Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Sức Khỏe - Y Tế
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Khoa Học - Kỷ Thuật :Sức Khỏe - Y Tế  
Message Icon Chủ đề: CÁC THÔNG TIN VỀ SỨC KHỎE Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 189 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23729
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Sep/2010 lúc 9:55pm
Ngọc Lan chữa bệnh


Hoa Ngọc Lan không chỉ mang lại hương thơm mà còn có công dụng chữa bệnh rất hay.

Công dụng của Ngọc Lan

Ngọc Lan là loại hoa có mùi thơm ngất ngây rất đặc biệt, là loài thực vật thuộc họ Mộc Lan. Hoa Ngọc Lan có 2 loại quen thuộc thường gặp là Ngọc Lan trắng và Ngọc Lan vàng. Mùa xuân (vào độ tháng 2) là lúc Ngọc Lan nở. Khi nụ hoa chưa nở, thu hoạch, cắt bỏ cành, phơi khô trong bóng râm (phơi âm can) dùng để làm thuốc.

Theo y học cổ truyền, hoa Ngọc Lan có vị đắng, cay, hơi ấm, có tác dụng chống ho làm long đờm, lợi tiểu, làm phấn chấn, trấn kinh, khu phong, kiện vị, giáng áp, giải độc. Dùng chữa các chứng ho, đầy hơi, buồn nôn, sốt, bí tiểu tiện, cao huyết áp...

Ngoài hoa, lá, rễ, vỏ thân cây Ngọc Lan đều có tác dụng làm thuốc chữa nhiều bệnh khác nhau. Dưới đây là những ứng dụng phong phú của Ngọc Lan dùng làm thuốc chữa bệnh.


This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1088x816 and weights 114KB.

Hoa Ngọc Lan



Một số cách dùng Ngọc Lan chữa bệnh

* Chữa ho đau yết hầu

Dùng 20g hoa Ngọc Lan đem tẩm mật ong trong 3 ngày rồi sắc uống như trà, có thể dưỡng phế nhuận yết hầu, điều lý trường vị, chữa trị ho do không khí không tốt, ngực và cách mạc đầy trướng và đau, đầu vựng mắt hoa.

* Chữa vô sinh

Dùng 10g hoa Ngọc Lan chưa nở sắc uống thay trà, uống vào buổi sớm. Cứ 30 ngày một liệu trình, có thể cải thiện thống kinh và vô sinh nữ.

* Trị ho trừ đờm, lợi tiểu tiện

Hải triết 2 mảnh, dưa hồng 1 quả, cà rốt 1 củ, tỏi 5 củ, hoa Ngọc Lan 15g. Gia vị gồm giấm trắng 1 thìa to, dầu thơm 1 thìa nhỏ, xì dầu 1 thìa, đường 1 thìa. Hải triết bì dùng nước ngâm nhiều lần rồi rửa sạch, khử mùi tanh. Dưa rửa sạch, bỏ đầu, cuống và tua, thái nhỏ như tơ. Cà rốt cạo vỏ ngoài thái nhỏ. Hoa Ngọc Lan rửa sạch, bóc cánh rồi thái nhỏ. Cho tất cả các nguyên liệu trên trộn đều với nhau, thêm gia vị sau đó rắc hoa Ngọc Lan lên trên cho thêm nước vừa đủ rồi sắc như sắc thuốc là được. Bài thuốc này có tác dụng trị ho trừ đờm, lợi tiểu tiện.

* Giúp trắng da, tiêu hóa tốt

Hoa Ngọc Lan 6g, trà xanh 1 thìa. Bóc tong cánh hoa Ngọc Lan, rửa sạch hoa bằng nước muối, để ráo nước, cho vào trong chén. Rót nước đang sôi vào chén, sau đó cho trà xanh, đợi có mùi hương bay ra, có thể uống thay trà.

* Chữa sốt, kinh nguyệt không đều, tiểu tiện khó

Lấy vỏ thân cây Ngọc Lan, cạo sạch lớp vỏ ngoài, rửa sạch, thái mỏng, phơi khô. Lấy 30g vỏ sắc với 400 ml nước cho đến khi còn 100 ml, uống 2 lần trong ngày.

* Chữa sưng tấy

Lấy lá Ngọc Lan loại non và bánh tẻ rửa sạch, giã nát, đắp vào chỗ sưng tấy.

* Chữa viêm phế quản mạn tính ở người cao tuổi

Lá Ngọc Lan 30g, lá cây dừa 30g, giun đất đã chế biến 5g, thái nhỏ, phơi khô, sắc uống.

* Chữa ho

Hoa Ngọc Lan 30g, mật ong 40g, cho 2 thứ vào hấp cách thủy trong 20 – 30 phút để ăn.

* Chữa đau bụng kinh ở phụ nữ

Ngọc Lan 20g, ý dĩ nhân 30g, hạt đậu ván trắng 30g, hạt mã đề 5g sắc uống trong ngày.

* Chữa viêm xoang

Lấy hoa Ngọc Lan lúc còn xanh, sấy khô giòn, tán và rây thành bột mịn, đựng vào lọ kín. Khi bị chảy nước mũi, mở lọ ngửi và hít mạnh để bột thuốc bay vào mũi, ngày làm 2 – 3 lần.



Hồng Nhung


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 03/Sep/2010 lúc 9:55pm
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23729
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Sep/2010 lúc 5:11am
9 thực phẩm chứa những bí mật đáng ngạc nhiên
Bạn có thể nghe thấy rất nhiều lợi ích từ thực phẩm, nhưng những bí mật thực phẩm dưới đây chắc chắn sẽ làm bạn bất ngờ!

1. Táo - Một quả táo mỗi ngày có thể giúp bạn giảm cân! Táo rất giàu pectin, là một chất xơ hòa tan, pectin làm giảm lượng đường, giúp bạn chống lại cơn thèm ăn.
 
9%20thuc%20pham%20chua%20nhung%20bi%20mat%20dang%20ngac%20nhien

2. Ngô rất giàu biotin, hạt nhân này ít kích thích sản xuất keratin (chất sừng) - một thành phần chính của sợi tóc, do đó làm cho tóc của bạn khoẻ hơn và bóng hơn.
 
9%20thuc%20pham%20chua%20nhung%20bi%20mat%20dang%20ngac%20nhien
3. Dưa hấu - Loại quả giàu năng lượng với rất nhiều vitamin B6 vô cùng tốt cho những người ưa hoạt động. Đây cũng là một loại quả an toàn với bệnh nhân tiểu đường.
 
9%20thuc%20pham%20chua%20nhung%20bi%20mat%20dang%20ngac%20nhien
4. Mận - Mận chứa chất thrombin, giúp đông máu.

9%20thuc%20pham%20chua%20nhung%20bi%20mat%20dang%20ngac%20nhien
5. Bông cải xanh - Giảm nguy cơ ung thư vú. Bông cải xanh có chứa một hóa chất tự nhiên gọi là indole-3-carbinol, có khả năng ngăn chặn các tế bào ung thư.
 
9%20thuc%20pham%20chua%20nhung%20bi%20mat%20dang%20ngac%20nhien

6. Quế - Loại gia vị này giúp giảm mức đường huyết, giúp đường huyết giữ ở mức cân bằng.
 
9%20thuc%20pham%20chua%20nhung%20bi%20mat%20dang%20ngac%20nhien
7. Bơ - Loại quả màu xanh giàu Omega-9 (một chất béo lành mạnh) giúp chống lại cơn thèm ăn!
 
9%20thuc%20pham%20chua%20nhung%20bi%20mat%20dang%20ngac%20nhien
8. Hẹ tây - Bạn muốn hạ huyết áp hãy ăn hẹ tây. Hẹ tây giúp thư giãn các động mạch của bạn do đó cho phép máu lưu thông suốt.
 
9%20thuc%20pham%20chua%20nhung%20bi%20mat%20dang%20ngac%20nhien

9. Thịt bò – Có thể làm giảm chứng đau nửa đầu vô cùng khó chịu.
 
9%20thuc%20pham%20chua%20nhung%20bi%20mat%20dang%20ngac%20nhien
 Việt Báo ( Theo Afamily


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Sep/2010 lúc 5:11am
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23729
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Sep/2010 lúc 5:23am
Ăn Ngọt Và Bệnh Tiểu Đường
Nguyễn Thượng Chánh, DVM

Thèm ngọt là một nhu cầu thiết yếu của cơ thể để củng cố năng lượng.

Carbohydrate hay Glucide là những hợp chất bao gồm đường (sugar), tinh bột (amidon, starch) và chất xơ (fibre). Đa số glucide từ thức ăn bị phân cắt ra thành glucose đề tạo ra năng lượng.

Những chất nầy rất cần thiết cho chúng ta để sống.

Mật ngọt chết ruồi. Lời đường mật làm con tim si dại.

Nhưng hảo ngọt quá đôi khi cũng nguy hiểm lắm đó!
 
Người bị bệnh tiểu đường có thể dùng đường được không?

Theo l'***ociation Canadienne du Diabète, thì họ vẫn có thể ăn ngọt được, nhưng phải ăn một cách điều độ chừng mực và vừa phải mà thôi. Cũng có thể thay thế đường bằng cách ăn trái cây, rau cải, hoặc bằng các sản phẩm của sữa.

Trong một ngày, bệnh nhân  không được ăn quá giới hạn tối đa 10% calories từ các thức ăn ngọt. Thí dụ, một người có nhu cầu năng lượng là 2.000 calories/ngày, thì 10% tương đương với 200 calories.

Biết rằng 1gr đường cho 4 calories...

Một lon coca loại regular có chứa 12 muỗng cà phê đường (48g đường) tương đương với 192 calories!

..."IT HAS BEEN SAID THAT there is approx. 1 teaspoon of sugar per ounce of soda. So a 12 oz. can of Coke contains about 12 teaspoons of sugar. One teaspoon of sugar is about 16 calories. So a can of Coke has about 192 calories. If you drink a six-pac of Coke, you get about 1,152 calories!"

..."Another way is to look at the label, which says that a 12 oz can of Coke has 140 calories. That means that the can has the equivalent of 9 teaspoons or 3 tablespoons of sugar. That's still a lot!"

Trên đây là những chỉ dẫn chung chung mà thôi.

Bệnh trạng mỗi người mỗi khác, nên chỉ có bác sĩ điều trị mới có thẩm quyền quyết định.

Các nhà khoa học Âu Mỹ đều nói rằng, không có mối liên hệ trực tiếp cho thấy đường là nguyên nhân gây ra bệnh diabetes type II... Nhưng về mặt sinh lý học, rất có thể đường gây ra bệnh tiểu đường một cách gián tiếp, chẳng hạn như trong trường hợp chúng ta thường tiêu thụ những thức ăn thức uống có chỉ số đường huyết (glycemic index) cao, khiến tụy tạng phải thường xuyên tiết insulin nên bị mệt mỏi, và trở nên yếu đi. Đây là tình trạng đề kháng insulin (insulin resistance).

