đứa cháu gái bấm máy ảnh chụp lại những khoảnh khắc rung động của trời đất Gò Công, cậu bảo: “Con ra rẫy hái rau về chấm cá kho, bữa nay cậu đãi con canh chua hén!”. Chân trần bước trên đất mà thương quá người dân xứ biển bồi từng gánh đất, chắt chiu nước ngọt trồng rau trên đất nhiễm mặn. Rẫy của cậu tôi cơ man là rau, dưới tán táo, ổi, chuối, dừa, chùm ruột là rau thơm, rau cải, rau muống nhưng thích nhất vẫn là rau rừng mọc tự nhiên: rau tàu bay, cải trời, ngò, lá lồi, lá cách, càng cua… Một chút dạo chơi trong rẫy tôi đã “thu hoạch” được không chỉ là một rổ đầy rau các loại cùng vài trái táo, trái ổi cuối mùa vàng rộm ngọt lịm mà còn được nghe dàn đồng ca của chim chóc với gió thổi vi vu từ các tán rừng đước trước mặt. Nắng đã lên đến ngang đầu, vào đến nhà cậu đã dọn sẵn mâm cơm có canh chua cá ngát nấu bông so đũa thơm lựng cùng dĩa muối cục dầm ớt, tô ba khía muối trộn giấm đường tỏi ớt cùng đĩa cá nâu kho me có thêm rổ rau rừng vừa hái đã được rửa kỹ. Nhận bát cơm từ cậu, tôi ăn ngon lành đến chén thứ 3 vẫn còn muốn ăn tiếp. Trong cuộc sống quá ư bề bộn với bao nhiêu những lo toan tính toán có được giây phút bình yên thanh thản với thiên nhiên như thế này thật quý giá biết bao. Nét hồn hậu dễ thương, dễ mến của người dân xứ biển cùng hương vị đồng quê làm tan đi cái nắng gay gắt ban trưa làm dịu đi những căng thẳng bởi nhịp sống quá ư hối hả mà tôi đã sống. Nhà cậu tôi được dựng ở mom sông, nhà sàn lợp lá dừa nước mát rượi, trước mặt là biển, sau lưng là rừng. Cậu chầm chậm nói : “Sống giữa rừng vàng, biển bạc mà ngư dân ở đây vẫn đói đó con. Ngư dân ở đây nhiều người không có cục đất chọi chim nói chi đến mua sắm phương tiện khai thác biển, người ta đi ghe bạn hoặc dùng phương tiện thô sơ đánh bắt gần bờ. Cuộc sống bức bách, đói cơm đã đành còn đói cái chữ”. Sau vẻ bình yên ấy còn bao nhiêu khó nhọc, bao nhiêu năm bám biển, bám rừng nhưng cái nghèo vẫn bám riết, cảnh ăn trước trả sau vẫn còn làm đau lòng bao nhiêu ngư dân ở đây. Không đất canh tác, đông con, thiếu vốn là hoàn cảnh chung của hơn 80% ngư dân ở đây, họ sống chủ yếu bằng việc khai thác bãi bồi, biển cạn, nhà ở là những căn chòi tạm bợ cất nơi đầu ghềnh, cuối bãi. Nghèo là thế, nhọc nhằn là thế nhưng dân xóm biển không ai nỡ xa quê, thà chịu cái cảnh “ rau cháo có nhau” mà nên nghĩa thành tình. Có lẽ hồn quê hương đã ướp vào da thịt để rồi hun đúc thành nếp sống chân chất, lành hiền, thẳng ngay, chịu thương, chịu khó sẵn sàng đùm bọc nhau dìu nhau qua bao nhiêu cơ cực. Cậu gói cho tôi ít tôm khô, hũ ba khía muối cùng bọc mực tươi cùng vài mươi con ghẹ gạch son biểu chuẩn bị đón đò về lại Cái Đôi Vàm. Rưng rưng ôm lấy cậu, nghe mùi khét nắng từ tóc cậu phải ra, đôi tay rắn chắc của cậu cầm lấy vai tôi mà lắc: “ Về, cố gắng công tác. Rảnh xuống cậu ăn cơm rau rừng, ba khía muối nghen con”. Đò lướt qua rừng đước, những thân đước vững chãi, cắm chùm rễ sâu dưới bùn đất tạo thành lá chắn cho vùng đất cuối trời. Cà Mau của tôi trăm thương ngàn mến, nơi rừng sinh, đất đẻ mà thành, nơi những con người có giọng nói mặn mòi biển khơi và tiếng cười hiền lành như sóng va mạn thuyền. Chỉ là một chuyến đi về cửa biển Gò Công mà ghi lại trong tôi những khoảnh khắc kỳ lạ của cuộc đời. Đó là niềm tự hào, ngưỡng mộ một vùng đất được sinh ra từ phù sa; là sự say mê, hòa quyện với vẻ đẹp diệu kì của thiên nhiên; là thương, là nhớ ân tình máu mủ ruột rà; là khát khao biển rừng có thể nuôi ngư dân no đủ… Nguyễn Thị Việt Hà |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
Đau Gì Như Thể Nguyễn Ngọc Tư ![]() Ông già Tư Nhỏ thức dậy từ lúc nửa đêm. Ông rên lên một tiếng ứ hự, thấy thất vọng khi nghe lòng mình vẫn còn đau. Có một niềm khát khao đến cháy bỏng, ông vẫn thường ước ao một lần nào đó đánh giấc thật sâu, khi trở dậy nỗi đau ấy biến mất, không còn dấu vết, như thể nó chưa từng có trên đời. Ông khẽ khàng vòng theo mé hè ra chái sau, bắc ấm nước lên bếp. Một làn khói mỏng bay lên. Lửa bắt đầu le lói ngoi lên giữa đám củi dừa rồi lại ngụp xuống, xanh lè vì gió. Trong nhà, nghe thằng Sáng vùng vằng đập chân xuống giường, ông buột miệng, “Tội nghiệp, chắc muỗi cắn thằng nhỏ”. Con Nga ngồi dậy, hỏi vọng ra, “Mới nửa đêm mà, ba thức chi ?”. Ông già trần tình như con Nga đang ngồi trước mặt mình : “Tao ngủ hỏng được. Mà, bây coi ém mùng cho kỹ, để muỗi cắn thằng nhỏ làm ghẻ à”. Nga dạ, tiếng dạ của nó nghe chớm nghẹn ngào. Giữa im lặng, gió cồn lên rúc rích đuổi nhau chạy xổm trên mái nhà, như một đám trẻ lật từng tàu lá để tìm trứng thằn lằn. Con Nga ngậm ngùi, bữa nay trời trở gió, chắc ngoài kia lạnh lắm, rồi nó ngập ngừng lên tiếng, “Mai vô nhà ngủ… nghen ba”. Ngực ông Tư hực một tiếng, trái cổ nhảy ầng ậc để ngăn cho dòng nước mắt chực trào. Ông lật bật hốt một nắm trà, bỏ vào cái bình sứt vòi, nói “Bây để từ từ, tao tính…”. Ngay lập tức ông thôi thèm trà, ông muốn ngủ, ngủ đêm ngủ ngày, để khi thức dậy, như một phép màu, ông ngồi ngay bên mâm cơm chiều con Nga vừa mới dọn ra. Nó biểu ba uống rượu đi, bữa nay có con cá lóc nướng thiệt ngon. Mà, ba tắm làm sao con nghe hôi sình quá trời đất vậy. Ông cười, ngồi tém tẻ, mắt khoan khoái nhìn con cá lóc da vàng ruộm, “làm nghề lặn đất như tao hỏng hôi bùn sình thì hôi gì, con ?”