Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: Truyện ngắn -Tùy bút chọn lọc Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 14 phần sau >>
Người gởi Nội dung
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 14/Mar/2012 lúc 10:06pm

Nợ Tình Một Món Trứng Chiên
(03/10/2012) 
Tác giả : Thái NC


Tác giả đã góp cho Viết Về Nước Mỹ năm thứ 12 nhiều bài viết đặc biệt. Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biên đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA cùng gia đình. Bài mới của Thái là một chuyện tình về món bột chiên ngon nhất thế giới.


*


Trước đây, tôi là một Hướng Đạo sinh.

Nhớ lại ngày đó, mỗi sáng Chủ Nhật mặc vô bộ đồng phục Hướng Đạo, cài cây gậy vào xe, tôi náo nức đạp thẳng một mách tới vườn Tao Đàn để họp đoàn. Cuộc đời và sinh hoạt hào hứng của đoàn thể HĐ, tôi hẹn các bạn trong một bài khác. Hôm nay, tôi muốn nói đến một lý do khác, không Hướng Đạo chút xíu nào hết, nhưng cũng khiến tôi rất háo hức mỗi sáng Chủ Nhật đạp xe đến vườn Tao Đàn: Bột Chiên.
Bạn có biết ở vườn Tao Đàn có một xe bán bột chiên ngon nhất thế giới của ông Tàu già không? Những ngày khác ông bán ở đâu không rõ, nhưng mỗi Chủ Nhật là ông có một chỗ cố định trong vườn Tao Đàn bán cho những Hướng Đạo sinh sinh hoạt chung quanh. Xui làm sao, chỗ ông bán kế bên chỗ tôi họp đoàn. Cho nên, duyên tình định mệnh của tôi cũng bắt đầu từ đó.
Chỉ có hai giá tiền ở xe bột chiên này: $50 cho loại đĩa có trứng và $30 cho đĩa không trứng, nhưng bột chiên thì nhiều bằng nhau. Mỗi sáng Chủ Nhật đi họp, tôi được 30 đồng ăn sáng, tức là vừa vặn một đĩa bột chiên không trứng. Tôi chưa bao giờ sang đủ để kêu một đĩa bột chiên có trứng mặc dù cũng thèm lắm. Thỉnh thoảng tôi cũng giầu đủ 50 đồng để ăn trứng đó chớ, nhưng mà mỗi lần như vậy tôi đều ráng kiếm …10 đồng nữa để chơi luôn hai đĩa không trứng cho nó sướng cái bụng. Cho nên, nếu không nhờ một biến cố xảy ra trong đời, thì không biết đến chừng nào tôi mới biết bột chiên có trứng nó khác với bột chiên không trứng thế nào.
Xe bột chiên ngon như vầy dĩ nhiên là đắt. Khi nào cũng có người ăn và kẻ chờ. Vấn đề là ông Tàu chỉ có thể xếp khoảng gần chục cái ghế nhỏ chung quanh xe. Không đủ. Lâu lâu tôi cũng phải đứng chờ. Tôi để ý có một cô bé nữ Hướng Đạo cái đoàn bên cạnh hình như tuần nào cũng qua ăn bột chiên. Ô không, bạn đừng có nghĩ…xa quá oan uổng cho tôi lắm. Lúc đó tôi chưa biết yêu đâu. Tôi còn nhỏ, mà ả Hướng Đạo này xem ra còn nhỏ hơn tôi nữa. Nó ốm toong, tóc thắt đuôi gà, và hình như…hơi đen (sau này lớn lên tôi mới biết chữ da bánh mật!). Vậy đó, nó không có gì đặc biệt. Nhưng tôi lại để ý đến “nó” vì tôi… ganh.
Không hiểu nó có bà con họ hàng gì với ông Tàu bán bột chiên hay không. Tôi thấy, người khác tới mà hết ghế thì phải đứng chờ, nhưng hễ nó bị hết ghế là ông…hóa phép lấy ra một cái ghế khác từ trong xe ra. Bất công thiệt, nhưng tôi không dám giận ông, chỉ dám…giận nó mà thôi.
Còn nữa nhe. Như đã nói, tôi bao giờ cũng chỉ ăn đĩa không trứng, nhưng con nhỏ này bao giờ cũng ăn đĩa… có trứng. Nó đâu cần kêu. Chỉ cần tới ngồi xuống là ông Tàu tự động làm một đĩa có trứng bưng ra. Xíí! Nhưng điều làm tôi tức tối nhứt là mỗi lần ngồi bên cạnh thấy nó ăn không hết, bột hay trứng gì nó cũng để lại, và ông Tàu cho vô giỏ rác hết. Ôi thiệt là phí của trời. Phải gặp tôi, hừ hừ Phải gặp tôi thì…không còn một cọng hành chứ đừng nói chi bột hay trứng. Vậy là từ “giận”, tôi đâm ra “ghét” nó dễ sợ.
Một bữa kia tôi ăn xong đĩa bột chiên nhưng còn luyến tiếc, ngồi nhâm nhi ly trà nhạt chưa chịu đứng dậy thì …“nó” tới.
Như thường lệ, ông Tàu làm nó một đĩa bột chiên có trứng. Tôi liếc sang mà tức cành hông. Ông Tàu này quả là bất công. Tôi bự con như vầy mà ổng chỉ cho tôi một đĩa chút xíu. Trong khi con bé ốm toong thấp lè tè này ổng lại làm một đĩa thiệt bự.
Tôi ngồi mà ngao ngán cho tình đời đen bạc. Chưa biết phải làm gì. Bỗng nhiên nó quay sang nhìn cái đĩa bóng loáng không một miếng hành của tôi nhoẽn miệng cười hỏi
-Muốn ăn miếng trứng của tui hông?
Ô! Tôi có nghe lộn không? Sợ mình lãng tai nên giả bộ không nghe. Nó lấy đôi đũa chỉ vào miếng trứng vàng óng ánh nói lần nữa, vẫn cái giọng trống không
-Ăn miếng trứng này nhe?
Lần này thì nghe đã rõ ràng. Các bạn ơi, trong mấy giây, tôi biết là trong đầu tôi suy nghĩ đấu tranh tư tưởng dữõ dội lắm. Không biết tôi suy nghĩ được những gì, và đã ôn được bao nhiêu bài công dân giáo dục về phép tự trọng, nghèo cho sạch rách cho thơm… Chỉ biết cái đầu tôi suy nghĩ gì mặc kệ nó. Cái cổ của tôi ngoan ngoãn …gật cái cụp. Nó lấy muổng xúc nguyên miếng trứng bỏ sang đĩa tôi. Chưa hết, lại còn sớt gần nửa đĩa bột chiên của nó sang bên tôi luôn.
Và đó là lần đầu tiên tôi biết mùi vị của bột chiên có trứng.
(Tôi quên không biết mình có nhớ mà cám ơn hay không ha? Hic!)

Tuần sau tôi không dám tới ăn xe bột chiên đó nữa. Sợ gặp lại nó chắc tôi sẽ mắc cỡ lắm. Không quen, không biết, người ta mới mở lời là OK cái rụp. Thiệt tình xấu hồ ghê. Tôi định bụng sẽ có đủ 50 đồng mua một đĩa có trứng trả lại. Trong lúc chưa trả được thì đành tạm lánh mặt vậy.
Tôi tạm lánh mặt, nhưng vẫn kín đáo để ý nó bởi vì cũng đâu cách trở xa xôi gì cho cam. Chỉ qua một cái xe bột chiên. Tôi họp bên phải, nó họp bên trái. Nên tôi dễ dàng thấy nó vẫn tới ăn bột chiên như thường lệ. Chỉ khác là mỗi lần tới, trước khi ngồi xuống ghế nó đều nhìn dáo giác chung quanh như tìm kiếm ai thì phải (!)
Rồi nhiều chuyện xảy ra lắm. Đoàn của tôi rời vườn Tao Đàn di chuyển chỗ họp lên công viên trước mặt Dinh Độc Lập, rồi 30/4, Hướng Đạo bị ngưng hoạt động. Tôi trôi nổi đời mình theo vận nước. Không có dịp gặp lại cô ả Hướng Đạo đó để mà trả lại món nợ trứng chiên…

*

Một hôm, tôi ngồi chơi và không hiểu sao bỗng hát nghêu ngao như vầy: “Anh em ta, mau cố chất cây khô vào đây, đốt chung. Đêm khuya nghe tiếng tí tách cây khô nổ vang giữa rừng…”. Chưa kịp hát tiếp, bỗng đâu đó một giọng ca ỏn ẻn vang lên tiếp lời “…dang tay nhau đứng vòng quanh lửa hồng, trong bóng đêm khói đưa bốc cao, cùng cầm tay hát vang lừng …”
Ai?
Ai mà có thể biết được bài hát này?
Bà xã chứ ai!
Tôi như trên trời rớt xuống. Sao nàng biết được bài này? Đây là bài ca Nhảy Lửa của Hướng Đạo Việt Nam và dĩ nhiên chỉ có những người từng là Hướng Đạo sinh, từng tham gia trại đêm mới biết. Nàng nhớ và hát một cách rành rỏi như vậy thì chứng tỏ đã nhiều lần tham dự lửa trại, và là một Hướng Đạo sinh kỳ cựu. Tôi ngạc nhiên quá:
-Sao em biết?
Nàng nhún vai:
-Well, why not? Bài này ai đi Hướng Đạo cũng biết mà.
-Vậy em cũng là Hướng Đạo? Sao không nói?
-Có bao giờ hỏi đâu mà nói! Nàng nguýt.
Ờ nhỉ. Sống với nhau gần ba năm. Thằng con đầu đã gần 2 tuổi, đây là lần đầu tôi nghe nàng ư ử ca, mà lại một bài ca Hướng Đạo mới hay chứ. Thôi kệ, trễ còn hơn không. Tôi dã lã hỏi
-Vậy hồi đó em họp ở đâu?
-Vườn Tao Đàn chứ đâu.
Hay nhỉ!
- Vườn Tao Đàn mà khúc nào?
Nàng ngưng dọn dẹp, suy nghĩ một hồi rồi lắc đầu:
-Vườn Tao Đàn rộng quá khó nói khúc nào. Chỉ nhớ là tụi em thường họp bên cạnh cái xe bán bột chiên.
Tôi suýt nữa la lên. Cái xe bột chiên này thì còn lạ lùng gì. Tôi hỏi lại cho chắc ăn
-Có phải xe bột chiên của ông Tàu đầu trọc lóc không?
Nàng cười ngất
-Đúng rồi, ổng chứ ai. Anh cũng biết ổng hả? Mà hình như cả vườn Tao Đàn chỉ có một cái xe bột chiên đó thôi. Công nhận ngon hết xẩy. Tuần nào em cũng làm một diã. Mà hồi đó anh họp ở đâu?
Hừ, đâu phải ngon hết xẩy, ngon nhất thế giới mới đúng!
Nhưng bỗng nhiên tôi hơi chột dạ bèn nói trớ đi
-Hơơ anh họp cách đó xa lắm, lâu lâu mới lại ăn bột chiên vậy thôi.
Nàng chậc lưỡi
-Uổng quá ha. Phải chi hồi đó anh họp đâu đâu gần đó là tụi mình đã gặp nhau rồi.
Tôi chịu không nổi nữa hồi hộp hỏi
-Em nhớ hồi đó ăn bột chiên có khi nào cho một thằng Hướng Đạo khác ngồi ăn bên cạnh miếng trứng không?
Nàng phá ra cười nắc nẻ
- Có chớ! Có chớ. Tức cười lắm anh. Em nhớ hồi đó tuần nào cũng ngồi ăn với một thằng ở cái đoàn bên cạnh. Tội nghiệp. Nhà nó chắc nghèo lắm cho nên nó chỉ ăn bột chiên không trứng mà thôi. Có bữa em thấy “thằng nhỏ” ăn rồi mà còn thòm thèm nhìn sang cái đĩa em hoài thấy thương ghê, em hỏi nó có muốn ăn trứng không em cho. Trời ơi anh biết sao không, nó gật đầu chịu liền đó anh. Tức cười quá… Ủa mà sao anh biết chuyện này?
Nàng ngưng lại, trợn mắt nhìn tôi mấy giây, rồi la lên
-ÁÁáááá!!!!!
. . .

Than ôi, chỉ vì thằng bé không trả nổi món nợ trứng chiên thời nhỏ mà dù đã chạy sang tới tận nước Mỹ, vẫn không thoát tay cô ả da... bánh mật.

Nợ chỉ một miếng trứng chiên mà trả cả một đời.

Thái N.C.







Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 14/Mar/2012 lúc 10:07pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 12/Apr/2012 lúc 6:31pm


Hai nửa hy sinh


Hình minh họa

Khi cô giật mình tỉnh dậy giữa đêm vì lạnh, anh thường ôm chặt cô vào lòng, dùng hơi ấm của cơ thể sưởi cho cô.

Cô vốn là một người con gái xinh đẹp. “Vệ tinh” xung quanh cô nhiều không kể xiết, nhưng cô bỏ ngoài tai tất cả để chọn anh – một công nhân làm việc ở nhà máy, thu nhập còn không đủ cho 3 bữa ăn hàng ngày. Cô chấp nhận từ bỏ cả gia đình, thậm chí là công việc đầy tương lai của mình để cưới anh.

Sau khi kết hôn, anh và cô mượn được nhà kho của một người bạn, họ sắp xếp lại thành một tổ ấm giản dị. Mùa đông đến, căn nhà kho trống trải hút gió lại càng trở nên lạnh giá. Khi ấy chưa đủ tiền mua chăn, cô thường bị giật mình tỉnh dậy giữa đêm vì lạnh. Những lúc đó, anh chỉ biết ôm chặt cô vào lòng, dùng hơi ấm của cơ thể sưởi ấm cho cô.

Một ngày cô trở về nhà với vẻ mặt thất thần nhợt nhạt, anh lo lắng hỏi cô có phải bị bệnh rồi không? Cô chỉ mỉm cười nói: “Em hơi mệt thôi!” rồi hân hoan rút từ trong túi ra một tờ bạc nhét vào tay anh: “Chúng mình có tiền rồi anh ạ, mình đi mua một chiếc chăn thật ấm để đắp nhé.” Anh sững người ngạc nhiên nhìn tờ tiền trong tay cô, giọng run run: “Làm sao em lại có nhiều tiền vậy?” Cô vui vẻ kể lại cho anh tiền là do cô kiếm được khi đi phát tờ rơi. Cô phải đứng từ sáng đến tối mới được trả ngần ấy tiền. Nói rồi cô vội vàng kéo anh ra khỏi nhà, không cho anh hỏi thêm điều gì nữa. Họ mua môt cái chăn vừa tầm tiền. Từ đó, giữa đêm cô không còn bị giật mình thức giấc nữa.

Vài năm sau, anh tìm được công việc tốt hơn, rồi kiếm được nhiều tiền, tự mở công ty. Không bao lâu anh đã xây cho cô một ngôi nhà khang trang, mua ô tô cùng rất nhiều đồ dùng đắt tiền khác. Anh nói muốn dành cho cô một cuộc sống ấm no đầy đủ bù đắp lại những tháng ngày khó khăn vất vả trước đây. Cuộc sống bỗng vụt thay đổi khiến cô có phần bàng hoàng chưa kịp thích nghi với điều kiện mới.

Ngày chuyển nhà, anh bảo những đồ đạc cũ trong căn nhà kho của họ trước đây anh đều muốn vứt đi không giữ lại bất cứ cái gì. Nhưng cô khăng khăng nói muốn giữ lại cái chăn để đắp. Và rồi một thời gian dài nữa họ vẫn dùng cái chăn cũ ấy, giờ đây nó đã trở nên xù xì cũ kĩ, còn bị rách khá nhiều chỗ. Anh không ngừng phàn nàn với cô: “Thôi bỏ cái chăn cũ này đi em, mình có thể mua một cái chăn mới ấm áp và tốt hơn rất nhiều. Em xem cả nhà mình toàn những đồ đắt tiền, nhìn cái chăn cũ này trong nhà trông thật chướng mắt”. Nhưng cô vẫn cố chấp nhất quyết giữ lại cái chăn cũ ấy, vì chỉ khi đắp nó cô mới cảm thấy ấm áp và được che chở.

Một hôm, anh về nhà mang theo một cái chăn mới và nhất quyết bảo cô bỏ cái chăn cũ đi. Lần này dù không nỡ nhưng cô vẫn nghe theo lời anh. Từ đó, hàng đêm cô ngủ không còn ngon giấc nữa, trong lòng cô lúc nào cũng cảm thấy thấp thỏm lo lắng khiến cô lại không ngừng giật mình giữa đêm. Và mỗi lần tỉnh dậy như thế, hai mắt cô lại đầm đìa nước. Anh vốn không biết rằng để mua được cái chăn đó cô đã phải đi bán máu lấy tiền chứ không phải đi phát tờ rơi như cô nói với anh. Lần đầu tiên bán máu, biết bao đau đớn, cũng chỉ vì muốn có cái chăn này. Vậy mà anh lại nỡ vất bỏ nó. Cô dần cảm thấy anh không còn yêu cô như xưa nữa.

Một ngày anh có việc gấp phải ra ngoài, quên mang theo máy tính xách tay quen thuộc. Trên màn hình của anh vẫn hiện lên trang blog anh viết hàng ngày. Và cô bất chợt đọc được dòng chữ anh hình như mới viết không lâu.

“Ngày hôm ấy em từ đâu về khuôn mặt tái xanh nhợt nhạt khiến cho tôi lo lắng vô cùng. Rồi em nói em đi phát tờ rơi để mua chăn cho hai đứa. Tối hôm đó chúng tôi nằm ngủ ấm áp trong chiếc chăn mới, thấy em nằm cuộn tròn trong lòng tôi say trong giấc ngủ, tôi thương em biết bao. Đã bao đêm rồi em không được ngủ ngon đến vậy. Và rồi tình cờ tôi nhìn thấy trên tay em có một vết sưng nhỏ, dường như bị kim tiêm đâm vậy. Tôi bỗng hiểu ra tất cả. Hóa ra em nói dối tôi em đi phát tờ rơi, thực ra em đã đi bán máu để có tiền mua chăn, chỉ vì một cái chăn mà em đã phải khổ sở đau đớn đến vậy. Đêm đó tôi đã khóc vì thương em và cũng thầm hứa sẽ cố gắng làm việc, phấn đấu trở thành một người thành đạt, để có thể bù đắp lại những ngày tháng khốn khó này cho em. Và giờ đây tôi đã thực hiện được lời thề đó. Hôm qua tôi quyết định đến trạm hiến máu, tôi chỉ muốn cảm nhận một chút nỗi đau em từng trải qua. Khi chiếc kim tiêm đâm vào mạch máu, một cảm giác nhói buốt lan dọc khắp cơ thể. Nhưng tôi không thấy đau, ngược lại, rất hạnh phúc. Tôi lấy tiền bán máu và đi mua chiếc chăn mới này. Tôi muốn nó là món quà bất ngờ dành cho em…”

Nước mắt cô đã ướt đẫm tự độ nào. Hóa ra tình yêu của anh dành cho cô vẫn sâu đậm và lớn lao đến vậy. Mùa đông năm nay anh đã đổi máu của mình tặng cho cô chiếc chăn ấm, có lẽ đó cũng sẽ là chiếc chăn ấm áp nhất cô có trong đời…

Theo PNVN

http://tin180.com/vanhoa/truyen-ngan/20111120/hai-nua-hy-sinh.html




mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 30/Apr/2012 lúc 7:22pm


49 Ngày Với Em
Tác giả: Lê Khánh Thọ 
Bài số 2871 -1628971- vb3024110

Đây là một chuyện tình cuối đời, vui vẻ và tỉnh thức trước cửa tử sinh. Tác giả là một họa sĩ viết văn định cư tai Pháp. Năm 2005, cô nhận giải hội họa Pháp lần thứ hai và nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ.     
Bài viết đã đăng trong báo xuân Việt Báo Tết Canh Dần 2010 và đã khiến nhiều độc giả bầy tỏ sự xúc động. Ông Nguyễn Đăng, viết trong email ngày 9-2-2010û, “Sáng nay nhận Việt Báo có bài "49 ngày với em", tôi đọc một mạch. Rất xúc động về mối tình thật đẹp... Tôi đã học được một vài điều về tình yêu, khổ đau, cuộc đời, sự sống,cái chết qua bài viết này của chị.”    
Trong email ngày 16 tháng Hai, cô Diệu Hoa viết, “Em là độc giả của Việt Báo. Em đã nín thở đọc “49 Ngày Với Em”. Bây giờ em đã hiểu sự mầu nhiệm của 49 ngày rồi. Tiếc quá, phải chi em biết điều này sớm hơn. Mẹ em mất hồi hai năm trước.”     
Nhiều độc giả khác, trong email ngợi khen bài viết còn lưu ý “Trong bài chàng từ trần 2 giờ sáng, sao cuối bài lại ghi là 4 giờ sáng?” 
Trong bản trích đăng lại sau đây, sự lầm lẫn của toà báo đã được chỉnh sửa theo đúng bản chính của tác giả      .

***
1- GIỚI THIỆU     
Trước 1975, tôi là một phi công Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi qua Mỹ từ ngày mất nước, khi tuổi đời vừa mới 25. Mang tiếng pilot bay bướm nhưng tôi không có lấy một mảnh tình, bởi vì tôi không có tài tán gái. Thời đó mặc dù phụ nữ Việt nam cao giá, mấy thằng bạn không quân lanh lẹ vẫn vớt được một cô vợ Việt. Tôi khù khờ, vài năm sau đành yên bề gia thất với một thiếu nữ Mỹ tuổi đôi mươi. Hồi mới cưới, cuối tuần tôi thường dẫn Carrol hội họp bạn bè, nhưng nàng cảm thấy lạc lõng giữa đám người Việt bất đồng ngôn ngữ và từ chối những buổi họp mặt. Xuất giá tòng thê, mất liên lạc với đám bạn cũ, tôi hoàn toàn hội nhập vào đời sống Mỹ. Khi đứa con gái lên 5, chẳng may Carrol bị bịnh thận. Căn bịnh quái ác kéo dài hành hạ nàng hơn 20 năm và nàng qua đời vào thời gian đứa cháu ngoại vừa tròn 3 tuổi.     
Gần 2 năm qua, nổi buồn mất người vợ Mỹ tuy đã nguôi ngoai nhưng tôi vẫn giữ thói quen sống không bè bạn, vẫn âm thầm cô đơn chiếc bóng.
2 – Minie
Đọc địa chỉ minie52@yahoo. fr qua người bạn thân giới thiệu, tôi tính ra năm nay nàng 53 cái xuân vàng. Tuổi này hồi đó má tôi nhai trầu nhổ nước miếng đỏ lòm.
Tôi ngắm hai tấm ảnh hoàn toàn trái ngược nhau. Hình đầu tiên nàng mặc áo thun xanh thẫm bó sát, vùng ngực khoét sâu lồ lộ hai trái cam trông ngồ ngộ. Tai đeo bông lủng lẳng bự tổ chảng. Đôi môi dày tô son đỏ láng lườm. Nàng ngồi bên cạnh đám bạn cả nam lẫn nữ, trước mặt đống vỏ chai bia ngổn ngang trên bàn, bối cảnh “tuổi chiều thác loạn”. Tấm hình gởi sau nàng mặc quần đen. Chemise dài tay cổ bẻ. Mặt mũi nàng nhợt nhạt thiếu phấn son đứng bên cạnh các trẻ mồ côi Việt nam, bối cảnh“hoa úa rụng sân chùa”.
Mail qua mail về tương đắc, bỗng nhiên mất liên lạc hai tuần lễ, tôi bị chứng hồi hộp mỗi khi mở hộp mail.       
Houston: Hello Minie,   
Mình tôi ngồi với đìu hiu      
Mù tăm, biệt tích…mất tiêu em rồi !    
Tơ vương!?    

A ha ha, sáng nay có mail Minie. Tôi cứ lo nàng trốn luôn. Ngậm điếu thuốc chưa vội châm lửa, tôi hí hửng lướt qua những dòng chữ: 
France: Salut anh Tốt !  
Em mới đi Việt nam về.
Xin lỗi anh, em gián đoạn mail vì em đang bận rộn giải quyết một vấn đề mà em đã hùn vốn tình cảm. Em đã không sáng suốt nghĩ ra rằng người đàn ông cùng lối xóm hồi thơ ấu, sau nhiều năm sống dưới chế độ Cộng sản, đã có cách tính toán cư xử làm em vô cùng thất vọng. Lâu nay em đi tìm mà vẫn chưa được gặp người trong mộng.
. . .  
Houston: Hi Minie,
Ở đời, chẳng dễ gì gặp được người trong mộng đâu em! Trong tình cảm, người ta lại thường dè xẻn, mặc dù tình cảm là thứ càng tiêu hoang lại càng giàu. Dĩ nhiên, không ai muốn trao duyên lầm tên tướng cướp. Không đi khó mà đến, không hôn con cóc làm sao biến nó thành hoàng tử. Trong con cóc nào cũng có hoàng tử, chỉ chờ có nụ hôn thôi.     
Không lẽ, em duỗi chân nằm đợi tuổi già rêu phong cho đến ngày trở về cát bụi!?       
. . .  
France: Salut anh Tốt,   
Em thử hôn con cóc ở Việt nam từ 4 năm nay, hy vọng nó sẽ biến thành hoàng tử. Ai ngờ cóc vẫn là cóc. Hè năm nay em còn bị cóc cắn te tua nữa đó. Em sẽ không vì sợ mà trốn cóc.Em sẽ lạc quan như lời anh khuyên nhủ, sẵn sàng hôn thử con cóc khác...
. . .
Houston : Hi Minie,       
Hạnh phúc không hề là món quà tặng đương không, tựa như người bên cạnh dọn cỗ sẵn cho mình ăn, không vừa miệng thì la làng thay vì bỏ một bàn tay vào xào nấu phụ.    
Minie ơi, em có biết mỗi ngày anh ngắm hình của em. Còn ăn tiền lắm đó. Together, we can make it!Mi em  
Sau 6 tháng với gần 200 mails tán tỉnh, tốn mấy chục thẻ điện thoại, nghe nàng nói nhiều hơn tôi nói, Minie đồng ý gặp mặt tôi. Tôi hẹn bác sĩ khám răng, khám tổng quát. Đến chợ mua vớ và đồ lót trắng tinh, chờ giờ lên máy bay...      
3- Gặp gỡ - France 
Minie bằng xương bằng thịt trước mặt tôi. Điểm đầu tiên « coi được » nhờ đầu tóc nhuộm nâu hợp với khuôn mặt và bộ đồ đúng mode bó sát thân hình tròn trịa, chưa đến nổi phát phì như Carrol. Hai vết dài hằn sâu hai bên miệng nàng in dấu thời gian tàn ác. Tôi không thất vọng, trái lại cảm giác thân quen tự bao giờ tràn ngập trong tôi niềm bình an kỳ lạ. Không biết diễn tả bằng lời, tôi âu yếm nói với nàng qua ánh mắt. Mấy mươi giây trôi qua, nàng bẽn lẽn lãng tránh, gương mặt đỏ rần kiểu nữ sinh biết yêu lần đầu. Nếu bắt chước tiểu thuyết lãng mạn, chàng thanh niên hào hoa tuấn tú nâng cằm người đẹp, mắt nàng từ từ khép lại, đôi môi hé mở chờ đợi một nụ hôn nồng cháy. Khổ nỗi niềm xao xuyến dâng trào mãnh liệt khiến tôi bối rối, tôi bật tiếng cười khan và xổ đại một câu: 
- Chời ơi, già rồi còn bày đặt đỏ mặt!   
Nàng cười khúc khích, ngúng nguẩy:   
- Hihi, anh đừng nhìn em!     
Tôi ôm nàng vào lòng, nàng không chống cự, đồng lõa ép sát vào người tôi. Nhịp tim tôi đập loạn xà ngầu.
Tôi yêu tiếng cười của nàng. Tiếng cười hồn nhiên tắm mát tâm hồn tôi vốn lâu nay cằn cỗi. Người vợ Mỹ không có được tiếng cười tràn đầy sức sống đó, kể cả những năm đầu tiên bả còn mạnh khỏe. Nàng khen giọng Sài gòn của tôi quyến rủ và tôi có lối kể chuyện tiếu lâm hấp dẫn, tôi vô cùng ngạc nhiên về tài năng chưa từng được ai khám phá. Sau mỗi câu chuyện, nghe giọng cười dòn dã của nàng thay cho lời khen thưởng, tâm hồn tôi phơi phới. Để chứng tỏ tài nghệ, tôi mất nhiều thì giờ lên Net sưu tầm truyện cấm đàn bà.
Trước hôm tôi về lại Mỹ, nàng ngắm ngía xấp hình tôi và nàng đi chơi Paris, đang cười nói vui vẻ nàng bỗng ngậm ngùi: 
- Em già hơn trong hình anh hé!? 
- Ờ. 
- Phải chi em đẹp giống trong hình cũng đỡ. Thật sự em xấu anh há!?
- Chớ còn gì nữa!   
Im lặng mấy giây và hai vai nàng run nhẹ. Lần đầu tiên tôi thấy nước mắt đàn bà rơi, tim tôi bỗng nhiên thắt lại.  
- Xấu đâu có sao đâu em!      
Lời an ủi vụng về khiến nàng nổi giận:
- Người ta nói: “Bất cứ người đàn bà nào cũng đẹp trong đôi mắt của người yêu”. Rõ ràng là anh không yêu em.     
- Chời ơi, em nghe gì mấy thằng cha ba xạo bày đặt xổ ranh ngôn. Tại em xấu thì anh nói em xấu. 
Nàng hất tay tôi khỏi vai, giọng lạnh lùng:  
- Từ nay về sau, em chỉ xem anh là bạn.
Về lại Mỹ, sau nửa tháng cầu hoà vẫn không ăn thua gì, tôi vào thư viện Hoa Sen, miệt mài nghiên cứu Phật pháp và forward tới tấp, cốt ý mượn lời vị tha của các bậc đạo sư thay lời giúp tôi, đồng thời tôi gọi phôn tán thêm:
- Em hổng hiểu gì hết, đừng giận anh nữa cưng à! Em có biết“Thập trọc nhất thanh” là quý tướng, còn “thập thanh nhất trọc” là phá tướng? “Thập trọc nhất thanh” nghĩa là 10 phần tướng xấu mà ở trong lại ẩn 1 quý tướng thì như đá ẩn ngọc quý. Đấy là trường hợp của em. Còn tụi tài tử đẹp dàn trời nhưng thuộc về “thập thanh nhất trọc”, nghĩa là 10 phần tướng tốt đẹp, lại ẩn bên trong một tướng rất xấu, cho nên gọi là phá tướng.
Nàng phì cười:       
- Bộ uống rượu đế sao mà hôm nay xổ Nho dữ vậy anh?
Tôi nghỉ việc một tuần bay qua Pháp. Đúng như tôi hy vọng, nàng hiểu sự trở lại Pháp cấp tốc chỉ sau ba tuần lễ xa nhau là bằng chứng hùng hồn cho tình yêu “nặng ký” của tôi.
Một tuần lễ hạnh phúc trôi qua thật nhanh, tôi bịn rịn giã từ nàng, trở về Houston với công việc. Cạnh computer, tấm hình tôi ôm vai nàng đứng trước tour Eiffel lồng lộng gió xác nhận tôi đang yêu và được yêu. Từ nay tôi được nói và được nghe tiếng Việt nam. Tôi sẽ cùng nàng du lịch khắp Âu Châu và về Hội An thăm nơi nàng chôn nhau cắt rún. Mấy thằng cha thi sĩ “vì em tôi làm thơ”, nhưng vì em tôi sẽ làm overtime chết bỏ!
Mỗi lần nghe tôi làm overtime, nàng phản đối:    
- Overtime một vần với die. Anh đừng cố quá mà quá cố.