Insulin resistance (IR) is the condition in which normal amounts of insulin are inadequate to produce a normal insulin response from fat, muscle and liver cells. Insulin resistance in fat cells reduces the effects of insulin and results in elevated hydrolysis of stored triglycerides in the absence of measures which either increase insulin sensitivity or which provide additional insulin. Increased mobilization of stored lipids in these cells elevates free fatty acids in the blood plasma. Insulin resistance in muscle cells reduces glucose uptake (and so local storage of glucose as glycogen), whereas insulin resistance in liver cells results in impaired glycogen synthesis and a failure to suppress glucose production. Elevated blood fatty acid levels (***ociated with insulin resistance and diabetes mellitus Type 2), reduced muscle glucose uptake, and increased liver glucose production all contribute to elevated blood glucose levels. High plasma levels of insulin and glucose due to insulin resistance are believed to be the origin of metabolic syndrome and type 2 diabetes, including its complications.

Gs Jim Mann thuộc Đại Học Otago (New Zealand) cũng nhận định rằng, đường gây béo phì và tình trạng nầy sẽ dẫn tới bệnh tiểu đường. Mập bụng (abdominal obesity) là một mối nguy cơ (risk factor) làm xuất hiện bệnh tiểu đường type II.

Trong thực tế, rất khó tách rời ảnh hưởng của đường trong bệnh diabetes. Thêm đường vào thức ăn thức uống chỉ làm tăng calories ăn vào chớ chẳng làm gia tăng giá trị dinh dưỡng của sản phẩm.

Các khảo cứu về bệnh tiểu đường những năm gần đây nghi ngờ các loại nước ngọt có gaz như Coca, Soda, Pepsi, Seven Up, v.v...đã dự phần quan trọng trong sự xuất hiện của bệnh diabetes.

Vậy thì Fructose có tốt hơn không?

Fructose, là đường trích từ trái cây.

Fructose ảnh hưởng ít hơn các loại đường khác trong việc làm gia tăng đường huyết, vì vậy từ trước tới giờ các bệnh nhân diabetes thường được khuyên nên sử dụng đường fructose để tạo vị ngọt, nhưng ngày nay thì fructose mất dần sự sáng chói của nó.

Được biết rằng, ảnh hưởng của fructose không mấy quan trọng trong việc kiểm soát đường huyết, vì nó không kích thích sự tiết insulin, và tai hại hơn nữa là nó làm tăng hàm lượng loại chất béo xấu triglyceride lên.

A sweetener known as high-fructose corn syrup has been widely used in sodas and processed foods since the 1980s, and some researchers have blamed this trend at least in part for the concurrent rise in obesity and diabetes.

Other studies have linked diets heavy in high-fructose corn syrup to elevated risks of high triglycerides (a type of blood fat), fat buildup in the liver, and insulin resistance, note Dr. Gerald Shulman and colleagues at Yale University School of Medicine.

SOURCE: Cell Metabolism, March 4, 2009

Sự gia tăng triglyceride trong máu là một yếu tố làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch. Thí nghiệm trên thú vật cho thấy fructose còn làm tăng sự kháng insulin, đồng thời cũng ảnh hưởng đến hiện tượng dung nạp glucose (impaired glucose tolerance) và hiện tượng cao máu.

Thí nghiệm lâm sàng sơ khởi thực hiện ở người, còn cho biết fructose làm tăng cân do tác dụng xấu trên hàm lượng của hai hormones liên hệ tới sự no (satiety) và sự đói (appetite)...

Đó là hormones leptine và ghréline.

Chỉ số đường huyết (Glycemic index, GI) là gì?

GI do Gs David Jenkin, Canada nêu ra đầu tiên vào năm 1981. Ý niệm nầy lần hồi đã thay thế ý niệm đường đơn giản (đường cát) và đường phức tạp (cơm, bánh mì, spaghetti, khoai tây...) đã lỗi thời.

Chỉ số đường huyết là vận tốc chuyển hóa của một chất bột đường (glucide, carbohydrate) ra thành glucose để được hấp thụ vào máu.

Một thức ăn có GI càng cao thì đường huyết càng tăng nhanh.

Các nhà khoa học cho biết sự thặng dư glucose trong máu khiến tụy tạng phải tiết ra thường xuyên insulin và yếu tố insulin like growth factor one IGF-1.

Theo thời gian, tình trạng nầy sẽ đưa đến hiện tượng kháng insulin mà bệnh tiểu đường là hậu quả, và đồng thời cũng có thể có nhiều nguy cơ dẫn đến cancer (vú, ruột già, v.v...).

..."There's good evidence from the studies that have been done that high GI diets are linked to cancer as well. This is because constant spikes in blood glucose that cause the body to release more insulin also increase a related substance called 'insulin like growth factor one' (IGF-1)".

..."Both these hormones increase cell growth and decrease cell death, and have been shown to increase the risk of developing cancer".

"Other research shows that a high GI diet tends to reduce 'good' HDL cholesterol levels and raise triglycerides levels; bad news for cardiovascular diseases. And people with low HDL cholesterol and high triglyceride levels are more prone to gall stones. Up until now, people have considered fats and salt, not carbohydrates, to be the major contributor to heart disease". http://www.sciencealert.com.au/news/20081103-17021-2.html

Vì vậy, các nhà dinh dưỡng khuyên chúng ta nên dùng những thức ăn nào có GI thấp để ngăn ngừa bệnh béo phì, bệnh tim mạch và tiểu đường type II.

Trong thực tế, người ta thường pha trộn lẫn lộn các loại thức ăn có GI khác nhau trong các bữa ăn hằng ngày.

Nhìn chung, các loại đường phức tạp như ngũ cốc, cơm gạo, bánh mì, pasta, spaghetti, và các loại rau cải xanh là những thực phẩm chứa nhiều dưỡng chất và chất xơ.

Đối với những loại carbohydrate nầy, thì đường huyết sẽ tăng chậm hơn là nếu dùng các loại đường đơn giản quá tinh chế như đường cát trắng chẳng hạn.

Tuy vậy, cũng có một vài ngoại lệ, một số chất đường phức tạp như gạo trắng, white bread, bắp, khoai tây lại có GI cao hơn một số đường đơn giản.

GI cũng có thể thay đổi tùy theo nhiều yếu tố khác nhau như:

- kích thước các phân tử tạo nên sản phẩm, chẳng hạn như cereal càng nhuyễn, càng tinh chế thì có GI càng cao;

- cơ cấu sinh hóa (thí dụ gạo Basmati, và gạo Doongara CleverRice chứa nhiều đường amylose nên có GI thấp hơn gạo trắng hạt dài, là thứ gạo chúng ta ăn hằng ngày);

- cách biến chế nấu nướng, như khoai tây nấu chín trong nồi có GI thấp hơn khoai tây đút lò; bột khoai tây (purée, flocon de pomme de terre, potato flake) có GI cao hơn GI khoai tây nguyên củ; carotte tươi có GI thấp hơn GI carotte nấu chín;

Trong lãnh vực thể thao, ý niệm GI rất được các vận động viên quan tâm đến.

Trước hôm ngày tranh tài, nên ăn những loại thực phẩm có GI thấp và GI trung bình, như pasta, spaghetti, chuối, yogurt để dự trữ năng lượng…

Ngày tranh tài, thì dùng những thức ăn dễ tiêu, có GI cao như các thỏi bánh kẹo ngọt có nhiều đường và vitamins.

Ngay sau khi kết thúc cuộc thi đấu, nên ăn những món có GI cao để bù đắp lại nhanh chóng năng lượng tiêu hao.

Đây là một nguyên tắc thường được các người tham dự các cuộc chạy marathon áp dụng.

Chỉ số đường huyết GI của một vài loại thực phẩm

+ Thức ăn chuẩn là Glucose có GI = 100

+ GI thấp: Thức ăn có GI thấp hơn 55

Đậu nành - đậu phọng (15), đậu xanh (30), đậu trắng (38), đậu đỏ (40), sữa (30), yogurt (35), cam (40), táo pomme (39), biscuit khô (55), bột lúa mạch oat (50), bún (35), gạo Basmati có nhiều amylose (50), carotte tươi (35), fructose hay đường trái cây (20), gạo lức - đậu petit pois - khoai lang - bánh mì multigrain - pain au son (45), rau cải xanh - tomate - cà tím - ớt xanh - hành tỏi - nấm rơm (10), bưởi (22), cam (43), trái poire (36), khoai mỡ (51), xoài (55), trái pêche tươi (28), nước trái pomme (48), nho tươi (43).

+ GI trung bình: Thức ăn có GI trung bình 56 - 69

Cà rem (59), nước cam lon (65), chuối (62), đu đủ (60), pain blé entier - wholemeal bread (69), trái kiwi (58), nho khô (64), đường cát sucrose - saccharose (65), khóm (66).

 + GI cao: Thức ăn có GI cao trên 70

Carotte chín (85), pain blanc (70), cơm trắng gạo hạt dài chứa ít amylose (72), gạo tấm broken rice (86), nếp glutinous rice (98), các loại cereal - cornflakes (80), mật ong (90), Pepsi Coca (70), riz instantané (90), maltose beer (110), khoai tây chiên fries hay khoai đút lò (95), khoai tây nấu chín (70), dưa hấu (72), bí rợ (75), corn chip (72), bánh biscuit khô cracker (78), bánh mì baguette (95).

Cách phòng ngừa tình trạng tiền tiều đường / tiểu đường type II

Trước nhất là phải chuộng một nếp sống lành mạnh.

*-Bỏ thuốc, giảm cân, làm cho ốm bớt nếu trường hợp bệnh nhân đang mập phì sẵn.

*-Hạn chế việc sử dụng dầu mỡ, kiêng cữ đồ ngọt, bớt chất bột đường, tránh thức ăn làm từ bột quá tinh chế (refined).

*-Tránh bớt việc tiêu thụ quá thường xuyên các loại thịt nguội biến chế như thịt bacon, hot dog, lạp xưỡng, saucisse, v.v...

Khoa học cho biết các chất bảo quản được tìm thấy trong thịt nguội như nitrate và nitrite, ngoài nguy cơ gây ra cancer ruột, chúng cũng còn có thể làm tổn hại tụy tạng là bộ phận tiết ra insulin.

*-Nên dùng nhiều trái cây, ngũ cốc, đậu, hạt, rau cải chứa nhiều chất xơ...

*- Ăn chay cho đúng cách cũng có thể giúp hạ đường huyết một phần nào.

*- Không ăn những loại trái cây quá ngọt như chuối quá chín chẳng hạn.

*-Chọn những loại thực phẩm có chỉ số đường huyết GI thấp.

*-Tránh ăn quá nhiều chất bột đường có GI cao trên 72 chẳng hạn như cơm trắng hạt dài, cơm tấm, xôi nếp, khoai tây đút lò, bánh mì baguette...

*Nên bớt ăn cơm thì tốt nhất!!

Thay thế gạo trắng hạt dài bằng những loại gạo có nhiều amylose và GI thấp, như gạo Ấn độ Moolgiri, Basmati, Maharani  hoặc gạo Doongara Clever Rice của Úc châu chẳng hạn..

Đã có nhiều khảo cứu cho biết là gạo trắng hạt dài (long grain), loại mà chúng ta thường ăn hằng ngày là một trong nhiều nguyên nhân làm tăng đường huyết rất nhanh...

http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/17874830?ordinalpos=3&itool=EntrezSystem2.PEntrez.Pubmed.Pubmed_ResultsPanel.Pubmed_RVDocSum

*-Có thể thay thế cơm bằng bún, miến, đậu xanh, bắp cải, bông cải xanh Broccoli, bông cải trắng cauliflower, rau cải luộc, v.v... là những thức ăn có GI thấp.