. Con Nga cũng cười, nó lật lưng con cá lên, lấy đũa xẻ dọc, gắp vô chén ông cái đầu dính theo bộ lòng, bảo “Con giăng mùng sẵn rồi, chút nữa con đi tập văn nghệ, ba nhậu thấy vừa xỉn là chui vô mùng liền nghen”. Nói xong, nó lấy lược chải đầu, vói lấy cái kẹp tóc chạy đi, miệng hát Bông ô môi. Con Nga đã qua khỏi bụi trâm bầu mà tiếng hát vẫn chưa tan. Cảnh đó đã lâu rồi không trở lại. Cũng như lâu rồi hai ba con ông Tư không còn quảy lon trùng ra ngồi thong thả câu cá bên gốc trâm bầu, rồi người trước mũi, người sau lái bơi xuồng đi nhổ bông súng dưới kinh. Những trưa nắng, con Nga không còn ngồi nhổ tóc bạc cho ông. Chẳng bao giờ người Xẻo Mê còn chứng kiến hai ba con họ xuất hiện cùng nhau. Bây giờ, tối tối ông Tư uống rượu một mình (chớ có ai muốn uống với ông đâu), say rồi giăng mùng ngủ ngoài hàng ba, không quên treo cái đèn chong nhỏ (ý như nói với người qua kẻ lại, tui, thằng Tư Nhỏ, ngủ ở đây nè). Nhiều bữa mưa tạt ướt mẹp, ông ngồi hút thuốc cho đỡ lạnh, con Nga trong nhà cũng ngồi bó gối nghe giông gió. Đi làm về, đói bụng, ông lục cơm nguội dùa vô một tô ra hè ngồi ăn, Nga trong nhà bưng chén mà rơi nước mắt. Tình cha con đã như nước chảy xuống kẻ tay từ một ngàn năm trăm mười hai ngày trước. Cái ngày con Nga rầu rầu xin ra Chợ Cũ thăm má nó. Ông gật đầu, thì người đàn bà đó hơn một năm rồi chẳng về, tưởng đã quên mất con đường quay lại Xẻo Mê. Ai dè chiều hôm sau má con Nga tong tả xông vào nhà, níu ao ông mà rằng: - Sao anh hại đời con gái tôi đến nỗi nó phải mang bầu ? Ông Tư kêu lên một tiếng trời ơi. Tôi là người như vậy sao, Cúc ơi, tôi mà là người như vậy à. Cúc biết tôi từng ấy năm trời, sao lại gieo cho tôi cái tội mà chỉ nghĩ đến thôi đã xấu xa… Nhưng chẳng kịp mặc cái áo khô vào để phân trần, công an xã đến mời ông đi. Má con Nga theo sau, la khóc. Mọi người bàng hoàng ngó nhau, đâu nè, anh Tư Nhỏ hồi nào giờ ở đời tử tế, chị đã dò hỏi kỹ chưa, con Nga nó nói vậy à. Không, con Nga nó không chịu nói tên người đó, bà con cô bác nghĩ coi, ai mà nó không dám kêu tên ? Ai trồng khoai đất này… Lúc con Nga hay được thì ông Tư đã bị nhốt năm ngày. Nó trốn má về, chạy thẳng ra xã xin ông ra. Nó sụp lạy ông ngay trụ sở Uỷ ban, nó khóc, “Ba ơi, tại con hư, con làm ba khổ, ba tha lỗi cho con, nghen ba”. Ông đỡ nó dậy, cười mếu máo, “Thôi con, đứng dậy, về. Chuyện qua rồi …”. Hồi đó, ông cũng tưởng, chuyện qua rồi. Hai ba con ông ra khỏi cổng uỷ ban, nắng bồn chồn úa vàng trên mặt sông (màu trời đó hay trở về trong những giấc mơ ông, khi giật mình thức dậy, mắt ông luôn luôn đầy nước). Dài theo dãy hàng quán che tum che bạt, người ta đứng coi đông thiệt đông. Đám con nít chạy theo vỗ tay kêu cô dâu chú rể kìa tụi bây ơi, trâu già khoái cỏ non kìa. Người lớn hả hê nhưng giả đò đằng hắng biểu đám trẻ im đi. Coi tướng tá ông Tư hiền lành, đàng hoàng vậy mà làm chuyện động trời, đúng là “lù đù vác cái lu chạy…”, hết chuyện rồi sao mà tằng tịu với con mình. Đâu nè, có phải con ruột ổng đâu. Chị Hai nhớ không thím Bảy nhớ không, hồi má con Nga xáp lại với Tư Nhỏ, bụng đã mang bầu, rồi con nhỏ Nga mới lẩm đẩm biết đi, chị ta bỏ ra Chợ Cũ, Tư Nhỏ phải làm mẹ gà chắt chiu con vịt. Tưởng đâu ông ấy thương con Nga như cha thương con thiệt lòng, thì ra ổng ghé chỗ tui mua cái bánh dừa, củ khoai lang, cây kẹp tóc… về cho con nhỏ là có ý đồ. Tưởng đâu thằng chả nghĩ tới con Nga nên không lấy vợ, ai mà dè… Nắng tắt lịm, trời ơi, đâu rồi xóm giềng thân thuộc, đâu rồi khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười quen, ông Tư đứng khựng lại, uất ức, trơ cứng cả quai hàm. Con Nga òa khóc, bỏ chạy tắt theo đường đồng, trên bờ ruộng lông chông những chân cỏ ống cháy trơ xương xẩu. Rồi nó chợt dừng lại, ngó cái bờ chuối mờ chìm trong đêm. Chỗ đó nhắn mắt lại nó vẫn nhìn ra một bãi cỏ mềm, mấy cành cây khô có con rắn mối bò ra bò vô. Chỗ đó, nó với anh đã mấy lần… Nhưng bây giờ chỉ còn một mình nó ngồi đây, giữa đồng khơi, đến lúc sương xuống ướt đầm một vai tóc nó mới đứng dậy ra về. Nó gặp ông Tư giữa đường, ngọn đuốc trên tay ông đã gần tàn, cháy lom đom, phập phều trong gió. Ông bảo, “Ba sợ bây làm chuyện dại, rồi lặng đi một chút, ông thầm thì như nói với chính mình, người ta có ác miệng cỡ nào cũng ráng mà sống nghen con”. Con Nga dạ rồi bỗng giật thót lên, nhìn quanh, trong mắt thoáng hãi hùng, nó biểu ông đi trước đi, nhanh lên, đứng xa nó ra, kẻo người ta thấy… Rồi người trước người sau, họ trở về căn nhà nhỏ bên kinh Xẻo Mê. Căn nhà từ đây trở đi nằm chơ vơ trong ánh mắt cười cợt, trong lời đàm tiếu của người đời. Ngày nào cũng vậy, ông già Tư Nhỏ đi làm từ sáng sớm, khi người chưa tỏ mặt người, quen chân nên te te qua quãng đông nhà mới dám đứng lại, thở. Hôm ghé quán thím Hồng Nhiên mua khoanh thuốc gò, thím bảo “Hết rồi”, giọng ngắn ngủn, cộc lốc mà con mắt nguýt thì dài, người ta đây ở goá đã lâu, đã để ý thương mà anh lạnh lùng không đếm xỉa, tưởng anh còn thương má con Nga, ai dè anh khốn nạn vậy… Xóm giềng lạnh nhạt, ông Tư phải vác dá, quảy len thùng đi làm đất xa hơn, qua tận bên Đất Đỏ, Kinh Năm, ở đó, người ta không biết ông là ai. Nhưng chuyện một đồn mười, đồn trăm, đám bạn nghề của ông một trưa ngồi dưới bờ dừa hỏi nhau, bên Xẻo Mê có người lấy con gái nên bị bắt phải hôn. Ờ, nhưng được thả rồi, đứa con