4 – Houston    
Tôi báo tin nàng sẽ qua ở với tôi 3 tháng, con gái tôi, Jenny phụ tôi vất hết đồ đạc của mẹ nó, chỉ trừ mấy tấm hình tạm dẹp vào nhà kho. Ngày đầu tiên, nàng thắc mắc:      
- Ủa, anh theo Phật giáo nhưng tại sao em không thấy bàn thờ Phật?
- Mình ở với người ta thấy cũng kỳ.     
Nàng trợn mắt:      
- Vợ con anh chớ ai mà anh nói “người ta” !?      
Tôi không trả lời, bàng hoàng vì câu hỏi của nàng. Câu hỏi như nhát búa tỉnh thức nổi đau âm ỉ từ mấy chục năm qua. Tôi làm việc nuôi vợ con; căn nhà của tôi trả góp nhưng tôi không hoàn toàn nghĩ là của tôi. Mặc cảm ăn nhờ ở đậu như một vết xâm khó gột rửa. Có phải vì đây không phải là quê hương tôi!? Có phải vì Carrol và con gái tôi không cùng chung ngôn ngữ!?
Từ ngày có nàng, tôi vặn đồng hồ báo thức sớm hơn 15 phút, để được ôm ấp nàng trước khi đi làm và nói những câu thuộc loại không giống ai:    
- Tội nghiệp hông! Tự nhiên ở đâu bên Pháp qua đây cho người ta dzày dzò!       
Mỗi sáng tôi được nàng trao ly cam tươi tự tay nàng vắt. Tôi nao nao xúc động nhìn bóng dáng nhỏ nhắn qua kính chiếu hậu, bàn tay vẫy tiễn đưa tôi đến sở làm. Đến từng tuổi này, chưa bao giờ tôi được hưởng loại cảm giác tình cảm đậm đà.
Tôi xin nghỉ hai tuần lễ cùng nàng du hí Cali. Từ Houston tôi lái xe xuyên bang, ngày đi đêm nghỉ motel. Tại Las Vegas, chúng tôi làm lễ cưới đơn giản. Nhìn ngón tay nàng mang nhẫn mới, tôi bồi hồi cảm động tấm lòng nhân đạo đã chọn nhẫn cưới chỉ hơn 100 đô la. Đêm động phòng hoa chúc… lần thứ mấy mươi, nàng âu yếm hôn tôi:      
- Con cóc đã biến thành hoàng tử rồi thì cứ hoàng tử luôn nha. Xớn xác là em lột da cóc đó!
Về đến Houston, nàng hối tôi ra phố lựa tượng Phật Quan Âm và ghé chợ Mỹ mua bó hoa cúng Phật. Nàng yêu cầu tôi chọn thêm cho Carrol bó hoa bả thích hồi còn sống. Sau khi lập bàn thờ Phật trên bệ lò sưởi, nàng kéo bàn salon ra giữa nhà, sắp trái cây và chưng bó hoa hồng tươi. Nàng nói: 
- Em là kẻ đến sau, vô nhà người ta mình phải xin phép đàng hoàng. Anh vái bả bằng tiếng Mỹ, nói rõ cho bả biết là bả chết rồi, lo đầu thai đi, có thương yêu anh thì còn nhiều kiếp khác. Anh xin phép bả cho anh lấy vợ. Em nghi bả lưu luyến anh nên vẫn còn ở nhà này, nhất là bả chết trong giấc ngủ ngay trên giường của bả. Anh vái xong đến phiên em. Em nói tiếng Mỹ bồi chắc bả cũng hiểu. Ăn thua anh dỗ bả trước cho thật hay.
Khói hương nghi ngút, tôi cầm ba cây nhang rưng rưng nước mắt. Tình nghĩa hơn 25 năm với người vợ Mỹ hiền lành xấu số làm sao tôi quên cho được ! Tôi nao nao xúc động vì nàng giúp tôi cởi mở một gút mắc tâm tình.
Ngày nọ ra chợ Việt tình cờ tôi gặp lại Đản, người bạn cũ báo tin tối hôm đó tổ chức họp mặt bạn bè. Tôi nôn nao được dịp gặp lại nhóm bạn không quân. Tòng từ Dallas, mặc dù sức khỏe bấp bênh cũng chịu khó lái xe mất nhiều tiếng đồng hồ, cặp mắt sáng rỡ khi nhận ra tôi, giọng miền Nam oang oang chọc phá:
- Tưởng ai, khỏe không Tốt lèn ? Thằng Đản phôn nói có người muốn gặp tao, không ngờ là mầy ! 
Đọc trong ánh mắt bốn thằng bạn cũ tràn ngập nổi vui mừng tôi có vợ, nhất là vợ Việt nam, điều này hứa hẹn tôi sẽ không biệt tích giang hồ như trường hợp với người vợ Mỹ. Bốn bà xã của họ cũng vui vẻ chấp nhận nàng. Tôi thầm nghĩ…Nếu tôi dại dột rinh con vợ nhí Việt nam qua đây thì một sự xung đột về nhan sắc và tuổi tác với bốn nữ tướng kia dễ bề bùng nổ, tôi sẽ rất khó lòng trở về vòng tay ấm áp với tụi bạn cũ.
Vừa trở lại nhà, Đản vui vẻ phôn :
- Ê Tốt lèn, Má mầy để quên cái bóp, khi nào rảnh ghé tao lấy.
5 - Tai họa     
Ngày nàng sắp sửa trở lại Pháp, tôi phải vào bệnh viện. Bác sĩ quyết định khẩn cấp mỗ, cạo chất vôi bám trên cột xương sống, là nguyên nhân chận dây thần kinh khiến chân tôi tê liệt.
Vết mỗ của tôi bị nhiễm trùng làm mủ phải mỗ đi mỗ lại bốn lần. Ngảy tái khám, bác sĩ Mỹ báo tin tôi bị Hépatitis B. Chết điếng cả người, tôi phôn hối nàng đi thử máu. May mắn mười năm trước nàng đã chích ngừa miễn nhiễm.
Vợ chồng con gái tôi đi làm cả ngày. Đến giờ ăn, tôi mệt nhọc ăn đại món gì trước mắt, hoặc lái xe ra ngoài ăn tiệm. Bụng tôi trương phình lên và ngẹt thở, phải vào nhà thương hút nước khẩn cấp. Bác sĩ báo tin tôi cần thay lá gan mới (hậu quả lạm dụng trụ sinh trong bốn lần mỗ). Bầu trời quay cuồng sụp đổ. Không, thà chết chớ tôi không muốn kéo dài cuộc sống èo uột như người vợ Mỹ, mỗi tuần phải vào nhà thương vài lần và rốt cuộc cũng không thoát khỏi tử thần. Ngày đó Carrol còn có con gái, còn có tôi bao bọc, phần tôi chẳng có gì ngoài gánh nặng bệnh tật. Tôi quyết định về Việt nam ở với chị tôi để chữa trị thuốc Nam.

6 - Việt nam   
Tôi trở về căn nhà thời thơ ấu của ông bà ngoại tôi vùng Phú Nhuận. Ba bà dì không chồng ở chung trên căn nhà chính, gia đình chị tôi ở căn nhà ngang. Tôi được ở trong một phòng nhỏ bằng nửa căn nhà bếp của tôi bên Mỹ. Đây là căn phòng chị tôi xây thêm ở góc sân để má tôi dưỡng bịnh cuối đời. Mỗi bề 3m, giường chỉ cách toa –lét hai bước chân, rất tiện lợi cho người bệnh khó kềm hãm nhu cầu vệ sinh. Cũng may phòng có máy điều hòa không khí.
Nàng điện thoại trấn an tôi:   
- Mấy đứa em của em nói anh đừng lo. Báo Cali đăng rần rần có ông nghệ sỹ T. bị ung thư bác sĩ Mỹ chạy, ổng về Việt nam chờ chết, không ngờ số ổng hên gặp thầy chữa thuốc Nam nào đó giỏi dàn trời. Nghe nói ổng lành bệnh xong cưới một con bồ nhí, mới đẻ đứa con trai.   
Những loại tin tức này gây phấn chấn cho nàng và cả cho tôi. Tôi không cần con bồ nhí, tôi chỉ cần nàng, người đàn bà tuổi nhai trầu thích nghe tôi kể chuyện tiếu lâm, người mang đến cho tôi hạnh phúc.  

Hai giờ trưa, tôi ngồi trên băng ghế đá trong sân, đọc báo, uống càfé, thình lình nghe tiếng xe hai bánh ngừng trước cổng nhà. Một bà dáng thấp bé, mặt bịt khăn, đầu đội mũ bảo vệ tròn vo, áo khoác rộng dài tay, kiểu thời trang Sài gòn làm xấu thành phố. Tôi liên tưởng đến con vịt đẹt. Con vịt đẹt tiến lại gần tôi, lột mũ và khăn che mặt.      
- Anh biết ai đây không?       
Minie của tôi đang nở nụ cười Mona Lisa. Nàng hôn nhẹ lên má tôi.
Tim tôi thót lại:     
- Ủa, sao em nói còn hai tuần nữa mới dzề!?
- Em đổi vé, nói trước làm chi, để anh ngạc nhiên chơi        !
Chị Hai mời nàng vào phòng khách. Giọng nàng dõng dạc:
- Em nghe anh bị hút nước trong bụng, em nghĩ là bịnh tình trầm trọng nên em đổi vé về sớm hơn. Em gái em ở Cali nói người ta đồn có ông thầy Châu Đốc chữa ung thư gan giỏi lắm. Em dẫn anh đi nghen anh!
Tôi không thích bị ai dẫn dắt, cương quyết: 
- Không. 
Nàng lục lọi trong bao nhựa đem theo, rút tờ báo Phụ Nữ, đọc lớn tiếng:  
- “Bác sĩ cho biết bịnh ung thư vẫn có người sống thêm 10 năm 14 năm, vẫn sinh con nhờ thuốc men và chế độ ăn uống cẩn thận”. Trên internet bác sĩ Pháp cũng viết y chang, em có ghi rõ nhân chứng, vậy buổi trưa em nấu và em cùng ăn với anh. Anh đọc nè.  
- Khỏi cần đọc. Anh hổng phải ung thư.       
- Thì anh bị gan nặng cũng phải chữa chớ. Anh thương em chìu em chút đi mà. 
Giọng nàng mềm như bún kèm theo gương mặt thiểu não. Tôi mềm lòng nói nhỏ:
- O.K, đi thì đi.      

Tôi mệt mỏi vào phòng nằm nghỉ. Tôi ôm nàng vào lòng, rưng rưng cảm động.      
Giường chật hẹp chỉ đủ chỗ cho một người…rưỡi. Muốn nằm thẳng người, nàng bắt buộc trồi lên đầu tôi, cánh tay phải sát vách tường duỗi thẳng dọc theo thân hình và cánh tay trái duỗi ngang. Tôi thầm thì:    
- Cái mặt thấy ghét! Cho anh dzớt cái nha em!    
Lập tức nàng hốt hoảng:
- Thượng mã phong đó! 
Tôi thở dài. Quả thật tôi không tin tưởng “chú A37” cho lắm! Sợ chú bay không ra bay, chỉ làm mất mặt đàn anh. Tưởng tôi buồn, nàng xoa đầu trọc an ủi:      
- Để khi nào anh lành bệnh rồi muốn dzớt bao nhiêu thì dzớt!    

Buổi tối nàng về nhà em gái. Sáng hôm sau nàng đem tới đồ ăn nấu sẵn.   
Sau hai lần bị hút dịch tràng, chị dọn cho tôi ăn một mình, chén bát để vào một mâm riêng. Tôi có cảm tưởng mọi người e dè tôi vì sợ căn bịnh truyền nhiễm nhưng cố gắng giữ lịch sự tối thiểu. Các cháu lễ phép chào cậu rồi lẫn tránh thật nhanh. Ông anh rể lạnh nhạt, chỉ trừ chị Hai gần gũi tôi nhiều nhất, nhưng chị em hỏi han vài câu là hết chuyện nói, nhất là chị cũng đang khổ sở về bịnh đau khớp chân.      
Đi Châu Đốc về, cả nàng và tôi đặt nhiều hy vọng. Ba chén thuốc Nam uống mỗi ngày đưa tôi đến tình trạng đi tiêu, đi tiểu liên miên.   
Theo lời thầy thuốc, nàng cho tôi ăn cá sông. Cử dầu, gia vị, nước mắm, chỉ trừ được thêm nghệ và gừng. Rau luộc cũng lạt nhách. Tôi quạu quọ:
- Em đừng nấu nữa, để chị anh nấu.      
- Vậy buổi trưa chị anh nấu cho em ăn luôn à!?   
- Thì em ăn xong hãy tới.      
- Không. 
- Tại sao em ăn chung với anh?    
- Cho vui. Anh thấy chưa, em ăn giống như anh dễ dàng mặc dù em không bịnh.       
- Em khác anh khác!      
- Khác ý chí. Cho dù anh không muốn em cũng cứ nấu đem tới, ăn hay không ăn là quyền của anh.   
Tôi cau mặt lạnh lùng:  
- Em đừng tới nữa, em về đây làm anh mất tự do.
Ba bà dì và chị tôi nói tôi tên Tốt nên số tôi tốt, bịnh gần chết còn có “hồng nhan tri kỷ” cận kề săn sóc. Bụng tôi xẹp xuống, da mặt hồng hào hơn trước. Mỗi 4 giờ rưỡi sáng, tôi chống walker bước chầm chậm quanh những con đường gần nhà. Mặt trời chưa lên, thành phố còn ngái ngủ thoang thoảng mùi cống rãnh. Thỉnh thoảng một con chuột ló đầu dáo dác. Vài quán hàng chuẩn bị mở cửa, xe chạy thưa thớt. Cho dù Sài gòn thay đổi, nhưng những con đường hồi nhỏ tôi thường đi qua tuần tự trở về sống động trong trí nhớ.
Những buổi sáng cảm thấy khỏe, tôi ra trước sân ngồi đọc báo. Nghe tiếng xe ôm ngừng trước cửa, xuất hiện dáng dấp người đàn bà thấp bé tay xách túi đồ ăn, bịt mặt như dân khủng bố, tôi vui vẻ chọc:  
- Con dzịt đẹt hôm nay sao tới trễ dzậy!       
Nàng trả đũa: 
- A ha, ngày nào cũng xô đuổi người ta, rứa mà tới trễ chút xíu anh “sáng chói” (sói trán) cũng để ý. Con dịch đẹt tới trễ vì nghe điện thoại bên Mỹ gọi. Ba hỏi thăm anh đó.       
Ngồi bên nhau không lâu, khoảng 15 phút tôi phải lết vào toa –lét. Mỗi lần trở lại sân với nàng, nhìn khoảng trời xanh, nổi bực bội tù túng khiến tôi mất tự chủ. Vào phòng ăn, nàng xin phép cháu tôi mượn bếp. Vừa luộc rau vừa kể:  
- Hồi sáng em bị trợt té trong phòng tắm, tay bầm đen nè!  
Mặt tôi đanh lại:    
- Sao không chết phứt cho rồi!      
Hai đứa cháu lớn nhìn nhau nhướng mắt ngạc nhiên về lời độc ác. Tôi chờ nàng nổi cơn thịnh nộ nhưng sắc mặt nàng vẫn không thay đổi. Tôi chê nàng không biết xới cơm, tôi chê cá tanh, tôi đòi thêm nước mắm. Nàng điềm đạm:       
- Em biết anh rất bực bội và anh không thể trút giận vào ai ngoài em cả. Nếu điều đó giúp anh khỏe hơn thì anh cứ việc tiếp tục, còn muốn chọc tức để em không tới nữa chỉ là vô ích.     
Vẻ bình thản của nàng khiến tôi càng khổ tâm.
Ăn xong tôi vào phòng trước, một lát sau nàng vào nằm kế bên tôi, tay trái nhè nhẹ xoa đầu trọc. Tôi hất tay nàng :       
- Đừng đụng anh. Anh quăng em ra cửa bi giờ.    
Như trò chơi con nít, tôi hất tay nàng, nửa phút sau nàng vẫn tiếp tục vuốt ve cái đầu trọc. Sừng sộ vẫn không ăn thua gì, tôi mệt mỏi chịu thua.     
Một lúc sau tôi quay người, đầu nép sát vào ngực nàng, tôi nghe rõ tiếng tim nàng đập và giọng nàng nghèn nghẹn:  
- Gan anh nát bấy rồi!            
Tôi nổi tức:    
- Em nói gì kỳ dzậy!?    
- Anh cứng đầu thì em nói sự thật luôn. Anh bị ung thư thời kỳ chót. Hôm anh mới về, chị Hai dẫn anh đi bịnh viện hút nước bụng hay dịch tràng gì đó, bác sĩ Việt nam đưa kết quả ghi chữ K có nghĩa là giai đoạn cuối cùng, có nghĩa là cancer. Bây giờ tâm hồn anh đang giao động, hãy suy nghĩ kỹ trước khi quyết định. Anh muốn ăn ngon để rồi chết sớm thì cứ yêu cầu chị Hai nấu. Em yêu anh, em muốn anh sống cho dù anh tật nguyền. Theo kinh nghiệm, những người bị cancer mà ăn thả dàn đến khi hấp hối sẽ rất đau đớn.
Nàng nghẹn ngào, vội vã rời khỏi phòng. Tôi ngồi ôm đầu nghe đất trời sụp đổ. Cancer, ung thư. Trời hỡi! Hạnh phúc mới lóe sáng đã vội vã tắt ngúm. Bụng tôi quặn đau, mới đứng lên, chưa kịp vào toa – lét, chất lỏng tanh tưởi tuôn xối xả xuống hai ống chân teo tóp.       
Rửa ráy và thay đồ xong, tôi chống walker ra sân. Nàng đang ngồi trên băng ghế, buồn bã nhìn vào khoảng không. Tôi hút xong cả gói thuốc vẫn chưa trấn tỉnh. Nàng dịu dàng để bàn tay lên đùi tôi, bắp đùi nhăn nheo chỉ còn da bọc xương. Tôi bùi ngùi nói nhỏ:  
- Cancer lây bịnh đó em!       
- Em biết anh cancer khi còn ở Pháp, chính vì vậy em đổi vé về sớm hơn.
- Số mệnh đã như dzậy thì cũng đành chịu thôi!  
- Em không đồng ý. Anh và chị anh bị Nho giáo chi phối. Khổng Tử cho rằng “Tử sanh hữu mạng, phú quí tại thiên”, rằng con người không thể cãi lại mệnh Trời, con người cần phải đặt hết mọi niềm tin vào ý chí của Trời. Khổng Tử cũng nói: “bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử dã” , không hiểu mệnh Trời, không xứng đáng là người quân tử (Luận ngữ - Thiên Nghiêu viết). Anh có nhận thấy Nho giáo triệt tiêu mọi nỗ lực chuyển hóa, hướng thiện của con người, giao phó toàn bộ đời mình cho một đấng quyền năng quyết định!? Hồi còn đi học, có một số điểm em không phục Khổng Tử, nhất là ổng đưa ra những nguyên tắc bất công đối với phụ nữ.
- Theo Phật giáo, con người tạo ra nghiệp sẽ không thể và không bao giờ trốn thoát được những nghiệp do mình gây tạo ra.
- Anh nói đúng, nhưng điểm khác nhau giữa nghiệp (Phật giáo) và số mệnh (Nho giáo) ở chỗ, nghiệp do chính con người tạo ra, bất định tính nên nghiệp có thể chuyển hóa được. Do đó, con người có thể thay đổi, chuyển hóa nghiệp báo của mình từ xấu thành tốt, từ ác thành thiện hoặc ngược lại. Năng lực chuyển hóa Mãn nghiệp trở thành tốt hơn hoặc xấu đi được gọi là Năng tiêu nghiệp. Tác dụng của Năng tiêu nghiệp trong đời sống hiện tại rất lớn. Một người thông minh và khỏe mạnh là kết quả của Mãn nghiệp, nhưng nếu sống buông thả, đồi trụy thì trở nên ngu đần, ốm yếu. Năng tiêu nghiệp đã làm tiêu hủy nghiệp tốt của người này. Ngược lại một người với quả báo Mãn nghiệp bị bịnh tật nhưng nhờ biết cách bảo vệ sức khỏe vẫn chiến thắng bịnh tật, như Stephen William Hawking – nhà Vật lý người Anh của thế kỷ hôm nay, tuy bị liệt toàn thân chỉ còn ba ngón tay nhưng vẫn liên tục đưa ra nhiều phát minh quan trọng. Thuyết Nghiệp khích lệ con người hành động và tiến bộ, hoàn toàn không phải tiêu cực, yếm thế như Nho giáo.
Nàng bóp nhẹ tay tôi và nói tiếp:  
- Một tháng rưỡi trước bác sĩ nói với chị Hai rằng anh chỉ còn sống được ba tháng, khuyên chị cứ cho anh ăn những gì anh muốn. Vậy tính ra anh chỉ còn một tháng rưỡi nữa thôi. Em nghĩ nếu anh ăn uống cẩn thận, sự sống sẽ được kéo dài. Chị anh muốn dấu anh vì không muốn anh đau khổ. Chị Hai thương anh theo lối của chị, em thương anh theo lối của em. Em muốn anh biết rõ sự thật. Em muốn anh can đảm, không bi thảm hóa và lẫn tránh nó, vì như vậy giai đoạn hấp hối sẽ thê thảm hơn. Theo quan điểm Phật giáo, suy ngẫm để chuẩn bị cái chết rất quan trọng. Mặc dù sự tái sinh của ta phần lớn tùy thuộc vào năng lực của nghiệp, song tâm trạng ta vào lúc chết ảnh hưởng không nhỏ tới tính chất của tái sinh kế tiếp.
Tôi bỏ bữa ăn tối, nằm gậm nhấm nổi buồn trong bóng đêm. Ba chữ “tôi bị cancer”ngân nga mãi trong đầu từ trưa nay, từ từ dịu xuống và thiếp đi vào giấc ngủ.
Cây mai trước ngõ trổ bông vàng rực rỡ. Tôi lắng nghe tiếng chim sẻ ríu rít trên cành cây, ngước mắt thấy hai con chim nhỏ đứng cạnh nhau, tim tôi se thắt. 33 năm xa xứ, cái Tết đầu tiên trên quê hương chỉ đầy hương vị chua chát. Nàng ngồi bên tôi, nói:
- May mà mồng một Tết em có anh bên cạnh.     
- May cái gì! Anh bị cancer mà may cái gì! 
- May là hiện tại mình được gần nhau. May là số anh quá cha thiên hạ! Ngay tại thành phố Sài gòn mà nhà anh ở có vườn cây như vườn Thượng Uyển; hòn non bộ cá lội thảnh thơi, cây cối xum xuê mát rượi, chim hót và có cả đàn piano nữa.
Bỗng dưng tiếng đàn im bặt, nàng ngoáy cổ vào phòng khách la lớn :
- Hay quá! Đàn nữa đi con.   
Thằng cháu nhỏ tập tễnh vào nghề, hứng chí dạo thêm vài bản. Tôi cười: 
- Đàn trật lất. Em đừng khen nữa để nó đi chơi chớ!
Nàng nói tiếp:
- Số anh y chang số Hoàng tử. Dưỡng bịnh có ba người đàn bà hầu hạ: em nấu ăn, chị anh sắc thuốc, em gái anh giặt quần áo. Còn muốn gì nữa! Mấy năm trước em tới viện ung bướu Sài gòn thăm người bạn bị ung thư vú, em thấy hai người bệnh nằm chung một giường, có người nằm dưới đất, nóng nực hôi thúi như địa ngục. Thân nhân ngồi chò hỏ trong sân viện, mặt lo âu vì thiếu tiền hơn là vì lo cho người bệnh. Anh đẻ bọc điều chắc! Em thích câu nói “Con người đánh mất hạnh phúc thường là do mong muốn một hạnh phúc cao hơn hạnh phúc mà mình đang có”.
Những lời nàng nói có tác dụng mạnh, nổi bất hạnh uất ức trong tôi từ từ dịu xuống.
Mồng hai Tết tôi bồn chồn nhìn đồng hồ, gặp dì trước sân tôi buột miệng hỏi: 
- Dì thấy dzợ con tới chưa?   
- Chưa. Mày đuổi nó quoài sao giờ còn hỏi!?       
Tôi đuổi nàng vì tôi không muốn nàng khổ, nhưng nàng không tới thì tôi khổ.
Hôm nay nàng tới trễ. Dọn đồ ăn ra bàn xong, nàng buồn bã báo tin:
- Ba em mất rồi. Ba bị đứng tim bất ngờ.     
Tôi bàng hoàng sửng sốt. Ba nàng không bịnh hoạn gì cà. Đáng lý tôi phải là người đi trước ông.
- Kể từ hôm nay em không ăn giống anh. Em ăn chay 49 ngày.  
Tôi theo nàng vào phòng. Nàng thổn thức, hai vai run nhè nhẹ.   Tim tôi se lại. Ôm nàng vào lòng, tôi vỗ về:  
- Anh xin chia buồn với em.
Bây giờ dưới mắt tôi, nàng chỉ là đứa con gái bất hạnh mang nổi đau khổ của người con mất cha. Trong tôi bỗng lai láng niềm thương xót. Nếu không vì tôi, giờ này nàng đang trên đường qua Cali dự đám tang thân phụ. Tôi quên bệnh tật, cảm thấy có bổn phận phải an ủi nàng. Bàn tay gầy guộc của tôi vận dụng hết sức lực thoa nhè nhẹ tấm lưng mầu mỡ, tai tôi lắng nghe tiếng giảng phát ra từ CD, điều mà trước đây tôi vẫn nghe nhưng không chú ý:
“Đức Phật dạy: Thân bệnh nhưng đừng để tâm bệnh. Chúng ta có thể không thể làm được gì nhiều cho thân nhưng chúng ta có thể làm được gì đó cho tâm. Chúng ta có thể giữ tâm bình tĩnh khi chúng ta đau yếu. Chúng ta có thể theo dõi sự tăng giảm của đau đớn, nó đến và đi từng đợt như thế nào. Chúng ta có thể hiểu biết bản chất của khổ đau. Chúng ta có thể gặp nó và học hỏi từ nó. Chính nó là một cuộc thử nghiệm – Làm sao chúng ta hiểu rõ bản chất của sự sống, làm sao chúng ta hiểu rõ ràng không có cái ngã thường còn nơi đây mà chỉ có sự thay đổi liên miên của sinh và diệt, giống như dòng sông trôi chảy bất tận...
Vai trò bỗng dưng đảo ngược… Một người bịnh cancer gần chết phải săn sóc người mạnh khỏe. Dường như Trời sinh ra tôi để phục vụ đàn bà, dù thân xác rã rời nhưng tôi cảm thấy vui vui nghe tiếng nàng ngáy đều. Vừa ôm nàng trong tay, vừa có dịp chú tâm những lời giảng phát ra từ góc phòng...
Tôi thuộc diện khổ đau do luyến ái người. Cũng may đây là người đàn bà tuổi xế chiều nhan sắc tàn phai, nếu luyến ái loại nhí xinh đẹp thì không biết tôi còn khổ đến cỡ nào!?       
...
Tâm trí tôi từ từ lấy lại thăng bằng. Sáng nay hiện rõ trên nét mặt khiến nàng chú ý:     
- Lâu ngày em mới thấy anh cười tươi hết xẩy!   
- Thở vào tâm tĩnh lặng 
Thở ra miệng mỉm cười
An trú trong hiện tại      
Giờ phút đẹp tuyệt vời  
(Thiền sư Nhất Hạnh)    
- Hôm nay Sainte Valentine, tụi mình qua càfé Du Miên nghen em.
Nàng há hốc mồm ngạc nhiên.      
- Ơ hơ, em không nhớ. Sao lâu nay em rủ hoài anh không chịu đi!?. Đi, đi anh.
Từ quán càfé, tôi chỉ cho nàng thấy mái ngói căn phòng của tôi khuất sau bụi chuối cuối sân. Nàng nhìn quanh và có vẻ thú vị với lối décor thiên nhiên. Cảm giác đem niềm vui đến cho nàng khiến tôi tạm quên bịnh hoạn. Tôi thèm càfé nhưng bị cấm nên phải gọi trà đá. Nàng hớp một ngụm sinh tố thơm, kể lể:    
- Em có người bạn ác ôn ở bên Đức, nghĩ rằng em có số sát phu.       
Tôi cười ha hả:      
- Chớ còn gì nữa! Ai đụng tới em là từ chết đến bị thương.
- Bà vợ Mỹ của anh cũng chết nghe chưa, vậy là anh cũng có số sát thê đó. Vì mạng em lớn mới đè được mạng anh.
Tôi vui vẻ lập lại:  
- Đụng tới em là từ chết đến bị thương! Anh cũng vì em mà thân tàn ma dại nè. Héhé!
- Anh nói kiểu mê tín dị đoan. Nghiệp anh cũng nặng lắm nên gặp người hết xẩy như em mà không được hưởng! Hihi, Anh không hiểu chi cả. Nghiệp xấu của anh đến lúc phải trả, nhưng nhờ có hiếu nuôi vợ bịnh hơn hai chục năm, do đó Ơn Trên ban thưởng em cho anh. Anh có thấy sự huyền bí … mỗ xong anh tỉnh dậy cùng ngày em trở về Pháp, vé anh mua cho em từ bốn tháng trước tại sao lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên như vậy!? Anh thấy chưa? Vì sứ mạng em đã xong, em ở lại Mỹ vô ích nên em bay về Pháp ngay. Sự sắp đặt vô hình hay hết chỗ chê. Rồi bây giờ anh bịnh, em về Sài gòn với anh không phải vì em trả nợ kiếp trước mà em là món quà tặng quí giá của Ơn Trên cadeau cho người chồng nhân đức. Có thể hiểu đây là khởi nghiệp, anh đang mắc nợ em đó, hihi!       
Tôi phì cười:  
- Con dzịt đẹt môi dày chu chu xạo thấy mẹ!       
Nàng lém lỉnh chu thêm miệng hô ra chọc ghẹo tôi.
Mỗi khi nghỉ trưa, nàng mở CD “Tạng thư sống chết” của xứ Tây Tạng. Tôi nói: 
- Em mở quoài băng này dzậy em! Có phải vì thầy của em là dịch giả!?   
- Em không có máu phe đảng. Tại vì sách có giá trị, càng nghe càng thấm thía. Giọng thầy Tâm Chánh Kiến hay hết xẩy, giống y chang giọng của anh.       
Tôi không nói gì, lắng nghe giọng đọc của người đàn ông mà nàng xác nhận giống giọng mình. Nàng ôm tôi vào lòng, tay xoa đầu tôi nhè nhẹ. Mặt ép sát vào ngực nàng nhưng tâm tôi không gợn chút ái dục, cảm giác tin cậy một đồng đội không bỏ rơi tôi, sát cánh cùng tôi chiến đấu bên cạnh giờ phút vô cùng cam go. Chúng tôi im lặng suy ngẫm: 
“Dù bạn có tin tôn giáo nào hay không, điều rất quan trọng vẫn là có được tâm an bình lúc chết. Điều đó có lợi cho sự tái sanh. Theo quan điểm Phật giáo, dù người chết có tin luân hồi hay không, thì sự tái sinh của họ vẫn hiện hữu. Thời gian kéo dài trung bình để một người đi tái sinh vào một cơ thể mới là 7 tuần lễ. Tuy nhiên có người sau khi chết chỉ mất 2 giây họ đã đi tái sinh vào cảnh giới khác, đặc biệt những bậc thánh thiện hoặc những kẻ đại gian đại ác. Nhưng một số người khác cứ vất vưởng trong thế giới trung ấm này một thời gian rất lâu, có lúc đến 7 năm mới đi tái sinh. Nếu trường hợp họ bị kẹt lại trong thế giới trung gian này, họ sẽ trở thành ma quỷ. Đặc biệt vong linh trong cõi trung ấm 49 ngày có khả năng nghe, cảm nhận tư tưởng...”
- Nếu em chết trước anh, em sẽ ở bên anh 49 ngày.
Tôi hiểu nàng thầm nhắn nhủ tôi hãy thực hiện điều đó với nàng.
Tinh thần tôi càng ngày càng thanh thản. Mỗi chiều tôi thường rủ nàng đi ăn chè đậu đen, đậu ván ở những quán cóc bên đường. Mỗi lần nàng lăng xăng chận xe sợ tôi bị tai nạn, tôi tức uất người. Tôi bắt nàng đi vào trong lề, bổn phận đàn ông là che chở đàn bà, tôi không thích nàng làm điều trái ngược. Sau vài lần nổi xung, nàng hiểu và để yên cho tôi giữ vị trí bảo bọc nàng. Một hôm nàng hỏi tôi:   
- Hồi trước anh có bồ với bà nào không? Đưa em địa chỉ, em dẫn bả tới thăm anh.
- Anh không có bồ nào cả.     
Nàng ngạc nhiên:   
- Em xem hình hồi trẻ, thấy anh coi được lắm! Ít nhất anh cũng có dẫn một cô đi chơi chớ!       
- Hồi học lớp đệ nhất, anh có rủ một cô cùng lớp đi ciné.
Mắt nàng thích thú sáng lên: 
- A, anh kiss cổ trong rạp ciné.      
- Hổng dám đâu! Anh chỉ khều mấy ngón tay thôi. Sau đó cổ giận anh.     
- Anh hiền queo, chỉ dám khều mấy ngón tay thôi à. Vậy mà giận à, vô lý!       
- Hổng phải. Hôm đó đông đảo chen lấn mệt hộc xì dầu. Gần hết phim cổ hối anh: “Đông người quá mình ra trước, hông thì chút nữa chen lấn hôi lắm!”. Anh nói :“Thì cũng đã hôi rồi !”.  
Nàng cười ngặt ngoẽo và láu lỉnh hỏi tiếp:   
- Vậy anh còn trinh với bà vợ Mỹ à!?   
Tôi phì cười:  
- Trinh cái lỗ rún. Hồi còn đi học, có thằng bạn dưới quê lên Sài gòn thuê nhà trọ, tụi anh hùn tiền bao một em nhím. Thời đó dzui thật là dzui!
- Thanh niên mới lớn lên hầu như ai cũng vậy!    
Được nàng khuyến khích, tôi hứng thú kể tiếp:    
- Sau đó tụi anh thằng nào buổi sáng đi học bụng cũng đói meo, tại tiền dành để chích pénicilline. Hehe, thằng nào cũng đi cà náng. Ba anh hỏi, anh nói anh bị té xe đạp. Cả bọn té xe đạp.        Xạo thiệt tình! Tụi anh còn phải năn nỉ bà y tá cùng xóm giữ bí mật dùm.    
Nàng cười nắc nẻ    .
- Hihi, đám anh em trai nhà em y chang đám bạn của anh.
Tôi đổi đề tài:
- Anh tính lành bịnh sẽ mua miếng đất vùng quê làm nhà ở. Anh sẽ nuôi vài con gà chạy lanh quanh cho dzui. Em chịu dzề ở với anh hông? 
- Không được đâu anh ơi, em ớn lắm! Anh là Việt kiều, tụi công an sẽ tối ngày kiếm chuyện đòi “quà thông cảm”, hoặc dân xì ke đêm khuya tăm tối sẽ giết anh chỉ vì mấy chục dollars. Lành bịnh anh qua Pháp với em là tiện nhất.
Có những ngày chán ngán bịnh hoạn, tôi lại nghĩ khác:      
- Anh biết đời anh tiêu rồi, em lo kiếm người khác đi.
- Em già và xấu nữa ai mà lấy em! Chính anh cũng công nhận em xấu. Họa may nhờ anh phò hộ em...     
Nàng trả lời diễu cợt với ánh mắt láu lỉnh.   
- Cho dù anh không linh thiêng, em cũng đừng lo. Hoàng tử Charles mê bà già Camilla trong khi Diana đẹp tản thần. Em nên nhớ rằng trên đời này vẫn có những cha yêu đàn bà không phải vì nhan sắc.
- Hơi hiếm! Nếu gặp một người nào đó giống như anh, em mới chịu.
- Làm sao có người nào mặt mũi giống anh được!       
- Xí, ý em nói giống tính tình của anh kìa. Làm như anh đẹp trai lắm!
Cả tôi và nàng cùng cười, quên hẳn mình đang ở trong hoàn cảnh mếu máo.
Thấm thoát ba tháng trôi qua, chỉ còn vài tiếng nữa nàng lên máy bay trở về Pháp. Tôi ngồi trên giường, hai chân dạng ra ôm lấy nàng đứng giữa. Hai tay nàng không ngừng ve vuốt đầu tôi.       
- Sao em dzày dzò đầu anh quoài dzậy?       
Nàng áp sát đầu tôi vào ngực nàng.      
- Tại em không biết để tay ở đâu! 
Nàng cười khẻ nhưng tôi cảm giác những giọt nước mắt rơi trên da đầu trọc.       
- Anh đừng ăn bậy bạ nghen anh.  
- Ờ. 
- Lành bệnh qua Pháp ở với em, nhớ mua bảo hiểm sức khỏe loại du lịch. 
- Ờ. 
- Nếu, nếu…anh có mệnh hệ nào, chắc em không về được, anh đừng buồn em nghen.      
- Bộ em nghĩ anh chết sao!?  
- Biết đâu được! Tốt nhất anh cứ chuẩn bị tinh thần, nhớ nghe băng giảng mỗi ngày, nghe đi nghe lại mới thấm anh à. 
- Ờ. 
- Và nhớ rằng em yêu anh.    
Tôi nuốt nước mắt nói:  
- Anh đi được là anh qua với em ngay. 
Nàng hôn môi tôi và vội vã lấy khăn bịt kín khuôn mặt đẫm lệ. Tội nghiệp từ ngày yêu tôi, nàng khóc nhiều lần. Tôi chợt nhớ chưa bao giờ thấy người vợ Mỹ nhỏ một giọt nước mắt. Chậm chạp chống Walker, tôi tiễn nàng ra ngõ. Đứng lặng người một lúc thật lâu, tôi nhìn theo chiếc xe ôm chở nàng khuất xa cuối con đường hẻm.
Qua phôn, tôi nói chuyện với nàng một lần chót, để an tâm nàng bình an về tới Pháp. Và rồi tôi trốn tránh, vì giọng nói quen thuộc đó chỉ khiến tâm hồn tạm thời an bình của tôi trở nên xao động. Tôi biết rõ mình đang may mắn không vướng bận gì khác, ngoài việc quán sát cái đau để buông cái đau, đừng dại dột rơi vào luyến ái.       
Tôi sẵn sàng rời cõi trần gian với tâm an lành, đó cũng chính là điều nàng ao ước tôi đạt được.
11 giờ khuya. Tôi rung chuông gọi chị Hai. Tôi điềm tĩnh nói:
- Em thấy trên trời đầy sao chiếu sáng ngời. Hình em hiện lên quanh bốn bức tường. Em nghe rõ tiếng ai gọi tên em. Em biết tới giờ em đi rồi đó chị.   
Chị tôi an ủi:  
- Giữ lòng thanh thản nha em.       
- Em sẵn sàng rồi. Chị à, em có lỗi nhiều với ba má phải hông chị?
- Hông, em hổng có lỗi gì cả. Ba má thông cảm hoàn cảnh của em. Những ngày nước mới mất, tụi nó vào nhà mình làm khó dễ quoài, điều tra “thằng giặc lái cút theo Mỹ”.    
- Dzợ em sao chị?  
- Nó ở Pháp làm sao chị biết. Lần nào nó gọi, em cũng hổng       chịu tiếp chuyện.  
- Chân chị còn đau hông?      
- Đau lắm em!
Tôi cười thân mật nói:   
- Mặt bà mệt quá chời, thôi đi ngủ đi bà ơi! 