*-Phải năng vận động, thường xuyên tập thể dục mỗi ngày ít nhất 30 phút, và tập cho ra mồ hôi mới hiệu quả.

*-Bỏ thuốc lá là một việc cần phải làm.

*-Nói tóm lại, là bạn phải có một nếp sống thật sự lành mạnh vậy!

Kết luận

Cho đến hôm nay thì phíaTây y vẫn khẳng định là bệnh tiểu đường không thể nào trị dứt được. Bệnh chỉ có thể được kiểm soát (control), nghĩa là giữ đường huyết ở một mức có thể chấp nhận được mà thôi.

Mục tiêu của việc trị liệu bệnh tiểu đường là giúp ổn định đường huyết glycemie và ngăn ngừa các biến chứng. Trong tất cả mọi trường hợp, sự theo dõi của bác sĩ điều trị là điều rất cần thiết.

Diabetes has no cure. Diabetes results from changes in the body's ability to absorb glucose (sugar). Once these changes happen, the body never fully regains its ability to process glucose.

However, people with diabetes can improve their glucose absorption through careful monitoring of what they eat and blood glucose levels. Physical activity may also benefit people with diabetes by increasing glucose absorption and reducing their weight and percentage of body fat. People with diabetes can develop a better sense of how food and activity affect them by regularly monitoring their glucose over time. Through these strategies, you can slow the progression of the disease and lower the risk of developing long-term diabetes-related problems. So while diabetes cannot be cured, it is a very manageable and livable chronic disease (CDC)

Một chế độ dinh dưỡng quá cao nhiệt năng (higher calorie diet), nói theo kiểu người mình là bơ sữa hơi nhiều, đớp hít hơi kỹ, lối sống quá nhàn rỗi, tà tà, ít chịu vận động (more sedentary lifestyle) sẽ đưa đến tình trạng béo phì (obesity).

Đây là yếu tố nguy cơ (risk factor) dẫn đến bệnh tiểu đường của phần đông người Việt Nam tại hải ngoại.

Hy vọng trong 10 năm nữa khi kỹ thuật trị liệu tiểu đường bằng tế bào gốc (stem cell) được hoàn chỉnh hơn, lúc đó chúng ta mới biết là bệnh tiểu đường có thể trị dứt được hay không!.

Thôi bây giờ bạn cứ quẳng gánh lo đi và vui sống, chớ bận tâm làm chi với bệnh tiểu đường, nhớ kiêng cử trong ăn uống, cũng như đừng quên đo đường huyết mỗi ngày và uống đều đặn thuốc Metformin nhé!

IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 11/Sep/2010 lúc 5:30am
Chuối chín có thể trị ung thư.
Võ Hà

Ripe Bananas and Anti-Cancer Quality

Chuối thật chín ( fully ripe banana) có chứa chất TNF (Tumor Necrosis Factor), chất này có khả năng chống lại các tế bào bất bình thường.

Khi trái chuối chín, trên vỏ chuối xuất hiện những đốm đen hoặc vết đen(dark patches). Các vết này càng đen chừng nào thì khả năng gia tăng tính miễn dịch càng cao 
 
Theo một nghiên cứu tại Nhật, trái chuối chứa chất TNF có những tính chất chống ung thư. Mức độ chống ung thư này tương xứng với độ chín của trái chuối, tức là trái chuối càng chín thì tính chất chống ung thư của nó càng cao. Trong một cuộc khảo cứu trên loài vật , một giáo sư tại Đại học Tokyo đã so sánh phúc lợi đối với sức khoẻ của nhiều loại trái cây khác nhau ( chuối, nho, táo, dưa hấu, dứa, lê , hồng ) và đã phát hiện là chuối cho kết quả tốt nhất.  

Chuối làm tăng số lượng tế bào máu trắng, đẩy mạnh sức miễn dịch của cơ thể và sản xuất ra chất chống ung thư TNF. Vị giáo sư Nhật khuyên mỗi ngày chúng ta nên ăn 1 tới 2 trái chuối đễ tăng sức miễn dịch của cơ thể chống lại các bệnh như cảm lanh, cúm và những bệnh khác.Theo ông ta thì vỏ chuối có đốm đen có tác dụng tăng cường tính chất của các tế bào máu trắng lên gấp 8 lần so với vỏ chuối xanh  

Chất TNF tiêu diệt các tế bào ung thư ra sao?  

Các chất TNF (hay họ TNF) bao gồm một nhóm những  chất thuộc họ cytokine có thể gây tử vong cho các tế bào.

TNF hành động qua “thụ thể TNF” (TNF Receptor gọi tắt làTNF-R) và là một phần của tíến trình bên ngoài dẫn đến việc khởi động vụ “ tế bào tự sát” (apoptosis). TNF-R liên hợp với các procaspases nhờ vào các protein nối tiếp (FADD,TRADD,v,v…), các protein nối tiếp này (adaptor proteins) có thể phân cắt (cleave)  những procaspases không có hoạt tính (inactive procaspases) khác và tạo nên một “thác đổ” procaspase đẩy các tế bào đi đến chỗ tự sát ( apoptosis) không thể tránh được.

TNF tương tác với các tế bào khối u để khơi động sự tiêu (hay chết) của tế bào (cytolisis). TNF tượng tác với các thụ thể (receptor) trên các tế bào nội mô (endothelial cells) ,làm tăng tính thẩm thấu của mạch máu giúp cho các bạch cầu (leukocyte) xâm nhập vào được vùng bị nhiễm khuẩn. Đây là một dạng đáp ứng khu trú viêm (localized inflammatory response), mặc dầu một sự phóng thích toàn thân (systemic release) có thể dẫn đến  “sốc nhiễm khuẩn” (septic shock) vàtử  vong.                                                

1- Tumor Necrosis Factor or TNF là một  cytokine có liên quan với tiến trình viêm. Các cytokine là những hóa chất truyền thông điệp giữa các tế bào trong cơ thể  

2- Tế bào tự sát (Apoptosis)  Đây là một dạng chết của tế bào trong đó một trình tự sự cố đã được chương trình hóa dẫn đến việc loại bỏ các tế bào mà không phóng thích những chất độc có hại cho vùng chung quanh. Viêc tế bào tự sát đóng một vai trò chủ yếu trong sự phát triển và duy trì sức khoẻ bằng cách loại bỏ những tế bào già, không cần thiết hoặc không lành mạnh. Cơ thễ con người loại bỏ có lẽ tới một triệu tế bào mỗi giây. Các tế bào “tự sát” ít quá hoặc nhiểu quá đểu là nguyên nhân dẫn đến nhiều bệnh tật. Khi mà sự chết chương trình hóa của tế bào (programmed cell death) bị trục trặc thì những tế bào đáng lẽ bị loại bỏ lại vẫn “luẩn quất đâu đó” và trở thành “bất diệt “ tỉ như trong trường hợp bệnh ung thư hay bạch cầu (leukemia).. Nhưng khi mà sự chết này quá mức thì quá nhiều tế bào sẽ bị chết làm tổn thương nghiêm trọng tới các mô. Điều này dẫn đến đột qụy hay những bệnh suy thoái thẩn kinh như Alzheimer, Huntington và Parkinson.  

3- Sốc nhiễm khuẩn ( septic shock) gây ra bởi sự giảm huyết áp do sự hiện diện của vi khuần trong máu. Tình trạng này ngăn chặn sự chuyển vận máu tới các bộ phận cơ thể và có thể nhanh chóng dẫn đến tử vong  

Mỗi ngày một trái chuối….khỏi cần gặp bác sĩ 
 
 

Chuối có tên khoa học là Musa Paradisiaca L. thuộc họ chuối (Musacae)                    

Theo Đông Y, chuối có vị ngọt, tính bình, nhuận phế, chỉ khát, lợi tràng vị. Củ chuối vị ngọt, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc.                                                                            

Theo phân tích của khoa học, chuối chín bao gồm nhiều chất bột, chất đạm, chất xơ, sinh tố và khoáng chất. Đặc biệt chuối có hàm lượng pot***ium rất cao và cả 10 loại acid amin thiết yếu của cơ thể. Theo Viện Nghiên Cứu và Phát Triển Nông Nghiệp Malaysia (MARDI), chuối là loại trái cây duy nhất hội tụ đầy đủ thành phần những chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể con người. Do đó, chuối đặc biệt thích hợp để bổ sung khẩu phần dinh dưỡng cho trẻ em và người già.  

Thành phần dinh dưỡng của chuối  

  100 gram thịt chuối cung cấp:  

 92 kcal – 1,03g protein – 396 mg K. – 1 mg NA – 6 mg Calcium – 0,31 mg Fe – 29 mg Mg – 20 mg P. – 0,16 mg ZN – 0,104 mg Cu – 0,152 mg Mn – 1,1 mcg Se – 9,1 mg Vit. C – 0,045 mg Thiamin – 0,1 mg Riboflavin – 0,54 mg Niacin – 0,26 mg Pantothenic Acid – 0,578 mg Pyridoxin – 19 mcg Folate – 0,012 g Tryptophan – 0,034 g Threonine – 0,033 g Isoleucine – 0,071 g Leucine – 0,048 g Lysine – 0,011 g Methionine – 0,038 g Phenylalanine – 0,047 g Valine – 0,047 g Arginine – 0,081 g Histidine 

Thân chuối non xắt mỏng là một món rau ghém quen thuộc ở vùng quê. Bắp chuối có thể làm rau sống, ngâm giấm hoặc làm gỏi trộn. Chuối chát là một món ăn kèm với thịt luộc hoặc cá nướng chấm mắm nêm rất hấp dẫn. Y học dân gian dùng chuối hột để trị sạn thận và sạn mật.  

Sau đây là một vài công dụng khác của chuối, quý giá và dễ áp dụng nhưng còn ít được quan tâm. 

1- Bổ sung năng lượng
Theo Tiến sĩ Douglas N... Graham, chuối là nguồn thực phẩm bổ sung rất tốt cho những vận động viên và những người làm việc nặng nhọc. Một tài liệu nghiên cứu cho thấy chỉ hai quả chuối là đủ cho một lần tập luyện 90 phút
Trong chuối có gồm đủ vừa carbohydrate hấp thụ nhanh và carbohydrate hấp thu chậm. Trong những hoạt động thể lực kéo dài khi năng lượng bị hao hụt nhiều, cơ thể phải huy động đến lượng đường trong máu để cung cấp cho cơ bắp. Vào những trường hợp này, đường glucoz trong chuối được hấp thụ nhanh vào máu có thể bổ sung tức th ời lượng đường bị hao hụt, giúp vận động viên phục hồi sau khi vận động mệt mỏi. Đường fructoz trong chuối được hấp thụ chậm hơn. Ngoài ra chuối còn những carbohydrate khác được chuyển hoá chậm và phóng thích đường vào máu từ từ và như vậy có thể đáp ứng cho những hoạt động thể lực kéo dài hàng giờ sau đó.
Đặc biệt tỷ lệ pot***ium cao trong chuối còn liên quan đến trương lực cơ có khả năng làm giảm nguy cơ vọp bẻ ở vận động viên. Do đó, người ta khuyên chuối nên được chọn trong số những thức ăn nhanh cho vận động viên trước, trong và sau những buổi tập.
2-Bệnh trẩm cảm (depression)  

Theo một nghiên cứu gần đây của hội MIND ( ***ociation for Mental Health) thì  nhiều  người bị bệnh trẩm càm  thấy dễ chiụ hơn sau khi ăn một trái chuối. Đó là  vì trong chuối có chất trytophan, một loại protein mà cơ thể chuyển hoá thành   chất serotonin  có tính chất làm thư giãn, tăng cường hưng phấn, và  làm cho con người ta cảm thấy hạnh phúc hơn.

