Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 107 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23572
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Apr/2025 lúc 8:10am

Cho Người Nằm Xuống Trên Quê Hương


Cảm giác Sự Chết vốn sẵn có từ lâu qua thân phận Người Lính trên Quê Hương Miền Nam Việt Nam. Đấy là Năm 1965, với cơn mưa u uất mùa hạ Miền Nam, nơi Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp. Mưa không đủ lớn, không dài lâu để cho ta có cảm giác được tẩy rửa, cuốn trôi. Mưa âm âm, ngột ngạt làm bốc dầy thêm mùi xác chết của những đơn vị gồm Tiểu Đoàn 2, Trung đoàn 7 Sư đoàn 5 Bộ Binh; Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân; và Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù với những người lính mà sức chịu đựng dường như vô hạn dưới khối nặng của thùng đạn, ba-lô, nón sắc, vũ khí họ mang trên vai, vác lên lưng, để từng ngày cúi gầm mặt bước xuống vùng sình lầy mênh mông, trèo lên dốc đá núi thăm thẳm, lội xuyên rừng rậm ngút ngàn không tiếng nhỏ than van, ghìm lại hơi thở dài nặng nhọc... Tất cả những người lính cao thượng khắc kỷ vừa kể ra vào những ngày của tháng 6 năm 1965 ấy đã là những xác chết căng cứng, da tím sẫm bốc mùi xanh xao tanh tưởi... Những khuôn mặt, dạng người tinh anh tươi trẻ của tuần, tháng trước biến dạng thành những khối thịt ủng lầy máu sẫm, đất bùn đỏ, nhầy nhụa thêm bởi thấm mưa của bao ngày nằm nơi đụng trận, một chốn gọi là xã Đồng Xoài, Quận Đôn Luân, Tỉnh Bình Dương, nơi chỉ xa Sài Gòn khoảng năm-mươi cây số đường chim bay.



Rồi từ Giao Thừa Mậu Thân, bắt đầu ở Huế, ngõ Âm Hồn, lối đi ra đường Mai Thúc Loan, hướng Cửa Đông Ba. Khoảng đường u thẫm chập dầy bóng đen đêm Xuân 1968... Với tình thế nguy biến qua cảnh tượng người lính xao xác chạy dọc những khu nhà đổ nát, vừa chạy tránh đạn, vừa kéo xác đồng đội... Người Lính kéo xác đồng đội ngang qua căn nhà có xác người đàn bà chết trong vị thế quỳ trước chiếc bàn thờ xiêu đổ tung toé, hẳn đang khấn lạy, cầu xin... Nhưng còn có những xác chết chỉ còn thân người, bởi chiếc đầu đã bị cắt lìa, vất tung đâu đó. Bên cạnh, thây cô gái tóc dài lây lất, khuôn mặt chỉ còn những tảng thịt rời rã. Nhận biết đấy là người thiếu nữ do chiếc áo dài trắng và áo len màu tím than, màu riêng biệt đặc trưng của người thiếu nữ xứ Huế. Nhưng, như một an ủi khốn cùng, dù ở Huế, hay quanh ngoại ô Sài Gòn, vùng Nhị Bình, Thạch Lộc, Hóc Môn, Gia Định trong dịp chiến loạn Mậu Thân 1968, người sống vẫn còn khả năng phân biệt đấy là xác chết của lính hay của dân; của dân chúng Huế hay gã bộ đội Sinh Bắc-Tử Nam, hoặc cán binh Mặt trận giải phóng... qua áo quần, dạng tướng, đôi dép Nhật làm ở Chợ Lớn, giày botte de saut của lính Cộng hòa hay loại dép râu mang theo từ Miền Bắc của bộ đội cộng sản. Thây chết nằm suốt dọc cù lao sông Sài Gòn chảy qua Bình Phước, Bình Triệu, Thạnh Lộc, Nhị Bình, Gò Vấp... Cả một vùng hoa mai tàn tạ trong ánh nắng lung linh mùi tử khí.

Tiếp đến năm 1972, cảnh chết trên quê hương miền Nam tăng vụt cường độ với bất hạnh, tang thương nhân lên gấp bội phần cho dù trí tưởng tượng về tình huống khốn cùng từ lâu đã được người Việt hằng mang nặng, chuẩn bị gánh chịu. Trên chín cây số từ La Vang, nam Quảng Trị đến Cầu Trường Phước lớp nhựa đường đã hoàn toàn chảy nhão, đun nóng sôi bởi một thứ lửa nhân tạo. Lửa được cháy lên do từ áo quần, tay nải, bao bị, gồng gánh, và tế bào thịt da của người tẫm vào lưỡi lửa của xe cộ, xăng nhớt. Tất cả biến thái nên thành ngọn lửa bền bỉ âm ỉ. Thế nên trên quãng đường chín cây số nam Thị Xã Quảng Trị mà giới báo chí Miền Nam đặt nên tên đau thương Đại Lộ Kinh Hoàng hoàn toàn không còn dạng thây ma để được gọi nên là xác chết, mà chỉ là những mảnh xương cốt rời rã, lăn lóc, lẫn lộn đất, đá, cát vương vãi dưới gầm khung xe cháy nám, nơi ổ súng cong queo, sau những bụi lùm trơ trọi, những gò, đụn oan khiên mà ổ mối đùn lên gây tanh mùi máu.

Trong cùng lúc, vào thời điểm đầu mùa Hè, 1972 ở An Lộc nơi Bệnh viện Tiểu Khu Bình Long cũng xẩy ra tình cảnh kinh hoàng đau thương tương tự. Vì pháo binh yểm trợ cho các sư đoàn 5, 7 bộ binh cộng sản đã học được một kinh nghiệm hữu dụng: Ban ngày chỉ pháo xuống nhiều điểm bên trong thị xã để dân chúng tin rằng bộ đội giải phóng không pháo kích vô chỗ bệnh viện! Nhưng vào ban đêm, Trường Trung Học Cộng Đồng, Bệnh Viện Tiểu Khu Bình Long... nơi lớp lớp người bị thương đang lê lết trong bãi máu, giữa những người hấp hối để cầu sống sót, cầu được lúc bình yên. Cho dẫu bình yên được chết... Những nơi nầy biến thành những điểm tập trung của pháo binh cộng sản. Điễn hình chỉ trong một đêm 10 Tháng Tư, 1972 đã có hơn tám ngàn quả đạn 130 ly rơi xuống xé toang đám xác người. Người sống lẫn kẻ chết, tất cả đồng tung lên ngật ngật với thân thể con người chỉ còn là những mảnh vụn tơi tả lẫn với bụi, khói, mảnh thép.

Chiều ngày 28 tháng 4, với tình cảnh sống-chết đan kín, xen kẻ cùng nhau trong suốt chặng đường dài hơn một thập niên như trên vừa kể ra... Tất Cả Hiện Đủ Trong Buổi Sáng Ngày 30 tháng Tư Năm 1975. Sự Chết bắt đầu trùm chiếc cánh tối tăm hung hiểm lúc 6 giờ 15 chiều ngày 28 tháng 4, khi chuỗi bom dưới cánh của những chiếc A37 do viên phi công phản trắc Nguyễn Thành Trung hướng dẫn rơi xuống phi đạo Tân Sơn Nhất. Đạn phòng không bắn lên, phi cơ F5 đuổi theo muộn màng, vô vọng. Cửa ngõ tháo chạy của Sài Gòn đóng sập lại. Cuối cùng, Tân Sơn Nhất thật sự vùng vẫy, hấp hối, chìm dần trong lửa hoả ngục khi dàn đại pháo, hỏa tiễn cộng sản từ Đồng Dù, Củ Chi, ranh giới Hậu Nghĩa, Gia Định bắt đầu đổ xuống không ngắt nhịp. Từng trái đạn 130 ly, từng hỏa tiễn 122 ly chính xác rơi xuống. Tân Sơn Nhất vật vã, co quắp, rã chết, sụp vỡ, hấp hối trong khói đen, lửa ngọn. Cuộc hành hình kéo dài từ 1 giờ sáng ngày 29 tiếp tục đến rạng đông. Ở căn cứ DAO, Văn phòng Tùy Viên Quân Lực Mỹ, ba ngàn người tỵ nạn chờ đợi di tản bằng C130, hoặc C141 qua Guam đưa mắt nhìn lên trời, giữa vũng lửa, đếm rõ từng viên đạn pháo rơi xuống. Đống hành lý khổng lồ gồm quý kim, vàng, kim cương, giấy bạc Năm Trăm Trần Hưng Đạo của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam; giấy bạc đô-la của ngân khố Mỹ. Tất cả cùng trộn lẫn với thịt da thân thể người thành một thứ pháo bông tan tác bay tung toé, hiện thực nơi trần thế cảnh địa ngục vô vàn mà nhà thơ Dante người Ý đã diễn tả qua thi ca.
Sáng 29 tháng 4, những tướng lãnh đã ra đi, những sĩ quan cao cấp cũng rời bỏ nhiệm sở, đơn vị. Nhưng, Trung Úy Phi Công Trang Văn Thành còn lại. Thành có danh hiệu Thành mọi bởi nước da ngâm đen quá độ ra chỗ đậu tàu.. Anh nổ máy chiếc C119 Hỏa Long, đơn độc bay lên trời xanh bảo vệ, cứu viện Tân Sơn Nhất. Từ trên cao, Trung Úy Thành thấy rõ những vị trí pháo của binh đội cộng sản.. Anh nghiêng cánh, chúc mũi chiếc Hỏa Long căm phẫn trút xuống tràng đạn 7.62 ly, và tất cả hỏa lực cơ hữu của hai khẩu đại bác 20 ly gắn dưới cánh. Lửa nháng lên dưới thân tàu, toán phòng không cộng sản phản pháo, nhưng không kịp, Thành bình tĩnh, tài giỏi lách ra khỏi vùng hỏa tập lưới đạn của giặc. Anh đáp xuống lại phi đạo thân yêu quen thuộc đang bốc khói mù bởi cuộc dội bom chiều hôm trước, và cuộc pháo kích cường tập từ sau nửa đêm về sáng của ngày đau thương tang tóc nầy. Mặc, Thành một mình tự tay nạp đạn vào tàu, anh trở lại bầu trời trên phi cảng Tân Sơn Nhất - Cửa ngõ của Miền Nam. Anh nhìn xuống những vị trí pháo cộng sản mà giờ nầy tạm ngưng hoạt động vì vừa bị anh tấn công.. Hóa ra cả một quốc gia chỉ còn được lần cứu viện bi hùng tuyệt vọng nầy. Thành chúc mũi tàu, bấm chặt hệ thống kích hỏa bên cạnh chỗ ngồi, một mình anh lấy đường nhắm.. Một mình anh.. Phải chỉ một mình anh - Trung úy Trang Văn Thành, Thành Thiếu Sinh Quân. Thành hạ thấp hơn để đường đạn thêm phần chính xác. Thân tàu rung mạnh.. Lửa! Lửa! Lửa cháy ngang cánh trái con tàu, ngay bình xăng, sát cạnh ghế ngồi.. Thành giật mạnh chốt thoát hiểm để bung thân ra khỏi con tàu. Tất cả kẹt cứng. Anh dùng tay đẩy cửa buồng lái phóng mình ra, chiếc dù bung mạnh.. Các múi, dây dù vướng vít rối rắm. Thành bị giữ chặt bởi chiếc dù và khung cửa. Lửa bừng bừng! Lửa ào ạt... Người phi công chìm trong lửa, gục chết giữa không gian trên quê hương.

Sáng 30 tháng 4, năm 1975. Sàigòn vắng lạnh. Trời bỗng nhiên trở mưa. Cơn mưa ngắn, từng giọt khô nồng, u uất. Chiếc xe Zil Trung Cộng từ hướng đường Trần Hưng Đạo, chạy chậm rãi qua bùng binh chợ Bến Thành. Những người đi đường nhìn lên, ngó mông trống trải. Xe tới trước thềm Hạ Viện, đám thiếu nữ dáng dấp nhà nông nhẩy xuống, một người đội mũ tai bèo, chắc là người chỉ huy trung đội lính phụ nữ, từ ca-bin xe bước ra, chỉ chỏ, ban lệnh, kéo từng người vào vị trí gọi là “chiến đấu”... Các đồng chí, các đồng chí... bố trí đây nì, sẵn sàng tác chiến... Giọng người vùng miền Bắc Trung Việt cấm cẳng, the thé. Những thiếu nữ thôn quê ngồi bất động nghiêm trọng. Tất cả đều mặc áo quần mới, áo mầu xanh dương, quần đen, vải nội hoá còn nguyên dấu hồ, dây đạn đeo chéo qua thân, miết xuống những thớ thịt ở ngực, phần bụng. Băng đạn trên thân người mới tinh màu đồng đỏ au.

Từ Công Trường Lam Sơn, đầu đường Nguyễn Huệ, đám đông dần tập trung để xem mặt “bộ đội Việt cộng”. Thêm hai xe đổ quân trước rạp Rex. Lính cộng sản nhẩy xuống, chạy vội vào hàng hiên, nằm, trườn, bò, nháo nhác. Tiếng đập đục rầm rập từ những cơ sở ngoại quốc, những khối cửa sắt lay động, phá bung, những tấm kiếng tủ lớn bị đập vỡ, đồ đạc kéo lê hỗn độn, vội vàng trên mặt đường. Người mỗi lúc mỗi đông. Người dồn dập ùn ùn, la ó, chưởi thề, giành giựt. Đám đông chạy về phía Building Brink, khu Đồn Đất, nhà thương Grall, những nơi có cơ sở của Mỹ kiều, những văn phòng mà chủ nhân đã bỏ đi. Bất chợt, tất cả lắng lại để nghe rất rõ.. Có người tự tử. Có người mới bắn chết. Ai? Lính hả? Không biết, chỉ thấy mặc đồ lính mình. Ở đâu? Ở ngoãi, chỗ tượng Thủy Quân Lục Chiến.. Lời trao đổi đứt khúc, vội vã, mất hút giữa những tiếng thở dồn dập, bước chân cuống cuồng nôn nóng của đám đông đang hăm hở tiến tới những kho hàng, cơ sở đầy ắp vật dụng, thức ăn, rượu, bia. Tiếng súng nổ, đạn bay lên trời... Và những gã thanh niên mang băng đỏ dẫn đám lính cộng sản chạy lúp xúp vào cổng Tòa Đô Chính. Phía khối tượng đài Thủy Quân Lục Chiến thấy hình hài một Người Lính vừa tự sát. Buổi Sáng 30 tháng Tư, 1975, chen giữa âm sắc xích xe tăng đổ nhào cửa Dinh Độc Lập có tiếng nổ khô nhỏ của viên đạn ghim vào, nằm sâu trong đầu Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long.

Trước cổng Trại Nguyễn Trung Hiếu, hậu cứ Tiểu Đoàn 1 Dù, Thiếu Tá Trần Công Hạnh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2 Dù tròng mắt khô khan ráo hoảnh sau bao ngày đêm không ngủ sáng lên ánh mắt dứt khoát quyết định ở lại với những lính của đơn vị khi lắng nghe báo cáo cuối cùng của đại đội giữ Ngã Tư Bảy Hiền vừa bắn cháy thêm hai xe tăng của quân Miền Bắc... Có một xác con trẻ trần truồng không biết ai ném ra từ bao giờ lên mặt đường. Một cô gái mặc áo dài trắng nữ sinh đi đến, gác chiếc xe đạp mini cạnh lề đường, bình thản, thành thạo đưa máy ảnh lên, lấy góc cạnh chụp thây đứa trẻ chết. Tay đứa bé mà giờ nầy đã miết xuống mặt nhựa đường do đám người chạy loạn từ khu Ngã Tư Bảy Hiền giẫm lên. Cô gái nhỏ giải thích: Chụp để làm chứng tội ác Mỹ-Ngụy trước khi bọn chúng rẫy chết! Hóa ra Sự Ác do cộng sản giáo dục có thể chụp xuống lòng người mau chóng đến thế sao?” Bấy giờ chỉ mấy mươi phút sau lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. 
 
Một trung đội lính Dù mà thật sự chỉ khoảng hơn một Tiểu đội giữ nhiệm vụ an ninh cư xá Sĩ quan Bắc Hải đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, trước 1972 là Tư lệnh phó Sư đoàn Dù. Chuẩn Tướng Hậu đang trải chiếc bản đồ trên mui xe jeep, bàn tính với những viên sĩ quan. Khi biết lệnh đầu hàng đã thi hành, ông vất tung chiếc bản đồ, gầm lên lời nguyền rủa.. Dẫu vừa nhận lệnh.. Anh em ai về nhà nấy từ Tiểu Đoàn Trưởng Hạnh. Nhưng viên Thiếu úy trả lời quyết liệt: Tôi không đầu hàng, tôi với trung đội sẽ ra bến tàu tiếp tục chiến đấu... Thiếu úy Huỳnh Văn Thái tập họp trung đội, hô nghiêm, xếp hàng, ra lệnh di chuyển. Trung đội lính ra khỏi cư xá theo lối cổng Đường Tô Hiến Thành, rẽ vào Nguyễn Tri Phương, đi về phía chợ Cá Trần Quốc Toản, hướng bến tàu. Nhưng những Người Lính Nhẩy Dù của Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái không ra đến bến Bạch Đằng, khi tới đến bùng binh Ngã Sáu Chợ Lớn, họ xếp thành vòng tròn, đưa súng lên trời đồng hô lớn... Việt Nam Cộng Hoà Muôn Năm.. Con chết đây cha ơi! Và những trái lựu đạn tiếp nhau bừng bực nổ sau lời hô vĩnh quyết cùng đất nước Miền Nam.

Cùng lúc, trong ngõ nhỏ băng ra Chợ Ông Tạ, tại một căn nhà đã diễn nên hoạt cảnh uy nghi bi tráng của cả một gia đình quyết tử cùng vận nước. Thiếu Tá Đặng Sĩ Vĩnh thuộc Khoá 1 Nam Định, chuyên ngành tình báo đặc biệt, biệt phái ngoại ngạch qua ngành viễn thông, phụ trách đường dây quốc ngoại. Người con trai lớn của gia đình, Trung Úy Đặng Trần Vinh sĩ quan Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu. Hai người cùng trao đổi lời đối thoại sau khi có lệnh đầu hàng. Tùy con, riêng bố đã quyết như đã nói với con từ trước. Nếu bố đã quyết như thế, con và các cháu cũng đồng lòng. Toàn gia đình uống chậm những liều thuốc độc cực mạnh đã chuẩn bị từ trước. Cuối cùng Trung Úy Đặng Trần Vinh kết thúc bi kịch với viên đạn bắn tung phần sọ não sau khi đứng chào tấm Đại Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ với lời hô khiến sông núi cũng quặn thắt thương đau. Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm!

Ở Vùng IV, đồng bằng châu thổ Sông Cửu Long, chị Nguyễn Thị Thàng vợ một Nghĩa Quân Đồn Giồng Trôm, thay chồng giữ đồn đến trái lựu đạn cuối cùng. Chị kết thúc đời mình bên cạnh thây của chồng, các con, với những vũ khí, máy truyền tin đã bị phá hủy.. Không để cho Việt cộng một cái gì cả! Người chồng đã dặn chị trước khi lâm tử. Cùng lần với những danh tướng vị quốc vong thân Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn... rất nhiều người không ai biết cấp Thiếu, Trung úy kể cả binh sĩ, hạ sĩ quan,.. cũng không thiếu những người dân, những người dân thường đã chết cùng lần vĩnh quyết Miền Nam. Phần những người còn sống nơi Miền Nam phần lớn, nếu không nói là hầu hết sau khi đã đi qua biên giới tử sinh nầy đều có mặc cảm phạm tội - Tội đã sống sót. Đấy là cảm ứng có thật kể từ ngày 15 tháng 3 khi nhìn đoàn người di tản dọc Tỉnh Lộ 7 từ Pleiku về Phú Bổn, xuống Tuy Hoà. Khi đứng trên Đèo Hải Vân ngày 25 tháng 3, chứng kiến đoàn người chạy loạn từ Quảng Trị, Huế vào Đà Nẵng. Khi nghe ra tiếng hờn đau ai oán của người đàn bà chân trần, tóc rối, lật vạt áo dài ra để thấy đứa con nhỏ đã chết từ lâu trên tay. Sáng 30 Tháng Tư, mỗi người Việt nơi Miền Nam từ hoàn cảnh riêng hiểu ra một Mối Đau Chung - Mối đau lần chết thật với Miền Nam.