7- Ra đi  
4 giờ sáng thứ năm 9/10/2008       
Theo thường lệ, người đàn ông làm vệ sinh vào phòng chào hỏi :      
- Ngủ ngon hông anh Tốt ?    
Tôi không trả lời.   
Vì tôi đã chết.
France, khuya hôm sau...       
Tôi trở lại mạnh khỏe và cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái, đi đứng bình thường không cần walker. Tôi không gặp ba má tôi, không gặp Carrol, cũng không gặp ba của nàng. Chung quanh tôi là một số người tôi không quen biết, họ đi lại với dáng vẻ thanh thản.
Điều kỳ diệu, tôi mong muốn được gặp nàng thì tức khắc tôi đã có mặt bên nàng. Tính thời gian, tôi quen nàng được 3 năm 2 tháng; gần gũi nhau tổng cộng khoảng 7 tháng. Tương tự cuộc tình ngắn ngủi của vua Chế Mân và Huyền Trân công chúa, cũng như chuyện phim Love Story.
Tôi bồi hồi ngắm tấm hình đặt trên bàn ngủ. Tấm hình tôi và nàng chụp hôm picnic vùng Nam Cali, tươi cười dựa vai nhau ngồi bệt trên bãi cỏ xanh mướt. Nàng đang say ngủ, cái cổ ngấn nọng làm nàng già hơn sáu tháng trước. Tôi nằm cạnh nàng với tâm hồn bình thản.
Chợt biết có tôi bên cạnh, nàng hấp háy mắt nhìn tôi. Giọng nàng vui mừng ngái ngủ:
- Anh qua với em đó à!  
Tôi cười nhẹ và lập lại câu nói hôm chia tay :     
- Anh đi được là anh qua với em ngay. 
Nàng dường như không mảy may ngạc nhiên, cánh tay nàng ôm choàng qua bụng tôi làm vòng khóa êm ái, mỉm cười và tiếp tục ngáy đều. Mân mê những ngón tay nàng theo thói quen những ngày chưa bịnh hoạn, mắt tôi nhìn lên trần nhà màu trắng. Một màu trắng tinh khiết và tang tóc.
Nàng tỉnh giấc, ngơ ngác tiếc nuối giấc mơ vô cùng sống động. Nàng không ngờ rằng thế giới nàng đang sống chỉ là mộng, thế giới nàng nằm bên tôi trong giấc ngủ mới chính là thật.
Nàng điện thoại về Việt nam nói chuyện với chị tôi, biết tôi ra đi trong một trạng thái tốt lành, và linh tính tôi đang ở bên cạnh nàng, tư tưởng nàng truyền đạt đến tôi lời khen ngợi :  
- Em rất hãnh diện vì anh.
Bây giờ nàng đang mang nổi buồn ủ rủ của loài chim lẻ bạn, não nề của loài người khóc cô đơn. Tôi có nhiệm vụ an ủi nàng, nhắc nhở nàng phấn đấu, tiếp tục đời sống bình thường. Mỗi ngày nàng nhận nhiều mails bạn bè khuyên đừng buồn nhưng vô hiệu quả. Khi màn đêm buông xuống, nàng thổn thức nghe tôi vỗ về:
- Em còn nhớ những điều chúng mình đã từng nghe qua: “Ta không thể nào tránh né khổ đau. Khi ta cố tự vệ chống lại đau khổ, thì ta chỉ càng thêm đau khổ và không học được gì về kinh nghiệm khổ đau”. Em nên lấy làm an ủi: “Một trái tim chưa hề mở ra nhận chịu sự mất mát, một trái tim được che chở, luôn vô tư an ổn, thì không thể biết yêu thương”.
Nước mắt nàng ràn rụa. Tôi tiếp tục thầm thì:
- Em hãy suy nghĩ lời giảng hữu ích: “Đừng dập tắt nổi đau khổ của bạn, hãy chấp nhận nó và giữ tâm nhạy bén với nổi khổ đau. Dù tuyệt vọng đến đâu, bạn hãy nhận nổi đau khổ như nguyên trạng của nó, vì kỳ thực nó đang đem lại cho bạn một món quà vô giá, nhờ tu tập, bạn sẽ có cơ hội tìm ra được cái ẩn dấu sau nỗi đau buồn. Đau buồn có thể là khu vườn bi mẫn. Nếu bạn mở lòng ra với mọi sự, thì nỗi khổ có thể trở thành đồng minh lớn nhất của bạn trên đường tìm kiếm từ bi và trí tuệ.”   
Tôi nói thêm :
- Em nên ghi nhớ điều quan trọng mà anh đang trải qua kinh nghiệm: « Những kiến thức thu lượm được trong vấn đề tôn giáo không có giá trị gì cả . Tôn giáo là một điều phải tự kiểm chứng lấy qua sự thực hành”.

Trước khi vĩnh viễn ra đi, tôi muốn tiếp xúc với chị tôi, với con gái tôi và một số bạn thân nhưng thất bại. Tôi chỉ liên lạc được ba người. Đứa cháu dâu trong giấc mơ thấy một đám mây trắng nhẹ nhàng bốc lên từ thân thể tôi, chầm chậm bay lên cao và tan loãng vào không gian như làn khói. Cháu thức dậy nhìn đồng hồ đúng 2 giờ sáng, như vậy chị tôi sẽ hết thắc mắc về giờ giấc chính xác tôi trút hơi thở cuối cùng.
Hôm sau, thằng bạn thân ở Chicago mừng rỡ ngạc nhiên gặp tôi trong giấc ngủ:« Tao nghe nói mầy chết rồi mà !». Tôi tươi cười trả lời : « Ờ, tao về thăm mầy đây».Vậy càng hay, người bạn Công giáo này là nhân chứng hùng hồn về thuyết siêu hình.
Có lẻ linh hồn là dòng điện tinh tế, muốn phát ra phải chạm đúng tần số tương tự làn sóng đài phát thanh. Tôi liên lạc với nàng dễ dàng, có lẻ vì nàng tập trung mãnh liệt tư tưởng vào tôi cùng với thiện chí ăn chay 49 ngày. Chắc hẳn sức mạnh tình yêu đã giúp chúng tôi.
Tôi bảo nàng vào trang nhà “Cánh Thép”. Những đồng đội vẫn chưa quên tôi, có đứa thương tôi làm thơ khóc bạn. Có đứa nhắn nhủ: “Mầy linh thiêng phù hộ tụi tao nghen Tốt”. Tụi nó không biết rằng tôi có khả năng nghe và đọc được tư tưởng của người khác nhưng tôi không có quyền phép gì để phù hộ ai cả. Tôi vẫn là tôi. Tôi chỉ lìa bỏ cái xác phàm bệnh hoạn. Linh hồn của tôi trong cuộc đời hiện tại này đến từ linh hồn của đời trước và là nguyên nhân của linh hồn trong đời sau.
Nàng đọc đi đọc lại mấy lần lời phân ưu của Phong, tôi thầm cám ơn đây cũng là điều tôi muốn nói:    
“Từ khi gặp Tốt và chị, tôi đã vui mừng vì Tốt đã có cả một khung trời hoa mộng, dẫu là ngắn nhưng tôi đoan chắc một điều là Tốt cất cánh trong phi vụ cuối cùng để đi vào miền miên viễn với nụ cười hạnh phúc”.
Mùi hương thơm ba cây nhang phảng phất trong đêm khuya tĩnh mịch. Tôi và nàng ngồi trước màn ảnh computeur, nhưng duy nhất bóng đen của nàng cô đơn phản chiếu lên bờ tường lạnh lẽo. Tôi không hôn nàng vì tôi không muốn cả hai thêm bịn rịn. Tôi mân mê những ngón tay nàng... những ngón tay một ngày không xa cũng sẽ trở thành cát bụi. Nó chỉ tạm thời là dụng cụ của con người trên dương thế, chỉ là phương tiện cho tôi nhắn gởi dòng tâm thức.       
Tôi nói câu cuối cùng:   
- Hôm nay đúng 49 ngày, anh phải bye cưng. Bài viết này anh muốn lấy tựa đề « 49 ngày với em ». Cưng nghĩ sao?
(Nguyễn văn Tốt, từ trần 2g sáng 9/10/2008)   
LÊ KHÁNH THỌ



mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 13/May/2012 lúc 7:09pm


Câu chuyện tình Từ Đường Heatherglen


Phạm Ngũ Yên


Buổi sáng nay đọc thêm một bài thơ mới của Hoàng Cầm. Bài thơ làm tôi nhớ đến Ngọc. Cô gái Bắc Kỳ đã làm tôi đau khổ một thời gian khi tôi còn trong lính.

Không gian là núi đồi Bảo Lộc. Những đồi trà bạt ngàn trôi biền biệt trong sương mù. Ngày đó tuổi thơ tôi chưa biết khóc cười vì những chuyện bâng quơ, nhưng khi vào quân ngủ trái tim tôi già háp vì những tình yêu nông nổi.

Ngọc sẽ không yêu tôi nhiều nếu tôi không viết về thành phố Bảo Lộc của nàng. Khi tôi rời trường Truyền Tin để ra đơn vị, tôi không hình dung ra hết những vẽ đẹp kỳ thú của núi đồi. Tôi vẫn còn cảm thấy tiếc rẻ vì không được làm việc tại Sàigòn hay Vũng Tàu. Cuộc sống náo nhiệt và đông đúc của cư dân nơi các đô thị lớn đã ươm vào lòng tôi những giấc mơ quyến rũ như mùi vị của một men rượu đầu đời. Cho nên tôi rất buồn khi được báo tin đơn vị tôi sẽ đến là Ðà lạt- Bảo Lộc.

Trước đó, Tiểu Ðoàn Truyền Tin 620 Diện Ðịa ở Nha Trang là đơn vị chuyển tiếp. Từ Cục Truyền Tin, tôi phải về trỉnh diện Tiểu Ðoàn Trưởng trước khi thực sự về nhiệm sở mới. Ðại Úy Võ là Xử Lý Thường Vụ Tiểu Ðoàn 620, mấy tháng sau Thiếu Tá Khang về nắm chức Tiểu Ðoàn Trưởng thực thụ.

Những ngày chờ đợi ra đơn vị, là những ngày thần tiên của một người lính. Tôi không phải trực gác hay thực sự làm việc như những quân nhân khác. Suốt ngày sau khi điểm danh tập hợp ở sân cờ, tôi có cả một khoảng thời gian trống trải không biết phải làm gì, nên tản bộ ra đường Ðộc Lập gần đó, vừa ngấm phố Nha Trang, vừa tìm mua những món cần dùng. Một vài tiệm ăn cùng vài quán cà phê có bán bia và có nhạc trổi lên suốt ngày cũng được tôi ghé lại. Nhưng không thường xuyên vì tài chính không cho phép.

Mùa hè bải biến Nha Trang đầy người. Con đường Duy Tân vừa mới tân trang lại để tiếp đón du khách từ các nơi đổ về, giống như Vũng Tàu của tôi. Vài lần tôi ra đó ngồi ở bãi cát để ngắm người qua lại. Biển Nha Trang hình như xanh và êm đềm hơn ngày đó. Hay tâm hồn tôi chưa nhức nhối vì những nghịch cảnh? Tôi không biết.

Mọi thành phố biển đều không biết đến mùa đông. Cũng không có mùa thu rõ ràng để nghe heo may thổi về làm khô chỗ ngồi. Chỉ có mùi muối mặn rít róng trên da thịt và những cánh buồm lãng mạn ngoài khơi. Cùng những tia nằng lung linh trong mắt của ai cười.

Khi tôi vừa làm quen với vài góc phố, vài đoạn đường của thành phố biển Nha Trang, thì cũng là lúc tôi cầm tờ giấy sự vụ lịnh trên tay. Ðà Lạt là một đơn vị kế tiếp để tôi vác ba lô đến. Ðó là mùa hè của năm 1967. Tiểu đoàn 620 Truyền Tin Diện Ðịa có 3 trung tâm trực thuộc. Một ở Nha Trang, một ở Ban Mê Thuột, một ở Ðà Lạt.
Mỗi Trung Tâm có một chi nhánh viển thông đi kèm. Nha Trang có Cam Ranh. Ban Mê Thuột có Quảng Ðức. Ðà Lạt có Bảo Lộc. Cả 3 Trung tâm khai thác công điện thuộc về truyền tin liên quan đến vùng 2 Chiến Thuật và cùng chịu trách nhiệm thẳng với Tiểu Ðoàn.

Tôi biết thêm vài danh từ riêng cũng từ những địa danh đó.

Ðêm đêm trong hầm lô cốt, tiếng người âm thoại viên đứng máy siêu tần số liên lạc đến đơn vị bạn nghe như tiếng vang từ những hang động tối. Có những câu tưởng chừng không thể có ngoài đời, giữa cõi nhân gian bộn bề xe cộ: “Quên Ðời... Quên Ðời/ (Quảng Ðức)... Ðây, Buồn Muôn Thuở/ (Ban Mê Thuột) nghe rõ không trả lời...” Hay: ”Buồn Lòng/(Bảo Lộc) có ở đầu máy đó không? Tôi nghe bạn 5/5...”
Trong một bài tạp ghi gởi cho báo Tinh Hoa ở Sàigòn (do nhà văn Trần Dạ Từ và Tú Kếu chủ trương), tôi viết về nơi tôi đang sống, đang làm việc. Thành phố mà quanh năm ướt át sương mù và mưa bụi, tôi vừa biết ủ lòng tôi trên giấy. Những đường chiều mịt mùng trãi dài như vô tận, tôi ra ngồi ở quán cà phê một mình, nghe tương tư lắng xuống theo bước chân của ngày. Tôi biêt đau đớn như đất đai biết cựa mình chờ người nông phu gieo hạt.
Năm đó tôi vừa 22 tuổi. Tôi trẻ trung và nghe quen những đêm gió lộng ngoài khu gia binh, trong phòng ngủ độc thân. Nghe quen những tiếng chim xẻ đôi mặt hồ như tiếng dao cứa vào da thịt.
Hai mươi hai tuổi thơ mộng dường nào. Chưa có một hương hoa tình yêu đọng lại. Nhưng tôi ngạc nhiên vô cùng khi mỗi ngày trôi qua tôi bắt gặp mùi vị của núi rừng bay qua khứu giác tôi. Tôi thấy những đóa dã quỳ đã trở thành nỗi khao khát trên đường. Mọi thứ, giống như hơi lửa làm cháy bỏng tâm hồn thơ dại, mà không để lại một chút bụi tro nào hết.

Từ những ngày như vậy, tôi biết Ngọc. Tên thực sự của nàng là Ðặng Thị Thanh Ngọc. Nếu phải viết về một tình yêu giữa tôi và nàng mà không cần phải hư cấu tình tiết, tôi sẽ viết được một quyển sách.

Năm đó Ngọc mười bảy tuổi. Nàng học Ðệ Nhị trường Trung Học Bảo Lộc. Tôi không nhớ ai đó đã giới thiệu tôi với nàng và trong một dịp nào. Nhưng tôi nhớ có một lần tôi làm bộ đi theo chân nàng về nhà. Chiếc áo len tím của nàng trĩu xuống vì sương mù và chiếc Jacket nhà binh của tôi cũng vậy. Chợt một lần nàng dừng lại và trách tôi:

” Bộ ông muốn làm một cái đuôi của người khác phải không?”. Tôi bất ngờ chống chế:

” Không phải tôi muốn làm cái đuôi của một người khác. Mà chỉ muốn làm đuôi của một ngôi sao chổi...”

Nàng nhìn tôi đăm đăm. Tôi hình dung gió mùa thấp thoáng trên hai hàng mi cong vút. “Bộ tôi đem đến tai ương và bất trắc đến cho ông nhiều lắm sao?”. “Hình như đàn bà ai cũng là những ngôi sao chổi. Luôn quét sạch mọi thơ dại êm đềm của người đàn ông...”. “Ðược thôi. Nàng nói. Rồi ông sẽ thấy đúng như vậy.”

Những ngày mới quen nhau, nàng xưng hô với tôi như vậy. Gọi tôi bằng ông và xưng tôi. Sau này thấy tôi tha thiết quá nên Ngọc thay đổi. Ngọn lửa cháy theo những bước chân liều lĩnh, tôi đi theo nàng mỗi ngày, từ trường học về nhà. Tôi thản nhiên với nhửng tiếng cười, những lời đàm tiếu của đám bạn của nàng.

“Dường như họ ghen tức với tình yêu của chúng ta”. Tôi phát biểu. Nhưng nàng có vẻ không tán thưởng lời nói của tôi.

Phải mất một thời gian khá lâu, tôi mới rũ được nàng vào quán cà phê với tôi. Ðêm mùa đông có sương lơ đảng chảy tràn bên ngoài vách quán. Bên ngoài khung cửa sổ có gắn kính. Như một dòng sông buồn. Từ đó tôi nghe những khao khát dội lên khi tôi chạm đến những đầu ngón tay của nàng. Tôi không chờ đợi một hạnh phúc, nhưng cảm nhận đàng sau môi cười nàng là một đời sống huyễn hoặc không tên gọi. Những lời mưa chan chứa một nỗi nhớ không nói lên thành lời.