3-Hội chứng trước kỳ kinh nguyệt (premenstrual syndromes- PMS)

Bạn quên uống thuốc ư? Hãy ăn một trái chuối. Vitamin B6 trong chuối sẽ giúp     điều hoà mức glucoz- huyết (đường trong máu) , làm bạn cảm thấy khoan khoái dễ chịu hơn

4-Bệnh thiếu máu (anemia)
Chuối chứa nhiều chất sắt nên có thể kích thích sự sản xuất  huyết cầu tố trong máu và do đó giúp trị bệnh thiếu máu.

5- Bệnh cao huyết áp:
Từ lâu y học cổ truyền Ấn Độ đã có kinh nghiệm sử dụng chuối để làm hạ áp huyết cao. Gần đây, nhiều cuộc thí nghiệm khác nhau ở trường đại học Kasturba, Ấn Độ, cũng như trường đại học John Hopskin, Hoa Kỳ, cũng đã xác nhận kết qủa này. Ăn chuối chín có thể làm hạ cao huyết  áp  mà không sợ xảy ra những phản ứng phụ. Chỉ cần ăn 2 quả chuối mỗi ngày, trong một tuần có thể giảm được 10% chỉ số huyết áp.
Người ta cho rằng việc hạ huyết áp của chuối đối với những người có huyết áp cao có liên quan đến hàm lượng pot***ium có trong chuối. Chuối là loại trái cây có hàm lượng pot***ium cao nhất trong số những loại rau quả thông dụng. Trong một 100gram thịt chuối có đến 396 mg khoáng chất pot***ium trong khi chỉ có 1mg Sodium. Sự tương quan giữa muối sodium và pot***ium có liên quan đến việc duy trì độ pH và sự cân bằng chất lỏng trong cơ thể. Trong khi sodium – thành phần quan trọng của muối ăn và những thức ăn mặn hàng ngày – có tác dụng giữ lại một lượng nước nhất định tạo gánh nặng cho hệ tim mạch thì pot***ium lại có tính năng như một chất điện phân giúp thải trừ bớt sodium ra khỏi cơ thể. Ngoài ra cả hai loại muối này còn liên quan đến việc làm thư giãn cơ bắp. Sự thiếu hụt muối pot***ium có thể làm gia tăng trương lực cơ và tương tác xấu đến hoạt động của hệ thần kinh giao cảm. Những yếu tố này đều có khả năng làm gia tăng áp huyết.
Cơ quan Quản trị Thực Phẩm và Dươc phẩm  Hoa Kỳ (FDA) đã cho phép kỹ nghệ chuối được chính thức loan báo tiềm năng chống cao huyết áp và đột quỵ  của chuối.

6-Sức mạnh trí óc:      

200 học sinh tại trường Twickenham (Middlesex) đã được thử nghiệm cho ăn chuối vào buổi sáng, buổi nghỉ giữa lớp và buổi trưa để kích thích hoạt động của não  Kết quả cho thấy chuối đã giúp học sinh tỉnh táo linh hoạt hơn

 7-Bệnh táo bón

Thịt chuối chín mềm, mịn nhưng lại chứa nhiều chất sợi không hoà tan. Chất sợi không được tiêu hoá tạo thành chất bã hấp thu nước và kích thích nhu động ruột nên có tác dụng chống táo bón rất tốt. Mặt khác, việc kích thích nhu động ruột sẽ thúc đẩy nhanh sự lưu thông trong ruột già làm giảm thời gian tiếp xúc của các chất độc hại hoặc có khả năng gây ung thư với niêm mạc ruột. Chất sợi còn có thể hoà quyện, kết dính những chất độc hại này để bài tiết theo phân ra ngoài. Do đó, ăn chuối hàng ngày có thể giúp bảo vệ niêm mạc ruột phòng ngừa nhiều chứng bệnh ở ruột già 

8-Váng uất sau khi uống quá nhiều rượu
Một trong những phương pháp trị nhanh chóng cơn váng uất vì ruợu là làm một ly sữa lạnh đánh sốp lên với chuối và mật ong. Chuối sẽ làm cho dịu dạ dày, và với sự trợ giúp của mật ong sẽ nâng mức  đường giảm trong máu, trong khi sữa vừa làm bớt cơn đau vừa tái tạo nước cho cơ thể.

9- Chứng ợ nóng (heartburn)

Chuối có tác dụng chống acít  tự nhiên trong cơ thể, nên nếu bạn bị lên cơn ợ nóng thì bạn hãy cố ăn một trái chuối để dịu đau.

10- Chứng nôn nghén (morning sickness)
Ăn chuối giữa các bữa ăn giúp  đường trong máu ở mức cao và tránh được chứng nôn nghén (vào buổi sáng)

11-Muỗi cắn (mosquito bites)
Trước khi dùng kem bôi chống muỗi cắn, hãy thử chà nhẹ phần trong của vỏ chuối vào chỗ muỗi cắn bạn sẽ thấy da bớt sưng và bớt ngứa

12-Suy yếu thần kinh
Chuối có nhiều vitamin B nên có thể giúp làm dịu hệ thần kinh.

13-Bệnh mập phì vì áp lực công việc
Nghiên cứu tại Viện Tâm Lý học Úc cho thấy là áp lực của công việc thường làm cho người ta ăn quá nhiều xô-cô-la và  khoai tây chiên giòn. Theo dõi hơn 5000 bệnh nhân ở bệnh viện, các chuyên gia thấy rằng đa số người bị bệnh mập phì là vì sức ép của công việc. Báo cáo kết luận rằng để tránh việc ăn quá nhiều vỉ lo lắng công việc người ta phải giữ cho mức đường trong máu đều đều bằng cách ăn những thức ăn có nhiều chất carbohydrate (như chuối chẳng hạn)mỗi hai giờ

14-Loét dạ dày, tá tràng

 Nhiều cuộc nghiên cứu khác nhau của những nhà khoa học ở Anh và Ấn Độ đã đưa đến kết luận giống nhau về tác động của chuối xanh đối với các bệnh nhân loét dạ dày, tá tràng. Người ta đã sử dụng những loại chuối khác nhau, chuối khô, chuối bột, chuối xanh, chuối chín, đồng thời với những nhóm đối chứng không dùng chuối. Kết quả cho thấy, chuối xanh được phơi khô ở nhiệt độ thấp (phơi trong bóng râm )có khả năng kích thích sự tăng trưởng của lớp màng nhày ở thành trong của dạ dày. Những tế bào sản xuất chất nhầy được tăng sinh, lớp màng nhầy dầy lên để bảo vệ thành dạ dày tránh khỏi bị loét và còn hàn gắn nhanh chóng những chỗ loét đã hình thành trước đó. Những thí nghiệm này cũng xác định những loại chuối được phơi khô ở nhiệt độ cao, hoặc chuối chín không có tính năng này.
15-Kiểm soát thân nhiệt
Nhiều nền văn hóa cho rằng chuối là một loại trái cây có thể làm giảm bớt thân nhiệt và sự căng thẳng của phụ nữ đang mang thai. Chẳng hạn như ở Thái Lan, người ta cho người mang thai ăn chuối để lúc sanh người đứa bé mát mẻ
 

16--Những căn bệnh do thời tiết thay đổi (seasonal affective disorder-SAD)
Chuối có thể hỗ trợ các người bị SAD vì có chứa chất tryptophan là chất gia tăng khí sắc tự nhiên
17- Cai thuốc lá
Chuối có thể giúp những người cai thuốc lá. Các vitamin B 6, B 12 cũng như  các  chất pot***ium và magnesium có trong chuối giúp cho cơ thể hồi phục sau những phản ứng của sự thiếu nicotine.

18-Căng thẳng tâm thẩn (stress):     

Pot***ium là một chất khoáng giúp điều hòa nhịp tim, đưa oxygen lên óc và điều chỉnh sự quân bình của nước trong cơ thể. Khi chúng ta bị căng thẳng mức độ chuyển hóa (metabolism) tăng  làm cho lượng pot***ium giảm.  Chất pot***ium trong chuối sẽ giúp lập lại  quân bình..

19- Đột quỵ (stroke)
Theo nghiên cứu đăng trên tập san The New England Journal of Medicine, một chế độ ăn uống có thêm chuối giảm tỉ lệ  tử vong vì đột quỵ xuống 40 phẩn trăm

20--Mụn cóc (warts) 

 Đắp mặt trong vỏ chuối lên chỗ mụn cóc, rồi dùng băng keo dán lại , sau một thời gian  mụn cóc sẽ mất!  

 KẾT LUẬN

Tóm lại, chuối là một nguồn dinh dưỡng quí giá ,lại dễ tìm, dễ ăn, xứng đáng được bổ sung vào khẩu phần ăn hàng ngày. Tuy nhiên, vì sức ăn của mỗi người có hạn, để khỏi can thiệp vào bữa ăn chính cần bao gồm những nhóm thức ăn chủ lực khác, nên dùng chuối theo chế độ ăn dặm, mỗi lần một hoặc hai trái, cách xa bữa ăn. Ngoài ra chuối đươc sắp vào loai thực phẩm có hàm lương đường cao, nên người bị bệnh tiểu đường nên tham khảo bác sĩ

So sánh với táo, chuối có 4 lần protein nhiều hơn, 2 lần carbohydrate, 3 lần phospho, 5 lần vitamin A và sắt, 2 lần các vitamin và khoáng chất khác. Chuối cũng giầu pot***ium và là một trong những trái cây tốt nhất cho con người. Vì vậy có lẽ đã tới lúc ta phải thay câu châm ngôn “An apple  a day, keeps the doctor away” bằng câu “ A banana a day, keeps the doctor away!” 