gái nói hỏng phải nên lãnh ra. Ai đó cười khào, mai mỉa, ái chà chà, hai người họ bênh nhau quá ha. Định day qua hỏi ông Tư coi có biết người đó không nhưng ông đã nhảy cái ọt, lặn mất, lâu lắm không thấy ngoi lên. Đám người sợ quá nhào xuống lôi ông từ đáy nước ngầu đục, hỏi ông bộ muốn chết sao, ông cười, “Bậy, tao lặn thử coi hơi còn dài không, làm gì tụi bây quýnh lên vậy”. Thật tình ông đã nghĩ đến điều đó, rồi chợt nhớ, còn con Nga, nó ở lại chịu đựng vì không nỡ bỏ mình … Mà, con nhỏ đã gần sinh… Ông Tư mua than đước dự trữ trong nhà, đưa con Nga ít tiền ra chợ sắm sửa cho đứa bé sắp chào đời. Ông còn chuẩn bị cả vỏ tỏi, hạt mè để làm thuốc cho con Nga những ngày ở cử. Ông ngượng ngịu bảo, “Cái này… tao biết là vì… hồi má bây sinh…”. Chỉ chờ có vậy, kỷ niệm ùa về kinh hãi, tươi xanh. Như thể mới chiều hôm qua, Cúc đội thúng rau ghé nhà, xanh xao, đau khổ hỏi, tui biết anh để ý thương tui, anh có muốn cưới tui làm vợ không ? Rồi Cúc nói luôn, không cần cưới hỏi gì, mai tui cuốn đồ lại theo anh. Tưởng đâu nói chơi, ông cười, ai dè Cúc làm thiệt, cô gái đẹp nhất Xẻo Mê về với ông gọn gàng như người ta nhảy ùm xuống ao. Rồi Cúc có thai, ai cũng cười, úi chà chà, bộ trồng lúa ngắn ngày hay sao vậy cà, có chắc là cái thai đó của mầy không, Tư Nhỏ. Ông cười, không nói, nghĩ nó là của mình thì là của mình. Và khi bà mụ Năm trao cho ông đứa trẻ tóc dày mịt, mắt đen, môi đỏ, lòng ông vui mừng rưng rưng, nó là con của mình, con của mình. Dù sau này Cúc đã không yêu được cái mùi bùn sình của ông, dù Cúc bỏ ra Chợ Cũ cất quán hàng, nói là cho gởi con Nga lại ít năm (như gởi một cái lu, cái tủ), ông vẫn thương nó như con của mình. Nó lên sáu tuổi, Cúc về, dẫn nó đi. Ông chạy theo nắm tay con bé lại, Cúc cau mày, giằng ra, nó là con tôi, anh biết mà. Ông nhậu say ba bữa liền, tỉnh dậy, thấy Nga đứng đầu giường, nó nói, “trời ơi, con đi mới mấy bữa mà ba tệ thiệt. Thức dậy, đi câu cá nấu cơm ăn, ba ơi”. Nói rồi nó đon đả cầm cái lon trùng đi trước. Đứa trẻ ngày xưa bây giờ đã làm mẹ một đứa trẻ khác, cũng môi đỏ, mắt đen. Hôm ở trạm xá về, ở xóm người ta lại thăm nườm nượp, không kịp nhìn đứa trẻ, nắc nẻ khen liền: “Trời ơi thiệt là giống chú Tư quá hen”. Có người chưa đi quá cái miễu ông Tà đã cười cợt bàn với nhau, hỏng biết thằng nhỏ kêu ông Tư Nhỏ là gì ha, là ngoại hay cha. Ông đang quạt mẻ than, nghe câu ấy thảng thốt nhìn tro bụi tơi bời, con gái nỉ non, ba ơi, kệ con, coi chừng người ta thấy, nói tới nói lui. Ông già nổi quạu đùng đùng, “Thiên hạ phải để tôi sống đàng hoàng như một con người chớ” . Tiếng kêu nghe thấu đến trời, sao đồng loại con người không học cách hiểu nhau. Đêm đó, ông thức trắng. Sáng ra con mắt trõm lơ, ông sửa soạn quẩy gói đi. Hai mẹ con Nga ọ ẹ lên tiếng trong nhà, ông Tư nói vói vô, “Bây có muốn mua gì không, tao đi huyện nè…”. Trời, đi chi vậy ba ? Ông nói ông cũng chưa biết nữa, nhưng dù không biết phải bắt đầu từ đâu cũng phải đòi lại danh dự cho mình, cho con Nga và thằng cháu ngoại, đòi lại những niềm vui đã bị người đời tước đoạt. Ông ra xã , công an xã cười khà khà, như đang nói về vụ bắt nhầm con cá lóc, hay con vịt con gà, “Biết chú bị oan là tụi tui thả liền, chú còn đòi gì nữa ?”. Ông cãi, tui đâu có đòi gì, nhưng cậu ra thanh minh với bà con Xẻo Mê dùm vài tiếng được không. Công an chạy qua hỏi chủ tịch, chủ tịch cười “chuyện của chú thấy vậy mà căng lắm, hồi trước giờ chính quyền chưa xin lỗi trước dân lần nào, tôi đâu có dám phá lệ, hay chú lên huyện hỏi thử coi…” Rồi huyện chỉ lên tỉnh, tỉnh hứa để từ từ coi lại, không sao, ông nói ông chờ được. Lâu lâu, ông tới để nhắc chừng, mỗi khi hay có sự thay đổi, luân chuyển lãnh đạo, ông đến nộp thêm bộ đơn nữa. Lộ phí xe tàu đi tới lui, ông Tư bán con chó phèn, bán luôn bầy vịt mới lông bông áo lá, còn tiền công đào đất mướn dành để lo gạo cá cho hai mẹ con con Nga. Vận bộ đồ bà ba màu cỏ úa, cái khăn quấn sù sụ trên cổ, giỏ bàng nách một bên, gõ cửa hết cơ quan này đến công đường khác, nhiều khi ông già thấy cuộc hành trình của mình mù mịt quá chừng. Có bữa vừa xuống bến xe bị đám bụi đời giật cái giỏ, ông già hớt hãi rượt theo, ngoằn ngoèo hơn mười con hẻm, bất kể ngoặt phải ngoặt trái, người rượt, người chạy cuối cùng chui tọt vô con hẻm cụt, thằng giật đồ hào hển hỏi, gì mà quý dữ vậy ông nội. Ông thở dốc, không nói, trút giỏ, rớt ra mấy cuộn giấy buộc bằng dây thun. Thằng kia vừa tức vừa mắc cười, chửi thề mấy tiếng rồi bỏ đi. Ông già đứng dậy, ngơ ngác, hỏng biết mình đang đứng đâu đây, hỏi vói theo, “Chú em ơi, đường nào xuống toà án tỉnh ?” Lội bộ tới đó, anh bảo vệ ngó ông, cười “Ủa, hôm trước chú tới đây rồi mà”. “Vậy ?! - ông già chưng hửng - tui đâu có nhớ. Thôi vậy để tui qua chỗ tiếp dân, chú em cầm ít đơn đọc chơi”. Rồi ông đi trong mưa rúc rắc, trong gió riu riu, chỉ mong có ai đó thấu hiểu được nỗi niềm oan khuất của mình, ai đó thôi cắm đầu vào bàn giấy, ngước lên, hỏi “ Có gì hôn, chú ?”, ông mừng húm, vọt miệng bảo, có chớ, có tui mới lặn lội từ Xẻo Mê lên đây nè, rồi rụt rè rút ra một bộ đơn, đây là tờ cớ ông bị mất danh dự hồi bốn giờ chiều ngày tháng năm, đây là tờ yêu cầu được minh oan… Và lòng ông được an ủi biết bao nhiêu nếu ai đó ra vẻ quan tâm một chút, hỏi “Vụ của chú ra làm sao, đâu nói cho