Khi tôi không còn bên cạnh nàng sau này, tôi nhớ vô cùng những ly cà phê tôi và nàng cùng uống trong quán cà phê có tên là Anh Ðào. Nó không phải là một nơi chốn thơ mộng như những quán cà phê bên đường lưu lạc. Nhưng nó đánh dấu tình yêu đầu đời của tôi- hay ít ra nó cũng đánh dấu một tình yêu êm đềm từ những năm lính tráng. Ngày đó nàng bé nhỏ xiết bao. Nhưng nàng vô cùng dịu mát một vầng trăng đêm.

Làm sao tôi có thể quên được nàng. Hoa sứ vẫn nồng nàn đậu xuống khung tường rêu đang chật vì bàn ghế, vì chỗ ngồi. Tiếng nhạc trìu mến từ loa phóng thanh như một lời nũng nịu. Một lúc nào đó, lá sẽ vàng úa và nàng sẽ khác xưa. Tôi nghĩ thầm. Nhưng không phải vì vậy mà tình yêu chúng tôi sẽ úa vàng theo lá.


2.
Nhưng hình như tôi đã lầm. Tôi đã không mường tượng ra một ngày tình yêu tuột mất trong bàn tay. Khi nàng mang yêu thương trao cho một người đàn ông khác. Làm sao để lượng giá một tình yêu và xác xuất rủi may trong khi tâm hồn người đàn bà giống như một loài sáo? Có lẽ nào sự quên lãng giống như một cơn mưa bay qua bầu trời, để lại những màu sắc lòe loẹt như một chiếc móng. Nàng quên tôi dễ dàng, như một mùa hè bỏ quên tiếng ve sầu trên hàng cây mệt lã.
Sinh nhật của nàng, tôi ngồi viết những câu thơ với lòng ráo hoảnh không một lời mưa rụng xuống. Nỗi đau luôn thật và dài.

Có những giấc mơ cháy rụi trong đêm và đôi mắt trở thành hai vì sao ngủ quên. Bài hát năm nào trong quán cà phê không phải dự báo lời chia tay, nhưng có những câu giống như một lời tiên tri:”... ngày mai em có đi lấy chồng.../ (bài đoạn tuyệt)”.


Sân trường xưa tôi không dám quay về vì sợ gặp lại nụ gai quá khứ. Chúng có khả năng châm đau và gây trong lòng thương tổn. Con đường chia hai và Ngọc đã đi về một hướng đời mênh mông, trong khi trên đầu tôi xanh thẫm một màu nhớ. Trong tình yêu, người này sống bằng nhịp thở của người kia. Tôi nhớ có một lần tôi nói với nàng như vậy. Nhưng còn hôm nay? Chỉ còn lại trong lòng nhau những cánh gió gom đầy lá úa hoài mong.

Bảo Lộc cách xa Ðà lạt gần 100 cây số. Tôi không kịp về để nhìn lại những luyến ái. Nhưng mỗi ngày trôi qua, tôi vẫn không thể quên rằng trong cái thành phố nhỏ bé đó từng có một tình yêu tuyệt vời. Và những dấu chân nàng dẫm lên từng hơi thở của tôi.

Cho đến ngày tôi sang Hoa Kỳ, tôi vẫn không gặp lại nàng. Tôi xa nàng mười sáu năm. Thời gian dài bằng thời gian của Dương Qua và Tiểu Long Nữ. Nhưng Dương Qua trùng phùng cùng Tiểu Long Nữ- Cô Cô của chàng- sau mười sáu năm. Còn tôi không hi vọng sẽ gặp lại Ngọc, trong hêt cuộc đời còn lại. Vì sao? Vì hai bến đời bao la quá. Và vì nàng đã yên bề gia thất. Không có chân trời thì làm sao đễ người ta tin vào bờ bến?

Tôi đã qua một thời xuân xanh để nghe tóc mai sợi vắn sợi dài đan trong hồn nhau. Trên những nẽo đường mịt mùng vô tận như ngày nào, không biết giữa tôi và nàng ai lạnh hơn ai? Ai sẽ để mọc dài trong lòng nỗi nhớ? Hạt mưa trái mùa có làm nhòe nhoẹt những môi hôn đầu đời?

Nghe nói nàng có chồng.” Mưa bên chồng có làm cho em khóc...?”/ Nhạc Vũ Thành An đó.


3.
Sáng nay đọc thêm một bài thơ của Hoàng Cầm. Bài thơ mới cùa một hồn thơ bây giờ đã hơn 90 tuổi:

Xanh xanh lại mùa ảo vọng
Óng thơm dài mái tóc em
Lênh đênh lại dềnh biển sóng
Bốn phương mây trắng nỗi niềm


Hễ nói đến quên lại nhớ
Nhớ nhiều sao chỉ về đêm
Giấc ngủ còn gì để thức
Toàn thân bụi đỏ thoa mềm


Ai vừa cười nụ bên thềm
Vườn cũ bông hồng rạng sáng
Vội vàng chi sập bóng đêm
Mắt cô láng giềng lai láng


Vâng thì em lại lấy chồng
Thế cũng vui đời đôi chút
Dẫu đến nơi nào heo hút
Mai đừng trở lại phòng không


Ta biết mai này mây trắng
Thường bâng khuâng cõi chiều hoang
Ni cô bỏ chùa Long Khám
Về xin đi lại đoạn đường


Vậy thì đi hết đoạn trường
Mới hiểu đâu là hạnh phúc
Thế gian những gì không thực
Thường vây hãm nẻo tâm linh


Tôi biết em đi hy vọng
Giữa rừng tìm một lá xanh.


Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt. Vì ông ra đời năm 1912 ở thôn Phúc Tằng, huyện Việt Yên, Bắc Giang, Hà Nội.

Trong nhật ký của Hoàng Cầm, khi ông còn rất nhỏ- 12 tuổi - đã yêu say đắm một người con gái là chị Vinh. Chị Vinh lớn hơn ông 8 tuổi, và rất đẹp. ông ghi lại điều đó trong nhật ký:

“...biết thằng bé con này nó mê đắm mình, nên chị cứ hay trêu đùa, lắm lúc tôi phát khóc, nhưng cũng nhiều giờ phút tôi có một niềm hạnh phúc không có gì so sánh nỗi là được chị Vinh cho ngồi sát bên Chị, chầu rìa những cuộc chơi tam cúc ngày Tết, ngày xuân hay ngày hội. Chị thường nhờ những đêm trăng sáng vào mùa hè, mùa thu, tổ chức những đám thanh niên tụ tập ở cái bãi sau nhà ga, hát ví, hát trống quân, hát ống, hát giao duyên, hát vấn đáp, đặc biệt về môn quan họ thì Chị là bà Chúa của dân ca. Giọng ngọt, say như mật ong, đôi mắt đen buồn thăm thẳm với hàng mi cong và dài, mà luôn luôn ững đỏ, môi luôn luôn đỏ hồng lại còn cắn chỉ quết trầu, răng đen cũng rưng rứt hạt na... Chị Vinh ơi, viết đến đây, em vẫn bồi hồi nhờ từng sợi tóc trên vừng trán, từng con mắt chị lúng liếng, tình tứ, từng giọng hát, từng lời nói, từng nụ cười, em còn ngửi thấy hơi tóc ấm của Chị thoảng mùi hương như mới gội buổi chiều, mà nếu Chị buông tóc dài quá đầu gối đễ hong khô thì cả suối tóc ấy làm thành thế giới mê say của em từ độ ấy...”/ trích Nhật Ký.

Người Chị ấy của Hoàng Cầm là có thật. “...lúc cùng với em đi Về Kinh Bắc, lúc thì đố Lá Diêu Bông, lúc vào Vườn Ổi, lúc đánh Tam Cúc, lúc lên Ngọn Sông Thương, lên tít ngọn Kỳ Cùng, Ðếm Sao, Ðếm Nắng, Ðếm Giờ, Em cứ theo đuổi chị qua hội hè, rồi qua cả những tàn tạ của cảnh vật và lòng người, cho đến mùa rét năm 1934, cái Lá Diêu Bông bắt nguồn từ buổi chiều năm ấy, hình như vào dịp nghỉ Lễ Thiên Chúa Giáng Sinh, những bốn năm ngày liền tôi về nhà, nghĩa là cứ nghỉ học là tôi về nhà với niềm say mê đơn phương, một chuyện tình có Chị, có Em, mà tôi vẫn chỉ là một khối cô đơn lẽo đẽo bụi hồng. Tôi đã 12 tuổi và Chị Vinh đã 20...”/ (trích Nhật Ký)


Những tình yêu đi ra ngoài không gian và thời gian như vậy, cuộc đời này còn được bao nhiêu?

Tôi nhớ những ngày chỉ có mùa đông, tôi và Ngọc ngồi kề bên nhau trong căn phòng ấm áp nơi nhà nàng, bên cạnh con đường liên tỉnh nối liền Blao và Di Linh. Hoa sứ sau vườn đang ngậm mù sương trắng xóa. Chiếc áo chật căng và mái tóc rối bời tung xỏa trên vai nàng, tôi nghe thời gian vừa chạm đến tàn phai. Tôi nghe tiếng rụng của một cành thông rơi xuống hồ Ðồng Nai Thượng làm xé đôi mặt nước.

Ðã có biết bao nhiêu mùa xuân trôi qua trong đời một người. Nhưng hôm nay, tại đây, trong ngôi nhà cũ đường Heatherglen, tôi thấy mùa xuân chỉ mới bắt đầu. Tôi thấy tháng tư mới chỉ bắt đầu khi nghe tin những cây anh đào mới vừa nở hoa dọc gần bờ sông Potomac, một bờ sông từng có thời ngăn đôi đất nước Hoa Kỳ. Phía bên kia thấp thoáng mũi nhọn đỉnh tháp Washington Monument đâm lên nền trời trong vắt- người ta còn gọi là Tháp Bút Chì.

Có hơn 3,800 cây hoa anh đào có xuất xứ từ Nhật Bản được trồng xung quanh hồ Tidal Basin nơi có các đài tưỡng niệm xen giữa khu National Mall. Màu trắng và màu hồng cũa hoa trộn lẫn làm cho cảnh vật mang vẽ tươi tắn hẳn lên. Những chiếc lá xanh làm thành vòm cong đan vào nhau, đưa ngọn xuống tận lổi đi của người đi bộ, gợi trong lòng du khách một nơi chốn thanh bình.

Vậy mà trên quê hương tôi hôm nay, sự bình an bị mất dấu từ một tháng tư. Sàigòn mang trên lưng sự nhức nhối và ấp ủ nỗi rét mướt trong lòng. Lúc tôi đi, đường phố Sàigòn lần lượt đổi tên và đêm về chứng kiến những giọt lệ thẹn thùng xóa đi đời con gái. Những mắt buồn như mưa và những môi khô màu lá thay nhau rụng xuống mọi góc hiên đời.

Tiếng gió thổi bên đường chiều mịt mùng. Xe cộ vẫn ngược xuôi, ồn ào. Nhưng Sàigòn một thời luyến ái của tôi không còn.

Có thể khi thế hệ của tôi lần lượt ra đi, những thế hệ kế tiếp cũng không thể khá hơn vì đất nước khó lòng vươn mình trong một chế độ lấy sự vô luân làm chủ. Sự chênh lệch giàu nghèo đã trở thành một truyền thống do đó bên cạnh một số ít cán bộ đảng viên có trong tay hàng tĩ mỹ kim là hàng triệu người đói rách.

Biết bao giờ tôi có thể nhìn lại sự rực rở của một Sàigòn xưa? Khi tôi còn trong cõi đời này?

Một bàn tay chạm đến một bàn tay, dù khẽ khàng nhưng cũng làm rung động âm vang của một lời yêu cũ...


Phạm Ngũ Yên

 

 




Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 13/May/2012 lúc 7:25pm
mk
IP IP Logged
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 07/Jun/2012 lúc 10:37pm
Câu Chuyện Tãn Mạn Về
Những Thiên Thần Sa Địa Ngục
MĐ Hoàng TĐTT.

Tôi lớn lên và trưởng thành trên mảnh đất Sài Gòn này, những kỷ niệm vui buồn tôi không thể nào quên được. Những ngày đó, tôi là một học sinh gương mẫu, từ gia đình, nhà trường, cho đến xã hội. Cho tới năm tôi học lớp 12, theo lệnh nhập ngũ, tôi suy nghĩ không biết mình nên chọn binh chủng nào đây và tôi chợt nhớ lại trận Mậu Thân mà VC tấn công vào đài phát thanh Sài Gòn, lúc đó tôi 16 tuổi. Thấy những người lớn đi xem Nhảy Dù đánh với VC chiếm lại đài phát thanh thì tôi cũng tò mò đi theo. Cách đài phát thanh Sài gòn khoảng 200 mét nơi giao tranh, tôi núp vào hẻm Cây điệp xem, lúc đó Nhảy Dù tấn công và trong đài có một tiểu đội ND ứng chiến, chỉ trong vòng 15 phút thì đơn vị Nhảy Dù đã tiêu diệt gọn những tên đặc công VC. Khi im tiếng súng, tôi mới lại đứng gần các anh ND và nhiều người hỏi các anh. Các anh ND nói là VC muốn chiếm đài phát thanh để phát sóng nhưng bị tiểu đội ứng chiến đánh nên VC không thể thực hiện ý đồ và đơn vị Dù này đã bắt được 5,7 tên VC còn sống và một số thì chết. Chỉ trong vòng 15 phút mà Nhảy Dù đã tiêu diệt gọn mười mấy tên VC và các anh nói rằng:” Tụi VC giống những con chuột chui vào tủ chén, chúng tôi bắt nó nhưng sợ bể đồ nên hơi lâu một chút.” Vậy là từ đó tôi nghĩ đến người lính nhảy dù.
Cuối cùng tôi chọn binh chủng Nhảy Dù và yêu màu mũ đỏ như yêu chính bản thân tôi. Khi vào lính, tôi được học quân sự và được huấn luyện nhảy dù. Ngày mãn khóa, gắn bằng dù tôi mới thật sự là người lính Nhảy Dù. Khi tôi được về Tiểu Đoàn Truyền Tin, tôi là tân binh, đời quân ngũ bắt đầu từ đây. Khi về tiểu đoàn, tôi chưa có một người bạn thân nào hết. Cho đến một buổi chiều ngồi trong chợ sư đoàn uống Cà Phê một mình thì có một người trong tiểu đoàn tôi bước vào, người đó ngồi xuống cạnh tôi. Chúng tôi làm quen và nói chuyện với nhau.Được biết anh ta tên là An. Trong vài giờ nói chuyện, chúng tôi có cảm giác như là đã quen nhau lâu lắm. An khóa dù 199 trước tôi, còn tôi 204. An lớn hơn tôi 1 tuổi, nhưng sau này thân rồi chúng tôi kêu mày, tao thôi. An khác đại đội tôi, dù vậy, tình cảm anh em rất khắng khít. Mùng 5 Tết năm 1971, sư đoàn Nhảy Dù đi Hạ Lào. Bộ chỉ huy sư đoàn đóng tại Khe Sanh, tôi thì tăng phái cho lữ đoàn 3 Dù. Cuộc hành quân này tôi bị thương. Sau khi khỏi hẳn được xuất viện về đơn vị , tôi được gắn 2 huy chương Anh Dũng Bội Tinh ngôi sao đồng và một Chiến Thương Bội Tinh do Thiếu Tá Nguyễn Tự Bảo TĐP gắn cho tôi. Sau lần bị thương đó, tôi mới biết thế nào là chiến tranh. Về lại đơn vị, tôi gặp lại An. An thuộc Trung đội ứng trực hành quân, còn tôi thì về hậu cứ. Sau này, tôi đeo máy cho Thiếu Tá Sum. Đầu năm 1972, Sư Đoàn Dù được lệnh tái chiếm Quảng Trị thì tôi theo Sư Đoàn ra ngoài đó. Bộ Chỉ Huy của SĐND đóng tại cây số 17. Tôi gặp lại An , chúng tôi vui mừng lắm. Sau năm 1974, tôi theo Thiếu Tá Sum về hậu cứ Sư Đoàn. Còn bạn tôi ở lại, cho đến ngày 30/4/1975, tôi đi lính được 5 năm, ôi, 30/ 4/1975 là cái ngày con xa Mẹ, vợ xa chồng, gia đình li tán. Thật thảm thương cho những gia đình Việt Nam Cộng Hòa. Nói làm sao cho hết đây, khi chỉ có những người trong hoàn cảnh đó mới hiểu nổi.
Hôm nay tôi viết lại những dòng chữ này, nhớ lại chuyện cách đây 37 năm mà cứ ngỡ như ngày hôm qua, khi bọn CS bắt tất cả những quân nhân vào trại tù mà bọn chúng gọi là “ cải tạo”. Chúng tôi chỉ ở tù ngắn ngày vì chúng tôi từ Hạ Sĩ Quan trở xuống. Còn Sĩ Quan thì ở tù không biết ngày nào về. Sau những năm đó, tôi phải đi kiếm sống vô cùng gian khổ, nhiều khi ngồi buồn muốn khóc, nhớ lại bạn hiền, nhớ lại cấp chỉ huy, nhớ lại thằng bạn tri kỷ, tự hỏi không biết bây giờ nó ra sao? Những năm đó bọn VC bắt gia đình tôi phải đi kinh tế mới, đời tôi đau khổ biết chừng nào! Những ngày dài trên mảnh đất mà mình được sinh ra, sao nay tôi cảm thấy lạ lẫm quá! Từ sinh hoạt cho đến giọng nói nghe hung dữ và man rợ cứ ngỡ rằng mình đang ở một bộ lạc nào chứ không còn là Sài Gòn của tôi nữa. Nửa đêm thức giấc ngồi hút thuốc mà lại nhớ người bạn thân thương của tôi, không biết bây giờ nó ra sao, còn sống hay đã chết, hay nó đã đi ra nước ngoài rồi. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi nếu còn sống sao nó không về thăm mình? Tôi lập gia đình rất trễ, đến 40 tuổi tôi mới lấy vợ. Sau này nhớ lại bạn hiền, tôi có kể chuyện này cho vợ tôi biết.
-“ Anh có một người bạn cùng quân ngũ thân lắm. Không biết bây giờ nó ra sao?”
Cho đến nay, 37 năm, tình cờ tôi coi trên mạng thấy Tươi, cùng tiểu đoàn với tôi, là Hạ sĩ quan quân số Ban I , có viết một bài kêu gọi anh em trong Tiểu Đoàn Truyền Tin nếu biết được tin này thì xin giúp đỡ cho anh em cùng tiểu đoàn. Hãy gọi vào số điện thoại của Tươi. Thật trùng hợp làm sao, trong bảng danh sách đó có tên người bạn hiền của tôi. Tôi gọi cho Tươi, Tươi mừng lắm, sau này chúng tôi gặp nhau, Tươi cười nói -“ Bữa đêm đó, mày gọi điện cho tao, tao không ngủ được mày ơi!”
Tôi hỏi số điện thoại của An thì Tươi nói bây giờ mừng quá, số điện thoại của nó tao bỏ ở đâu rồi, để mai sáng tao kiếm rồi điện cho mày.Thật tình đêm đó tôi cũng không ngủ được. Nằm đến sáng khoản 7h30, Tươi điện cho tôi và cho số điện thoại của An. Tôi lập tức gọi, nghe tiếng chuông đổ, sau đó là một giọng ông già cất lên ở đầu dây bên kia. Tôi hỏi có phải An không. Bên kia im lặng một chút, tôi liền hỏi:” Mày không nhận ra tiếng của tao hả? Tao là Hoàng nè.” Nó lắp bắp:” Hoàng, Hoàng hả mày?” Tôi nói:” Ừ! Tao đây, bây giờ mày sống ở đâu? Tại sao mày không ghé lại nhà tao?.” Bạn tôi nói năm 75 tao ghé lại nhà bên mầy nhưng lối xóm họ nói gia đình mầy bị đuổi đi kinh tế mới nên tao không biết mầy ở đâu mà tìm. Ôi tình bạn, sau 37 năm nghe lại giọng nói của thằng bạn cảm động làm sao. Chắc bây giờ nó già lắm rồi. An lớn hơn tôi một tuồi, bây giờ chúng tôi đứa nào cũng trên 60. Tôi nói thứ bảy này tao lên thăm tụi bây. An nói thứ năm tuần tới mày lên đi vì thứ năm này tao gả con.
Tôi đếm từng ngày, cho đến sáng thứ năm, tôi đón xe lên Tây Ninh rồi ghé nhà Tươi trước, còn An ở cách biên giới 3 cây và cách nhà Tươi 43 cây số, nên vừa xuống bến xe, tôi điện thoại cho Tươi, lúc nó ra đón tôi thì hai anh em chúng tôi nhận ra nhau, liền ôm nhau mừng mừng tủi tủi, không nói nên lời. Tươi dắt tôi về nhà, vừa đi Tươi mừng quá, nó la lớn đến nỗi những dãy nhà bên đường, người dân chạy ra xem, Tươi nói rằng bạn của tôi đó. Cách xa nhau 38 năm rồi mới gặp lại, mừng quá. Đến nhà Tươi, dù mới biết tôi lần đầu tiên nhưng vợ Tươi cũng rất vui. Ờ nhà Tươi ăn cơm xong thì Tươi sửa soạn chờ tôi vào nhà An. An nhận ra tôi nhưng tôi thật tình không nhận ra nó, nó già quá. Nếu tôi thấy nó ờ ngoài đường chắc nhìn bạn mình không ra. An chạy ra ôm tôi, tôi ôm bạn, bạn tôi nói còn sống được là may mắn lắm rồi. khoản 7h tối, nhà gái đãi nhóm họ. Thật sự là tôi không ngờ, ngồi quanh bàn tròn 12 người trong đó gồm những người bạn ngày xưa thân ái của tôi. Bạn tôi có 4,5 người ở TĐTT xin đi qua đại đội 2 và 3 trinh sát nhảy dù và tiểu đoàn 8. chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ gặp được anh em, gặp lại mảnh vỡ của Thiên Thần. tôi là người đi tìm linh hồn của mảnh vỡ đó. Đêm đó, 12 anh em chúng tôi tâm sự đến 7h sáng và An có kể lại câu chuyện nằm Tiền Đồn mà, tôi còn nhớ lúc đó bộ chỉ huy SĐND đóng ở cây số 17. An là tiểu đội trưởng.Tiểu Đoàn Truyền Tin chúng tôi có một trạm tiền đồn về hướng Nam gần đường rầy xe lửa, cách cầu Bạch Hổ độ khoảng 2km thì đêm đó khoản 11h khuya, có 5 tên đặc công VC lén vào làng của dân. Lúc đó, trời có trăng nhưng không sáng lắm, thì tên đặc công thứ nhất bò qua đường rầy, người lính gác trong tiểu đội của An trông thấy và bắn liền, tên đặc công chết ngay tại chỗ , còn 4 tên chạy trở ngược lại điểm xuất phát. Lúc đó trong bộ chỉ huy SD gọi máy ra, người gọi là Trung Tá Bường, chỉ huy trưởng phòng thủ thì An báo lại với Chỉ Huy Trưởng phòng thủ rằng khoản 5 tên VC tính bò qua làng dân, chúng tôi hạ 1 còn 4 tên chạy thoát. Hướng chạy của 4 tên còn lại về hướng Tây. Ở phía sau bộ chỉ huy của sư đoàn có một ngọn núi lâu quá anh em chúng tôi quên tên ngọn núi đó là gì. Khoảng gần 1 tiếng sau tôi nghe tiếng súng gần chân núi nổ giòn giã rồi im lặng. Sáng hôm sau, khoảng 7h sáng tôi đi qua câu lạc bộ của trung đoàn 3 sư đoàn 1 uống cà phê. Lúc sau có 4 hoặc 5 anh em trinh sát ND cũng vào uống cà phê, thấy tôi cũng nhày dù nhưng mang phù hiệu tiểu đoàn TT thì một anh trinh sát nói hồi tối bên mấy anh hạ được một thằng phải không? Tôi nói đúng rồi, hình như 5 VC nhưng tiền đồn hạ có 1 thằng và những anh Trinh sát cười nói anh em trinh sát thấy nó đi qua nhưng chúng tôi để cho toán tiền đồn lập công nên anh em chúng tôi không bắn. Khi nghe hướng tiền đồn có tiếng súng, chúng tôi đón chặn hướng trở về của tụi nó, sợ các anh tiêu diệt không hết, đúng như rằng còn sót lại 4 tên chạy về. Anh em chúng tôi hạ hết. Tôi ngồi ngẫm nghĩ, đúng là thiên thần sát địch vì trong sư đoàn nhảy dù có những đơn vị chuyên môn. TĐTT của chúng tôi không trực tiếp chiến đấu nhưng chúng tôi làm việc 24/24 để giữ liên lạc, không kém phần quan trọng.
Nếu bộ chỉ huy là đầu não thì Truyền Tin chúng tôi là thần kinh hệ. Đêm đó anh em chúng tôi mỗi người nhắc lại những kỷ niệm vui buồn. Ngồi ôn lại những năm tháng chúng tôi là Thiên thần. Có người bạn thốt lên: Tại sao mình là thiên thần mà không được lên Thiên Đàng, mà anh em chúng ta phải ở tận cùng của địa ngục. Tôi mới chực nhớ ra, phải rồi, không phải chỉ Thiên Thần mà cả dân tộc VN này đang ở tận cùng địa ngục trần gian. Tôi thầm cầu nguyện ơn trên cho dân tộc VN này trở về Thiên đàng khi xưa, chứ hiện tại dân tộc VN đang ở tận cùng địa ngục và những mảnh vỡ thiên thần đã lưu lạc khắp 4 phương tám hướng và linh hồn của mảnh vỡ hãy quyện vào nhau để tạo thành một Thiên Thần đầy quyền năng trong sáng để cứu giúp cho dân tộc VN này hết lầm than.
Thành Phố Xác Ướp

MĐ Hoàng TĐTT
Đầy ly cạn , ru đời biệt xứ
Cạn ly đầy , quên kiếp lưu vong
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 18/Feb/2013 lúc 6:51pm


Câu chuyện tình CHÂN TRỜI TÍM

0.7879958550937137

NGUYỄN KHẮP NƠI – 10 11 12012

www.nguyenkhapnoi.com

Sau biến cố Tháng Tư 1975, cuộc sống của toàn thể người dân miền Nam bị hoàn toàn đảo lộn: Một số người đã may mắn vượt biên ra ngoại quốc tìm tự do, số còn lại phải gánh chịu số phận hẩm hiu của người thua trận: Những người lính như tôi thì bị bọn Cộng sản ghép vào cái tội là đã cầm súng chiến đấu bảo vệ quê hương, tức là chống lại chúng, và bị lưu đầy ở những nơi rừng thiêng nước độc. Thân nhân cha mẹ vợ con của người lính thì bị ghép vào tội "Tàn Dư Của Ngụy Quân, Ngụy Quyền" Những người dân buôn bán có chút tài sản thì bị ghép tội "Tư Sản Mại Bản" và bị đưa đi đầy ở những vùng "Kinh Tế Mới". Số người dân còn lại thì được cho sống, nhưng dưới bàn tay cai trị sắt đá man rợ đầy tính cách trả thù không có tình người của bọn Công an Cộng sản.

Sau một thời gian tù mà bọn Việt cộng gọi là "Học tập cải tạo", tôi được trả trở về đời sống thường dân, kiếm sống bằng nghề . . . bán hàng chợ trời. Thực sự, bán hàng là nghề tay trái, tìm đường vượt thoát chế độ Cộng sản là nghề tay phải.

Tìm đường đi hoài mà không thấy, khi thấy được đường đi thì lại . . . đi không tới. Đầu óc tôi lúc nào cũng liên tưởng tới một thiên đường Tự do với quyền làm người và trước mặt tôi là những khó khăn mà tôi phải đương đầu để sống còn.

Trong cái khó nẩy sinh ra cái khôn, độc thân tìm đường vượt biên quả là nan giải. Không tìm được đường đi, nhưng tôi lại tìm được bạn đồng hành: Tôi lấy vợ.

Đám cưới của tôi không còn là "Đám Cưới Nhà Binh" nữa, mà là đám cưới . . . nhà nghèo. Số tiền còn lại của tôi sau những chuyến vượt biên hụt không đủ để mua chiếc nhẫn cưới, nhưng may mắn mợ tôi đào dưới đất lên còn được ít vàng, dúi cho tôi một ít để làm hai cái nhẫn cưới.

Đám cưới của chúng tôi, dĩ nhiên là không có thiết giáp xe tăng tầu bay, không . . . linh đình biết mấy như thời đám cưới nhà binh, mà chỉ loe que cha mẹ và số anh em còn lại của hai bên. Tôi không có gì làm quà cưới cho cô dâu, mà chỉ có một lời hứa. Tôi cầm cái đàn gỗ hát cho vợ tôi nghe:

1. Chan-Troi-Tim-Ngoc-Ha-Nguyen-Khang.mp3 02:05 

"Anh hứa đưa em về nơi . . . chân trời tím,

Gom hết mây hai đứa xây lâu đài yêu . . ."

(Chân Trời Tím, Trần Thiện Thanh)

Vợ tôi tưởng thật, hớn hở hỏi tôi:

" . . . Chân Trời Tím . . . đẹp quá há anh . . . nó . . . ở đâu vậy. . .?"

Thật sự thì tôi chỉ hát vậy thôi, hứa vậy thôi, cho vợ tôi nghe . . . cho vui vậy thôi, chứ làm sao tôi biết được cái chân trời tím này nó như thế nào? Và nó ở đâu?