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23729
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Sep/2010 lúc 5:28am
Câu Chuyện Thầy Lang: TRÁI CÂY
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

Trái cây hay Quả được thành hình từ phần bầu nhụy của hoa. Trái cây thường có hai phần: phần thịt mọng nước có thể ăn được và hột cứng.
Ngược lại với rau được dùng như món ăn chính, trái cây thường là món ăn thêm, điểm tâm, tráng miệng hoặc ăn vặt.
Trái cây là thực phẩm ưa thích của loài người vì tính cách bổ dưỡng và tiện lợi của nó.
Thành phần dinh dưỡng
Nhiều nhà dinh dưỡng quả quyết rằng trái cây là “bạn đường của sức khỏe” vì nó có đầy đủ những chất dinh dưỡng cần thiết để duy trì một đời sống lành mạnh.
 1.Nước
Cơ thể cần từ 2-3 lít nước mỗi ngày để giữ thân nhiệt bình thường,  làm trơn các khớp xương, lưu chuyển dưỡng chất nuôi tế bào, làm huyết tương chứa hồng cầu, bạch cầu và để làm vật chống đỡ cơ thể...
Nước trong trái cây rất nhiều, tươi mát mà lại là loại nước tinh khiết, không nhiễm trùng hay vẩn đục. Nước từ lòng đất, được cây hút lên, chế biến, đặt vào trái để ta dùng mà không cần mất công đun nấu, gạn lọc. Dùng nước này ta không còn sợ bị các bệnh như tiêu chẩy, khó chịu bao tử, không sợ bị những ô nhiễm của bụi đất hay hóa chất trong không gian. Ngoại trừ khi con người bơm hóa chất khiến cho trái nom tươi đẹp
 
2- Chất đạm.
Chất đạm cần thiết cho sự cấu tạo các loại tế bào, chế tạo kích thích tố trong cơ thể.
Thường thường khi nói tới chất đạm là ta nghĩ ngay tới một miếng bít-tết, một đùi gà quay... vì đây là nguồn cung cấp chính. Nhưng loại chất đạm này có nhiều mỡ béo mà gần đây con người đã lạm dụng và phụ thuộc vào nó, và gây ra nhiều bệnh hoạn.
Rau trái cũng có một nguồn chất đạm đáng kể, tất nhiên là ít hơn thịt cá, nhưng dễ tiêu và không có cholesterol.
Ta hãy nhìn vào các vị tu hành, không ăn thịt động vật, chỉ ăn rau trái, mà cũng đủ chất đạm cho cơ thể, sức khỏe vẫn tốt, thần sắc hồng hào, tinh thần minh mẫn, phục vụ đạo giáo và tín đồ không mỏi mệt.
Đạm trong trái cây có đủ tám loại amino acid cần thiết mà cơ thể không tự tạo ra được và phải do thực phẩm cung cấp.
 Những trái hột như đậu phọng, hột hạnh nhân, quả óc chó ( walnut ), trái bơ... có rất nhiều đạm.
Một ưu điểm khác của chất đạm từ thực vật làchúng được tiêu hóa dễ dàng. Ăn một miếng thịt cần 8 giờ để chuyển hóa, trong khi đó ăn một hỗn hợp trái cây chỉ cần nửa giờ làcơ thể đã có dầy đủ số lượng chất đạm này.
3-Chất carbohydrat
 Carbohydrat cung cấp năng lượng cho chức năng của cơ thể dưới hình thức các loại đường hoặc tinh bột.
Trái cây có loại đường đơn thiên nhiên fructose, sẵn sàng được hấp thụ và có khả năng cung cấp năng lượng mà cơ thể cần ngay. Đường này dễ tiêu, nhập vào máu từ từ nên không gây xáo trộn cho mức độ insulin do tụy tạng tiết ra.
4- Chất béo.
Khi ăn nhiều chất béo thì không tốt, nhưng cơ thể cần một lượng tối thiểu để duy trì sự tăng trưởng của tế bào, tích trữ năng lượng, cấu tạo thành phần của hệ thần kinh, sản xuất kích thích tố.
Trái cây như chuối, bơ, oliu, đào lộn hột ... có một ít chất béo và hầu như không có cholesterol.
5- Khoáng chất và sinh tố
 Cơ thể cần một lượng rất nhỏ khoáng chất và sinh tố để điều hòa mọi chức năng cũng như để tăng trưởng, sinh sản. Trái cây có đầy đủ những chất này dưới dạng hoàn toàn tự nhiên, không pha lẫn hóa chất, dễ tiêu và vừa đủ cho nhu cầu hàng ngày. Tuy nhiên trái cây thường không có hoặc có rất ít sinh tố B12.
Lựa và cất giữ trái cây
Trái cây là sản phẩm mà thiên nhiên cung cấp, sẵn sàng để con người sử dụng mà không cần nhiều thời gian biến chế, sửa soạn.
Để trái cây thêm ngon, cần có sự lựa chọn kỹ càng, cất giữ đúng cách, rồi ăn đúng lúc.
Khi bầy bán trên thị trường, người ta thường phun hóa chất lên trái cây để giữ trái lâu hư cũng như để trái cây có vẻ tươi, đẹp, hấp dẫn. Vì thế, cần rửa sạch hoặc gọt vỏ trước khi ăn.
a-Trái cây tươi.
Mùa nào trái đó. Mua đúng mùa đúng lúc thì trái cây ngon hơn và rẻ hơn.
Lựa trái cây không khó khăn nếu ta để ý một chút.
Điều cần nhớ là không mua vì giá rẻ nhưng mua vì  dùng  được hoặc để dành được.
 Nếu không có nhu cầu trang trí, chưng bầy cho đẹp mắt thì bề ngoài của trái hơi có tì vết một chút cũng không ảnh hưởng tới phẩm chất của trái.
Cũng nên nhớ rằng, hầu hết trái cây được xịt một lớp hóa chất để tăng mầu tươi, tạo vẻ ngoài đẹp hơn, nên nhiều khi “thấy vậy mà không phải vậy”.
Khi mua về, trái chín cần được giữ trong tủ lạnh để tránh mau hư. Trước hết, lựa riêng trái hư, trái chưa chín hẳn. Không nên làm trái mau chín bằng cách phơi nắng vì các tia tử ngoại, hồng ngoại có thể làm phân hủy vài loại sinh tố.
Rửa và lau khô những trái cây có vỏ cứng và trơn tru.
Trái có vỏ mỏng như nho, quả anh đào (cherry), các loại trái nhỏ mọng nước (berry) như phúc bồn tử (rasberry), ô rô (holly berry), trái mâm xôi đen (black berry)...thì không cần rửa khi cất giữ vì nước đọng làm trái mau hư, nhưng đừng quên rửa trước khi ăn.
Đừng vặt bỏ cuống hoặc chóp của trái, tránh làm tổn thương tới tế bào của trái.
Tủ lạnh cần giữ ở nhiệt độ từ 15?C tới 21?C, không ẩm.
Tốt hơn hết là giữ trái trong hộp kín để không khí không làm khô trái, nhưng nếu đựng trong túi nylon thì lại nên chọc thủng vài lỗ nhỏ để thoát hơi và độ ẩm. Giữ kỹ như vậy, trái có thể để dành được khá lâu.
b-Trái cậy đóng hộp.
Với trái cây đóng hộp, cần coi kỹ nhãn hiệu có ghi rõ ràng tên trái cây, số lượng, tên và  địa chỉ nhà sản xuất, nhất là thời hạn sử dụng. Tuyệt đối không mua sản phẩm quá hạn dù giá rẻ.
 Tránh những hộp bị rò rỉ, không khí vào làm hộp phồng lên. Hộp móp vào  không sao, trừ phi  vết lõm làm rách hộp và để không khí lọt vào.
Trái cây hộp thường được bảo quản  bằng nước đường cho khỏi hư và đường càng ngọt thì giá càng cao nhưng thời gian bảo quản lâu hơn. Đôi khi trái cây được giữ gìn với  nước thường hoặc nước ép trái cây.
Trái cây hộp có thể giữ trong phòng ở nhiệt độ không quá 25? C, thoáng khí, không ẩm và có thể để dành cả năm mà phẩm chất vẫn tốt, miễn là hộp không rò rỉ và không quá hạn sử dụng do nhà sản xuất ghi trên hộp.
c-Trái cây đông lạnh.
 Trái cây này cũng rất ngon.
Khi mua lựa thứ đông cứng nguyên cục, chứ nếu đã chảy nước hoặc hơi mềm là bắt đầu rã đá và hư.
Mang về, nếu chưa ăn, cần bỏ vào tủ đông lạnh với nhiệt độ bằng hoặc dưới độ đông lạnh. Giữ như vậy trái vẫn còn tốt tới một năm.
 đ-Trái cây khô
Trái khô cần được bán trong túi sạch sẽ vã bọc kín. Trái phải mềm dẻo nhưng chắc, mầu tươi sáng, không lốm đốm mốc meo.
Trái khô có thể giữ ngoài tủ lạnh, với nhiệt độ trong nhà dưới 75?C trong vòng nửa năm. Nếu trời nóng quá và ẩm quá thì nên để trái cây khô trong tủ lạnh, nhất là sau khi đã mở ăn dở dang, để tránh nấm mọc.
e-Nướng trái cây.
Khi nướng, trái cây có thể là món ăn phụ thay thế cho thịt. Nướng không mất nhiều thì giờ, nhưng cần được ăn ngay.
Trái được gọt vỏ, cắt đôi, xếp úp lên vỉ hoặc chảo, quết bơ và nước trái chanh lên mặt, nướng độ mươi phút cho tới khi mặt trái hơi nâu.
Giở sang mặt kia rồi cũng quết bơ, nước chanh thêm chút đường, quế bột, nướng thêm vài phút cho tới khi nâu vàng.
Kết luận
Thiên tài khoa học Albert Einstein có nhận xét: “ A table, a chair, a bowl of fruit and a violin; what else does a man need to be happy.” Một cái bàn, một cái ghế, một bát trái cây và một cây đàn violin; con người còn cần gì thêm nữa để được hạnh phúc.
Mà một trong những yếu tố mang tới hạnh phúc là có sức khỏe tốt, ít bệnh tật. Vì các khoa học gia của Trung tâm CDC Hoa kỳ quan sát thấy là, so với người chỉ tiêu thụ một số lượng khiêm nhường rau, trái cây, người dùng rộng rãi các thực phẩm này đều có khả năng giảm thiểu các rủi ro mắc bệnh mãn tính, như là tai biến động mạch não, cao huyết áp, tiểu đường và vài loại ung thư.
Nhận xét của Einstein quá ư chính xác, phải không thưa quý thân hữu.
Texas-Hoa Kỳ
(www:nguyenyduc.com)



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Sep/2010 lúc 5:29am
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23729
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Sep/2010 lúc 5:31am
Câu Chuyện Thầy Lang: Trái Bưởi
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

 Kết quả một nghiên cứu dịch tễ công bố trong British Journal of Cancer, số tháng 7 năm 2007 đã gây nhiều thắc mắc e ngại cho bà con vẫn thường ăn bưởi mỗi buổi sáng để giảm cân. Và cũng gây ảnh hưởng tới sự tiêu thụ, mua bán bưởi tại nhiều nơi, trong đó có Việt Nam.

Nghiên cứu được mấy khoa học gia tại hai Đại học Southern California và Hawai thực hiện. Họ yêu cầu hơn 46,000 phụ nữ trong tuổi mãn kinh trả lời mấy câu hỏi như bao lâu ăn bưởi một lần và ăn nhiều hay ít trong thời gian 12 tháng vừa qua. Trong số các phụ nữ này, có 1,657 vị đã được chẩn đoán ung thư vú. Kết quả gợi ý là phụ nữ ăn từ ¼ trái bưởi hoặc nhiều hơn mỗi ngày có thể tăng rủi ro ung thư vú lên tới 30% so với người không ăn bưởi. Lý do là bưởi có thể làm tăng hàm lượng estrogen trong máu. Mà cao estrogen là một trong nhiều rủi ro đưa tới ung thư nhũ hoa.


Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng, một phân tử có tên P450 3A4 (CYP3A4) có ảnh hưởng vào sự chuyển hóa hormon estrogen. Và bưởi có thể làm tăng hàm lượng estrogen bằng cách ức chế phân tử kể trên, khiến cho estrogen tích tụ nhiều hơn.

Tuy công bố như vậy, nhưng các nhà khoa học cũng vội vàng lưu ý rằng, đây mới chỉ là nghiên cứu sơ khởi với trái bưởi chứ chưa phải là với nước bưởi và cần phải có nhiều nghiên cứu khác để xác định.

Bình luận về kết qủa này, phát ngôn viên khoa học Liz Baker của Cancer Research UK, nói: “Mặc dù các hóa chất trong trái bưởi đã được biết là có tương tác với mấy dược phẩm, nhưng kết quả này mới chỉ là nghiên cứu đầu tiên và duy nhất nói lên sự liên hệ giữa bưởi và rủi ro ung thư và chính các nhà nghiên cứu cũng đồng ý là cần có nhiều nghiên cứu khác để xác định. Ngoài ra, ai cũng biết rằng tiêu thụ một hỗn hợp năm loại rau trái mỗi ngày có thể làm giảm rủi ro của nhiều bệnh, kể cả vài loại ung thư”

Tiến sĩ khoa học dinh dưỡng Joanne Lunn tại British Nuitrition Foundation cho hay, đây là một cuộc nghiên cứu lý thú nhưng nghiên cứu này cũng chỉ là một mảnh của trò chơi lắp hình, có thể giúp ta hiểu hơn ảnh hưởng của dinh dưỡng với sức khỏe.

Kết quả trên được phổ biến rộng rãi trong dân chúng qua báo chí, truyền thanh. Bà con đồng hương trong ngoài nước xôn xao, e ngại không dám ăn bưởi, báo hại nông dân kêu trời như bọng, vì bưởi trồng thì nhiều mà người mua giảm trông thấy. Thiệt hại quá lớn khiến cho người đứng đầu hành chánh Việt Nam phải ra lệnh điều tra nguồn thông tin.

Có nhiều loại bưởi khác nhau. Theo tiến sĩ Nguyễn Minh Châu, Chủ tịch Southern Fruit Tree Research Institute, nghiên cứu tại Hoa Kỳ tập trung ở loại bưởi chùm Citrus Paradisi, khác với bưởi Citrus Maxima trồng ở Việt Nam. Bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng, Giám đốc viện Ung Thư Sài Gòn cũng lên tiếng trấn an đồng hương trong nước là bưởi ở Việt Nam an toàn.

 Xin cùng tìm hiểu thêm về những trái bưởi thơm ngon này.


Bưởi (Grapefruit) là cây cùng họ với cam quít, trái tròn, to, vỏ mỏng, màu vàng, múi nhiều nước giôn giốt chua ngọt, gây cảm giác dễ chịu khi ăn.

Theo nhiều nhà thảo mộc, bưởi có nguồn gốc Trung Hoa và Ấn độ tử nhiều ngàn năm về trước. Ở Tây phương, bưởi được Griffith Hughes mô tả đầu tiên vào năm 1750 và gọi bưởi là “trái cấm” của hải đảo Barbados.

 Bưởi được trồng nhiều ở Jamaica. Sau đó giống bưởi được đem trồng tại nhiều quốc gia Bắc Mỹ. Tại Hoa Kỳ, các tiểu bang Florida và Texas là nơi trồng nhiều bưởi nhất.

 Có nhiều loại bưởi khác nhau như:

-Bưởi Duncan hình tròn, lớn tới 12 cm đường kính, vỏ vàng lạt, cùi (pulp) mềm nhiều nước, vị thơm.

-Bưởi không hột Marsh hình tròn hơi dẹp hai đầu, kích thước từ 9-12 cm, vỏ nhẵn mầu vàng nhạt, cùi rất nhiều nước với vị thơm đặc biệt.

-Bưởi Paradise Navel hình cầu dẹt, nhỏ trái

-Bưởi Star Ruby vỏ mầu vàng, cùi chứa nước mầu đỏ, có hoặc không có hột.

Bưởi Việt Nam  có cùi dầy, múi to mà nhiều loại rất ngọt như bưởi ở các địa phương Đoan Hùng, Hưng Yên, Phúc Trạch, năm Roi, Biên Hòa...

 Khí hậu ấm nóng vùng nhiệt đới rất thích hợp cho sự tăng trưởng của bưởi. Độ ẩm cao làm vỏ mỏng trong và vỏ bưởi dày hơn khi không khí khô.

Mặc dù bưởi có quanh năm, nhưng từ mùa đông tới đầu xuân, bưởi ngon hơn

 Thành phần dinh dưỡng

Một trái bưởi cỡ trung bình cung cấp khoảng:

 -200 calori

-39mg sinh tố C

-4,500 IU sinh tố A

-325mg kali

-40mg calci

-50mg phosphore

-25mcg folate

-1mg sắt

-1g chất xơ hòa tan pectin.

 Loại bưởi mầu đỏ và hồng còn có thêm beta carotene, một chất chống oxy hóa mà cơ thể sẽ chuyển hoá thành sinh tố A.

Bưởi có thể ăn trái hoặc vắt lấy nước. Trái bưởi cắt đôi rồi xúc ăn bằng thìa hoặc bóc vỏ ăn từng múi.

 Cất giữ bưởi

Bưởi có thể để ngoài phòng ít ngày cho thêm chín rồi cất trong tủ lạnh.

Nước bưởi cần được chứa trong bình thủy tinh, cất trong tủ lạnh. Nên đổ nước bưởi đầy gần nắp bình để tránh bị oxy hóa, làm mất sinh tố C.

Khi mua, lựa trái bưởi chắc, nặng, vỏ nhẵn thín, mỏng thì mới nhiều nước. Thường thường bưởi có vỏ mầu vàng, nhưng nếu hơi xanh thì nước ngọt hơn.

Tránh trái bưởi mà vỏ phồng lên, nhẹ tều vì ruột khô teo, không có nước.

 Ích lợi cho sức khỏe

Bưởi vừa là loại trái cây được nhiều người ưa thích, vừa có tác dụng trong việc phòng bệnh và đôi khi chữa bệnh nữa.

1.Trước hết, bưởi là nguồn cung cấp sinh tố C rất phong phú mà sinh tố này có nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe.

 Kết quả nhiều nghiên cứu cho biết sinh tố C

- tăng cường hệ thống miễn nhiễm giảm rủi ro cảm cúm do nhiễm vi khuẩn, virus;

-là chất chống oxy hóa rất mạnh, giúp làm chậm sự hóa già và tổn thương của tế bào;

-giảm cholesterol nhờ đó ít nguy cơ bệnh tim mạch.

-giúp cơ thể hấp thụ nhiều chất sắt,

-làm vết thương mau lành

-tránh khỏi bệnh hoại huyết vì thiếu sinh tố này.

 2.Những trái bưởi có màu hồng hoặc đỏ là nhờ có chất lycopene, thuộc nhóm carotenoid.

Lycopene làm giảm nguy cơ cơn suy tim (heart attack) và ung thư nhiếp tuyến.

 3.Nhiều nghiên cứu cho biết ăn bưởi trái tim sẽ tốt hơn, cholesterol xuống thấp, làm giảm nguy cơ ung thư, tránh được các bệnh nghẽn tắc động mạch.

Thực vậy, bưởi có nhiều chất xơ hòa tan pectin. Mà các chất xơ thì có công dụng làm giảm cholesterol trong máu, do đó làm giảm nguy cơ vữa xơ động mạch.

Nhiều nghiên cứu cho thấy chất pectin còn công hiệu hơn thuốc  cholestyramine vẫn được dùng để làm giảm cholesterol trong máu.

Bác sĩ James Ceda quan sát một nhóm người ăn bưởi đều dặn mỗi ngày thì thấy cholesterol giảm xuống tới 8%.

 4. Bưởi với ung thư

Kết quả nghiên cứu ở Hà Lan cho hay bưởi giảm nguy cơ ung thư bao tử, còn kết quả bên Thụy Điển nói bưởi giảm nguy cơ ung thư tụy tạng.

Các nhà nghiên cứu tại Đại học Harvard theo dõi sự dinh dưỡng của hơn 48,000 bác sĩ và nhân viên y tế, thấy rằng những người tiêu thụ thực phẩm có nhiều lycopene sẽ giảm nguy cơ bị ung thư nhiếp tuyến tới 50%. Lycopene có rất nhiều trong bưởi.

Ngoài ra, các hóa chất khác trong bưởi như phenolic acid, limonoid, bioflavonoid cũng có tác dụng ức chế với sự tăng trưởng của tế bào ung thư.

 5.Nhiều người bị đau nhức khớp xương, ăn bưởi thấy như bớt đau, có lẽ là nhờ bưởi có những phytochemical ngăn chặn chất prostaglandins làm viêm khớp xương

 6. Bưởi là món ăn được những người muốn giảm cân ưa chuộng.

Có người sáng dậy điểm tâm bằng một trái bưởi, rồi ăn trưa cũng bưởi để “giữ eo”. Lý do là đã có một phong trào cổ võ bưởi có khả năng đặc biệt tiêu hủy những tảng mỡ béo ở vòng số 2, số 3. Đây có lẽ là một thông tin hơi phóng đại, vì không có thực phẩm nào có thể làm tiêu mỡ béo.

Tuy nhiên, vì có ít năng lượng và nhiều chất xơ, ăn nửa trái bưởi đã gần no bụng, nên chỉ có thể ăn thêm được một ít thức ăn khác, nhờ đó mà không mập.

Nước hạt bưởi được giới thiệu như có chứa một chất kháng sinh, trị vi khuẩn và nấm. Đó là kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Sakamato.S Maitani vào năm 1996 và nhiều nghiên cứu khác tại Ba Tây, Áo, Viện Pasteur Paris.

Các cụ ta lấy lá bưởi đun sôi để xông, tắm làm giảm nhẹ các khó chịu của cảm lạnh nhức đầu..

Dân gian dùng hạt bưởi đốt cháy thành than, nghiền nhỏ để chữa nhiễm trùng chốc đầu ở trẻ em.
 
Tương tác giữa bưởi và dược phẩm

Bưởi có tương tác khá mạnh đối với một số dược phẩm thường dùng. Nước bưởi ngăn cản tác dụng chuyển hóa và hấp thụ dược phẩm của một loại enzyme trong ruột, khiến cho hàm lượng thuốc lên cao, đôi khi gây ra tác dụng phụ có hại.

Tương tác này đã được biết tới từ lâu nhưng nhiều khi bệnh nhân và ngay cả bác sĩ cũng quên hoặc không để ý tới. Do đó, cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ đã yêu cầu các nhà bào chế phải ghi rõ lời báo động tương tác này trong phần giới thiệu các loại thuốc mới ra đời.

 Các dược phẩm sau đây có thể có tương tác với bưởi:

-Thuốc chữa cao cholesterol như Lipitor (Atorvastin), Zocor (Simvastin), Mecavor (Lovastin), Baycol (Cerivastatin)

-Thuốc hạ huyết áp Plendil (Felodipine), Sular (Nisoldipine), Adalat, Procardia (nifedipine), Nimotp (nimodipine)..