tụi tui nghe coi”. Ông Tư lụm cụm kéo ghế ngồi, lưng lòng khòng, đôi mắt ánh lên như người đang khóc. Ông nói nhà tôi ở bên kinh Xẻo Mê, xưa rày sống bằng nghề lặn đất, cắc củm nuôi đứa con gái tên Nga. Rồi một bữa công an xã lại bắt tôi, vì có người tố cáo, tôi làm cho con Nga có bầu. - Tôi nghe như ông trời dộng cái ầm vô mặt, nhưng tôi nói gì người ta cũng không tin. Rồi sau biết tôi bị oan, họ thả tôi ra. Tổng cộng tôi đã ở tù oan sáu ngày năm đêm… - Ủa, đơn giản vậy thôi hả ? Ông già nghe thất vọng quá, các người đòi thêm gì nữa, các người muốn gì nữa, muốn éo le như thế nào, oan khuất bao nhiêu năm mới đủ ? Rồi nuốt vào lòng khối nghẹn ngào, ông cố tươi tỉnh, hỏi : - Dà, hồi nãy tôi kể tới đâu rồi cà ? Nhưng rồi đến đây ông không không biết phải diễn tả nỗi đau của mình như thế nào. Nỗi đau của một người mới hôm trước còn đề huề sống trong tình làng nghĩa xóm, chiều chiều khề khà vài chung rượu với mấy bạn già, say rồi hát tỉ tì ti, hôm sau đã thui thủi một mình. Làm sao diễn tả được nỗi đau của người cha hôm trước còn bắt kiến vàng bu trên tóc con gái hôm sau đã phải nghẹn ngào đứng xa xa ngó nó khổ đau. Ôi ! Những tâm hồn tươi hơn hớn, những khuôn mặt không nhuốm sầu lo kia làm sao biết được niềm ao ước của ông Tư mỗi khi ngồi nhìn thằng Sáng bò lủm củm trên đất, ông khát có một ngày được đàng hoàng, đĩnh đạc bồng nó xênh xang đi trên con đường xóm rập rờn hoa cỏ dại, ai đó hỏi, “Ủa, chú Tư, ẳm cháu ngoại đi đâu vậy?” Ông sẽ cười (lúc đó chắc ông chẳng còn răng): - Đi đằng tiệm mua cho thằng nhỏ mấy cục kẹo dừa. Nó mê kẹo vô phương. Bây giờ thằng Sáng đã lững đững biết đi, ước mơ đó chưa thành sự thực. Con Nga đã chai lì, nó thôi sợ những bóng người qua lại, thôi sợ những ánh mắt ngó ngiêng. Mà, hai ba con nó không biết, xóm giềng đã thôi để ý lâu lắm rồi (Người đời thường vậy, họ chém ta một nhát rồi quên đi, thì chỉ nói cho sướng miệng thôi, cho đỡ buồn thôi chứ chết chóc ai đâu, ai biểu ta ngồi đó để ôm vết sẹo với nỗi đau khôn tả). Nó biểu ông Tư thôi đừng đi kêu oan nữa, “Hai ba con mình sống y như hồi chưa có thằng Sáng, nghen ba”. Ông già Tư Nhỏ bảo, phải nghĩ tới tương lai thằng Sáng mai nầy chớ con. Một bữa có đoàn cán bộ huyện về khánh thành con đường giao thông nông thôn từ Xẻo Mê về Phước Hậu. Nghe nói họ sẽ đi qua nhà (đi một khúc để Đài truyền hình quay phim), con Nga bèn cầm chổi ra sân quét lá. Thấy bóng người quen, Nga gọi nhỏ, anh gì ơi. Chẳng gọi ngay tên, nhưng có người đứng lại, con Nga nghiến răng cười: “Trời đất ơi, tui chờ anh lên tỉnh làm quan quá chừng. Lên càng cao, té càng đau, đồ có quý bể mới tiếc… Tui nhịn hoài, ngậm đắng nuốt cay, lì lợm, nín thinh là tính chờ anh lên đó mới phá anh chơi, nhưng mà đợi lâu quá… Bây giờ ở huyện anh làm tới chức gì rồi, mà anh làm tới cái gì thì cũng do tui cho, nên anh tính làm sao không tui nổi quạu, tui đòi lại cho mà coi”. Người nọ đứng ngây ra, mặt tái như mặt gà mái, hồi lâu mới hỏi : “Bây giờ… Nga muốn gì…”. Con Nga giả đò chưng hửng, “Ủa, vậy mấy lần ba tui lên huyện kêu oan, anh không gặp sao, anh biết ba tui khổ sao anh im re vậy ?”. Nói rồi nó đủng đỉnh đi vô, kêu thầm, trời ơi, người này, hồi đó với mình nồng mặn biết bao nhiêu, khi anh ta say công danh mà bỏ rơi mình, mình đã đau vất đau vả. Sao bây giờ gặp nhau, thấy nản không muốn nhìn mặt. Thì ra, tình cảm cũng như bát nước hắt đi, không mong gì hốt lại. Rồi một trưa đầy nắng, mây trên trời xanh lẻo xanh lơ, trước giờ ca cải lương, đài truyền thanh xã gởi đi lời xin lỗi của chính quyền đối với công dân Dương Văn Nhỏ. Đơn giản, gọn hơ, nhẹ nhỏm. Vậy là huề nghen. Cái câu dài thê thiết những dấu phẩy, dấu chấm lửng cuối cùng cũng được người ta chấm cái rột. Ông Tư lúc đó đang móc đất nắn trâu cho thằng Sáng chơi, khóc hức lên vì không cầm lòng được, sao kỳ vậy cà, người ta đã giải oan cho mình rồi, đã xin lỗi mình rồi sao mình vẫn mãi đau. Con Nga đứng đằng sau, ngó cái lưng bắt đầu còng xuống của người cha, nghe gió thổi qua lòng mê miết, nghĩ mình ngu thiệt, mình nuôi hận người ấy làm chi đây, mình trả đũa làm chi, đổi lấy cái gì ? Có đáng không những tháng năm dài vằng vặc? Những tâm hồn thương tổn ? Và kia, một mái đầu bạc phơ xơ xác ? Có đáng không ? Trời ơi, có đáng không ? |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23847 |
![]() ![]() ![]() |
Cô hàng xén
Thạch Lam ![]() Gặp cô hàng xén kết duyên châu trần. (Ca dao) Cô Tâm bớt mệt hẳn đi nhìn thấy cây đa và cái quán gạch lộ ra trong sương mù. Cùng một lúc, dãy tre đầu làng gần hẳn lại, cành tre nghiêng ngả dưới gió thổi và cô nghe thấy tiếng lá rào rào và tiếng thân tre cót két. Cô sắp về đến nhà rồi, gánh hàng trên vai nhẹ đi, và những cái uốn cong của đòn gánh bây giờ nhịp với chân cô bước mau. Cô thấy chắc dạ và ấm cúng trong lòng, bỏ hẳn nỗi lo sợ từ nãy vẫn quanh quẩn trong trí khi cô qua quãng đồng rộng, trơ gốc rạ dưới gió bắc vi vút từng cơn. Qua cái cổng gạch cũ, cô vào hẳn trong làng. Ngõ tối hơn, đất mấp mô vì trâu bước, nhưng cô thuộc đường lối lắm. Chân cô giẫm lên lá tre khô và tai nghe tiếng xao xác đã quen, mùi bèo ở dưới ao và mùi rạ ướt đưa lên, ẩm ướt. Đi ngang các nhà quen, cô thấy ánh sáng đèn chiếu qua rào, và tiếng những người quen thuộc ở trong đưa ra. "À, bác cả Sĩ đã về rồi". Lần