Nhưng không lẽ tôi chịu bí? Tôi làm ra bộ bí mật:

" . . . Chân Trời Tím ở một nơi . . .  rất khó tìm . . . rất xa . . . nhưng anh rất thích nơi đó, và anh nghĩ rằng, em cũng sẽ thích khi đến được nơi đó."
Vợ tôi nghe thế là chịu liền:

" . . . Anh đưa em tới chỗ đó, nghen!"

Thế là tôi có vợ.

Sau đám cưới, hai đứa tôi hì hục làm việc kiếm tiền mua vàng lo vượt biên. Mỗi buổi tối ngồi bên nhau, tôi đổi tông giải thích về chân trời tím cho vợ  tôi nghe:

"Chân Trời Tím là một nơi mà mình đặt tất cả những ước mơ của mình ở đó, và mình ráng tìm đủ mọi cách để đến đó. Chân Trời Tím của chúng mình bây giờ là xứ Úc ở tận chân trời xa tắp, ở đó có tự do, có hạnh phúc. Anh sẽ tìm ghe vượt biên để đưa em đến đó, mình sẽ sống một cuộc đời đáng sống . . . nghe em."

Lần vượt biên đầu tiên của cả gia đình, chung tôi cùng thì thầm với nhau: "Đi tìm . . . Chân Trời Tím" Tôi đi theo ghe chở hàng từ Saigòn xuống Rạch Giá để giao hàng, trên đường về, ghe sẽ không chở hàng mà chạy từ từ kiếm bãi đáp. Ghé Cần Thơ, rồi Vĩnh Long . . . không có chỗ nào an toàn cả. May  phước chúng tôi tìm được bãi ở vùng Trà Vinh. Một người trong đám chúng tôi vọt Honda gấp về Saigòn báo tin để cả đám đổ xuống bãi. Khi đám người đang sửa soạn vào bến thì có đám Công an kinh tế đến hỏi giấy tờ ghe, chúng tôi một mặt trình giấy, mặt khác đưa người báo tin gấp ngưng đổ bộ.

Lần vượt biên thứ hai, tôi để vợ con đi trước, mình trở về coi nhà để tránh dòm ngó, cũng không xong.

Lần thứ ba, vợ chồng bàn nhau:

"Để anh đi trước, em với con ở nhà chờ đi chuyến sau. Nếu anh tìm được Chân Trời Tím, anh sẽ lo sửa soạn mọi thứ bảo lãnh em và con qua.

May mắn thay, tôi vượt biên trót lọt, chỉ bốn ngày sau là tới đảo Pulau Tanga ở Mã Lai, và may mắn hơn nữa, một tháng sau là tôi đã bình yên định cư ở Melbourne rồi.

Tôi mượn tiền xã hội trước của của Enterprise Hostel đánh điện tín về cho cha mẹ vợ con:
"Đã tìm ra Chân Trời Tím, sẽ làm thủ tục đi đường cho em và con."

Tôi vừa mới nộp đơn cho Bộ Di Trú Úc, giấy tờ chưa ráo mực thì vợ tôi đã bồng con đi chuyến sau và tới đảo Bidong an toàn. Tôi nhận được tin, đang lo làm đơn bảo lãnh mới thì vợ con tôi đã tới Melbourne rồi.

Hai vợ chồng tôi hì hục đi làm kiếm sống. Kiếm được ít tiền dư, tôi nghỉ làm trở lại trường đi học, vợ tôi gồng mình đi làm factory nuôi chồng nuôi con. Đến khi tôi ra trường, tìm được việc làm rồi thì tới phiên tôi đi làm để vợ đi học. Tôi làm việc tới tấp, có khi tôi làm ba jobs trong một ngày, chỉ ngủ có vài tiếng đồng hồ mà thôi.

Khi cơn bĩ cực qua đi, vợ chồng tôi đủ tiền đặt cọc và mượn tiền mua căn nhà đầu tiên. Ngày cầm chìa khoá đi nhận nhà, tôi lại nói với vợ tôi:
“Đây là . . . căn nhà mầu tím, ở nơi chân trời  tím mà anh đã hứa đưa em tới đó.”

Vợ tôi ngắm căn nhà một hồi rồi nói:
“Không được đâu . . . nhà mà sơn mầu tím, nó . . . kỳ lắm, như vầy là đẹp rồi.”

Đồ đạc trong nhà chúng tôi . . . chẳng có gì hết, đi từ đằng trước ra đằng sau, nhắm mắt đi cũng không đụng phải cái bàn cái ghế nào hết. Vợ tôi vừa xếp đồ vào trong nhà vừa tự hát:
“Anh chắc em mơ về nơi chân trời tím. 
Nghe đáy tim mơ ước khi ta tròn đôi 
Xin yêu ái muôn đời không lẻ loi 
như sắc mây chân trời tím chiều rơi.”

Hát đã, vợ tôi suy nghĩ một hồi rồi chợt hỏi tôi: 
“Anh ơi . . . Chân Trời Tím nó . . . ở chỗ nào hả anh?”

Tôi vui vẻ trả lời:

“Đây này. Chân Trời Tím là nơi mình đang đứng đây này. Có phải là từ hồi đến Úc tới giờ, em mơ mua được một căn nhà ưng  ý hay không? Bây giờ em đang đứng trong ngôi nhà mà em thích đó. Em đã đạt được niềm mơ ước của em, tức là em đã đến nơn Chân Trời Tím mà em mong ước đó, đúng không em?”

Vợ tôi ngập ngừng một hồi rồi mới nói:

“Cũng đúng, nhưng mà em chưa thấy . . . Chân Trời Tím . . .

Em muốn nói chân trời tím thật sự kìa.”

Trước mắt của vợ tôi bây giờ, chắc là bà ấy chỉ thấy một chân trời . . . xám ngắt chứ không phải là tím như trong mơ ước. Tôi nhìn quanh căn phòng, cũng chỉ thấy mấy bức tường trắng xoá, chứ chẳng thấy một mảng nào của chân trời tím cả.

Tôi vừa thở vừa . . . hứa tiếp với vợ:

“Anh . . . sẽ tìm ra chân trời tím thật sự và anh . . . sẽ đưa em tới đó.”

. . . . .

Ba chục năm trôi qua rồi, tôi vẫn chưa tìm ra cái mà tôi gọi là chân trời tím để đưa vợ tôi tới cả. Tôi đành nói với vợ:

“Chân trời tím nó chỉ là . . . tưởng tượng thôi em à. Thôi thì . . . cứ nơi nào em ước mơ và đạt được ước mơ đó, thì nơi đó là chân trời tím đó . . .”

Ngày lại ngày trôi qua . . . Bất chợt, một hôm tôi nhận được email của một người bạn ở bên Mỹ. Trong đó có những tấm hình chụp một hàng cây Jacaranda – Phượng Tím thật là đẹp. Ông bạn giải thích những tấm hình này là:
“Cảnh đẹp bên Úc.”

Tôi ngắm những tấm hình, những hàng cây nối dài với nhau thành một chuỗi mầu tím tới tận chân trời, thật là đẹp. Tôi đem cái laptop đến khoe vợ:

“Em ơi . . . em coi nè, những cây hoa Jacaranda nở hoa mầu tím đẹp ghê đi . . .”

Vợ tôi đón lấy cái máy, vừa ngắm hình vừa khen:

“Hình đẹp quá há anh! Bông nở tím cả một bầu trời . . . giống như . . .”

Hai vợ chồng tôi không hẹn mà cùng nói một lượt:

“. . . CHÂN TRỜI TÍM . . . ”

Đúng! Đây mới là chân trời tím mà chúng tôi đã ước mơ, đã đi tìm từ hồi đó tới giờ.

Nhưng chân trời tím này ở đâu?

Người bạn gởi hình cho tôi, ngoài câu chú thích “Cảnh đẹp bên Úc” đã không ghi thêm bất cứ câu nào cho biết xuất xứ của những cây hoa tím này cả. Tôi sinh sống ở  tại xứ Úc này đã hơn ba chục năm rồi, nhưng chưa bao giờ được nghe nói tới nơi nào có cảnh đẹp cứ như là chân trời tím này cả. Không lẽ lại hỏi người bạn để biết tấm hình này chụp ở đâu? Mà có hỏi, cũng chưa chắc là anh ta đã biết, vì anh cũng chỉ là người nhận được hình rồi chuyển cho người khác xem mà thôi.

Hễ có thời giờ rảnh là tôi vào internet tìm tòi cái . . . chân trời tím này. Tìm mãi, tìm mãi, cuối cùng, tôi mới kiếm ra được nơi chụp những tấm hình này:

Đó là thành phố Grafton của Tiểu bang New South Wales, Úc Đại Lợi.

Mỗi năm, vào mùa hoa nở, thành phố Grafton có tổ chức Mùa Hội Hoa Phương Tím – Jacaranda Festival, từ cuối Tháng Mười cho đến đầu Tháng Mười Một.

May quá, bây giờ mới là Tháng Tư, tôi vội vàng tìm cách đến thành phố này và đặt cọc khách sạn cho ngày nghỉ đi tìm Chân Trời Tím để đưa vợ tới nơi đúng theo lời hứa khi làm đám cưới.

Tôi vui vì đã tìm ra chân trời tím, vợ tôi còn vui hơn cả tôi nữa, vì sẽ được đưa tới nơi chân trời tím, nơi chúng tôi có thể kết mây xây lâu đài tình ái. Suốt ngày bà ngồi gọi điện thoại cho bạn bè, cho anh chị em, để khoe là mình đã tìm ra chân trời tím và sẽ tới chân trời tím này. Chắc là trên thế giới này cũng có nhiều người ước mơ chân trời tím  lắm, nên đã có rất nhiều người chịu nghe vợ tôi kể chuyện và cùng phụ với vợ tôi tìm cách đến nơi này, trong số đó, có vợ chồng người chị của vợ tôi. Bà chị vợ không quản ngại gọi điện thoại hết hãng hàng không này  tới hãng máy bay khác, hết hotel này tới hotel kia để tìm phương tiện nào nhanh nhất, nơi trú ngụ nào giá hạ mà lại sang trọng đẹp đẽ và đủ tiện nghi nhất. Cuối cùng, bà cho chúng tôi biết:

“Muốn đến Grafton, phải đi máy bay từ Melbourne tới Sydney, rồi từ Sydney bay tới 

Coffs Habour, rồi từ đây mới mướn xe chạy khoảng 80 cây số nữa mới tới Grafton (có may bay bay thẳng từ Melbourne tới Coffs Habour, nhưng chỉ bay  cuối tuần mà thôi).

Máy bay thì còn chỗ, nhưng hotel thì . . . người ta đặt hết trơn rồi.”

Bây giờ mới là Tháng Tư thôi, mà người ta nào đã đặt kín hết cả hotel rồi?

Tôi ngạc nhiên quá, không ngờ rằng, chẳng phải chỉ có một mình vợ chồng tôi mơ tới chân trời tím, mà có rất nhiều, rất nhiều người đã có cùng ước mơ giống như chúng tôi. Tôi cố gắng gọi điện thoại một lần nữa cho chắc ăn. Một nhân viên của khách sạn cho tôi hay:

“Hội Hoa PhượngTím ở Grafton nổi tiếng khắp thế giới, nên du khách từ khắp nơi đổ về nơi này để xem Hoa Phượng và buổi diễn hành của mùa hoa nở. Do đó, mặc dù hội chợ tới tháng Mười mới có, nhưng đến Tháng Tư you mới tìm phòng thì trễ lắm rồi, hotel của chúng tôi đã được du khách đặt cọc trước hết rồi. Hay là, you hãy thử tìm chỗ ở các . . . Caravan Park xem sao? May ra họ còn chỗ đó, nhưng mà phải  lẹ lên.”

Tôi là lính, ngủ bờ ngủ bụi đã quen, nếu như ở Grafton chỉ còn một miếng đất cắm lều cũng là tốt phước cho tôi lắm rồi. Vợ tôi cũng quen đi cắm trại ngủ lều, chắc là . .  "No Star Where". May quá, chúng tôi mướn được hai phòng ngủ, gọi là cabin, ở Clarence Valley Caravan Park.

Trong khi chờ đợi tới ngày đi, tôi bỏ công tìm tài liệu về Chân Trời Tím Grafton và cây  hoa Phượng Tím nổi tiếng.

Jacaranda (ækəˈrændə) có tới 49 loại khác nhau (sp Jacaranda Mimosifolia), có chiều cao từ 5m cho tới 30m, tàn vươn rộng hơn 30m và có thể sống lâu tới 200 năm, xuất xứ từ những vùng nhiệt đới của miền Trung Phi và Nam Phi Châu và nhất là ở những xứ vùng Nam Mỹ, như Brazil, Argentina. Thành phố Petoria ở Nam Phi còn được gọi là “Thành Phố Của Hoa Phượng Tím” với những hàng cây phượng trồng dọc theo những con đường trong thành phố. Vào mùa Hè, hoa nở đầy đường và nơi các trường đại học, nên trong giới sinh viên đã có lời đồn là: Vào mùa thi, nếu thí sinh nào được hoa phượng tím rơi dính vào tóc, người đó coi như là đã được chấm đậu. Sau đó, hoa Phượng Tím lan tràn đến Australia. Vì Jacaranda được trồng nhiều ở Grafton, nên nhiều người đã tưởng rằng Jacaranda xuất xứ từ Úc.

Thành phố Grafton, ở về hướng Bắc, cách xa Sydney (Tiểu bang New South Wales) khoảng 630 km và 340 km về hướng Nam của Brisbane (Tiểu bang Queensland) Vùng đất này được khám phá bởi một tù nhân người Anhtên là Richard Craig, vào năm 1831. Sau đó, ông được tha bổng và tặng thêm một trăm bảng Anh (One Hundred pounds) để đem người đến khai phá vùng đất hoang vu này (Úc là thuộc địa của Vương Quốc Anh. Vào những năm 1800, khi mới khám phá ra hoang đảo rộng lớn này, chính phủ Anh đem những tù nhân của họ tới giam cầm tại đây để bắt họ khai khẩn thuộc địa mới).  Đến năm 1851, Toàn Quyền FotzRoy đã chính thức đặt tên thị trấn (Town) này là Grafton (phỏng theo Tước Vị của ông nội của ông là “The Duke Of Grafton” là Cựu Thủ Tướng của Hoàng Gia Anh). Vào ngày 02 07 1879, một cư dân chuyên môn buôn hạt giống tên là H. A. Volkers, đã được trúng thầu trồng cây Jacacanda cho thị trấn, và với vẻ đẹp của loài hoa Tím này, vào năm 1885, thị trấn đã được mang danh hiệu là Thành Phố (City of Grafton). Cho đến nay, hơn 6,500 cây Jacaranda đã được trồng khắp nơi trong thành phố Grafton. Thân cây Jacaranda được dùng để nhuộm vài, làm thuốc và làm giấy.

Dân cư trong thành phố sống về nghề đốn cây, chăn nuôi, đánh cá và phục vụ du khách đến Grafton ngắm hoa Phượng Tím. Vào năm 1934, do số lượng du khách gia tăng đáng kể, Hội Đồng Thành Phố Grafton đã họp và quyết định phải làm một cái gì đó để vừa giúp vui cho du khách đến xem hoa, vừa hỗ trợ cho việc buôn bán của cư dân. Kết quả là một hội chợ được đặt tên là Jacaranda Festival sẽ được tổ chức mổi năm vào cuối tháng Mưới. Hội chợ sẽ gồm những trò chơi trên sông Clarence, chạy đua, ca nhạc trên sân khấu lộ thiên, các quán ăn ngay trong công viên thành phố và quan trọng nhất là một buổi diễn hành vào ngày bế mạc hội chợ. Để có tiền trang trải cho hội chợ, tất cả các thành viên trong Hội Đồng Thành Phố, các thương gia và cư dân sẽ cùng nhau tổ chức những buổi gây quỹ. Ai gây quỹ được nhiều nhất sẽ được bầu làm Queen, King hoặc Princess và Prince.

Từ khi có Hội Mùa Hoa Phượng Tím, Grafton đã được vào danh sách những địa điểm du lịch của Úc. Thành phố này còn được nổi tiếng hơn nữa nhờ bản nhạc “Flame Trees” mà ca sĩ và ban nhạc Cold Chisel đã trình diễn trong băng nhạc “Twentieth Century) của họ vào năm 1984. Bản nhạc này do hai nhạc sĩ Steve Prestwich và Don Walker viết chung với nhau và đã lên tới hạng thứ 26 trong bảng xếp hạng Nhạc Hay của Úc. Bản nhạc tả lại câu chuyện của một thanh niên đi xa trở về thành phố cũ tìm lại những người bạn và người yêu cũ của mình.  Theo tài liệu của Nha Thống Kê (ABS), vào thời điểm 2006, dân số của Grafton là 17,501 người.

(phỏng theo tài liệu của Wikipedia, the free encyclopedia và Jacaranda Festival).

Chúng tôi đến Grafton vào buổi chiều Thứ Bẩy, thành phố dã khai mạc Mùa Hoa Phương Tím kỳ thứ 78 vào hôm Thứ Năm rồi. Việc đầu tiên mà tôi làm là lái xe đến ngay con đường Pound và Tuff ở trung tâm thành phố, là nơi trồng nhiều cây Jacaranda nhất.

Vừa tới nơi, không hẹn nhau mà cả bọn chúng tôi cùng kêu lên:

“OH! Đẹp Quá!”

Đẹp lắm bạn ạ, Suốt con đường dài hơn 4 km, hoa Phượng Tím trồng dọc hai bên đường nở đầy những hoa, nhìn từ đầu đường tới cuối đường, mút con mắt, toàn là một mầu tím thẫm, tuyệt đẹp. Những cây Phượng có gốc thật là to, ít ra cũng khoảng 100 năm (ở nhà tôi cũng có trồng một cây, đã hơn 17 năm mà thân cây đường kính chỉ chừng 45 cm, những thân cây ở đây vào khoảng 1.5 tới 2m) với tàn vươn dài ra tới giữa đường, để hai hàng cây kết lại với nhau như cổng chào đón mừng du khách từ phương xa. Hoa Phượng Tím không những ở trên cây, mà còn rụng đầy trên thảm có xanh, tạo ra một tấm thảm Tím thật là tuyệt vời mà không ở đâu có được. 

Vợ tôi say  mê nhìn những hàng cây Phượng Tím chạy xa tít tận chân trời rồi quay lại nói với tôi:

“Đây mới đúng là Chân Trời Tím đó anh!”

Tôi ca liền một câu cải lương:

“Anh đã hứa đưa em tới nơi Chân Trời Tím, thì chắc chắn có xa xôi cách mấy, có khó khăn cách mấy, anh cũng sẽ đưa em tới mà.”

Đứng một chỗ ngắm hoa đã mắt rồi, chúng tôi lại leo lên xe đi. Suốt con đường Tuff dài hun hút những hàng cây Jacaranda được trồng hai bên đường, cây nào cũng thật là to một người ôm không hết, vươn tàn cây ra tới tận giữa đường, đan vào nhau tạo thành một thứ cổng chào thiên nhiên thật là đẹp. Mỗi khi thấy có cảnh đẹp, chúng tôi lại ngừng xe bên lề đường để chụp hình. Nhưng chụp hình từ bên lề đường thì làm sao có thể chụp được hai tàn cây giao nhau? Do đó, chúng tôi đứng chờ bên lề đường, khi nào không có xe là chạy ào ra giữa đường để chụp hình và quay phim, đến khi có xe là lại chạy vội vào lề đường. Không phải chỉ có một mình chúng tôi ham chụp hình đâu. Cả một dọc xe đang đậu ở phía sau chúng tôi đó, nào là tóc đen tóc vàng, nào là ông già bà cả, nào là từng cặp từng đôi, ai cũng vội vã chụp hình chạy tới chạy lui, vui lắm (sau này, khi tiếp xúc với dân địa phương, họ cho tôi hay, năm nào cũng vậy, du khách đứng đủ mọi nơi mọi chỗ mà chụp hình, họ quen rồi, nên khi chạy xe, họ không chạy nhanh, để du khách có thì giờ mà chụp hình, và họ gọi những du khách này là . . . Crazy Tourists).

Lấy phòng xong rồi, chúng tôi lại vội vã chạy trở ra trung tâm  thành phố để xem diễn hành (Festival Parade).

Mở đầu đoàn diễn hành là hàng loạt xe hơi của thời xa xưa, từ năm 1912 cho tới 1953. Tôi thật là ngạc nhiên khi thấy những chiếc xe được chế tạo hơn 100 năm rồi mà vẫn chạy trên đường thật là ngon lành, nước sơn vẫn còn bóng loáng. Xướng ngôn viên giới thiệu từng chiếc xe và chủ xe, họ từ những nơi xa xôi như New York, Detroit, Adelaide, Melbourne, Perth . . . lặn lội tới tận đây để cho mọi người ngắm xe của mình. Từ loại xe Phantom cho tới Ford, thật là đẹp mắt.

 

Hấp dẫn nhất là xe chở Nữ Hoàng Mùa Hoa Phương Tím năm 2012. Mỗi năm, cư dân của Grafton sẽ chọn lựa ba Nữ Hoàng: Nữ Hoàng Hoa Phượng Tím (Jacaranda Queen), Công Chúa Hoa Phượng Tím (Jacaranda Princess) và Công Chúa Hoa Phượng Tím Mùa Du Lịch (Jacaranda Holiday Princess). Nữ Hoàng và Công Chúa được bầu không theo tiêu chuẩn sắc đẹp mà theo tiêu chuẩn các thí sinh đã quyên góp được bao nhiêu tiền cho buổi hội chợ mùa hoa phượng. Năm nay, cô Sara Filewood được bầu là Nữ Hoàng, cô Jenna Atherton đuợc bầu là Công Chúa, và cô Sharni Rouse được chọn là Công Chúa của Mùa Du Lịch 2012. Tổng số tiền các cô quyên được năm nay là $50,000, được dùng cho việc tổ chức hội Hoa Phượng năm 2013.

Nữ Hoàng Sara Filewood mặc áo dạ hội trắng, đội Vương Miện mầu tím viền trắng, đứng giữa. Bên tay trái là Công chúa Jenna Atherton đội Kim miện trắng. Bên tay phải là Công Chúa Mùa Du Lịch Sharni Rouse.

Tiếp theo xe của Nữ Hoàng là xe hoa của các trường học, các hội đoàn và những thương nghiệp trong vùng. Dame Edna (giả) cũng có mặt để dẫn đầu đoàn diễn hành, nghệ sĩ này vừa đi vừa kể những câu chuyện vui, nhưng bị át giọng bởi đoàn đoàn xe lửa xuyên Tiểu bang chạy rầm rầm trên cầu. Tiếp theo đó là ban kèn túi hơi Ái Nhĩ Lan của thành phố, với những nghệ sĩ từ 5 tuổi cho tới 70 tuổi vừa đi vừa thổi kèn thật là vui nhộn. Ban kèn hơi phùng má thổi kèn để phụ cho ban vũ Ballet với những vũ công tí hon ẻo lả thật không thua gì những nghệ sĩ chuyên nghiệp. Sau đó, nào là đội xe đạp BMX, đội thuyền rồng và ngay cả RSL chi nhánh Grafton cùng với tiểu đội cadet cũng góp mặt trong buổi diễn hành, làm cho không khí của mùa Hội Hoa Phượng Tím thật là sống động và vui nhộn. 

Đội Kèn Hơi của Thành Phố Grafton.

Dame Edna và đoàn xe lửa nhấn kèn khai mạc cuộc diễn hành

Các diễn viên tí hon của đoàn vũ ballet của Thành Phố Grafton đang ngồi trên xe hoa.

Buổi diễn hành diễn ra gần một tiếng đồng hồ, đoàn diễn hành đi vòng quanh khu đường chính của thành phố. Xem diễn hành xong, chúng tôi lại lái xe đi trở lại bốn con đường chính có trồng rất nhiều hoa Phượng Tím, đó là những con đường Pound, Tuff, Maria và Princess. . . để tiếp tục ngắm hoa. Có thể nói là Jacaranda được trồng ở khắp mọi nơi, mọi chốn của thành phố Grafton: Trước cửa Tòa Thị Sảnh, Nhà Thờ, Trạm Cảnh Sát, Bệnh Viện . . . chỗ nào cũng toàn là Phượng Tím.  Chúng tôi ngắm hoa Phượng không chán mắt, càng ngắm càng thấy đẹp. Tuỳ theo ánh nắng, mỗi giờ hoa phượng lại có một mầu tím khác nhau, từ tím rực rỡ tới tím hoa sim, tím Huế, tím mùa thu và tím . . . ngắt. 

Nhà Thờ Christ Church Cathedral được khánh thành vào ngày 25 07 18874, một trong những địa điểu thu hút du khách của Grafton.

Đi bộ dưới những tàn cây, vừa ngắm hoa, vừa ngửi hương thơm của Phượng Tím. Mùi thơm này giống như mùi thơm của hoa Lavender nhưng nhẹ nhàng hơn, làm cho bạn cảm thấy dễ chịu và khoan khoái trong người (tôi có hỏi chuyện một dân địa phương, ông ta đã quen với hương thơm của hoa, nên . . . không còn ngửi thấy mùi thơm này nữa. Nhưng khi ông ta đi du lịch ra khỏi vùng đang ở thì mới cảm thấy . . . thiếu cái mùi hương đặc biệt của Hoa Phượng Tím). Tôi thích nhất là đi dưới tàn cây Phượng Tím vào buổi sáng sớm dưới bầu không khí thật là trong lành, nhưng mầu tím của hoa lại chưa nổi bật lên. Vợ tôi thì lại thích đi dạo duới tàng cây hoa Phượng Tím vào buổi sáng xế trưa, khoảng từ 10 giờ tới 11 giờ, vì lúc đó, nắng chiếu vào hoa, làm nổi bật mầu Tím của Hoa Phượng mà không có một loài hoa nào có thể có cái mầu sắc Tím đặc biệt này. Vợ tôi đi vòng vòng ngắm hoa, lúc nào mỏi chân thì đứng lại ngắm hoa, hết đứng rồi lại ngồi xuống ghế gỗ mà ngắm hoa tím:

"Hoa Phượng Tìm đẹp quá . . . Chân Trời tím đẹp quá . . . cứ như là ở trong mơ ấy thôi . . . Em cứ muốn ở đây ngắm hoa mãi . . . không muốn về nữa . . ."  

Tôi đã thực hiện lời hứa của tôi, đã tìm ra Chân Trời Tím và đưa vợ tôi tới thăm Chân Trời Tím.

Các bạn của tôi ơi, bạn có hứa đưa ai về nơi . . . Chân Trời Tím hay không?

Nếu có, thì tôi đã ghi địa danh và địa chỉ của vùng Grafton cho bạn rồi đó,

Hãy đưa người yêu, người tình, người vợ thân mến của mình đi thăm Chân Trời Tím đi nhé.

Chúc bạn có một mùa Hoa Phượng Tím tuyệt vời, một mùa holiday vui vẻ.

Anh hứa đưa em về nơi chân trời tím. 
Nghe gió êm qua trái tim từng hoàng hôn 
Anh chỉ muốn duyên tình hai chúng ta 
Như ánh sao cao vút cao xa trần gian. 

(Trần Thiện Thanh.)


NGƯYỄN KHẮP NƠI


7-chan-troi-tim




http://www.nguyenkhapnoi.com/2012/11/12/chan-tr%E1%BB%9Di-tim/



Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 18/Feb/2013 lúc 8:30pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 08/Mar/2013 lúc 8:49pm

Chúng Tôi Mọc Rễ Và Yêu Thương...
Tác Giả: Lệ Hoa Wilson

Tác giả đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Bà là một Phật tử, pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, sinh năm 1940 tại Cần Thơ. Hai bài viết đầu tiên của bà là tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Ky. Cưới nhau: 1972. Tới Mỹ năm 1975. Từ 1985, hai vợ chồng mở v/p Di Trú và Thuế Vụ tại Long Beach. Bài viết mới nhất là một hồi ức về mảnh đất tạm dung và quê hương yêu dấu. Tựa đề được đặt lại theo nội dung bài viết.

1. Việt Nam
Chúng tôi gặp nhau và thành hôn năm tôi 30 tuổi, đã một lần ly dị và có hai đứa con.Ông xã thì cũng 30 tuổi và còn là trai tơ. Khi bà chị biết chúng tôi muốn làm đám cưới, bà nói thẳng thắn: “em ơi, một khi lấy Mỹ thì sẽ bị người ta cười chê thúi đầu, vậy sao không lựa một thằng tóc vàng, mắt xanh, cao lớn, đẹp trai để bù lại mà lại đi lấy một thằng tóc đen, mắt nâu, hơi lùn nữa, vậy được cái gì?”.

Tôi nhìn người chị, buồn bã nói : “Chị Hai ơi, em đã có hai đứa con rồi. Thật khó khăn khi em phải vừa kiếm chồng cho em vừa kiếm cha cho hai đứa nhỏ. Ảnh thương em và đối với hai đứa nó thật tốt. Mấy người khác chỉ thương em mà thôi, không cần hai đứa nhỏ!”

Và quả nhiên Trời Phật cũng thương cho những nỗi bất hạnh mà tôi đã nếm trải trong đời nên đã cho tôi không những một người chồng mà còn là một người cha và là một người ơn nữa.