Người Nhật là một dân tộc vĩ đại qua nghi lễ hiến tế, tức Sepuku (mổ bụng tự sát) khi danh dự cá nhân, tập thể, tổ quốc bị xúc phạm. Dân tộc Việt Nam không có nghi thức uy hùng, dũng cảm ấy. Tuy nhiên, Người Việt cũng có phương thức riêng để bày tỏ Lòng Yêu Nước, cách gìn giữ phẩm giá Con Người. Người Việt xử dụng Cái Chết để chứng thực nguyện vọng kia qua cách thế im lặng và đơn giản nhưng không kém phần cao thượng. Cuối cùng, bi kịch không chỉ xẩy ra với thời điểm 30 tháng tư, 1975 mà sau đó, suốt hai thập niên 70, 80, hai triệu người Việt Nam, không phân biệt người Nam, hay người Bắc những người đã sống lâu dài dưới chế độ cộng sản Hà Nội từ 1945, từ 1954... Tất cả đã cùng phá thân băng qua biển lớn, xuyên rừng rậm vùng Đông-Nam Á, với giá máu 600.000 người chết trên đường di tản ra khỏi nước. Hóa ra Dân Tộc Việt, những người Việt Nam bình thường đã đồng lần thực hiện một điều mà họ không hề diễn đạt nên lời: Chết vì Tự Do để bảo vệ Phẩm Giá, Quyền Làm Người. Người Việt Nam đã và đang hiện thực điều mầu nhiệm nầy qua từng ngày vượt sống trên quê hương khổ nạn, với chính thân xác của mình. 41 năm sau Ngày 30 Tháng Tư ý nghĩa cao thượng nầy vẫn luôn hiện thực với những thế hệ Việt thứ hai, thế hệ người Việt thứ ba...


Phan Nhật Nam
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23572
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Apr/2025 lúc 2:06pm
  Nước Mắt Biển Đông

<<<<<<

Nguyễn Hữu Bào
The%20Boat%20Peoples%20Journey


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 03/Apr/2025 lúc 2:42pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23572
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Apr/2025 lúc 11:02am

Băng Đạn Cuối Cùng


Người lính trận không còn trận để đánh, khi Tổng Thống 48 giờ, kiêm “Tổng Tư Lệnh QLVNCH” Dương Văn Minh kêu gọi: “quân sĩ đâu ở đó, ngưng nổ súng và chuẩn bị bàn giao cho phía bên kia.”

Thật là khôi hài cho hai chữ “bàn giao” và gọi bọn cộng sản Bắc Việt xâm lược là “phía bên kia” một cách nhẹ nhàng thân ái. Trong lúc chúng Việt cộng chỉ là những tên đồ tể khát máu, mất tính người, là công cụ của bọn Cộng sản Đệ Tam quốc tế, cần phải loại chúng ra khỏi đất nước này, loại chúng ra khỏi tâm tư của mọi người dân Việt. Chúng chỉ là loài sâu bọ biến thành người, hay như chúng tự nhận là con cháu của loài khỉ trên rừng “trải qua quá trình lao động nên biến thành người”.

Tại sao ông Minh có thể “ngây thơ” đến như vậy! Nếu trong con người của ông còn một chút gì là lính, người lính VNCH chân chính, thì ông đã không hành động như vậy. Hoặc ít ra nếu suy nghĩ nông cạn, bị bọn trí thức khoa bảng ăn hại bu quanh bàn ra tán vào lếu láo, bị tên Dương Văn Nhật, Thiếu tá tình báo cộng sản, em ruột móc nối, bị mấy ông thầy tu Phật giáo Ấn Quang xách động xúi dục, “sợ dân chúng đổ máu” (chỉ là cái cớ để biện minh), thì sau lời tuyên bố dâng đất, dâng dân, dâng thành cho Cộng sản Bắc Việt, ông phải biết kê khẩu súng vào màng tang để bóp cò một phát cho tròn khí tiết của một người lính, nhất là khi ông đã là một Tướng 4 sao! Từng hai lần làm Quốc trưởng (nhưng chẳng nên cơm cháo gì). “Mất thành phải chết theo thành” như Võ Tánh ngày xưa tuẫn tiết tại thành Bình Định, hay Hoàng Diệu tại thành Hà Nội. 

Người lính trẻ mệt mỏi, mặt mày bơ phờ vì đã nhiều ngày đêm không ngủ, đang lê đôi chân nặng nhọc từ cầu Sơn hướng về ngã tư Xa lộ Hàng Xanh. Anh định về Thị Nghè, nhà anh ở đó. Anh biết mẹ anh, chị Dung của anh đang chờ tin tức anh. Anh biết Loan, người yêu của anh, đang trông chờ anh từng giờ, từng phút. Hay nàng đã theo gia đình di tản đang lênh đênh trên mặt nước. Nàng có dám hy sinh, dám cãi lời cha mẹ không lên tàu, dám ở lại để chờ chàng, người lính trận của phe thua trận?

*** 

Thôi hết rồi, khi đài phát thanh Saigon đọc lời tuyên bố của ông Dương Văn Minh, lệnh cho tất cả quân sĩ không được nổ súng, đâu ở đó, chờ phía bên kia vào bàn giao! Việt Nam Cộng Hòa không còn, QLVNCH không còn, đơn vị anh tan hàng, nhưng lần này không “cố gắng” như trước. Đây là lần tan hàng cuối cùng! Vị Tiểu đoàn trưởng của anh tập họp Tiểu đoàn và tuyên bố: “Việt Nam Cộng Hòa không còn, QLVNCH không còn, Tiểu đoàn của chúng ta cũng không còn. Tôi xin cảm ơn các bạn đã đồng cam cộng khổ, vào sinh ra tử, đã cùng nhau chiến đấu trong bao nhiêu năm. Chúng ta đã tạo được nhiều chiến thắng lẫy lừng ghi trong quân sử. Nhưng ngày hôm nay, vận nước không còn. Là quân nhân, chúng ta phải tuyệt đối thi hành mệnh lệnh. Dù đó là mệnh lệnh gì. “Thi hành trước, khiếu nại sau”. Với tư cách là Tiểu đoàn trưởng, tôi tuyên bố giải tán đơn vị. Các bạn ai về nhà nấy để gặp lại gia đình, sống cuộc đời thường dân lương thiện. Chúc các bạn sức khoẻ – Chào VĨNH BIỆT! Vừa dứt lời, vị Tiểu đoàn trưởng khả kính đã kề khẩu colt 45 vào màng tang và bóp cò… 

Buổi trưa ngày 29, tuyến phòng thủ Trảng Bom vỡ. Một Đại úy Đại đội trưởng chết ngay tại trận tiền. Một vị Tiểu đoàn trưởng bị cộng quân bắt sống. Đoàn quân xâm lăng Bắc Việt đã chiếm cứ Trảng Bom, tiền đồn xa nhất của Saigon lúc đó, chỉ cách Thủ đô yêu dấu miền Nam hơn 30 cây số. Từ đây, súng 122ly, 130ly có thể bắn tới.

Căn cứ Long Bình bị pháo kích nhiều nơi, nhiều kho đạn bị nổ. Phi trường Biên Hòa bị oanh kích bởi chính những chiếc F5E của QLVNCH do Không quân không kịp di tản, để lại tại Đà Nẳng, tại Phan Rang, do chính tên Trung úy nằm vùng Nguyễn Thành Trung hướng dẫn. Dân chúng hoảng hốt, bồng bế nhau dồn về Saigon. Lẫn trong đoàn dân chạy loạn, có những người lính vừa thất trận tại phòng tuyến Trảng Bom. Đơn vị Tuấn phải củng cố tuyến phòng thủ để bảo vệ BTL/SĐ. Kể từ khi rời mặt trận Xuân Lộc, vì là đơn vị sau cùng làm lực lượng chặn hậu cho đại đơn vị rút ra an toàn, đã bị thiệt hại nặng, nên đã được chỉ định làm lực lượng phòng thủ BTL. Công việc tương đối an nhàn, ít nguy hiểm. Ngay trong không khí hỗn quân hỗn quan và loạn lạc đó, một chiếc xe honda từ Saigon trờ tới trước cửa BTL. Đó là chị Dung, chị ruột của Tuấn và Loan, cô bạn gái, người yêu của chàng.

Vừa gặp mặt Tuấn, chị Dung nói ngay:

– Họ đi hết rồi, cả Sàigon đang đi. Anh rể em ở bên Không quân có lệnh đưa gia đình ra Phú Quốc. Bên Hải quân cũng chuẩn bị cho gia đình xuống tàu ra biển. Còn chị làm trong DAO cũng đã làm danh sách cho cả gia đình mình đi. Mấy ngày nay chị và Má cứ trông em về để đi, tất cả đã sẵn sàng.

– Nhưng ông Tướng, các cấp chỉ huy và đồng đội của em vẫn còn ở lại, vẫn còn tiếp tục chiến đấu.

– Ông Thiếu Tướng Kỳ, cựu Thủ Tướng, cựu Phó Tổng Thống, chiều ngày 28 tháng 4 còn đến xứ Tân Sa Châu thuộc quận Tân Bình hô hào tử thủ, hô hào sẽ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, nhưng mới sáng sớm ngày hôm nay, tức 29 tháng 4, ông đã dùng máy bay trực thăng riêng bay ra Hạm đội. Ông Tướng Toàn, Tư Lệnh Quân đoàn III kiêm Quân khu 3 của em, buổi sáng ghé đây họp với các Tư lệnh Sư đoàn, chỉ thị các vị ấy phải tử thủ, phải chiến đấu, thì sau đó ông bay về Gò Vấp thu gom đồ đạc và bay thẳng ra Hạm đội 7 rồi. Chỉ có ông Tướng của em, các cấp chỉ huy của em điếc không sợ súng, không am hiểu tình thế mới ở lại để tiếp tục chiến đấu.

– Không được, em phải ở lại, em phải cùng đơn vị chiến đấu. Dù là trong tuyệt vọng. Em không thể đào ngũ trong lúc này. Em xin lỗi chị, xin lỗi Má.

– Loan, em hãy nói vài lời với Tuấn đi, em hãy thuyết phục Tuấn dùm chị. Em hãy nói em không thể sống xa Tuấn, sống thiếu Tuấn. Má, chị và cả nhà sẽ mang ơn em nhiều.

Nghe lời chị Dung, Loan có nói, nhưng Tuấn vẫn kiên trì. Tình yêu gia đình, tình yêu trai gái, Tuấn đã coi nhẹ hơn tình yêu đơn vị, tình yêu đồng đội, ít ra là trong lúc này, trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này. Nói thế có nghĩa là trong quá khứ, cũng đã nhiều lần Tuấn “dù” về nhà thăm mẹ, thăm chị Dung, người chị mà chàng thương yêu nhất, và Loan, dĩ nhiên là Loan, mối tình từ thuở học trò của chàng. Không thuyết phục được người em, người tình cứng đầu, Dung và Loan thất vọng trở lại Saigon. 

***

Tuấn đi như người mất hồn. Anh không có một chủ định nào cả. Chân bước đi, đôi chân chàng di động như cái máy. Chàng hướng về Thị Nghè, nơi đó có Má, có chị Dung, có Loan đang chờ chàng. Một chiếc xe Lam chạy qua. Mui xe cắm lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, chính giữa có ngôi sao vàng 5 cánh của bọn Côn đồ “Giải phóng Miền Nam”. Trên xe đầy lũ nhóc cách mạng 30, tay đeo băng đỏ. Xe vừa chạy qua chỗ Tuấn, chúng ngừng lại. Một tên có lẽ là chỉ huy, quát Tuấn:

– Thằng lính ngụy kia! Giờ này mà còn bận đồ lính và cầm súng. Hãy vất súng xuống, cởi mau đồ lính ra không ông cho phát AK bây giờ.

Tuấn như con người máy. Anh vất súng xuống bên vệ đường, ngồi xuống từ từ cởi đôi giày trận – đôi giày đã theo anh dẫm nát biết bao nhiêu là mật khu của VC – sau hết là bộ đồ trận. Giờ này đâu còn trận nữa, thôi thì cởi phắt cho xong – Tuấn vừa cởi vừa suy nghĩ. Rốt cuộc, trên người anh chỉ còn lại cái quần xà lỏn và áo thun ba lá. Thấy Tuấn đã cởi đồ xong, tên chỉ huy ra lệnh cho xe nổ máy tiếp tục chạy.

***

Người lính ngơ ngác một lúc. Anh bình tĩnh trở lại. Anh vội vàng mặc lại bộ quần áo trận, không kịp mang giày, anh nhặt khẩu súng lên, anh lên đạn và nhắm ngay vào chiếc xe Lam đang từ từ lăn bánh – Anh bóp cò. Nhưng lòng anh không chút hận thù oán trách. Trước mắt anh là lũ địch, bọn Việt cộng ác ôn. Anh phải bắn chúng, nếu không chúng sẽ bắn anh. Ai nhanh tay, người ấy sống. Một tràng đạn M16 tuôn ào ào ra khỏi nòng súng. Vài tên chết và bị thương, chiếc xe đảo qua đảo lại, lật nghiêng bên đường. Người lính từ từ kê nòng súng vào cằm như chống gậy. Anh dùng ngón cái tay phải xiết cò súng.

 “Việt Nam Cộng Hòa muôn năm! Việt Nam Cộng Hòa muôn năm! Việt Nam Cộng… Câu thứ ba mới phát âm đến chữ “Cộng” thì: ầm! Anh ngã xuống. Máu phun có vòi!

Lúc đó là giữa trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975. Vĩnh biệt Tuấn, người con yêu của Tổ Quốc, người lính trận không còn trận để đánh!

Người lính trận anh hùng bất khuất của đơn vị anh hùng không chịu hàng giặc. Thà chết vinh hơn sống nhục!

 

Bảo Định

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23572
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Apr/2025 lúc 11:22am

Sài Gòn ơi, ngày xưa ấy vẫn còn đây

_____________________________

Kính dâng hương hồn anh NTN . Riêng tặng chị Thế Mỹ và những ai đã một lần là người yêu của lính)





Tiếng nhạc văng vẳng từ chiếc máy C***ette phòng kế bên đánh thức tôi dậy …"Sài gòn đẹp lắm SàiGòn ơi SàiGòn ơi !". Chẳng biết mấy giờ nữa . Trời đêm nay lạnh hơn mọi đêm . Kéo chăn lên phủ kín người . Tôi đưa mắt nhìn qua khung cửa sổ . Cửa kính một màu trắng đục . Tôi không nhìn thấy gì cả ngoài những hình ảnh một đời dấu yêu của Sài Gòn đi về …
Còn hơn nửa tháng Tết mới về mà Sài Gòn chừng như đã vào xuân . Các lớp học đều ở tình trạng vắng học trò ở giờ cuối . Các vị tướng thiếu quân cũng đâm ra hờ hững với bài giảng . Rạo rực cùng với những rạo rực của đám học trò xôn xao đó Tết về . Nắng trải vàng ngoài đường phố . Chiều nay có hai giờ Kinh Tế . Tôi muốn ở nhà phụ Mẹ làm cho xong mấy lọ kiệu để Ba ăn Tết , song vẫn tiếc giờ học của thầy Mẫu . Tôi đạp xe đến trường . Con đường Duy Tân cây dài bóng mát đã là người tình muôn thuở của dân trường Luật rồi . Con đường dễ thương chi lạ . Từng đôi , từng đôi đang chụm đầu vào nhau uống nước dừa bên đường . Đang lúi cúi khóa xe , nghe tiếng ai gọi . Tôi giật mình ngước lên . Thì ra là con nhỏ Dung
- Gì đó nhỏ
- Mau lên . Anh Nghiệm đang đợi mầy ở Thư Viện
Tôi bàng hoàng khẽ hỏi:
- Ủa ! Sao Nghiệm về giờ nầy
Dung nắm tay tôi . Liếng thoắng giục
- Nhanh lên công chúa ơi . Người hùng chờ mầy dài cổ sắp khóc rồi . Nhờ tao dỗ nãy giờ đó
Tôi cùng Dung bước vào thư viện . Thư viện của những ngày sắp Tết buồn thiu . Học trò đã lãng quên sách vở hết rồi . Nghiệm đón tôi vẫn với nụ cười dễ thương muôn đời của chàng
- Anh mới về .Ghé nhà Mẹ bảo Vy đã đến trường . Anh đi ngay . Sao Vy đến muộn vậy ?
Tôi vẫn chưa hết bàng hoàng , vân vê tà áo
- Xe Vy hư máy dọc đường đó anh
- Anh Nghiệm đừng tin . Nhỏ Vy đụng mấy cây si dọc đường nên đến trễ đó .
Nghiệm cười thật tươi và bảo Dung:
- Dung chỉ anh đi , anh đốn hết cho mà coi
Tiếng chuông reo vang ,Vy hốt hoảng bảo Dung :
- Chết ! Tới giờ học rồi Dung ơi
Dung nheo mắt chọc ghẹo
- Đi với Dung vào lớp hay đi với anh Nghiệm nè hở nhỏ ?
Nghiệm cười hiền hòa
- Cho anh bắt cóc Vy chiều nay đi nghe Dung . Tết anh lì xì Dung thiệt nhiều
Vy nhẹ nhàng khẽ nói:
- Dung vào học nha . Nhớ ghi bài cho kỹ cho Vy mượn . Vy cũng tiếc giờ học lắm , nhưng Dung thương Vy nha . Lâu lâu anh Nghiệm mới về một lần mà ..
Trong câu nói của bạn dường như như có tiếng khóc . Dung nghe ngậm ngùi thương Vy làm sao . Những mối tình trong thời chiến là thế ấy . Gặp được nhau là mừng . Là hạnh phúc .Còn ngày mai ? Chẳng ai dám nghĩ "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" mà . Dung thấy buồn buồn chào Vy và Nghiêm .
- Vy yên tâm đi chơi với anh Nghiệm vui nha . Ghé Viễn Đông ăn dùm Dung hai cuốn bò bía với
Bóng Dung khuất sau hai hàng cây trong sân trường . Thư viện chỉ còn Vy và Nghiệm .Vy chớp mắt nhìn Nghiệm nhỏ nhẹ hỏi :
- Sao thơ cho Vy anh bảo 28 Tết anh mới về cơ ?
Vy nghe một thoáng buồn nào đó trong câu trả lời của Nghiệm
- Tình hình sôi động . Có công văn khẩn trực Tết 100%. Do đó anh phải về sớm ăn Tết trước với Vy .Tết anh không về được bé ạ ! Sao hôm nay còn học nữa Vy. Mọi năm giờ nầy đã nghỉ rồi mà
- Ông thầy Vy bảo dạy rút cho hết chương trình . Có thể năm nay thi sớm đó anh
- Thì ra thế…
Vy đứng lên nắm hai tay Nghiệm . Nàng nghiêng đầu nũng nịu :
- Cho Vy nhìn lại anh cái đã
Nghiệm làm bộ đứng nghiêm . Hất cầm lớn tiếng:
- Đây kẻ đã về xin trình diện Hoàng hậu
Vy cười . Nghiệm vẫn là một hình ảnh thật đẹp . Đẹp hơn bất cứ người đàn ông nào trên cõi đời nầy
- Xong chưa ? Sao Vy ? Thế nào ?
- Anh đẹp nhất thế giới
- Anh nhường cho Vy đó
Chúng tôi cười vang . Vy ôm cập lên và bảo :- Bây giờ mình về nhà nghe anh
- Chưa được . Anh đã thăm người yêu của anh rồi . Bây giờ Vy phải cho anh đi thăm người tình của anh nữa chớ .
Vy nhìn Nghiệm ngơ ngác . Nghiệm choàng tay qua người Vy khẽ bảo :
- Vy là người yêu . Sài Gòn là người tình . Bỏ xe Vy ở trường đi . Lên xe với anh đi thăm một vòng Sài Gòn nha Vy 