nào hàng bác cũng bán hết sớm, bác cũng ra về sớm vì nhà có con mọn. Còn cô, cô cũng có thể về sớm được, vì chợ chiều cũng vắng người mua. Nhưng cô còn cứ vui chị vui em, lần khân ở lại. Chỉ tại con Liên nó cứ giữ mình để về một thể. Bây giờ nó đã về đến nhà chưa? Cô Tâm lại nghĩ đến mình, mẹ già đang mong đợi và các em đang nóng ruột vì quà. Gói kẹo bỏng cô đã gói cẩn thận để ở dưới thúng, mỗi đứa sẽ được hai cái. Chắc hẳn chúng sẽ vui mừng lắm... Tâm vội vã bước mau. Trước đình, sân gạch rộng đầy bóng tối và yên lặng, con sấu đá vẫn phục yên trên bệ ở ngoài, hình dáng quen thuộc quá. Bỗng cô dừng lại, cô suýt va phải một người ở ngõ rẽ ra. Người kia cũng tránh sang bên, sát vào hàng rào. Nhưng Tâm nhận ra ngay: - Bác Vỹ đấy ư? Đi đâu mà tối thế. Người kia tiến một bước, nhìn tận mặt: - Ai? À, cô Tâm, cô đi chợ về. Tâm đã bước xa rồi, tre vi vút thêm, trời lại lấm tấm mưa lạnh rơi xuống mặt. Cô đi qua nhà bà cụ Nhiêu rồi về đến ngõ. Cánh cửa ngõ chưa đóng. Cô xoay đầu đòn gánh ẩy cửa, rồi bước vào. Tất cả cái tối tâm rét mướt, và cánh đồng hoang vắng cô để lại ở ngoài. Đây là nhà rồi. Mùi phân trâu nồng ấm sặc ngay vào cổ, thoáng qua, cô nghe tiếng chân trâu đập trong chuồng. Con vá thấy động sủa lên, rồi chạy lại vấp vào chân, quấn quýt. Trong nhà, mấy đứa em reo: - A, a! chị Tâm đã về! Tâm đặt gánh ở trên thềm. Ánh đèn chiếu ra, cô thấy quần áo lấm tấm ướt vì mưa bụi. Thằng Lân chạy ra trước nhất, suýt nữa vấp vào cửa bức màn. Rồi thằng Ái, con bé cũng theo ra. - Quà chúng em đâu, chị? Nó cúi xuống định lục vào gánh hàng, Tâm vội bão em: - Ấy chớ để chị lấy cho, không khéo vỡ cả kính. Cô nhìn xuống ô hàng: mưa chỉ phớt trên kính, chưa việc gì. Hàng không có cái gì ướt. - Kẹo đây, mỗi đứa hai chiếc. Chúng nó xúm cả chung quanh chị. Em bé ngoan ngoãn quá, đây phần riêng chị dành cho em đây này. Bỗng tiếng dịu dàng của bà Tú ở dưới nhà đưa lên: - Tâm con đã về đấy ư? - Thưa u, vâng ạ. Bà Tú đến dắt lũ con, khẽ bảo - Chúng mày háu ăn quá, không để chị vào nhà nữa, rồi quay lại Tâm con rửa chân tay rồi đi ăn cơm kẻo đói. Sau về muộn thế, con. - Thưa u, hôm nay con ngồi chợ Son ạ. Con ở gái từ nãy ở dưới bếp lên, cứ đứng mãi góp chuyện ở trên thềm. Bà Tú quay ra bảo: - Kìa, không cất hàng vào cho cô, còn đứng làm gì ở đấy. Trong nhà ấm cúng, khác hẳn ở ngoài. Ngọn đèn thân mật chiếu trên án thư, những nét vàng đã cũ của câu đối hoàng phi lờ mờ ánh trong bóng tối. Mâm cơm đậy lồng bàn còn để ở giữa phản. - Con ngồi đây rồi ăn cơm. Trời rét thế này mai nghỉ chợ thôi con ạ. Đi làm gì cho nó khổ. Em bé nói theo: - Chị ở nhà với chúng em chị ạ. Mai chủ nhật chúng em được nghỉ. Tâm mỉm cười xoa đầu em. Cô sung sướng vì thấy mẹ săn sóc, các em mến yêu. Bao nhiêu nổi mệt nhọc cô thấy tiêu tán cả. Những lúc này khiến cô quên hết cả bao nhiêu nổi e ngại khó khăn. Cô thấy vui vẻ và nẩy nở trong thâm tâm những ý muốn tốt đẹp cho gia đình. Bà Tú lại âu yếm giục: - Con ăn cơm đi, không đói. Thôi, hãy để đấy rồi bảo con Sen nó cất cho có được không. Tâm đáp "vâng" nhưng cô vẫn chưa lại ngồi ăn ngay. Cô còn thu xếp hàng đã: hai cái hộp gỗ vuông đựng các thức hàng, và những gói buộc kỹ trong thúng. Tất cả vốn liếng quý báu, bởi nó, cô kiếm lời nuôi các em, giúp đỡ cha mẹ từ ngày trong nhà sa sút đi và ông Tú ở trên tỉnh dọn về. Đã ba bốn năm nay rồi. Ruộng nương chỉ còn hơn mẫu cấy đủ thóc ăn, và căn nhà gạch cũ này, là nhà thờ chung cả họ. Ông Tú từ độ mắt kém cũng không dạy học nữa. Tâm hỏi mẹ: - Thầy con chưa về cơ, u? Bà Tú chậm rãi đáp lời con, an phận: - Thầy con sang chơi bên ông Chánh từ hôm qua, dễ thường còn ở vài ngày mới về. Hai mẹ con biết rằng có về nhà ông Tú cũng buồn chả biết làm gì, rồi lại đến đi chơi quanh quẩn các người trong làng. Bữa cơm ngon lành quá. Tâm ngồi ăn dưới con mắt hiền từ và thương mến của mẹ. Các em cô quây quần cả ở chung quanh, hỏi chuyện chợ búa của chị. Tâm ngắm nghía các nét mắt xinh xẻo, những con mắt ngây thơ lóng lánh dưới mái tóc tơ của các em: cô thấy lòng đồng ấm và tự kiêu, lòng người chị chịu khó nhọc để kiếm tiền nuôi các em ăn học. Cô hỏi han sách vở của thằng Lân và thằng Ái, học lớp ba ở trường làng. Ngày trước, thời còn sung túc, cô cũng đã cắp sách đi học, và về nhà lại được ông Tú dạy thêm chữ nho. Nhưng đã lâu, cô rời bỏ quyển sách, để bước chân vào cuộc đời rộng rãi hơn, khó khăn và chặt chẽ. Buôn bán bây giờ mỗi ngày một chật vật, bởi cô vốn ít. Tất cả gánh hàng của Tâm chỉ đáng giá hai chục bạc. Giá nàng có nhiều tiền để buôn vải bán các chợ như Liên... - Thôi, các em đi ngủ đi, mai còn dậy sớm đi học chứ. Lân cười, trả lời chị... - Mai chủ nhật cơ mà, chị quên rồi à? Tối nay em thức rõ khuya để nói chuyện với chị. Nhưng một lát sau, trong căn nhà yên tĩnh, chỉ còn Tâm và bà Tú ngồi trên phản: cô kiểm điểm và xếp đặt lại các thức hàng để mai đi phiên chợ Bằng chính. Những thứ hàng nho nhỏ, khác nhau và xinh xắn: cuộn chỉ, bao kim, hộp bút, cúc áo, giấy lơ, một trăm thứ lặt vặt qua lại trên ngón tay nhỏ bé của thiếu nữ, vừa quý báu lại vừa ít ỏi. Mỗi thứ đối với Tâm có một linh hồn riêng, và cô hàng lờ mờ đoáùn hiểu trong thâm tâm những khó nhọc và công của đã làm thành chúng. Tâm đã thêm vào vài thức hàng mới, bắt đầu bán được ở chợ: phấn xoa mặt, dầu bôi tóc và