Vùng I chiến thuật lấy Đà Nẵng (nơi tôi và ông xã gặp nhau) làm thủ phủ nên có rất nhiều bộ chỉ huy trong đó có nhà thương của hải quân Mỹ là trung tâm y tế cho tất cả binh sĩ Mỹ trong vùng. Qua khỏi ngã tư Mỹ Khê, quẹo mặt để đi vào núi Non Nước, nằm về phía tây mặt là nhà thương. Tôi đoán nó chiếm trọn ít nhứt là năm mẫu đất với các trung tâm y tế mổ xẻ, chữa trị đủ loại, nhà ở cho binh sĩ và dĩ nhiên là một nhà xác!

Trước mặt nhà thương là một bãi đáp trực thăng để tải các thương binh, các chiến sĩ tử trận từ các chiến trường vùng I. Mỗi lần trực thăng đáp xuống thì con đường xe chạy được các quân cảnh Mỹ chận lại, từng chiếc cáng được vội vã khiêng ra chạy thẳng vào cổng chánh, có người sẽ tỉnh lại với một cái chân nằm đâu đó trong lá rừng rậm rạp, có người sẽ được trở về quê hương dưới lá cờ phủ kín, có người sẽ ngậm ngùi từ biệt những giấc mơ vì cánh tay đã mất, gương mặt đã bị tàn phá, linh hồn đã bị tổn thương…

Vì ông xã thuộc binh chủng hải quân và đóng quân trong nhà thương nên tôi đã có biết bao lần phải ngừng xe, tắt máy, ngồi nhìn những bước chân vội vã, những gương mặt chịu đựng, những ánh mắt buồn hiu của những người tải thương. Mỗi khi có một cái cáng phủ cờ Việt Nam hay Mỹ thì những người Mỹ xuống xe đứng nghiêm chỉnh đưa tay chào vĩnh biệt. Tôi ít khi thấy thương binh ViệtNam, có thể vì họ được chuyển tới một trung tâm y tế khác. Chỉ có một lần tôi thấy một cái cáng được khiêng ra khỏi cửa trực thăng, lá cờ Việt Nam phủ kín. Tôi không thấy mặt cũng như binh chủng của tử sĩ nhưng một người đàn bà đầu tóc rũ rượi , cánh tay quấn băng treo vào vai còn đẫm máu đang lảo đảo nhảy ra khỏi cửa trực thăng. Tóc chị trước kia chắc được cột lại bằng dây thun, nay chỉ còn một vài lọn lỏng lẽo trên đỉnh đầu còn bao nhiêu thì thả dài rối rắm xung quanh mặt.


Bạn ơi, hình ảnh đau thương nhứt không phải là cái cáng có người chết nằm phủ kín lá cờ vàng chói, không phải dòng nước mắt đầm đìa trên mặt người sống sót mà là một miếng băng vải mỏng dùng để quấn vết thương. Nó bị dơ vì đất và máu. Nó chỉ dài bằng một chiếc khăn mùi xoa. Nhưng nó lại được người vợ trân trọng để ngang lên trán, dùng một cọng lạt dừa cột vòng lại sau đầu. Mảnh khăn tang được vội vã quấn tạm thời nhưng sự ly biệt thì chắc chắn ngàn trùng xa cách. Người thiếu phụ Việt Nam đang để tang cho người chồng chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc!

Tôi không ra khỏi xe chào vĩnh biệt người chiến binh nhưng gục mặt vào tay lái nước mắt tuôn rơi khóc thương cho những đứa trẻ đang quẩn quanh trong thôn xóm chờ cha trở lại . Tôi tưởng tượng tới lúc gia đình nghe tiếng chuông reo, mở cửa ra và thấy một người binh sĩ đứng trước mặt với cái nón cầm trên tay.Người mẹ ở ngàn dặm xa kia có ngã xuống vì trái tim tan nát ?... Một cái gì dó nhen nhúm trong tâm hồn tôi. Chiến tranh tiếp diễn cho tới một lúc nào đó thì hòa ước được ký, quân đội Mỹ rút lui.

Anh nấn ná xin ở lại Việt Nam và là nhóm binh sĩ cuối cùng ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất vào đầu năm 73. Tháng sáu 73, tôi sanh đứa con trai đầu lòng của anh. Tháng Chín năm 74 tôi qua Mỹ thăm anh tiện thể thăm dò chuyện xuất nhập cảng. Chúng tôi dự định chờ anh ra khỏi quân đội và sẽ về sinh sống tại VN. Điều kiện để tôi nói “ I do” là chúng tôi phải ở ViệtNam và sẽ có bảy đứa con. Tôi nào biết trời cao đất rộng là gì, chỉ biết rằng tôi rất ham con và bảy đứa là một con số chấp nhận của gia đình VN, đâu nghĩ rằng đối với người Mỹ hai đứa là lý tưởng, ba đứa là chau mày, bốn đứa là nổi điên, năm đứa là tan nát, sáu đứa là thảm họa mà bảy đứa là… rồi đời!

Thời cuộc thay đổi, đến tháng Ba năm 75 thì tôi quay về Việt Nam để đón các con. Lúc đó tôi đang có thai đứa thứ hai được bảy tháng. Khi còn bên Mỹ, qua tin tức trên báo và tin rỉ ra trong quân đội thì chúng tôi biết chắc là Saigon sẽ mất, nhưng khi về Việt Nam thì Saigòn vẫn vui vẻ, vẫn bình yên. Rạp chiếu bóng vẫn hát, tiệm ăn vẫn mở cửa, đám cưới vẫn tiến hành, tình yêu vẫn nở hoa… Tôi thầm cằn nhằn báo chí Mỹ thật là dỏm, toàn là đưa tin vịt không hà.

Nhưng với ngày qua, mọi việc có vẻ tệ hơn. Nhóm người quen bán hột xoàn với mẹ con tôi cùng nhau an ủi rằng “bà Mỹ” còn ở đây chưa chạy thì lo gì. Ông xã tôi kêu điện thọai ngày một hối thúc tôi ra đi. Tôi trả lời là má tôi không cho đi, sợ về Mỹ sanh rồi lấy ai săn sóc, làm sao có củi lửa để hơ, có lá xông để tắm, có nghệ vàng để thoa mặt v.v.. Sanh xong rồi tôi sẽ qua.
Một tuần sau tôi mất liên lạc với anh.
Ngày 20 tháng tư 75 một trung sĩ VN lái xe jeep đến nhà tôi, gõ cữa:
“Xin lỗi đây có phải là nhà của bà Lê Thị Hoa không?”.
Tôi trả lời:
“Trung sĩ ơi, ở đây không có bà Lê Thị Hoa chắc trung sĩ muốn kiếm bà Lệ Hoa phải không?”
Viên trung sĩ vội nói:
“Tôi cũng không biết chắc. Tôi làm việc cho ban an ninh phi trường và được lịnh tới đây chở cái bà có chồng Mỹ lên gặp đại tá Mỹ phụ tá tùy viên quân sự…”.

Tôi cầm lấy giấy và thấy tên tôi. Tôi vội dẫn theo hai đứa con nhỏ nhất lên phi trường TSN. Khi vào văn phòng,vị đại tá cho tôi biết là ông xã đã liên lạc với cơ quan của ông và nhờ họ giúp tôi và các con phương tiện để rời Việt Nam.

Vị đại tá nhìn xấp tài liệu nói:
“ Chồng bà yêu cầu toà đại sứ giúp đở bà và ba đứa con di tản khỏi VN lập tức. Xin bà hãy để hai đứa trẻ nầy lại đây cho cô thơ ký tôi trông chừng, còn bà thì theo xe trở lại nhà và dẫn đứa thứ ba tới đây, chúng tôi sẽ làm giấy tờ và gia đình bà sẽ ra đi nội trong ngày nay”.

Tôi ngẩn ngơ nhìn vị đại tá ngồi nghiêm chỉnh trước mặt:
“Ngài đại tá, ngài có nói chơi không? Tôi sanh ra, lớn lên, sống ba mươi lăm năm tại non nước nầy giữa cha mẹ, thân nhân, bạn bè… và bây giờ ngài cho tôi hai tiếng đồng hồ để từ bỏ tất cả… xin ngài hãy nói là ngài nói chơi, chuyện nầy không có thật..”

Nước mắt tôi ứa ra và chắc là tôi có vẻ bi thương của một con thú sắp chết nên vị đại tá rộng lượng nhìn tôi :
“Tôi biết tình cảm của bà. Thôi bà hãy dẫn con về và ngày mai trở lại. Ngày mai, bà có nghe rõ không? Chuyện đầu tiên bà thức dậy ngày mai là cùng ba con lên xe đến đây. Tôi sẽ gởi người trung sĩ nầy đến nhà bà sáng mai.”

Tôi về nhà và cả nhà bắt đầu khóc. Tôi đi lên đi xuống thang lầu, mở các hộc tủ ra rồi đóng lại, ra sân thượng nhìn chậu cúc héo queo, xuống nhà bếp ngồi lên bộ ván ngựa,vô nhà tắm rờ rờ cái lon múc nước, ra phòng khách nằm lên võng đưa kẽo kẹt… Tôi như người mộng du, làm tất cả những hành động vô nghĩa đó với tiếng khóc hụ hụ.

Ba giờ chiều tôi gọi điện thoại cho vị đại tá biết là vì tôi bị xúc động nên đã động đến cái thai. Hiện giờ tôi đang ra huyết và bác sĩ cấm không cho tôi di chuyển cho đến ba ngày sau. Dĩ nhiên vị đại tá không dám giỡn vói tánh mạng người khác nên phải đồng ý cho tôi thêm ba ngày nữa. Tôi không nghĩ là sau ba ngày đó tôi còn có đươc một giọt nước mắt nào nữa trong cuộc đời.

Ba má tôi không đi vì tôi có người anh đi tập kết: ông bà chờ sự trở lại. Anh rể tôi không đi vì là sĩ quan cộng hoà: sợ mang tội trốn lính. Chị tôi không đi vì theo chồng.

Ba đứa cháu trai theo tôi vì sợ sẽ phải bị đày đi lính. Một đứa cháu gái theo tôi vì sợ sẽ bị gả ép cho thương phế binh.
Vì thế ba ngày sau tôi mang một bụng bầu tám tháng và bảy đứa nhỏ lên phi trường. Vị đại tá nhìn tôi như nhìn con quái vật:
“Xin lỗi bà, theo giấy tờ thì tôi chỉ có quyền cho bà và ba đứa con của bà đi. Hiện tại bà có tới bảy đứa! tôi thật không thể giúp bà”

Khi người ta phải phấn đấu cho sự sống chết thì can đảm và khôn ngoan ở đâu bất chợt hiện ra. Tôi nhẹ nhàng nói:
“Tôi hiểu thưa đại tá. Tôi không trách ông. Nhưng đây là những đứa cháu tôi nuôi từ nhỏ giống như con tôi vậy. Nếu ngài không cho chúng đi thì mẹ con tôi cũng xin ở lại.”

Vị đại tá bối rối nhìn tôi. Có lẽ ông đã biết rằng rồi thì VN sẽ mất, rồi thì một làn sóng người sẽ cuồn cuộn ra đi. Sớm một vài ngày, bốn đứa trẻ nầy có thấm gì đối với số người đang rần rộ chen lấn ngoài kia. Ông thở dài, ngồi xuống ghế ký cái công văn eight months pregnant wife and seven children of US citizen need to be evacuated rồi đưa cho tôi. Chúng tôi theo dòng thác người nhớn nhác ra đi.

Tôi sẽ không kể lể dài dòng về cuộc di tản của chúng tôi tuy rằng với cái bụng bầu 8 tháng, 7 đứa nhỏ từ hai tới mười ba tuổi, không một người đàn ông bên cạnh thì chuyến hành trình nầy không phải là một cuộc du lịch nhàn hạ. Nhưng so với những khổ não, những đau thương, những thảm cảnh mà đồng bào ta gánh chịu sau nầy với các cuộc vượt biên thì thật nó chẳng thấm tháp vào đâu.


2. Hoa Kỳ.
Chúng tôi tới Camp Pendleton ngày 15 tháng 5 năm 1975. Anh đang đóng quân ở Ferndale, một tỉnh lẻ nhỏ nhắn hiền hoà chỉ có bảy ngàn dân, cách San Francisco sáu tiếng đường xe về hướng bắc. Lúc đó chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Nga Sô vẫn tồn tại nên đây là một căn cứ hải quân rất quan trọng nằm trên một ngọn đồi cao ngó ra biển. Các đài radar tối tân được đặt cùng khắp để theo dõi các tàu ngầm xâm phạm bất hợp pháp vào hải phận Mỹ và California.
Khí trời California lúc đó là 75 độ mà mọi người lạnh cóng. Đêm thứ hai tại camp, anh lái xe một lèo 16 tiếng để đến đón mẹ con tôi. Mười một giờ khuya một người lính Mỹ đến lều để dẫn tôi lên văn phòng nơi anh đang làm thủ tục.
Bạn có biết lúc đó tôi giống ai không?
Không Giống Ai Hết!
Camp Pendleton
Đây là một người đàn bà 36 tuổi, tóc hơi dính chùm lại vì cát bụi, mặt hõm vào, gò má bị nám, mặc một cái áo dài xanh bên hông chỉ gài được một nút ở dưới nách vì thai bụng quá lớn, ngoài khoác một áo bầu thùng thình màu trắng, đầu trùm cái mền xám cột thắt dưới cằm, chiều dài mền thả phấp phới sau lưng. Le lói hơn nữa là người lính Mỹ trẻ thấy tôi run cầm cập nên cởi cái áo lính trận ra, trước mặt đầy những túi để dao găm, lựu đạn v…v và trùm lên tôi. Tôi bước vào căn lều. Bàn làm việc nằm cuối phòng và anh đang đứng cúi xuống ký giấy tờ.
Chưa bao giờ trong đời tôi lại bước những bước chân nhẹ nhàng, nặng nề, tủi hổ, hoang mang, giải thoát, run sợ như lúc đó. Đây là lúc bắt đầu cho những ngày tươi sáng với xum hợp thương yêu, với nhà lầu chọc trời, với ngựa xe rộn rả, với tương lai đại học hay là lúc chấm dứt cho dòng sông Hậu hiền hòa với hàng dừa nặng trái, lúc từ giã những hàng me xanh thân yêu Trần Quý Cáp, lúc quay lưng lại với bến Ninh Kiều đằm thắm xinh tươi, lúc quì lạy cha mẹ quê hương nói lời vĩnh biệt?
Tiếng bước chân tôi làm anh quay lại. Anh bước tới ôm lấy tôi. Tôi cố gắng để khỏi ngất đi, quì xuống sàn nhà, tay ôm lấy mặt và nghẹn ngào: “Oh My God honey, I lost my family, I lost my country, I lost everything!” rồi tôi khóc nức nở. Anh quì xuống ôm đầu tôi. Anh cũng khóc. Tất cả người Mỹ trong phòng đều rưng rưng.
Ngày 13 tháng 6 năm 1975 tôi sanh cháu Jimmy. Tháng 9 tựu trường, tôi gởi hai đứa nhỏ nhất cho cô bạn,đi làm phụ giáo lớp một trường tiểu học Ferndale, hai đô la rưởi một giờ.
Hè 1976, tôi đứng bán hot dog trong hội chợ và ba thằng lớn thì đi dọn rửa phân ngựa trong trường đua. Lúc đó chánh phủ Mỹ còn giàu nên cứ hai năm là các quân nhân được dổi tới một trạm binh khác. Tôi thấy tụi nhỏ rất buồn và sợ rằng sự dời chỗ thường xuyên sẽ làm tụi nó hụt hẫng vì xa bạn nên khuyên anh giải ngũ. Và chúng tôi dọn xuống miền nam California, tỉnh La Habra.
Tôi thì để tất cả sự nghiệp lại ViệtNam, anh thì trước khi biến cố ViệtNam xảy ra, đã bị thua lỗ tất cả vốn liếng trong một vụ hùn hạp mở tiệm in với một nhóm dân sự nên chúng tôi hoàn toàn… sạch sẽ. Khi đi mướn nhà ở đường Dexford, La Habra, chúng tôi chỉ dẫn theo bốn dứa nhỏ nhất, hai trai hai gái. Chủ nhà là một người đàn ông Mỹ dễ thương, khi biết anh vừa giải ngủ thì rất vui vẻ nói:
“Ô, căn nhà nầy có ba phòng lớn, thật là lý tưởng cho gia đình ông bà với hai trai hai gái. Tôi rất vui lòng cho ông bà mướn”.
Chúng tôi dở khóc dở cười. Anh là người ít nói và chậm chạp nên tôi bèn duyên dáng cười cười nhìn ông:
“ Thưa ông, nếu tôi nói với ông là chúng tôi có tám đứa con thì ông có tin chúng tôi không?”
Lần nầy thì chủ nhà nhìn chúng tôi dở khóc dở cười. Ông ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
“Thôi được, tôi đồng ý cho ông bà mướn. Mỗi tháng tôi sẽ đích thân đến thâu tiền nhà. Hy vọng là mọi sự sẽ tốt đẹp”.
Ông đâu có biết rằng tên tôi là Lệ Hoa nghiã là một bông hoa mỹ lệ, đẹp đẽ chớ chẳng phài là nước mắt của hoa nghe bạn. Vì thế tôi thích trồng bông, thích vườn tược. Tôi sanh ra và lớn lên ở Cần Thơ, bà con sống ở Ô Môn, Thới Lai , Phong Điền, Cờ Đỏ nên mỗi mùa hè chị em tôi thường về vườn đi cầu khỉ, chèo ghe, bắt ốc gạo, hái vú sữa. Cái chất vườn nam bộ đã ăn sâu vào máu tôi nên hiện giờ nhiều người còn cho rằng tôi không có vẻ gì là văn minh như người ViệtNam sống ở Mỹ. Biết sao!

Sau khi dọn vô, tôi và các con hì hục cuốc đất, đổ phân và biến cái sân trống rỗng của ông thành ra một cái vườn đầy hoa vạn thọ (đây là để honor má tôi vì bà rất thích bông vạn thọ). Tháng sau khi ông tới thu tiền nhà thì ông ngẫn ngơ và phán một câu “Tôi không cần phải tới tận nhà thâu tiền nữa, bà cứ viết check gởi cho tôi là được. Cám ơn bà về những bông vạn thọ.”
Một vài người quen xúi tôi xin đi làm waitress vì nghề nầy tiền lương chẳng bao nhiêu nhưng tiền tip thì …ăn chết không hết. Trời ơi tôi nghĩ tới cái viễn cảnh , anh sẽ đi làm, tôi sẽ đi làm lại còn tiền hưu trí từ quân đội nữa thì quả nhiên là... ăn chết không hết! Tôi vội vàng vác đơn tới tiệm Red Lobster gần nhà xin việc. Người manager hỏi bà có làm waitress bao giờ chưa? Dạ chưa. Bà có khi nào làm chủ nhà hàng chưa? Dạ chưa. Cứ bà có bà có bà có…, dạ chưa dạ chưa dạ chưa… và thế là tiền ăn chết không hết chỉ là mộng ảo.
Tôi mua tờ báo thấy rao là “Chương trình CETA của chánh phủ sẽ trả tiền trường cho một năm học để giúp bạn học các nghề văn phòng như thơ ký, kế toán, phụ tá hành chánh v.v… Mỗi tuần chương trình sẽ tặng bạn bốn chục đô để di chuyển và sau khi tốt nghiệp sẽ kiếm việc làm cho bạn…”. Tôi nói với anh đây chắc hẳn là một sự lường gạt vì làm gì lại có sự tốt đẹp như thế. Anh thì lớn lên đã nhập ngũ, phần nhiều thời gian nếu không lang thang trên biển cả thì cũng đóng quân ở một xứ khác ngoài Mỹ nên đối với xã hội dân sự cũng có chút bỡ ngỡ. Tôi hăng hái tới cơ quan xin vào chương trình thơ ký. Người phụ trách chương trình thấy tôi là người tị nạn, chồng lại là cựu quân nhân, hình dạng có vẻ nghèo nên thương tôi. Sau khi nói chuyện và đọc cho tôi viết một đoạn anh văn , bà nhận tôi vào chương trình thơ ký. Khi tôi lui cui làm giấy tờ, bà dịu dàng hỏi:
“Bà có giỏi toán không? Làm nhân viên kế toán thì nhiều lương hơn thơ ký thường và rất dễ kiếm việc làm.”
Tôi không dám trả lời vì không biết “toán” của bà thuộc về loại gì nên ngập ngừng:
“Dạ tôi cũng không biết chắc.”
Bà lấy ra một bài thi toán đưa cho tôi. Ái dà, bà ơi. Có phải là bà đang chà đạp cái trường Gia Long của tôi không? Tôi là học sinh đệ nhất A đây nha bà, dù tôi không được như bà Dương Nguyệt Ánh ngày nay phát minh ra cái gì là bom tìm nhiệt thì ba cái 25% của 100 là bao nhiêu, 1/3 của 75 có lớn hơn 2/3 của 40 không v.v.. là cái chuyện nhắm mắt cũng trả lời được.
Một năm sau tôi được giới thiệu vào làm cho công ty nhà hàng Dennys, bộ phận kế toán xuất nhập.
Làm việc bảy năm tại Dennys tôi đã học được biết bao điều về gia đình, xã hội, dân tình Mỹ. Trong những buổi ăn trưa tôi học đan áo, học móc khăn, học cách nấu món ăn Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, học cách dạy con, cách đối xử với chồng, học cách không bao bạn ăn để rồi kể lể khi giận hờn nhau, mà mạnh ai nấy móc túi trả phần mình và tình bạn thì không bao giờ sứt mẻ.
Những người bạn ngoại quốc mới nầy giúp tôi hoàn thiện ngôn ngữ, hiểu rõ những tiếng lóng, sử dụng thành thục những thành ngữ, trả lời điện thoại một cách chuyên nghiệp. Giúp tôi biết nói cám ơn với con cái. Biết dằn lòng không mở thư của chúng ra kiểm soát. Biết chỉ dẫn chúng tự thực nghiệm cuộc đời hơn là bao che lầm lỗi. Biết nói xin lỗi khi phạm phải sai trái. Biết văn minh không phải là mặc áo hở ngực hở mông mà là tuân thủ theo hiến pháp. Biết tự do không phải là mạnh ai nấy làm mà là kính trọng nhân vị của chính mình và của đồng loại. Biết thành công là nhờ vào sự mẫn cán, học hỏi, cầu tiến chớ không nhờ vào nịnh bợ lấy lòng. Biết các sắc dân khác cũng đầy thương yêu và nhiều đau khổ. Biết kính trọng người Mỹ đen. Biết thương yêu người Mễ nghèo. Họ cười lăn lóc với cái accent Á đông của tôi nhưng họ không chê tôi dốt nát. Họ chỉnh sửa lại những tiếng tôi dùng sai trật nhưng không có ý khinh khi. Họ không đánh giá tôi cao vì tôi đến từ gia đình trưởng giả như tôi khoe khoang. Họ không nhìn tôi thấp kém vì tôi thuộc third world country như báo chí thường đăng tải. Họ nhìn tôi giống như họ, một người vợ, một người mẹ đang cố gắng kiếm tiền một cách lương thiện để giúp chồng nuôi dạy đàn con.
Chín muơi phần trăm nhân viên kế toán là đàn bà. Đây là những bà mẹ, bà vợ ban ngày làm toàn thời gian, chiều về nấu ăn chăm lo con cái, cuối tuần giặt giũ, lau chùi nhà cửa, dạy con làm bài tập, đi chợ, đi chơi với gia đình. Họ sống bình thường mà còn giỏi hơn tôi là đằng khác.Vậy mà khi xưa tôi cứ nghĩ đàn bà Mỹ là đồ bỏ. Tôi mang tội khinh người. Khi ở ViệtNam tôi ít khi nào giặt quần áo cho tôi, cho chồng, cho con. Tôi chưa khi nào lau chùi cầu tiêu, thức khuya dậy sớm cho con bú, kiểm soát từng bài văn điểm toán cho con. Tất cả đều có anh tài xế, chị vú, anh bồi, chị bếp, cô giáo dạy kèm. Biết bao người đã than trời trách đất rằng sống ở đây sao mà cực quá, xã hội gì mà sướng đâu không thấy chỉ thấy cái gì cũng tự mình làm, thời gian hưởng thụ chẳng bao nhiêu mà làm việc thì quay tròn như chong chóng chẳng lúc nào ngừng. Cực ơi là cực. Chỉ chăm chăm muốn về ViệtNam hưởng thụ.
Bạn ơi, bạn hãy dừng chân một bước. Bạn hãy mỉm cười cầm từng món đồ dơ bỏ vào máy giặt, nhìn vết bẩn trên chỗ đầu gối và hình dung lại gương mặt mếu máo đáng yêu của con nhỏ khi té quị xuống bải cỏ, nhớ lại ánh mắt chờ mong tin tưởng của con khi mẹ đến đỡ lên. Bạn hãy nhìn cả nhà húp xột xoạt chén canh bầu, cùng chia nhau miếng sườn nướng, cuộn chả giò. Bạn hãy cúi xuống đứa bé đang nở nụ cười ngây thơ chờ mong bình sữa bạn đang đu đưa trước mặt. Bạn hãy vừa xào món tàu hủ vừa trả lời thằng con đang cắm cúi làm bài tập bên kia bàn là Los Angeles không phải là thủ phủ của California con ơi. Thủ phủ của CA là Sacramento hoặc square of three is not three, its nine. Và năm phút sau đứa con vui vẻ đứng dậy: “Thank you mom( or dad). My home work is done”.
Đây mới chính là lúc bạn sống, là lúc mà bạn xuyên thủng qua lớp giáp để linh hồn và huyết nhục bạn và gia đình cùng hoà quyện vào nhau. Đây chính là lúc hột mè trí tuệ nảy nở trong các con do bạn gieo xuống, lúc hạt giống tình yêu thẩm thấu vào linh hồn chúng do bạn cày cấy vào.Chúng sẽ lớn lên với ân cần bạn gởi vào chén cơm, với giúp đỡ bạn xẻ chia trong bài tập, với thương yêu bạn vuốt thẳng áo quần, với mồ hôi bạn chảy dài trong trận đấu.Và vợ chồng bạn có cùng một trận tuyến, cùng một hướng nhìn.
Trong suốt mấy chục năm sống trên đất Mỹ tôi thỉnh thoảng bị kỳ thị chung bởi những người lạ vì tôi là người Á đông nhưng chính bản thân tôi, tôi chưa hề gặp sự kỳ thị nào có lẽ vì tôi đã sớm hoà nhập vào xã hội nầy, tôi quên bỏ cái ý tưởng tự cao, nhìn cái gì của người cũng cho là không bằng ViệtNam. Đàn ông, đàn bà, ấm thực, ngôn ngữ, văn hoá, phong tục, đối xử, giáo dục, gia đình… cái gì Mỹ cũng thua ViệtNam hết, đừng cho con cái giao thiệp thân mật với trẻ con Mỹ mà bị hư, không dạy được! Tôi thì nghĩ là không có khu vườn nào hoàn toàn, không có ít nhiều cỏ dại. Tôi thành thật học hỏi, công bình so sánh, loại bỏ điều xấu, áp dụng điều tốt và biết ơn những bài học mới mẻ, những đối xử nhân đạo, những giúp đở trân quí mà tôi và gia đình đã hưởng nhận. Và khi quì trước mặt đấng tối cao, lòng tôi thanh thản khi tự biết mình là một người biết ơn và trả ơn với tất cả trái tim.
Tôi đã từ bỏ quê hương điêu tàn, đã quay lưng với tương lai đen tối. Tôi đã chọn một nơi khác để cất nhà, một miếng đất khác để gieo hạt. Tôi đã dùng nước sông của họ để tưới tẩm, dùng đồi núi của họ để chăn nuôi. Tôi đã dùng chất xám của họ để tiến thân, dùng lòng tốt của họ để sống còn. Tôi không bao giờ quên dòng máu Việt trong tôi nhưng tôi sẽ không ngồi đó nhìn non nước nầy, dân tộc nầy với một ánh mắt hờ hững, dửng dưng, một thái độ vô ơn, rẻ rúng. Tôi sẽ không coi đây chỉ là một mảnh đất tạm dung và ngồi khóc thương cho một khung trời đã mất, mơ tưởng về một dĩ vãng đã tàn phai. Tôi sẽ hòa vào các chủng tộc khác nhau, rơi lệ khi thấy tòa nhà chọc trời sụp đổ, đau thương khi nhìn xác lính được chở về, hân hoan khi nghe bài quốc ca trong các cuộc tranh tài. Tôi sẽ dạy các con cùng tôi nhận nơi nầy làm quê hương, sẽ đem tất cả khả năng lao động hay học vấn đóng góp vào sự thịnh vượng chung của quốc gia nầy.
Thay vì trồng cây cổ thụ tạm thời trong một cái chậu nhỏ để nó chỉ được lớn èo uột trong bóng râm, tôi và gia đình muốn đào một hố sâu, đổ đầy phân bón, tưới tẩm nó với tất cả ân cần, săn sóc nó với tất cả sức lực để cho rễ mạnh nó ăn sâu vào lòng đất, cho tàn xanh nó tỏa rộng khắp không gian. Chúng tôi không tạm dung. Chúng tôi mọc rễ và yêu thương quê hương nầy. Rồi một ngày nào đó, ở bên kia góc trời có cần tới một bóng mát bình an, chúng tôi sẽ chiết bớt một nhánh cổ thụ đem về…
Chúng tôi chỉ có thể làm như thế khi chúng tôi nhận nơi nầy làm quê hương.


Lệ Hoa Wilson




mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 29/Mar/2013 lúc 9:06pm

Canada, Québec và Tôi.

(Tháng Tư 2013, để nhớ lại tháng Tư 1975)
 
Tôi ngụ cư ở Montréal, đô thị lớn nhất của Tiểu Bang Québec, Canada, như vậy là đã được 35 năm rồi, gấp đôi thời gian tôi ở Sài Gòn (chỉ vỏn vẹn có 13 năm!). Như vậy, tôi là người Việt Nam, Saigonais hay Canadien, Quebecois ??
Việc tôi đến Québec, thực ra cũng là do sự sắp đặt của số mệnh. Hồi đó, tôi cũng chưa tính tới chuyện vượt biên thì anh bạn tôi, Dương Quang Hảo , tổ chức một con tầu vượt biên. Đó là mùa hè năm 1978, khi tôi vừa đi “cải tạo” về, còn chưa hoàn hồn. DQH tử tế cho tôi đi ké. Tới nay, tôi vẫn còn cám ơn ông bạn vàng này. Anh em là anh em, nhưng là ân nhân thì vẫn là ân nhân.
Chúng tôi đến được Mã Lai sau một cuộc hải trình khá vất vả, có gặp hải tặc, nhưng vì lúc đó quá sớm, không có chuyện hải tặc giết hại thuyền nhân, chỉ chấn lột một ít tiền bạc, vàng, nữ trang. Giữa lúc đang bị cướp, biển động, sóng cấp 3. Bọn hải tặc đưa chúng tôi lên tầu lớn của chúng, đãi ăn một bữa cơm chiều với cà ri gà, khá ngon, cho ngủ lại một đêm. Hôm sau, thả chúng tôi về thuyền, cho đi tiếp. Lênh đênh mãi, suốt 3 ngày đêm, chúng tôi lên được đất liền. Mã Lai không cho lên, đang lo, thì thấy có một người da trắng bơi đến gần, ra hiệu cho anh bạn tôi phá tầu đi. Sau này, người ta nói cho chúng tôi biết đó là ông Cao Ủy, tên Pierre, không biết có phải không. Anh bạn tôi bèn lấy con heo dầu của tầu, liệng xuống biển rồi họ nhẩy xuống đục tầu. Tầu tỵ nạn không chìm, nhưng mắc cạn, nằm nghiêng ngay bãi biển Paulau Bésar, là một thành phố du lịch của Mã Lai, đầy du khách, nên chính quyền Mã Lai phải miễn cưỡng cho chúng tôi lên bờ, và vào trại tỵ nạn Poulau Bésar, hồi đó chưa có Poulau Bidong .Nghĩ lại, còn kinh hồn, Nhờ phước của ông bà để lại, chúng tôi an toàn, may mắn hơn các người vượt biên vài tháng hay vài năm sau.
 Tôi gặp tại trại tỵ nạn nhiếu đồng nghiệp.Các người tỵ nạn có một chút trình độ, thì cũng dễ dàng được phái đoàn các nước chấp thuận cho vào định cư. Người tôi gặp đầu tiên là một ông Mỹ. Ông này gọi riêng tôi lên để khai thác xem tôi có thể cho tin tức gì liên quan đến những người Mỹ còn mất tích hay không. Sau khi không khai thác được gì từ tôi, ông hỏi tôi muốn đi định cư ở nước nào, tôi trả lời bừa, không suy nghĩ :
            - Có lẽ tôi sẽ xin đi Canada.
 Ông Mỹ thích quá, reo lên :
            - Ồ, Canada, đây là một nước rất tốt.
Không thấy ông ta khuyến khích mình xin đi Mỹ, có vẻ không wellcome mình, tôi cũng không hỏi gì thêm và cũng không xin gặp phái đoàn Mỹ..
Lúc ra về, tôi gặp anh bạn N.V.Nam, đồng nghiệp, cùng một promo. Anh Nam nói với tôi : “Moi thì chỉ thích nước Pháp. Voir Paris et (ou)…  mourir.”..Quả nhiên, anh xin đi Pháp và được phái đoàn Pháp chấp nhận dễ dàng. Tôi có một anh bạn, cựu Đại Úy không quân, dân pilote hào hoa và liều lĩnh. Anh nói với tôi :
            – Cậu đi với tôi qua Úc đi, hai đứa mình xin đi làm nông trại, khẩn hoang, làm giầu.
Tôi lúc đó biết rằng việc trở lại nghề Y ở ngoại quốc rất khó, và cũng có chút thích phiêu lưu, thích quá, nói với anh bạn này : Đồng ý, khi nào phái đoàn Úc đến, tôi sẽ xin đi với anh. Anh bạn này sau sang Úc, không đi khai phá đất hoang gì, mà mở quán ăn ở Perth hay Melbourne gì đó, làm giầu thực. Nay đô la rủnh rỉnh,  mua nhà ở Việt Nam,  rồi đi đi, lại lại giữa Việt Nam và Úc, như đi chợ.
Tôi về lều, nói với bà vợ mới cưới, chỉ 4 tháng trước khi vượt biên ý định xin đi Úc của mình. Bà ta nhất định không chịu :
            - Em của anh ở Canada, anh của anh ở Mỹ, đi Úc làm cái giống gì ??
Nói tới, nói lui mãi, hai vợ chồng chưa quyết định gì được. Một hôm,. đến lều của anh Nguyễn Phú Cường chơi, gặp đàn anh Nguyễn Văn Trí, hai anh này nói với tôi :
            – Canada có vùng Québec nói tiếng Pháp,, dễ sống lắm. Quebec đất rộng gấp 10 lần nước Việt Nam, dân số chỉ có 6, 7 triệu, đời con, đời cháu mình cũng không sợ thiếu đất  như ở Paris hay London.
Chính 2 lý do thiết thực này đã làm tôi suy nghĩ : Có lý, sao mình nghĩ không ra.Thế là khi phái đoàn Canada đến, tôi lên xin đi Québec, và được chấp thuận, với điều kiện là tôi đừng đòi hỏi phải trở lại với nghề nghiệp của tôi, vì họ không thể bảo đảm về việc này..Cho đến nay, tôi vẫn không biết  quyết định như vậy có đúng hay không. Nhiều khi sau này, khi nghe các đồng nghiệp hốt bạc ở Hoa Kỳ, đôi lúc có hối tiếc, nhưng về già, nghĩ lại thấy quyết định của mình cũng không đến nỗi tệ. Đúng như vậy, đời sống của chúng tôi tại Montréal tuy không giàu có như ai, nhưng rất là êm đềm, như nước hồ thu và không vất vả như các đồng nghiệp ở các quốc gia khác.
Trước hết là các đồng nghiệp người bản xứ. Hồi đó, Ordre des médecins du Quèbec (Bây giờ gọi là Collège des médecins du Québec) có ông chủ tịch A.Roy,  nâng đở các y sĩ Việt Nam hết mình. Trong khi các y sĩ Việt Nam đến các tiểu bang khác của Canada trầy vi, tróc vẩy, không trở lại nghề được, thì ở Montréal, y sĩ Việt Nam được giúp đỡ, thi lại, đi thực tập, rồi hành nghề trở lại khá dễ dàng. Trung bình, chỉ 2 hay 3 năm, là lấy lại được quyền hành nghề. Bản thân tôi, đến Montréal tháng 11 năm 1978…dến giữa năm 1981, đã có quyền hành nghề một cách rất đàng hoàng. Sau này, khi ông chủ tịch Y Sỹ Đoàn đó về hưu, thì khó khăn hơn, nên nhiều đồng nghiệp đến sau, không trở lại nghề được. Chẳng ai giỏi hơn ai. Cuộc đời hơn nhau ở cái may mà thôi.
Người dân Québec gốc Pháp, nhưng không phải dân Parisien đâu.. Họ có lẽ là những người anh chị, phóng khoáng, giang hồ nên khi đến đất mới, có lẽ theo như tôi nghĩ (việc này không biết có đúng không, phải kiểm chứng lại), đổi lại họ tên, nên các họ của dân Québec nhiều khi nghe buồn cười lắm. Nào là ông LAPORTE, bà LAMONTAGNE, cậu BOILEAU, cô BOIVIN. Có người lại tên CAUCHON, có người lại tên COITEUX… còn các tên thơm như DESJARDINS, LAFLEUR thì nhiều lắm.
Người québecois ăn nói bộc trực, cư xử phóng khoáng hệt như dân Nam Kỳ. Họ không phân biệt đối xử. Trong khi các đồng nghiệp của tôi ở Mỹ hay các tiểu bang nói tiếng Anh, BS da vàng mũi tẹt thường chỉ có khách hàng cũng da vàng mũi tẹt, người da trắng ít khi chịu cho bác sĩ mít khám, thì các người quebecois, gần phòng mạch nào đi khám phòng mạch đó, bất luận bác sĩ là Việt Nam hay da trắng, da đen gì. Tôi làm việc tại một khu phố gần như hầu hết là dân quebecois pure laine ( nghĩa là chánh gốc, thứ thiệt, 100 phần dầu). Hồi sau này, bác sĩ ở đây khan hiếm, nhiều khi đến phòng mạch làm, thấy mấy người này sắp hàng dài, chờ mình đến, tự hỏi tại sao mấy người này có thể tin cậy một ông bác sĩ già, nhỏ bé , ăn mặc bừa bãi, không xe xua gì (nhà quê, theo lời bà vợ tôi tôi phán) như mình, thiệt là kỳ lạ.
Sau này, con cháu của các đồng nghiệp, của các thuyền nhân thuộc các giới khác như giáo sư, luật sư theo các ngành Nha Y Dược nhiều lắm. Trong một bệnh viện thuộc Rive Sud của Montréal, số bác sỹ gốc Việt đông lắm, đi đâu cũng thấy họ Trần, họ Nguyễn, họ Phạm….v.v Nhiều khi loa phóng thanh vang lên “bác sỹ Nguyễn” , có việc cần ở phòng này, phòng nọ…thì không biết là ông Nguyễn nào, vì trong nhà thương, có cả chục BS Nguyễn, vui lắm.
Dân Quebecois nói tiếng Pháp với một giọng đặc biệt, gọi là accent quebecois. Cũng tỷ như người xứ Quảng nói tiếng Việt. Không quen, đố nghe được. Ngay cả như tôi, khi 2 đứa con nói chuyện với nhau bằng thứ tiếng này ( mà khổ nỗi, hễ nói với nhau, là chúng không bao giờ nói tiếng Việt), là tôi và mẹ chúng, chịu thua một phép.
Khi viết, thì càng tệ hơn. Tôi có thể dám cá với mọi người là khi viết tiếng Pháp, tuy tôi là dân Chu Văn An, so với người trung bình quebecois, tôi ít lỗi chánh tả và văn phạm hơn họ. Người québecois viết như họ nói, nói sao, viết vậy, không cần để ý đến orthographe , grammaire gì hết. Ngay trên báo chí, người ta cũng bắt gập các lỗi rất thông thường. Không hề gì, miễn làm sao cho 2 người hiểu nhau, vậy thôi. Còn bà Pauline Marois, đương kim Thủ Tướng Québec, khi bà nói tiếng Anh, không hiểu các bạn có nghe chưa ?? Các ký giả trên tờ Journal de Montréal kêu quá, về vấn đề này, nhưng “no Star Where”… chuyện nhỏ.
Việc tôi không mấy thích ở Québec là mùa đông ở đây lạnh quá, nhiều tuyết quá.
Hồi mới sang đây, mới có xe, tôi dại dột mua mấy cái xe Mỹ (chiếc xe đầu tiên tôi mua là 1 chiếc Mustang sport, mầu đỏ chói cho đúng điệu dân chơi cầu ba cẳng, được có 2 năm, gặp trục trặc đủ điều). Khi trời lạnh quá, đề xe không nổ. Sau này đổi sang xe Nhựt, hâng Toyota, không còn gập cảnh phải kêu người đến “bouter” cho xe chay ( tiếng này không hiểu  có phải do tiếng anh to bơost hay bouter là đem một chiếc xe đang chạy, đến câu điện vào bình của xe mình bằng 2 sợi dây một đen, một đỏ, mình gọi là câu xe. Bouter là nối bout này đến bout kia ). Dù sao chăng nữa, nói như vậy là dân québecois hiểu liền, không phải giải thích lôi thôi . Cũng như khi dục ai nhanh nhanh lên một chút, thì họ nói Ơ Wây, Ơ Wây. Hỏi một ông québecois chữ này viết ra sao, tại sao lại nói như vậy, thì ông này giải thích một cách đại khái : Có lẽ chữ này xuất xứ từ chữ envoyer, khi xưa làm việc en chaine trong các hãng xưởng, người ta dục nhau…. envoie, envoie. Cũng là một cách giải thích. Đại khái cách nói của người quebecois có nhiều chỗ bí hiểm như vậy.
Trở về với mùa đông,lâu lâu, có những cơn bão tuyết dầy đến 50, 60 cm, có khi 100 cm. Mà các cơn bão tuyết này lại thường xẩy ra ban đêm. Có năm, đánh bài xong, ra khỏi nhà bạn, lấy xe về, nhìn thấy xe mình chôn vùi dưới đống tuyết, thấy muốn khóc. Hôm đó, tôi may mắn gặp được một người chuyên môn dọn tuyết cho tư nhân, với một cái xe có trang bị một cái cào tuyết bằng sắt to tổ chảng phía trước, nhận lời cào tuyết để đem xe ra với giá 100 đô nên ra về được. Sáng ra, anh Phạm H T chủ nhà, ra đường nhìn thấy một cái lỗ khổng lồ, cứ tấm tắc khen tôi giỏi đào tuyết. Tôi dấu biệt chuyện mình đã thuê người ta làm. Đó là trận bão người ta gọi là trận bão của thế kỷ 20.
 Hồi tháng giêng năm 2013 mới đây, tôi lâm vào một hoàn cảnh tương tự sau khi ở phòng mạch ra. phải nhờ đến 2 thanh niên québecois giúp, mà gần một tiếng mới đào được một lối cho xe chạy được ra giữa đường, vì xe làm đường ủi tuyết vào lề đường mà mình đang đậu xe. Ngộ một điều ở đây, là khi mình hoạn nạn, là có nhiều người sẵn sàng giúp mình, đẩy xe dùm mình. Làm như ai cũng quen với việc này rồi, nên giúp nhau là lẽ đương nhiên. Cho đến nay, đây là trận bão của Thế Kỷ 21, Không hiểu thừ nay đến năm 2199, có trận bão nào lớn hơn hay không ?
Mùa hè ở Montréal thì dễ chịu lắm. Trừ một vài ngày rất nóng, thì ba tháng hè rất lý tưởng cho các du khách. Người ta đặt ra rất nhiều lễ hội, cũng như các thành phố khác ở khắp nơi trên thế giới, để quyến rũ du khách. Nào là Festival nhạc jazz, Juste pour rire, just for fun,….đua xe F1, bắn pháo bông quốc tế…v.v Lúc nào centre ville cũng đầy người, đầy xe cộ. Thú nhất là xuống đường St Denis, vào các quán cà phê, vừa uống cà phê, vừa nhìn đầm non đi lại, ăn mặc rất là thiếu vải. giống như hồi trước ở Sài Gòn, ra La Pagode hay vào Givral.
Tôi sống ở Montréal mà không khác gì thời sống ở Sài Gòn. Bạn bè Việt Nam, đồng ngiệp, đồng “thói hư tật xấu” giống như xưa, mà chẳng bị lên án là đồi trụy gì . Vậy mà, ở Việt Nam, sau 1975, tôi đã  bị bọn cán bộ đạo đức giả lên án vì đã bị hủ hóa, trở thành xấu xa vì Mỹ Ngụy. Thực kỳ quái, tôi vẫn sống, tôi vẫn ăn, vẫn du hý, đánh bài, giống hệt  như hồi xưa ở Sài Gòn, Cần Thơ, mà sao ở đây, họ không kết tội tôi là bán nước, bóc lột dân lao động, ăn bám xã hội gì hết. Bọn chết tiệt CS sau khi vào được Miền Nam, đưa chúng tôi vào trại cải tạo, rồi gán cho trăm ngàn các thứ tôi, mà trong các buổi học tập, mình nói như con vẹt, nhận tội , rồi sau đó chẳng hiểu mình mắc tôi gì. Ai không nhận tội, dù chỉ trên đầu môi chót lưỡi, nín thở qua sông, thì coi như chưa tiến bộ, phải ở lâu hơn.
Thôi, coi như cái thời kỳ đen tối đó đã đi vào dĩ vãng rồi. Quên nó đi cho được việc.
Trở lại với mùa hè ở Montréal, nếu thời tiết quanh năm được như vậy, thì Montréal quả thực là một thiên đường. Đáng tiếc là chỉ được 3 tháng đẹp trời mà thôi. Hè đi thì thu tới.
Mùa Thu Montréal nói riêng, và Québec hay Canada nói chung, đẹp tuyệt vời, với lá thu vàng hoạc đỏ rơi tả tơi, bay theo gió thu. Nhiều người sang Canada để chỉ muốn nhìn thấy những cảnh lá đổi mầu và rừng thu thay áo như vậy. Trong một mùa Thu gần đây, dù không phải thi sĩ, nhưng trước cảnh đẹp mùa thu, và tuổi già, nhớ tới những cố nhân, tôi đã sáng tác ra mấy câu thơ sau đây, xin trình bầy để bà con thưởng lãm (thơ con cóc, xin đừng cười) :
Nhìn lá vàng rơi, lá vàng rơi.
Mùa Thu quyến rũ đã qua rồi.
Ta tìm gì nữa , tìm gì nữa.
Chỉ thấy lá vàng lác đác rơi.
Nhìn lá vàng rơi, lá vàng rơi.
Sự nghiệp, công danh, chán quá rồi.
Ta tìm ai nữa, tìm ai nữa.
Bạn bè mấy đứa nhớ nhau thôi
 
Đúng như vậy, bạn bè lâu lâu lại có một đứa bỏ cuộc chơi . Gặp nhau ngày nào vui ngày đó, còn tương lai : Kệ nó !! thắcmắc mà làm chi.
Cuộc đời, như một dòng sông , một chuyến đò, hay một chuyến xe métro.
Mỗi người, mỗi thế hệ, theo thời gian, lại có những bến đỗ khác nhau.
Tôi là một người Việt Nam, nhưng hình như các con tôi bây giờ, chúng là các Quebecois. Mới đây, tôi hỏi thử thằng con út của tôi : Con có muốn sang Mỹ làm việc hay không. Con sẽ kiếm rất nhiều tiền bên đó. Đứa con trả lời tôi một cách bất ngờ :
            – Làm sao con có thể bỏ Québec được hở bố. Québec đã đầu tư quá nhiều vào những người như con.
Đúng như vậy, sống ở Québec, một thanh niên, bất cứ thuộc sắc dân nào, nếu có tài, và có chí, thì Québec giúp họ thành công dễ dàng. Được voi, đòi tiên, các sinh viên Québec hiện còn đang đòi học đại học miễn phí, việc chưa bao giờ có ở Bắc Mỹ. Các con tôi, khi học đại học, được cho vay tiền, được học bổng. Cả 2 đứa,đều có trêm mười năm học đại học, chúng tôi có giúp chúng, rất ít, nhưng nếu chúng tôi không giúp gì đi nữa, chúng cũng có điều kiện ra trường một cách dễ dàng, chỉ nợ thêm một chút nữa thôi, khi đi làm, sẽ thanh toán mau chóng.Xã Hội Québec giúp đỡ các công dân của mình thành công. So với các sinh viên Việt Nam còn sống trong nước, các con tôi thực may mắn.Đây mới chính thực là Xã Hội Chủ Nghĩa.
Viết bài này, tôi, một người Việt Nam, bị các đồng bào của mình ngược đãi, đến mức  phải bỏ xứ mà đi, vì không muốn bị kỳ thị, vì không muốn mấy đứa con không có tương lai chỉ vì lý lịch của bố nó), chỉ để tri ân các người quebecois, đã đưa tay ra đón nhận và giúp đỡ chúng tôi làm lại cuộc đời.
Xin cám ơn Canada.
Xin cám ơn Québec.

http://bahaidao.wordpress.com/2013/03/28/canada-quebec-va-toi/



mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 15/Apr/2013 lúc 12:00am




Phải rồi tên em ta đã nhớ..!!!

 
Tác giả tên thật Vũ Văn Cẩm. Đến Mỹ năm 1982, định cư tại Texas . Di chuyển về Oklahoma năm 2003. Nghề Nghiệp:Electrical Engineer. Hiện làm việc tại Công Ty American Airlines, M&E Center, Tulsa, OK. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của Vũ mang tựa đề “Vụng Đường Tu”,  kể về chàng tị nạn Việt đã quyết chí đi tu, nhưng rồi vướng món nợ... tóc vàng. Bài dài, được phân làm ba hồi, với tiểu tựa trích từ nội dung. 
 
III. Phải rồi. Tên Em Ta Đã Nhớ


Phi cơ dừng và đổi chuyến tại phi trường Denver , hắn lấy hành lý từ ngăn đựng đồ, rồi đi vào hành lang phi trường để đến chuyến bay kế tiếp. Trước mắt hắn là
một thiếu nữ tay dắt đứa con khoảng 3, 4 tuổi, tay kia kéo theo chiếc roller, trên lưng còn đeo thêm một backpack. Cái backpack khá lớn đủ để che mất tấm lưng và mái tóc của cô. Một món đồ chơi rơi xuống thảm hành lang từ tay thằng bé. Người thiếu nữ dắt con, trong khi mắt vẫn mải nhìn số gate của hãng máy bay, không để ý đến thằng bé đang cố vụt khỏi tay mẹ để nhặt món đồ chơi lên. Hắn nhặt lên giùm và đưa vào tay nó. Người thiếu nữ quay lại, rồi dường như… nhận ra hắn là một người quen, nàng dừng hẳn lại, tròn mắt: 

- You! You… again… Colin… Aren't you…? Thank goodness!

Đang chú ý đến nét mặt biết ơn của thằng bé lúc nhận lại món đồ chơi, hắn giật mình khi thấy người con gái gọi đúng tên mình. Mái tóc cắt ngắn của cô làm hắn chưa thế xắp sếp hình ảnh trong đầu để biết đã gặp người này ở đâu. Nhưng ánh mắt của nàng làm hắn chợt cười lên vì đã nhận ra đứa con gái chung lớp mấy năm trước… Bất ngờ, bất ngờ quá, lại bất ngờ hơn nữa khi gặp lại nàng đi cùng đứa con trai 3, 4 tuổi. Hắn cứ đinh ninh là không còn thấy nhau nữa. Bây giờ tại một tiểu bang xa xôi này, hai tâm hồn “cô đơn” gặp lại nhau. Hắn cười vì chữ “cô đơn” vụt lên trong đầu. Cô đơn đâu mà cô đơn…! Vì hắn đã có Chúa, còn nàng thì đã có thằng con đi theo đây.

Hắn lấy tay đập đập vào trán để tìm tên nàng:

- Chính…hắn… Colin đây! Jeannette… Ah… Jenny…, “mày” khoẻ không?

Nàng phì cười vì cái tên mới mà hắn đặt cho cô:

- Not Jenny…, Jackqueline… Jackie!

- “Tao” sorry! Thực có lỗi với “mày”, Jackie! Mừng quá “tao” quen…!

Qủa là hắn cũng có tài lấp liếm. 

Đứa con gái vui vì bất ngờ gặp lại hắn ở đây. Nàng nhìn vào mắt hắn, rồi lấy bàn tay mềm mại, vỗ vỗ vào ngay chỗ trái tim trên ngực hắn:

- “Jackie”… okay! Keep me here…, memorize it by here!

Hắn có vẻ cảm động, vì sự nhắc nhở một cách dễ mến của nàng, nên thấy tự nhiên trở lại:

- Không ngờ được gặp lại “mày” ở đây… Is this your son!

Người con gái cười tươi:

- Yeah! My son… Andy!

Rồi nhìn vào ngón tay không đeo nhẫn của hắn, nàng tiếp:

- You're not yet married… Hah?

- No... Never!

Hắn vừa cười vừa trả lời cô. Nàng nhăn nhăn mũi rồi cười lớn hơn:

- Youre…“chicken”, Colin…!

Ha ha, hắn phì cười vì câu nàng chê hắn là đồ chết nhát. Phải! “Tao” nhát như “gà”, “tao” sợ có người nào đó nhốt “tao” trong chuồng, nên không tài như “mày” để có con dắt theo… Hắn chúc mừng đứa con gái:

- Congratulations! “Mày”… đã lập gia đình!

Đúa con gái lắc lắc đầu:

- Uh…uh! I'm single… Single mom!

Ừ phải, cứ nhìn một đứa con gái Mỹ dắt con, mà tưởng là nó có chồng, thì tầm bậy hết sức. Thằng bé nãy giờ, theo dõi mẹ nói chuyện với người đàn ông lạ, xen vào:

- I have no…daddy!

Bây giờ hắn mới để ý hơn đến thằng bé, mái tóc vàng giống mẹ dài phủ quá tai, nhìn nó trông giống như một đứa con gái nghịch ngợm… Hắn giơ tay ra với nó:

- Hi… I'm Colin… Give me five…!

Thằng bé đập vào tay hắn, rồi rụt tay lại khoe món đồ chơi:

- I've new Superman!

Hắn vờ ngạc nghiên với cái game nhỏ có hình Superman bên trên:

- Wow! I like it! Did your mom buy it?

Thằng bé gật gật đầu:

- Yeah!

Vậy là hắn gặp lại nàng nơi đây, để biết
nàng làm engineer cho một công ty ở Denver đã mấy năm rồi. Bữa nay, hết contract, nàng trở về Dallas để nhận việc mới thì bất ngờ gặp lại nhau tại phi trường này… Trái đất quả là tròn!

Jackie bỗng im lặng, nhìn thằng con trai Việt Nam vừa gần gũi vừa xa lạ này. Thật chẳng biết sao nàng lại có cảm tình với hắn, chắc tại vì hắn có nét gì đó chân thật,
đem đến cho nàng sự an tâm khi tiếp xúc. Nghĩ lại, những lúc cùng hắn làm bài, những buổi gặp gỡ, đi ăn…, Jackie chưa hề thấy hắn có một cử chỉ nào tỏ ra để ý đến sắc đẹp của nàng…
Cô thắc mắc và cố tìm hiểu về hắn nhưng đành chiu thua, chỉ biết công nhận một điều là hắn nice, hắn tốt với nàng. Có thể hắn là người tốt thứ hai sau mẹ nuôi của nàng. Người mẹ nuôi mà Jackie hết sức thương yêu. Người đã lãnh nhận nàng từ một Adoption Center nào mà nàng chẳng hình dung ra được vì còn quá nhỏ. Bà đã chết sau khi nàng vào đại học được hơn một năm.
 
Đi học, sống vào tiền Grants trợ cấp và tiền làm Work-Study, Jackie có bản tính rất tự lập. Kinh nghiệm “single mom” của người mẹ nuôi trước đây, làm nàng cố cứng rắn với mình trong việc liên hệ trai gái.
 
Chẳng phải vì nàng Công Giáo, coi chuyện đó là tội lỗi, cũng chẳng phải là nàng không thiết đến những thèm khát xác thịt, nhưng Jackie ngần ngại về sự chân thành từ những đứa con trai chung quanh, và cũng ưu tư chuyện học hành sợ mất thời gian về những giao tiếp đó.
 
Nên nàng vẫn tự nhủ, sẽ chỉ có bạn trai khi xong đại học, và cố gắng chỉ có sex với đứa con trai sẽ là chồng của nàng. Bởi vậy mà đám bạn cl***mates luôn bảo nàng cổ điển như một cây phong cầm cũ trong góc nhà thờ, nhưng kệ, Jackie cố đặt ra cho mình một nguyên tắc sống như vậy…!

Nhớ lại buổi chiều ngày ra trường gặp hắn, Jackie đã có ý đinh nhờ thằng kỹ sư tóc đen này làm partner cùng đi chơi trong một bar rượu, với nhóm bạn của nàng.
Rồi có thể sau đó sẽ rủ hắn về phòng mình. Nhưng đáng tiếc là hắn đã quên, hay từ chối không đến chỗ hẹn. Jackie thực không biết có phải buồn vì hắn lỗi hẹn không, mà đã uống nhiều rượu quá! Sau đó, cả bọn kéo nhau về nhà một đứa bạn.
Lần đầu tiên vui chơi của một đứa con gái biết hạn chế như nàng, không ngờ kết cuộc lại đến như vậy! Say quá, Jackie chẳng còn biết gì hơn là vùi đầu chung chạ với đám bạn trai gái!  Chắc chắn hắn chẳng biết được nàng đã có một đứa con ngay đêm hôm đó, chỉ sau vài tiếng đồng hồ từ khi hắn thất hẹn với nàng.

Ra trường, Jackie được nhận ngay vào một hãng sản xuất dụng cụ y khoa. Từ đó nàng cắm cúi đi làm nuôi con, và cũng đã có một hai mối tình hờ hững, quen rồi thôi. 
 
Đã hơn 4 năm rồi bây giờ mới gặp lại nhau, thấy hắn chững chạc và tự tin hơn.  Jackie mơ hồ chẳng hiểu sao lại thấy vui vui khi biết hắn còn độc thân. Nhưng thôi, thắc mắc làm gì, chỉ biết rằng có lúc nàng đã thấy thích hắn, thích được đi chơi, ăn uống, và ngay cả có lúc muốn được cùng hắn lên giường! 

Jackie cười một mình khi nghĩ nếu như đêm đó đi với nhau, thì cuộc đời của nàng đã như thế nào nhỉ? Và đứa con, nếu có, chắc sẽ không giống như đứa con trai của nàng hôm nay.  Đứa bé, mà đến giờ này, Jackie vẫn chẳng biết được cha nó là ai trong đám bạn bè ngày ra trường đó. Nàng đã có lần nói với con, khi nó hỏi về daddy.