Vy sung sướng gật đầu . Gío chiều lồng lộng thổi . Tôi nép người bên lưng chàng thật thương yêu . Tiếng chàng văng vẳng :
- Anh về Vy mừng không Vy ?
Vy nũng nịu :
- Gặp lại anh vẫn là một hạnh phúc lớn nhất trong đời Vy
Chúng tôi đi ra Nguyễn Huệ .Sài Gòn rực rỡ khi Xuân về . Tiệm hoa vải Bạch Tuyết muôn màu muôn sắc . Chiều nay hạnh phúc thật bất ngờ đến với tôi . Chàng đã về . Và bên chàng tôi không còn mơ ước nào hơn nữa
- Vy đói bụng không Vy
- Vy muốn đến Pagode uống cà phê với anh
Pagode đã là nơi chốn kỷ niệm của tôi và chàng . Pagode của những chiều mưa . Pagode của những chiều nhạt nắng . Tôi bên chàng thì thầm nói chuyện tình yêu. Quán chiều nay thật vắng . Chỉ có vài bàn có khách . Hình như họ cũng là người yêu của nhau như tôi và chàng . Chúng tôi vẫn ngồi ở chiếc bàn mọi lần
- Anh uống phin đen . Vy thêm sữa nghe
- Dạ
Hai cà phê phin được mang ra . Từng giọt cà phê nhỏ xuống . Tôi thật yêu những buổi chiều mưa ngồi với chàng nơi đây . Ngồi bên chàng nhìn ngoài trời mưa giọt vắn giọt dài . Nghe tiếng cà phê nhỏ giọt tôi thấy ấm áp lạ thường . Chiều nay trời không mưa . Nắng vẫn vàng ngoài lòng đại lộ
- Vy nghĩ gì đó Vy ?
- Vy nghĩ anh có quà gì cho Vy
- Đâu Vy đoán thử coi
- Anh ép hoa rừng về tặng Vy phải không ?. Vy khẽ hát nho nhỏ “Nếu em không là người yêu của lính . Ai mang cánh hoa rừng về tặng em”. Đúng không anh ?
Nghiệm cười trêu Vy
- Trật rồi bé ơi
Chàng đưa tay vào túi áo lấy ra một chiếc hộp nhỏ trao tôi
- Quà của Vy nè . Vy mở đi
Tôi tần ngần giở nắp hộp . Tự nhiên nghe xao xuyến lạ thường .Chiếc nhẫn đính hôn lấp lánh trên nền vải gấm đỏ
- Đưa tay đây anh đeo cho Vy
Tay tôi run run trong tay chàng .Chiếc nhẫn đã lồng vào ngón tay tôi tự bao giờ. Chàng thì thầm :
- Vy có sung sướng không Vy ?
Nước mắt tôi đong đầy bên khóe .Tôi vẫn thường khóc khi sung sướng . Tôi không biết làm gì hơn nữa trong lúc nầy . Chàng kéo ghế sát tôi hơn .Vòng tay qua bờ vai người yêu . Tiếng chàng êm êm
- Qua Tết ba má anh sẽ qua nhà thưa chuyện với Ba Mẹ hỏi Vy cho anh . Mà sao anh sợ Mẹ quá hà Vy
Vy ngước mắt nhìn Nghiêm vời vợi yêu thương
-Mẹ cũng thương anh . Nhưng Mẹ thương Vy hơn . Mẹ sợ Vy khổ một đời nếu Anh có mệnh hệ nào .. Ba cũng ở quân đội . Mẹ khổ vì những lo lắng đêm ngày cho Ba . Vì vậy Mẹ chần chờ . Mẹ không muốn Vy làm vợ anh sớm . Mẹ cứ bảo “Vy còn nhỏ . Đợi thanh bình Mẹ cho Nghiệm cưới Vy”
Nghiệm âu yếm vuốt tóc Vy :
- Số anh cao lắm .Vy đừng lo .Nhưng dù sao anh cũng ráng xin Mẹ cho anh hỏi Vy . Bao giờ Mẹ cho cưới là quyền của Mẹ .Anh chờ Vy suốt đời anh mà
Nhà năm nay ăn Tết buồn hiu . Nghiệm đã về đơn vị sáng 22 Tết . Ba cũng chẳng về được .Mấy ngày Tết vội vã qua đi .Mùng 4 Tết Ba mới ở đơn vị về . Ba không được vui như những lần về phép thăm nhà . Ba hỏi thăm Nghiệm . Tôi tíu tít kể chuyện chàng về ăn Tết sớm với Bé Vy . Trong buổi cơm chiều bỗng Mẹ bảo Ba
- Ba má Nghiêm nhờ người đến xin hỏi bé Vy . Ba Vy nghĩ sao?
Tôi giật mình lo sợ .Tôi sợ ba chối từ . Tôi sợ phải xa Nghiêm .Vì đời sống của tôi bây giờ là của chàng mất rôi . Ba xoa đầu tôi khẽ bảo:
- Làm vợ lính bé Vy sợ khổ không con .
Tôi gục đầu vào lòng Ba nước mắt ràn rụa
- Ba Mẹ thương con . Thương Nghiệm nữa nha …
Thế mà mau quá . Chỉ còn dăm ngày nữa là đến ngày lễ hỏi của Vy và chàng . Tôi lăng xăng với trăm thứ việc . Chiếc áo dài đã lấy về từ chiều hôm qua . Hàng áo gấm vàng Nghiệm đã chọn cho tôi trước ngày chàng trở về đơn vị . Nghiệm vẫn thích bé Vy mặc màu vàng .Chàng thương màu vàng từ ngày hôm ấy .Chàng cứ bảo “ màu vàng chỉ để cho một mình Vy mặc mà thôi” . Tôi còn nhớ hôm đó đang đứng trước sân trường chờ nhỏ Dung đi về bỗng có tiếng người hỏi:
- Cô bé ơi hôm nay có còn ghi danh nữa không?
Tôi ngước mắt nhìn lên . Chàng trai nầy lạ . Chẳng phải bạn cùng lớp với Vy mà . Vy đáp nhẹ
- Dạ ông ghi danh năm thứ mấy hở ?
-Năm cùng năm cô bé đang học đó
Tôi cười:
- Ông xạo ghê , biết Vy học năm thứ mấy mà nói
Chàng thật tự nhiên :
- Vy học năm thứ mấy nói đi . Mà đừng gọi ông nữa . Nghe già lắm . Bộ Vy thấy tôi già lắm hở Vy ?
Vy luống cuống:
- Vy đâu biết gì . Vy đâu có quen ông lần nào đâu . Vy biết gọi là gì ?
Chàng thân mật hơn . Giới thiệu ngay
-Tôi là Nghiệm - Hoàng xuân Nghiệm - nghề nghiệp :lính . Hôm nay về phép đến thăm trường cũ ngày xưa . Xong rồi đó cô bé . Bây giờ đến phiên Vy nè
Vy thấy tự nhiên hơn :
- A! Vậy thì ngày xưa anh Nghiệm học ở đây hả ? Vui ghê . Vy học năm thứ nhứt .Tên Vy là Nguyễn Vy Lan song bạn bè và gia đình vẫn gọi là Vy . Mà anh Nghiệm đi ghi danh thiệt hôn ?
Nghiệm cười:
- Anh đi thăm Vy đó 


…. Thế là chúng tôi quen nhau từ hôm ấy và tình yêu kéo dài gần 4 năm nay . Nhà thực bận rộn. với ngày lễ hỏi sắp đến của Vy . Mẹ thì không hài lòng lắm trong cuộc hôn nhân nầy . Tôi nghe Mẹ bảo nhỏ với các cô: Chiều Vy . Chớ tình hình lộn xộn quá . Đời quân ngũ biết ra sao . Có gì nó khổ một đời .Nhưng tôi vững tâm với lời chàng nói hôm nào “ Số anh cao lắm mà Vy”. Tôi yên lòng và tôi nghĩ chúng tôi sẽ ở bên nhau đến suốt cuộc đời !
Chiều nay Nghiệm vẫn chưa về . Mai là lễ hỏi rồi . Tôi đã lấy bộ đồ Veste về cho chàng như lời chàng dặn .Nhà Nghiệm cũng sốt ruột . Ai cũng trông ngóng chờ đợi chàng về . Tôi buồn rầu ai cũng thấy . Má Nghiệm đến bên tôi dỗ dành :
- Chắc trễ xe . Vy đừng lo. . Tối Nghiệm sẽ về mà
Tự nhiên tôi òa lên khóc
- Nhỡ Nghiệm không về sao Bác
- Không ! Tối Nghiệm sẽ về
Đêm càng khuya . Hơn 12 giờ tôi cùng chưa về nhà .Tôi đợi chàng từng giờ từng phút .Tôi thầm gọi chàng trong đêm "Nghiệm ơi ! Nghiệm ơi ! Về với Vy đi"
Chợt có tiếng gõ cửa thật nhẹ . Tôi cuống lên "Nghiệm về . Nghiệm về". Tôi vội nép vào góc tủ . Tôi muốn gây cho Nghiệm một sự bất ngờ . Bỗng tôi nghe tiếng òa khóc lên của Má Nghiệm . Tôi ló đầu ra . Mắt tôi nhòa đi . Tôi chỉ nghe tiếng khóc thét của mình và ngất đi ….
…Tôi nghe tiếng Mẹ khóc và bảo
- Bé Vy tỉnh rồi anh
Tôi đưa mắt nhìn chung quanh .Nhà cửa rộn rịp quá . Hôm nay là lễ hỏi của Vy mà . Đầu óc tôi vẫn còn mê man :
- Nghiệm về chưa Mẹ
Mẹ ôm tôi khóc nhiều hơn và không trả lời
- Mẹ thương con quá Vy ơi
Tôi nắm tay Mẹ lắc mạnh
- Cho con biết Nghiệm về chưa Mẹ
Tiếng Mẹ đứt quãng , xót xa :
- Nghiệm về rồi con
Tôi bật ngồi dậy
- Nghiệm về sao không thăm con . Cho con gặp Nghiệm đi
Mẹ tôi dìu tôi đứng lên .Bên kia là Mẹ Nghiệm . Tôi đi ra phòng khách . Không khí yên lặng bao trùm căn phòng . Chàng đâu ? Nghiệm đâu ? Mẹ chỉ cho con đi . Ba chỉ cho con đi . Bác ơi chỉ cho con đi . Không ai biết Nghiệm ở đâu để chỉ cho Vy bây giờ . Chàng đã đi thật xa rồi . Tôi gục dầu trên nắp quan tài phủ lá quốc kỳ đã lịm kín hình hài người tôi yêu dấu và tôi lại ngất đi …
Chiều nào ở trường ra tôi cũng vào nghĩa trang thăm chàng . Con đường Mạc đỉnh Chi muôn đời sầu muộn . Tôi mang cặp sách đi thăm người yêu . Tôi thì thầm kể chuyên với anh trong khói nhang lãng đãng bay bay theo gió chiều hiu hắt trong khung cảnh buồn bã , ảm đạm của Nghĩa trang. Ly caphê đây . Anh uống với em đi . Em mua cho anh từ Pagode đó . Uống đi anh . Thuốc nè, em đã đốt cho anh rồi đó . Thuốc Salem của anh đó . Anh hút đi rồì nghe em kể chuyện chúng mình nha anh . Tôi cứ say sưa , thỏ thẻ với chàng cho đến khi đêm xuống tôi mới giã từ chàng ra về . Mẹ tôi vỗ về khuyên lơn nhưng giờ nầy đời sống tôi không còn gì nữa .Chẳng ai khuyên nhủ được tôi . Bạn bè nhìn tôi lắc đầu thương xót . Ba buồn rầu thương cho con gái chịu nhiều đau đớn xót xa …
Tháng tư tình hình rất sôi động . Đêm đêm nghe tiếng hỏa châu từ xa vọng về tôi nhớ chàng sao là nhớ . Chàng đã nằm xuống . Nợ nước đã đền . Cho tròn phận sự của kẻ nam nhi . Cho khăn sô quấn lên đầu tôi một đời góa phụ . Rồi Đà Nẵng mất . Ban Mê Thuộc mất . Dân quân trên đường di tản . Ba cho người đưa tin về dặn Mẹ thu xếp đồ đạc cho gọn . Tôi cũng chẳng hiểu thế nào . Đầu óc tôi lúc nầy chẳng còn là của tôi nữa …
Dân Sài gòn đã nhốn nháo hẳn lên . Xuân Lộc ngút trời khói lửa . VC đã về đến Biên Hòa . Quốc Lộ 4 đã bị cắt đứt . Sài Gòn có thể đổ máu . Tôi nghe người ta bàn tán . Mẹ tôi như điên chẳng biết đưa chị em tôi đi đâu .. Tôi , chàng và tất cả những đứa con VN đều là nạn nhân của chiến cuộc . Tôi thu xếp thư từ của Nghiệm . Chiếc ảnh bán thân của chàng cùng những kỷ niệm dấu tích một đời yêu nhau của hai đứa cho vào một cái túi nhỏ . Mẹ bảo thu xếp quần áo .Tôi chẳng cần gì cả . Đời tôi chỉ còn bao nhiêu đó thôi . Tôi không vơi nhớ chàng và trong giây phút đất nước ngả nghiêng, tôi nhớ chàng hơn bao giờ hết
Sài Gòn đêm nay trong kinh hoàng . Lịnh giới nghiêm đã được ban hành .Tổng Thống Thiệu đã ra đi đêm qua và một số tướng lãnh khác đã lên phi cơ hết rồi . Các vị lãnh đạo sinh mệnh dân tộc đã buông tay , để lại nhục nhằn cho đám dân đen .
Phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích dữ dội . C S đã về tới Hàng Xanh . Có tiếng hỏa tiễn rớt vào thành phố . Mẹ bảo tất cả xuống hầm núp .. Mẹ cứ mếu máo bảo “ Chẳng biết ba có làm sao không”. Nửa đêm nghe tiếng đập cửa thật lớn . Tôi rón rén bước ra . Tôi nghe tiếng hốt hoảng của Ba
- Mở cửa mau lên Mẹ Vy
Tôi nhanh tay mở chốt . Ba lách người vào thật nhanh . Mẹ và chị em tôi vây quanh Ba . Tôi nghe tiếng Ba thật nhỏ
- Mẹ Vy và các con nhanh lên . Mỗi người mặc hai bộ đồ . Mang theo những giấy tờ cần thiết của gia đình . Bỏ lại tất cả . Ra xe ngay
Tôi khóc trong tiếng nấc
- Đi đâu bây giờ hở Ba
- Ít ra Ba phải ẩn trong giai đoạn nầy .Bỏ nước ra đi trong lúc nầy là cái nhục lớn của những người cầm súng như Ba .Song Quân đội giờ nầy đã tan rã hết rồi .Chẳng còn ai để chỉ huy nữa . Các tướng lãnh đã bỏ anh em mà đi hết rồi . Đã bỏ đi hết rồi con ơi !
Ba gục đầu trên thành ghế . Tôi khóc to hơn . Ba đứng lên giục
- Nín đi Vy . Mau lên . Có chuyến bay đêm nay và Ba đã dành được chỗ cho gia đình . Ba đưa tay kéo lá Quốc Kỳ trên tường xuống . Ba xếp lại cho vào chiếc cặp nhỏ .Tôi thấy những giọt nước mắt chảy dài trên đôi gò má sạm nắng của người chiến sĩ già đã nửa đời trong quân ngũ
Tôi nhìn căn nhà lần cuối .Nước mắt ràn rụa . Đường phố Sài Gòn vắng tanh , ghê rợn . Xe chạy thật nhanh trong đêm . Tôi mở mắt thật to như muốn thu hết những gì còn lại của SàiGòn đêm nay vào tâm hồn . Tiếng đại bác nổ ròn . Có tiếng người la , khóc … Thành phố diễm lệ ngày nào giờ kinh hoàng thế đó . Tôi mong xe chạy qua nghĩa trang Mạc đỉnh Chi để tôi vẫy tay chào chàng lần cuối . Song xe chạy hướng khác . Nhắm phi trường Tân Sơn Nhất .
Phi trường hỗn độn .Người ta chen lấn nhau để lên phi cơ . Ba dặn chị em tôi ôm nhau kẻo lạc . Mẹ nước mắt đầm đìa .Tôi không còn nước mắt để khóc nữa . Đau đớn đến tận cùng cuộc đời rồi , tôi đã mất tất cả . Ước mơ của đời con gái . Niềm tin tuổi trẻ cùng lúc chắp cánh bay cao . Chỉ còn lại trong tôi một tâm hồn đổ nát, hoang tàn
Ba giục đẩy chị em tôi lên phi cơ . Tiếng động cơ nổ đều cùng tiếng đại bác hỏa tiễn ầm vang phi trường . Phi cơ đã cất cánh . Nghiêng mình nhìn qua khung cửa tôi nhìn Sài Gòn lần cuối cùng . Thành phố nhỏ dần ,nhỏ dần cho đến lúc tôi không còn thấy gì nữa . Tôi gục đầu vào lòng Mẹ nức nở .
Tiếng đồng hồ thong thả ngân lên trong đêm đưa tôi trở về thực tại . Đã 12 giờ . Giao thừa rồi đó anh . Giao thừa của em nơi xứ người bao nhiêu năm nay vẫn là những trống vắng mông mênh không bến bờ .Thời gian vẫn chưa làm em nguôi ngoai niềm thương nhớ xa xưa . Dù chúng mình chưa một lần ân ái , Nhưng chiếc nhẫn đính hôn anh trao em một chiều nào nơi Pagode năm xưa vẫn còn đó . Như một định mệnh . Như một khẳng định . Em đã là của anh trọn đời trọn kiếp .
Đã 32 năm trôi qua . Em vẫn chưa một lần về thăm chốn cũ . Con đường dẫn về khuôn viên Đại học những chiều mưa bay . Bến tàu chiều lộng gió . Kỷ niệm ngày xưa của chúng mình vẫn đong đầy trong hồn em . Từ ánh mắt , môi cười . Như anh vẫn còn đây . Thế mà chúng mình đã muôn đời vĩnh viễn cách chia . Về với em đêm nay đi anh . Hát cho em nghe bản tình ca thật buồn của chiều cuối năm xưa
“ Ngày em thắp sao trời .
Chờ trăng gió lên khơi .
 Mà mưa bão tơi bời .
 Một ngày mưa bão không rời .
 Trên vai đôi thanh xuân
. Ướp hương nồng trên gối đắm say .
 Ánh sao trời theo gió rụng rơi đầy .
 Cùng rót bao nhiêu ngày hoang .
Cùng đếm bao nhiêu mộng tàn .
 Ru người yêu dấu trong vòng trời đêm
. Vừa hoa nở tươi môi .
Tình nhân đã xa rồi .
 Đời ngăn cách nhau hoài .
Yêu nhau trong lo âu
.Biết bao lần tha thiết nhớ mong .
Lá hoa rừng mau xóa đường quay về …”. Bài hát không hợp với khung cảnh ngày Tết chút nào song em yêu vô cùng . Bài hát như đã vận vào đời em , đời anh và bây giờ chúng mình nghìn trùng mãi mãi cách xa . Đêm nay trong giờ phút thiêng liêng của đêm trừ tịch hình ảnh anh là một vuốt ve đầm ấm hơn bao giờ hết . Vy nghe như tiếng chàng văng vẳng đâu đây: "Anh về ăn Tết với Vy nè Vy ơi !"
Ngoài trời tuyết vẫn rơi …. 



Ngày xưa Hoàng Thị
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23572
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Apr/2025 lúc 7:59am

Mẹ Tôi, Người Vợ Lính Miền Nam


Mẹ tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, ông bà ngoại là điền chủ ruộng cò bay thẳng cánh ở miệt Phú Xuân Nhà Bè. Mẹ được ăn học ở thành phố, sau thời trung học ở trường Gia Long rồi đến Đại học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt.

Ba tôi lại sinh trưởng trong gia đình nông dân nghèo khó, gia đình lại đông anh em, nhưng được cái Ba tôi học giỏi, hiền lành và rất có hiếu. Cũng vì gia đình bên ngoại ngăn cản nên Ba tôi "thất tình", đăng lính dù cổng trường Đại học Văn Khoa, Sư Phạm đang rộng mở. Bà Ngoại làm mối cho Mẹ nhiều người nhưng Mẹ đều lắc đầu. Khi Ba tôi học xong khóa sĩ quan Thủ Đức 16 và được thăng cấp bậc Đại Úy, và Mẹ tôi thì cũng "chưa có ai" khi tuổi gần ba mươi. Có thể vì vậy mà bà ngoại tôi xiêu lòng và đồng ý cho Ba Mẹ tôi lấy nhau vào những ngày cuối năm 1969.

Dù bị ngăn cản từ đầu và phải qua nhiều khó khăn, thử thách, Ba Mẹ tôi mới đến được với nhau, nhưng sau đó, Ba tôi lại là người con rể được bà Ngoại yêu quý nhất.

Cưới xong là Ba tôi ra mặt trận, đi khắp các chiến trường miền Nam từ Quảng Trị, Khe Sanh đến Long Giao, Long Khánh, Bình Long, Phước Long. Ngày tôi chào đời, Ba tôi còn chiến đấu tận bên Lào, bên Cam Bốt. Ôi! Những người vợ lính thời chiến!

Chiến tranh leo thang trong giai đoạn 70-74 thật khốc liệt. Mùa hè đỏ lửa 72, những trận đánh dữ dội ở Khe Sanh, Bình Giã, Đồng Xoài..., tin tử trận dồn dập về từng giờ, từng ngày. Mẹ như ngồi trên đống lửa. Mẹ vừa đi làm ở Tòa Đô Chánh vừa nuôi dạy chúng tôi và trông ngóng tin tức của Ba ngoài mặt trận, đứng ngồi không yên.

Ngày mất miền Nam, Ba tôi đi tù. Mẹ bụng mang dạ chửa, một mình sinh nở. Thằng em tôi ra đời vào tháng Sáu năm đó, đúng lúc gia đình đau thương và túng quẫn nhất. Mẹ một thân một mình, mấy đứa con còn nhỏ xíu, không tiền bạc. Với cái lý lịch "ngụy quyền" và có chồng đi "học tập cải tạo" không còn nơi nào dám nhận Mẹ vào làm. Mẹ xoay sở mọi cách để chúng tôi có cái ăn hàng ngày, đồ đạc trong nhà lần lượt ra đi đến khi không còn gì có thể bán được, Mẹ phải đi bán hàng rong cực nhọc đủ điều, nhưng Mẹ không có nửa lời than van.

Tôi còn nhớ, mỗi lần tết đến, vì không có tiền mua quần áo mới cho chúng tôi, Mẹ ngồi cắt từng chiếc áo dài của Mẹ khi xưa để may cho chúng tôi những bộ đồ mới đi chúc Tết họ hàng. Mẹ không muốn chúng tôi buồn và tủi thân, một mình Mẹ cam chịu.

Sau vài năm bặt tin của Ba, gia đình nhận được tin về người ở tận trại tù vùng Hoàng Liên Sơn Yên Bái, mẹ tôi lại lo khăn gói lên đường thăm Ba. Thời đó, từ Nam ra Bắc quả là "gian khổ chập chùng", phải đổi bao nhiêu chuyến tàu, chuyến xe, băng rừng lội suối mới tới chỗ Ba tôi bị giam giữ. Thân trong lao tù, nhưng Ba luôn an ủi khích lệ gia đình, cứ mỗi độ xuân về Ba lại gởi cho chúng tôi những bài thơ Ba làm, khuyên nhủ dạy bảo chúng tôi.

Suốt tám năm ròng, Mẹ tôi tảo tần nuôi con, nuôi chồng không quản thân mình. Có thời ngăn sông cấm chợ, Mẹ phải gởi chúng tôi cho bà Nội, đi buôn chuyến Sài Gòn Phan Thiết. Sau mấy lần bị tịch thu hàng, Mẹ tôi không còn vốn liếng đi buôn nữa nên tiếp tục việc chạy hàng rong ngoài chợ. Tôi cũng ôm thùng cà-rem ngồi bán ở góc đường đầu ngõ cùng mấy thứ bánh kẹo lặt vặt bán cho mấy đứa con nít trong xóm để kiếm thêm ít tiền phụ mẹ phần nào.

Khi tới mùa lúa, Mẹ tôi về Nhà Bè làm ruộng với gia đình cô tôi để được chia chút gạo trắng cho chúng tôi có những bữa cơm không độn khoai mì, bo bo. Từng là tiểu thư thành phố, có ăn có học, nhưng công việc nặng nhọc đã cướp đi vẻ quý phái của Mẹ tự khi nào. Nhìn mái tóc điểm sương, đôi tay thô ráp, gương mặt hằn nỗi nhọc nhằn sớm tối của Mẹ, chúng tôi thấy thương Mẹ vô cùng.

Hàng đêm trước khi ngủ, mấy mẹ con trên một chiếc giường chật như nêm nhưng chúng tôi rất thích, không ai chịu đi ra chỗ khác ngủ. Chúng tôi lớn dần theo những câu chuyện cổ tích của Mẹ kể. Mẹ tôi đã bươn trong rác rưởi đọa đày mà đi, nhưng Mẹ vẫn dành cho chúng tôi những niềm vui trẻ thơ, con cái vẫn là tài sản quý giá và quan trọng nhất đối với Người. Mẹ muốn chị em chúng tôi biết yêu thương nhau, biết hy sinh chia xẻ cho nhau; có ký ức tốt đẹp về tuổi thơ của mình; có kỷ niệm về gia đình êm ấm. Mẹ nói "Con người ta nghèo nàn về vật chất không sao, nhưng ai nghèo nàn về tâm hồn và tâm linh thì đáng tiếc lắm các con ạ. Mẹ muốn các con dù trong hoàn cảnh hiện tại khó khăn đói nghèo, nhưng tâm hồn mình không nghèo nàn". Mẹ là người đi góp nhặt từng niềm vui, tiếng cười cho chúng tôi trong những hoàn cảnh bi thương nhất của cuộc đời.

Cuối cùng, sau bao nhiêu năm mỏi mòn trông ngóng, Ba tôi trở về từ trại tù. Nhưng gia đình chúng tôi đoàn tụ chẳng bao lâu thì Ba tôi từ trần, khi Mẹ mới vào cái tuổi bốn mươi hai. Nhiều tai nạn dồn dập đổ xuống gia đình tôi, nhưng một lần nữa, vì chúng tôi, Mẹ không ngã gục.

Sau khi chúng tôi tới được đất Mỹ, một lần nữa, vì con cháu, Mẹ đành bỏ lại quê hương, nơi Mẹ đã sống gần bảy mươi năm; sang một đất nước xa xôi, lạ lẫm, bất đồng ngôn ngữ, văn hóa. Lòng Mẹ đau đáu nhìn về nơi chôn nhau cắt rốn, đau xót; nơi ấy Ba tôi đã nằm xuống, mồ im mả lạnh.

Cuộc đời của Mẹ tôi, cũng như của tất cả những bà Mẹ Việt Nam cùng thời, buồn nhiều hơn vui. Thời chiến thì mất chồng, mất con, sống trong cảnh đạn bom khói lửa và những cuộc di cư lánh nạn triền miên; đến “thời bình” thì bị giam cầm, nghèo khổ trong trại tù lớn là cả quê hương Việt Nam. Sang đến Mỹ, một đất nước giàu có, tự do thì lại làm những công việc chân tay cực khổ, nuôi con ăn học. Nhưng khi con khôn lớn, lập gia đình, thì cũng chỉ một mình mẹ trong căn nhà trống vắng.

Trong mùa lễ Vu Lan, tôi tự hứa với lòng mình là sẽ làm mọi thứ để giữ nụ cười và chút niềm vui còn sót lại trên gương mặt đã già nua và hằn những vết đau khổ của Mẹ.

Cầu mong cho những tháng ngày còn lại của các bà mẹ được yên bình, vui vẻ bên cháu con.


Trang Diệp

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23572
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Apr/2025 lúc 8:40am

Chuyện Người Cựu Thiếu Sinh Quân

Hình%20Ảnh%20Thiếu%20Sinh%20Quân%20VNCH%20-%20Hội%20Quán%20Phi%20Dũng



 
Tôi quen biết một anh cựu sĩ quan xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu khi tham gia sinh hoạt trong một Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh. Anh có nickname là "Tùa Hia" vì anh có một quá khứ "ngầu", lại vui tính thân thiện với mọi người nên rất được các bạn mến mộ, nhứt là các nàng đều coi anh như đại huynh trong nhóm cho dễ bề nhõng nhẽo. Một bữa nọ, khi tôi nhận được youtube "Hồn Nước Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam" *, từ một người bạn email, thấy trong đó có đọan vinh danh trận tử thủ oai hùng trong quân sử ngày 1/5/1975 của những thiếu sinh quân 15-16 tuổi, những đứa con mồ côi của quân đội, tôi vội chuyển cho anh xem vì nghĩ rằng anh bận đi làm không có giờ lục lạo trên net.

Ai dè hôm sau tôi nhận được hồi âm của anh. Anh viết rằng:

Cám ơn muội muội đã chuyển cho huynh cùng xem.   
Muội hãy xem lại YouTube này (rất hay), ở phút khoảng 30, họ nói về trận đánh sau cùng và buổi lễ "Hạ Kỳ" cuối cùng trên toàn lãnh thổ của VNCH vào ngày 1 tháng 5 năm 1975.
Mấy đứa em TSQ đã cầm đầu trong "Trận Đánh Cuối Cùng" ở trường TSQ là "đệ tử ruột" của huynh.  Cấp chỉ huy đã "tử thủ" sau cùng... cũng là anh của huynh. 

TSQ sau khi ra trường sẽ gọi là Cựu TSQ hay AET và sẽ mang một huy hiệu nhỏ (pin) có chữ AET.  Tất cả các AET trên toàn thế giới đều mang một huy hiệu giống nhau vì đây là một tổ chức của "Liên Hiệp Pháp". AET là 3 chữ viết tắt của tiếng Pháp: Ancient Enfant de Troupe.  Về sau, tụi này dịch chạy ra là: Anh Em Ta!.   Tất cả các AET sẽ gọi nhau bằng anh em chứ không gọi theo tuổi tác hay cấp bực.

Khi ra trường TSQ, huynh được tiếp-tục học ở trường Quân Y.  Nhưng chỉ học được 9 tháng thì bị đuổi ra khỏi trường Quân Y và đày ra tác-chiến.  Phục vụ cho đơn vị Nhảy Dù trong một thời gian ngắn, Huynh lại bị bắt về để học ở trường VBQG/Đà-Lạt.  Nói là đi lính lâu năm, nhưng hầu hết tuổi lính của huynh đều nằm trong các quân trường!..  

Huynh có gặp lại vài em TSQ đã cầm đầu cho cuộc tử thủ ở trường TSQ vào ngày 30/4/75 và 1/5/75. Hai em mà huynh gặp lại được là em Lâm A Sáng ở Toronto/Canada và em Nguyễn Anh Dũng,Colorado. Hai em này có tường thuật lại cuộc tử thủ và buổi lễ "Hạ Kỳ" cuối cùng của VNCH trên các trang mạng về quân đội VNCH.     
Không những là "đệ tử ruột" ở trường TSQ, hai em S và D cùng nhiều em TSQ khác, còn là "đệ tử" của huynh khi sinh hoạt hướng đạo với hội đoàn Hướng Đạo/ Vũng-Tàu.  

Các em TSQ từ những năm 70 trở về sau đều biết huynh và xem huynh như là "thần tượng" của họ. Vì lúc đó huynh là Liên Đoàn Trưởng của Trường (có 1,400 TSQ). Huynh lại là Trưởng Ban Nhạc Nặng (quân nhạc), Trưởng Ban Nhạc Nhẹ (nhạc sân khấu) của trường. Năm 1971, huynh lại lãnh giải vô địch đai đen/Thái Cực Đạo/ cấp toàn quân.  Thấy huynh "nổ" dữ chưa???...   

Cũng trong YouTube này, ở vào phút 33 - 35... có đọan phim quay lúc trường TSQ đi diễn hành ở Sài-Gòn vào năm 1971.  Người đi đầu cho toán diễn hành của trường, đang chào tay khi đi ngang qua khán đài chánh... là huynh đó!.  Vì đang "chào tay" nên muội  không thấy được mặt, chỉ thấy được dáng người.  Mà dầu có thấy được mặt, muội cũng hỏng biết là ai??.. vì lúc đó huynh còn "nhỏ xíu"!!!...   

Sau 75, Huynh chỉ đi "học tập cải tạo" 6 tháng, vì huynh "thức thời" biết người biết ta, khai mình là khóa sinh SVSQ tép riêu thôi chứ không dại gì khai thiệt để bị "cải tạo" mút mùa!.  Sau đó, Huynh lại bị "nhốt" trở lại về tội "âm mưu lật đổ nhà nước cộng sản". Lần này, huynh lại được các em TSQ giải cứu. Trong số đó, có 1 em là cháu ngoại của Tổng Thống Trần văn Hương... đã "húc tù" và đưa huynh xa lìa VN. 

Bây giờ thì muội biết thêm nhiều về cuộc đời của Huynh. Có lần, một cô em trong nhóm đã thắc mắc: 
     - Em biết đại huynh rất "võ biền", nhưng sao em thấy huynh rất Cool chứ không ồn ào hay quá khích như mấy ông quân đội mà em từng quen biết??...  
Huynh trả lời: 
      - Vì Huynh là đại huynh của tụi em, huynh phải làm gương cho tụi em biết lúc nào mình phải cần "buông xuống"... và phải biết "Tự Thắng Để Chỉ Huy"!!!...  

Quanh năm suốt tháng, Huynh ít khi nào bị bệnh nhưng mỗi năm gần tới ngày 30/4 là huynh nghe nhức nhối trong tim, đau cho tháng tư xưa rả ngũ tan hàng để giờ này phải xa lìa quê cha đất tổ, lưu lạc xứ người!

Trong đời binh nghiệp của huynh, huynh được may mắn hơn nhiều đồng đội khác, tứ chi và ngũ quan của Huynh vẫn lành lặn... mặc dầu mình mẫy cũng thẹo tích tùm lum. Chưa phải là thương phế binh!.  Cũng về Tổng Y Viện Cộng Hòa... để thăm bạn bè, chứ không hề "nằm" ở đó.   

Muội không có dính dáng gì tới mấy ông "lính Ngụy", nhưng coi bộ muội có nhiều cảm tình với mấy ông bên "phe thua cuộc"?? quá... Cám ơn muội muội. Đó là niềm an ủi lớn lao đáng quý cho những người lính già thất thế vô dụng như huynh bây giờ!.   

"Canh bạc chưa chơi, đà hết vốn;  
Cờ còn nước đánh...  đã lưu vong!."      (Thơ Thanh Nam)

AET Tùa Hia

* Tiếc rằng video này không còn hiện hữu để chúng ta có thể xem lại.

Người Phương Nam


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 12/Apr/2025 lúc 8:50am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23572
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Apr/2025 lúc 11:07am


Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23572
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Apr/2025 lúc 9:16am

Cháo Tóc


Trên hai mươi năm rồi còn gì? Thế mà tui không bao giờ quên nổi kinh hoàng xảy ra nửa khuya hôm đó...

● Cả gia đình đang yên giấc, bỗng nghe tiếng xe hơi từ lộ chánh chạy vào, thắng gấp trước cửa nhà, nhiều tiếng chưn người nhảy xuống, sau đó tiếng đập cửa mạnh và dồn dập. Có tiếng quát lớn:

- Chủ nhà mở cửa…. Công An huyện cần làm việc.

Nhạc gia tui tuổi ngoài thất tuần, hai tay rung rung nâng cây song hòng, cửa mở, năm tên công an bước nhanh vào với bốn khẩu A.K. cầm tay, tên đứng đầu với khẩu K. 54 bên hông hất hàm hỏi lớn:

- Tên Ánh có ở nhà không?

Từ buồng ngủ bước ra, tui trả lời:

- Tui có mặt đây!

- Mời anh lên xe về công an huyện, chúng tui cần làm việc với anh.

Quơ vội cái bồng bột, trong đó vài bộ áo quần, thuốc uống, dầu xanh, chén muỗng, đũa,..kem và bàn chải đánh răng…

Tui bước lên và ngồi xuống sàn, xe lao vút đi và chỉ nhìn thấy nhạc gia tôi hom hem bưng cây đèn dầu lửa, hai đứa con trai tui ôm chưn mẹ và nhà tui vội đưa tay lên lau nước mắt. Công an đẩy tui vào phòng giam chấn song sắt, ngọn đèn vàng mờ trên trần, đóng mạnh khung cửa sắt và khóa lại.

Căn phòng vuông vức, độ bốn thước nhốt mỗi mình tui. Thu mình vào góc phòng, nằm xuống nền xi-măng, đầu gối lên bồng bột, trăm ngàn dấu hỏi lần lượt hiện ra trong đầu, tui chịu thua, không hiểu tại sao mình bị bắt, khẩn cấp giữa đêm khuya. Thân phận người Lính thể chế cũ bị cộng sản ngược đãi còn thua một con vật. Mua một con chó để làm mồi nhậu, ngã giá xong mới bắt con mồi dẩn đi, còn chúng tui vui buồn gì công an muốn bắt chỉ mang còng đến bắt thôi!

Từ nhà tù lớn cho toàn dân Miền Nam, những ngày lễ lớn, kỷ niệm chiến thắng, sanh nhựt lãnh tụ, họ đem cất chúng tôi vào phòng giam- nhà tù nhỏ. Trước khi thiếp đi, tui còn nghe rõ tiếng hô dõng dạc:

-”Tất cả vào hàng! Phắt.. Tư lịnh tới… khai quân hiệu…Bế quân hiệu!”

Và giờ này, bên kia nửa vòng trái đất là ban ngày, các cấp lãnh đạo chỉ huy của tui chắc đang rót những chai rượu đắt tiền vào ly cạn, bên tiếng nhạc lời ca, mỉm cười vui sướng vì cả gia đình an toàn lên phi cơ với hành lý là những va li đầy vàng, đô la và vật dụng đắt tiền… Ai công hầu ai khanh tướng, giờ mình ta đau thương.

Giấc ngủ chập chờn kéo dài được bao lâu không biết, tui choàng ngồi dậy khi nghe tiếng người quát lớn:

- Anh kia, lên làm việc.

Tui bị dẫn đi theo một hành lang ngắn, bước vào phòng có bảng ghi trên khung cửa: “Phòng Chấp Pháp”. Vừa ra lịnh ngồi xuống ghế, tên thượng úy công an hất hàm hỏi tui:

- Anh mang túi gì đó?

- Quần áo lao động, thuốc uống và đồ vệ sinh cá nhân.

- Bộ anh biết sắp bị bắt sao mà chuẩn bị kỹ càng thế?

Tôi cười héo hắt:

- Dạ… trong năm, nhiều lần bị tập trung nên sẵn sàng như vậy. Anh em chế độ cũ chúng tui ai cũng có cùng tâm trạng như thế!

Bật lửa đốt thuốc, ngửa mặt nhả khói lên trần nhà, tên thượng úy hỏi tui:

- Anh biết anh bị bắt về tội gì không?

Tui nhìn thẳng vào mặt hắn:

- Quả tình tui vô cùng ngạc nhiên, tại sao công an huyện lại bắt tui?

Tên hỏi cung mặt hầm hầm, xô ghế đứng phắt dậy, đập tay mạnh xuống bàn:

- Anh đừng đóng kịch nữa. Anh và tên Phong đã giết đồng chí Mười Thụ, bắt được tên Phong hắn khai anh là đồng lõa của hắn. Đã đi cải tạo, anh biết rõ đường lối khoan hồng của đảng, anh thành thực khai báo sẽ được khoan hồng.

Tui không nao núng:

- Cả tuần nay tui không rời khỏi nhà, tui đâu biết ông Mười Thụ là ai? Tui có thù oán gì đến đổi phải giết ông Mười Thụ. Xin cán bộ cho tui gặp anh Phong để đối chất.

- Được rồi! Có bằng chứng rõ ràng, anh đừng trách chúng tui nặng tay với anh nhé!