son thoa môi. Cô ngắm nghía trên tay cái ống sáp con bằng đồng hào rưỡi một cái đựng một chất đỏ thơm làm thắm tươi môi các thiếu nữ ở trên tỉnh về quê, da trắng, môi đỏ, lịch sự và sang trọng. Có lần, một đêm khuya, Tâm đã lấy sáp bôi lên môi mình và ngắm trộm bóng trong chiếc gương tròn nhỏ Cô Ba. Cô hơi thẹn thấy bóng mình trong đó, với đôi môi đỏ như sẫm máu... - Độ này, hàng có bán được không vậy con? - Thưa u cũng khá ạ. Chị Liên bán vải cũng chẳng đẹp bằng. Tâm biết mình xinh nhất chợ. Bọn con trai cứ hay quanh quẩn chỗ cô ngồi và buông lời chòng ghẹo. Nhưng cô không để ý: Tâm thấy vững vàng ở giá trị và lòng cao quý của mình. Nàng đã đảm đang nuôi cả một nhà, với lại, trừ phi là cô gái hư hỏng không kể, còn ai ở địa vị nàng cũng tảo tần buôn bán như thế. Làm việc, đối với Tâm, là cái lệ chung của người ta. Cô thấy chung quanh toàn những đàn bà chịu khó làm ăn vất vả để nuôi chồng, nuôi con. Không bao giờ Tâm có nghĩ cho mình, cho cuộc đời riêng của cô. Nhưng Tâm cũng không khỏi thắc mắc vẫn vơ cho thân thế, Tâm ngửng lên nhìn nét mặt hiền từ của bà Tú, rồi lại quay đi, hơi e thẹn. Vì nàng có tâm sự kín riêng. Hình ảnh một người con trai lanh lợi, miệng tươi như hoa, ăn nói mềm mỏng dễ nghe. Những ngày phiên chợ Bằng, Tâm thường thấy người ấy ra hàng Tâm mua kim chỉ. Nàng cúi mặt xuống hàng, thấy cái nhìn âu yếm của người con trai ấy đè nặng trên người. Má Tâm phơn phớt đỏ. Câu chuyện ngượng nghịu và gióng một, nhưng nàng thấy tâm hồn say sưa như nhấp rượu. Người ta bảo đó là cậu giáo trường làng. Vẻ người đứng đắn, có tư cách, chứ không chớt nhả như những chàng trai làng khác. Nhưng nhìn cái áo lương cũ, Tâm cũng đoán cậu giáo nghèo thì phải. Cũng như nàng. Lúc lên giường nằm, dưới tấm chăn mỏng và lạnh, Tâm còn tơ tưởng mãi đến con người xinh trai ấy. Trong nhà đã ngủ yên tĩnh cả rồi. Trên án thư, bên ngọn đèn Hoa Kỳ, chồng sách và cái ống bút của Lân, Ái che khuất ánh sáng. Các em nàng! Những đứa em thông minh ngoan ngoãn quá. Không biết nàng có tảo tần mãi được để kiếm tiền mua giấy bút cho chúng ăn học không? Tâm mơ màng nghĩ đến sự thành công của các em sau này: đỗ đạt rồi đi làm trên tỉnh giúp thầy mẹ. Nhà nàng lại được sung túc và mát mặt như xưa. Người chị mộc mạc và âu yếm ấy nghĩ ngợi trong đêm yên lặng. Tiếng trống cầm canh đã quá nửa đêm, nàng mới sẽ thở dài, nhắm mắt ngủ. Tất cả những nổi lo lắng lui đi và tâm hồn giản dị của thiếu nữ được nghĩ ngơi yên tĩnh. Sáng sớm hôm sau, trong gió bấc lạnh, Tâm đã mở cổng gánh hàng lên chợ. Sương trắng còn đầy ở các ngỏ trong làng, mùi rơm rác và cỏ thoang thoảng bốc lên, mùi quen của quê hương và của đất màu khiến Tâm dễ chịu và thêm can đảm. Nàng rảo bước mau cho chóng đến chợ. Cái đòn gáng cong xuống vì hàng nặng, kĩu kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp điệu của bước đi. Chịu khó, chịu khó, từng tí một, hết bước nọ sang bước kia, cứ thế mà đi không nghĩ ngợi. Tâm thấy ngày nay cũng như mọi ngày, ngày mai cũng thế nữa, tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu khó và hết sức, như tấm vải thô dệt đều nhau. Có phải đâu chỉ một mình cô: trong những lũy tre xanh kia, bao nhiêu người cũng như cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn, để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em. Tâm không chán nản cũng không tự kiêu, chỉ thấy yên tâm chắc chắn trong nhiều người khác cũng làm việc, cũng sống như nàng. Tâm cứ bước đều chân và đến chợ hãy còn sớm. Nàng bày hàng trên khoảng đất nàng vẫn ngồi xưa nay. Ánh sáng đầu tiên của mặt trời lấp lánh trên mặt kính các ô hàng. Các màu đua nhau thắm tươi dưới ngón tay xinh xắn của Tâm: Những cuộn chỉ mượt, những cái cúc xà cừ, những gương lược sáng loáng. Cái gì cũng sạch sẽ, ngăn nắp, nhỏ nhắn như công việc, như ý nghĩ của cô hàng xén. Không khí giá và trong buổi sáng làm hồng da dẻ và khiến máu chạy mạnh. Tâm thấy vui vẻ nhanh nhẹn trong cả người. Chị Liên với thằng nhỏ gánh vải cũng đã đến rồi. Hai chị em cười nói chuyện trò như đôi chim sẻ: - Hôm qua mày bán được bao nhiêu? Tao ngồi mãi chỉ bán được cho bà lý có một tấm lụa. Tâm đáp: - Thế còn gì nữa, bằng cả ngày lãi của tao kiếm. Chợ mỗi lúc ồn ào. Người đến họp đã đông. Cái đông đúc và ồn ào khiến cho Tâm như lịm đi. Tiếng người nói, tiếng cười đùa, chửi rủa tràn đầy cả mấy gian hàng. Sự hoạt động rực rỡ và nhiều màu. Các hàng quà bánh, các thức hàng rẻ tiền và vụn vặt ở thôn quê, những hoa quả chua chát hái xanh trong vườn nhà và bên kia đường, mùi thơm nồi cháo nóng của chị Tư bay ra ngào ngạt. Tâm không nghĩ ngợi, lo lắng gì nữa. Sự buôn bán, mặc cả bao bọc lấy nàng như một hơi gió nóng. Tất cả hàng tổng có mặt trong buổi phiên này. Từ những người đàn bà nghèo ăn mặc rách rưới, cho đến các bà tổng, bá lý, váy sồi, thắt lưng đũi và áo bông mền, túi nặng những tiền. Một, hai cô trên tỉnh, chừng con gái ông thừa hay ông chủ ty ở huyện, vui đùa đi lại trong chợ, răng trắng và môi đỏ. Tâm thấy họ hình như vô tâm và sung sướng lắm thì phải: các cô bá vai nhau mua hết thức này thức nọ không tiếc tiền, ngây thơ như con trẻ. Tâm và Liên nhìn nhau mỉm cười. Gần trưa, cậu giáo ra. Vẫn con người mảnh dẻ và nho nhã trong chiếc áo lương cũ. Bốn mắt nhìn nhau: Tâm má đỏ bừng, tay không biết làm gì. Cậu giáo