Thằng bé ngước đôi mắt trong xanh lên hỏi mẹ:

- “Sao vậy…?”

Nàng không muốn gợi vào đầu con một câu chuyện rắc rối, nên trả lời:

- “Mẹ giận “him”…”

Thằng bé năn nỉ mẹ:

- “Cho daddy về đi - Mom…!”

Nàng cười cười vuốt tóc con:

- “Chỉ khi nào daddy khóc trước mặt, mẹ mới cho về…”

Thằng nhỏ tưởng thật, yên tâm, quay mặt vào tường, ngủ tiếp.

Đáng thương cho nó, chắc nó muốn có một daddy như những đứa trẻ khác. Phần nàng, gặp lại nhau hôm nay, nàng có vẻ an tâm vì biết hắn vẫn ở Dallas . Như vậy là có dịp gặp lại nhau. Jackie tự nhủ, từ giờ, sẽ chủ động và biểu lộ sự quan tâm hơn đến gã “cố nhân” này… Cô thấy phấn khởi với ý nghĩ đó, cũng vừa lúc chuyến bay chuẩn bị cất cánh.
Jackie hỏi số phone để sẽ gọi hắn sau. Gã con trai đưa cho nàng cái business card…

Vài năm sau,
Mình gặp lại nhau
Tên em, ta vỗ trán đi tìm
Em cười, nhắc ta thêm lần nữa
Răng trắng muôn đời… sữa bình nguyên…!

Hắn giơ tay vẫy mẹ con nàng, đang chuẩn bị bước vào khung hành lang hẹp dẫn đến cửa máy bay, trong nụ cười xinh đẹp của người con gái!

Về lại Dallas , cũng vừa lúc hắn nhận được giấy báo của cha Joe cho biết đã được nhận vào trường Seminary. Tội cho cha, chắc không gặp được hắn trên phone, lại không thấy hắn đi lễ, nên đã gởi thư này. Cha hẹn vài ba tuần lễ nữa, cha đi cấm phòng và vacation về, hắn sẽ đến gặp cha ký giấy tờ, và những dặn dò cần thiết,
để chuẩn bị vào chủng viện cho khóa học mùa tới.

Ôi! Niềm mơ ước của hắn bây giờ đã thành sự thực! Chúa đã đáp ứng lời cầu xin của hắn. Hắn xúc động vì tin được nhận vào Chủng Viện cũng mãnh liệt như nỗi xúc động lúc được tầu Mỹ với lên, từ chiếc thuyền mong manh lênh đênh, ngày vượt thoát khỏi Việt Nam trước đây. Hắn cúi đầu cầu nguyện… “Vâng, Chúa đã cứu vớt con một lần trên đại dương gầm thét, bây giờ lại cứu vớt con lần nữa, đang lúc lênh đênh cuộc đời giữa trần thế này. Xin cám ơn Ngài…!”

Tiếng chuông điện thoại reo, hắn liên tưởng đến vị linh mục hiền lành. Chắc là cha gọi mình đây. Nhấc lên, tiếng nói đầu giây bên kia có vẻ gấp rút:

- Đây là Bệnh Viện St. Paul… May I speek with Mr. Do…please!

Hắn giật mình như linh tính có điềm gì chẳng lành:

- Vâng… chính tôi!

- Ông có quen Jackie không? Jackqueline Thompson?

Hắn lẩm nhẩm nhắc lại:

- Jackie… Jackie… Ah, vâng, tôi là bạn cô ta…!

Tiếng đầu giây bên kia:

- Hãy đến bệnh viện, bác sĩ cần nói chuyện với ông!

Khi đến bệnh viện, thì hắn được cho biết
nàng đã chết vì một tại nan xe trên đường đón con đi học về. Nàng nằm kia, còn thằng Andy, con nàng, cũng đang được điều trị tại bệnh viện vì một vết cắt ở tay. Vì nàng không còn ai là thân nhân, mà chỉ có tấm danh thiếp của hắn trong túi xách, nên hắn là người được gọi đến, gặp gỡ ban chung sự nhà thương để bàn về cái chết của nàng. Thực là sững sờ, hắn không thế tưởng tượng nổi, sao có sự bất ngờ đau thương như vậy đến với mẹ con nàng…!

Nàng nhắm mắt như đang ngủ, khuôn mặt bình thản. Hắn liên tưởng đến những lời nói, đến bàn tay mềm ấm đặt trên ngực của hắn, cũng như những cử chỉ chân tình của nàng trước kia, để cảm nhận được nỗi ngậm ngùi, xót thương cho người con gái, dâng lên từ trái tim hắn…

Rồi lần này,
Kìa em, gặp lại
Nằm khép hoa môi giấc quan tài
Đôi môi lần chót gặp ta nhắc
Nghe nhớ bằng tim…, chớ bằng tai!


Bệnh viện dành quyền cho hắn, nếu muốn, đứng ra để chôn cất nàng, hay để sở Xã Hội lo việc ma chay, coi như xác chết vô thừa nhận. Nhà quàn cũng cho hắn biết về số tiền chi phí để chôn cất, vì gia tài của nàng lúc này, ngoài cái xe móp méo, mà bảng số vẫn còn là Denver, thì tài khoản, như statement nhà bank trong ngăn của túi xách,
chỉ còn gần ngàn bạc. Điều đáng buồn là bảo hiểm xe đã hết hạn hai hôm mà nàng chưa đóng tiền đáo hạn, và xui hơn nữa, kẻ đụng nàng là một gã Mỹ đen say xỉn mà cả năm rồi chẳng biết đến bảo hiểm xe là gì!

Thương cho nàng, hắn không nỡ để nàng ra đi như một kẻ vô thừa nhận như thế. Ít ra trên đời này, nàng còn có hắn. Rồi chợt nghĩ đến thằng Andy đang nằm bệnh viện, nó cũng cần được săn sóc, vỗ về, nhưng hắn chưa biết phải lo cho nó như thế nào? Hắn nghĩ đến số tiền mấy năm nay đi làm dành dụm được.
 
Hắn không tiếc vì nghĩ rằng đồng tiền Chúa ban, nên trả lại cho Chúa qua những người anh em bất hạnh chung quanh… Vâng, xin Chúa giúp con trong cơn khó khăn này! Hắn đồng ý đứng ra chôn cất nàng, và ưu ái hơn, còn chọn cho nàng đúng mảnh đất nghĩa trang mà nàng mơ ước trong một lần hai đứa chạy xe qua.

Sau tang lễ, hắn đến thăm Andy xem tình trạng nó ra sao. Cũng giống như me, nó giờ chỉ còn hắn là thân nhân độc nhất trên cõi đời. Hắn ghé vào Toys R Us mua game cho thằng bé, rồi đến nhà thương, đi thang máy lên phòng bệnh. Dường như nó nhận ra hắn là người quen mà đã có lần nói chuyện với mommy, nên mở đôi mắt xanh tròn nhìn hắn:

- Where's mom!

Hắn lấy tay vuốt mái tóc vàng của đứa trẻ tội ngiệp:

- She's being in rest…!

Thằng bé không hiểu là mẹ nó đã chết:

- Take me to mom… Please!

Hắn phân vân không biết có nên cho nó biết là mẹ nó chết hay không? Cũng không biết là nhân viên bệnh viện có cho thằng bé biết là nó đã mồ côi mẹ không…? Hắn kiếm cách an ủi nó.

Hắn phân vân không biết có nên cho nó biết là mẹ nó chết hay không? Cũng không biết là nhân viên bệnh viện có cho thằng bé biết là nó đã mồ côi mẹ không…? Hắn kiếm cách an ủi nó:

- I will…!

Tiếng bật khóc của thằng bé làm hắn mủi lòng. Lau mắt cho nó, hắn dỗ dành:

- Mom… đã về nghỉ bên God, nhưng giờ vẫn còn ta! My son…, Andy!

- No…! You're not my… daddy!

Sau câu nói, nó lại khóc rống lên. Một nhân viên bệnh viện đến cho nó uống thuốc. Thằng bé vùng vằng nắm áo hắn. Tội nghiệp thằng nhỏ mồ côi, hắn bế xốc nó lên dỗ dành. Nhưng dỗ con nít không phải nghề của hắn. Thằng bé nhoài người ra:

- No…. Please…Let me be with mom…!

Hắn vỗ vỗ lưng nó:


- Okay…Okay…Andy, I promise…! 

Thằng bé có vẻ nín khóc vì lời hứa của hắn, nó ngước đôi mắt còn ướt sũng những giọt nước:

- O…k…a...y…!


Lấy tay không bị băng quệt nước mắt, nó chịu uống miếng thuốc màu đỏ, rồi tiếp tục:

- Im hungry… now!

“Gà trống nuôi con…!” Đây là lần đầu tiên hắn bận rộn với con nít là thằng Andy bên cạnh. Đặt nó xuống giường, rồi lấy phần ăn trong bệnh viện, hắn đút một miếng nhỏ vào miệng nó. Thằng bé lắc đầu:

- I wanna go to McDonalds.

Hắn dỗ dành:

- Okay, well be there…!

Hơn tuần sau, thằng bé được xuất viện. Hắn theo nhân viên Xã Hội đến Child Protective Services, để ký giấy chứng nhận được đi thăm nó tại một nhà trẻ thuộc sở Xã hội, cho đến khi sở kiếm được cho nó một cha mẹ nuôi chính thức.

Hắn quyết định sẽ gởi đơn xin thôi việc ở hãng sau ngày đến gặp cha Joe, ký giấy vào Chủng Viện. Cám ơn cha, một vị bề trên nhân từ và đáng kính. Hắn cũng dự trù mua biếu cha bộ áo lễ, thay cho bộ áo cũ đã sờn rách, mong rằng cha sẽ vui. Trước khi đi thăm Andy, hắn lấy là thư của cha ra xem lại cho chắc ăn, rồi tiện tay, nhét lá thư của cha vào túi áo, nhẹ bước ra khỏi phòng.

Hôm nay thứ Bảy, hắn sẽ đưa Andy đi thăm mẹ nó như lời hứa. Mà có thể, đây là lần chót gặp nó
trước khi hắn đi tu. Hắn đang suy nghĩ, sau này không biết ai sẽ là người đến thăm, và ai sẽ là cha mẹ nuôi của nó. Hắn nhẹ lắc đầu, tội nghiệp thằng bé mồ côi!

Trong đầu hắn chợt có ý tưởng làm cha nuôi cho Andy. Ừ phải, hắn có đủ điều kiện và công việc như đòi hỏi của sở Xã Hội. Andy là một đứa bé ngoan hiền, dễ thương, nhất là nó lại là con của nàng. Thực tốt đẹp cho cuộc đời đứa bé, nếu như Andy được sống với hắn. Hắn đã may mắn được nước Mỹ đùm bọc, nuôi dưỡng, giáo dục, và tạo cho công việc, được hưởng mọi quyền tự do, và nhất là được sống trong một xã hội đầy tình người, nên bây giờ có cơ hội để đền đáp lại xã hội nhân bản đó, làm sao nỡ ngoảnh mặt khước từ?

Nhưng cuộc đời hắn, đã nuôi ý định tận hiến cho Thiên Chúa từ lâu, bây giờ mới được toại nguyện. Còn gì trên đời hơn nữa mà không đón nhận? Hắn sẽ từ giã công việc và những vị tiền bối ở Boeing, từ giã bạn bè, từ giã những buổi chiều đi lang thang sân trường đai học, và buồn hơn, là bây giờ sẽ phải từ giã Andy, không thể hàng tuần đến thăm nó được nữa.

Hắn lại nghĩ đến số tiền để dành, dù không còn nhiều, nhưng chẳng biết luật lệ Chủng Viện có cho tu sinh quyền giữ tiền riêng không? Dù được hay không, hắn nghĩ, sẽ chia số tiền, 1/2 cho thằng Andy vì nó còn nhỏ quá, cần được đền bù vì những bất hạnh của một đứa trẻ mồ côi. Hắn cũng gởi về Việt Nam cho cha mẹ một ít, còn lại sẽ đặt hết dưới sự quản lý của Chủng Viện. Nghĩ được như vậy hắn cảm thấy yên tâm.

Hắn ghé vào McDonalds mua cho thằng bé phần Happy Meal, vì nó thích những đồ chơi nho nhỏ trong phần ăn này. Tiện tay, hắn lấy thêm vài tờ napkins nhét vào túi áo. Sau đó hắn dừng xe trước chợ mua một bó hoa tươi cho nàng. Vậy là đủ, hắn sẽ cùng thằng bé dắt tay nhau đi thăm mẹ của nó.

Đường vào nghĩa trang vắng lặng vào một buổi chiều thứ Bảy, có nắng lung linh bao phủ trên những đóa hoa như nàng vẫn mơ ước. Hắn xuống xe, cầm theo bó hoa và tay kia dắt theo thằng bé. Nếu không vì mái tóc vàng giống mẹ của nó, thì người ta sẽ nghĩ đó là hai cha con thực sự. Thằng bé hớn hở vì được đi chơi. Đến bữa nay, dường như nó đã phần nào quên được mẹ, vì có nhiều bạn mới cùng tuổi, và nhiều đồ chơi trong nhà trẻ của sở Xã Hội.

Đến trước mộ của nàng, hắn lặng lẽ cắm hoa vào khay được gắn trước mộ bia. Thằng Andy rụt rè, nắm chặt tay hắn. Trong đầu óc bé nhỏ của nó mường tượng ra được là từ nay sẽ không còn được gặp mẹ nữa. Mắt nó đỏ hoe chực khóc. Hắn cúi xuống, ôm và vỗ về nó, thằng bé dụi dụi mắt vào cổ áo của hắn:

- Mama nằm đây hả…?

Hắn vỗ vỗ lưng nó:

- Ừ, nằm đây, và mama happy lắm khi thấy mình đến đây hôm nay…!

Thằng bé xụt xùi:

- I miss mama…!

- Me too, Andy! Mama cũng nhớ Andy…, và muốn Andy là một good kid. Lets pray…


Hắn lặng lẽ cúi đầu. Nhưng thằng bé chẳng yên lặng được lâu, nó vụt ra khỏi tay hắn để đi nhặt những cánh hoa cỏ nhỏ bé chung quanh, trong khi hắn lâm râm những lời kinh nguyện.

Hắn quỳ gối, lấy tay sờ vào tấm hình trên mộ bia. Vẫn mái tóc, vẫn đôi mắt, vẫn nụ cười… đã đi vào tâm hồn hắn. Hắn chạm tay vào nét chữ khắc bên dưới rồi chợt thở dài, vì nghĩ lại những lúc nàng phải nhắc tên của nàng cho hắn. Ôi đầu óc của gã tị nạn Việt Nam, sao mà kém cỏi và vô tình!


Bây giờ thì nàng yên tâm rồi, vì không còn phải nhắc tên cho hắn nữa. Tên của nàng đã rất rõ nét trên mộ bia và ngay cả trong trái tim của hắn. Nhìn vào ánh mắt, dù nàng đang cười với hắn, nhưng có một nét gì như là trách móc! 

Hắn ngậm ngùi, cầu mong nàng thứ lỗi, và hứa sẽ săn sóc Andy với tất cả khả năng của mình. Nghĩ tới đó, hắn thấy mắt mình cay cay! Hắn thầm thì nhắc lại tên nàng, mà đây là lần đầu tiên hắn đã không quên và không bị vấp váp…

Phải rồi,
Tên em, ta đã nhớ
Âm hưởng mang máng giọt cô liêu
Di ảnh long lanh lòng ta khóc
Tên em… rõ nét… mộ bia chiều…!


Thằng bé chợt nhìn thấy người đàn ông khóc. Nó nhớ lại những lời mẹ nói trước đây… À, đây đúng là daddy của nó…
, là người đàn ông khóc trước mặt mẹ ! Vậy mà bấy lâu nay nó không nhận ra… Nó hấp tấp chạy lại ôm lấy cổ hắn:

- “Daddy… Daddy…, mình về nhà đi…!”

Tiếng gọi của thằng bé làm hắn xúc động. Hắn gục đầu xuống mái tóc vàng của nó,
rút tờ napkin lau nước mắt, lá thư của cha Joe rơi theo xuống đất. Hắn thẫn thờ, nghĩ ngợi…, rồi cuối cùng nhặt thư của cha lên, thở dài:

- Ừ mình về, từ nay con sẽ ở với daddy!

Hắn dự định sẽ đến gặp cha Joe, kể chuyện về Andy như một lời xin lỗi
vì không còn ý định đi tu nữa, và mong cha vẫn tiếp tục cầu nguyện cho cuộc đời trần tục của hai cha con hắn, được bắt đầu từ ngày hôm nay…

Vũ Công Ynh

mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 30/May/2013 lúc 9:24am

Hoa phượng

mt thi thơ di !

Tác giả: Nguyễn Đăng Dự

*Các ảnh tư liệu chụp đính kèm theo bài chỉ mang tính minh họa mà thôi.


Đã bắt đầu tháng năm, còn khoảng 6 tuần nữa các trường ở Canada sẽ đóng cửa nghỉ hè cho tới đầu tháng chín. Ở đây mùa hè đến rồi đi âm thầm lặng lẽ không giống như ở Việt Nam mùa hè lúc nào cũng đến với cái mầu đỏ tươi và đi trong cái sắc tàn phai của những chùm hoa phượng !

Tôi nhớ lại những ngày còn ở tại Việt Nam, giai đoạn này những cành phượng trơ trụi lá bởi mùa đông như đang trở mình thức giấc. Khởi đầu là những chấm xanh li ti rải rác đây đó trên làn da xám , chừng vài tuần sau một mầu xanh tươi bắt đầu che khuất cái vẻ gìà nua của những cành cây. Rồi những vệt đỏ bắt đầu xuất hiện đó đây và bất chợt vào một buổi đẹp trời nào đó cả một sân trường, cả một góc phố, đôi khi cả một con đường bỗng bừng lên đỏ thắm một mầu của hàng ngàn chùm hoa phượng như hẹn hò nhau nở một lần để đón chào cái nóng nung người của mùa hè.

Không PHThiểu từ bao giờ và ai đã có ý tưởng thật hay là trồng những cây phượng nơi trường học. Những bông hoa đỏ thắm như nhắc nhở cái ngày chia tay của niên học đã sắp gần kề. Ở cái thời điểm không có điện thoại, không có internet người ta mới thấm thía được cái cách xa biền biệt của chia ly. Có những người bạn cùng lớp khi nghỉ hè trở về quê chúng ta chỉ gặp lại được trong niên học mới khi những bông hoa phượng bắt đầu rơi rụng khắp sân. Có những bóng hình đôi khi đã không trở về bỏ lại trong sân trường những ánh mắt tìm kiếm bơ vơ lạc loài giữa mầu hoa đỏ !

Hoa phượng không phải là một loài hoa hiếm, hoa nở liên tục từ khoảng giữa tháng 5 cho đến giũa tháng 9 , đôi khi vào tháng 10 người ta còn tìm thấy một vài chùm hoa dấu mình sau những tàn lá xanh. Hoa nở từng chùm, mỗi hoa có 5 cánh, 4 cánh mầu đỏ cam mang những vết loang mầu đỏ đậm, cánh thừ 5 dầy hơn những cánh kia đem lại cho hoa phượng một dáng kiêu sa với mầu trắng mượt điểm những vệt đỏ hài hoà như đuôi của một loài chim phượng cho nên hoa đã được gọi là hoa phượng vĩ. Khi còn trong nụ,nhất là khi nụ còn non phải để ý lắm mới phân biệt được sự khác nhau giữa các cánh hoa. Hình như trong chúng ta không một ai đã không một lần ép cho mình một vài cánh phượng giữa những trang vở học trò mang đầy nét chữ vụng dại.
PHT
Tôi thích hoa phượng và tuồi học trò của tôi đã như lướt đi trên một giòng sông chuyên chở đầy hoa phượng.

Năm 1953 sau khi bi thương trong một trận đánh tại Vĩnh Phúc Yên bố tôi được thu nhận vào làm tại Ty Quan Thuế cảng Hải-Phòng. Năm đó tôi học lớp Ba tại trường Tiểu-hoc Nguyễn Du. Thành phố Hải Phòng hồi đó một số đường phố còn mang tên Tây và đã được gọi là thành phố của hoa phượng vì nơi nào cũng có hoa phượng ! Nhà tôi ở phố Bordeaux, con phố hai hàng cây phượng giao nhau mang lại bóng mát trong suốt mùa hè.

 Phố Bordeaux Thành phố Hải Phòng ngày nay
Sân trường Nguyễn Du bắt đầu từ giữa tháng năm hoa phương đỏ rực từ sân trước tới sân sau. Nhờ mấy tháng chơi với Ất ở quê nội tôi leo cây như sóc, hồi đó trò chơi ưa thích của tụi học trò lau nhau lớp nhỏ như tôi là đá gà bằng hoa phượng. Tôi thích thú leo lên cây hái từng chùm hoa phượng vứt xuống đất nhìn mấy đứa bạn tranh giành mặc dù đã có lệnh cấm. Có một hôm đang ngồi vắt vẻo trên một cành cây nhìn xuống thấy đám bạn vùng bỏ chạy tán loạn thì ra thầy Hiệu- Trưởng tay cầm cái roi mây đang từ xa đi tới. Tôi điếng hồn ngồi sững ! Buồi sáng đó tôi bị quỳ dưới gốc phượng cầm cuốn sách “Tôi tập đọc lớp Tư” học đền thuộc lòng bài Tôi đi học của Thanh-Tịnh trong đó rồi mới được đứng dậy, Tôi sợ nên học thuộc lòng kỹ đến nỗi giờ này tôi cũng còn có thể đọc lại cả bài không hề sai sót “ Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều là lòng tôi lại nao nao những kỷ niệm của buổi tựu trường. Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh....”

Năm 1954 đất nước chia đôi, bố tôi được thuyên chuyền vào làm việc tại Ty Quan thuế cảng Nha Trang, chiếc tầu Ville de Hai-Phong cập bến Cầu Đá sớm hơn dự định nên căn nhà nằm trong Cư xá nhân viên Quan thuế dành cho gia đình tôi chưa được quét vôi xong, ngày hôm đó gia đình tôi được tá túc tại nhà của ông Trưởng ty. Đó là một căn nhà rông thênh thang xây theo kiểu nhà của Pháp nằm trong một khoàng sân riêng cách biệt hẳn với những nhà dành cho nhân viên. 

Chutt - Cầu Đá (đầu thế  kỹ 20)

Suốt mấy ngày trên tầu không được chạy nhẩy nên khi nhìn thấy cây phượng nở hoa đỏ thắm trong sân tôi nhanh như sóc leo thoăn thoắt lên một chạc cây ngối vắt vẻo trên đó quan sát cái khuôn viên rộng thênh thang. Rải rác đó đây những cây bàng những cây phượng những cây hoa sứ và nhiều nhất là những cây dừa đầy những trái khác hẳn với cây dừa điếc không trái nơi quê nội tôi.

Đang bò người trên một cành phượng để định bắt con ve sầu gần đó tôi bỗng giật mình vì một âm thanh lạ hoắc “ nè té à nghe...! ” , nhìn xuống tôi như chỉ thấy đôi mắt tròn như hai hòn bi ve trên khuôn mặt trắng bầu bĩnh với mái tóc cắt bom bê dành cho con gái. Ngày đầu tiên tới miền Nam không hiểu “ té “ là gì nên tôi la lớn “ nói gì ? “ cô bé hỏi lại “ bắc kỳ ? “ tức mình vì chữ bắc kỳ tôi sẵng giọng “ừ, thì sao “ cô bé cười khanh khách “ thi dzậy, hông hiểu gì hết “ tự nhiên tôi thấy cái giọng nói lạ hoắc bỗng dễ thương. Tôi dịu giọng giả lả nói trống không “ muốn hoa không “ cô bé mừng rối rít nói “ưng “ tôi đoán ưng nghĩa là thích nên bẻ một chùm hoa thật lớn ném xuống. 

Ít phút sau tôi leo xuống làm gan đến bên cạnh cô bé giọng ngập ngừng “ chơi đá gà không “ Hai đứa tôi say sưa chơi cả buối, qua câu chuyện tôi biết được cô bé tên Vân-An con gái lớn ông Trưởng ty mồ côi mẹ được hơn năm và đang được săn sóc bởi bà vú nuôi. Mấy bữa sau tôi quen được thêm Hoàng-Chi , Ngọc-Chữ và Hoài 3 đứa đều nhỏ hơn tôi một tuổi con của nhân viên quan thuế trong cư xá. Số còn lại hoặc thì quá nhỏ hoặc thì quá lớn. Tôi bằng tuổi Vân-An .

Cư xá hồi đó nằm xa thành phố giữa một cánh đồng cát đầy những bụi cây dại. Đã quen đi chơi ở đồng quê với Ất nên tôi như cá gặp nước, ngoài cái tài leo cây tôi lại còn có tài bắn ná thun nên tôi mau chóng trở thành đầu đàn của cái đám lau nhau đó. Suốt ba tháng hè tụi tôi rủ nhau đi hái trái Ma dương, trái cam đường ở cánh đồng cát gần đó, có 3 con gái trong đám nên đôi khi tụi tôi 2 đứa con trai phải ép bụng chơi trò mua bán mà hàng hóa là những hoa và những nụ hoa phượng do tôi đi hái ! Nhiều khi tôi trổ tài bắn ná thun làm rơi lộp độp những trái bàng chín cho cả đám ăn, khi đó Vân-An thường tung tăng chạy lượm những hòn sỏi tròn đem đến tận tay tôi. 

 Mai (Ma) dương, còn gọi là cây Mắt mèo
Nhà Vân-An hầu như không thiếu một thứ trái cây nào kể cả nho, cam, táo nhưng không hiểu sao Vân-An lại thích ăn những trái bàng chín vàng nên vào cuối mùa khi những trái bàng chín bắt đầu hiếm tôi chỉ dẫn một mình Vân-An theo !

Những trái bàng chín vàng ...
Một hôm buổi trưa nắng chang chang hai đứa đang ngồi dưới gốc cây phượng Vân-An quay qua nhoẻn miệng cười nói “ Dự xấu ình nhưng chơi với Dự thì vui, ngoéo tay chơi với An mãi nghe ! “, lúc sau này thỉnh thoảng An hay bắt chiếc cái giọng Bắc của tôi ! Đang gậm trái bàng mọng nước, tôi ngậm vội trái bàng trong miệng chùi nhanh tay trên vạt áo rồi đưa ngón tay trỏ ngoéo vào ngón tay trắng muốt của An, tôi vẫn biết tôi xấu trai và lời nói đã như một làn gió mát lướt vào hồn tôi ! 
Cuối hè, hoa đỏ bắt đầu chỉ còn lác đác trên những cây phượng, chợt tiếng khóc thất thanh vang lên tại nhà Vân-An, đám tụi tôi tất tả chạy qua thì chỉ kịp nhìn thấy Vân-An đang khóc nức nở bị đẩy lên xe rồi ông bố đóng xầm chiếc cửa và chiếc xe vọt đi bỏ lại đàng sau một đám bụi mù.Tối hôm đó tôi gặng hỏi nhưng bố tôi chỉ trả lời cụt ngủn với khuôn mẳt không vui là bố của Vân An được thuyên chuyển về Vũng Tàu.Tôi đang buồn và cũng sợ nên không dám hỏi gì thêm nữa !

Hè năm 1973 tôi được cử đi làm Phó chủ tịch trông coi một trung tâm thi Tú tài 2 tại Saigon sau đó về làm Trưởng ban Lý Hoá tại Trung tâm chấm thi Gia-Long. Trước khi chấm những bài thi đã được rọc phách Trưởng ban phải lập thang điểm với sự góp ý của các giám khảo để cho việc chấm điểm được đồng nhất. Trong khi đứng trước bảng đen trình bầy thang điểm, một nữ giám-khảo cứ nhìn tôi thật chăm chú, tôi nhìn lại thấy thoáng một nét quen quen nhưng đành chịu không nhớ ra được là ai. Tan buổi họp tôi bước ra cửa thì đằng sau lưng một giọng miền Nam vang lên nho nhỏ “ Còn leo cây hái phượng không dzậy !? “ Tôi quay lại la lớn “ Vân An ! “ Năm đó tôi đã lập gia đình sắp có đứa thứ hai. Vân-An là giáo sư lý hóa cũng đã lập gia đình có được một đứa con trai hơn một tuổi. Sau đó gần một tuần bù đầu với công việc tụi tôi chỉ có thì giờ chào nhau. 

Ngày cuối khi trao Sự vụ lệnh cho các giám-khảo đã hoàn tất nhiệm vụ tôi cố tình giữ lại Sự vụ lệnh của Vân-An sau cùng. Trong khi hai đứa băng qua chiếc sân trải đầy hoa phượng của trường Gia Long tôi quay qua cười cười hỏi An “ nếu không xa nhau hai đứa có thành vợ chồng ? “ An cười khanh khách chỉ ngón tay vào mặt tôi “ nghèo mà ham ! “ . An leo lên chiếc xích lô, tôi quay lại trường. Cả hai đứa không đứa nào hỏi địa chỉ của nhau..! Tôi ngước mắt nhìn lên, nắng đang chiếu qua những chùm hoa phương đỏ thắm ! 


Cựu Gs Nguyễn đăng Dự
Québec (Canada) 

Have%20A%20Great%20Summer




Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 30/May/2013 lúc 9:28am
mk
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 14 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.234 seconds.