-Thuốc trị tâm bệnh Buspar (Buspirone), Halcion (Triazolam), Tegretol (Carbamapezine), Valium (Diazepam), Zoloft (Sertraline), Anafranil (clomipramine)

-Thuốc trị nhiễm HIV Invirase (Saquinavir), Crivivan (indinavir)

-Kháng sinh clarithromycin, erythromycin

-Thuốc trị giun sán albendazole

-Thuốc trị loạn cương dương Viagra.

Nếu đang dùng các dược phẩm kể trên, không nên ăn hoặc uống nước bưởi, ngoại trừ khi  có sự đồng ý của bác sĩ. Cũng không nên đợi 24 giờ sau khi ăn bưởi rồi mới uống thuốc, vì tương tác vẫn xảy ra.

Kết luận

Xin bà con đừng vội vàng liệng bỏ những trái bưởi mọng ngọt tràn đầy dinh dưỡng, những ly nước bưởi mát lạnh, thơm ngon.

Và cũng cần sáng suốt trước kết quả một vài nghiên cứu về một vấn đề sức khỏe, bệnh tật nào đó.

Kết quả một nghiên cứu đầu tiên bao giờ cũng là tin “nóng hổi”, “sốt dẻo”, gây nhiều chú ý, nhưng kết quả này chưa phải là kết luận chung của y khoa học.

Thông thường, các nghiên cứu khoa học đều được thực hiện một cách nghiêm túc, trải qua nhiều giai đoạn với nhiều thử thách, kiểm chứng trước khi kết luận.

Cho nên nếu chỉ mới là kết quả của một vài nghiên cứu, thì xin hãy bình tâm, không nên hoảng hốt.

Ta cứ từ từ theo dõi và từ từ tiếp tục “vừa phải” thói quen tốt đang có. Chờ tới khi các giới chức hữu trách có thẩm quyền “dóng triện son” phán quyết tốt- xấu rồi hãy đáp ứng ngay, xét ra có lẽ cũng chưa đến nỗi muộn.



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 17/Sep/2010 lúc 5:31am
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23729
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Sep/2010 lúc 5:01am
Câu Chuyện Thầy Lang: Món Cá Quê Hương
Tác Giả : Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D./Texas- Hoa Kỳ   
Thứ Sáu, 17 Tháng 9 Năm 2010 10:26

Ngày xưa, những món cá quê hương lưới bắt bắt được từ đầm, ao, sông lạch của quê hương ta rất nhiều mà cũng rất hấp dẫn.

 Cá kho nhừ trong nồi đất, chả cá Lã Vọng, Sơn Hải, cá nấu giấm, nấu canh chua, lẩu cá, gỏi cá lá mơ, cá lẩu, cá rút xương, canh chua, cá kho tộ... là những món ăn đặc biệt ngon lành, bổ dưỡng, dễ tiêu mà giá cả phải chăng. Hiếm hoi hơn còn có các món cá chình, cá anh vũ , cá song, cá măng, bông lau, cá vượt...

 
 
Ngày nay, người ta còn chế ra nhiều món ăn từ cá rất hấp dẫn, nhưng đôi khi chỉ hợp khẩu vị một số người...
“Có cá đổ vạ cho cơm”, các cụ ta vẫn thường nói vậy vì với món cá ngon, cơm ăn bao nhiêu cũng hết, nhất là với gạo tám xoan Hải Hậu thơm phứchoặc gạo ba giăng tháng 10 mềm dẻo.

 Miền Nam có cá lóc chà bông, cá chạch kho nghệ, cá chẽm chưng tương hột hoặc chiên giòn, cá chốt kho, cá bống sao kho sả ớt, cá bống dừa Gò Công kho tiêu...
 Miệt sông rạch Gò Công, Tiền Giang có loại cá bống dừa, sống trong rừng dừa nước, to bằng cổ tay, thịt dẻo và ngọt. Cá này mà kho sả ớt, kho tiêu, nấu canh với lá bồ ngót, mướp hương thì ăn một lần cầm chắc khó quên.

Cũng họ cá bống, còn cá bống mú, bống vượng, bống cát, bống trứng, bống xèo, bống nhẩy cũng đều rất ngon. Món bún cá lóc đồng Kiên Giang  rất nổi tiếng.
Đặc sản miền Trung như cá sứt mũi sông Chu Bái Thượng nấu với dưa cải sen núi Mục hoặc canh chua thập cẩm với cúc tần, cần trắng, cà chua, khế, tiêu; cá chép gói lá chuối lùi trấu nóng; cá chép nấu hoa cúc đại; cá ngứa chiên giòn; cá vượt nấu canh chua...
Cố đô Huế còn nổi tiếng với năm món canh cá: thác lác nấu hành lá, rau mùi; cá thệ nấu dứa; cá ngạnh nấu măng chua; cá tràu nấu với mít và cá lúi nấu khế; cá sứt mũi sông Chu nấu canh chua với dưa cải sen núi Mục của miền Trung.
Miền Bắc cũng có nhiều món cá như hai miền kia nhưng nổi tiếng là cá rô Đầm Sét ở ngoại thành Hà Nội rán chìm trong mỡ; cá chắm đen kho ngũ vị, gừng ở Nam Định; cháo cá quả Hà Nội.
Cá rô Đầm Sét đã đi vào văn hóa dân gian với câu: “ Vải Quang, Húng Láng, Ngổ Đầm; cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây” .
Ngoài ra còn có “cá rô làng Cháy, cá gáy làng Chờ” cũng  được văn học dân gian ghi nhận.
Cá rô mùa gặt lúa mà mang vùi chín trong đống lửa trấu hay rán mỡ sôi trăm độ rồi ăn với cơm gạo mới thì bao nhiêu cơm cũng thiếu!
Nhà văn Văn Quang đã tả món cháo ám gia truyền với cá lóc, cá quả mà chỉ nghe thôi đã thấy thèm thèm. Tiết trời lành lạnh Hà Nội mà ăn bát bún cá quả nấu với rau cần tháng Giêng thì chẳng ai chịu ngưng ở một bát.
Cũng không quên những con cá được ướp khô để dành từ mùa này sang mùa khác. Vào một tối mùa Đông, ngoài trời gió lạnh, quây quần bên bếp lửa than hồng mà nướng những con khô mực, khô ổi, khô kèo… nhâm nhi với nước mắm me thêm vài nhánh tỏi, lát ớt thì tưởng như chuyện xưa kể mãi không chán.

Cá đi vào văn học dân gian.
Là một thực phẩm phổ thông, ưa thích nên cá đã đi vào thi ca dân gian mình với những câu trữ tình, lãng mạn, mang đậm bản sắc, tình tự quê hương.
Phận làm dâu làm vợ thì:
Chai rượu miếng trầu em hầu Tía, Má
Nấu tô bún cá đặng lấy lòng anh.
Hoặc:
“Đốt than nướng cá cho vàng;
Lấy tiền mua rượu cho chàng nhậu  chơi”

“Cá chọn nơi sâu, người tìm chỗ tốt ”,
Ý nói trong đời sống ai cũng chọn nơi có điều kiện thuận tiện để sống.

“Cá chuối đắm đuối vì con”
Ý nói cha mẹ chịu nhiều khổ đau, vất vả để gây dựng cho con cái.

“Cá đối bằng đầu”
Nhắc nhở con người phải biết cư xử phân biệt, thích hợp với vai vế trong gia đình, xã hội, phải biết kính trên nhường dưới, đừng  “cá mè một lứa”, xem ai cũng như ai.

“Cá nhẩy, ốc cũng nhẩy”,
hay:
 “Voi đú, chó đú chuột chù cũng nhẩy”.
Ý nói không nên đua đòi theo kẻ khác mà đi ngược với bản chất hoặc vượt quá khả năng hiện có của mình.

“Cá ngoi mặt nước là trời sắp mưa”
Đây là kinh nghiệm quan sát thời tiết của dân gian, khi sắp mưa khí trời thường oi bức, dưỡng khí trong nước giảm, cá phải ngoi lên để đớp không khí.

“Cá vàng, bụng bọ”
Ý nói bề ngoài hào nhoáng bên trong xấu xa, và không nên đánh giá con người hay sự vật qua vẻ bên ngoài. Khác chi câu nói của một anh sĩ diện hão:

“Ra ngoài bộ mặt vênh vang
Về nhà hỏi vợ cám rang đâu mình”
“Cá vào tay ai nấy bắt”,
Ý nói mối lợi ngẫu nhiên đến với ai thì người đó chiếm giữ.

Cá cháy vàm Trà Ôn đã được ghép chung với hai món ăn ngon quý của người phong lưu:
 “Sáng ngày bồ dục chấm chanh,
Trưa gỏi cá Cháy, tối canh cá Chầy”

Và dưới đây là một số câu ca dao về các món cá trong dân gian, hoặc đôi khi mượn hình tượng con cá để truyền lại kinh nghiệm, ví von hay câu răn đời:
“Cá nục nấu với dưa hồng;
 Lờ đờ có kẻ mất chồng như chơi”

*“Canh bún mà nấu cá Rô;
Bà xơi hết thẩy mấy tô hỡi bà”!

*“ Con cá cơm thơm hơn con cá bẹ;
Bởi mê nước mắm Hòn, em bỏ mẹ theo anh”

*“Chim mía Xuân Phổ; Cá bống Sông Trà”.

*“Đập con cá lóc nướng trui;
Làm mâm rượu trắng, đãi người phương xa”

*“Đắt cá còn hơn rẻ thịt”

*“Đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm”

*“Điên điển mà đem muối dưa;
 Ăn cặp cá nướng, đến vua cũng thèm”

*“Kèo nèo mà lại làm chua;
Ăn với cá rán chẳng thua món nào”

*“Một con cá trích cắn ngang;
Mắm tôm quệt ngược, tan hoang cửa nhà”

*“Mùa Hè cá sông, mùa Đông cá ao”

*“Rau đắng nấu với cá trê;
Ai đi Lục Tỉnh thì mê không về”

*Ai về Rạch Giá, Kiên Giang
Ăn tô bún cá chứa chan tình người.

*Ai về nhắn với nậu nguồn
Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Sep/2010 lúc 5:14am
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23729
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 22/Sep/2010 lúc 5:26am
Đau Tim & Tự Cứu
Saigon Echo sưu tầm
           

Kể cả người  trẻ  25-30 tuổi  

nếu bị cơn đau tim & chỉ có 1 mình, thì chỉ có 10 giây, để tự cấp cứu,  

     kẻo bị hôn mê & rồi sẽ chết luôn, hoặc tệ hơn nữa, sẽ mang tật nguyền.


    Cơn đau tim (Heart attack, Crise cardiaque) : 

     bất ngờ cơn đau  như kim nhọn đâm vào tim, cái đau lan ra cánh tay trái và bên trái cổ.

 

   Tự Cấp Cứu :

- gọi y tế cấp cứu

     - hít hơi thở sâu để lấy nhiều oxy, ho mạnh như để tống đờm ra

- lập lại nhiều lần đến khi hết đau

 

   Phòng  Ngừa :

 

              Ai cũng nên uống hàng ngày ASPIRINE liều lượng trẻ con 100 mg,

kể cả người khoẻ mạnh

Xin phổ biến rộng rãi những hướng dẫn đơn sơ nầy.

STROKE :
Remember The 1st Three Letters ...
S.T.R.

   



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 22/Sep/2010 lúc 5:26am
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2010 lúc 5:33am
Hợp chất Resveratrol trong rượu vang đỏ rất có lợi cho sức khỏe
Saigon Echo sưu tầm
 

Lợi ích của đồ uống có cồn đều gắn với liều lượng. Ở mức thấp đến mức vừa phải – đặc biệt là đối với rượu vang đỏ - sẽ giúp giảm mọi nguyên nhân gây tử vong. Trong khi đó nếu uống quá nhiều sẽ khiến nhiều cơ quan bị tổn hại.

Một bài viết tổng hợp các phát hiện gần đây về chất polyphenol của rượu vang đỏ, đặc biệt là chất resveratrol, sẽ được công bố trên số ra tháng 9 với tiêu đề Tác hại của rượu: Các nghiên cứu thử nghiệm và lâm sáng, bài báo cũng được đăng tải trên Early View.

Lindsay Brown – phó giáo sư tại Trường Khoa học Y sinh học thuộc Đại học Queensland đồng thời là tác giả phản hồi của nghiên cứu – cho biết: “Các bài viết về lợi ích của rượu vang đỏ đều đã có gần 2 thập kỷ nay. Phương tiện truyền thông đại chúng đã tạo nên một câu chuyện gần gũi hơn về nghịch lý nước Pháp vào đầu những năm 1990. Tuy nhiên các nghiên cứu về tác động của resveratrol – một trong những thành phần hoạt tính – đều không được biết tới cho đến khi nghiên cứu tiến hành vào năm 1997 cho thấy nó có tác dụng phòng ngừa ung thư. Điều này đã làm nảy sinh mối quan tâm lớn đối với hợp chất này”.

Rượu vang đỏ có chứa một hỗn hợp phức tạp các hợp chất hoạt tính sinh học, trong đó có flavonol, monomeric và polymeric flavan-3-ols, anthocyanins, axit phenolic và resveratrol. Brown cho biết một vài trong số các hợp chất kể trên, đặc biệt là resveratrol, có lợi cho sức khỏe.

Bà Brown cho biết: “Lợi ích của nó rất đáng kể, giúp phòng ngừa ung thư, bảo vệ tim và não, giảm các bệnh liên quan đến tuổi tác ví dụ như chứng sưng viêm, tiểu đường, béo phì và nhiều bệnh khác. Từ lâu người ta đã đặt ra câu hỏi tại sao một hợp chất đơn giản như thế lại có những hiệu quả to lớn này nhưng câu trả lời đang dần hiện rõ cùng với khám phá về con đường mà họ enzyme sirtuin áp dụng để điều tiết quá trình sản xuất các thành phần tế bào thông qua nhân. Có phải resveratrol là hợp chất duy nhất có mang những đặc điểm này? Dường như không hẳn thế. Các hợp chất khác trong rượu vang và các sản phẩm tự nhiên như curcumin cũng có tác động tương tự. Tuy nhiên chúng ta biết đến resveratrol nhiều hơn các hợp chất khác”.

Stephen Taylor – giáo sư khoa dược lý thuộc Đại học Queensland – đồng tình rằng resveratrol là “hợp chất của ngày”. Ông nói: “Tôi nghĩ rằng rượu vang đỏ vừa mang tính thần bí vừa là biểu trưng lịch sử ở phương tây. Tất nhiên một số thú vui phải gắn liền với việc uống rượu vang, tất cả đều mang lại lợi ích về tâm lý cho con người. Không nhiều người trong số chúng ta có thể hoặc sẽ ăn một vài chén việt quất mỗi ngày trong suốt nhiều năm, nhưng nếu chúng ta thực hiện một nghiên cứu trong một thập kỷ thì sẽ thấy chúng có tác động tương đương.”

Các đặc điểm chính trong bài tổng hợp bao gồm:

Resveratrol có tiềm năng liệu pháp đối với việc phòng ngừa ung thư cũng như bảo vệ tim mạch.

Brown nói: “Nghe có vẻ mâu thuẫn khi nói rằng một hợp chất cũng có thể bảo vệ tim bằng cách ngăn tế bào bị tổn hại, thế nhưng lại phòng ngừa ung thư bằng cách khiến tế bào chết. Lời giải thích phù hợp nhất cho nó vẫn đang được nghiên cứu chứng minh ở nhiều cơ quan nội tạng. Nồng độ thấp đã kích hoạt các cơ chế tồn tại của tế bào trong khi đó nồng độ cao lại bật tín hiệu tự hủy cho những tế bào này.

Resveratrol hỗ trợ phòng ngừa các chứng rối loạn liên quan đến tuổi tác, ví dụ như các bệnh về trí nhớ, sưng viêm, tiểu đường và bệnh tim mạch.

Theo bà Brown, “lời giải thích đơn giản nhất là resveratrol bật tín hiệu cho đường tồn tại của tế bào, phòng ngừa tổn hại cho tế bào. Các biện pháp mới sẽ hỗ trợ cho resveratrol, bao gồm việc loại bỏ chất ôxi hóa phản ứng trong cơ thể và tăng cường cung cấp máu cho tế bào”.

Liều resveratrol thấp có thể tăng khả năng sống sót cho tế bào, đây là một cách để bảo vệ thần kinh cũng như tim mạch; trong khi đó liều lượng cao lại khiến tế bào tử vong.

“Sự khác biệt mấu chốt có lẽ là kết quả của việc kích hoạt họ enzym sirtuin trong nhân. Kích hoạt ở mức thấp sẽ đảo ngược các biến đổi liên quan đến tuổi tác, trong khi đó kích hoạt ở mức cao lại đẩy mạnh quả trình tế bào tự hủy theo chu kì. Những biến đổi tương tự cũng quan sát thấy ở việc sử dụng resveratrol liều thấp và liều cao: liều thấp giúp bảo vệ tế bào, giảm tổn hại; còn liều cao ngăn ngừa ung thư”.

Các nghiên cứu khoa học hiện đại cũng đang bắt đầu giải thích những báo cáo trong vòng 200 năm qua rằng uống rượu vang cải thiện sức khỏe. “Có câu nói rằng: tự nhiên là kho tàng hợp chất, nhưng nghiên cứu với resveratrol đã chứng minh rằng nó đúng. Chúng ta cần phải hiểu sâu hơn về các loại hợp chất tồn tại trong tự nhiên cũng như phải xác định tiềm năng của chúng đối với sức khỏe”.

Taylor thêm rằng: “Có một điểm đặc biệt cần phải bổ sung. Resveratrol bị khử phần lớn hoạt tính bởi ruột hoặc gan trước khi nó đến được mạch máu, tại đó nó mới phát huy công dụng. Do vậy, phần lớn resveratrol có trong rượu vang uống không đến được với hệ tuần hoàn. Thú vị là sự hấp thụ qua màng nhầy trong miệng có thể mạnh hơn tới gần 100 lần so với mức độ của máu nếu chúng ta nhâm nhi từ từ chứ không uống ừng ực. Tất nhiên là chúng ta chưa chắc chắn cách uống có quan trọng hay không nhưng những vấn đề như thế này hoàn toàn là có thật trong khi phần lớn chúng ta lại thờ ơ”.



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 25/Sep/2010 lúc 5:34am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23729
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Sep/2010 lúc 5:57am
Trong gạch cua có hàm lượng Cholesterol rất cao.
01. Kỵ ăn cua chết 
Trong cơ thể cua có chứa nhiều thành phần hoá học mang tên histidine (có công thức phân tử C3H3N2CH2 (NH2)CO2H).

Cua sau khi bị chết, các loại vi khuẩn liền phồn thực rất mạnh trong cơ thể cua, khiến histidine nhanh chóng chuyển hoá thành histamine (công thức phân tử C3H3N2H4 NH2) gây độc đối với cơ thể người.

Đặc biệt là cua chết càng lâu thì lượng histamine sinh ra càng nhiều, khi ta ăn vào càng dễ bị ngộ độc. Bởi vậy, một khi cua đã chết (dù là cua bể to rất đắt) phải kiên quyết loại bỏ, không tiếc rẻ !
 
02. Kỵ ăn cua đã luộc, nấu chín nhưng để đã lâu

Thịt cua để lâu rất dễ bị ôi thiu, ô nhiễm do vi khuẩn xâm nhập vì vậy, với cua nên chế biến đến đâu ăn hết đến đó.
Nếu thực sự xài không hết, phần dư nên bảo quản trong tủ lạnh, hoặc để nơi thoáng đãng, sạch sẽ, và nên nhớ trước khi ăn phải đun nấu lại thật kỹ.
 
03. Kỵ ăn cua sống

Bởi trong thịt cua sống có chứa nang trùng “lungfluke” (trùng hút máu phổi, còn gọi là đỉa phổi), nếu không qua khử trùng tiêu độc ở nhiệt độ cao mà ăn sống ăn tái kiểu “gỏi cua” sẽ rất dễ mắc bệnh “đỉa phổi”.

Loại lungfluke ký sinh trong phổi, không những kích thích hoặc phá hoại các tổ chức phổi, dẫn tới ho, khạc ra máu, mà còn có thể xâm nhập lên não, dẫn tới chứng co giật, thậm chí gây bại liệt.

Nếu lungfluke xâm nhập các khí quan như mắt, thận, gan, tim, tuỷ sống … còn dẫn tới các hậu quả nghiêm trọng hơn. Bởi vậy cua phải nấu thật chín mới được ăn, phải qua đun sôi tối thiểu 20 - 30 phút.
 
04. Không ăn « bọng hoi » (dạ dầy) của cua
Bởi trong có chứa nhiều loài vi khuẩn gây bệnh và tạp chất có độc.
 
05. Người bị dị ứng phải hết sức cẩn trọng khi ăn cua
 
06. Tuyệt đối không ăn cua kèm quả hồng
Bởi chất tannin chứa trong quả hồng sẽ kết hợp với chất protein trong thịt cua, sẽ gây nên các triệu chứng như lợm giọng, nôn ói, đau bụng, tiêu chảy …
 
07. Người tỳ vị hư hàn không nên ăn cua

Cua tính hàn, dễ gây đau bụng, tiêu chảy. Bởi vậy, với người tỳ vị hư hàn không nên ăn nhiều cua, nếu ăn mà xuất hiện các triệu chứng trên, có thể dùng bài thuốc tía tô (15g) phối hợp với sinh khương (gừng tươi) 5 - 6 lát, đổ nước ninh kỹ, uống nóng ấm sẽ “cầm” ngay.
 
08. Với người đang mắc các chứng bệnh như sỏi mật
, viêm túi mật, viêm dạ dầy mạn tính, viêm loét hành tá tràng, viêm gan không nên ăn cua.
 

09. Với người bệnh tim (động mạch vành),
cao huyết áp, xơ vữa động mạch, mỡ máu cao … kỵ ăn gạch cua, vì trong gạch cua có hàm lượng Cholesterol cực cao, ăn vào sẽ làm bệnh càng trầm trọng.
 
10. Với người mắc chứng thương phong (cảm cúm),
phát sốt, đau dạ dầy … cũng kiêng ăn cua



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 30/Sep/2010 lúc 6:06am
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 189 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.695 seconds.