ngượng nghịu, nửa muốn ngồi xuống bên hàng nửa không dám. Chỉ có Liên là tinh nghịch, sống sượng lại hay nói đùa: - Kìa ông giáo, mời ông mua hàng của em nó đi. Rồi cô ngả đầu ra sau cười ngặt nghẽo, trong lúc Tâm đưa mắt trách và cậu giáo sẽ mỉm cười. Vụ gặt hái xong, cậu giáo bài nhờ người mối lái đến hỏi Tâm. Bà mối là người cô trong họ nhà bà Tú. Sau khi khen ngợi cậu giáo là người chí thú nết na, bà mối bảo: - Tôi cũng vì tình chị em nói giúp cho cháu nó nên vợ chồng. Cậu giáo tuy nghèo nhưng là con nhà thế gia, ông cụ trước cũng có đi dạy học. Cháu Tâm nó mà về làm dâu nhà ấy thì không còn phải quản ngại điều gì nữa. Bà Tú cảm ơn và đáp: vâng, bà để cho rồi tôi hỏi cháu xem thế nào đã. Bà mối cười, vừa đứng dậy vừa trả lời: - Được nơi xứng đáng, mình bằng lòng thì gả, chứ còn cần gì phải hỏi nó nữa. Sau khi bà mối về, bà Tú đem câu chuyện hỏi ông Tú, ông bảo: - Bà xem chỗ nào nên thì gả, không phải hỏi tôi làm gì. Rồi ông lại xách ô đi chơi sang làng khác. Bà nhìn theo ông, thở dài. Từ ngày trong nhà kém sút đến giờ, ông Tú như người mất hồn, chẳng còn để ý đến công việc gì nữa. Việc trong nhà ông để bà trông nom. Bà nghĩ đến Tâm, âu yếm. Nếu không có nó sớm hôm buôn bán thì bà cũng không biết xoay xở vào đâu. Nhà năm, sáu miệng ăn, lại hai con đi học, hơn mẫu ruộng cấy chỉ đủ thóc dùng. Bà lại chợt nghĩ: nếu Tâm đi lấy chồng thì làm thế nào? Tuy vậy, buổi chiều hôm ấy, bà gọi Tâm vào buồng, và nói cho Tâm biết, Tâm yên lặng nghe, rồi thưa: - Con mà đi lấy chồng thì ai đi kiếm tiền cho các em ăn học? Thôi u cứ để con ở nhà buôn bán và trông nom nhà cửa cho thầy u. Bà Tú nhìn con, thương mến: - Không được, con gái đến tuổi phải đi lấy chồng, chứ con ở nhà mãi hay sao. U sẽ làm hàng xáo để kiếm thêm chi tiêu trong nhà. Con cứ nghe u đi. Bà thêm: - Với lại, không đám nào hơn đám này nữa. Bà cụ đằng ấy cũng hiền lành và cậu Bài là người nết hạnh đứng đắn. Con về nhà ấy thì u mừng lắm. Tâm cúi mặt thẹn đỏ hai má, nàng tưởng đến cậu giáo, con người xinh trai và nhã nhặn, mà mới buổi gặp lần đầu, nàng đã mến yêu ngay. Nhưng bỏ nhà đi lấy chồng? Thằng Lân và thằng Ái lấy tiền đâu mua sách vở học? Nghĩ đến mẹ già phải làm lụng vất vả, lòng Tâm lại không nỡ. Nàng khóc nói: - Thôi, u cứ để con ở nhà hầu hạ thầy và săn sóc các em. Chúng nó còn bé dại cả, nếu con đi thì ai trông nom nhà cửa. Nhưng thương con, bà Tú không ngần ngại chút nào. Bà bằng lòng cho Tâm và nhắn tin cho bà mối biết. Bên nhà trai xin cưới ngay trước Tết. Ngày về nhà chồng, Tâm buồn rầu không biết gì trang điểm. Nàng gọi các em vào trong buồng để từ biệt: Lân và Ái níu lấy cổ Tâm quấn quýt, không muốn rời ra. Nàng âu yếm dặn dò: - Các em ở nhà chịu khó ăn học nhé, đừng để cho thầy u phải phiền lòng. Rồi tháng tháng chị sẽ gửi tiền về cho các em tiêu. Tâm ngừng lại, ứa nước mắt không nói được nữa. Nàng xốc em bé lên hôn rồi ra ngoài lễ tạ cha mẹ. Đám rước dâu theo con đường nhỏ trong làng đi ra cánh đồng. Hai bên ngõ, người trong làng đứng xem cô dâu và chú rể mới. Buổi chiều hôm ấy, trong nhà bà Tú trở nên lạnh lẽo và vắng không. Bữa cơm chỉ có mấy mẹ con ngồi ăn. Lúc thắp đèn, bà Tú gọi con sen lên nói chuyện về Tâm cho đỡ buồn. Thằng Lân và Ái cũng ngẩn ngơ nhớ chị. Không có những buổi tối chờ đợi chị Tâm gánh hàng về, nghe tiếng cười nói vui vẻ của chị và mong đợi chia quà nữa. Chúng ngồi nghe chuyện bà Tú mãi tới khuya rồi gục trên sách ngủ. Về nhà chồng được vài hôm, Tâm phải đi bán hàng ngay để khỏi mất mấy phiên chợ Tết. Nhà chồng nàng cũng nghèo, nhà cửa không có gì. Cậu Bài dạy học trong làng được dăm bảy đồng bạc lương. Bao nhiêu việc chi tiêu trong nhà lại trông cả vào mình nàng. Bây giờ gánh hàng trở nên nặng quá trên đôi vai nhỏ bé. Chiếc đòn gánh càng cong xuống và rền rĩ. Ngoài gian sơn nhà chồng nàng phải gánh vác, Tâm còn lo sao phải kiếm đủ tiền để gửi thêm cho các em ăn học. Trong sương muối sớm, xót và giá lạnh, nàng phải bước ra ngõ để đi chợ rồi. Trên con đường nấp mô và đất rắn, Tâm bước những bước nhỏ và mau. Đời nàng lại đi như trước, chẳng khác gì. Những ngày khó nhọc và cố sức lại kế tiếp nhau. Có khi Tâm còn tưởng ở nhà, vẫn còn con gái và buổi chiều nàng sẽ gánh hàng về căn nhà cũ, thấy các em ra đón và nghe tiếng mẹ dịu dàng săn hỏi. Nhưng không, bây giờ nàng không được về nhà mẹ luôn nữa. Gia đình của chồng là gia đình nàng, nàng phải lo tiền cho chồng vụ thuế, những lúc giỗ tết, phải may vá cho Bài: chiếc áo lương mới chàng sắm ngày cưới bây giờ đã bắt đầu bục và rách rồi. Ngày phiên chợ đối với nàng cũng kém vui. Má nàng hồng hơn, môi nàng thắm thêm, người ta bảo nàng bây giờ đẹp ra hơn trước. Nhưng nàng cần gì những cái đó nữa. Bọn trai không còn chọc ghẹo nàng, và trong lòng nàng cũng không có cái vui tươi như trước. Với nàng, cái thời con gái duyên thắm và chờ mong đã hết rồi. Nàng chỉ còn là một người đàn bà tần tảo hôm sớm để nuôi chồng. Buổi phiên chợ Bằng, Liên ngồi cạnh nàng nhí nhảnh khoe: -Này Tâm xem, tôi mới sắm được cái này đẹp lắm. Liên đưa ra một đôi khuyên vàng cô mới gửi đánh ở trên tỉnh.Tâm cầm lấy ngắm nghía trên tay. Mắt nàng sáng lên. Tâm nghĩ đến những buổi nói chuyện với Liên khi nàng chưa lấy chồng. Hai chị em bàn về những đồ trang sức, và đôi khuyên là cái ước vọng tuyệt đích của hai