Tui bị biệt giam suốt một tuần ở Công an huyện, không được thăm nuôi và tiếp xúc với bất cứ ai. Mỗi đêm công an đánh thức tui dậy, đi làm việc, hỏi cung, chấp vấn đủ điều. Tui khai quen biết anh Phong ở “trại cải tạo” Xuyên Mộc thuộc tỉnh Đồng Nai do Phong còn độc thân, ba Phong bị đau bao tử nặng nên gửi đồ thăm nuôi nhờ vợ tui mang giùm vào trại trao đồ tiếp tế cho Phong. Chúng tui quen biết nhau như thế, trước năm 75 Phong là sĩ quan biệt kích dù, còn tui phục vụ ở tiểu khu không hề quen biết nhau. Thỉnh thoảng đi chợ Phong có chạy lên thăm tui, chúng tui có nhậu với nhau đôi lần. Cách đây một tháng Phong cho biết sắp đi xa, làm nghề bốc vác đã làm Phong khạc ra máu.

Tui làm tờ khai trên mười lần và lần nào tui cũng không quên câu kết:

- ” Nếu sau này cách mạng khám phá ra tui gian dối hoặc đồng lõa trong vụ giết ông Mười Thụ tui xin chịu tử hình”.

Họ thả tui về và thông báo từ nay tui không được rời khỏi nhà bất cứ ngày đêm, khi công an cần làm việc tôi phải có mặt ngay, họ bắt tui ký tên và lăn tay.

Sau đó ngưòi biết chuyện tường thuật vụ án lại cho tui biết: Mười Thụ, trưởng ban tổ chức Tỉnh Ủy, do học liên xô, đậu bằng tiến sỉ, học vị mà một giáo sư tên tuổi phát biểu:

“Chỉ cần dắt một con trâu sang Liên xô, hai năm sau chúng ta sẽ dắt về một Phó tiến sĩ”

Mười Thụ được chánh quyền cấp cho một ngôi nhà nền đúc tới ngực, tịch thu của gia đình địa chủ. Đêm xảy ra án mạng, Mười Thụ ở nhà một mình, hung thủ đâm và rọc bụng, ruột gan Mười Thụ tuôn ra đất, đầu Mười Thụ bị xởn một mớ tóc, hung thủ đào dưới góc cột lấy của cải vàng bạc nhiều lắm.

Công an tỉnh phối hợp với công an huyện nghiên cứu điều tra hiện trường. Họ khám xét chuồng trâu, Phong biệt tích, đặc biệt trên bàn thờ ba Phong, ảnh đã được mang đi, một dỉa đựng mãng tóc của Mười Thụ và trên lư hương bằng lon sữa bò, dấu tro nhang đốt còn mới tinh, công an tỉnh kết luận thủ phạm giết Mười Thụ là Phong tên biệt kích ác ôn, mang nhiều nợ máu với cách mạng.

Lịnh truy nã kèm theo ảnh của Phong được thông báo toàn quốc, có kẻ xấu miệng nói rằng: “Sở dĩ công an truy nả thủ phạm khẩn trương như vậy, một phần vì Mười Thụ Phó bí thư Tỉnh ủy, trưởng ban tổ chức đảng… Nhưng phần tối quan trọng là hung thủ đã đào và mang đi một thùng rất lớn chứa nhiều nữ trang gồm: vàng, cẩm thạch, kim cương.. đọc xong biên bản dàn Tỉnh ủy có nhiều đồng chí chảy nước bọt”.

Thời gian qua đi, vụ án Mười Thụ cũng đi vào lãng quên vì người dân ” chạy ăn từng bữa toát mồ hôi” còn thời gian rảnh rỗi đâu mà nghĩ với ngợi.

Đầu năm 91, tui lên công an huyện chứng hồ sơ cho cả gia đình đi diện H.O. sang Huê kỳ. Sau khi trao xấp hồ sơ ký xong, chánh văn phòng công an huyện nói với tui:

- Sau này phá được án đồng chí Mười Thụ, nếu anh có dính líu, nhà nước ta sẽ bảo Mỹ dẫn độ anh về đây để truy tố anh ra tòa án nhân dân, anh liệu hồn đấy!

Tui cúi nhìn xuống chưn mình để giấu nụ cười, ngước lên nhìn tên cán ngố tui trả lời từ tốn:

- Thưa cán bộ, trong trại cải tạo chúng tui học thuộc nằm lòng: ” Với sức mạnh của ba dòng thác cách mạng, đảng và nhà nước ta là lương tri của loài người, chủ nghĩa Mac-Lê bách chiến bách thắng, sẽ giải phóng luôn cả nước Mỹ, sẽ đưa thế giới đến đại đồng. Đưa gia đình sang Mỹ, tui sẽ cố gắng lo cho con cái học hành thành đạt. Nếu nước Mỹ chưa được cách mạng giải phóng, tui sẽ dẫn con cái tui về xây dựng Xã Hội chủ nghĩa ưu việt”

Tên công an chánh văn phòng tỏ vẻ hài lòng, tươi cười bắt tay tui:

- Hy vọng chúng ta sẽ gặp nhau ở Huê Kỳ.

Ôm mớ hồ sơ ra tới cổng, khát nước, khô môi, tui cố đánh lưỡi phun một mớ nước bọt xuống đất.

Thời gian trôi đi, đúng là bóng cau qua cửa sổ, gia đình tui sang Mỹ mới đó đã mười bốn năm rồi. Chuyện ở Mỹ là chuyện dài, biết rồi, khổ quá nói mãi. Vậy tui không còn ca bài ca con cá sống vì nước nữa đâu.

Chiều thứ bảy, mang tờ báo mới ra ngồi hàng cây trước nhà, mặt trời ngả về tây, thế đất cao gió mát, hoa tulip nở rộ, đứa con gái mang ra cho tui ly cam vắt, tui đọc báo khi chiều xuống chầm chậm êm đềm. Một chiếc taxi màu vàng đậu trước nhà, người đàn ông tay xách va-li bước xuống, tay vẫy, cười tươi mừng rỡ với tui:

- Đại ca khỏe không ?

Tui gỡ kiếng, nheo mắt nhìn, chợt la lớn:

- Ồ... Phong đó hả? Trời ơi ngọn gió nào đưa Phong tới đây?

Tui bước ra, Phong đặt va-li xuống đất, chạy tới ôm tôi:

- Mừng gặp lại anh..! Hai mươi mấy năm rồi còn gì!

Chúng tui vào nhà, tui nêu thắc mắc:

- Sao chú biết anh ở Tiểu Bang này, tìm tới hay vậy?

Phong vổ nhẹ vào vai tui:

- Tháng rồi anh có lên Seattle ra mắt sách phải không? Bạn em có dự và mua gởi cho em. Ngạc nhiên và vui mừng vô cùng khi thấy hình và địa chỉ của anh in sau bìa sách, em ở thành phố Buffalo Tiểu Bang New York, tới thăm manh chị không báo trước, tại để anh chị bất ngờ để anh chị ngạc nhiên chơi.

1

Nhà tôi từ sau bếp bước ra ngạc nhiên và hân hoan chào Phong. Tắm xong, tui và Phong ngồi vào bàn ăn .

Dĩa thịt gà xé phai trộn bắp chuối và tô cháo bốc khói thơm lừng. Nhà tui cầm chén định múc cháo, Phong ngăn lại và nói:

- Cám ơn chị! Em chỉ ăn gỏi và uống bia, từ ngày ba em mất, em không bao giờ ăn cháo nhứt là cháo có nêm tiêu. Hốp một ngụm bia, Phong tiếp:

- Hôm nay, hai anh chị là người thân duy nhứt, em kể tình cảnh đau thương của gia đình em.

Em là cháu ngoại của Ông Hội Đồng Cang, má em mất sớm, ba em cai quản của hương quả gồm: một nhà năm gian to, nền đúc tới ngực và mấy chục mẫu vườn ruộng. Sau năm 75 Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, em đi tù cải tạo, chánh quyền địa phương tịch thu hết đất đai, ba em chỉ còn ngôi nhà.

Ba năm sau, họ đuổi ba em ra mình không vì hai tội: gia đình địa chủ bốc lột ; con trai là sĩ quan biệt kích dù ác ôn, gay nhiều tổn thất và nợ máu với quân giải phóng.

Nhà họ cấp cho Mười Thụ, Phó bí thư Tỉnh ủy, kiêm trưởng ban tổ chức đảng. Ông nội Mười Thụ là phu xe kéo cho ông ngoại em. Sau nhiều lần van xin ba em được cho lại cái chuồng trâu cột mù u ngoài mé ruộng, cách nhà thờ dòng họ ba trăm thước.. Ba em đã lớn tuổi sức khỏe yếu kém và sống trong nghèo túng. Ngày nọ nhận được thơ em từ "trại tù cải tạo" Xuyên Mộc gửi về xin tiếp tế đồ ăn và thuốc uống.

Thương con, đường cùng liều mạng nửa đêm khoét vách vào nhà Mười Thụ chiếm đoạt, định vào đào dưới chưn cột trước bàn thờ lấy đi hộp vàng, cẩm thạch, hột xoàng… gồm của cải fòng họ và đồ sính lễ của mẹ em. Hành động của ba em giữa đêm khuya cũng như Doctor Jivago của văn hào Boris Pasternak bò ra cửa hàng rào cây nhà ông nội để lấy củi đun nước sôi đỡ đẻ cho vợ mình, nếu vệ binh phát hiện sẽ bắn chết vì tội : “Tui ăn cắp của tui”

Ngoài dự đoán của ba tôi, Mười Thụ cuối tuần mới về, ở nhà chỉ có vợ hắn và ba đứa con nhỏ. Nhưng khi ba tôi luồn vào, vừa định đứng dậy thì một họng súng K.54 lạnh ngắt ví vào màng tang và ánh đèn pin chiếu vào mặt. Mười Thụ trói ba tôi, bảo đi lại bàn tròn và ngồi xuống ghế, hai tay bị thúc ké sau lưng. Mười Thụ nhai từng tiếng:

- Mày khoét vách vào nhà tao (sic) định làm gì?

Ba tôi rung giọng:

- Thưa ông Mười, khổ quá không có tiền định vào nhà xin lại bộ lư đồng, đem bán có chút đỉnh đi thăm nuôi con.

Mười Thụ nghiến răng:

- Thăm cái thằng biệt kích ác ôn đó phải không? Cái ngử đó sẽ chết rục xương trong tù, không có ngày về đâu. Thứ quân đầy nợ máu phản cách mạng.

Quay ra sau, Mười Thụ ra lịnh cho vợ, đang ngạc nhiên đứng nhìn ba tôi bị trói:

- Bà nấu cho tui tô cháo nêm hành và quậy hột gà vào nhanh lên.

Mười Thụ hằn hộc chỉ vào mặt và chửi ba tôi là thứ xấu xa, bóc lột nhân dân lao động, ngồi nhà mát ăn bát vàng, lười lao động, gặp khó khăn chỉ biết ăn trộm mà thôi, lũ người chúng bây chỉ sống chật đất. Vợ Mười Thụ bưng tô cháo bốc khói lên, Mười Thụ bảo đâm tiêu thêm vào và mang ra cho y cái kéo. Mười Thụ chồm qua bàn, dùng kéo xởn một nắm tóc trên đầu ba tôi và cắt từng đoạn ngắn, dùng muỗng trộn lên đều cho tóc hoà trong cháo. Nhìn thẳng vào mặt ba tôi, Mười Thụ nói:

- Tao cho mày chọn: Một, tao giao mày cho công an với tội danh đêm khuya mày định vào nhà ám sát tao. Hai, mày ăn hết tô cháo này tao sẽ thả mày và không cho ai biết về việc trộm đạo của mày cả.

Ba tui suy nghĩ thiệt lâu, nhục nhã vì bị xởn đầu, nếu biết mình ăn trộm thì tội cho dòng họ lắm! Ba tui quyết định ăn tô cháo. Mười Thụ cởi trói cho ba tui với nụ cười nham hiểm trên môi. Ăn xong tô cháo, Mười Thụ mở cửa cho ba tui ra về. Trời vừa sáng hôm sau ba tui cạo đầu.

Phong ngừng kể, đưa tay lên lau nước mắt, vợ chồng tui ngồi lặng thinh, không tìm được lời nào chia xẻ cùng Phong. Uống một hơi cạn lon bia, Phong tiếp tục kể:

- Tuần lễ sau, ba tui ngã bịnh, sốt cao và trong bao tử như có hằng vạn con kiến lửa đang cắn, bụng đói, ăn vào càng đau thêm. Thuốc nam, thuốc gia truyền, xuyên tâm liên đã làm ba tui kiệt sức.

- Đau quằn quại và túng thiếu trăm bề, vay mượn những tá điền cũ. Lần nào thăm nuôi ba tui cũng cố gắng gửi đồ tiếp tế nhờ chị mang lên trại giùm.

- Ngày tui được thả, ba tui như bộ xương khô, hai hố mắt sâu quắm. Tui vay tiền chở ba tui đi nhà thương, soi X. quang, bác sĩ cho biết toàn thể mặt dạ dày bị nhiều cọng tóc đâm vào mưng mủ thành ghẻ như vỏ mít. Mấy năm nay ba tui đau đớn vô cùng, suốt ngày đêm chỉ ăn cháo loãng cầm hơi.

- Một buổi chiều, mặt trời vừa lặn, tui đang đốt đèn, giọng khào khào ba tui bảo tui ngồi xuống chiếc giường tre, ra dấu đỡ ông ngồi dậy, thều thào, ông nói:

- Con phải trả thù cho ba!

Sau khi kể hết đầu đuôi câu chuyện bị Mười Thụ bắt ăn hết tô cháo và nói rõ cây cột bên trái sát bàn thờ nhìn ra sân có chôn một hộp lớn vòng vàng, cẩm thạch, kim cương.. Nói xong ba tui mệt lắm, chồm ra mép giường ói một vũng máu và tắt thở trên tay tui.

- Chôn cất ba tui xong, mộ nằm trên nền chuồng trâu, tui ra chợ huyện vào kho lúa xin một chưn bốc vác. Thỉnh thỏang về thăm nhà, đốt nhang trên mộ cho ba tui.

- Vợ chồng Mười Thụ than phiền tui thường vắng nhà, phía sau ruộng không có người nên kẻ gian thường dùng chài lưới bắt nhiều cá vồ.

Lần nào về thăm nhà tui đều mua bánh kẹo cho mấy đứa nhỏ, đồng thời tui kiếm chuyện lân la đẻ biét đường đi nước bước của Mười Thụ. Tình cờ được vợ Mười Thụ cho biết ngày mùng hai, y thị và mấy đứa nhỏ về đám giỗ bên ngoại, ba bữa mới về. Mười Thụ về giữ nhà một mình. Khuya hôm đó, sau khi vợ con Mười Thụ xuống đò đi rồi, Phong lên gõ cửa nói lớn cho Mười Thụ biết đã bắt được hai thằng chày trộm cá vồ, đang cột chúng ngoài gốc so đũa dưới triền ruộng.

Tiếng Mười Thụ hưng phấn từ trong nhà vọng ra:

- Tụi bây kể như chết mẹ với tao rồi!

Mười Thụ tay bưng đèn dầu, tay xô cánh cửa cái vừa mở. Nhanh như sóc, tui thọt cây mác vào bụng dưới Mười Thụ, dùng hết sức bình sanh hai tay câu cây mác, Mười Thụ hỏng giò, bụng xé một đường dài, ruột gan tuôn hết ra ngoài. Sau khi kêu được mấy tiếng hộc ..hộc … hộc như con heo bị thọc huyết. Tôi đạp Mười Thụ té xuống và đâm tiếp mấy nhát vào tim, máu ra lai láng thành vũng dưới nền nhà. Xong đời một tên cộng sản gian ác, tập kết mang về từ mạn ngược, trung du ..Bắc Việt, lối giết người dai dẳng, đau đớn, tàn bạo mà hung thủ chẳng tội tình gì!

Tui xởn một mớ tóc Mười Thụ bỏ vào túi quần, đào lấy ra từ chưn cột một hộp vàng nặng gồm nhiều lượng vàng… dây chuyền, kiềng, nhiều vòng đeo tay nạm cẩm thạch và kim cương. Tui chạy nhanh về nhà để mớ tóc Mười Thụ vào trong dĩa, đặt trên bàn thờ ba tui, đốt nhang và khấn vái:

–Thưa ba, con đã trả được thù cho ba rồi, xin ba phò hộ cho con vượt biên suôn sẽ.

Tui lấy hình ba tui xuống hôn, nhét vội vào ba lô cùng mớ quần áo và hộp vàng. Tui băng đường ruộng rời khỏi nhà giữa đêm khuya. Nâng lon bia lên, tay trái vỗ nhẹ vào vai Phong tôi nói trong xúc động

- Anh chị thành thực chia buồn trước thảm cảnh gia đình chú, tội nghiệp bác trai quá đi thôi!

Anh xin kể tiếp những sự việc liên quan đến sau đêm Mười Thụ bị giết.

Tui kể cho Phong nghe công an huyện bắt giam tui một tuần lễ để điều tra như tui đã kể đầu câu chuyện.

Nghe xong, Phong từ tốn nói:

- Lúc ở tù , chị gian nan gồng gánh mang đồ tiếp tế thăm nuôi giùm em, lúc em giết kẻ thù, anh chị bị liên can ở tù cả tuần! Thiệt em có lỗi và mang ơn anh chị nhiều quá!

Ăn cơm xong, rót cho Phong tách trà và Phong kể tiếp

- Trưa hôm đó, em qua tới Cần Thơ bán một lượng vàng, em trả tiền hào phóng để xuống ghe của hai vợ chồng trẻ lên biển Hồ mua cá làm mắm. Sang đến Campuchia em tốn hai lượng vàng để trốn dưới hầm tàu buôn đến Thái Lan. Cảnh sát Thái dưa em vào trại tập trung. Sáu tháng sau em được phái đoàn Mỹ phỏng vấn, em còn đầy đủ giấy tờ cùng hình ảnh nhảy toán với cố vấn Mỹ, do ba em chôn giấu. Phái đoàn chấp thuận cho định cư ở Mỹ, em ở thành phố Buffalo Tiểu Bang New York, vẫn còn độc thân, cu- ky một mình.

Nhân dịp này, em mời anh chị cùng các cháu mùa hè nầy sang chơi một chuyến, từ nhà đến thác Niagara chỉ một giờ lái xe. Anh chị giúp em làm cử chỉ đẹp để đền ơn đáp nghiã với anh chị coi.

- Vợ chồng tôi hứa sẽ sang thăm chú.

Phong ở chơi với gia đình chúng tui ba ngày, hôm đưa Phong ra phi trường, bắt tay chúc chúc gia đình tui nhiều may mắn và phát đạt, với ánh mắt long lanh Phong nói:

- Anh xem cộng sản tàn ác đối với nhân dân miền Nam mình như thế nào? Tù đày, kinh tế mới rừng thiêng nước độc, cướp ruộng vườn, nhà cửa. Mở chiến tranh sang Campuchia biết bao thanh niên chết, cụt chưn tàn phế… Và chỉ với một tô cháo trộn tóc no đủ làm gia đình em lụi tàn luôn. Ba em chắc đã ngậm cười nơi chin suối khi em đã trả được thù cho ông. Cộng sản nếu bắt được, chắc chúng nó sẽ bằm xác em cho vịt ăn lắm. Bắt tay tôi lần nữa, Phong quay long bước nhanh vào cầu thang phi cơ.

Trên đường lái xe một mình trở về nhà, hình dung hằng vài đoạn tóc ngắn đâm vào bao tử ba Phong, đớn đau tột cùng ! Bỗng dưng tui rùng mình và nhớ đến câu nói của một triết gia:

” Hai con lừa chửi nhau, nếu ta nghe được tiếng lừa. Câu thậm te nhứt của con lừa nầy chửi con lừa kia là: ” Mày là đồ người”!

Chiều xuống thiệt nhanh, xa lộ đã lên đèn sáng trắng như một dòng sông, chảy miết về phía trời xa…


TƯỜNG LAM

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23572
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Apr/2025 lúc 1:51pm

Chuyến Bay Cuối Cùng Từ Đà Nẵng - Larry Engelmann


Ngày 29/3/1975 đáng lẽ nhân viên khách sạn Sài Gòn phải đánh thức tôi dậy lúc 5 giờ sáng. Tôi là tiếp viên trưởng của một chuyến bay khứ hồi ra Đà Nẵng. Nhưng 5 giờ sáng hôm ấy không có ai đánh thức tôi dậy. Khoảng 6 giờ sáng mới có điện thoại của Val Witherspool, một nữ tiếp viên khác. Cô ấy bảo: “Chị xuống ngay phòng đợi khách sạn trong vòng 5 phút.” Khoác bộ đồng phục, tôi lập tức chạy xuống cầu thang. Ông Ed Daly và Val đang chờ tôi ở dưới nhà. Bruce Dunning, làm việc cho hãng tin CBS cũng đã có mặt. Tôi bảo Bruce: “Bọn này phải ra Đà Nẵng”. Anh ta nói: ’’Có tin thành phố này rơi vào tay Bắc Việt rồi”. Tôi nói: “Nếu thành phố này đã mất thì chúng tôi đâu có đi”. Bruce yêu cầu được đi theo chuyến bay. Ông Daly bảo: “Muốn đi thì đi. Có mặt ở phi trường Tân Sơn Nhất trong vòng một giờ đồng hồ nữa.”


Bruce tập họp Mike Marriotte, chuyên viên quay phim và Mai Văn Đức, chuyên viên âm thanh, rồi chở họ ra phi trường. Chúng tôi bước lên chiếc World Airway Boeing 727. Là tiếp viên trưởng, tôi được thông báo là sẽ có một hay hai tiếp viên người Việt đi thông dịch, sẽ có binh sĩ bảo vệ để đương đầu với đám đông. Hôm trước, chúng tôi đã gặp khó khăn ở Đà Nẵng, và chúng tôi cũng sẽ phải mang theo nước ngọt, nước cam, bánh mì săng-uých cho hành khách.

Vừa vào phi cơ, tôi nói với Val và Atsako Okuka, một nữ tiếp viên khác: “Các bạn hãy xem xét ngay mọi thứ.” Chúng tôi thấy không có đồ ăn thức uống. Đó là dấu hiệu đầu tiên cho biết một cái gì bất thường đang xẩy ra… Không nước ngọt, không nước cam, không bánh mì, không đồ ăn thức uống trên phi cơ. Cũng không có tiếp viên người Việt, cũng chẳng có binh sĩ bảo vệ nào hết.

Chúng tôi thảo luận xem có nên bay ra hay không. Lúc ấy Daly và phi hành đoàn đã lên phi cơ rồi. Dunning và toán làm tin CBS cũng vậy. Hai nhân viên cơ quan USAID leo lên. Họ trấn an chúng tôi là mọi việc ở Đà Nẵng cũng tốt thôi, không cần gì đến binh sĩ bảo vệ.

Lúc đó 8 giờ sáng, quá muộn so với giờ ấn định máy bay cất cánh. Ông Daly quyết định cứ đi Đà Nẵng để đón một số người tỵ nạn gồm đàn bà và trẻ em mà khỏi cần đến binh lính hộ tống hay thông dịch viên.

Chuyến bay ra khá êm. Chúng tôi mang theo một nhà báo người Anh và một người nữa của hãng tin UPI. Trong chuyến bay chúng tôi chuyện trò thân mật với nhau.

Phi cơ bắt đầu đổi cao độ để hạ xuống Đà Nẵng. Theo kế hoạch, sau chúng tôi 20 phút sẽ có một chuyến World Airway 727 khác do Don McDaniel lái. Sau anh ta, lại một chuyến 727 nữa do Dave Wanio điều khiển. Chúng tôi dự tính sẽ đậu từ 10 đến 15 phút để lấy khách rồi cất cánh, để chuyến thứ hai, rồi thứ ba đáp xuống. Với cách ấy chúng tôi có thể đem đi được 3 chuyến trong vòng dưới một tiếng đồng hồ.

Nhưng khi hạ cánh có một cái gì rất lạ lùng.

Không hề thấy một bóng người.

Không một ai, cả phi trường hoàn toàn hoang vắng. Đột nhiên trong lúc phi cơ đang “chạy taxi” trên đường vào bến, đoàn người chợt xuất hiện. Họ chạy ào ra từ những nhà chứa máy bay. Hàng ngàn con người – tôi nói đúng nghĩa là hàng ngàn con người đua nhau chạy đến chúng tôi – Họ chạy bộ, chạy xe gắn máy, chạy xe thùng, xe Jeep, xe hơi, xe đạp… Họ chạy đến phía chúng tôi bằng bất cứ phương tiện nào họ kiếm được.

Chúng tôi đã có một kế hoạch là ông Daly và Joe Hrezo, trưởng trạm của hãng World Airways sẽ ra khỏi phi cơ. Họ sẽ lo việc sắp hàng hành khách ở lối vào cầu thang phía sau. Tôi sẽ đứng ở phía trước phi cơ, Atsaco ở giữa còn Val đứng ở khoảng sau.

Chúng tôi cho phi cơ chậm lại. Lúc ấy tôi đang đứng trong phòng lái nhìn ra cửa sổ trước, chợt thấy có điều kỳ lạ. Một nhóm người lái chiếc xe vận tải nhỏ đuổi bên cạnh chiếc tàu bay. Một người đàn ông nhảy khỏi xe, chạy đến trước chúng tôi. Tôi nhìn về phía anh ta, lúc ấy chúng tôi đang đi chậm, anh ta rút một khẩu súng lục, bắn vào chúng tôi.

Đột nhiên tôi có cái cảm giác kinh dị y như đang đứng giữa khung cảnh của một phim cao bồi. Tôi đã nghĩ rằng: “Tại sao họ bắn chúng tôi? Chúng tôi là những người bạn tốt!”

Chúng tôi cho tàu chạy khỏi người đàn ông có súng và đi chậm lại ở phía xa. Bây giờ tôi bắt đầu chờ người khách đầu tiên lên phi cơ. Chúng tôi dự tính sẽ cho họ ngồi vào ghế, bắt đầu từ những hàng trước, lần lượt đến phía sau, sẽ sắp đặt họ trong vòng trật tự.

Rồi những người lính bắt đầu lên.

Họ chạy xồng xộc với cặp mắt man dại. Chừng chín người lính đã lên, tôi xếp họ ngồi vào ghế. Rồi người thứ mười lên, nhưng hắn không chịu ngồi. Hắn bị kích động, cứ chạy lên chạy xuống la lớn bằng tiếng Anh: “Bay đi! Bay đi! Bay đi! Chúng nó sắp pháo kích vào phi trường kìa!” Hắn cứ la hét như thế mãi. Tôi nắm lấy hắn, tôi cũng hét lên: “Im mồm, tôi bảo ông ngồi đâu thì ông ngồi xuống đó.” Tôi đẩy hắn xuống ghế.


Nhưng có điều lạ: rất ít người lên phi cơ. Vì vậy tôi nghĩ cần phải ra sau xem có chuyện gì… Tôi thấy Daly dưới chân cầu thang đang bị dằn xé. Áo ông rách vụn. Joe Hrezo biến đâu mất. Val đang cố giúp Daly lôi người lên cầu thang trong lúc tàu bay cứ tiếp tục chạy trên phi đạo. Còn dưới chân thang, hàng trăm người tuyệt vọng, điên cuồng, la hét cố bấu víu lấy Val và Daly. Đoàn người tiến đến không ngừng. Họ từ khắp phía, chạy đến cầu thang không ngớt. Tôi leo xuống. Daly ở dưới thang, ông cố lập trật tự bằng khẩu súng lục vung lên trời. Val cố giúp những người đang leo qua cạnh cầu thang. Một gia đình 5 người chạy đến phía tôi cầu cứu. Đó là bà mẹ, ông bố, hai đứa con nhỏ, một trẻ sơ sinh còn ẵm trên tay mẹ. Tôi có thể nhìn rõ nét sợ hãi trên khuôn mặt khi họ cố chạy đến phía tôi. Tôi quay lại định nắm tay người mẹ kéo lên. Trước khi tôi kịp nắm tay bà, một người đàn ông đứng sau đã nổ súng vào 5 người này. Họ ngã gục cả xuống, đám đông đạp ngay lên xác họ. Cái hình ảnh cuối mà tôi thấy là họ biến mất dưới chân đám đông. Chỉ vài tiếng nổ lớn, họ biến mất, tất cả những người ấy. Còn gã đàn ông vừa bắn xong đã đạp ngay lên thân họ để leo tới cầu thang. Hắn đè lên mọi người, chạy vào lòng phi cơ. Tất cả mọi thứ quá sức hỗn loạn điên cuồng. Tôi còn nhớ vào giây phút điên dại ấy, tôi nghĩ: “Chốc nữa sẽ tính chuyện này”, tôi tiếp tục kéo người lên phi cơ. Chợt cảm thấy một người đàn bà đang níu tôi từ phía hông cầu thang, bà nắm cánh tay tôi, cố lọt lên bực thang. Tôi muốn giúp bà ta nhưng cũng sợ bị rơi tuột khỏi thành cầu. Tôi bèn quay lại nắm cánh tay người đàn bà, kéo qua thành cầu. Nhưng một người đàn ông ở phía sau đã níu lấy, giựt bà khỏi tay tôi. Khi bà rơi xuống, người đàn ông kia đạp ngay lên lưng, lên đầu người đàn bà để leo lên thang. Hắn dùng người đàn bà như một hòn đá kê. Daly nhìn thấy chuyện xảy ra. Liền khi gã đàn ông tung được chân qua thành cầu, Daly nắm khẩu súng đập một cú vào đầu gã. Tôi nhớ lúc ấy đột nhiên tôi thấy vòi máu vọt ra, gã đàn ông rơi xuống, người ta đạp lên hắn. Tôi nhớ tôi đã nghĩ: “Đáng kiếp”. Gã đàn ông này biến mất dưới bàn chân dày xéo của đám đông.


Lúc ấy người đổ ùn ùn vào phi cơ, tôi chạy trở vào xem Atsatko có xếp nổi chỗ ngồi không. Cô nắm lấy tay tôi, bảo: “Trưởng tàu Ken Healy đang cần chị”. Tôi đến phòng lái gõ cửa. Cửa mở, Trưởng tàu Healy bảo: “Joe Hrezo đã lạc khỏi phi cơ. Khi nào hắn trở lại được cho biết.” Tôi đáp: “OK.” Chuyện xảy ra là Joe và thông tín viên người Anh đã bị đám đông kéo tuột khỏi tàu, không trở vào được nữa. Chúng tôi lạc mất cả hai người. Joe tự chạy tới đài kiểm soát không lưu, người kiểm soát viên cho anh ta vào. Sau đó Joe liên lạc được với máy bay. Ken Healy cho biết chúng tôi sẽ “chạy taxi” đi rà trên đường vào bãi và yêu cầu Joe phóng ra khi máy bay tới gần. Chúng tôi sẽ không dừng một giây nào. Liền khi Joe lọt vào phi cơ, chúng tôi sẽ cất cánh. Trưởng tàu Ken Healy bảo: “Khi thấy chắc chắn Joe vào phi cơ rồi, gõ lên cánh cửa cho tôi hay”. Tôi đi sau, bảo Val: ”Val, canh chừng cầu thang, thấy Joe vào thì giơ tay, tôi sẽ ra hiệu cho Ken biết.”

Trong khi đợi phi cơ chạy qua đài kiểm soát, người ta tiếp tục ào tới. Chúng tôi ấn họ xuống, 5, 6 người một ghế. Trong lúc làm việc, tôi nhớ là đã tự hỏi: “Thế còn đàn bà, trẻ con đâu hết?” Hóa ra, mọi hành khách đều là binh sĩ. Sau đó, tôi đếm chỉ có 11 người đàn bà và trẻ con. Tất cả chỉ có thế! Còn lại đều là binh sĩ…

Mọi người ngồi trên ghế với những bộ mặt căng thẳng. Gã khùng vẫn tiếp tục la lối: “Bay đi! Bay đi! Bay đi!”

Khi tàu đến gần đài kiểm soát. Daly vẫn còn đâu đó dưới cầu thang để kéo người vào. Tàu chạy rà qua đài kiểm soát được một lát, Val quay người lại, giơ tay lên. Tôi gõ vào cửa phòng lái. Phi cơ bắt đầu rồ máy. Chúng tôi gia tăng vận tốc. Gã khùng lúc trước la lối đòi bay, bây giờ sợ hãi thét lên: “Ối! Ối! Tàu bay đang cất cánh trên cỏ.”

Thật ra, chúng tôi chạy để cất cánh từ phi đạo, lối vào bãi đậu, và Ken đã rồ máy để cảnh cáo người ta tránh ra, nếu không chúng tôi sẽ cán qua mà chạy.

Phi cơ leo lên cỏ vì đã vào cuối đường bến, không còn cách nào trở lại được. Chúng tôi cứ tăng tốc lực bay vượt lên, do đó đã đụng phải một chiếc xe và một cọc hàng rào gây hư hỏng cho cánh phi cơ. Nhưng hư hỏng trầm trọng nhất là do đạn và lựu đạn ném vào một bên cánh. Ở trong phi cơ, chúng tôi không thấy được hư hại, không rõ tình trạng thế nào. Nhưng trưởng tàu Ken Healy biết rất rõ.

Dầu thế, chúng tôi vẫn phải bay lên. Phải thoát khỏi Đà Nẵng. Chưa một giây phút nào tôi nghĩ là không thể thoát. Không ai có thì giờ để nghĩ những điều như vậy giữa cơn rối loạn. Sau này tôi khám phá được suýt chút nữa chúng tôi đã không thoát. Đáng lẽ chúng tôi đã mất mạng vì các hư hỏng của phi cơ. Với 358 con người ở lòng tàu, còn lại 60 người khác trong khoang chở hàng, có cả người mắc trên bánh xe. Chiếc máy bay này thật sự chỉ dùng để chở có 133 hành khách thôi.


Sau này Ken Healy gởi cho hãng Boeing những con số thống kê liên hệ đến chuyến bay. Người ta cho chạy điện toán rồi bảo chúng tôi: Theo cách tính của họ, phi cơ chẳng thể nào cất cánh. Vậy mà chúng tôi đã cất cánh được. Sau Ken cũng gởi cho Boeing một điện tín khác, nói: “Quý ông quả đã chế được một cái tàu bay tốt hết xảy.”

Sau khi cất cánh, tôi bắt đầu đếm hành khách. Tôi chú ý một người ngồi ghế trước, mặt tái xanh, bị thương nặng, ruột đổ lòng thòng. Tôi dùng tay nhét đại ruột vào, giật cái khăn trên cổ một người nào đó quấn quanh bụng ông ta lại. Tôi kéo thùng cứu thương xuống. Thuốc men mất đâu cả từ Sài Gòn. Chúng tôi không có bất cứ một vật dụng y khoa nào trên tàu. Trống trơn. Không thuốc men bông băng gì. Sau khi tạm ổn thỏa với người đàn ông ghế trước, tôi nhìn ra lối đi, thấy một người khác đang bò lết đến bên tôi. Tôi nhận ra gã, đầu bê bết máu. Máu vấy đầy mặt. Chính là gã đàn ông đã kéo người đàn bà ra khỏi tay tôi. Đó là gã đàn ông bị Daly nện với khẩu súng lục. Lần sau chót tôi thấy hình ảnh người đàn bà bị nghiến trên mặt đất. Cũng lần sau chót tôi thấy gã đàn ông này bị đám đông đạp lên. Vậy mà sao gã cũng lết được vào phi cơ? Bây giờ gã đang bò. Tôi nhớ đó là lần duy nhất trong ngày tôi đã cầu nguyện, tôi cầu: “Lạy chúa. Xin đừng để cho gã này tiến lại gần con”. Gã cứ lồm cồm lết đến. Gã nắm lấy ống quần tôi. Gã nhìn lên tôi. Gã chỉ nói: “Xin cứu tôi”

Thế là tôi nắm đại một người, kéo khỏi ghế, tôi giúp gã ngồi vào ghế. Đầu gã nứt, tôi có thể nhìn thấy bên trong máu lầy nhầy. Không có gì để cầm máu cả. Tôi biết nếu tôi không giúp cho máu cầm lại, gã sẽ chết ngay trên tay tôi. Một người lính ngồi bên cạnh mặc cái áo tác xạ. Tôi xé toạc cái áo, bốc một nắm mạt cưa nhét vào vết thương. Tôi cứ nhồi mãi mạt cưa vào để chận vòi máu. Chắc chắn giới Y khoa Mỹ sẽ giật mình với phương pháp này, nhưng nó đã tỏ ra hữu hiệu. Tôi giật lấy cái sơ mi của một người khác, buộc quanh đầu gã để giữ mạt cưa lại…

Gã được bình yên suốt chuyến bay. Gã thật mạnh, không bị bất tỉnh lần nào. Tôi đi về phía sau lần nữa, thấy Val, Daly và Joe Hrezo đang cố kéo một người đàn ông mắc kẹt trong cầu thang sau. Cửa máy bay sau không đóng được. Người ấy bị kẹt trong thang, gẫy chân. Sau cùng họ lôi được người này ra, mang vào trong phi cơ. Val và tôi cố bó cái chân gẫy với một miếng gỗ – Lúc ấy Joe bảo tôi rằng thông tín viên người Anh không trở lại được. Anh ta bước ra phi đạo Đà Nẵng để thu hình đám đông, rồi vô phương trở vào phi cơ trong lúc rối loạn. Anh ta còn ở trong đài kiểm soát. Ken Healy hứa sẽ có một chiếc trực thăng Air America đến đón. Về sau, anh ta cũng đã trở vào được Cam Ranh. Val, Atsako và tôi tiếp tục cấp cứu cho mọi người trên tàu. Việc này chiếm hết thì giờ và tôi đoán là khi đã bay được một giờ đồng hồ thì chúng tôi mới bắt đầu nhìn đến các hành khách khác không bị thương. Tôi thấy vẻ kinh sợ trên mặt họ. Cuối cùng, họ nhận thức được họ đã làm những gì. Họ bắt đầu hỏi: “Còn những chuyến bay khác nữa không?”


Chúng tôi trấn an bằng cách nói thác: “Còn chứ, còn nhiều chuyến nữa.” Những người này bây giờ đã hiểu ý nghĩa việc bắn giết đồng bào để leo vào chuyến bay. Bây giờ họ ân hận. Đành nói dối thôi, chứ chúng tôi cũng biết sẽ không còn chuyến nào ra Đà Nẵng nữa. Đây là chuyến chót. Những người đi sau không ra nữa. Ken Healy đã liên lạc với Don McDaniel của chuyến 727 kế, bảo anh ta đợi chúng tôi ở Phan Rang, và bảo anh ta điện cho Dave Wanio quay lại Sàigòn để sửa soạn việc hạ cánh khẩn cấp. Tàu chúng tôi hư hỏng nặng, Ken không dám chắc bánh xe buông xuống được khi chúng tôi xuống Sàigòn. Tôi hiểu điều đó có nghĩa gì.

Trong lúc ấy, phi cơ nóng kinh khủng mặc dù thang máy bay phía sau vẫn hạ xuống, cửa sau vẫn mở trống hốc. Người ta không thể thở nổi trong máy bay với chừng ấy con người – chúng tôi nhờ Đức, chuyên viên âm thanh của CBS luôn luôn nhắc nhở bằng tiếng Việt trên máy phát thanh là “Yêu cầu đừng hút thuốc.” Hành khách tuyệt đối cấm hút thuốc, và nếu có người hút thuốc là hỏa hoạn sẽ xảy ra lập tức.

Sau công tác cứu thương cho hành khách, tôi nhận ra trên máy bay không có gì cho họ uống. Nhưng có một ngăn nước đá đã chảy, bây giờ đầy nước lạnh. Tôi bảo Bruce Dunning xé tấm màn ra từng miếng vải vuông nhỏ, nhúng nước. Tôi lấy những mảnh vải ướt, đi lên đi xuống chuyển cho hành khách tạm thời lau mặt. Người nào cũng nhễ nhại mồ hôi. Tôi bảo Val và Atsako làm một cái gì để nâng tinh thần những người này. Sau những gì họ đã làm với chính các bè bạn, chiến hữu họ, sự xúc động đang chậm chạp kéo đến dày vò họ. Họ đã bỏ gia đình. Họ đã giành giật, bắn giết nhau để lấn vào tàu. Bây giờ cơn náo loạn biến mất, nhận thức về cái ghê tởm đã xảy ra đang ngấm dần.

Vì thế, chúng tôi đi quanh, nói chuyện, vỗ vai, chùi mặt mày, lau tay, cố làm một vài điều giúp họ thoải mái đôi chút.

Lúc ấy, tôi cũng chết khát. Daly đến bên, mở áo sơ mi ló ra cho thấy một chai coca. Ông bảo “ra phòng lái.” Tôi đi ra phòng lái, ngồi xuống ghế quan sát viên, Daly tiến đến với một chai coca. Ông mở nút đưa tôi. Tôi nhớ tôi đưa chai coca lên miệng, nhưng nước cứ trào khỏi cằm, chảy xuống bộ đồng phục. Tôi không nuốt nổi. Chúng tôi chuyền cái chai coca độc nhất quanh phòng lái. Một lần nữa, Ken Healy nói với tôi về các hư hỏng của chiếc tàu bay. Ông bảo không dám chắc cái bánh xe mũi có thể buông xuống được, nếu nó xuống được, chưa chắc sẽ chịu đựng được thân tàu. Ông báo động: phải sẵn sàng đối phó bất cứ điều gì khi hạ cánh xuống Sàigòn.


Tôi trở lại khoang hành khách, phục vụ loanh quanh. Chợt mọi người đều xúc động nhìn qua phía trái. Chúng tôi đã bay đến Phan Rang. Don McDaniel và phi hành đoàn đang bay ở cao độ 35,000 bộ, họ đang chờ chúng tôi. Cuối cùng họ thấy một chấm đen ở phía dưới, họ nhận ra chúng tôi và đang bay xuống phía chúng tôi. Chúng tôi nhìn ra cửa sổ. Ngoài kia, tương phản với bầu trời xanh tuyệt vời, trên đám mây trắng nõn là chiếc tàu bay World 727 xinh đẹp màu đỏ và trắng. Một cảm giác sảng khoái đột nhiên chạy qua khắp chiếc tàu, và lúc ấy tôi biết cái cảm giác này cũng đi suốt qua tôi. Chúng tôi biết một chiếc phi cơ chị em đã tìm ra chúng tôi. Chúng tôi sẽ an toàn vì cô chị chúng tôi nay đang hộ tống chúng tôi trở về bình an.

Thế là anh chàng Don McDaniel lái chiếc tàu bay của anh ta lượn quanh chiếc tàu bay chúng tôi để lượng giá những hư hỏng. Anh ta gọi Ken Healy, bảo “’Hình như có một xác chết lủng lẳng trên bánh xe của bạn.” Ken đã hỏi anh ta về việc đó. Một người bị cán khi bánh xe lùi lại. Nhưng cái chết của người này đã cứu mạng sống của tám người khác dưới guồng bánh xe vì xác chết đã cản cần máy lại, không làm cho bánh xe lùi thêm nữa.

Như vậy lúc đó chúng tôi biết sẽ phải đương đầu với nhiều vấn đề gây ra bởi bánh xe. Các cửa khoang chở đồ mở toang, cầu thang sau còn treo thòng xuống, cửa sau cũng mở trống, vành xếp của cánh máy bay bị đạn bắn sẽ không hoạt động khi hạ cánh. Chúng tôi đang ở tình trạng khó khăn nghiêm trọng.

Phi cơ tiếp tục bay về Sàigòn.

Tôi nói với Val “vào phòng rửa mặt,” ở đây tôi nói cho Val biết những cái trục trặc của tàu bay. Lúc hạ cánh, tôi sẽ ngồi hàng ghế trên, Val sẽ ngồi sau khoang phi cơ. Tôi bảo không biết chúng tôi thoát được không. Tôi dặn dò vài điều nhắn cho gia đình tôi trong trường hợp Val sống sót và nếu tôi không thoát được. Tôi bảo “Hãy cho gia đình tôi biết mọi sự cũng ổn thôi. Tôi đã không hề sợ hãi gì.“ Tôi không khóc. Cô cũng vậy. Người ta không có thì giờ dành cho xúc cảm, mà hiển nhiên đây là lúc đầy cảm xúc, nhưng người ta đành phải giấu đi thôi.

Thế rồi phút cuối cùng của chuyến bay phải đến. Từ sau thân tàu, tôi bắt đầu đi lên, và đây là lúc một hành động tự phát xuất hiện. Một người đàn ông trao vào tay tôi khẩu M.16. Anh không nói tiếng Anh, tôi không nói được tiếng Việt, tôi không rõ anh ta muốn gì. Nhưng rồi tôi hiểu: anh muốn tôi hãy nhận lấy khẩu súng của anh. Vì thế tôi khoác cái khẩu súng khốn nạn lên vai, trong lúc bước đi, người ta bắt đầu trao thêm cho tôi mọi thứ khác. Khi đến phòng lái, trên vai tôi đã có vài khẩu M.16 lủng lẳng, một băng đầy đạn, một nắm đạn rời. Một vài người đã trao một hay hai viên, vài người khác trao cho tôi nhiều hơn, tôi còn có hai khẩu súng lục treo trên ngón tay. Chính lúc ấy – khi tôi đang nắm những viên đạn nhỏ và những thứ vũ khí trong tay – đột nhiên một cảm giác rõ rệt bừng ra – cuộc chiến của những người này đã chấm dứt. Họ không muốn súng đạn hay bất cứ gì nữa. Điều ấy thực chua chát: chính họ cũng đã ở cuối đường.

Khi tôi gần đến phòng lái, một gã khùng đặt một quả lựu đạn lên trên các thứ trong tay tôi. Tôi nhìn xuống, tự nghĩ “Trời ơi – một quả lựu đạn!” Phản ứng bản năng tôi là định xoay người, ném xuống phía sau máy bay. Nhưng tôi sợ nó đụng cầu thang phát nổ, tôi nghĩ “Chúa-ơi-tôi-sẽ-làm-gì-với-những-thứ-này?” Tôi đi về phòng lái, đá cửa. Charlie Stewart, kỹ sư chuyến bay mở ra. Tôi nói với anh: “Charlie, cầm lấy mấy cái này!” Tôi chưa bao giờ từng chạm tay đến một quả lựu đạn. Charlie cầm lấy. Anh ta và Mike Marriott vội tìm băng keo quấn lại. Họ quấn băng keo quanh quả lựu đạn, và mọi thứ tôi mang vào. Nếu lỡ có gì phát nổ, họ muốn bọc bớt lại càng nhiều càng tốt.


Đã đến lúc hạ xuống Sàigòn. Tôi gọi Mike Marriott tới bên cửa hông, chỉ cho anh cách mở cửa khẩn cấp và cách bung cầu tuột. Thông thường, đó là việc của Atsako, nhưng cô là tiếp viên mới, tiếng Anh không thạo, không chắc cô sẽ đối phó được trường họp khẩn cấp. Cho nên tôi muốn có một người đàn ông ngồi đấy.

Lúc tôi đang ngồi ở ghế trên với Bruce Dunning thì Daly từ phòng lái bước ra, ông yêu cầu Bruce xuống phía sau tàu. Ông muốn Bruce mang các phim ảnh quay được ở Đà Nẵng ra phía sau, nếu không ai sống sót thì các phim ảnh vẫn phải được bảo toàn. Tất cả đều cảm thấy mãnh liệt: Nếu chúng tôi không thoát, thế giới vẫn cần phải biết những gì xảy ra hôm ấy.


Daly đến, ngồi xuống cạnh tôi. Ông hỏi tôi có biết gì tình trạng chiếc máy bay không. Tôi nói biết. Ông hỏi tôi có sợ không. Tôi nói “Không, tôi không sợ chết.” Ông choàng cánh tay ôm tôi, nói “Cô bảnh lắm. Tôi sẽ đãi cô nhậu một chầu nếu mình thoát tới Sàigòn.” Tôi nói “Ông Daly, nếu sống sót, xin ông mua cho tôi một két bia.” Ông ta cười.

Rồi Daly lại bảo tôi “Những người này không hề biết súng của tôi trống rỗng.” Ông đã bắn hết đạn trong lúc cố duy trì trật tự ở cầu thang máy bay tại Đà Nẵng. Ông bảo “Tôi sẽ giữ khẩu súng để kiểm soát họ khi hạ cánh, như thế cô sẽ có thì giờ mở cửa và bung cầu tuột.” Tôi đáp “Tốt lắm.”

Chúng tôi bắt đầu một cuộc hạ cánh khá dài để xuống Sàigòn. Phi cơ bay hơi nhanh, tất nhiên không nên bay nhanh như vậy để hạ cánh, nhưng chúng tôi không điều chỉnh được vành xếp ở cánh. Và tôi ngồi ở cái ghế đặt ngay vị trí bánh xe mũi, ngồi đấy, tôi có thể cảm thấy bánh mũi có hạ xuống không? Có chống được thân tàu hay không? Rồi tôi cảm thấy bánh xe chính chạm phi đạo, tôi thấy phi trường bay vượt qua. Tôi cố chờ để cảm thấy cái bánh xe mũi hạ xuống mặt đường. Nhưng Ken đã giữ cho mũi máy bay cách khoảng mặt đất thật lâu. Tôi không hiểu làm thế nào anh đã giữ được như thế. Bỗng tôi thấy các tòa nhà vút qua. Tàu chúng tôi đang chạy ngay trên phi đạo. Tôi hiểu bánh mũi đã hạ và chịu đựng được. Thế mà tôi không cảm thấy nó hạ xuống lúc nào. Ken đã khéo léo điều khiển chiếc 727 đáp xuống Sàigòn một cách nhẹ nhàng như thế. Rồi phi cơ cứ vùn vụt chạy trên phi đạo, vì chúng tôi không thể ngừng. Cảm ơn Thượng Đế, Sàigòn có được cái phi đạo dài 14,000 bộ! Bốn chiếc xe cứu hỏa chạy nhanh, kèm bên chúng tôi. Cuối cùng, chúng tôi quẹo qua đường vào bến. Phi cơ ngừng, không tỏ dấu hiệu rõ rệt nào là có sự nguy khốn cả. Tôi nhảy ra, mở cửa, nhưng không bung cầu cấp cứu. Joe Hrezo đã đứng trên mặt đất, hẳn anh ta đã chạy xuống bằng thang sau. Cùng một lúc, Joe và tôi la lên: “Xe tải thương, cáng cứu thương! Chúng tôi cần xe tải thương, cáng cứu thương.”

Người ta mang cầu thang đến cửa trước. Mọi người bên trong ngồi im lặng. Qua máy phóng thanh, Đức nhắc đi nhắc lại: “Ngồi yên, đừng di chuyển.” Không ai nhúc nhích. Sau đó chúng tôi bắt đầu chuyển người ra. Tôi nhớ có một người đàn ông châm một điếu thuốc. Ngay khi anh ta tới cửa trước, tôi yêu cầu anh không được hút thuốc vì có xăng. Anh ta ném điếu thuốc, dí chân lên điếu thuốc cháy đỏ. Tôi thấy anh ta đi chân không. Tôi nghĩ “Chúa ơi, thế thì đau lắm.” Nhưng anh không cảm thấy. Không ai trên tàu còn cảm thấy gì nữa.


Hầu hết hành khách được lùa sang một bên. Cáng tải thương mang vào tàu, họ khiêng người đàn ông với vết thương nặng trên đầu, rồi khiêng người đàn ông bị đổ ruột. Khi mọi người ra hết, chúng tôi bắt đầu kiểm điểm. Val và tôi bước qua lối đi, nhặt nhạnh súng, đạn, những quả lựu đạn bỏ lại trên ghế. Tôi nhận ra chúng nặng quá sức. Tôi bảo Val “Thôi kệ – Bỏ lại – sẽ có người khác đến lo chuyện ấy.”

Tôi và Val rời tàu. Chúng tôi là hai người cuối cùng rời tàu. Nhìn những chỗ hư hỏng của chiếc máy bay, chúng tôi sợ hãi khi thấy những mảng kim khí đã toác ra. Chúng tôi cũng sợ hãi nhìn những lỗ đạn trên cánh. Lúc ấy tôi nói với Val “Thật đáng ngạc nhiên là chiếc phi cơ này đã có thể bay được.”

Val và tôi được đón đến ban phi vụ, rồi đến khách sạn Caravelle. Người ta đưa chúng tôi tới văn phòng ông Daly, nơi đây thông tín viên NBC đang phỏng vấn tất cả mọi người. Tôi ngồi trên chiếc ghế dài uống bia trong lúc họ quay phim.

Trong phòng bên, vài chục phóng viên khác đang chờ. Họ đều muốn phỏng vấn chúng tôi. Tôi hỏi Daly “Chúng ta nên nói gì?” Ông ấy bảo: “Cứ nói sự thật.”

Daly đưa tất cả chúng tôi đi ăn tối hôm ấy. Khi về lại khách sạn, tôi tắm rất lâu. Tôi nằm xuống giường, nhưng không ngủ được. Tôi cứ nhìn thấy mãi hình ảnh những người buổi sáng hôm ấy ở Đà Nẵng. Tôi thấy người đàn bà bị đẩy đạp đến chết. Tôi có thể thấy cả quần áo của bà ta và cái xác máu me nát bấy. Tôi thấy gia đình năm mạng người bị bắn từ sau lưng ngã gục xuống. Rồi người đàn ông bò lồm cồm ở lối đi trên máy bay, lết đến bên tôi. Tôi nhận ra suốt đêm tôi sẽ không thể ngủ được. Tôi nhỏm dậy, ra ngồi ở bàn viết. Tôi nghĩ có lẽ tôi có thể viết lại. Tôi đã cố. Tôi viết được đôi chút. Nhưng thật khổ, chuyện ấy quá lớn đối với chữ nghĩa. Tôi không biết viết thế nào về câu chuyện đã xảy ra.


Thời gian trôi. Tôi mất ý niệm về thời gian. Chợt chuông điện thoại reo. Tôi bốc máy trả lời. Điện thoại viên bảo có một cú điện thoại viễn liên quốc tế. Tôi nhìn đồng hồ, nhận ra đã 7 giờ sáng. Rồi giọng một người đàn bà, nói trong điện thoại từ một đài phát thanh ở Los Angeles. Bà ta muốn phỏng vấn tôi. Bà đã xem cuốn phim CBS về chuyến bay Đà Nẵng trong mục tin tức. Thế là tôi kể cho bà nghe tất cả những gì đã xảy ra. Cuối cuộc phỏng vấn, bà ta nói một câu ngu ngốc nhất. Chưa bao giờ trong suốt đời tôi nghe ai có thể nói một câu ngu ngốc thế. Bà ta bảo: “Cô Wollett, nghe chừng cô còn buồn bực lắm!” Tôi không thể tin được sự ngây ngô như thế trong nhận xét của bà ta. Lúc ấy, biết bao ý nghĩ diễn ra trong trí. Nhưng tôi chỉ còn có thể nói: “Thưa bà, hãy đặt vấn đề như thế này: Đây không phải là câu chuyện mà người ta có thể chứng kiến mỗi ngày.”

Bà ta nói “Thôi, cảm ơn, cô Wollett. Nhân tiện, xin chúc cô một lễ Phục sinh vui vẻ.” Đến lúc ấy, tôi mới nhận ra: đó là ngày chủ nhật mùa lễ Phục sinh.


(Trích từ “Nước Mắt Trước Cơn Mưa” của Larry Engelmann; bản dịch Nguyễn Bác Trạc)

https://www.facebook.com/photo/?fbid=5859175567542770...

@**@ Nhu-Hanh Tonnu.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23572
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Ngày hôm qua lúc 8:38am

Hồi Ký Ly Hương


Sau biến cố tù “cải tạo” trại Suối Máu nổi dậy đêm Giáng Sinh 24 rạng 25 tháng 12 năm 1978, một số anh em bị công an “chấp Pháp” vc bắt giải giao về nhà tù Chí Hòa tại Sài Gòn trong đó có tôi. Chúng tôi bị giam trong xà lim khu ED mỗi người bị giam một xà lim riêng nên hoàn toàn bị cô lập với thế giới bên ngoài, không ai nhìn thấy ai và cũng không biết những người bị bắt chung với mình đang ở đâu.

Tôi bị giam ở trại Suối Máu khoảng 3 năm, năm đầu vợ tôi có đi thăm vài lần rồi... thôi. Ba năm tù đói khổ, mỗi buổi ăn chỉ 1 chén bo–bo với nước muối.

Cuộc nổi dậy của tù nhân đêm Giáng Sinh 1978, tôi bị công an giam trong thùng sắt “conex” và bị đánh đập mỗi khi chúng hỏi cung. Những trận đòn thù trút lên thân thể ốm yếu tưởng rằng tôi không thể sống nổi, bây giờ về nhà tù Chí Hòa lại tiếp tục bị đánh mỗi lần hỏi cung, lúc bị tra tấn, tôi nhìn quanh mong tìm thấy được vật cứng hoặc bén nhọn như dao, kéo gì đó tôi sẽ đổi mạng với chúng.

Bằng cách nào đó, bọn chúng biết tôi có học một khóa Tình Báo nên khép tôi vào tội làm việc cho CIA Mỹ. Và, sau 4 hoặc 5 tháng nằm xà lim Chí Hòa, tôi lại bị chuyển đến một trại nằm sâu trong núi ở tỉnh Phú Yên, trại này không phải trại tù “cải tạo” bình thường mà là trại “Trừng Giới”, trại giam giữ tù chính trị Phục Quốc có án từ 10 năm đến chung thân và thành phần chống đối “Không thể cải tạo được” như tôi với lời hăm dọa: (Các anh đến đó mang luôn hồ sơ “Chết” đi theo!)

Trại này có bí số “A20” thuộc xã Xuân Phước tỉnh Phú Yên, nằm sâu trong rừng núi thuộc vùng 2 của VNCH trước kia. Mùa hè thì gió Lào nóng như thiêu đốt, mùa đông thì rét buốt đến nỗi bò heo chết la liệt. Khi mới chuyển ra đây tôi bị ghép chung với 24 người tù khác thành một đội để phát quang, nghĩa là dọn dẹp cây cỏ gai góc cho sạch một ngọn đồi để trồng khoai mì, nhưng thực chất là để chôn người.

Từ khi dọn sạch ngọn đồi cho đến 3 năm sau ngọn đồi dày đặc những ngôi mả của tù, chết vì lao phổi, vì kiệt sức, vì suy dinh dưỡng... nghĩa là đủ kiểu chết. Linh Mục Luân và Linh Mục Vàng thuộc Dòng Chúa Cứu Thế cũng chết ở trại này.

Ở trại tù A20 Xuân Phước, mọi tù nhân đều bị lao động khổ sai, đào mương, vét cống, cuốc đất trồng khoai mì, kéo cầy thay trâu, v.v. Mỗi người chỉ nhận được một chén khoai mì H34 với nước muối cho một bữa ăn, loại khoai mì H34 chỉ để dùng trong kỹ nghệ chế biến, cho heo ăn, heo cũng không thèm ăn.

Gần 8 năm tù... tôi chỉ ăn toàn bắp, khoai mì H34 với nước muối. Vào dịp tết âm lịch, mọi tù nhân được ăn hai bữa cơm, mỗi bữa 2 chén cơm nhỏ với một cục thịt heo lớn bằng ngón tay, và chỉ có thế. Mẹ chết, Vợ bỏ, tứ cố vô thân không ai thăm hỏi, sức lực không còn, thêm vết thương tinh thần quá lớn làm thể xác tôi suy sụp thấy rõ. Một hôm đang lao động, tôi ngã gục vì kiệt sức, may nhờ có Bác sĩ Trần quý Nhiếp Thiếu tá Nhảy Dù ở chung một nhà tù với tôi cứu chữa kịp. Không có thuốc men gì cả, Anh Nhiếp châm cứu tôi bằng những cây kim làm bằng giây điện thoại lượm được khi đi lao động. Tình trạng đói khát và lao động khổ sai này nếu kéo dài... có lẽ tôi không thể nào sống được.

Một hôm đang đào ao cá trong trại, tôi gặp anh Phương ở đội Văn Thể (Văn nghệ–Thể thao) anh Phương là một kép hát cải lương (hiện còn ở VN), bị án tù 10 năm về tội “Phản cách Mạng” khi tham gia vào một phong trào phục quốc sau 30/04/1975. Anh này biết rõ tôi có nghề Ảo thuật, nên khuyên tôi ghi danh vào đội Văn Thể để tránh lao động ngoài nắng, chỉ còn con đường này may ra mới có thể sống sót để trở về với 4 đứa con, mà đứa lớn nhất khoảng 13, 14 tuổi (năm 1981).

Gần cuối năm 1982, một anh trong đội Văn Thể gọi tôi lên nhận quà của gia đình gởi. Phản ứng đầu tiên là tôi giận dữ và cay đắng nói với anh ấy: “Anh còn cách nào đùa giỡn hay hơn nữa không?!”. Ai cũng biết, nhiều năm nay tôi là "con Bà Phước”, những ai không có bà con, họ hàng thân thích, không hề nhận được chút quà bánh nào từ bên ngoài gởi vào, anh em đều gọi là con Bà Phước.

Nhưng thật tình tôi có quà thật, quà của “Vợ” gởi! một gói quà nhỏ gần 2 ký lô, trong chứa thức ăn để dành được lâu ngày vì người tù không có điều kiện để nấu nướng. Một anh bạn khác nhìn thấy tôi đang mân mê gói quà trên tay, anh mừng rỡ nói: “Mầy cũng có... quà hả?!”, câu nói đầy thiện ý, mừng giùm cho bạn nhưng sao tôi nghe... cay đắng: “Mầy mà cũng có quà nữa sao?”.

Cuối năm 1982, tôi có tên trong số người được thả về, trại tù cấp phát $70 đồng tiền VC lúc đó, số tiền chỉ đủ để đỡ đói lúc đi đường thôi. Tôi được công an trại tù chở bằng xe ra tới Ga xe lửa La Hai, từ đây tôi đón Tàu về Biên Hòa. Trên đường đi, mỗi khi tôi ăn uống gì xong, khi gọi tính tiền, những người bán hàng đều trả lời: “Có người trả rồi”, năn nỉ mãi người bán hàng cũng không chịu nói là ai đã trả tiền dùm, tôi đành phải cám ơn người bán. Một chút xúc động về tình người làm tim tôi cảm thấy ấm áp, cái cảm giác mà tưởng chừng đã tê liệt suốt những năm tháng tù tội. Hành trang của tôi khi ra khỏi trại tù cộng sản chỉ vỏn vẹn một bàn chải đánh răng đã cùn, một bộ đồ mặc trên người với hàng trăm mảnh vá, trên lưng áo cũng như hai bên ống quần còn nguyên dấu hai chữ "cải tạo” bằng sơn đen to tướng. Nhưng cũng nhờ thế, ai thấy cũng muốn giúp đỡ, ăn uống gì xong người bán đều trả lời: “Đã có người trả tiền!”.

Về đến chợ Biên Hòa lúc 04:00 giờ sáng, có người chỉ cho tôi tìm mấy xe hàng chở Dưa Hấu, họ sẽ đi Bình Giã chở Dưa lúc 06:00 giờ. Người Tài xế tốt bụng cho tôi đi nhờ xe về Bà Rịa.

Hơn 08:00 giờ sáng xe tới Bà Rịa, tôi lững thững đi bộ về “Nhà”. Khi ngang qua một tiệm bán Bún Bò Huế, một người gọi tên tôi: “Ê, P.O vào đây!”, tôi quay lại thấy X. “Pháo Binh”, anh bạn này được thả về trước, trên tay cầm xấp vé số. X. lôi tôi vào quán, lần đầu tiên sau gần 8 năm tôi mới được ăn một tô bún bò ngon như thế. Hai người ăn xong, đang xỉa răng thì X. ngập ngừng:

“Trước hết, mầy hãy bình tĩnh nghe tao nói!”. Tôi biết X. sẽ nói gì... vì từ lâu tôi đã chuẩn bị tinh thần để nghe chuyện này. X. tiếp: “Sau khi tao nói xong, mày muốn về thì... về, còn như không muốn về thì... mầy theo tao, ở tạm nhà tao rồi tính sau!”... và, với giọng trầm buồn X. kể những điều nghe, biết về "Vợ” tôi. Tôi ngồi nghe X. kể với gương mặt giá băng và bất động, duy chỉ có ánh mắt là không thể nào dấu được nỗi xúc động!

Thằng X. thương bạn nhưng không biết phải làm sao! X. gọi café sữa đá cho hai đứa. Tôi không thể nào uống nổi một hớp dù chỉ là một hớp nhỏ. Không gian như ngừng đọng, khi thằng X. lay khẽ tay tôi như chợt tỉnh, nói nhỏ với X. như nói với chính tôi: “Tao phải về, từ lâu tao chưa được gặp con tao, tụi nhỏ bây giờ chắc... lớn lắm!”

Tôi về gặp các con chưa được một tháng mà đã có ý định bỏ nhà đi nhiều lần, cho dù chưa biết phải đi đâu! Nhà này là nhà cũ của cha mẹ “vợ”, khi còn trong tù tôi khai “hộ khẩu” ở đây. Tôi có một căn nhà nhỏ ở xã Võ Đắt (Bình Tuy) nơi tôi đóng quân ở đó trước 30 tháng 04 năm 1975 đã bị vc tịch thu khi miền nam mất.

Quê tôi tận xứ Huế xa xôi, thời chiến tranh Việt–Pháp, Việt Minh liên khu 5 muốn mời Ba tôi tham gia kháng chiến, Ba tôi từ chối nên phải trốn một mình vào Sài Gòn lúc đó tôi mới 2 tuổi, và cả hai mẹ con tôi bị Việt Minh giữ làm con tin trong vùng rừng núi Quảng Nam. Đến năm tôi 10 tuổi hai mẹ con tôi trốn thoát được, dìu dắt nhau vào Sài Gòn tìm cha. Vài năm sau cha tôi chết, mẹ và tôi sống nhờ vào nhà của người quen cho đến ngày tôi vào lính.

Sau gần 8 năm tù vc thả tôi ra, căn nhà cũ của cha mẹ vợ là nơi duy nhất để tôi tạm nương thân. Nhưng tình người cũng đã đổi thay, tôi phải từ biệt các con để ra đi, cho dù đi bất cứ đâu, ngay cả bữa cơm trưa và chỗ ngủ tối hôm đó tôi cũng không có.

Tình nghĩa đảo điên theo vận nước,

Đồng tiền đánh đổi cả nhục vinh.

Hỡi ơi canh bạc đời đen đỏ,

Mỹ nhân hề... chén rượu tàn canh!

(lê phi ô)

Khu nhà lồng chợ ban đêm người ta dọn hàng về nên có nhiều sạp bỏ trống, tôi vào đó ngủ nhờ đêm nay rồi ngày mai tính sau. Đang tìm chỗ thì may cho tôi, gặp một anh lính cũ. Anh em tâm sự với nhau rồi anh ấy rủ tôi xuống chợ cá ăn cháo, cả ngày không ăn gì nên tôi không từ chối. Sau đó anh giới thiệu cho tôi một việc làm ngay trong đêm đó, anh ấy ngập ngừng giây lát rồi nói:

–việc làm cũng không nặng nhọc gì nhưng... không được sạch sẽ lắm!

Tôi nói:

–Ở tù còn được thì bất cứ việc gì anh cũng làm được, chú yên tâm!

Tôi được giới thiệu cho một anh Tài Xế xe đò nhỏ chạy đường Bà Rịa–Bình Giã. Cứ 2 giờ sáng thì xe chở Cá từ Long Hải lên, tôi phụ chuyền mấy giỏ cá từ mui xe này qua mui xe kia. Công việc này ít người muốn làm nên tôi mới có chỗ, mỗi lần đỡ giỏ cá từ trên cao rồi lại đưa lên mui xe khác thì nước cá đổ cả lên đầu xuống tới chân, công việc chỉ 2 giờ là xong. Rồi đi tìm nhà nào có giếng để xin vào tắm, những tháng mùa Đông, 4 giờ sáng mà tắm ngoài trời như vậy đôi khi lạnh cắt da nhưng cũng phải tắm. Ngày thứ nhì tôi ra khỏi nhà đi “bụi đời” lại có việc làm ngay nên không bị đói như ngày đầu tiên.

Rồi ban ngày tôi phải tìm việc gì đó để làm thêm mới đủ ăn ngư chẻ củi thuê, khuân vác đồ nặng, phụ dọn dẹp hàng quán khi họ dọn ra cũng như phụ dọn dẹp lúc họ về, nghĩa là bất cứ việc gì của một người Cu–ly thì tôi đều làm hết. Rồi ra cầu Cỏ May khiêng vác muối từ trong nhà kho xuống xà–lan, mỗi bao muối 50kg vác té lên té xuống cũng phải làm, mỗi người phải vác ít nhứt 50 bao muối một ngày mới đủ ăn. Đoạn đường từ kho muối ra tới bờ sông khoảng 50 thước, ở dưới đất trải đá dăm trộn lẫn muối hột, đá dăm cắt lòng bàn chân rỉ máu lại thêm nước muối vừa đau vừa rát, mang dép không được vì mồ hôi pha lẫn nước muối làm trơn trợt nên dép bị đứt quai liên tục, thỉnh thoảng bị trợt té nên phải đi chân trần, cũng không mang giày Ba–ta được vì muối lọt vào kẽ giày làm đau chân, hơn nữa đâu có tiền mua giày.

Chị Th. có chồng đi tù như tôi, anh ấy mới được vc thả về, thấy tôi vất vả quá, muốn giới thiệu cho tôi một cô buôn bán khá giả ngoài chợ nhưng không hề cho tôi biết trước. Một hôm có người nói lại với tôi là: Cô ấy bị mấy người Chị la rầy dữ quá: “Mầy còn con gái, bộ ế lắm sao mà lấy ông ấy, có xót thương lắm thì giúp đỡ bằng cách khác. Ông ấy có 4 đứa con... còn bị vợ bỏ, mầy lấy về để nuôi con người ta... hả? Sao ngu vậy!”. Tôi lặng lẽ bỏ chợ Bà Rịa đi chỗ khác thật xa, mỗi tháng khi trời sáng trăng tôi đạp xe khoảng 15, 20 cây số về Bà Rịa thăm con độ mươi phút rồi lại đi. Đêm đó tôi ra ngủ ngoài nghĩa trang “Việt Hoa”, nơi đây đã từng chôn 92 người lính TQLC chết trận Bình Giã năm xưa.

Tôi cảm thấy ấm áp vì gần gũi được chiến hữu của mình cho dù họ đã chết! Mộ của mẹ tôi cũng chôn ở đấy, vì đêm sáng trăng nên có nhiều người đi chùa, có người nhát gan, khi ngang qua thấy tôi họ tưởng là ma nên hét toáng lên rồi bỏ chạy. Một vài lần tôi bị du kích xã bắt vì tội ngủ bạy, họ đem về xã giam vài ngày rồi thả ra. Rồi lại bị bắt, có lần họ đưa tôi ra sông toàn là cây đước nước ngập đến ngực bắt tôi đắp “đùn” (ao cá) để họ nuôi tôm.

Đôi khi tôi cũng muốn được bị họ bắt đi đắp ao, mỗi lần như thế tôi được họ cho ăn cơm với cá khô hoặc mắm cà, và cũng nhờ thế tôi tiết kiệm được một ít tiền để lỡ không có việc làm lại có tiền mua gạo. Có người ở xã Phước Tỉnh, Phước Hải hoặc Long Hải, các xã này thuộc vùng biển, họ khuyên tôi xuống đó gánh cá thuê đồng thời tìm cách vượt biên, nhưng tôi ở được vài tháng thì bị công an “bảo vệ chính trị” bắt giam và trục xuất tôi về lại Bà Rịa. Cũng có người khuyên tôi đi chỗ khác chứ Bà Rịa trước 30/04/75 tôi phục vụ tại Phòng nhì Tiểu Khu Phước Tuy là phòng Tình Báo nên bọn vc địa phương rất ghét, bọn chúng hở một chút là tìm cách trù dập tôi. Nhưng tôi không thể xa Bà Rịa được vì ở đây còn các con tôi, thỉnh thoảng có thể gặp chúng được, hơn nữa nơi đây tôi còn có cơ hội vượt biên bằng đường biển.

Đối diện nghĩa trang Việt–Hoa có một nghĩa trang khác, có từ hồi Pháp thuộc, nghĩa trang này lâu đời nên Mả nhiều vô kể hơn 10 ngàn cái. Nhiều người vào đây xúc cát để về xây nhà nên mả bị sập lòi cả xương người. Có một khoảng trống tương đối rộng vì bị xúc trộm cát, mả cũng bị họ đập bể để lấy gạch, đá xi măng về lót chuồng heo. Tôi che một cái chòi nhỏ bằng lá buông trên khoảng đất trống đó để làm chỗ ở, ở đây không sợ mấy đứa nhỏ vào đây ăn cắp vặt vì bọn nhóc sợ ma.

Bọn du kích xã và công an vc có lẽ thấy tôi khổ quá, chúng vào chòi mấy lần dòm ngó thấy tôi ngủ trên một sạp tre, bàn ăn cơm là tấm bia mộ và cái bếp để nấu cơm bằng mấy cục gạch ghép lại, trên vách lá một bộ áo quần cũ đang phơi và một bộ đang mặc trên người. Có lẽ bọn chúng thấy quanh đây không ai nghèo mạt rệp như tôi nên cũng chán quá không muốn vào làm khó tôi nữa vì thế tôi cũng được yên thân.

Trước ngày mất Nước, đời lính tuy gian khổ nhưng tôi cân nặng 55kg, khi ở tù mà cộng sản gọi là “học tập cải tạo”, ngày được thả ra tôi nặng 37kg, và 2 năm tiếp theo tôi lên được 39kg. Mười hai năm làm lính trận thân thể tôi được trui rèn trong lửa đạn và ý chí bất khuất sẵn có của người lính chiến đấu cho chính nghĩa, cho nên với gần 8 năm tù đói khát về thể xác và bị khủng bố tinh thần đã nhiều lần kiệt sức tôi vẫn sống. Ngày trở về lại thêm một lần chịu đựng vết thương tinh thần quá lớn cộng với sự đói khát vì miếng ăn rình rập tôi từng ngày từng giờ cũng không khuất phục được tôi. Đôi khi bị bịnh vì dầm mưa dãi nắng không đi làm được chỉ ăn cháo với muối rồi gạo cũng hết nên cũng không có cháo mà ăn đành nhịn đói, dù chưa hết bịnh cũng ráng lết tấm thân đi làm.

Tôi phải sống, sống để nhìn đời, sống để hy vọng nhìn thấy đất nước đổi thay.

Với tinh thần bất khuất của người lính chiến trong tôi vẫn còn. Hy vọng một ngày tươi sáng cho quê hương trong tôi chưa tắt và mãi mãi không thể nào tắt được.

xXx

Như thường lệ, tôi cầm cần ra sông câu cá. Nếu câu được nhiều thì tôi bán bớt để mua gạo, nếu ít thì... ít ra cũng ăn được vài ngày. Trời chạng vạng tối thì tôi về, đang sửa soạn thì có 2 người đến hỏi tôi làm gì ở đây, tôi bảo là tôi câu cá.

Ngần ngừ một chút họ lại hỏi: “Muốn đi không”, tôi chưa kịp trả lời... họ lôi tôi vào một bụi rậm rồi nói như ra lệnh: “Ngồi yên trong này, không được đi đâu hết, không nghe lời... chết ráng chịu”. Tôi bảo tôi chỉ câu cá, ngày nào tôi cũng câu ở đây, mấy anh để tôi về. Họ không trả lời và bắt tôi ngồi chờ, thỉnh thoảng tôi hỏi thì họ bảo chờ!!!

Khoảng 10 giờ tối, ngoài sông có ánh đèn Pin chớp chớp, trong này họ chớp đèn lại và tôi nghe tiếng máy ghe tiến dần vào bờ. Trong lúc đó các bụi rậm phía sau lưng tôi xuất hiện lố nhố người, Khi 2 chiếc ghe nhỏ ngoài sông vừa cặp bờ thì mọi người ùa xuống và leo đầy cả 2 ghe. Tôi biết đây là ghe “Taxi” chở người ra ghe lớn để vượt biên, tôi mừng quá cũng chạy theo và leo lên ghe nhỏ, 2 người giữ tôi trong bụi cũng biết tôi là loại muốn vượt biên nên không cần để ý đến tôi nữa (nếu tôi không muốn đi họ cũng bắt buộc tôi đi vì thả ra họ sợ bị “bể”).

Hai chiếc ghe nhỏ chở khách cột giây vào nhau chiếc trước chiếc sau cách nhau 10 thước để không chạy lạc. khoảng 90 phút sau thì ra cửa biển, khi gặp ghe lớn tất cả trèo qua ghe lớn, mọi người bị lùa xuống hầm ghe, tôi xin cho tôi ở trên mui để tôi có thể giúp gì được không.

Ghe bắt đầu chạy ra cửa biển Vũng Tàu, nhóm tổ chức gọi tên một người rồi họ chạy tới chạy lui kể cả chui xuống hầm để gọi... thì ra, anh Hoa Tiêu để hướng dẫn ghe đi không có mặt. Rồi tiếng gọi, rồi tiếng chửi thề... Tôi hỏi thì họ cho biết người Hoa Tiêu vắng mặt không biết vì sao. Tôi bảo để tôi làm hoa tiêu cho, có người hỏi tôi: “Anh có chắc là anh làm Hoa Tiêu được không?”, để cho họ yên tâm tôi bảo tôi là Hoa Tiêu bên Hải Quân. Họ mừng quá, có anh lấy bình cà phê rót mời tôi một ly.

Đang uống thì trong họ có người gọi lớn: “Ông Thầy!” rồi nhào đến ôm tôi, còn hôn vào má tôi nữa. Tôi nhìn kỹ thì hóa ra là Việt, một người lính thuộc dưới quyền của tôi khi xưa, rồi anh giới thiệu tôi với mọi người làm tôi cứ tưởng tôi vẫn đang là lính như những ngày khói lửa chiến tranh.

Qua đêm sau tôi luôn luôn cặp kè với anh Tài Công, tôi bảo đêm nay mình sẽ cho ghe đi giữa 2 giàn khoan dầu lửa của Liên Xô. Khi nhìn thấy ánh đèn điện líp líp mặt nước từ xa, mấy người phục tài tôi quá. Sở dĩ tôi biết tọa độ của 2 giàn khoan là vì những người vượt biên trước họ gởi thư về cho biết. Tôi cũng không phải là Hải Quân, tôi nói như vậy để họ tin tưởng tôi chứ thật ra cái Địa Bàn của Bộ Binh và cái Hải Bàn của Hải Quân hình thù thì khác nhau nhưng phương hướng thì sử dụng giống nhau, hơn nữa chúng tôi đi vào tháng 5 thì biển êm, độ dạt của nước biển không lớn.

Trưa hôm đó chúng tôi ra đến hải phận quốc tế, gặp chiếc Tàu buôn của nước Anh tên Gold Orly, tôi dùng 2 chiếc áo thun trắng đứng trên mui ghe đánh tín hiệu (morse) S.O.S và được họ cứu vào Singapore. Cái vui và nỗi buồn xen lẫn vào nhau khiến nội tâm tôi bị chao đảo ghê gớm. Vui là thoát khỏi địa ngục cộng sản, buồn là... vĩnh biệt quê hương biết bao giờ mới có ngày trở lại, khi tôi viết bài này thì đã hơn 32 năm rồi tôi chưa một lần trở về.

Xa xôi lòng mãi hướng về,

Mong ngày hội ngộ trên quê hương mình.

Mơ ngày đất nước hồi sinh,

Ngày về hôn đất có mình có ta.

*

–“Ô hay du tử phương xa,

Cớ sao lại để lệ nhòa... ướt mi!”


Lê Phi Ô

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 107 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.355 seconds.