cô gái quê. Hai người buổi nào cũng nhắc đến, và cùng hẹn nhau dành dụm để sắm một đôi đeo Tết... -Đẹp quá nhỉ. Chị mua hết bao nhiêu? Nàng ngẩn ngơ đưa trả lại Liên, yên lặng nhìn bạn mắc vào tai. Tâm nghĩ không bao giờ nàng có thứ ấy nữa. Làm sao dành dụm được chừng ấy tiền, mà nếu có số tiền ấy nữa, nàng cũng còn phải tiêu việc nhà, hay gửi cho các em. Em Lân đã lên học trường tỉnh, sự tốn kém lại tăng thêm. Dạo hè năm ngoái, nó đã lấy của nàng hơn chục bạc. Hôm qua, bà Tú lại nhắn người bảo gửi thêm cho nó để nộp giấy đi thi. Nàng lo quá. Những số tiền nàng cho em là tiền dành dụm riêng của nàng, Tâm phải đưa giấu, sợ mẹ chồng và chồng nàng biết. Nhiều lần Bài đã gắt với nàng vì Tâm không còn tiền đưa. Và những lời của mẹ chồng nàng đã bắt đầu có vẻ đay nghiến và nghi ngờ. Hai năm sau, Tâm đẻ đứa con trai. Ở cữ được nữa tháng, nàng phải để con cho mẹ chồng chăm nom, rồi lại gánh hàng đi chợ. Mấy năm khó nhọc đã đổi thay hẳn người nàng. Tâm bây giờ không còn là cô gái xinh xắn hồi trước. Nàng già đi nhiều lắm. Đã lâu nàng không còn chú ý đến sắc đẹp của mình và cũng không biết nó tàn lúc nào. Sắc đẹp cũng vô ích cho nàng khi đã có chồng rồi, Tâm thấy mình già và yên tâm trong sự đứng tuổi. Những ngày phiên, nàng nhìn các cô gái với ý nghĩ an phận của người đã qua tuổi trẻ rồi. Bây giờ nàng còn thì giờ đâu trang điểm nữa. Đã có những cô gái khác mới lớn lên, rực rỡ và tươi tắn, cười nói có duyên với những cậu con trai khác. Nhiều khi nhìn vẻ hân hoang sung sướng của họ, Tâm lại nghĩ đến ngày trước kia, hình như đã lâu lắm, nàng còn là cô hàng xén má hồng môi đỏ, e lệ cúi mặt dưới cái nhìn âu yếm của cậu giáo Bài nho nhã và đứng đắn trong tấm áo lương. Thời ấy bây giờ đâu? Chị Liên may mắn đã lấy được chồng giàu, lên buôn bán trên tỉnh, chị ấy vẫn trẻ đẹp như xưa. Tâm khẻ thở dài: bây giờ các chị em bạn cũ không còn ai ở lại để cùng chia sẻ những nổi khó nhọc với nàng. Tâm rảo bước đi qua cánh đồng, nghĩ ngợi. Đã lâu, nàng không có dịp sang thăm nhà vì bận con mọn và buôn bán. Chiều nay, Lân ở trên tỉnh về, nên nàng đến để gặp em và hỏi thăm ông Tú mệt đã mấy tháng nay. Cây đa cỗi và cái quán gạch vẫn đứng đợi nàng ở đầu làng. Đường ngõ vẫn lồi lõm vì trâu đi, hai bên vệ vẫn mùi bèo và mùi rạ ướt. Trong làng chẳng có gì thay đổi. Khi nghe thấy tiếng bà Tú âu yếm đón hỏi trên thềm, tiếng thằng Ái và em bé reo mừng chị, lòng Tâm dịu lại như ngày nàng còn gánh hàng về. Tâm bước vào ngồi trên phản bên cạnh mẹ, căn nhà đối với nàng hình như rộng rãi và lặng lẽ hơn trước nhiều. - Em Lân đâu, u? - Nó vừa mới chạy đâu sang hàng xóm. Chả biết cần gì mà nó đợi con để xin tiền. Tâm thở dài: - Con chả có đồng nào để ra cả. Bà Tú nhìn con ái ngại: - Cậu giáo lại thôi dạy học, thì nhà con túng thiếu thật. Hai mẹ con yên lặng không nói nữa. Tâm thấy mẹ già đi quá, hai mái tóc đã bạc phơ. Bỗng nhiên, nàng thấy đau xót trong lòng, thương mẹ và buồn cho cảnh nhà nghèo. - Kìa chị đã đến. Em chờ chị mãi từ sáng tới giờ. Lân ở ngoài bước vào, nhanh nhẹn. Cậu lớn hẳn lên, dáng điệu mạnh mẽ và hơi xấc lấc, rõ ra một cậu học trò lanh lợi trên trường tỉnh, Tâm nhìn em mừng rỡ. Mắt nàng sáng lên vì kêu hãnh có người em như thế: -Em chơi đâu về? Bao giờ lại lên tỉnh học? Nàng ân cần săn sóc, hỏi em. Lân trả lời chị qua loa, hơi bực mình về những câu hỏi lẩn thẩn của chị. Cậu nói ngay đến câu chuyện cần: - Em xin chị một chục bạc để mua sách học. Tâm hoảng sợ: - Sao nhiều thế, chị lấy đâu ra. Độ này buôn bán khó khăn lắm, một ngày vài hào chỉ lãi, em bảo chị làm thế nào được... Thấy Lân có vẻ không bằng lòng. Tâm vội đáp: - Hãy để thong thả chị lo rồi gửi chị Liên cho em. - Thế thì lấy tiền đâu mà nộp đơn và mua sách bây giờ. Không có thà rằng ở nhà xong. Lân vùng vằng đứng dậy bước ra ngoài thềm. Bà Tú ngước mắt trông theo, rồi lại buồn rầu cúi xuống. Tâm nhìn mẹ rồi vội vã bước ra gọi em lại. Nàng dịu giọng, ngọt ngào: Gớm, chưa chi em đã giận. Có phải chị tiếc em đâu, vì chị chưa có thật. Lân yên lặng rồi không nói gì, quay mặt đi chổ khác. Lòng chị lại không nở thấy em buồn: - Thì đây, chị có chục bạc này là tiền lấy hộ cho anh ấy đây. Em cầm lấy rồi chị liệu vay sao cũng được. Tâm lần ruột tượng lấy ra gói bạc giấy cuộn tròn. Số tiền nàng vừa lấy về định trang trải các công nợ và lo sưu thuế cho Bài. Nhưng thấy vẻ mặt vui mừng của em, nàng quên mất cả những nỗi lo sợ đang chờ nàng. Lúc Tâm ra về, trời đã tối. Nàng vội vã bước mau để về cho con bú. Sương mù xuống phủ cả cánh đồng và gió lạnh nổi lên: Tâm thu vạt áo lại cho đỡ rét, lần theo bờ cỏ đi. Lòng nàng mệt nhọc và e ngại: lấy đâu mà bù vào chổ tiền đưa cho em? Tâm nhớ lại những lời dằn vặt của mẹ chồng và những câu giận dữ của Bài mỗi khi hỏi nàng không có tiền. Nàng nghĩ lại những ngày buôn bán kém gần đây, hàng họ chẳng ra gì, ngày bán được, ngày không. Tâm dấn bước. Cái vòng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối tăm và dày đặ , Tâm buồn rầu và nhìn thấy cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ. Nàng cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối. Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Feb/2012 lúc 10:55pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 201 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |